Thứ Tư, 29 tháng 1, 2020

Một cõi Trịnh Công Sơn 3

Một cõi Trịnh Công Sơn 3
CUỘC HỘI NGỘ GIỮA HƯ KHÔNG Lê Minh Quốc
4-4-2001
Âm nhạc là một thứ hạnh phúc mơ hồ trong khoảng khắc. Có những lúc cần an ủi nỗi buồn phiền hoặc ca ngợi niềm hoan lạc, từ trong thâm tâm ta vọng lên những âm thanh. Âm thanh ấy đã đi vào trong máu thịt từ lúc nào ta không tự ý thức được. Thế hệ tôi lớn lên, đi trong cõi đời mênh mông với phần xác, thì trong phần hồn ít nhiều được nuôi dưỡng bằng âm nhạc của Trịnh Công Sơn. Tôi có cảm giác, người nhạc sĩ tài hoa ấy dường như đã bước ra từ tâm linh của mình, ông đã nói những điều mà tôi đã gặp đâu đó trong giấc mơ. Ca khúc Ru ta ngậm ngùi là một trong muôn ngàn ví dụ. Ở đó, ông đã nói về một cuộc tình đã xa? Không, ông nói về thời gian. Nỗi ám ảnh của Trịnh Công Sơn từ muôn kiếp cũng chính là thời gian. “Khi tình đã vội quên.
Tim lăn trên đường mòn. Trên giọt máu cuồng điên. Con chim đứng lặng câm. Khi về trong mùa đông. Tay rong rêu muộn màng. Thôi chờ những rạng đông...". Hình ảnh "tim lăn trên đường mòn" dường như "đóng đinh" vào trong trí nhớ khi đôi môi vừa im bặt tiếng hát. Tôi tự hỏi, tại sao lại là đường mòn? Trong tâm trí bỗng gợi lên một con đường hun hút hiu quạnh với những câu thơ của Bùi Giáng:
Níu vai phố rộng xin về
Với cây trút gió với hè nắng rung.
Đó là một sự liên tưởng của tôi mà trong ca từ của Trịnh Công Sơn mở ra nhiều đường, nhiều lối cho những người yêu nhạc của ông cùng chiêm nghiệm. Và trong đám tang của người nhạc sĩ tài hoa này, tôi không được nghe tiếng khóc của trẻ thơ, cũng giống như trong đám tang của trung niên thi sĩ Bùi Giáng ở chùa Vĩnh Nghiêm năm nọ. Cả hai đều được rất nhiều người yêu dấu, nhưng lại không có nhan sắc yêu dấu của riêng mình. Thoáng nghĩ như thế đã thấy tim mình đau buốt...
Chợt nhớ năm xưa, trên đường hành quân đi ngang dọc trên đất nước Chùa Tháp, trên vai chiếc ba lô nặng ba mươi ký như đeo cả trái đất, hai quai xiết chặt vào vai, dưới chân đôi giày đã rách toạc và đường về doanh trại còn xa thăm thẳm... Bất chợt trong tâm hồn tôi, ai đó đã vọng lên tiếng hát "Đời sao im vắng như đồng lúa gặt xong". Trước mắt tôi là cánh đồng Choans re đang nứt nẻ khô cằn, những rơm rạ oằn mình trong nắng lửa. Tôi nghĩ, nơi này Trịnh Công Sơn vừa đi qua chăng? Nhưng rừng núi bỏ hoang. Có đi trong cánh rừng bỏ hoang thì ta mới cảm nhận hết không gian im vắng của Đời sao im vắng mà người nhạc sĩ tài hoa vừa viết xong. Một nhạc sĩ bình thường vẫn có thể viết được như thế chứ? Nhưng ở đây, một lần nữa, Trịnh Công Sơn đã đẩy nỗi ám ảnh về thời gian lên đỉnh điểm của sáng tạo: “Người về soi bóng mình giữa tường trắng lạnh câm". Thông thường, tôi soi bóng mình trong gương để tìm sự phản chiếu, cho dù đôi lúc có cảm giác như bóng ấy không phải của mình mà của kẻ khác. Nhưng ở đây, soi bóng mình giữa tường trắng thì ta không thấy gì khác ngoài tâm linh của mình đang hội nhập trong bản thể của mình. Những ca từ ấy, tôi có cảm giác Trịnh Công Sơn không chỉ là một nhạc sĩ đặt ca từ nữa mà ông đã viết bằng sự linh cảm của một Matsuo Basho với những câu thơ haiku:
Đau yếu giữa hành tinh
Chỉ còn mộng tôi phiêu lãng
Trên những cánh đồng hoang.
Công chúng yêu nhạc của Trịnh Công Sơn, dù không hiểu lắm về giai điệu, về cấu trúc của một ca khúc nhưng họ khó quên được ca từ của ông. Vì lẽ đó, Trịnh Công Sơn và những nhạc sĩ tài hoa khác có được một hạnh phúc mơhồ là khi vui, buồn ta đều có thể đặt trên môi những ca từ ấy và hát. Hát như một cách tìm kiếm người bạn đồng hành để tiếp tục đi trên đường dài còn xa thăm thẳm...
Dạ khúc
Lời ca đau trên môi
Tình khúc Trịnh Công Sơn tôi hát
Vòm trời khuya nhợt nhạt màu cỏ úa
Bóng trăng như vệt son của thiên nhiên góa bụa
Trong đêm ngồi tự tình
Tôi bay lên như chiếc lá xanh
Dìu em dự đám cưới
Trong từng ca khúc chìm vào bóng tối
Lời ca đau trên môi
Này em đứng ngửa mặt lên trời để khóc
Nếu mỗi tình nhân còn giữ lại nước mắt
Thì cũng nhiều như suối như sông
Đêm đã khuya rồi
Sắp hết những ngày xuân
Em sắp lớn và hoa sắp úa
Tôi sắp xếp cuộc tình không còn nữa
Vào trong trí nhớ nhỏ nhoi
Nhưng lời ca còn đau mãi trên môi.
PARIS, TIẾNG HÁT TRỊNH CÔNG SƠN Nguyễn Quang Sáng
Paris - Tiếng hát Trịnh Công Sơn
NXB Tác phẩm mới, 1990
I/
Paris, đêm 16-5-1987. Nhà Việt Nam trên đường Cardinal Lemoine có buổi nói chuyện về Trịnh Công Sơn của anh Nam Chi. Người đến dự đêm Trịnh Công Sơn ở Paris, có người vốn là bạn bè của anh, có người chưa quen biết anh nhưng yêu anh, mê anh, có người đã trở về nước gặp lại anh, có người chưa có dịp gặp lại anh,và dù có xa cách đến muôn trùng, trong lòng anh chị em ấy vẫn vang vọng tiếng hát của anh. Tiếng hát nhức nhối đến tâm can khi nghĩ đến quê hương. Nghe Sơn mà không thấy, không gặp Sơn. Tuy lời giới thiệu của anh Nguyễn Ngọc Giao cũng như lời mở đầu của anh Nam Chi, đều ao ước "... sẽ có một ngày Trịnh Công Sơn có mặt ở tại đây, trong Maison du Việt Nam với chúng ta".
Hai năm sau, Trịnh Công Sơn đến Paris và đêm 27-5, đúng đêm thứ bảy năm 1989, Trịnh Công Sơn xuất hiện trước bạn bè dưới tầng hầm của nhà Việt Nam. Sơn đó, đúng như Khánh Ly đã tả về anh: "Dáng người mảnh khảnh, cặp kính trắng tròn gọng đồi mồi, đôi mắt bồ câu, vầng trán cao, rộng, sống mũi thẳng, nụ cười đẹp, tươi với chiếc răng khểnh... và giọng Huế. Đó là Sơn của Khánh Ly. Còn Sơn đối với tôi, Sơn người Huế, tôi người An Giang.
Suốt những năm chiến tranh, về mặt địa dư, tôi với anh như hai kẻ đối đầu. Lúc Sơn ở Sài Gòn, cái thời Sài Gòn còn là Thủ đô của Việt Nam Cộng hoà, tôi ở Hà Nội: lúc Sơn về lại Huế, tôi lại về rừng với quân giải phóng. Không quen, không biết, nhưng lại gần nhau trong đời sống tâm linh để đến bây giờ cùng một chuyến bay, cùng một chuyến đi, cùng lo cho đêm hát của Sơn trên đất Paris. Tôi biết Sơn từ lúc ngồi viết Mùa gió chướng (1974). Tôi tìm nghe và đọc của Sơn. Và tôi đã mượn lời Đại bác ru đêm của Sơn cho tâm trạng khao khát hoà bình của một nhà báo Sài Gòn hiểu rõ được thời thế. Cũng có vài trường hợp nghe Sơn, biết Sơn giống như tôi. Như Nguyễn Duy thời còn chiến tranh, nhà thơ đã trộm nghe đài Sài Gòn, đã biết Sơn qua giọng hát Khánh Ly. Trong bài Ngày sau sỏi đá, Nguyễn Duy viết: "... Quỷ thật giai điệu ấy, lời ca ấy tự nhiên ghim lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như cánh vạc bay. Quái thật? Cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà đắm đuối ấy nhưng không thuộc chủng loại èo uột rên rỉ, nỉ non mà người ta vẫn gọi chung là nhạc vàng. Ừ, thì có buồn đấy, đau đấy, quặn thắt nữa đấy, nhưng còn có cái gì lành mạnh nẩy nở trong đó. Cái đẹp từ câu nhạc, cái đẹp trong ca từ, cả xác chữ lẫn hồn thơ. Bảng lảng lờ mờ khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng rõ ràng, đẹp làm sao và cũng hơi ma quái thế nào..." (Tuần tin Thanh Niên số 93 ra ngày 23-11-1987). Hình như nhà thơ đã bị choáng ngợp trước tôi và nhạc của Trịnh Công Sơn, không biết nói cách nào cho hết ý mình nên cứ phải quỷ phải quái và thế nào ấy... Nhà văn Tô Hoài nói về nhạc phẩm của Sơn gọn hơn: "Buồn và đẹp". Gọn hơn nữa, là nhà văn quá cố Nguyễn Tuân, một chữ: “Thơ". Ở Paris, anh Nam Chi, anh Cao Huy Thuần cũng nói đến thơ trong lời của Sơn. Đã là thơ thì giải bao nhiêu lời cũng không đủ, chỉ có một chữ đủ nhất là "Thơ".
Sau 30-4-1975 không mấy ngày, tôi gặp Sơn. Tôi tặng cho Sơn quyển Mùa gió chướng của tôi và ký tên trang dưới đoạn trích Đại bác ru đêm của anh. Ấy là ngày đầu làm quen, làm bạn cho đến nay. Ngồi đối diện với Sơn trong một quán bia buổi trưa hè dưới hàng cây vú sữa đường Trần Quý Cáp, Trịnh Công Sơn hết sức lạ lùng đối với tôi. Sơn giống một người trong vùng quê tôi, người đã sáng lập ra một tôn giáo, vị giáo chủ ấy có đến hàng triệu tín đồ. Cũng gương mặt ấy, cũng mái tóc xoã ngang vai ấy, nhưng Sơn không có tín đồ mà có hàng triệu người yêu mê nhạc phẩm của anh. Tôi vốn là người có một thời nghiên cứu về tôn giáo này, tôi có thu thập một ít tư liệu và hình ảnh. Một hôm, tôi đưa tấm ảnh của vị giáo chủ ấy cho Sơn và bạn bè xem, ai cũng "Ô giống quá!" ấy là chuyện tình cờ trong đời nhưng tôi không bỏ trôi qua trong nghĩ suy của tôi về con người: người sinh cùng năm tháng, người cùng một gương mặt, cùng một dáng đi, người cùng tên, khác nhau đó, nhưng có gì giống nhau?
Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-2-1939, năm Kỷ Mão. Con mèo Trịnh Công Sơn nhẹ nhàng, hết sức nhạy cảm, hết sức tinh tế. Tưởng như Sơn nghe cả tiếng nói của cỏ cây, nghe được cả lời thở than khi hoa quỳnh lả cánh. Chính vì vậy mà Sơn đã hỏi "Làm sao em biết bia đá không đau?..." và biết "Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau..."
Người yêu nhạc của Sơn, dù có yêu có mê đến mấy cũng không thể yêu, mê và nhớ 500 ca khúc của anh. Nhưng mỗi lúc, mỗi thời thế, và tùy theo tâm trạng, mà yêu mà nhớ đến một khúc hát nào đó của Sơn. Và hơn 500 ca khúc của anh như đủ cho một tâm trạng của mỗi con người. Hơn mười năm qua, đi đâu, bất cứ nơi nào, trong nước hay ngoài nước, nơi nào có người Việt Nam, là nơi đó tôi được nghe của Sơn. Nhớ năm 1987, trong dịp sang Đông Berlin, khi tôi vừa ngồi yên trong xe, thì anh bạn lái cho tôi bảo: “Nghe Trịnh Công Sơn nhé?". "Có à?" - Tôi ngạc nhiên. “Sao lại không!" và giọng của Khánh Ly "Mưa vẫn mưa bay..." lại cùng tôi vang trên các nẻo đường Đông Berlin trong đêm thu. Khiến tôi nhớ, một lần tôi về đất Mũi, đang ngồi chơi bên một cái hồ ở chợ Cá Mấy. Dưới hồ có một con gì rất lạ, như một con đỉa màu xanh lội lăng quăng. Khi tôi cầm cục đất ném xuống thì con "đỉa" màu xanh tan biến đi. Không thấy gì nữa, chỉ còn mặt nước trong. Một lát sau, chẳng biết từ đâu, những hạt tế bào tan biến ấy lại tụ về với nguyên hình con đỉa xanh lội lăng quăng. Tôi đang nghĩ về sự tan biến nhưng không bao giờ chết của con vật lạ ấy thì bên tai văng vẳng tiếng hát..."Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh...". Ngoảnh nhìn lại, một cô gái đi trên bờ đất, cô hát một mình, không để ý đến ai, vừa nghêu ngao hát vừa đi về phía rừng chiều. "Sơn à, đi đâu tao cũng nghe mày!".
Tại Paris, nghe đồn ở quận 13 có người Việt cực đoan thù Sơn, chống Sơn, Sơn không thể đến đó, và cũng không nên đi ngang qua đó, dù đi bằng ô tô. Họ đã làm bậy với đoàn cải lương rồi. Không thể không cảnh giác. Một hôm tôi đến, vào một quán phở, một cái quán có nhiều khách chống Sơn: lạ, tôi lại nghe họ mở nhạc của Sơn. Rồi đầu tháng 7-1989 ngồi trong một quán ăn Việt Nam ở New York, trong ánh đèn mờ, tôi cũng lại nghe của Sơn. “Sơn! Qua tới Mỹ rồi, tao vẫn nghe mày!" Hóa ra người ghét Sơn, chống Sơn vẫn không thể không nghe của Sơn. Từ đó, có thể nói, nghệ thuật của Trịnh Công Sơn đã vượt qua khỏi sự hằn thù được không?
Lại nhớ đến một đêm sương Sài Gòn năm 1978, chúng tôi gồm nhà văn Nguyễn Tuân, Thọ, Nhuận, Tịnh, Sơn và tôi sang chơi bên quán Cầu Mới dưới chân cầu Bình Triệu.
Chủ quán nào biết khách là ai. Vô tình mà như chuẩn bị sẵn từ lúc nào. Khi Sơn và chúng tôi vừa bước xuống xe thì tiếng kèn saxo của Trần Vĩnh từ một âm thấp vút lên cao Gọi nắng... của bài Hạ trắng. Không giật mình nhưng ngẩn ngơ trước tiếng kèn saxo của Trần Vĩnh. Tả lại cảm xúc ấy như thế nào đây? Với tôi, tiếng kèn như một luồng sương tỏa mờ một khoảng trời của chúng tôi, cho thêm lạnh, thêm nhớ một đêm êm đềm. Nay, nhà văn Nguyễn Tuân, người anh lớn ấy đã qua một cõi đời rồi, Thọ, Nhuận đang sống ở nước ngoài. Dù ở đâu, dù có xa nhau, tôi luôn nghĩ, bạn bè trong đêm sương ấy vẫn còn vẳng bên tai lời gợi nhớ của tiếng kèn saxo: "Áo xưa dù nhàu, cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau...".
Tôi hết sức thú vị được nghe tiến sĩ Cao Huy Thuần qua băng ghi âm trong đêm nhạc của Trịnh Công Sơn ở Paris đêm 20-6-1987. Tiến sĩ Cao Huy Thuần phân tích: "Đời của Trịnh Công Sơn là thơ. Ca khúc của Trịnh Công Sơn có bốn chủ đề: chiến tranh và hoà bình, tình yêu, một chút triết lý về thân phận con người và quê hương". Nói về nỗi buồn của Sơn, anh tạm gọi là nỗi buồn siêu hình: Anh Cao Huy Thuần nói: “Chắc chắn một điều, bài nào của Sơn mà không có chữ em, chữ yêu, không có chữ tình, chữ tin, chắc chắn không phải là bài hát của Trịnh Công Sơn. Đó là Trịnh Công Sơn giả cầy".
Giới thiệu bài Mưa hồng, anh nói: "Cảnh, tình và người trong Trịnh Công Sơn là cảnh Huế, tình Huế, người Huế. Sau này, Sơn rời Huế vào Sài Gòn, chất thơ trong nhạc của Trịnh Công Sơn vẫn là chất Huế, nguồn thơ vẫn chảy từ Huế. Vô số những bài hát của Sơn đều ướt và mưa. Vì Huế là xứ mưa dầm. Mưa mùa đông, mưa mùa hè, mưa sợi nhỏ, mưa sợi to, mưa tỉ tê, mưa ray rứt, cảnh mưa trong Trịnh Công Sơn buồn nhưng rất đẹp. Sơn ở gần cầu Phú Cam, trông xuống sông là Bến Ngự. Cửa mở ra là vòm cây long não xanh mướt, chiếc cầu nhỏ nối hai bờ sông, bên kia sông là chiếc vai gầy của Diễm...”.
Nói đến mưa trong nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, tôi nhớ một chiều năm 1980, họa sĩ Nguyễn Trung, Sơn và tôi ngồi trên lầu mười khách sạn Bông Sen đường Đồng Khởi.
Ba chúng tôi, ngồi bên cốc bia nhìn cơn mưa chiều mù mịt của thành phố. Mưa Sài Gòn không lê thê, không ray rứt, mà mưa như cầm bình trút nước, mưa dữ dội, mưa mạnh mẽ. Rồi mưa dứt. Mưa rửa sạch cả thành phố. Mái ngói đỏ au ánh trời chiều. Mưa Sài Gòn không từng sợi, không tỉ tê, mà ào ạt đến với nguồn cảm xúc của Sơn. Sau đó, trong ca khúc Chiều trên quê hương tôi, Trịnh Công Sơn viết:
Chiều trên quê hương tôi,
Nắng phơi trên màu ngói non tươi,
Gió mang tin một mùa sẽ tới.
Sẽ mưa lâu hoặc cơn nắng dài.
Và trong bài Em còn nhớ hay em đã quên:
Nhớ Sài Gòn mưa rồi chợt nắng
Trong lòng phố mưa đêm trói chân
Dưới hiên nhìn nước dâng tràn
Phố bỗng là dòng sông uốn quanh...
Đó là cơn mưa Sài Gòn, cơn mưa nơi Trịnh Công Sơn lớn lên, trưởng thành và gắn bó cho đến ngày nay.
Tiến sĩ Cao Huy Thuần tiếp: "Nói về người, người đẹp của Sơn phải là người gầy, không gầy thì không đẹp". Ví dụ, vai gầy: "Tuổi nào vừa thoáng buồn áo gầy vai" (Còn tuổi nào cho em). Tay gầy: "Bàn tay em năm ngón ru trên ngàn năm. Trên mùa lá xanh, ngón tay em gầy nên mãi ru trên ngàn năm" (Ru em từng ngón xuân nồng). "Đoá hoa hồng tàn hôn lên môi, em gầy ngón dài" (Tuổi đá buồn). Gầy và xanh: "Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ, dài tay em mấy thuở mắt xanh xao" (Diễm xưa) hoặc "Bàn tay xanh xao đón ưu phiền" (Nắng thủy tinh).
Cũng cái vẻ đẹp này, Khánh Ly viết: "... Tôi không nhớ Hà Nội bao nhiêu, không yêu Sài Gòn nhiều lắm, mà chỉ xót xa đến Huế. Huế nghèo, thành phố chỉ vài con đường chính. Huế nóng cháy da, mềm thịt. Huế lạnh buốt, lạnh từ trong lạnh ra. Dường như Huế chỉ thật sự huyền ảo, đẹp, nên thơ bởi những nghệ sĩ khi viết về quê hương mình. Có lẽ đó là điều dĩ nhiên của mọi người, mọi miền khi viết về nơi mình đã sinh ra. Âu cũng không phải điều làm ta ngạc nhiên. Nhưng không phải vì những điều người Huế viết về Huế đã làm tôi yêu Huế. Vì nếu như vậy thì tôi phải yêu Hà Nội nhiều hơn mới có lý. Phải yêu Sài Gòn hơn, Đà Lạt hơn mới phải. Vậy mà tôi yêu Huế, thỉnh thoảng gặp lại một vài người bạn, tôi năn nỉ mi nói cho tau nghe chút cho đỡ nhớ. Con gái Huế nói như hát, dịu dàng, đi đứng khép nép, nhẹ nhàng. Có một cái gì thật mong manh, như tơ, như sương khói, như một điều không có thật trong con người của các cô gái Huế. Tôi có cảm tưởng họ không phải là sự hiện hữu. Một chút hương khói hư ảo chập chờn. Chỉ là một tiếng động khẽ dù là tiếng rơi của một chiếc lá, cũng làm tan biến đi tất cả”... Và với tôi ẩn chứa trong cái vẻ mong manh như sương khói của Huế là một sức mạnh cường tráng, và dữ dội của thác ghềnh. Như nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, mơ màng đó, sương khói đó nhưng không tan biến theo thời gian mà vẫn đọng, vẫn chảy trong lòng người.
