Bến mơ trong thơ Yến Lan
Yến Lan (1916 - 1998) có không
hiếm những vần thơ hay, nhưng dường như nhà thơ mang bút danh yểu điệu rất con
gái này chỉ được biết đến nhiều qua bài thơ “Bến My Lăng” xuất hiện từ phong
trào thơ mới. Nhà thơ Yến Lan là thành viên của Bàn thành tứ hữu (Bốn
người bạn thơ ở thành Đồ Bàn), gồm những nhà thơ xuất sắc một thời tại Bình Định.
Thơ Yến Lan mang hương sắc lạ: ngôn ngữ giàu hình tượng, giai
điệu mang mang nhưng tứ thơ phong kín một nỗi niềm khiến người đọc lắm khi chỉ
cảm thụ bằng trực giác. Yến Lan là một thi sĩ đã làm thơ và tham gia công tác
kháng chiến trong hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Nhà thơ Yến Lan để lại 2
vở kịch thơ (Bóng giai nhân và Gái Trữ La), 8 tập thơ trong đó Thơ
tứ tuyệt là tuyển tập thơ sau cùng (1996) được nhiều người đánh giá cao.
Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, thi ca thuộc phạm trù phi
vật thể, nằm trong sinh hoạt kiến trúc thượng tầng. Người làm thơ hay nếu không
có năng khiếu được trời cho thì trước hết phải đam mê thi ca, có một tâm hồn dễ
xúc cảm và kinh qua ít nhiều kiến thức văn học cơ bản cùng một vốn sống trải
nghiệm thực tế ở cuộc đời. Trong lúc nhà thơ Hàn Mặc Tử coi người làm thơ
là người điên, Chế Lan Viên cho rằng nhà thơ là người không bình thường, ta
có thể xem Yến Lan là chàng thi sĩ của những vần thơ bay bổng mơ
mộng đứng riêng một cõi trên thi đàn.
Nhà thơ Yến Lan tên thật là Lâm Thanh Lang, người Bình Định,
vùng đất giàu cổ tích được xem là địa linh thi kiệt với những nhà thơ nổi tiếng
của nền văn học hiện đại: Quách Tấn (1910-1992), Hàn Mặc Tử (1912-1940), Chế
Lan Viên (1920-1989), Xuân Diệu (1916-1985)… Thuở nhỏ học tiếng Hán với ông nội
vốn là người Minh Hương, Lâm Thanh Lang sớm mồ côi mẹ từ lúc 6 tuổi. Lớn lên,
ông cưới bà Nguyễn Thị Lan, sống bằng nghề dạy học tư và làm thơ. Trong hoàn cảnh
khiêm tốn về vật chất, bà Lan đã tỏ ra là người vợ hiền rất hiểu và thương chồng.
Chính người bạn đời của nhà thơ đã giúp tác giả ghi chép tất cả sáng tác của chồng
khi nhà thơ gặp cảnh ốm đau không thể cầm bút, khiến nhà thơ rất mực yêu thương
vợ. Ngay cả bút danh Yến Lan của nhà thơ cũng được hình thành từ một
giai thoại thể hiện tình cảm đặc biệt của hai người bạn gái nhà thơ. Cô Yến và
cô Lan chơi thân với nhau, hứa với nhau về sau sẽ cùng lấy một chồng. Thi
sĩ nghe hay hay nên lấy tên hai cô ghép lại làm bút danh cho mình như để
lưu giữ một tình bạn đẹp đậm tính nhân văn giữa ba người. Không chỉ chan hòa
tình cảm với vợ và bè bạn, sâu đậm nồng nàn hơn là tình yêu quê hương tha thiết
mà Yến Lan đã bày tỏ trong nhiều bài thơ đau đáu viết về Bình Định nhau rốn yêu
thương: Bình Định 1935, Bình Định 1945, Bình Định 1947, Bình Định 1975…
Nhắc đến Yến Lan, ta không thể không nói đến trước hết bài
thơ “Bến My Lăng” được coi là tác phẩm nổi tiếng đã làm nên tên tuổi nhà thơ
trên văn đàn.