II/
Tôi thích những ca khúc của Trịnh Công Sơn nghĩ về cái sống, cái chết và thân phận con người. Tôi nghe, tôi suy ngẫm và muốn tìm hiểu đến tận nguồn.
Là con cả trong một gia đình đông anh em ở Huế, ngay từ năm lên sáu Sơn đã phải chia sẻ những buồn vui, lo âu của cha mẹ giữa một thời điểm đất nước có nhiều biến chuyển. Có phải chăng những nhạc phẩm nghĩ đến cái chết, cái sống và thân phận con người của Sơn đã bắt nguồn từ tuổi thơ của anh? Lớn lên vào Sài Gòn, Sơn học triết ở trường JJ. Rousseau, nay là trường Lê Quý Đôn. Hình như triết học thường hay đến với nỗi đau của con người. Không được bao nhiêu, rất ít, nhưng tôi cũng cố tìm đọc một vài quyển triết, nhất là sách Phật, cũng là sách mà Sơn đã đọc. Tôi có cảm tưởng, những điều trong sách vở ấy đã được lọc qua tâm hồn nghệ sĩ của Sơn, và đã ứa thành mật ngọt của Cõi tạm, của Cát bụi, của Một cõi đi về... Lại nói một ca khúc, Sơn mơ thấy mình chết.
Đường nào dìu tôi đi đến cơn say
Một lần nằm mơ thấy tôi qua đời
Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy
Giật mình tỉnh ra ồ nắng lên rồi (Bên đời hiu quạnh)
Một ca khúc hết sức kịch tính, tưởng là nỗi bi quan về cái chết, nhưng cuối cùng là hết sức yêu đời. Như một nhà thám hiểm. Sơn đã thử bước vào cõi chết đen ngòm rồi hốt hoảng, vội trở lại với nắng đời. Phải thú thật, có một dạo, tôi thích nhất Một cõi đi về.
Hơn mười năm chơi với nhau, ngồi với nhau bên ly rượu, lần nào cũng vậy, trước khi ra về, Sơn cùng hát cho tôi Một cõi đi về có lẽ vì vậy mà đó là một trong vài ca khúc Sơn không quên lời.
Trịnh Công Sơn đã từng dấn thân trong phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên, đã từng cầm đàn cùng sinh viên hát vang Nối vòng tay lớn, đòi chấm dứt chiến tranh, đòi Huế, Sài Gòn, Hà Nội một dải sơn hà. Đất nước đang chiến tranh, nhưng cuộc đời đã dành cho Sơn, hay Sơn có đủ sức mạnh tạo cho mình một cõi yên ổn để nói đến tâm tư, đến đời thường của con người?
Súng đang nổ đó, mà Sơn vẫn viết Như cánh vạc bay, vẫn Cỏ xót xa đưa, vẫn Hãy yêu nhau đi, vẫn Em hãy ngủ đi... Và... và... Còn dịp để nói, để bàn, để viết về Trịnh Công Sơn.
Tôi muốn trở lại đêm Trịnh Công Sơn ở Paris, trong mái Nhà Việt Nam. Một đêm chờ đợi, một đêm trân trọng, một đêm ấm áp. Và cũng là đêm đặc biệt của Nhà Việt Nam. Xe cảnh sát Pháp đậu dài trên đường Cardinal Lemoine, bảo vệ cho đêm nhạc của Trịnh Công Sơn. Người trình diễn chỉ có Sơn, có cả Thanh Hải, người thường hát Trịnh Công Sơn trên đất châu Âu sau này, từ Cộng hòa Liên bang Đức bay sang. Thú vị hơn, có cả Michikô. Michikô, cô gái Nhật. Có lẽ và theo tôi, không ai có đủ băng nhạc cũng như ấn phẩm và những vì thuộc về Sơn bằng Michikô. Michikô có nhiều, có đủ vì cô đang ấp ủ một công trình nghiên cứu Ngôn ngữ Việt Nam qua lời trong ca khúc của Trịnh Công Sơn. Ngày ngày Michikô mở băng nghe Khánh Ly hát. Michikô nói tiếng Việt Nam chưa sõi, nhưng khi với cây đàn ghita thì cô hát đúng giọng của Khánh Ly.
Bạn bè ai cũng lo, chẳng biết Sơn có hát được, hát nổi hay không? Sơn gầy quá, cũng vừa mới ốm dậy. Đã vậy, lại còn uống (Bây giờ Sơn đã bỏ rượu rồi - Uống nước ngọt). Lúc ấy và trước trước nữa, ngày nào Sơn cũng uống, từ sáng cho đến tối, uống mà không ăn. Uống như lời hát Một ngày tôi chọn một niềm vui: “Mỗi ngày tôi nhậu một lần thôi, từ sáng tinh mơ cho đến chiều tà". Cho nên ngày hôm đó, bạn bè đặc biệt chăm sóc Sơn về uống. (Lúc nào cũng có Bordeaux mà!). Tôi là người cùng đi, tôi cũng có bổn phận này đối với Sơn. Nhưng tôi không lo. Trước đó một tuần, ở Orleans, ngồi trong nhà anh Nam Chi bên dòng suối ôn Tuyền, Sơn vừa uống, vừa vẽ, suốt ngày. Nhạc của Sơn đang chuyển thành màu sắc. Không có gì lạ. Nhạc sĩ Văn Cao vẽ, rồi nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn. Sơn ngồi vẽ, tôi bỗng nghĩ Sơn có một sức sáng tạo cường tráng trong một cơ thể gầy gò. Tôi biết đến ly nào thì Sơn muốn hát, thích hát, đến ly nào thì hát hay, đến ly nào thì quẩn không lối ra.
Quan trọng hơn và quyết định là Sơn hiểu được trách nhiệm của mình.
Và đúng như vậy, với cây đàn gita khi Sơn cất giọng thì... như anh Nam Chi và nhiều người nhận xét: "Không ai hát Trịnh Công Sơn bằng Trịnh Công Sơn, kể cả Khánh Ly".
Anh Nam Chi phân tích, ca sĩ mà hát lời của người làm lời, hát nhạc của người làm nhạc. Còn Sơn, Sơn hát lời của mình và nhạc cũng của mình. Tất nhiên, Sơn có cả giọng của trời cho. Đời kể cũng lạ. Những ca sĩ mà tôi biết, hầu như ngày nào cũng luyện giọng. Còn Sơn, tôi chẳng bao giờ và đố ai thấy Sơn luyện giọng. Nói đến chuyện hát của Sơn, Thế Uyên có viết một đoạn như sau trong bài Những người từ tuyệt tình cốc...”Từ hôm tới Huế (trước 1975). Tường đã vài lần nhắc tới Trịnh Công Sơn và khen rất nhiều tài năng của người nhạc sĩ này. Nhưng đêm nay, ngay sau khi Sơn đã ôm đàn hát lên một bài của mình về một vết lăn trầm, tôi đã thấy ma lực của lời cũng như nhạc của anh. Sơn càng hát thêm tôi càng thấy quyến rũ...”.
Đêm Trịnh Công Sơn ở Paris, khi tiếng đàn đã tắt, một lúc sau người nghe mới vỗ tay như giật mình tỉnh dậy sau lúc "đê mê" vì cái ma lực của lời, của nhạc và cả giọng quyến rũ của Sơn.
Theo anh Nam Chi, ca khúc của Sơn có câu khi ca sĩ hát, người nghe không hiểu nghĩa, như một câu vô nghĩa, nhưng khi Sơn hát thì thấy thâm thúy vô cùng. Lúc hát, Sơn rất quan tâm đến nghệ thuật nhả chữ. Lúc hát, Sơn kể, có lần Sơn tập cho Khánh Ly trong bài Rừng xưa đã khép có câu "Ngủ đi em mi cong cỏ mượt". Từ cỏ này hát nghe sao cho rõ dấu, và cỏ như nằm gọn trong một cái túi, một cái túi đựng lời. Nghệ thuật phải được rung động từ sự tinh tế. Nghe Khánh Ly (qua băng ghi âm) và nghe Sơn bài Chiếc lá thu phai ở câu "Tự làm khô héo tôi đây" Khánh Ly không lột tả nổi sự "khô héo" bằng Sơn. Cũng như bài Huyền thoại mẹ, Cẩm Vân không diễn tả nỗi người “Mẹ về đứng dưới mưa" bằng Sơn, Sơn cho ta cảm nhận đến tận cùng sự "khô héo", cho ta niềm xúc động trước hình ảnh của người mẹ dưới cơn mưa.
Vĩnh Trinh, em gái út của Sơn từ Canada cũng bay sang thăm anh và hát tiếp anh. Giọng út Trinh khoẻ, lôi cuốn như một dòng thác, nhưng nghe không cảm bằng Khánh Ly, lại càng không cảm bằng Sơn. Sao thế? Út Trinh chưa cảm nhận hết ý nghĩa của lời, của thơ. Tôi bảo Trịnh Công Sơn "Muốn hiểu phải có một trình độ văn hoá và sự cảm nhận văn học nhất định".
Nghe Sơn là nghe hồn thơ qua giọng hát của anh.
Tôi chưa bao giờ hỏi Sơn, khi sáng tác thì nhạc trước hay lời trước. Nghe và đọc của Sơn, theo tôi, nhạc và lời của Sơn cùng đến, như cả hai là một không thể tách rời. Có một số ca khúc được nghe, tôi thấy ở một vài tác giả, có khi vì bị kích động một nốt nhạc nào đó, đành phải có một lời độn, lời độn đó có khi vô nghĩa hoặc không cần thiết. Ở Sơn, tôi không tìm thấy. Giữa nhạc và lời, nếu phải có sự “nhượng bộ” thì nhạc phải "nhượng bộ" cho lời. Bởi thơ thì không thừa, cũng không thiếu.
Nhân nhắc đến Khánh Ly, tôi muốn báo với bạn đọc, cũng trong tháng năm ấy, Khánh Ly cũng có mặt ở Paris. Sơn hát ở Nhà Việt Nam trên đường Cardinal Lemoine. Khánh Ly hát ở rạp Mutualite (Place Maubert), cách nhau chẳng bao xa. Có nhau đó mà không cùng hát như bao người mong ước. Dù hát ở hai nơi khác nhau, nhưng tiếng hát của hai người đang vang lên trên bầu trời Paris. Với tôi, đó là điềm lành. Điềm lành cho sự sum họp không chỉ có hai người mà cho tất cả đàn con Việt Nam đang tản mát khắp nơi trên trái đất.
Đêm hát của Sơn có hai phần: Phần thứ nhất gồm những ca khúc trước 30-4-75 và những ca khúc sau này. Vì thiếu thông tin, có người tưởng rằng, sau 1975 sống dưới chế độ cộng sản, Trịnh Công Sơn không còn viết được, hoặc viết vì “phục vụ chính trị, phục vụ kịp thời" chẳng ra sao.
Với cây đàn gita quen thuộc, Trịnh Công Sơn mở đầu bài Lặng lẽ nơi này, ca khúc viết cho phim Tình xa năm gần đây. Trước mắt bạn bè, Sơn vẫn là Sơn, vẫn thơ, vẫn cùng một dòng nhạc mê đắm ấy và vẫn cái ma lực ấy đã quyến rũ bạn bè ngay từ đầu, có thể nói là bàng hoàng nữa, bàng hoàng vì không ngờ, chưa có thể nói là hơn, cũng chưa có thể nói là kém so với ngày xưa, nhưng cũng không thể nói là cũng vậy, khó nói, chỉ thấy bàng hoàng...
Trong hai mươi ca khúc được trình diễn trong đêm, có những bài cùng một chủ đề với hai giai đoạn trước và sau 30-4-1975. Trước đó có Ca dao Mẹ, sau có Huyền thoại Mẹ: trước có Diễm xưa, sau có Trong nỗi đau tình cờ.
Có bạn không muốn so sánh hai giai đoạn sáng tác của Sơn giai đoạn nào hơn giai đoạn nào, mà cho rằng ở giai đoạn sau lời và nhạc của Sơn trong hơn và mạnh hơn.
Cũng như Sơn đã nói "Mười lăm năm qua, tôi là một con người khác. Tôi đi tìm niềm vui chứ không phải thất vọng. Bởi bất hạnh thì nhiều mà hạnh phúc thì hiếm quá. Tôi nghĩ ở đâu cũng vậy. Sẽ có người cho tôi là tên ích kỷ, nhưng tôi vẫn tin rằng những lời thở than không thể thay đổi số phận một con người. Tôi ghét lòng thương hại." Quả là một nhận xét đáng suy nghĩ.
Sau đêm hát, bạn bè ai cũng muốn gặp Sơn, nếu không trò chuyện được lâu, ít nhất cũng một lần bắt tay mừng anh, nhưng không thấy Sơn đâu. Hỏi ai, ai cũng không thấy. Mất như biển - xe cảnh sát Pháp đã đưa Sơn đi rồi? Cảnh sát bảo họ có nhiệm vụ bảo vệ cho đêm hát của Sơn.
Một cách máy móc, Sơn hát rồi họ phải đưa Sơn đi... Đi về một nơi an toàn. Không chỉ có đêm dưới mái Nhà Việt Nam, những ngày sau, Sơn đã thăm, đã hát ở từng nhà với bạn bè. Có đêm ngoài ngoại ô Paris, anh và Trinh cùng bạn bè đốt lửa hát suốt đêm.
Qua nhiều cuộc tiếp xúc không thể không có một câu hỏi, vì sao Sơn không đi? Sơn không đi như 60 triệu dân Việt Nam không đi, không có gì đặc biệt, không có gì lạ phải phân trần hay giải thích. Và Sơn muốn học trường Tây, Sơn hiểu cái nghĩa văn hóa theo ngôn ngữ Pháp. Culture (văn hóa) cũng có nghĩa là trồng trọt. Đã trồng trọt thì không thể rời mặt đất. Người nghệ sĩ không thể rời bỏ Tổ quốc, không thể không bắt nguồn từ lòng của dân tộc.
Trở về thành phố, tôi nghe kể lại, ở thành phố đã có người đánh cuộc Sơn sẽ đi luôn. Và họ phải chung tiền, thua cuộc Nhà văn Thế Uyên đã viết về sự chọn lựa đi - ở của Sơn như sau: "Trời miền tây Bắc Mỹ nơi tôi cư ngụ về mùa thu, mùa đông nhiều khi rất buồn. U ám, mây bay, sương mù, mưa dầm, không khí lạnh giá. Nhiều buổi sáng, khi kéo cao cổ áo cho mưa bớt rơi vào cổ, ngậm điếu thuốc, tôi đi như chạy trên những con đường nhỏ trong khuôn viên đại học theo học cho kịp giờ kế... Những lúc ấy thật nhớ nhà vì thèm cái nắng ấm của Sài Gòn, của Việt Nam nhiệt đới. Tâm hồn bay bổng đôi lúc về quê hương cũ, về những người thân yêu còn ở lại, về dân tộc mình bên kia Thái Bình Dương rộng lớn, tôi đôi lúc thở dài. Trịnh Công Sơn đã có lý khi anh chọn ở lại quê hương. Nơi này anh có đất nước, có dân tộc và dĩ nhiên có quê hương đích thực... Anh được làm nhạc sĩ cho dân tộc hơn 60 triệu người của mình, trên quê hương của mình. Anh chọn lựa ở lại là phải. Bởi vì, ai dan tiếng cho bằng người bạn già Phạm Duy thân ái của tôi nhưng hay đến như mười bài Rong ca thì cũng chỉ phổ biến trong một triệu người xa quê, phân tán trên khắp hành tinh trái đất này. Trịnh Công Sơn ở lại là phải...
Tôi nghĩ có khác hơn anh Thế Uyên, Trịnh Công Sơn ở lại và ở lại. Không có điều thứ hai cho Sơn so sánh lựa chọn.
Tất nhiên Sơn cũng có một dạo lận đận (ai mà không có một lúc lận đận trong đời), nhưng tôi vẫn tin. Mỗi lần nghe, mỗi lần gặp, tôi càng tin ở Sơn.
Hôm nay là ngày 28 tháng 2, tôi kết thúc bài viết vì ngày này, nhằm sinh nhật thứ 51 của Sơn (28-2-1939 - 28-1990). Mừng sinh nhật của Sơn, mừng Sơn đã bỏ rượu mừng sẽ còn nghe nhiều, nghe nữa của Sơn.
TRỊNH CÔNG SƠN NGƯỜI TÌNH VĨNH CỬU Nguyễn Trọng Tạo
Hà Nội đêm 1-4-2001
Gần đây, thỉnh thoảng tôi nhận những cú điện thoại hỏi về tình hình sức khỏe của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, thậm chí người ta còn nghe tin đồn là anh đã mất. Và chiều nay, một người bạn từ Sài Gòn điện ra báo tin Trịnh Công Sơn đã vĩnh biệt cõi đời lúc 12giờ 45 phút. Vẫn biết là anh có thể ra đi bất cứ lúc nào, vậy mà tôi vẫn hy vọng đấy chỉ là một cái tin của "ngày nói dối” (ngày 1-4).
Ngay cả khi anh không còn trên cõi đời, tôi vẫn cứ tin rằng anh không chết. Bởi Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tài hoa, một Con - Người - Thơ - Ca (theo cách gọi của nhạc sĩ Văn Cao), một cuộc đời hoá thân vào nghệ thuật xưng tụng thân phận và tình yêu của mọi kiếp người. Âm nhạc của anh mang sức mạnh và sự mềm mại của Nước, len lỏi vào tận tâm hồn sâu thẳm của người Việt đánh thức tình yêu quê hương xứ sở, đồng thời anh cũng là "Người tình lãng du của nhiều thế hệ" (*)
(*) Chữ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Không có một nhạc sĩ Việt Nam nào được hát nhiều như Trịnh Công Sơn. Anh cũng là nhạc sĩ chiếm kỷ lục về số lượng băng (ra phát hành trong cả nước và nước ngoài suốt hơn 40 năm qua kể từ bài hát đầu tiên mang tựa đề Ướt mi (NXB An Phú - Sài Gòn 1959). Năm 1972, bài hát Ngủ đi con trong tập Ca khúc Da Vàng của anh được Đĩa vàng ở Nhật với số lượng trên 2 triệu bản. Tên tuổi Trịnh Công Sơn luôn hiện diện trên những trang báo hút hồn bạn đọc. Âm nhạc của anh vang lên từ các tụ điểm ca nhạc, trên sân khấu lớn, trong quán hàng, trên xe ôm, len lỏi vào tận giường ngủ của mỗi nhà, dầm dề như mưa Huế quê anh, bất tận như điệu thơ lục bát không bao giờ chấm dứt. Tên những bài hát của anh biến thành những tên quán của yêu thương và hâm mộ: Biển nhớ, Hạ trắng, Diễm xưa, Mưa hồng, Nguyệt ca, Ru tình, Ướt mi, Tình nhớ, Quỳnh hương, Nối vòng tay lớn, v.v... Còn tên anh thì được ghi trong bộ từ điển Bách khoa Pháp: Encyclopédie de tous les pays du monde.
Nhiều khi tôi tự hỏi, vì sao mà Trịnh Công Sơn được công chúng hâm mộ đến thế? Có lẽ chính anh là một nhà thơ được hát lên. Ca từ của anh không chỉ giàu chất thơ như người ta thường nói, mà đấy là những bài thơ thực sự, những bài thơ thấm đẫm triết lý về cuộc sống, về tình yêu, về sự sinh ra và trở về Cát Bụi của phận người ngắn ngủi. Nhưng đấy là những bài thơ riêng biệt phong cách Trịnh Công Sơn, luôn vặn lùi thời gian để được sống hết mình. Nếu đem in 500 bài hát của anh, ta sẽ có một tập Thơ Trịnh Công Sơn dày ngót nghìn trang. Và ta không ngạc nhiên rằng khi được nhờ chọn một số bài thơ tình hay nhất thế kỷ, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến đã tâm đắc tiến cử lời ca Đêm thấy ta là thác đổ của Trịnh Công Sơn. Nhưng khi những lời thơ ấy được hát lên bằng nhạc của chính tác giả, thì nó bỗng trở thành những câu kinh bất hủ. Và người ta nói rằng, âm nhạc của anh là những bài kinh cầu bên vực thẳm về thân phận và tình yêu.
Nhưng không chỉ có thơ có nhạc, Trịnh Công Sơn còn có cả một kho báu về hội họa với bút pháp thật tài hoa. Anh vẽ trong các cuộc rượu với bạn bè. Khi mà linh hồn đã ngấm men, anh vẽ thật nhanh, thật đẹp những chân dung mà anh yêu mến. Vẽ. Rồi đề tặng. Rồi ký cái chữ ký thật quen thuộc. Bạn bè được anh vẽ, mang về lồng khung treo lên tường lưu giữ một tình cảm, lưu giữ hồn anh. Nhưng dù chỉ là cuộc chơi hội hoạ, Trịnh Công Sơn đã tạo ra nhiều phòng tranh sơn dầu gây ấn tượng không ngờ với hội họa chuyên nghiệp. Có phòng tranh của anh đến khi kết thúc, không còn một bức nào để mang về. Người ta mua tranh vì yêu thương, lại cũng vì khâm phục. Hàng trăm bức tranh của anh lưu lạc khắp thế giới. Điều đó thêm một lần mách bảo rằng, Trịnh Công Sơn vẫn sống!
Tôi đã nhiều lần nghe nhạc Trịnh Công Sơn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, nhưng mãi đến năm 1976 mới được gặp anh. Lúc ấy tôi đóng quân ở vùng núi Lệ Kỳ (Quảng Bình), Trịnh Công Sơn cùng với bạn bè văn nghệ đã đạp xe leo núi đến thăm và anh ôm đàn hát Nối vòng tay lớn. Cả đoàn nghệ thuật của tôi đã vỗ tay hát cùng anh. Tôi cũng đã cùng anh đến nghĩa trang dưới chân núi Ngự Bình (Huế) thăm mộ ông cụ thân sinh của anh, và tôi được biết ở chính nghĩa trang này vào năm 1974 anh đã sáng tác bài Một cõi đi về với những chiêm nghiệm thật sâu sắc về phận người: “Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về". Và lần gặp anh cuối cùng là trước Tết Tân Tỵ ở Sài Gòn, lúc ấy anh cùng vợ chồng người em gái ngồi ở một quán trà thật tĩnh lặng để dưỡng bệnh chốc lát. Anh khoe với tôi là tăng được hai ký. Vẫn nụ cười lộ chiếc răng khểnh hiền lành, dễ thương, và anh hy vọng sẽ viết được một cái gì đó ngay sau lần ốm nặng này.
Nhưng Trịnh Công Sơn đã không chống nổi số phận. Âm nhạc, thơ ca và hội họa của anh sẽ lãnh trách nhiệm sống tiếp đời sống của anh, đúng như anh ước nguyện lúc sinh thời: "Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu, để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Đời".
Có một nhà thơ tên là Trịnh Công Sơn
Hà Nội, ngày giỗ đầu Trịnh Công Sơn, 2002
Người ta vẫn gọi Trịnh Công Sơn là Nhạc Sĩ chứ chưa thấy ai gọi anh là Nhà Thơ dù anh cũng đã in dăm ba bài thơ lẻ. Cũng có người gọi anh là "Người thơ ca" hay "Người hát thơ", nghĩa là anh là người tác hợp giữa thơ và nhạc. Nhưng với tư cách là một nhà thơ, tôi đã khảo sát ca từ của Trịnh Công Sơn, và tôi dám khẳng định rằng, anh chính là một Nhà Thơ đích thực. Cho dù khi sáng tác ca khúc, Trịnh Công Sơn có thể viết lời và nhạc cùng một lúc, hoặc có đoạn lời viết sau khi đã có nhạc, hay trước khi “phổ nhạc”, thì mỗi lời ca của anh đều là những bài thơ hoàn chỉnh kể cả về ý, tứ, cấu trúc, ngôn từ và cảm xúc.
Mà Trịnh Công Sơn không phải là một nhà thơ bình thường - nhà thơ như Từ điển tiếng Việt định nghĩa: là người chuyên sáng tác thơ và đã có tác phẩm có giá trị được công nhận - mà anh là Nhà Thơ vô cùng độc đáo ôm chứa tư tưởng nhân sinh và thời cuộc với một thi pháp khá riêng biệt trong thơ Việt.
Trịnh Công Sơn rất nhuần nhuyễn trong các thể thơ truyền thống như lục bát, đồng dao, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn, bát ngôn và thơ tự do; và nhiều khi anh kết hợp rất tài tình nhiều thể thơ trong một bài thơ mà hết sức trôi chảy nhờ nhạc điệu và lối gieo vần đầy cảm hứng trong âm nhạc. Ngay từ lần đầu tiên nghe ca khúc “Ở trọ”, tôi đã phát hiện ra đấy là một bài thơ lục bát rất tài hoa, nếu bỏ đi những âm đệm " i a í a" thì nó chỉ còn lại những câu thơ lục bát. Từ cái chuyện ở trọ bình thường trong đời, anh đã đẩy liên tưởng tới các "cõi tạm" chốn trần gian trong triết lý của Đạo Phật với một cách nói thoải mái, thông minh và hóm (humor). Anh nhìn thấy con chim ở trọ trên cành cây, con cá ở trọ trong nước, cơn gió ở trọ giữa đất trời... rồi đẩy tới một khái quát bất ngờ:
Trăm năm ở đậu ngàn năm
Đêm tôi ở trọ chung quanh nỗi buồn.
Có những liên tưởng còn bất ngờ hơn khi nói tới vẻ đẹp ở trọ trong thân thể , hay tâm hồn của người phụ nữ:
Môi xinh ở đậu người xinh
Đi đứng ở trọ đôi chân Thúy Kiều.
Vì thế mà có câu:
Xin cho về trọ gần nhau
Mai kia dù có ra sao cũng đành.
Và khi con người đã ở trọ vào nhau bằng tình yêu thì dù có phải xa rời cõi tạm vẫn mãi mãi khăng khít cùng nhau:
Tim em người trọ là tôi
Mai kia về chốn xa xôi cũng gần.
Với Bài thơ "Ở trọ", Trịnh Công Sơn đã làm cho thể thơ lục bát trở nên sinh động và tươi mới hẳn lên.
Nhiều bài thơ phỏng theo nhịp đồng dao (bốn chữ) khá thành công nhờ cách lập tứ và chọn từ như “Em đi qua chiều”, "Cũng sẽ chìm trôi", "Nhật nguyệt trên cao - ta ngồi dưới thấp", nhưng có lẽ "Ngụ ngôn mùa đông" mới là một bài thơ 4 chữ gây ấn tượng khó phai mờ trong lòng người đọc. Bài thơ nói về “Một người Việt Nam - Đi ra dòng sông - Nhớ về cội nguồn... Đi lên đồi non - Nhớ về cội nguồn" thật tươi đẹp, thật máu thịt, rồi bỗng:
Một ngày mùa đông
Trên con đường mòn
Một chiếc xe tang
Trái mìn nổ chậm
Người chết hai lần
Thịt da nát tan...
Người Việt ấy đã chết lại còn bị giết một lần nữa bởi "trái mìn nổ chậm" của chiến tranh. Cái tứ thơ này không chỉ chia xẻ với cái chết đau thương tang tóc của con người mà còn có sức mạnh tố cáo chiến tranh thật sâu sắc:
Súng từ thị thành
Súng từ ruộng làng
Nổ xé da con phố chợ thật buồn
Cuộn giây gai chắn
Chắc mẹ hiền lành
Rồi cũng tủi thân.
Nhịp thơ 5 chữ trong thơ Trịnh Công Sơn cũng xuất hiện không ít, và lặng lẽ tuôn chảy trong veo buồn thương, ngơ ngác. Khi thì khao khát hồn nhiên: "Môi nào hãy còn thơm - Cho ta phơi cuộc tình - Tóc nào hãy còn xanh - Cho ta chút hồn nhiên", khi thì hoang vắng, lạnh câm: "Như đồng lúa gặt xong - Như rừng núi bỏ hoang - Người về soi bóng mình - Giữa tường trắng lặng câm", khi thì tuyệt vọng ngậm ngùi: “Không còn, không còn ai - Ta trôi trong cuộc đời - Không chờ không chờ ai" (Ru ta ngậm ngùi), và có lúc đầy mộng mơ khao khát giữa ưu phiền: "Tôi con chim thanh bình - Mơ được sống hồn nhiên - Như hoa trên đồng xanh - Một sớm kia rất hồng” (Như chim ưu phiền). Nhịp thơ 5 chữ vốn rất bình dân trong đối đáp dân gian, nhưng với Trịnh Công Sơn, nó bỗng trở nên lồng lộng, thênh thang và quý phái:
Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô dạt trời chiều.
hoặc:
Một người về đỉnh cao
Một người về vực sâu
Để cuộc tình chim mau
Như bóng chim cuối đèo... (Tình nhớ)
cùng với những ý thơ bất ngờ đến từ trong vô thức:
Trăng muộn đời thiếu nợ
Mà sông không nhớ ra.
hoặc:
Cây trưa thu bóng dài
Và tôi thu bóng tôi
Tôi thu tôi bé lại
Làm mưa tan giữa trời... (Biết đâu nguồn cội)
Ít thấy nhịp thơ 6 chữ ở Trịnh Công Sơn, nhưng không phải là không có. Câu thơ 6 chữ xuất hiện đan xen trong nhiều bài thơ của anh thường tạo được hiệu quả lạ, như một dấu nhấn của cảm xúc và ý tưởng. Ví dụ như trong bài "Nhìn những mùa thu đi", sau mỗi câu 5 chữ là câu 6 chữ khá hay:
- Em nghe sầu lên trong nắng
- Nghe tên mình vào quên lãng
- Tay trơn buồn ôm nuối tiếc
- Hai mươi sầu dâng mắt biếc
- Anh nghe buồn mình trên ấy
- Đơn côi bàn tay quên lối
- Công viên chiều qua rất ngắn
- Anh ghi bằng nhiều thu vắng (Có người đã nhầm "công viên chiều qua rất ngắn" thành ra "rất vắng" và giải thích về sự "vắng vẻ của công viên buổi chiều là sai. ở đây phải hiểu là buổi chiều rất ngắn, vì chiều qua nhanh quá, như người ta vẫn nói "ngày ngắn đêm dài" vậy. Thế mới đúng cách tư duy của Trịnh Công Sơn. Hơn nữa câu sau đã có chữ vắng rồi!). Bài "Ru em" là một bài thơ lục ngôn từ đầu đến cuối:
Ru em ngủ những đêm khuya
Ru em ngủ những âm u
Ru em cùng những u mê
Ru em dù đã chia xa...
Thơ 6 chữ hợp với nhịp ru (võng đưa). Trong âm nhạc, các bài ru thường được viết theo nhịp 6/8, nhưng ở bài "Ru em", tác giả lại viết theo nhịp 2/4 có chùm 3, cũng có thể hát theo nhịp Slow Rock chậm (6/8) rất hợp. Trong bài này có 2 câu thơ rất thú vị:
Yêu em yêu thêm tình phụ
Lòng chợt từ bi bất ngờ.
(Nhân nói đến thơ lục ngôn, bỗng nhớ đến một bài thơ nhịp 3 hết sức đặc biệt của Trịnh Công Sơn. Đó là bài “Mưa hồng":
Trời ươm nắng
Cho mây hồng
Mây qua mau
Em nghiêng sầu
Còn mưa xuống
Như hôm nào
Em đến thăm
Mây âm thầm
Mang gió lên...
Điều đó nói lên sự đa dạng và tài hoa của Trịnh Công Sơn khi sử dụng thi điệu, bởi nhịp thơ 3 thường tươi vui nhí nhảnh, mà ở đây lại tả cái tâm trạng thương nhớ xa xăm: "Người ngồi xuống/ xin mưa đầy/ trên hai tay/ cơn đau dài...”
Nhịp thơ thất ngôn là một sở trường của Trịnh Công Sơn. Dường như anh thẩm thấu Đường thi, nhưng hơi thở thì đã khác. Những câu thơ 7 chữ vào thơ anh rất tự nhiên. Nhiều bài thơ (bài hát) đã mở đầu bằng câu thơ 7 chữ thật nhẹ nhàng như chẳng có một cố ý nào. Có thể dẫn ra nhiều trường hợp như vậy:
- Một đêm bước chân về gác nhỏ
- Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
- Trên đò người trổ nhánh hoang vu
- Người đi quanh thân thể người
- Vẫn thấy bên đời còn có em.
- Ngoài hiên vắng giọt thầm cuối đông
- Em còn nhớ hay em đã quên
- Hai mươi năm xin trả nợ đời.
- Không có em còn tôi với ai
- Em đứng lên gọi mưa vào hạ
- Mười năm xưa đứng bên bờ dậu
- Màu nắng hay là màu mắt em
vân vân và vân vân...
Cũng là thơ thất ngôn, nhưng cách gieo nhiều vần bằng liên tiếp theo cảm hứng âm nhạc, đã khiến cho thơ anh không bị gò ép vào khuôn thước cổ thi, mà thoát ra, phong quang và mềm mại hẳn lên. Có những đoạn thơ chỉ gieo toàn vần bằng:
Màu nắng hay là màu mắt em
Mùa thu mưa bay cho tay mềm
Chiều nghiêng nghiêng bóng nắng qua thềm
Rồi có hôm nào mây bay lên
Lùa nắng cho buồn vào tóc em
Bàn tay xôn xao đón ưu phiền
Ngày xưa sao lá thu không vàng
Và nắng chưa vào trong mắt em
Chiều đã đi vào vườn mắt em
Mùa thu qua tay đã bao lần
Ngàn cây thắp nến lên hai hàng
Để nắng đi vào trong mắt em
Để nắng bây giờ trong mắt em
Cũng có khi, thơ thất ngôn của anh được gieo vần trắc:
Em đi biền biệt muôn trùng quá
Từng cơn gió và từng cơn gió
Em đi gió lạnh bên xa bờ
Từng nỗi nhớ trùng trùng nỗi nhớ
Lại có khi thơ thất ngôn được tổ chức theo từng khổ ba câu với những hình ảnh thật đẹp, thật lạ như: "lòng như khăn mới thêu”, "lòng như nắng qua đèo", chỉ đọc một lần là bâng khuâng xao xuyến mãi:
Mười năm xưa đứng bên bờ dậu
Đường xanh hoa muối bay rì rào
Có người lòng như khăn mới thêu.
Mười năm sau áo bay đường chiều
Bàn chân trong phố xa lạ nhiều
Có người lòng như nắng qua đèo...
Mười năm khi phố khi vùng đồi
Nhìn nhau ôi cũng như mọi người
Có một dòng sông đã qua đời...
Các thi ảnh vừa tươi mới vừa lạ lùng cứ nối tiếp nhau hiện lên trong thơ Trịnh Công Sơn để đẩy tứ thơ đến tận cùng bất ngờ: "Có một dòng sông đã qua đời". Tại sao dòng sông lại qua đời? Phải chăng, đấy chính là dòng sông biểu tượng cho tình yêu đã cạn!
Trịnh Công Sơn thuộc thế hệ những người mê đắm Thơ Mới, và thể thơ 8 chữ mà các thi sĩ của phong trào Thơ Mới đã có công cải hóa và Việt hóa từ thơ Pháp có một nhịp điệu dễ mê hoặc lòng người. Trịnh Công Sơn tiếp thu nhịp điệu này, và chính âm nhạc đã thêm một lần nữa làm mới thơ 8 chữ:
Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa
Giọng người gọi tôi nghe (tiếng) rất nhu mì
Lòng thật bình yên mà sao buồn thế
Giật mình nhìn tôi ngồi hát bao giờ.
Đường nào dìu tôi đi đến cơn say
Một lần nằm mơ (tôi) thấy tôi qua đời
Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy
Giật mình tỉnh ra: ồ nắng lên rồi. (Bên đời hiu quạnh)
Hoặc dùng lại đúng cái nhịp Thơ Mới vẫn thường dùng, nhưng tinh thần thì đã khác:
Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng
Lá mùa thu rơi rụng giữa mùa đông,
Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em,
Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo
Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo
Tôi là ai mà còn khi dấu lệ
Tôi là ai mà còn trần gian thế
Tôi là ai (là ai là ai) mà yêu quá đời này! (Tôi ơi đừng tuyệt vọng)
Một thi sĩ với rất nhiều cung bậc trong điệu nhạc tâm hồn, Trịnh Công Sơn thả sức bay lượn trong các nhịp thơ tự do đầy phóng túng. Những câu thơ dài ngắn khác nhau cứ tung tẩy trong các bài thơ tự do của anh. Khi thì triết lý: “Tình yêu như trái phá con tim mù lòa”, khi thì lộng lẫy: “Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay”, khi thì trùng điệp: "Bốn mùa thay lá thay hoa thay mãi đời ta", khi thì gập ghềnh mệt mỏi: “Ngựa buông vó/ Người đi chùng chân đã bao lần/ Nửa đêm đó/ Lời ca dạ lan như ngại ngùng/ vùng u tối/ Loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng", và có khi nhịp điệu trôi xa như sông bỗng quay về gần gũi như mưa:
Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ
Ôi những dòng sông nhỏ
Lời hẹn thề là những cơn mưa.
Dù là phóng túng trong thơ tự do, nhưng vần điệu và ý tưởng lạ và đẹp ởthơ anh giống như chiếc neo thuyền, neo vào lòng người để nó chẳng bao giờ trôi đi vô vọng.
Có lẽ Trịnh Công Sơn là nhà thơ được người ta thuộc nhiều nhất. Điều đó không lạ, bởi anh luôn có sự truyền tải diệu vợi bằng âm nhạc của chính anh. Nhưng cũng có thể nói ngược lại, âm nhạc của Trịnh Công Sơn luôn được đôi cánh của thơ cứu rỗi, như thiên sứ mang tin yêu đến với lòng người. Quả thật, nhiều khi ngồi một mình, tôi không nhớ nhạc của anh mà nhớ những câu thơ thấy hay này:
- Sống trong đời sống cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết không?
Để gió cuốn đi!
- Làm sao em biết bia đá không đau
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.
- Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi.
- Mùa xanh lá
Loài sâu ngủ quên trong tóc chiều.
Mây che trên đầu và nắng trên vai
Đôi chân ta đi sông còn ở lại
Con tinh yêu thương vô tình chợt gọi
Lại thấy trong ta hiện bóng con người.
- Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những quán không
Bàn im hơi bên ghế ngồi
Ngày đi đêm tới đã vắng bóng người.
- Một hôm bước qua thành phố lạ,
Thành phố đã đi ngủ trưa.
Đời ta có khi tựa lá cỏ
Ngồi hát ca rất tự do,
Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà
Từ những phố kia tôi về.
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa.
- Áo xưa dù nhầu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau
- Mẹ là nước chứa chan
Trôi giùm con phiền muộn
Cho đời mãi trong lành
Mẹ chìm dưới gian nan.
- Hà Nội mùa thu
Cây cơm nguội vàng cây bàng lá đỏ nằm kề bên nhau
Phố xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu...
Đi giữa mọi người để nhớ một người...
Có một tập ca khúc thời trẻ của Trịnh Công Sơn mang tên là "Kinh Việt Nam” phải chăng, trong sâu thẳm lòng mình, anh khao khát sáng tạo ra những bài kinh cầu cho dân tộc này, cho tình yêu này và cho thân phận này? Đấy chính là bài kinh cầu bên bờ vực linh hồn cần được cứu rỗi. Những bài kinh ấy chính là những bài thơ còn lại của Trịnh Công Sơn với một niềm yêu tin gần như là tuyệt vọng" đã vượt lên số phận chia sẻ với đương thời và hậu thế, đấy là lòng tin vào con người khởi nguồn từ dòng cảm xúc tự nhiên, vượt qua cả tôn giáo và định kiến, bởi vì,”hương thơm đã sẵn đốt trong hồn" (chữ của Chế Lan Viên). Cũng với một lòng tin như vậy, tôi xin mạn phép đổi một chữ trong câu thơ của anh để tạm kết thúc bài viết này:
Ngày sau sỏi đá cũng cần có THƠ!
Diễm Xưa
(Cho Trịnh Công Sơn)
Có thể tóc nàng bạc trắng
Vô tình sỏi đá thành vôi
Có thể cơn mưa đã tạnh
Trái tim chẳng mọc thêm chồi.
Chàng trai yêu nàng đã khuất
Bên tầng tháp cổ rêu mờ
Cánh chim thiên di mỏi mệt
Bay ngoài câu hát ngu ngơ.
Bọn trẻ như chàng ngày trước
Thả hồn trong quán cà phê
Ở đó có nàng kiều diễm
Vai thon ôm mái tóc thề.
Thì thầm chợt nghe gió nói
Nàng là con của Diễm xưa!
BUỒN BÃ VỚI NHỮNG MÔI HÔN Cao Huy Thuần
Paris 15/4/2001
Tất cả bài nhạc của Trịnh Công Sơn đều ngắn hoặc rất ngắn. Riêng một bài duy nhất mang dáng dấp một trường ca: bài Đóa hoa vô thường. Với nhạc dạo đệm trước mỗi đoản khúc, bài hát kể một tình sử triết lý qua cách hiểu của Trịnh Công Sơn về chữ "ái và chữ "tâm".
Đây không phải là lần đầu vô thường đi vào lời ca của Trịnh Công Sơn. Vô thường bàng bạc trong nhạc Trịnh Công Sơn từ thuở đầu, nhưng không mấy ai để ý. Lời ca của anh hay quá, thơ quá, hát lên nghe đã bâng khuâng rồi, đâu cần hiểu ý nghĩa, chỉ mang máng thấy lời thơ có một chiều sâu triết lý thiếu vắng hẳn trong nhạc Việt Nam. Có lẽ chính tác giả cũng chưa ý thức được rõ ràng điều mình cảm nhận, và chính nhờ thế mà tính cách mông lung của lời ca làm rung động lòng người, khác với lời văn sáng sủa. Với Đóa hoa vô thường, Trịnh Công Sơn nhạc hóa lý thuyết và lý thuyết hóa nhạc. Anh còn chua thêm giải thích ở mỗi chuyển mạch để ý của nhạc được hiểu rõ hơn. Đoạn thứ nhất là đi tìm tình, nhịp thong dong. Đoạn thứ hai là gặp tình, đưa tình về, nhịp hớn hở, mùa xuân trên những mái nhà, có con chim hót tên là ái ân. Đoạn thứ ba là bốn mùa yêu nhau trong lẽ vô thường của trời đất. Sau đó, nhạc bắt đầu hiu hắt, một thời yêu dấu đã qua, ôi áo xưa em là một chút mây phù du. Rồi nhạc mạnh và êm dịu để đi vào đoạn kết: từ đó ta là đêm nở đóa hoa vô thường. Tại sao nhạc êm dịu lại? Anh giải thích: tình do tâm ta mà sinh, có khi tình mất mà tâm còn động vọng, đến lúc tâm bình an thì tình kia cũng đoạn nỗi.
Chữ “ái", đó là chỗ mà ai cũng thấy nơi Trịnh Công Sơn, chiếc nôi trong đó chúng ta nằm nghe anh ru từ mấy chục năm nay. Chữ "tâm" là cánh cửa mới mở ra trước Trịnh Công Sơn, nơi anh có cảm tưởng anh đến, kết thúc một đời rong chơi. Từ "ái" đến "tâm", Đóa hoa vô thường trình bày một quá trình chuyển hóa trong đó chuyện đời cũng như chuyện tình diễn biến dưới hình thức đối nghịch của từng đôi, từng cặp như tôi với em: tìm/ gặp, gặp/ mất, mất/ còn, có/ không. Vô thường, trong Trịnh Công Sơn, không có gì khác hơn là cái có đi vào cái không. Có thể ý tưởng về quá trình đối nghịch đó đã nằm trong vô thức của Trịnh Công Sơn từ trẻ. Hát lại Trịnh Công Sơn từ khi anh mất, trực nhận của tôi chợt bắt gặp vô thức của anh. Tôi sẽ nói ở đây những đối nghịch đó mà tôi nghĩ luôn luôn là nét chính trong nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi sẽ trích khá nhiều ví dụ, nhưng tôi phải tự kiềm chế tôi, nếu không thì hát hoài không dứt.