Thi ca thế giới xưa nay thường hay nói đến bến, từ
ngữ chỉ địa điểm không gian mang ý nghĩa của một nơi đỗ tạm thời, một khoảnh khắc
dừng chân trong giây phút để rồi chuẩn bị lên đường, chia xa đôi đàng người đi
kẻ ở. Bến Tầm Dương (Bạch Cư Dị), Bến tình (Ngũ Lang), Bến Ninh Kiều, Bến cũ
người xưa… Chỉ một từ đơn âm thôi mà đọc lên nghe sao man mác bao nỗi ngậm ngùi!
Bến My Lăng của nhà thơ Yến Lan được coi là bến đò Trường Thi hiện thực trên
sông Cửa Tiền tại Bình Định, quê hương tác giả được nhà thơ thi vị hóa thành Bến
My Lăng, đọc lên nghe mơ màng huyền ảo một vẻ siêu thực!
Dường như khá đông công chúng không ai xa lạ với bài thơ
tên “Bến Ly Lăng” và tác giả là nhà thơ Yến Lan cũng được trân trọng
là một nhà thơ có vị trí trên văn đàn. Nhưng cảm nhận hoặc đánh giá bài thơ ấy
thì ít ai mạnh dạn. “Bến Ly Lăng” được sáng tác theo thể loại thơ mới
8 chữ (alexandrin) ảnh hưởng phong cách phương Tây như bài Nhớ rừng của
Thế Lữ hay Cảm xúc của Xuân Diệu. Bài thơ Bến My Lăng của Yến
Lan gồm 5 khổ rưỡi, mỗi khổ 4 câu, tất cả là 22 câu. Nhà thơ chủ yếu gieo vần
gián cách âm hưởng cao thấp. Chỉ 3 câu liên tiếp cuối bài là theo liên vận (vần
liền): Lăng-trăng-trăng dễ gây cảm giác lâng lâng mơ hồ cho người đọc.
Hình tượng nhân vật chủ đạo trong bài thơ là ông lão chèo đò
trên một bến sông tĩnh lặng với phong thái phiêu diêu ngạo nghễ, không giống với
bao người lái đò khác ngày ngày đưa khách sang sông vì chuyện áo cơm. Trong
không gian thơ mộng lung linh ánh trăng vàng, ông lão hiển thị bên sách vở và bầu
rượu cạn như một triết nhân đang trầm tư: “Bến My Lăng nằm không thuyền đợi
khách/ Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu/ Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt
sách/ Ông lái buồn để gió lén mơn râu”. Cảnh đêm trăng đẹp hôm nay khiến
lão cảm thấy buồn, lòng mang mang hồi tưởng lại hình bóng một chàng trai trẻ
trên yên ngựa đến bến sông một đêm trăng nào trong ký vãng xa xôi: “Nhưng
đêm kia đến một chàng kỵ mã/ Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly”. Trong cảnh
đất nước tang thương, dân tình khổ sở, phải chăng ông lão đang tự vấn mình rồi
mơ về hình bóng những chàng trai dũng cảm, với tinh thần bất khuất, đám xông ra
sa trường, diệt thù cứu nước: “Ừ sao không nhớ người trai trẻ/ Trò chuyện
cùng tôi dưới ánh trăng”. Có phải những Kinh Kha của nước Yên ngày trước hăm hở vượt
dòng sông Dịch với lời minh thệ “nhất khứ bất phục phản” để tiêu diệt Thủy
hoàng bạo chúa.
Hay những Lạn Tương Như son sắt một lòng vì tổ quốc, mang bảo ngọc dũng cảm ra đi vì nghiệp lớn cũng như bao thanh niên yêu nước đã ra đi làm bổn phận người trai trong mấy mùa chinh chiến. Ông lão chờ đợi cho mãi đến một đêm kia có chàng kỵ mã gội ánh trăng vàng, ruổi ngựa đến bến My Lăng giục giã gọi đò đến run rẩy cả trăng sao: “Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả/ Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi”. Nhưng ông lái đò gối đầu lên sách im lặng, như còn đang mãi say trăng, khiến chàng trai giục giã: “Mà ông lão say trăng, đầu gối sách/ Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi/ Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách/ Gọi đò thôi, run rẩy cả vầng trăng”. Nhưng không gian vẫn im lặng, lạnh lùng, chẳng vang lên tiếng phản hồi của ông lão chèo đò cho chàng kỵ mã. Bài thơ đan kết bằng ngôn từ chắt lọc trữ tình, long lanh sắc màu huyền thoại và ngồn ngộn hình tượng cổ tích, nhịp nhàng cộng hưởng cùng thi tứ mang mang như phong kín một nỗi niềm của ông lão chèo đò trong hoàn cảnh quốc phá gia vong.