Tôi muốn bắt đầu bằng một đối nghịch trong cách vẽ tranh của Trịnh Công Sơn. Chẳng tại sao cả. Chỉ vì nói đến nhạc Trịnh Công Sơn mà bắt đầu bằng triết lý chắc là không ổn, vì anh là thi sĩ. Phải bắt đầu bằng người đẹp, người đẹp nhất trong tất cả những người đẹp nhất từ hai trăm năm nay: Thúy Kiều.
Gió sẽ mừng vì tóc em bay
Cho mây hờn ngủ quên trên vai
Tại sao gió sẽ mừng? Vì tóc em là gió. Gió đùa với gió, làm sao gió không vui? Tại sao mây lại hờn? Vì tóc em là mây. Mây thua nước tóc, làm sao mây không dỗi? Em là giai nhân toàn bích. Thế nhưng một nhan sắc toàn bích không làm Trịnh Công Sơn rung động. Giữa toàn bích, anh chấm một nét hỏng, và chính nét hỏng đó là cái duyên làm say lòng người.
Cho mây hờn ngủ quên trên vai
Vai em gầy guộc nhỏ
Như cách vạc về chốn xa xôi.
Tất cả những người đẹp của Trịnh Công Sơn đều có vai gầy. Vai gầy, có thể đẹp. Nhưng gầy guộc thì nhất quyết là hỏng. Thì thiếu da thơm quả ngọt mùa xuân. Vậy mà khi thả giọng trầm xuống chữ guộc, tôi tưởng như nghe có cánh con vạc bất chợt vỗ nước bay vào đêm thâu. Đêm vắng sâu hơn và Thúy Kiều đẹp hơn.
Đối nghịch là nét nhạc riêng của Trịnh Công Sơn. Anh nói một điều rồi anh nói điều trái lại. Như nét hỏng nằm giữa toàn bích. Bài hát này của anh đối nghịch với bài hát kia, lời một đối nghịch với lời hai, câu sau nghịch với câu trước, thậm chí hai hình ảnh nghịch nhau trong cùng một câu, trong vòng đôi ba chữ.
Tôi lấy ví dụ Trịnh Công Sơn hát cô đơn. Anh là người cô đơn cùng cực:
Trời cao đất rộng một mình tôi đi
Một mình tôi đi
Đời như vô tận một mình tôi về
Với tôi.
Anh cô đơn với. Chữ với làm tôi rờn rợn. Như câu sau này:
Một ngày thấy bóng em qua nơi này/ một lần với bóng tôi.
Một ngày đã có em xa nơi này/ một ngày với vắng tôi
Với vắng tôi. Em chỉ với khi nào không có tôi. Em cộng với con dấu trừ. Cho nên chúng ta chỉ có cái bóng của nhau...
Trịnh Công Sơn hát cô đơn thảm sầu như vậy, nhưng hát đôi lứa cũng nồng nhiệt vời vợi. Anh cổ vũ:
Hãy ru nhau trên những lời gió mới
Hãy yêu nhau cho gạch đá có tin vui...
Hãy kêu tên nhau trên ghềnh dưới bãi
Dù mai nơi này người có xa người
Trịnh Công Sơn hát tuyệt vọng. Anh nằm chết lịm trong tuyệt vọng, tuyệt vọng rơi gần rơi xuống trong tôi như hoa tiễn đưa rơi trên mộ. Nhưng anh lại đánh trống thúc quân đừng tuyệt vọng tôi ơi đừng tuyệt vọng. Anh đang nằm xuống hay anh đã đứng dậy?
Trịnh Công Sơn nhìn đời buồn tênh. Buồn tênh!
Sống có bao năm vui vui buồn buồn buồn người người ngợm ngợm.
Sống chết mong manh như thân cỏ hèn mọc đầy núi non
Nhưng Trịnh Công Sơn yêu đời thắm thiết. Anh quỳ xuống, tạ ơn đời đã cho anh hạnh phúc lẫn thương đau:
Dù đến rồi đi tôi cũng xin/ tạ ơn người tạ ơn đời
Tạ ơn ai đã cho tôi còn những ngày/ quên kiếp sống lẻ loi
Dù đến rồi đi tôi cũng xin/ tạ ơn người tạ ơn đời
Tạ ơn ai đã cho tôi tình sáng ngời/ như sao xuống từ trời.
Tôi biết có người sẽ nói: thì Trịnh Công Sơn cũng như mọi nghệ sĩ khác, có vui có buồn, có yêu thương, có tuyệt vọng. Không phải thế! Trong nhạc Trịnh Công Sơn, vui đi cặp đôi với buồn, hạnh phúc sóng bước với thương đau trong cùng một bài, trong cùng một câu. Đây là hai vế trong cùng một bài, vế thứ nhất là thương đau:
Tình yêu như nỗi chết cơn đau thật dài
Tình khâu môi cười/ hình hài xưa đã thay/ mặn nồng xưa cũng phai
Tình chia nhau gian dối/ tình đày tình đôi nơi
Vế thứ hai là hạnh phúc:
Một mai thức dậy/ chợt hồn như ngất ngây/ chợt buồn trong mắt nai
Rồi tình vui trong mắt/ rồi tình mềm trong tay
Hạnh phúc tưởng như thiên thu:
Tình cho nhau môi ấm/ một lần là trăm năm
Cũng hai vế đối nhau như thế trong hai đoạn, tôi hát thêm bài nữa.
Đoạn trước là phụ bạc, nợ nần:
Hai mươi năm xin trả nợ đời
Trả nợ một đời em đã phụ tôi
Em phụ tôi một thời bé dại
Thơ dại ra đi không nhớ gì tôi
Thơ dại ra đi quên hết tình tôi
Đoạn sau là tha thứ lau xóa oán trách, yêu thương vẫy gọi yêu thương.
Bao nhiêu năm vẫn lại nhiệm màu
Trả nợ một lần quên hết tình đau.
Hai mươi năm vẫn là thuở nào
Nợ lại lần này trong cõi đời nhau
Đó là hai vế nghịch nhau trong một bài. Bây giờ là hai vế nghịch nhau trong cùng một đoạn. Như thế này là có hay không:
Tiếng thì thầm từng đêm nhớ lại
Ngỡ chỉ là cơn say
Đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay
Như thế này là xa hay gần:
Tình như nắng vội tắt chiều hôm
Tình không xa nhưng không thật gần
Như thế này là rộng hay hẹp:
Tình yêu như biển biển rộng hai vai
Tình yêu như biển biển hẹp tay người
Biển hẹp tay người
Lạc lối
Như thế này là có hay không, mưa hay nắng, đông hay xuân, khứ hay hồi:
Ngoài hiên vắng giọt thầm cuối đông
Trời chợt nắng vườn đầy lá non
Người lên tiếng hỏi người có không
Người đi vắng về nơi bế bồng
Như thế này là sống hay chết, tàn hay nở:
Chìm dưới cơn mưa một người chết đêm qua
Chìm dưới đất kia một người sống thiên thu
Chìm khuất trong ta một lời nói vu vơ
Chìm dưới thiên thu là một đóa thơm tho
Như thế này là ngày hay đêm, lên hay xuống:
Gió cuốn đi cho mây qua dòng sông
Ngày vừa lên hay đêm xuống mênh mông
Đó là hai vế nghịch nhau trong cùng một đoạn, hoặc giữa câu trước với câu sau. Nhưng lại rất lắm khi nghịch với thuận, không với có, trộn lẫn với nhau, buồn xen trong vui, mông lung không biết đâu là vui đâu là buồn. Mưa là buồn chăng? Không hẳn, mưa trong Trịnh Công Sơn rất hồng, vì mưa trong nắng, mưa khi trời ươm nắng cho mây hồng. Nắng là vui chăng? Không hẳn, lung linh nắng thủy tinh vàng, nhưng nắng lên mà chợt hồn buồn dâng mênh mang. Mưa Huế rất nặng hột, vậy mà mưa cứ như thì thầm dưới chân ngà. Nắng được trời gọi lên, nhưng trời cũng chẳng biết đó là nắng của mưa hay mưa của nắng:
Gọi nắng cho cơn mưa chiều nhiều hoa trắng bay
Nắng qua mắt buồn lòng hoa bướm say
Bao nhiêu nụ hồng trong Trịnh Công Sơn, lạ quá, đều là nụ hồng tàn: em gọi nụ hồng vừa tàn cuối sân; đóa hoa hồng tàn hôn lên môi em gầy ngón dài. Có một chút của cái này và một chút của cái kia. Có một chút của cái này trong một chút của cái kia. Có một chút xuôi trong ngược. Trăm năm trong xuân thì. Chân như trong hạt lệ:
Bước tới hư vô khoác áo chân như
Long lanh giọt lệ/ long lanh giọt lệ/ giọt lệ thiên thu
Phôi pha cũng vậy. Trong nhớ đã có quên, trong quên vẫn cứ nhớ, tưởng vơi mà đầy, trong con nước rút đi có hồng thủy dâng lên:
Tình ngỡ đã quên đi như lòng cố lạnh lùng
Người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều
Như từng cơn nước rộng xóa một ngày đìu hiu
Tình ngỡ đã phôi pha như tình vẫn còn đầy...
Đến đây, e không còn nói đối nghịch được nữa. E phải nói đối hợp. Vẫn nghịch như trời với đất, nhưng sương phủ mênh mông nối đất với trời. Chỉ còn mông lung sương. Rõ ràng nhất là cặp "vợ chồng" đi về. Không bao giờ Trịnh Công Sơn nói đi mà không nói về. Hễ có đi là có về, hễ về là lại đi, không bao giờ câu trên đi mà không có câu dưới về, thậm chí đi về nằm ôm nhau trong một câu, trong hai chữ, trong một cõi, một cõi đi về.
Trong khi ta về lại nhớ ta đi
Đi lên non cao đi về biển rộng
Vừa đi vừa về như thế, đôi chân loanh quanh không biết xoay xở thế nào, tự hỏi, thắc mắc: đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Bốn mùa cũng loanh quanh như thế. Mùa xuân chưa qua mùa hạ đã đến, mùa thu chưa đi, mới đầu thu thôi chân ngựa đã về. Mà chỗ về của Trịnh Công Sơn cũng lạ: không phải về nơi đây mà về chốn xa. Con người ra đi, tưởng đi đến đâu, Ô hay chỉ làm một vòng xinh rồi trở về nơi cũ, như nằm mộng thấy mình đi:
Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụy
Một bờ cỏ non một bờ mộng mị
Ngày xưa.
Tôi nghe có người nói một câu hay khi đến thăm một người rất danh tiếng vừa chết: chỉ có ông ta không biết ông ta chết. Tôi nghĩ Trịnh Công Sơn không nói như vậy. Chắc anh vẫn đang thấy mọi người tiếp tục chạy vòng quanh. Tiếp tục đi, tiếp tục về. Tôi nghe như anh đang hát thế này với các người đẹp đến khóc anh: Này em,
Không có đâu em này không có cái chết đầu tiên
Và có đâu bao giờ đâu có cái chết sau cùng
Không có đầu tiên, không có sau cùng, không đầu không cuối, làm sao chết được, bởi vì làm sao bước? Phải có cái bước đầu tiên mới có cái bước thứ hai, mới có cái bước sau cùng, mới chết, mới có người khóc, mới có văn tế. Vì bước không được, cho nên Trịnh Công Sơn chỉ lăn, và anh đã nghêu ngao như thế rồi. Anh ngồi giữa con phố, nhìn những gót chân thon đi ngược, nhìn những gót chân hồng đi xuôi, và anh í a tôi xin làm đá cuội và lăn theo gót hài. Anh lăn như thế nhiều lần với ám ảnh tử sinh. Sống chết là bánh xe lăn tròn, vô thủy vô chung. Trịnh Công Sơn không nói bánh xe, nhưng anh lăn theo những hòn sỏi, hòn đá, vốn là những hình ảnh quen thân của anh từ những bài hát đầu:
Hòn đá lăn bên đồi
hòn đá rớt xuống cành mai
Rụng cánh hoa mai gầy
chim chóc hót tiếng qua đời.
Trước đây, khi hát những bài hát đó, tôi không để ý đến ý niệm bánh xe, nhưng gần đây, Trịnh Công Sơn làm tôi ngạc nhiên khi anh đưa đối hợp có không, một hai, vào lời nhạc của anh một cách rõ rệt, thú vị, tinh quái. Anh khóc như thế này:
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Lối khóc rất ngộ này tóm tắt cách nhìn đời của Trịnh Công Sơn trong suốt nhạc phẩm của anh. Với một con mắt anh nhìn người. Với một con mắt anh nhìn anh. Một con mắt, anh nhìn tình phai. Một con mắt, anh nhìn anh thở dài. Nhưng cùng một con mắt kia, anh vừa nhìn thấy em yêu thương, vừa thấy em thú dữ. Cùng một con mắt này, anh vừa thấy đêm tối tăm, vừa thấy đêm nồng nàn. Chẳng biết mắt nào là mắt còn lại, chỉ biết rằng con mắt còn lại nhìn một thành hai. Chỉ biết rằng:
Con mắt còn lại nhìn đời là không
Nhìn em hư vô nhìn em bóng nắng
Con mắt còn lại là con mắt ai
Trịnh Công Sơn làm tôi giật mình. Bóng nắng là một chữ trong Kinh, và, như anh nói, từ khi trời là trời, trăng là trăng, câu kinh đã bước vào đời. Con mắt còn lại là con mắt ai? Tôi không muốn nghĩ như thế, nhưng tôi cảm thấy câu trả lời nằm trong đoạn kết của Đóa hoa vô thường mà anh đã soạn rất khúc chiết với nhập đề, thân bài, kết bài, với quá trình tìm em - gặp em - mất em - an nhiên.
Trịnh Công Sơn làm tôi giật mình. Anh bắt tôi phải hát lại những bài hát trước trong cảm nhận mới đó của tôi về chập chờn bóng nắng trong tâm thức của anh. Con mắt còn lại hiện ra, và đây là một mà hai:
Từ lúc đưa em về
Là biết xa nghìn trùng
Nghìn trùng nằm ngay nơi giây phút tao ngộ. Và đây là hai mà một:
Từ trăng thôi là nguyệt một hôm bỗng nghe ra
Buồn vui kia là một như quên trong nỗi nhớ
Từ trăng thôi là nguyệt tôi như giọt nắng ngoài kia
Từ em thôi là nguyệt coi như phút đó tình cờ
Buồn vui là một, quên nhớ là một, phút tình cờ chụp bắt được điều đó hiện ra đây đó khá nhiều, có điều là Trịnh Công Sơn hát lên nhẹ nhàng như thơ, người hát nghe giọng thơ nhiều hơn là nghe ý tưởng. Nếu để ý câu hát sâu thẳm. Lại ví dụ:
Lòng thật bình yên mà sao buồn thế
Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ
Thật bình yên. Mà buồn! Buồn nằm sẵn trong bình yên?
Nếu không tại sao anh khóc từ bao giờ? Anh khóc từ trước, rồi anh mới giật mình, trong một phút tình cờ thấy mình đang khóc. Ai không tin ở cái giật mình đó, hãy nghe Trịnh Công Sơn giật mình một lần thứ hai:
Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy
Giật mình tỉnh ra ồ nắng lên rồi
Thật lệ rơi. Mà không buồn? Giật mình: nắng lên. Thế thì nắng đã nằm sẵn trong giọt lệ? Là một với giọt lệ?
Tôi bắt gặp chớp nhoáng thần bí đó trong cả cách dùng tính từ của Trịnh Công Sơn: môi em hồng như lá hư không. Lá hư không là thế nào? Là môi em vừa có dáng như ngọn lá? Lá có màu vừa hồng vừa không phải hồng? Có một cái gì vừa thật vừa không thật? Nghĩ cho thật kỹ, đúng là môi em tôi như thế. Đúng như tôi nghĩ là như thế. Nói như ngọn lá, như màu hồng là sai.
Lại một tính từ khác trong rất nhiều ví dụ như vậy:
Nhìn cỏ cây ráng pha màu hồng
Nhìn lại em áo lụa thinh không
Ráng chiều có thật như sắp đi vào hư ảo rồi, chớp nhoáng thôi. Nhìn hư trong thực như thế, giật mình nhìn lại em tôi ôi thần kỳ hai chữ thinh không! Lụa nhẹ như khói đang tan, em cũng vậy, như thực như huyễn, chỉ còn là nét đẹp diễm ảo, mong manh đó thôi.
Tôi không muốn đóng khung Trịnh Công Sơn trong một triết thuyết nào cả. Anh tuyên bố chỉ muốn là kẻ rong chơi và chấp tay van vái chỉ xin được như thế mà thôi. Nhưng khi anh mất, tôi không khỏi nghĩ đến những mong manh đã ám ảnh anh những năm gần đây và tôi giật mình chợt thấy anh đã là thi sĩ của mong manh như vậy từ lúc đầu, từ bao giờ. Đây là đóa quỳnh của thuở xuân xanh:
Đêm này đêm buồn bã với những môi hôn
Trong vườn trăng vừa khép những đóa mong manh
Tại sao môi hôn mà buồn bã thế? Buồn nằm trong hạnh phúc? Là một với nhau? Nhưng quả thật đóa quỳnh đã hôn đêm trăng như thế. Hãy xem hoa nở:
Ta mang cho em một đóa quỳnh
Quỳnh thơm hay môi em thơm
Em mang cho ta một chút tình
Miệng cười khúc khích trên lưng
Hoa đang nở trên lưng một cuống lá dài như môi ai cười trên lưng một người tình. Nhưng cũng môi đó, mới cười với trăng đã hôn từ giã đêm trăng với những cánh đang khép, đang úa, buồn bã. Tôi giật mình: đóa quỳnh của thuở xuân xanh chính là đóa hoa vô thường nở trong tâm của anh ở khoảng cuối đời. Anh đi với đóa quỳnh, khép lại một chu kỳ vòng quanh. Anh là đêm trăng của ngày xưa đã hôn nhau buồn bã với đóa quỳnh mong manh và từ đó dòng nhạc của anh róc rách những mong manh như thế cho đến khi anh chợt nhận ra ta là đêm nở đóa hoa vô thường.
Còn lại chuyện cuối cùng phải nói: vậy thì tôi với em là một hay hai? Là một chăng? Thì đấy, Trịnh Công Sơn đã có lần hăng hái:
Em là tôi và tôi cũng là em
Chẳng ai tin. Người không tin nhất chính là anh. Đừng tin!
Đừng nghe tôi nói lời tăm tối
Đừng tin tôi nhé vì tiếng cười
Tôi như là người ngồi trong đêm dài
Nhìn tôi đang quá ngậm ngùi
Tôi với em không thể là một được bởi vì em là muộn phiền và muộn phiền thì đối nghịch với hồn nhiên mà tôi mơ ước. Hồn nhiên lấp lánh như mặt trời trong lắm bài. Trịnh Công Sơn mơ ước trở về với hồn nhiên như trở về với bản chất của anh, như trở về với con chim thuở nhỏ, với hoa trên đồng xanh một sớm mai rất hồng. Anh muốn trở về với thật thà, với khờ dại, với ngây ngô, anh ngẩn ngơ nhìn người kia, dường như chờ đợi thật ra đang ngồi thảnh thơi, anh nhìn đứa bé. Đứa bé! Đó mới thật là một của Trịnh Công Sơn, bởi vì đó là hồn nhiên, đó là cội nguồn, đó là quê nhà nằm sâu trong tiềm thức của anh. Hồn nhiên có khi trở về lồng lộng trong cả bài hát như cánh diều lồng lộng trong không, có khi âm thầm, văng vẳng, thiết tha, sâu lắng trong một câu, trong một chữ. Những lúc đó, Trịnh Công Sơn hân hoan:
Hôm nay tôi nghe có con chim
Về gọi giữa trời về hót giữa đời tôi
Hôm nay tôi nghe tôi cười như đứa bé
Mới lớn lên giữa đời sống kia.
Trịnh Công Sơn là người thi sĩ duy nhất của tình yêu không cho chữ em đi sóng đôi một cặp ngọt ngào với chữ anh. Chữ em mồ côi chữ anh. Chữ em mù lòa đi tìm chữ anh. Gặp một hai lần trong một hai bài hát đầu, nhưng nhạt nhẽo, vô duyên lắm. Còn thì Trịnh Công Sơn chỉ tôi với em, em với ta, như thử hai người yêu là hai người ở trọ gần nhau.
Có lẽ vì thế mà tôi hát Trịnh Công Sơn với hạnh phúc tràn trề. Bởi vì tôi hát sự thực trong lòng tôi, trong lòng người, trong lòng đời. Có bao giờ ai một với ai trong cuộc tình? Cứ xa xa mà tôi khiêm tốn như thế, họa may tưởng mình có lúc đến gần làm một. Như thế là hạnh phúc. Đến gần, giọt nắng thủy tinh có khi là giọt lệ.
MỘT CÁI NHÌN VỀ CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN Trần Hữu Thục
Một người bạn giáo sư âm nhạc, khi chỉ tôi về cách sáng tác ca khúc, nhắc nhở: "Ông viết sao đó thì viết, nhưng nhớ là đừng có bị "lai Phạm Duy và Trịnh Công Sơn”. Tôi hứa cố gắng. Bắt chước nhạc Phạm Duy thì không được rồi. Giống nhạc của ông phong phú, đa dạng quá, vừa sáng tạo lại vừa chuyên môn và thay đổi theo từng loại ca khúc, theo nội dung và đề tài, chẳng cái nào giống cái nào. Thiền ca không giống tâm ca, khác xa tục ca, lại chẳng quan hệ chút nào đến tình ca và những ca khúc yêu nước. Riêng Trịnh Công Sơn thì thật là khó thoát. Tôi đã thử loay hoay "sáng tác” nhiều đoạn, nhiều bài, nhưng xong rồi nghe lại (và nhờ bạn bè nghe lại) thì chúng cứ "lai lai" Trịnh Công Sơn thế nào ấy. Nhẹ nhẹ. Buồn buồn. Đều đều. Nghe cứ phảng phất, nếu không Diễm xưa, Tuổi đá buồn thì cũng Gọi tên bốn mùa, Hạ trắng... Sửa đi, sửa lại, cố thay đổi. Vẫn cứ thế. Vẫn nặng "mùi” Trịnh Công Sơn. Tức quá, tôi tìm cách viết theo một thể điệu khác hẳn, thay vì "gam" Mi thứ, La thứ, tôi chọn Đô trưởng chẳng hạn. Nghe có hơi khác Trịnh Công Sơn. Mừng tưởng thoát. Nhưng đến khi đặt lời thì ôi thôi, những rong rêu, cát bụi, phố xưa, ngậm ngùi, muộn phiền, hư vô, ngày tháng, trăm năm, hư hao, nỗi nhớ... chúng cứ ào vào. Rốt cuộc, thoát được nhạc thì "bị" lời. Đặt lời khác thì lại không được, vì cái "tạng” mình nó vậy, làm sao bây giờ. Thế thì thôi, hát Trịnh Công Sơn đi cho nó khỏe. Đành bỏ mộng.
Tại sao vậy? Lý do khá đơn giản: nhạc của anh rất giản dị, không có gì chuyên môn cầu kỳ. Cũng như Trịnh Công Sơn, tôi thích mấy "gam" bình thường như La thứ, Mi thứ. Thích nhịp điệu buồn buồn, trầm trầm và nhiều chất diễn tả như blue (2/4), boston (3/4) và cách chuyển “gam" rất bài bản và dễ. Coi lại những bản nhạc Trịnh Công Sơn, tôi nhận thấy hầu hết những bản nhạc nổi tiếng của anh, những bản nhạc nhiều người ưa thích đều “rơi" vào hai “gam" La thứ (nếu không thì La trưởng, hoặc La thứ trưởng) và Mi thứ (hoặc Mi trưởng). Này nhé:
La thứ: Biển nhớ, Gọi tên bốn mùa, Cát bụi, Chiếc lá thu phai, Cúi xuống thật gần, Đêm thấy ta là thác đổ, Hạ trắng, Lời buồn thánh, Một ngày như mọi ngày, Phôi pha, Ru ta ngậm ngùi, Tình xa, Ướt mi, Em đi bỏ mặc con đường, Những giọt máu trổ bông, Nối vòng tay lớn, Dân ta vẫn sống...
La trưởng: Nắng thủy tinh, Nhìn những mùa thu đi, Quỳnh hương, Tuổi đá buồn...
Mi thứ: Còn thời nào cho em, Diễm xưa, Em còn nhớ hay em đã quên, Hoa vàng mấy độ, Thương một người, Ta đã thấy gì trong đêm nay.
Mi trưởng: Nguyệt ca.
Hai "gam" La và Mi là hai "gam" dễ hát, dễ đàn, rất thích hợp với nhạc Trịnh Công Sơn. Chỉ cần một chút kiến thức âm nhạc và một chút thói quen là có thể "chơi" nhạc anh dễ dàng. Đây là một kinh nghiệm thuần cá nhân và cảm tính. Tôi có thể nói, dường như hai âm giai đó tự nó đã mang cái chất Trịnh Công Sơn (hoặc là vì anh đã mang cái chất của anh vào hai "gam" đó).
Phạm Duy nhận xét: "... toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại” .
Văn Cao nhận xét: “Trongâm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra".
Một người khác, Phạm Văn Tuấn nhận xét: "Đứng trên khía cạnh lý thuyết nhạc, nhạc của Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, phần lớn những bài hát đều được viết theo thể điệu chậm (slow), boston hay nhanh lắm là điệu fox. Suốt hơn 40 năm sáng tác, Trịnh Công Sơn không khai phá gì thêm ngoài những giai điệu đơn giản đó".
Những nhận xét trên cùng với kinh nghiệm nhỏ nhoi của riêng mình cho tôi thấy, chỉ với nhạc không, ta sẽ chỉ có một Trịnh Công Sơn nhạc sĩ bình thường, không mang cái hơi hướng đặc biệt Trịnh Công Sơn như ta biết hiện nay, không trở thành một hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử ca nhạc và cả trong lãnh vực văn học hiện nay. Vậy thì sao lại là nhạc Trịnh Công Sơn?
Một nghịch lý: Nhạc Trịnh Công Sơn hay là nhờ ở ngôn ngừ Trịnh Công Sơn. Nếu không thích hát, ta có thể giở bất cứ một bài hát nào của Trịnh Công Sơn và đọc, y như đọc thơ. Ta sẽ thưởng thức các ca từ đó như bài thơ. Và thế cũng đủ. Nhưng một câu hỏi khác đặt ra: ở Việt Nam, trước 1975 cũng như sau này, đâu có thiếu những bài thơ hay (hay bằng hoặc hay hơn Trịnh Công Sơn) của những nhà thơ tài hoa khác. Tại sao chúng không nổi tiếng bằng Trịnh CôngSơn. Thơ Tô Thùy Yên chẳng hạn. Điều đó dẫn đến một nghịch lý thứ hai: thơ Trịnh Công Sơn hay là vì chúng được biến thành âm thanh, thành nhạc và phổ biến rộng khắp. Chúng ta biết, nhiều bài thơ đã trở thành hay, thành phổ biến và được công chúng đón nhận là nhờ được phổ nhạc, nghĩa là biến thành âm thanh. Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, Du Tử Lê chẳng hạn. Ngôn ngừ trong nhạc Trịnh Công Sơn là những bài thơ. Y như bất cứ một bài thơ nào khác. Có điều chúng tự biến thành âm thanh cùng lúc sáng tác (Văn Cao gọi Trịnh Công Sơn là Người Thơ Ca).
Mặt khác, qua một số lượng khá lớn bài hát, ngoài việc tạo các cấu trúc khá cân đối, ta nhận thấy Trịnh Công Sơn có vẻ chú ý nhiều đến cách hợp vần. Như ta biết, khi sáng tác nhạc, nhạc sĩ nào cũng tìm lời có vần, rất cần thiết để tạo âm thanh thích hợp trong dòng nhạc. Trịnh Công Sơn, cũng như Phạm Duy, dụng công rất nhiều trong việc tạo vần, nhất là cho những từ cuối mỗi câu nhạc. Và cũng như Phạm Duy, lối hợp vần của anh khá đa dạng, do đó, tạo nên những nét nhạc lạ, nhiều khi rất bất ngờ:
Để một mai tôi về làm cát bụi, 
ôi cát bụi mệt nhoài...
Đi lên non cao đi về biển rộng, 
đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng.
Tình ta như núi rừng cúi đầu, ôi tiếng buồn rơi đều.
Ru em hài nhung gấm, ru em gót sen hồng
Ru bay tà áo rộng, vừa tình tôi chắp cánh
Bốn câu cuối, khi hát lên, mấy chữ gấm, hồng, rộng, cánh đều có vẻ "vần" với nhau. Như thế, khác với thơ để đọc, thơ để ca có thể "vần" thanh trắc và thanh bằng vào với nhau một cách thoải mái. Nhờ khai thác được quan hệ giữa lời và âm, nên anh dễ tìm ra vần. Cách khai thác vần này khiến các bài ca đâm ra dễ nghe, suôn sẻ, phong phú. Đồng thời, do đi với nhạc, nên những vần “lai lai", khi hát lên nghe vẫn thuận y như là vần thật. Thậm chí vần "lai lai" nghe còn thú hơn là vần quá thuận. Trong ca từ Trịnh Công Sơn, ta thấy anh "vần" những chữ như nhỏ - nọ - lạ - cỏ - do - giờ - đổ chợ - thơ - lửa. .. hoặc thơm - tình - xanh - nhiên - yên - mình - tên - quên - mòn - điên - câm - đông - màng. Nhiều bản nhạc của anh chỉ có vài vần. Có bản, do chọn chữ và cấu tạo âm, ta nghe dường như chỉ có một vần độc nhất từ đầu đến cuối. Một số ca khúc nổi tiếng của anh có thể gọi là "ca khúc vần“, vần gần vần xa, vần trắc vần với vần bằng ngược lại. Có những bài, người ta “hát vần" chứ không "hát ý”. Hồi trước, tôi đã nhiều lần cười thầm một mình khi đi ngang qua một xóm nghèo, chợt nghe một cô gái ăn mặc lam lũ vừa bồng em vừa cất tiếng hát: "Gọi nắng, trên vai em gầy đường xa áo bay..." lẫn với "Đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn...".
Trịnh Công Sơn tự nhận xét: "Ca khúc đối với tôi là một mô hình gần gũi, thiết thân và hoàn chỉnh. Nó là một cuộc hôn phối kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc". Vâng, hôn phối giữa thi ca và âm nhạc. Đó là một lẽ. Theo tôi, nó còn là một cuộc hôn phối khác, hôn phối giữa Trịnh Công Sơn và thời đại của anh (và chúng tôi)... Ca từ của Trịnh Công Sơn là một hôn phối giữa nhiều "nỗi" khác nhau: nỗi tuyệt vọng nhân sinh, nỗi phẫn nộ về chiến tranh, nỗi mơ ước về hòa bình, nỗi băn khoăn siêu hình, nỗi vui về tình yêu, đoàn tụ, gặp gỡ và nỗi buồn thăm thẳm của thân phận con người. Có lẽ vì thế mà dù thỉnh thoảng anh có “dao to búa lớn” la to những là hãy thế này, thế kia, cũng chỉ là "bốc đồng". Anh rên rỉ, than thở và chỉ muốn ru: ru tình, ru đời, ru đêm, ru tình, ru em... Rốt cuộc, anh chẳng bao giờ có thể là chiến sĩ, mà chỉ là một nghệ sĩ.
Trong sự nghiệp sáng tác của Trịnh Công Sơn, ta thấy có hai dòng nhạc tách nhau rất rõ: dòng nhạc nói về chiến tranh và hoà bình và dòng nhạc nói về tình yêu, thân phận. Hai dòng nhạc khác nhau về nội dung đã đành, mà nghệ thuật diễn đạt, cách kết cấu ca từ cũng như nhịp điệu và âm thanh hoàn toàn khác. Nói chung, trong hầu hết những bài hát viết về chiến tranh và hòa bình, anh viết bằng một lối viết rất hiện thực, kể cả khi mô tả những giấc mơ, những ước vọng. Hiện thực kinh khiếp đó được mô tả bằng chủ nghĩa sống động và đầy hình ảnh: trái tim rơi theo đại bác, thịt người cho thú nhai ngon, thịt xương đã phơi đồng xanh, đại bác đêm đêm dội về thành phố...
Anh sử dụng những chi tiết cụ thể, có thể nghe, nhìn, đồng thời nâng chúng cao hơn, phóng lớn, mở rộng nghĩa. Hiện thực anh bắt gặp và ví von bất ngờ quá khiến ta đôi khi thảng thốt: mộ bia đều như nấm, chết thật tình cờ, chết chẳng hẹn hò nằm chết như mơ... Trừ một số ít bài sử dụng ẩn dụ, còn lại thì ca từ rất "văn phạm", nghĩa là có ý nghĩa cụ thể vì cấu trúc câu giản dị, dễ hiểu. Anh muốn gửi một thông điệp rõ ràng đến người hát và người nghe.
Mọi sự hoàn toàn khác hẳn khi ta bước vào tình ca và thân phận ca mà tôi gọi chung là nhân sinh ca. Tất cả bắt đầu chông chênh ở biên giới của chủ nghĩa, ý tưởng, bởi vì có một sự pha trộn đặc biệt giữa nhiều hình ảnh và ý tưởng cũng như các ẩn dụ. Bửu ý nhận xét: "... ta còn chứng kiến một công cuộc thể nghiệm của tiếng Việt trên những chặng đường mới của ngôn ngữ với những kết hợp từ ngữ tài hoa, những góc độ thu hình lạ lẫm, những tri giác dày dặn nhiều tầng, đồng thời làm sáng giá những sự vật thông thường và tầm thường, khả năng tưởng tượng bay bổng".
Trước hết, ngôn ngữ ở đây là một thứ ngôn ngữ buồn và day dứt. Anh tận dụng, và trong một số trường hợp có vẻ như lạm dụng thứ ngôn ngữ đó. Đúng ra thì chúng được lặp đi lặp lại nhiều lần trong nhiều bài khác nhau. Điều này cũng dễ hiểu, vì nhiều bài hát, anh sống cùng một thứ cảm thức: cô đơn. Ta nhiều lần bắt gặp những từ và cụm từ như: quạnh hiu, lênh đênh, trăm năm, dòng sông, gian nan, ăn năn, ngậm ngùi, hoang mang, hoang phế, mỏi mòn, hư hao, mệt nhoài, buồn tênh, rong rêu, đời, chơi, vui, cuộc tình, vai gầy, gầy guộc, buồn phiền, ưu phiền, cội nguồn... Nhiều cụm từ có chữ đá: đá buồn, sỏi đá, đá cuội, bia đá, cồn đá.
Một số từ trong triết học Phật giáo: vô thường, tiền kiếp, từ bi, cõi tạm, hư không... Tất nhiên, những từ trên không có gì là lạ trong ngôn ngữ Việt và nhiều người đã dùng. Nhưng ở đây, cái lạ là cách kết hợp thành những cụm từ và cách sử dụng các từ đó trong các đơn vị câu để tạo nên những hình ảnh, biểu tượng với ý nghĩa từ mới đến hoàn toàn mới và rất nhiều khi tạo nên những hiệu ứng đặc biệt về mặt âm thanh; tuổi/ đá/ buồn, cồn/ đá, môi/ hờn, bàn tay xanh xao/ đón/ ưu phiền, nắng/ khuya, mặt trời/ ngủ yên, hạt/ từ tâm.
So với những ca từ viết về chiến tranh, sự khác biệt rất rõ nét. “Xác người năm trôi sông" thì ta hiểu ngay, nhưng “tuổi đá buồn" chử nghĩa nghe kỳ quặc, lạ hoắc và vô nghĩa.
Một bên thì "mặt trời sáng trên quê hương" một bên thì “nắng khuya". Hoặc "dài tay em mấy..." Gì vậy? Có phải là “có mấy thuở tay em dài và mắt em xanh xao"? Mà nếu thế thì là gì? Nothing. Ấy thế mà ta cứ hát và cái lạ là hình như nó vẫn có nghĩa. Cứ hát. Và rồi nó có nghĩa thật! Thực ra thì anh dùng cách kết hợp các từ ngừ xuất phát từ những ý tưởng khác xa nhau. Thay vì phải giải thích dài dòng, anh cột chúng lại, buộc chúng phải ở với nhau: tuổi (tuổi đời, tuổi em, tuổi xuân, tuổi ngọc, lứa tuổi...) + đá (đá cuội, đá sỏi, bia đá, cứng như đá, vô tình như đá, lạnh như đá...) + buồn. Tóm lại chỉ để diễn tả nỗi buồn sâu lắng của một thời tuổi trẻ.
Hãy nghe Trịnh Công Sơn giải thích về bài Diễm xưa: “Nhưng thật sự, thật và mơ là gì? Thật ra, nói cho cùng, cái này chỉ là ảo ảnh của điều kia"... “Thời gian trôi đi ở đây lặng lẽ quá. Lặng lẽ đến độ người không còn cảm giác về thời gian"... "Trong không gian tĩnh mịch và mơ màng đó, thêm chìm đắm vào một khí hậu loáng thoáng liêu trai, người con gái ấy vẫn đi qua đều đặn mỗi ngày dưới hai hàng cây long não để đến trường. Đi đến trường mà đôi lúc dường như đi đến một nơi vô định".
Phải mẫn cảm lắm mới nhận ra điều gọi là "đi đến trường" mà như "đến một nơi vô định" như thế. Đúng ra, tôi nghĩ, cô gái biết rõ mình đi đến đâu, chỉ có kẻ ngồi ngóng “những chuyến mưa qua" mới là... vô định. Và suốt đời, đây đó, anh ta luôn luôn vô định. Để diễn tả cái hình ảnh và cái cảm giác vô định đó, anh tạo ra một thứ ngôn ngữ mới lạ không hệ lụy vào những ý nghĩa bình thường có sẵn ta vẫn quy cho chúng. Ngôn ngữ ở đây có tính tạo hình, tạo âm và trong chừng mực nào đó, là một thứ ngôn ngừ "vô ngôn". Ca từ chỉ còn là sự ghép những hình ảnh, ý, chữ chợt bắt gặp, chợt rơi vào trí tưởng. Nói một cách khác, không nhất thiết phải dán cho chúng những ý nghĩa cụ thể nhất định nào. Cứ để chúng tan vào âm thanh, trôi tuột giữa chữ và chữ với nhau. Chữ cuốn theo chử. Âm cuốn theo âm. Hình cuốn theo hình. Khi nghe câu hát "mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ, dài tay em mấy thuở mắt xanh xao", tôi nghĩ đến một bức tranh siêu thực: hình ảnh của một cô gái nằm vắt ngang giữa rừng cây mưa, giữa đền đài lăng miếu cũ buồn tênh, tay dài ngoẵng và mắt thì sâu thẳm. Buồn! Bất tuyệt buồn? Có phải anh đã vẽ trong khi làm thơ và sáng tác ca khúc! Hát Tuổi đá buồn hay Ru em từng ngón xuân nồng cũng thế, tôi vẫn thường hình dung những chi tiết nào đó của một bức tranh: một đôi mắt, một vệt màu, vài nét chấm phá vu vơ, một lối đi hoang vắng hun hút dài, những sợi mưa mà như không mưa, mái tóc dài tung bay lòa xòa dưới bầu trời xám đục ... Và tưởng tượng đến một bức tranh khiến tôi thâm cảm được thêm chất liệu ẩn dấu đằng sau ngôn ngữ của anh, từ "gót chân trần em quên em quên" cho đến “tóc em như trời xưa đã qua đi ngàn năm..." Cái chất "vô ngôn" (tiến đến phá ngôn) của Trịnh Công Sơn đạt đến đỉnh cao trong Dấu chân địa đàng, Vết lăn trầm. Những là "Loài sâu ngủ quên trong tóc chiều", “bài ca dạ lan như ngại ngùng", loài sâu hát lên từ vào trong đá xưa, tóc xanh vầng trán thơ, loài rong rêu ngủ yên. Trừu tượng hơn: hằn trên phiến đá nâu thêm ưu phiền, bồn gió hoang, chờ ta da du một chuyến, bài ca dao trên cồn đá. Toàn là những cụm từ kết hợp vô định, tình cờ, hình ảnh loải choải, nhảy vọt bất ngờ, thậm chí có vẻ ngây ngô, vô nghĩa y như một kẻ ưa làm dáng chữ nghĩa. Đã thế, không giống như những bài khác về sau, nhạc ở đấy ngúc ngắc, thiếu hẳn cái nét trơn tru mềm mại của dòng nhạc “chính thống" Trịnh Công Sơn. Lối viết nhạc và lời kiểu này khá hiếm trong toàn bộ nhạc Trịnh Công Sơn. Chúng được sáng tác trong thời kỳ đầu và không hề thấy xuất hiện về sau này. Có lẽ vì anh hết cảm hứng hay vì nó khó khiến đến với công chúng, nói chung?
Ngôn ngữ ở những bản nhạc này không đóng chức năng bình thường của ngôn ngữ là tạo nghĩa và tạo ý. Y như trong hội họa hiện đại, chúng chẳng khác gì một loại tranh “cắt dán" (collage). Trong thực tế, theo như cảm nhận riêng của tôi, hai bài ca trên là nỗi khắc khoải có tính chất siêu hình của Trịnh Công Sơn. Đó là một khắc khoải không chỉ về thân phận, mà về cái tuyệt đối, về một thời hồng hoang đã mất, về một chới với trong cõi vô biên, từa tựa Trần Tử Ngang:
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả.
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ.
Khắc khoải của Trần Tử Ngang có tính trực giác, còn khắc khoải của Trịnh Công Sơn lại nhuốm màu duy lý. Có thể nói đó là một khát khao bất tuyệt về một thiên đàng, không phải đã mất, mà không hề có. Nhiều lần, hát Vết lăn trầm, đến chỗ bài ca dao trên cồn đá..., âm thanh vút cao lên, khiến lòng chợt chới với, hụt hẫng, đau đáu một nỗi đau mênh mang khó tả!
Phải thừa nhận rằng, cách cấu tạo ngôn ngữ Trịnh Công Sơn tài hoa, táo bạo và lạ. Trong quá trình tạo vần cho phù hợp với âm và với nét nhạc, anh "bật" ra những tứ, những ý, những hình ảnh và ngôn ngữ hết sức bất ngờ, mới lạ đôi khi khiến ta sửng sốt y như chúng từ trên trời rớt xuống. Đọc hoặc hát và nghe hát đi hát lại hàng bao nhiêu lần mà cảm giác sửng sốt và mới lạ vẫn còn tươi rói y như mới nghe lần đầu.
Lùa nắng cho buồn vào tóc em
Nhật nguyệt trên cao, ta ngồi dưới thấp
Một đường cong queo, nắng vàng đột ngột
Lòng tôi có đôi khi tựa bông hoa vừa mọc hân hoan giây xuống thế
Chợt nắng long lanh chợt nắng thưa
Tặng hết cho tôi một phố chờ.
Còn nhiều. Ngoài nhiều từ lặp đi lặp lại, hầu như bài nào cũng có những ý, những chữ hoặc những tứ thật bất ngờ, và lạ như thế. Mặc dù ý cũ, rất cũ nữa là khác hoặc là cùng một ý anh lặp đi lặp lại qua nhiều bài hát khác nhau. Cũng là mô tả sự cô đơn, mất mát, sự xao xuyến trước cuộc lữ, sự bất lực của con người trước thời gian, ám ảnh triền miên về cái chết. Chữ nghĩa anh dùng cho ta những hình ảnh mới. Thậm chí, mới toanh. Chữ nghĩa trông dễ dàng đối với anh y như chúng nằm sẵn đâu đó chỉ đợi có cơ hội là tuôn ra. Vừa lạ, vừa thú vị. Này nhé, hãy nghe anh viết: “Xin đứng yên trong chiều - Treo tình trên chiếc đinh không". Chữ nghĩa dùng thì có khác nhưng rõ ràng là ý tứ chưa có gì mới lạ, hình ảnh bình thường. Bỗng nhiên tiếp theo đó:
Gập ghềnh nhiều kiếp lưu vong, ta lăn đời đã quá
Đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng
Nghe đã thật! Còn nữa. Này nhé, ta đang nghe: Ru trên đường em đến xôn xao từng tiếng chim.
Ru em là cánh nhạn.
Bỗng, anh hạ bút:
Miệng ngọt hạt từ tâm
Hoặc là: 
Vườn khuya đóa hoa nào mới nở. 
Đời tôi có ai vừa qua.
Bỗng:
Nhiều khi thấy trăm nghìn nấm mộ
Tôi nghĩ quanh đây hồ như
Ô hay! Sao hai chữ "hồ như" lại rơi vào đây? Chữ “trông như" chẳng có nghĩa gì ráo, mà làm sao nó khiến cho lòng mình bề bộn thế này? Bốn câu vừa trích là từ bản nhạc Đêm thấy ta là thác đổ, một trong những bài hát rất hay của Trịnh Công Sơn. Bản nhạc điệu "blues" nhẹ, gam La thứ là gam ruột của chất nhạc Trịnh Công Sơn. Nếu tách hẳn ra thì là một bài thơ hoàn chỉnh mà ông Hoàng Ngọc Hiến cho là bài thơ hay nhất thế kỷ!
Ngoài ra, như trên đã đề cập, một đặc điểm khác rất dễ nhận thấy và hầu như chủ yếu trong ca từ Trịnh Công Sơn: tính chất “vần". Nhờ vần, ca từ trơn tru, êm đềm từ đầu đến cuối bản nhạc, nghe như một tiếng thở dài nho nhỏ với nhiều hình ảnh đan xen lẫn nhau. Có cái liên hệ, có cái đứt đoạn. Tôi chợt “ngộ" một điều: những từ ngừ và hình ảnh mới thường nằm ở cuối đoạn nhạc hoặc ở cuối câu. Và cuối câu thì phải “vần", hoặc với từ cuối câu kế hoặc với từ cuối câu trước đó. Chính đòi hỏi đó làm “bật" ra những từ ngữ và hình ảnh mới. Ở đây, ta thấy, nhờ âm mà anh đã tạo ra lời, âm thanh là "tiềm năng" của lời.
Phải chăng đó là một trong những bí quyết trong việc sáng tạo ra ca từ độc đáo của Trịnh Công Sơn.
TRỊNH CÔNG SƠN TIẾNG HÁT HÒA BÌNH Đặng Tiến
Trong một buổi tọa đàm về bộ truyện Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác, nhà văn Nhật Tiến đã phát biểu ngoài đề: “Nói về tác phẩm văn nghệ mà ảnh hưởng rõ nét nhất, tôi nghĩ có lẽ mình chỉ có nhạc Trịnh Công Sơn, nó gây cái tâm lý phản chiến".
Dùng chữ nhạc phản chiến, theo kiểu anti-guerre, antiwar, là nói cho gọn, và đã có người phản bác, cho rằng mông lung, vì người nghệ sĩ chân chính nào mà không chống chiến tranh? Ngoài ra, những ca khúc Trịnh Công Sơn tố cáo chiến tranh, gào gọi hoà bình còn bày tỏ khát vọng thống nhất đất nước, tình tự dân tộc, tình yêu nhân loại, niềm tin vào cuộc đời, tình người và hạnh phúc lứa đôi. Những tình cảm này đan quyện vào nhau. Hơn nữa một số nhạc tính thuần tuý, nội dung không quan hệ gì đến chiến tranh, khi nghe trong đám đông, cũng tạo nên một cảm giác thời thế, từ một thời phản chiến.
Vì vậy, gọi là nhạc “phản chiến" là nói tắt, trong điều kiện bất túc của ngôn ngữ. Gọi cách khác, là ca khúc tranh đấu cho hoà bình, tuy dài dòng mà vẫn không đủ ý...
Nói chung, những ca khúc “phản chiến" của Trịnh Công Sơn gia tăng số lượng và cường độ dài theo cuộc chiến, đồng thời cũng chuyển mình theo từng giai đoạn ngắn của thời cuộc thập niên 1963 - 1973. Nhưng là tiếng nói tự phát, phản ứng tự nhiên của một cá nhân, một công dân không thuộc đảng phái hay tổ chức chính trị nào. Đây là điều kỳ lạ trong hoàn cảnh chính trị thời đó và chính nó đã tạo ra hào quang của Trịnh Công Sơn: người ta hát, và yêu Trịnh Công Sơn, tạo ra hiện tượng Trịnh Công Sơn, một là vì ca khúc của anh đáp ứng lại những khát vọng của thời đại, hai là người nghe, trực cảm rằng những lời ca ấy không mang một ý đồ chính trị nào. “Trong dòng nhạc phản chiến của mình, Trịnh Công Sơn đã chẳng có toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả làm theo mệnh lệnh của con tim mình (...). Trái tim nhân ái, nhạy cảm, chỉ biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương, dân tộc, dù thiếu vắng một thái độ chính trị nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình thì mình nói" (Bửu Chỉ).
Có lẽ những suy nghĩ về dân tộc, đất nước, số phận con người trong chiến tranh đã manh nha từ lâu ở Trịnh Công Sơn, và được khơi động từ những biến cố tại Huế và miền Trung năm 63, mà bạn bè anh đã tham gia tích cực và sôi nổi. Bản thân Trịnh Công Sơn không dự cuộc trực tiếp, nhưng khó có thể nói là không dao động. Sau những bản nhạc tình đã nổi tiếng, thì 1964, Trịnh Công Sơn đưa vào Lời mẹ ru một vài âm hưởng xót xa, báo hiệu cho những ru khúc đau thương về sau:
Lời mẹ ru con nghe ra nỗi niềm
Đời mẹ ru con mây kia cũng buồn
Con ngủ trên mây
Tiếng khóc ban đầu còn đau, còn đau
Ru con khôn lớn... Con Rồng cháu Tiên
Một đời ru con, nên mắt ưu phiền
Lối hát ru Việt Nam, như ru con Nam Bộ, thỉnh thoảng cũng có câu thắt thẻo ruột gan, nhưng ít khi diễn tả buồn đau trong thân phận làm người như ở Trịnh Công Sơn, càng về sau càng da diết.
Vết lăn trầm, 1965, là một ca khúc đậm đặc phong cách Trịnh Công Sơn, đau thương và huyền bí:
Vết lăn và lăn trầm
Hằn lên phiến đá nâu thêm ưu phiền
Như có lần chim muông hằn dấu chân
Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà
Người chợt nhớ mình như đá
Đá lăn vết lăn trầm
Từ cơn đau ấy lưu thân mỏi mòn
Ôi mắt thấm van xin lời thánh đêm
Bài ca dao trên cồn đá
Trên ngai vàng quê nhà...
Ca từ rệu rã, u hoài, xa vắng, nhưng cô đọng cả tâm giới Trịnh Công Sơn, lúc ấy và về sau. Về sau, sẽ có hằng vạn chuyến xe claymore lựu đạn, hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng, cũng chỉ là âm vang lăn trầm vết đá. Hoàng Phủ Ngọc Tường, bạn thân Trịnh Công Sơn đã tinh ý nhận xét:
“Vết lăn trầm bắt đầu tiếp cận nỗi bất hạnh của một tuổi trẻ bị cuốn hút vào cơn lốc của chinh chiến, và đây là bài hát mở đầu nội dung phản chiến của nhạc Trịnh Công Sơn" .
Chọn 1965 làm thời điểm cho nhạc thời thế Trịnh Công Sơn, còn có những lý do khác: đó là cao điểm của chiến tranh Việt Nam, thời của những Người chết trận Đồng Xoài, Pleime... thời người Mỹ đổ bộ lên Miền Nam, bắt đầu ném bom miền Bắc. Cũng là cao trào tranh đấu miền Trung trước khi bị dập tắt vào năm 1966.
Thời đó, ca khúc Trịnh Công Sơn, nhạc tình và nhạc tranh đấu, được in ronéo, chuyền tay. Năm 1966, nhà xuất bản An Tiêm xuất bản tập Ca khúc Trịnh Công Sơn, Thần thoại quê hương, Tình yêu và Thân phận, 12 bài, ngoài Tuổi đá buồn làm từ 1961, những bài khác làm vào 1965 - 1966, đều mang nội dung: thân phận trong chiến tranh.
Cuối năm 1966 và sang 1967, Trịnh Công Sơn đã sáng tác một loạt ca khúc chống chiến tranh nổi tiếng: Người con gái Việt Nam da vàng, Đại bác ru đêm, Tình ca của người mất trí,... Tác giả tự ấn hành lấy, do đó không ghi năm xuất bản, thành tập Ca khúc da vàng. Về sau, sau Mậu Thân, 1968, anh thêm 2 bài: Hát trên những xác người và Bài ca dành cho những xác người, ghi là Ca khúc da vàng 2, dự tính in trong tập Kinh Việt Nam, tự xuất bản 1968. Những bản in về sau, không thấy 2 bài này. Vậy ta có thể xem Ca khúc da vàng gồm 12 hay 14 bài, tuỳ phương pháp.
Tập Kinh Việt Nam mở đầu bằng lời tựa, tác giả bày tỏ khát vọng hoà bình, viết 1968, có lẽ sau Mậu Thân và tin tức về hoà hội Paris; tập nhạc gồm 12 bài, bắt đầu bằng Dân ta phải sống và khép lại với Nối vòng tay lớn.
Trong một tiểu luận Cao học đệ trình tại Đại học Paris 7, 1991, Michico Yoshi, cũng là bạn, được Trịnh Công Sơn giúp đỡ và hướng dẫn, đếm được 69 bài phản chiến. Trên tổng số 136 bài làm từ 1959 - 1972 mà cô ấy sưu tầm được, tỷ lệ là 51%. Nếu chỉ tính từ 1965 đến 1972, tỷ lệ còn cao hơn nữa. Nghĩa là trong một thời gian dài thời gian sáng tác khoẻ nhất, rung cảm chính của Trịnh Công Sơn là thời thế. Và ngược lại, chính những ca khúc kêu gọi hoà bình đã làm nên danh tiếng Trịnh Công Sơn, đã tạo nên huyền thoại Trịnh Công Sơn, trong một thời điểm nhất định của miền Nam Việt Nam vào những năm 1966 - 1972.
Tính phản chiến của nhạc anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất. Nếu chỉ làm nhạc tình, thì Trịnh Công Sơn sẽ là Lê Uyên Phương hay Từ Công Phụng; nếu chỉ làm nhạc đấu tranh, Trịnh Công Sơn sẽ là Nguyễn Đức Quang hay Tôn Thất Lập; nếu pha pha tình yêu và thân phận,
Trịnh Công Sơn sẽ là Vũ Thành An. Nếu chỉ phản chiến, e chỉ hơn Nguyễn Văn Đông.
Nhưng Trịnh Công Sơn đã tổng hợp một thời đại và xây dựng được một sự nghiệp riêng, gắn bó với vận mệnh đất nước.
Rào nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn vào một ấp chiến lược, là không sát với thực tế xã hội. Trong thời gian 1967 - 1972, Sơn sáng tác khoảng 70 bài hát kêu gọi hoà bình, và khoảng một nửa được phổ biến rộng rãi. Nhưng những ca khúc thuần tuý thế sự đó đã được kết hợp với hàng trăm tình khúc khác, cùng phong cách, trong một hoàn cảnh xã hội và chính trị đặc biệt, đến với quần chúng thanh niên cùng tâm trạng...
Nghệ thuật Trịnh Công Sơn xét trong toàn bộ, nội dung, hình thức chủ đề, thể loại, hội với những điều kiện khách quan chính trị, xã hội, kinh tế, đã tạo danh tiếng Trịnh Công Sơn trong một thời gian kỉ lục, như Phạm Duy đã nhắc: “Tình khúc Trịnh Công Sơn ra đời, từ giàn phóng là Quán Văn được hoả tiễn Khánh Ly đưa vút vào trong phòng trà, rồi vào băng casette và chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chinh phục được tất cả người nghe. So sánh với những tình khúc ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn rất mới".
Sở dĩ đi nhanh như thế vì nhạc tình yêu đã kết hợp với nhạc đấu tranh, được hát trực tiếp, hát cộng đồng. Tác giả hoà nhập vào quần chúng rồi trở thành một hiện tượng phút chốc thành thần tượng.
Hiện tượng Trịnh Công Sơn cũng đã thành hình qua vài yếu tố phụ: dáng người mảnh khảnh, nho nhã, bạch diện thư sinh làm người ta yêu mà không làm người ta sợ. Anh chăm sóc kỹ lưỡng cách ăn mặc, “sang” một cách kín đáo “thàng" khi trình diễn. Nói năng nhỏ nhẹ, giọng Huế trung dung, thường thường là phát âm đúng. Lối sống đơn giản cà kê bạn bè, khề khà quán xá. Thịnh đời 1967, đêm đi hát, khuya về, kê ghế bố ngủ với bạn bè ở Hội họa sĩ trẻ, sáng dậy ra quán đợi bạn đãi tách cà phê, mời điếu thuốc lá.
Thêm vào hình ảnh Khánh Ly, “Ôi tóc em dài đêm thần thoại...”, khi hát đi chân đất - nữ hoàng chân đất, la comtesse aux pieds nus - của một thời - giọng hát rũ rượi da diết, diễn tả nỗi trầm thống vô vọng: “tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người”.
Ca khúc Trịnh Công Sơn gây được tiếng vang là nhờ giọng hát Khánh Ly: "Một giọng hát có thể xuống rất thấp rất trầm, mà cũng có thể lên rất cao, một giọng hát khoẻ, dài hơi, giàu nhạc tính. Khánh Ly bao giờ cũng hát đúng giọng, đúng nhịp, ngân, láy đúng lúc, cách phát âm tiếng Việt chuẩn xác - càng về sau càng già dặn thêm - một giọng hát ngay từ thời ấy, tuy vẫn còn nguyên cái chất tươi mát hồn nhiên của tuổi đôi mươi, nhưng dường như đã mang nặng sầu đau; một giọng hát vừa có thể lẳng lơ một cách đáng yêu, trong các bản tình ca lãng mạn, lại vừa có thể phẫn nộ, bi ai, trong các bài ca phản chiến".
Cuối cùng, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường đi hát cộng đồng, nghĩa là hát không công, không lấy thù lao, chủ yếu là cho thính giả trẻ, tại các giảng đường, giáo đường. Họ tạo, hay tái tạo, một hình ảnh lý tưởng cho nghệ thuật, nhất là nghệ thuật ca hát - mang theo lý tưởng nhân đạo, tình yêu và chính trị.
Trịnh Công Sơn sống giữa những tranh chấp chính trị mà không dính líu đến chính quyền hay đảng phái, giáo phái, phe phái. Mặc dầu anh thích bạn bè, ưa đàn đúm.
Quần chúng biết. ngay điều đó. Chúng ta ngày nay mất công nghiên cứu văn bản, khổ tâm truy tầm tư liệu để tìm hiểu, chứ quần chúng thì họ rất nhạy bén, và nhận ra đâu là tiếng nói vô tư, ngay thật, đâu là tiếng nói có dụng ý, mưu đồ.
Đây là lý do chính giải thích sự thành công nhanh chóng của Trịnh Công Sơn một sớm một chiều đã thành hiện tượng.
Ví dụ bài Tình ca của người mất trí, 1967, đã được tiếp nhận và truyền bá tức khắc:
Tôi có người yêu chết trận Pleime
... chết ngoài Hà Nội
... chết không hận thù
Nằm chết như mơ...
Quần chúng hiểu ra ngay biểu tượng “mất trí”, một bài hát không có lập trường theo bên này, hay được chỉ đạo từ phía bên kia. Lời ca dội vang chiến sự, nhưng không có mưu đồ, quả là lời người mất trí. Mất trí là mất tất cả, không còn gì, ngoài cái trí của mình, của riêng mình. Cái trí xa lìa thực tại, bị sa thải ra ngoài thực tại. Trí tuệ ấy chỉ yêu Một Người, nhưng người yêu duy nhất đã chết trên khắp chiến trường, chết mọi kiểu, mọi cách, thậm chí nằm chết như mơ. Chết như mơ? Người ta thường nói: đẹp như mơ, chứ ai nói chết như mơ.
Tinh nghịch đổi vài chữ, câu hát vẫn hợp lý, vẫn hay, dù ý nghĩ bị lật ngược:
Tôi có người yêu gặp tại Ba Gia
Tôi có người yêu vừa mới đêm qua
Yêu thật tình cờ, yêu chẳng hẹn hò
Yêu chẳng thề nguyền hạnh phúc như mơ
Lật ngược hay xếp xuôi, tỉnh trí hay mất trí, tình ca hay chiến ca, ai biết đâu là đâu.
Cũng như bài sau này: Hát trên những xác người, làm sau Mậu Thân 1968:
Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh
Chị vỗ tay hoan hô hoà bình
Người vỗ tay cho thêm thù hận
Người vỗ tay xa dần ăn năn...
Nói về những oan khốc chiến tranh, Trịnh Công Sơn đã có lời nhập đề tưng tửng:
Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe
Nghe như là nghe nhạc, nghe quen như câu dạo buồn.
Nhạc không lời, một loại romance sans parole. Thậm chí đại bác như kinh không mang lời nguyện.
Đại bác như kinh?
Bài hát kết thúc bằng cụm từ có mẹ có em. Cũng như những thành ngữ: có mẹ có cha, có anh có em, có vợ chồng, có mẹ có em, diễn tả cảnh sum họp, ấm cúng, nhưng ở đây là một đống xương thịt bầy nhầy:
Hàng vạn chuyến xe claymore lựu đạn
Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành
Từng vùng thịt xương có mẹ có em
Sơn có những lời tưng tửng tàn độc như thế, hay đèn thắp thì mờ, ám ảnh cả một đời bạn mình là Bửu Ý. Nguyên tác trong bài Đi tìm quê hương (1967):
Người nô lệ da vàng ngủ quên
Ngủ quên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ...
Dĩ nhiên, trong văn cảnh, câu hát có nghĩa: đèn không đủ sáng. Nhưng lìa văn cảnh, lời ca dội vào tim: đèn thắp thì sáng, chứ sao đèn thắp thì mờ?
Nhẫn nhục trong những cơ cực trầm kha truyền kiếp, người phụ nữ Huế có câu hát não nùng:
Ví dầu đèn tắt, có trăng
Khổ thì em chịu, biết mần răng đặng chừ?
Những cũng không đoạn trường bằng đèn thắp thì mờ. Bây giờ Sơn đã đi xa, nhớ câu hát xưa mà thương những người bạn cũ, những người còn ở lại, trong cuộc đời mà Tản Đà đã định nghĩa: đời là cõi bắt con người phải sống...
Năm 1968 là khúc quanh trong thời sự Việt Nam, đồng thời là bước ngoặt trong nhạc Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn chuyển hướng, làm những ca khúc có nội dung chính trị rõ rệt, trực tiếp kêu gọi hòa bình, với tập Kinh Việt Nam (1968) và Ta phải thấy mặt trời (1969).
Thời điểm này, họa sĩ Trịnh Cung, bạn anh, đã vẽ bức tranh nổi tiếng: Đứa trẻ du ca, tay ôm đàn cầm, có con chim đậu trên mái tóc, ý muốn nói hòa bình đang về trong thôn xóm. Hòa bình là khát vọng chung của thanh niên và người dân thời đó, mà ca khúc Trịnh Công Sơn đã vang vọng qua những tiêu đề: Ngày mai đây bình yên, Cánh đồng hòa bình, Đồng dao hòa bình. Và đặc biệt là Nối vòng tay lớn.
Trong Kinh Việt Nam, từ 1968, anh tích cực kêu gọi: Dân ta phải sống, dựng lại người, dựng lại nhà, hãy đi cùng nhau và cụ thể hơn nữa Nối vòng tay lớn. Hay ít nhất cũng là Chờ nhìn quê hương sáng chói và tra vấn Ta thấy gì đêm nay? Sao mắt Mẹ chưa vui? Đấy là tên những bài hát, những Hành Ca trong tham vọng trở thành một hành khúc Việt Nam:
Đoàn người đi miên man
Tìm ánh sáng cho Việt Nam
Tìm quê hương xưa
Giống Tiên Rồng, giống da vàng...
Nói cho liền, nối hai miền...
“Kinh Việt Nam là những tiếng kêu thương thống thiết khởi sự từ một thực trạng máu xương...
Những bài ca được viết từ những hân hoan lắng nghe được trong những lòng người. Đó là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh...
Đã có điều gì không thật suốt hai mươi năm nay (...)
Chúng ta, dù muốn dù không, bị biến thành những mũi tên định hướng được bắn đi từ những đồ hình huy hoàng tưởng tượng và ngắn hạn. Dân ta tàn phế hai mươi năm. Nước mắt và máu đã làm thành những con suối lớn chảy mòn tiềm lực sáng tạo (...)
Xin hãy dừng tay và cùng chờ nhìn một mặt trời tươi trẻ sẽ được khai sinh ở phương đông (...)
Xin hãy dừng tay để được nghe ba mươi mốt triệu tiếng hò reo trong cùng một phút hân hoan (...)
Tiếng hát đã có thể cất lên để nuôi lớn ước mơ (...)
Một ước mơ vĩ đại, làm bằng những đau thương nối dài vào hoang tưởng một ngày mà lòng mình vui sướng hơn muôn nghìn năm".
Bây giờ, nhớ lại mà thương cho một thế hệ thanh niên đã dở sống dở chết trong hoang tưởng:
Hai mươi năm hận thù đã qua
Hôm nay thấy mặt người đổi mới
Ta yêu nắng hòa bình vừa đến...
Hai mươi năm chờ đợi từng phút giây
Hôm nay tiếng hòa bình đã thấy
Trên môi người trên môi ta, trên môi em
Trên môi những người Việt nghèo khốn
Hai mươi năm chờ đợi đã lâu... (Đồng dao hòa bình)
Hai mươi năm là tính từ 1948, hay từ trước đó nữa, nghĩa là không kể Điện Biên Phủ, không kể đến hiệp định Genève, dù sao cũng tạo được cảm giác hoà bình trong đôi ba năm. Nhưng nền hoà bình tạm bợ ấy đã phải mua bằng cái giá chia đôi Nam Bắc, mầm mống cho một cuộc chiến tranh khác, lâu dài hơn, thảm khốc hơn, gây nhiều thù hận hơn. Khi Sơn viết hai mươi năm nội chiến từng ngày, thì hằng triệu người đã hát, từ năm này qua năm khác, dù có lúc bị cấm. Hai chữ nội chiến nếu không có lý, cũng có cơ sở tình cảm của nó. Và đáp ứng lại với tâm lý quần chúng không bị chính trị hoá, không bị giáo dục chính trị, những người dân đau lòng vì cảnh nồi da xáo thịt, mà không truy tầm đến căn nguyên phức tạp.
Có lúc anh bộc trực, chính xác hơn:
Hai mươi năm là xác người Việt nằm
Làm sao ta giết hết những đứa con Việt Nam?
Xưa ta không thù hận
Vì đâu tay ta vấy máu? (Tuổi trẻ Việt Nam - 1969)
Không dễ dàng gì trả lời câu hỏi vì đâu, nếu không đơn giản lặp lại luận điệu bên này hay bên kia. Không có cuộc chiến tranh nào mà có lý do đơn giản, chỉ có những đầu óc đơn giản. Thời Nam Bắc Triều, Trịnh Nguyễn phân tranh, Nam Hà Bắc Hà, cuộc chiến chưa chắc đã bắt nguồn từ những lý do đơn giản. Giữa lòng thế kỷ XX, hoàn cảnh càng phức tạp. Chiến tranh Việt Nam, khởi sự là dân tộc giành quyền tự quyết, chống ngoại xâm, nhưng cũng là chiến tranh ý thức hệ, nối dài biên giới chiến tranh lạnh, với sự can thiệp của nước ngoài. Nhưng đồng thời cũng có tính chất nội chiến:
Triệu người đã chết, hãy mở mắt ra
Lật xác quân thù, mặt người Việt Nam trên đó
Đi trên những xác người: bao năm tháng những ai?
(Những ai còn là Việt Nam - 1969)
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không nghị luận chính trị, vì nghị luận sẽ không thành bài hát; anh chỉ nói lên cảm xúc:
Ôi bom đạn cày trên những xác
Ôi da vàng Việt Nam vỡ nát
Xương thịt đó thiêng liêng vô cùng
(Đêm bây giờ, đêm mai - 1967)
Từ 1968, trong những gào gọi hòa bình, thêm một ý tưởng hiện ra rõ nét, là thống nhất đất nước. Hòa bình là một ước vọng của nhân sinh, ai ai cũng chia sẻ. Thống nhất là một đòi hỏi chính trị, người muốn thế nọ, kẻ muốn thế kia, đại khái qua hai câu hỏi: thống nhất bằng cách nào; và ai chủ động thống nhất? Trịnh Công Sơn nói lên niềm mơ ước công dân, và không trả lời hai câu hỏi chính kiến, cũng như nhiều nhạc sĩ khác: Phạm Đình Chương viết Hội trùng dương, Phạm Duy viết Con đường cái quan, đều chia sẻ một nguyện vọng.
Khát vọng thống nhất đã bàng bạc trong những bản nhạc của Sơn trước đó:
Đêm sông Hương nhung nhớ
Ngày Cửu Long mơ, mơ thấy gì
Mơ một ngày Hồng Hà góp Hội trùng dương
Đây quê hương trông ngóng và mẹ chờ mong (Lại gần với nhau - 1966)
Nhưng phải đợi đến Kinh Việt Nam (1968), yêu sách ấy mới được diễn đạt chính xác:
Chờ ngày Việt Nam thông nhất (Chờ nhìn quê hương sáng chói)
Reo vui cờ thống nhất
Chân bước đi trên ba miền
Những ai còn là Việt Nam
Chính chúng ta phải có mọi quyền
Đứng lên đòi thống nhất quê hương (Chính chúng ta phải nói)
Bắc Nam Trung ơi đoàn kết một miền (Huế, Sài Gòn, Hà Nội)
Năm 1968, bài hát thành công nhất là Nối vòng tay lớn:
Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà (...)
Thành phố nối thôn xa vời vợi
Người chết nối linh thiêng vào đời...
Nhạc điệu phong phú, hào hùng, phóng khoáng và lời ca vừa nhẹ nhàng vừa súc tích, nối liền con người với nhau, với đất nước, thành phố với thôn quê, quá khứ với hiện tại, người chết với tương lai.
Năm 1969, Bửu Chỉ kể lại: "thỉnh thoảng người ta lại nghe phong phanh đâu đó về một giải pháp hòa bình cho Việt Nam, rồi lại tắt ngấm... Phong trào đấu tranh hòa bình Việt Nam ở các đô thị lại bùng lên mãnh liệt", nhạc khúc Trịnh Công Sơn gắn bó với hoàn cảnh, mang một nét mới: chính chúng ta phải nói: chính người dân Việt Nam phải có quyền quyết định về vận mệnh dân tộc, trên cơ sở hòa bình- thống nhất:
Khi tim người rực lửa cầu mong
Chính chúng ta phải có mọi quyền
Đứng lên đòi thống nhất quê hương
Quyết chối từ chém giết anh em
Chính chúng ta phải nói hòa bình
Trịnh Công Sơn kêu gọi Ta đi dựng cờ, Đừng mong ai đừng nghi ngại. Lời ca hùng hồn, khẩu hiệu, có lúc đại ngôn: đã đến lúc cách mạng tiến lên. Bài Ta quyết phải sống:
Còn sống xin các anh quyết còn cách mạng
Đời ta ta lo, xin xếp vũ khí...
Cách mạng, trong mơ ước Trịnh Công Sơn là cuộc đổi đời triệt để, từ bóng tối ra ánh sáng, từ xương máu ra hòa bình “một rạng đông mới sẽ được khai sinh. Nhựa mới sẽ luân lưu cuồn cuộn trong những thân thể Việt Nam":
Những giọt máu đến ngày trổ bông
Nở hòa bình cho đêm vắng xôn xao tiếng người
Ngày dân ta đi dành lấy hòa bình
Ta phải thấy mặt trời (Những giọt máu trổ bông)
Và mặt trời là biểu tượng ánh sáng, hơi ấm, sự sống và phương hướng: phương Đông, phía mặt trời mọc:” “Tuổi trẻ Việt Nam, trời sáng phương Đông“. "Một mặt trời tươi trẻ sẽ được khai sinh ở phương Đông". Sơn có lần giải thích: người phương Tây, khi định hướng, dùng chữ orientation, nghĩa là nhắm hướng orient, phương Đông. Việt Nam là chiến trường giữa những thế lực mê chấp đến từ phương Tây. Trong khi đó, phương Đông nguồn cội của đức tin, là quê hương của hòa bình, hòa giải và hóa giải.
Tư tưởng Phật giáo tiềm ẩn nơi Trịnh Công Sơn, có lẽ đã khởi sắc từ ý thức chính trị, xã hội và văn hóa, trong một thời điểm nhất định.
Phật tính là mạch nước ngầm trong tâm hồn Trịnh Công Sơn, gặp một hố bom, nó chợt thấy mặt trời, và tuôn trào thành Nguồn thơ suối nhạc.
Nhìn dưới ánh sáng nào đi nữa, sự nghiệp Trịnh Công Sơn cũng là một khối tài tình. Tài và tình sinh ra nhau, nuôi dưỡng lấy nhau bằng lương thực một trần ai khổ ải. Chữ tài, phần nào là của trời cho; chữ tình là khối đau thương khổ luyện trong khổ nạn. Và chính khối đau thương qua những lời ca phản chiến - đã vinh danh Trịnh Công Sơn trong khổ nạn, vinh danh bên ngoài ý muốn của nhiều quyền lực thế trị; và sau này nữa bên ngoài những mê chấp sân si.
CHIÊM NGẮM ĐÓA HOA VÔ THƯỜNG Hà Vũ Trọng
Khúc Dạo
Chúng ta yêu nhạc Trịnh Công Sơn vì trong nhạc của anh có thơ. Vậy, chúng ta có được cả hai. Tự thơ đã là một loại nhạc biểu hiện cái đẹp và sự hài hòa của chử nghĩa.
Nhạc thơ ở anh song sinh từ niềm thôi thúc muốn tỏ tình với cuộc đời. Nhạc thơ đó cũng lung linh ảo diệu như bóng trăng in trên mặt nước mà chúng ta thường không phân biệt nổi đâu là nhạc đâu là thơ. Nói cách khác, thơ và nhạc là đôi cánh để bay chở tình yêu trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn, không thể tách lìa được. Từ đó thơ nhạc sẽ la đà bay vào lòng người, khiến tai ta có thể nghe được những âm thanh vọng xuống từ trời cao, tiếng của đất trời rộn ràng... Dù em khẽ bước không thành tiếng, cõi đời bao la vẫn ngân dài. Mỗi khúc hát của Trịnh Công Sơn là mỗi giấc mơ hóa thân thu mình bé lại làm mưa tan giữa trời, là mỗi lần tâm hồn bụi bặm thường nhật của chúng ta được tuôn tưới, gột rửa...
Trịnh Công Sơn đã từng và ngay lúc này đây đang vọng nhìn cuộc đời từ bờ bên kia: mệt quá thân ta này, nằm xuống với đất muôn đời. Kìa còn biết bao người, dìu dặt tới quanh đây. Đã từng ta thấy em trong tiền kiếp tới cách nhìn sau này với nhãn quan lưỡng nguyên pha thêm tính u mặc humor kiểu Bùi Giáng trong bài hát Con mắt còn lại. (Cõi bờ con mắt Hoa Nghiêm, con mắt còn lại một con khóc người/ Bây giờ riêng đối diện tôi, còn hai con mắt khóc người một con - B.G). Con mắt còn lại là con mắt Hoa Nghiêm: con mắt thứ ba: con mắt hiệu nằm giữa trán.
Văn Cao đã gọi chính danh Trịnh Công Sơn là người Thơ ca - để nói về các thi ca sĩ troubadour/ minstrel - những sứ giả sống để phụng thờ và ca tụng tình yêu như là nguồn sáng cứu rỗi trong đêm trường Trung cổ. Một khoảnh khắc sống với quả tim yêu nồng nhiệt đáng giá hơn một trăm năm sống bằng quả tim khô héo, dù ngay cả khi ca tụng tình yêu bằng những bài tình ca không có hạnh phúc. Đời thi ca sĩ là một kiếp rong chơi:
Đời vẽ tôi tên mục đồng
Rồi vẽ thêm con ngựa hồng
Từ đó lên đường phiêu linh.
Đời vẽ trong tôi một ngày
Rồi vẽ thêm đêm thật dài
Từ đó tôi thề sẽ rong chơi... (Chỉ có ta trong một thời)
Dõi trông cuộc hành hương của người du ca Trịnh Công Sơn, ta thấy nhạc khởi đầu đã hòa chung vào với từng giọt nước mắt buồn rơi trong đêm mưa từ độ ấy... và từ đó đêm (và mưa) bao trùm lên những ca khúc của anh - như những bài Tụng ca Đêm của thi sĩ Novalis: "Đêm đã trở nên, dạ con kết trái, đầy những mạc khải..." - Đêm ta nằm nghe tiếng trăm năm... đêm nghe tiếng muôn trùng, đêm nghe tiếng khóc cười của bào thai. Hóa thân vào dòng thác đêm là cái chết đang cuốn trôi đi tất cả trong Đêm thấy ta là thác đổ. Đêm mạc khải cho trăng vàng khai hội một đóa hoa quỳnh. Từ đó ta là đêm nở đóa hoa vô thường.
Từ thánh vịnh ca Cát bụi tới hương thiền ca Đóa hoa vô thường, là cả một hành trình vượt qua những chặng thương khó của từng Ca khúc da vàng đầy ắp những hình ảnh thánh giá, khổ nạn, phúc âm, lời kinh đêm, vực sâu, những lời truyền tin đợi chờ phục sinh... là nỗi tuyệt cùng chỉ còn hi vọng vào sự cứu rỗi của tình yêu. Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người, này xin em cứu một người này em có nhớ cuộc đời... Đợi chờ yêu thương trên cây thánh giá. Đời có sân si dưới bóng bồ đề... Cho tới thời điểm tĩnh mịch giữa ngọ (1) cây trưa thu bóng dài và tôi thu bóng tôi là nỗi khát khao đi tìm lại sự an nhiên (người về soi bóng mình) trong cõi tâm linh với hương thiền đầy tính mỹ học (mà thiền sư Nhật Suzuki Daisetz đã tung gieo ra ngoài thế giới). Những tác phẩm mang hương vị Thiền thời kì này (1972 - 1975) như Ở trọ, Biết đâu nguồn cội, Ngẫu nhiên, Nguyệt ca, Níu tay nghìn trùng, Giọt lệ thiên thu, Lời thiên thu gọi, Phôi pha, Bên đời hiu quạnh, Đêm thấy ta là thác đổ, Cũng sẽ chìm trôi, Tự tình khúc, Một cõi đi về... và được "viên thành" bằng tổ khúc Đóa hoa vô thường. Đóa hoa vô thường có thể coi là bức "tứ bình" bằng nhạc, thơ và họa mở ra cho ta thấy trọn cuộc hành trình tâm linh đi tìm ý nghĩa trong cuộc hội ngộ với tình yêu, cái đẹp, cái vô thường.
(1) Nietzsche Zarathustla đã nói thế, phần IV chương "Về giữa ngọ”. Bản Anh ngữ của R.J.Hollingdale. Penguin Books. 1961.
Khát khao đi tìm sự bình an của Trịnh Công Sơn trong Thiền tông, không hẳn là để tìm sự giải thoát hoặc để đạt tới cõi hoàn toàn an nhiên tự tại, mà có phần gần với lý tưởng Bồ tát (như đối với nhà thơ Cao Bá Quát) là “mang cái bệnh Duy-ma" vì chúng sinh (1). Lý tưởng này không nhằm đạt tới Niết Bàn, cho dù tình yêu ở đây có mang tính vô ngã đi nữa: Tôi xin làm quán đợi buồn chân em ghé chơi/ Tôi xin làm đá cuội mà lăn theo gót hài/ Tôi thu tôi bé lại làm mưa tan giữa trời. Trong ca khúc Biết đâu nguồn cội đó, đầy những hình ảnh (mang Âm tính, Nữ tính, Mẫu tính và Pháp tính) thường thấy trong Thiền tông: nước, trăng, thuyền (chứa chở trời đất và người) đều nổi trôi, che chở và uyển chuyển. Ở trong bài nhạc này để nói về sự tương tác luôn "ở trọ" trong nhau và “thiếu nợ" lẫn nhau giữa cõi đời và với trời đất (trăng muôn đời thiếu nợ mà sông không nhớ ra) hơn là để nói tới cái tâm chân như hay cái tính không: "Kìa xem bóng nguyệt lòng sông. Ai hay không có có không là gì” (Thiền sư Đạo Hạnh). Ở Trịnh Công Sơn, cái đẹp bi lụy còn in dấu khi bước tới hư vô khoác áo chân như/ nhưng vẫn còn long lanh giọt lệ thiên thu (Giọt lệ thiên thu). Đôi khi trầm tư về cái đẹp với cảm xúc bâng khuâng trước cái mênh mang mà sự giải thoát thì diệu vợi tận cõi “bỉ ngạn" (bờ kia):
Bên kia sông nước vô bờ
Hồng nhan em có bao giờ bâng khuâng (Lời ở phố về)
(l) "Bồ tát vì chúng sinh mà vào vòng sinh tử, đã có sinh tử thì có bệnh, bao giờ chúng sinh hết bệnh thì Bồ tát sẽ không còn bệnh". (Kinh Duy - ma - cập)
Nhan sắc Đóa hoa vô thường
Tim tôi đã nở
Đóa hoa dưới trời
Chùm cánh khát mong
Bầu nhụy mơ mòng. (Garcia Lorea)
Nếu chiêm ngắm kỹ, bạn sẽ thấy con người là một bông hoa năm cánh. Một thiền giả Nhật đã có chiêm nghiệm như vậy. “Giao hưởng thơ" Đóa hoa vô thường là một dụ ngôn bằng ý thơ nẻo nhạc để kể về cuộc hành hương đi tìm ý nghĩa của tình yêu, nghệ thuật và cái chết. Tương tự như trong truyền thuyết đi tìm Đóa hoa Xanh biểu trưng cho nghệ thuật của thi sĩ Lãng mạn Đức Novalis - một cuộc luyện đan (alchemy) trong tình yêu và nghệ thuật. Hoặc gần với Thiền tông hơn, nó được luân diễn trong mười bức tranh chăn trâu, là hình ảnh kẻ mục đồng hay lữ khách lạc nẻo giữa đồng hoang nội cỏ, khởi đi tìm cái tâm (chân như) của chính mình đã đánh mất trên siêu lộ mê ảnh trong cõi sinh tử trập trùng mộng mị...
Bốn "chương” (movement) nhạc của Đóa hoa vô thường tương ứng với bốn hay bốn mùa tâm cảnh về một đời người, như vòng "quy hồi vĩnh cửu” (eternal recurrence) trong Một cõi đi về. Lối tiến hành âm hình giai điệu của Đóa hoa vô thường là một cuộc chuyển hóa liên tục giọng, điệu tính, tiết nhịp, tâm thái... trong từng đoạn, câu hoặc tiết nhạc. Ý thơ dựa trên một chủ đề chính tái hiện nhiều lần là bông hoa xuyên suốt tác phẩm. Sự chuyển hóa sắc thái liên tục này làm gợi nhớ tới ý niệm "giao hưởng thơ (symphonic poem của các nhà soạn nhạc Đức như F.Liszt thời Lãng mạn) đưa ra tính tự do của một nhạc thể và khả năng sử dụng dàn nhạc như là một bảng pha màu, từ đó vẽ ra một bức tranh linh động bằng âm thanh - hình ảnh.
Chương I - Tìm Tình, Nhịp Thong Dong
Khởi đầu bằng thể hát kể đồng dao bốn chữ Tìm em tôi tìm... như nhịp chân rảo bước đi tìm Tình trong vẻ Đẹp mà hình ảnh thanh tao hiện thân trong mình hạc xương mai. Bước đầu tìm trong cái đơn độc, cái một, tìm trên non ngàn một cành hoa khôi - hiển hiện trong đóa hoa tinh khôi đó là nụ cười mong manh, một hồn yếu đuối, một bờ môi thơm mang tấm lòng sơ nguyên của một hồn giấy mới. Điều đó khiến chúng ta liên tưởng tới những vần thơ tình tâm linh diễm tuyệt “vì tình tôi phải tìm tình" trong Nhã Ca (Kinh Thánh) hoặc trong Tụng ca Tâm linh (của San Juan de la Cruz) để đi tới chỗ kết hợp huyền nhiệm (unio mystica).
(Rộn rã bồi hồi)
Đường nét "hướng thượng” trong giai điệu: "Tìm em tôi tìm nhủ lòng tôi ơi..." là nỗi quyết tâm tìm trong cả những thấp thoáng ảo hóa (maya) của vạn vật đắp đổi; thời gian: tìm đêm chưa từng, tìm ngày tinh khôi. Trên trời: tìm chim trong đàn ngậm hạt sương bay. Dưới đất: tìm lại trên sông... những dấu hài. Từ thơ bốn chữ giờ còn lại ba chữ: những dấu hài.. giọng ngậm ngùi tưởng nhớ. Ở đây "tình lại gặp tình” lần tìm theo chỉ thấy từng bước in rêu của một hồng nhan bạc mệnh...
(Trầm tưởng)
(Dịu lắng)
“Tìm em xa gan đất trời rộn ràng..." lòng người đi tìm bây giờ đã lắng xuống để quán tưởng mà ôm lấy đất trời xa gần trong cả cái tính phù du, bạc mệnh, tàn và tận của tấn tuồng ảo hóa đó: Tìm trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh, trăng tàn nguyệt tận, chưa từng tuyệt vọng đâu em. Thêm hai chữ "đâu em" như lời nhắn nhủ mãi mãi tới cõi phù sinh này (Đừng tuyệt vọng tôi/ em ơi đừng tuyệt vọng...).
(Rộn ràng)
Từ thể hát đồng dao giờ hóa thành bài kệ (gatha) tụng reo:
Tìm trong vô thường
Có đôi dòng Kinh
Sấm bay rền vang
Bỗng tôi thấy em
Dưới chân cội nguồn...
Là lúc cảnh giới của đất trời giao hội từ khi câu Kinh đã bước vào đời (Nguyệt ca) - đôi dòng Kinh Sấm (Vajracchedika) ấy bay rền vang là ánh kim cương chẻ toang bóng tối âm u... Cũng chính là lúc bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn - cội nguồn của chân như, bản lai diện mục - Người Tình hay cái Tâm sẽ tự hiển hiện cho thấy khi thôi tìm trong hình sắc, âm thanh... Giờ tôi mời em về trong đêm thiêng liêng có ơn mưa trời gội rửa tuôn tưới. Em giờ hiện hữu ở khắp bốn bề tẩm hương trầm thơm ngát. (Tiếng đàn như tiếng mưa nhỏ giọt). Khi vườn mưa tạnh, tiếng nhạc liền cất lên hân hoan để soạn sửa cho cuộc lễ mạc khải thiêng liêng dưới ánh trăng vàng: Một đóa hoa quỳnh trong ngọc trắng ngần lồng với bóng trăng tròn. Cũng từ lòng đóa hoa tố tâm đó mở ra (chỉ trong một đêm thắp sáng) mà vạn vật được phản chiếu và mở phơi như trong một tấm gương trong. Cái nôi vũ trụ tình yêu nhiệm màu đó là những ngón tay xòe bung ôm lấy tất cả làm một.
Tới đây lời thơ ngưng. (Tiếng đàn... giờ là ánh trăng lung linh tĩnh mặc) để chiêm ngắm vẻ đẹp của đóa ngọc quỳnh. Như cái thị kiến ân sủng (beatific vision) của thi sĩ Dante chói mắt trước ánh sáng tâm linh phát tỏa từ tình yêu được kết thành đóa hoa hồng trắng.
Chương II
Dưa tình về, nhịp hớn hở (Nhạc...)
Thanh thản (Nhạc...)
Bình an
Từ khi có duyên hội ngộ, đã có tình là có đối đáp. Lời thơ chuyển sang thể lục bát trữ tình để bày tỏ khoảng an bình khi cả hai đã có nhau như hình với bóng. Bằng một nhịp thơ liền lạc, vui và đầm ấm: "Từ nay tôi đã có người, có em đi đứng bên đời líu lo... Từ em tôi đã đắp bồi, có tôi trong dáng em ngồi trước sân".
Hát tự do
Giọng chuyển đột ngột chùng xuống thành khúc hoài cảm (melancholy) đượm vẻ nuối tiếc, man mác, buốt lạnh như lời linh cảm trước cho tính bạc mệnh của đóa hoa "mới chớm đã viên thành” như nụ tình ái Kim - Kiều. Mùa đông cho em nỗi buồn, chiều em ra đứng hát kinh đầu sông... chút tình mới chớm đã viên thành. Và tàn đông con nước kéo lên đợi mùa xuân tới:
Nhịp nhàng thư thái
Điệp từ "Từ nay"... đã luôn được nhắc lại, cung giọng bây giờ cao và nhấn nhá vui hơn. Toàn chương II diễn tả một cuộc "đối đáp” nói - thưa (đối điểm/ counterpoint), đắp - bồi giữa hai bè ngôi thứ khởi từ tôi - người, tôi - tình sang tôi - em; cho tới đoạn này là anh - nàng để đồng xướng (homophony) một chữ có. Ở đoạn này như là giai điệu chim hót trầm bổng cùng với tiếng ca đồng thanh của đất trời sông núi đáp đền tới cuộc hội ngộ từ khi đã có... "Từ nay anh đã có nàng, biết ơn sông núi đáp đền tiếng ca. Mùa xuân trên những mái nhà, có con chim hót tên là ái ân”.
Chương III
Bốn mùa yêu nhau trong lẽ vô thường của trời đất
(Nhạc chuyển... Chậm lại...)
Bình an
Khúc arioso (vịnh tự khúc): "Sen hồng một nụ..." Chuyển từ hình ảnh đóa quỳnh trắng của chương I sang một hóa thân khác là nụ sen hồng đang ngồi đong đưa - khoảng cách từ “thơ ngây" tới “kinh nghiệm" - bằng một giọng kể hoài tưởng lại thời thanh xuân êm đềm chuyển sang sắc màu “chín" của tình yêu đã nếm trải từ rạng đông cao đến đêm ngọt ngào. Bảng màu "mùa xuân chín" rõ rệt hơn: Em hồng một thuở xuân xanh... giờ còn lại nỗi buồn hoài niệm để đền trọn mối tình. (Hồng đi nhé xin hồng với nụ Vàng phai sẽ cuốn đi mịt mù - Vàng phai trước ngõ).
(Nhạc chuyển...)
Hiu hắt
Từ đây chuyển đoạn trầm xuống hiu hắt như tiếp nối đoạn hoài cảm ở chương II nhưng đã trở thành thể thơ độc thoại sáu chữ. "Một chiều em đứng cuối sông, gió mùa thu rất ân cần chở lời kinh đến núi non, những lời tình em trối trăn..." Cuộc tình đã trải qua cả hạnh phúc lẫn khổ đau, thân phận lưu lạc hoa trôi bèo dạt, lênh đênh từ đầu sông cho tới cuối sông đoạn trường "tính từ sông nước cát lầm”.
Cánh gió mùa thu chở lời Kinh hát về thân phận gửi tới non nước quê nhà. Một thời yêu dấu đã qua. Giờ đây gót hồng (gót sen/ đôi chân hồng trần của Thúy Kiều) mong mỏi được quay về. Từ khúc hoài cảm ở trên giờ hợp lại trở thành khúc hoài hương (nostalgia) trối trăn rằng: dù trần gian có xót xa cũng đành về với quê nhà.
(Con sóng biển dâu đã mang tình về quê quán cũ)
(Nhạc...)
Chương IV
(Nhạc chuyển...) Rộng rãi
Dồn dập vừa
Mênh mông
Tình đi, người ở lại - (đoạn cuối)
Êm đềm, xa vắng
Khúc 1: “Từ đó trong vườn khuya, ôi áo xưa em là một chút mây phù du, đã thoáng qua đời ta..."
Khúc bi ca (elegy) u huyền này bằng thể thơ tự sự năm chữ, là tiếng thở dài mênh mang khi tình đã đi, người ở lại. Có thể diễn tả lại bằng lời thơ trong Lửa thiêng:
Bóng đêm tỏa không lấp niềm thương nhớ,
Tình đi mau, - sầu ở lại lâu dài.
Ta đã để hồn tan trong tiếng thở
Kêu gọi người đưa tiễn nỗi tàn phai. (Bi ca - Huy Cận)
Từ cảnh vườn đêm hội ngộ có ánh trăng vàng mạc khải của chương I tới cảnh vườn khuya cô tịch trong chương cuối này, là nỗi thấu cảm tính phù du của chữ tình, của vẻ đẹp mong manh, là hình ảnh của chính cái chết. Từ đó trong hồn ta, ôi tiếng chuông não nề... Nỗi tuyệt vọngmênh mang, nhịp tim xao động trong lòng là tiếng chuông não nề văng vẳng như tiếng chuông cầu hồn. Tiếng ngựa hí vang rừng xa vọng suốt đất trời kia, mang tính ẩn dụ đầy âm - hình (audio- visual) loan báo cho giờ phút khởi hành chuyến xe cuối cùng của đời người. "Từ đó ta ngồi mê, để thấy trên đường xa, một chuyến xe tựa như, vừa đến nơi chia lìa”.
(Tình do tâm mà sinh, có khi tình mất mà tâm còn động vọng. Đến lúc tâm bình an thì tình kia cũng đoạn nỗi.)
(nhạc) Mạnh và liền nhau
Êm dịu lại
Khúc hai: "Từ đó ta nằm đau, ôi núi cũng như đèo, một chút vô thường theo..."
Bài tự tình khúc cuối này như bức tranh thủy mặc của cõi tâm bao la vô cùng.
Từ đó... từ chốn vô thủy vô chung để mà chiêm nghiệm toàn cảnh lộ trình đã qua của người nghệ sĩ - kẻ hành hương - giờ nằm đau dạt dào bi cảm trước cái như tính của vẻ đẹp của sự vật; chẳng còn biện biệt nữa không gian (ôi núi cũng như đèo) với thời gian (từng phút cao giờ sâu) để rồi nhập vào với trạng thái tịnh mặc (samadhi) ngay trong nỗi đau - (ở một nghĩa nào đó) là đang trải qua kinh nghiệm về cái chết. Đi vào cõi chết như một âm điệu ngân vang rồi cũng sẽ chìm trôi vào với cái tịch lặng: cõi đi về thiết yếu của âm nhạc, của chính đời người.
Từ đó - tình yêu là hoa nở hồng ban sớm, nở hết trong hoàng hôn, vẫn còn mãi khát mong, lại phải nhờ tới ngọn gió vô thường thổi qua để tiếp tục hóa thân thành sương tinh khiết rụng mát trong bình minh.
Vườn khuya đóa hoa nào mới nở.
Đời tôi có ai vừa qua... (Đêm thấy ta là thác đổ)
Từ đó ta là đêm, nở đóa hoa vô thường,
Từ đó - người đi hành hương nhập thể vào với bóng đêm vô tận (là cõi chân không) để nở ra đóa hoa vô thường: người chiêm ngắm (đóa hoa) đã trở thành cái (đóa hoa) mà mình chiêm ngắm. Vẻ đẹp của đóa hoa vô thường là nở ra nụ cười khúc khích trên lưng đài gương của cái dục mang hương sắc hoa tình cua cái chết.
Từ đó - đóa hoa là biểu hiện rõ nhất về sự vô thường: hiện, hiển và biến:
Mùa mưa tới cành hoa trắng ngần
Đã ra đời đùa vui phút giây
Sau một lần đến bên người
Khép lại tấm lòng nghìn năm nhớ ai...
(Chuyện đóa quỳnh hương)
Từ đó - đóa hoa ấy đã khép lại những cánh mong manh trước cả lúc trăng tàn nguyệt tận.
Từ đó -
Chìm dưới thiên thu là một đóa thơm tho.
(Chìm dưới cơn mưa)
Nhưng từ đó, để kết tinh nên một đóa mong manh, thơm tho ấy dâng cho đời, đã là sự cưu mang và hi hữu kể từ trăm năm trong cõi người ta...
(Nhạc để chấm dứt...)
Khúc kết
Những phương trời gió loạn nào đã đi qua,
Còn lại đóa hoa vô thường
Phất phơ giữa tuế nguyệt không thời (1)
(1) Dịch nghĩa thơ của Vương Duy. Trích trong Đường thi - Vương Duy chân diện mục của Vũ Thế Ngọc, Eastwest Institute Press, CA 1987.
VỀ TRỊNH CÔNG SƠN - LẶNG LẼ NƠI NÀY Bùi Bảo Trúc
Mồng 1 tháng Tư - 12 tháng Tư - năm 2001
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người mà ai cũng biết nhưng cũng không ai biết ông bao nhiêu ngoài gia đình và một vài người bạn rất thân.
Sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939. Trịnh Công Sơn quê ở Huế nhưng ra đời ở Đắc Lắc. Tiểu sử, ông chỉ ghi như thế.
Trời cao đất rộng, một mình tôi đi
Đời như vô tận, một mình tôi về
một mình tôi về với tôi...
Từ căn nhà cũ ở Phú Cam, Huế, Trịnh Công Sơn lớn lên, bỏ vào Sài Gòn, theo bạn bè, âm nhạc. Ông không ồn ào những bước đưa nhạc của mình vào với người nghe.
Năm 1965, ở trụ sở sinh viên đại học góc đường Duy Tân Hồng Thập Tự, người thanh niên có cái vẻ rất thư sinh, gầy gò ấy cầm chiếc Tây Ban cầm bước lên bục, sau đôi lời giới thiệu rất ngắn và giản dị của một người trong ban tổ chức, cất lên tiếng hát chưa mấy ai biết ở Sài Gòn thời ấy, và từ đó, nhạc Việt Nam không bao giờ còn như cũ nữa.
Trong số những ca khúc ông hát hôm ấy có bài Gọi tên bốn mùa. Sài Gòn hôm ấy vừa xong một cơn mưa. Cơn mưa vào hạ những giọt thì thầm, cành khô bơ vơ, buổi chiều xao xác, tuổi thơ, tin buồn... Không khí ấy, cứ nghe lại vài ba đoạn trong ca khúc Gọi tên bốn mùa, lại trở về, như mùa thu cũ, một thời, một đời...
Trịnh Công Sơn tới với người thưởng ngoạn bằng nhạc nhưng căn bản, ông là một thi sĩ.
Ông như người nhạc sĩ mù trong một bức vẽ của Picasso, thời kỳ xanh.
Người nhạc sĩ cầm cây đàn không có dây, giơ lên những âm thanh mà chỉ ông nghe thấy, vì nó đi ra thẳng từ quả tim của ông.
Trịnh Công Sơn cũng thế. Ông viết rất dễ dàng. Trong trí, trên một mảnh giấy lau tay trong một tiệm nước, bất cứ chỗ nào. Như một thi sĩ, vì ông chính là một thi sĩ.
Có những bản nhạc của ông, phần lời ca đúng là những bài thơ. Ông dùng nhạc để nâng đỡ những đoạn thơ đó. Và ông cũng dùng thơ để dẫn những đoạn nhạc đi. Nhạc của ông không khúc mắc là vì thế.
Ngôn ngữ thơ trong phần lời ca của ông đưa người nghe vào một thế giới với những hình ảnh hoàn toàn mới. Hình ảnh lãng mạn mà ông tạo ra không còn dấu tích của dòng nhạc bước đi từ thời tiền chiến. Nó đưa tới sự chấm dứt những ảnh hưởng cũ đã ở trong nhạc Việt từ hơn ba mươi năm. Đến Trịnh Công Sơn, nhạc Việt mới đi hẳn về một chiều mới.
Ngôn ngữ tình yêu của ông không là những ngôn ngữ của thi ca lãng mạn Việt Nam trước đó. Đó là một thứ ngôn ngữ để nói về tình yêu trong một nỗi bất an, một không gian bất ổn, của chung quanh đầy xao động.
Có thể nói Trịnh Công Sơn làm thơ bằng âm nhạc. Âm nhạc chỉ là một phương tiện để chuyên chở thơ của ông. Trong những chuỗi âm thanh mà nhạc dẫn dắt chúng ta theo ông, người nghe vẫn thấy lấp ló đâu đó con người thi sĩ của ông. Chữ nghĩa thi ca của ông không cầu kỳ, cũng không khuôn sáo. Những chữ đã rất cũ, qua tay ông được mặc cho những bộ áo mới. Thì đây, chữ nghĩa đã cũ, nhưng nghe qua Trịnh Công Sơn thì lại rất mới:
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa đông
Em ra ngoài ruộng đồng
Hỏi thăm cành lúa mới
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa thu
Em đi trong sương mù
Gọi cây lá vào mùa...
Trịnh Công Sơn là một tài hoa hết sức đa dạng. Ông viết về nhiều thứ nhạc khác nhau. Từ những tình ca xót xa, nghe tê dại đau đớn, những tình khúc bất hạnh đến những bài ngợi ca quê hương đất nước, một ước mơ hòa bình hiền lành của dân tộc. Ông nói hộ cho một hai thế hệ những điều đó. Nhưng nhạc tình của ông, bằng những hình ảnh rất mới, của thơ, đã trở thành dấu ấn của Trịnh Công Sơn.
Ông quan niệm như thế này về nhạc tình: "Khi bạn hát một bản tình ca là bạn đang muốn hát về cuộc tình của mình. Hãy hát đi, đừng ngại, dù hạnh phúc hay dở dang thì cuộc tình ấy cũng là một phần máu thịt của bạn rồi".
Và bởi thế, những tình khúc mà ông viết, đã trở thành những tình ca chung của tất cả. Tính chất riêng tư không còn nữa.
Diễm trở thành không thực. Chỉ còn nhớ mãi trong cơn đau vùi, buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua như trong ca khúc Diễm xưa, nghe một lần rồi mãi mãi không bao giờ quên được.
Trịnh Công Sơn, nhạc tình
Ở trang 11 của tuyển tập Những bài ca không năm tháng, Trịnh Công Sơn viết về hai nỗi ám ảnh trong đời ông như thế này: "Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời". Ông viết những dòng trên có thể vào cuối thập niên 90, khi 127 ca khúc được thu thập in lại thành tuyển tập. Nhưng nhìn lại những nhạc phẩm mà người ta được nghe của ông, thì tình yêu là ám ảnh lớn hơn tất cả các đề tài khác của Trịnh Công Sơn.
Có thể khăng định rằng nếu sống vào một thời điểm khác hòa bình hơn, hạnh phúc hơn, Trịnh Công Sơn đã chỉ viết một loại ca khúc: nhạc tình. Nhưng chiến tranh bày ra cho ông một bất hạnh lớn. Bất hạnh đó kéo ông về những đau đớn triền miên của dân tộc. Những đau đớn bất hạnh đó không cho ông được phép thản nhiên để ca ngợi tình yêu, và vì thế mà trong tình ca của ông, vẫn thấy bóng dáng của đau khổ, bất hạnh. Trong bài Tình sầu, với ông, tình yêu, ngay cả những lúc dịu dàng nhất, cũng vẫn như những khổ đau của trái phá, con tim mù lòa, vết cháy trên da thịt, cơn bão qua địa cầu...
Trịnh Công Sơn cứ bị kéo trở lại với những bất hạnh như thế, nên những tình ca ông viết cũng không là những bài ngợi ca hạnh phúc. Nó là những bất hạnh của chia xa của những thương tích khổ đau, tuyệt vọng. Chính Trịnh Công Sơn cũng nói rõ điều ấy: "Mỗi bài hát của tôi là một lời tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm kín về những nỗi niềm tuyệt vọng, và cũng là một nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi đối với buổi chia lìa (một ngày nào đó) cùng mặt đất mà tôi đã một thời chia xẻ những buồn vui cùng mọi người".
Nên ông mong có được tin vui từ gạch đá dẫu mai nơi này người có xa người, hãy hát tình ca, hãy yêu nhau dẫu đang chênh vênh bên bờ của nguy khốn, hạnh phúc và thương đau cứ hãy trao cho nhau...
Trịnh Công Sơn, thủy chung vẫn chỉ ở với nhạc tình. Bài ca đầu tiên và cuối cùng của ông đều là những tình ca. Trong một chiều dài một nửa thế kỷ sáng tác, từ những năm 1950 đến cuối thập niên 90, Trịnh Công Sơn viết nhiều nhất vẫn là nhạc tình. Bản tình ca đầu tiên không phải là bài Ướt mi như nhiều người vẫn nghĩ. Ông cho biết ca khúc viết cho tình yêu đầu tiên của ông là bài Sương đêm mà nay ông chỉ còn nhớ được cái tựa. Không một ai biết bài hát này. Ông cho biết nó đã thất lạc với những biển dâu trùng trùng của đời sống. Ướt mi lần đầu tiên được hát trước công chúng là tại phòng trà Văn Cảnh bởi tiếng hát của Thanh Thúy. Ca khúc này đưa Trịnh Công Sơn thành một tên tuổi nổi tiếng lập tức.
Tình khúc Ướt mi là khởi đầu cho chuyến đi rất dài, trên đó, ông để lại cho người thưởng ngoạn nhiều tình ca khác. Nhưng Ướt mi, tuy thế, không phải là ca khúc viết về tình yêu hay nhất của ông. Nó vẫn còn những nét sơ phác cả về nhạc lẫn lời ca. Phải đợi đến Diễm xưa, và Nắng thủy tinh mức độ trưởng thành về nhạc và sự chín tới của lời ca mới thấy rõ nơi nhạc Trịnh Công Sơn.
Màu nắng màu mắt, chiếc bóng nghiêng, bàn tay xanh xao, gió mây ngàn, cây thắp nến... với Nắng thủy tinh, tình ca Việt Nam đi sang một hướng mới. Ngôn ngữ dùng làm lời ca là ngôn ngữ của thi ca, mới từ âm thanh đến ý nghĩa. Trước và sau Trịnh Công Sơn, không ai viết thứ lời ca như thế...
Trong chiều dài sáng tác của Trịnh Công Sơn, ông cứ tiếp tục làm mới ông mãi mãi. So với Nắng thủy tinh, thì Như cánh vạc bay lại hoàn toàn đi sang một lối khác. Cái đau đớn, chết chóc không còn nữa, nhưng niềm tuyệt vọng thì còn nguyên. Câu cuối của bài hát này,cứ như những vòng sóng trên mặt hồ, chạm vào bờ, rồi lại chạy giữa hồ hoài hoài mãi mãi. Những sợi tóc từ đó mãi mãi là nhắc nhở về mặt hồ sóng. Nắng thì hờn ghen, mưa thì làm buồn đôi mắt. Đặc tính thơ hiện ra rất rõ trong Như cánh vạc bay, làm khía cạnh thơ lấn hẳn phần nhạc.
Quỳnh hương mà ông viết trong thập niên 70 lại đưa nhạc của ông đi xa khỏi cái bờ bến đầu tiên của Ướt mi thêm một đoạn đường dài khác. ông nhẹ nhàng như những bước nhún nhẩy của nhịp 2/4, như một lời tỏ tình hân hoan...
Bông hoa quỳnh ông đem tặng người yêu dấu cũng là món quà người nhạc sĩ viết tình ca để lại cho chúng ta, cho đời sống, đời sống đẹp mà ông chỉ cho chúng ta tìm lại được trong thế giới nắng hạn đã có lúc bốc cháy tan nát này.
Phản chiến?
Ở Việt Nam, thế hệ ra đời từ khoảng cuối thập niên 30 đến những năm đầu của thập niên 50 là thế hệ gặp nhiều bất hạnh. Trong lịch sử Việt Nam, chắc chắn họ là những người tử trận nhiều nhất, góa bụa nhiều nhất và mồ côi nhiều nhất. Họ vừa lớn lên, là đã đụng mặt với một trong những cuộc chiến kinh hoàng, ghê khiếp nhất lịch sử nhân loại.
Trịnh Công Sơn mới bước vào tuổi biết nghĩ, là lúc chiến tranh cũng đang sửa soạn đi vào đoạn khốc liệt nhất. Trong những cái ốc đảo nhỏ của những thành phố ông đã ở đó, âm thanh của cuộc chiến vẫn vọng về, tiếng nổ của đại bác đã thay cho tiếng ru hằng đêm, những đứa bé côi cút lõa lồ, những người già trong công viên, đàn bò ngu ngơ... nhắc nhở cho ông không khí đầy súng đạn, chết chóc xung quanh. Chỉ là gỗ, là đá mới không cảm thấy được những khổ đau, bất hạnh của đất nước