Hay những Lạn Tương Như son sắt một lòng vì tổ quốc, mang bảo ngọc dũng cảm ra đi vì nghiệp lớn cũng như bao thanh niên yêu nước đã ra đi làm bổn phận người trai trong mấy mùa chinh chiến. Ông lão chờ đợi cho mãi đến một đêm kia có chàng kỵ mã gội ánh trăng vàng, ruổi ngựa đến bến My Lăng giục giã gọi đò đến run rẩy cả trăng sao: “Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả/ Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi”. Nhưng ông lái đò gối đầu lên sách im lặng, như còn đang mãi say trăng, khiến chàng trai giục giã: “Mà ông lão say trăng, đầu gối sách/ Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi/ Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách/ Gọi đò thôi, run rẩy cả vầng trăng”. Nhưng không gian vẫn im lặng, lạnh lùng, chẳng vang lên tiếng phản hồi của ông lão chèo đò cho chàng kỵ mã. Bài thơ đan kết bằng ngôn từ chắt lọc trữ tình, long lanh sắc màu huyền thoại và ngồn ngộn hình tượng cổ tích, nhịp nhàng cộng hưởng cùng thi tứ mang mang như phong kín một nỗi niềm của ông lão chèo đò trong hoàn cảnh quốc phá gia vong.
Yến Lan có những bài thơ hay: “Lại về tỉnh nhỏ” (1956), “Mùa
xuân lên cao”, “Uống rượu với bạn đồng hương” làm ra từ sau năm 1945, được
nhà thơ Chế Lan Viên và GS. Nguyễn Văn Long khen ngợi. Riêng “Một mối thất
tình” có bước chuyển hướng mới trước va chạm giữa con người và cuộc sống.
Bài thơ “Nghe con đường chảy” thì có hơi hướng giai điệu như Bến
My Lăng, với nhạc thơ khá dịu ngọt, tứ thơ mơ mộng, phiêu diêu khiến cho Yến
Lan có một thế đứng vững riêng một cõi và được nhiều người biết thêm tác giả
trên thi đàn.
Dù cả một đời làm thơ chắt chiu lam lũ mà dường như Yến Lan
chỉ được công chúng mơ hồ nhớ lại qua một tựa bài trong sự nghiệp cầm bút: “Bến
My Lăng”. Bằng hữu văn chương và các nhà phê bình văn học cũng ít phát biểu
về Yến Lan. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh khách quan có ý kiến: “Xem thơ
yến Lan, tôi mơ màng như đi trong mây mù”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Tấn Long tỏ ra
thông cảm và triết lý: “Đọc Yến Lan, giới yêu thơ bị lôi cuốn về thế giới
suy tư, một cõi im lặng, một sự trầm mặc nhẹ nhàng nhưng bao hàm ý nghĩa của sự
sống và cuộc đời”. Nhưng chính tựa đề bài thơ về một bến sông lạ này đã
khiến nhiều người cảm thấy thích thú, trong đó có một nữ nhà văn ở đất Cầm Thi
và một nữ ký giả tại hòn ngọc Viễn Đông đã tỏ ra tâm đắc, cùng lấy tên My Lăng
làm bút danh cho mình. Mỗi lần tôi có dịp đọc lại bài thơ “Bến My
Lăng”, trong lòng không tránh khỏi bâng khuâng, mường tượng về một bối cảnh u
huyền đậm màu cổ tích: bài thơ chập chờn hình ảnh những nhân vật mang phong
thái phiêu diêu, hào sảng như ông lái đò và hình bóng mơ hồ của chàng kỵ mã hiện
ra trong tâm khảm: Bến nơi mô, em gọi My Lăng/ Cho người đau đáu mộng thuyền
trăng/ Chờ ai bến đợi sông mơ đó/ Mà bóng người đi mãi biệt tăm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét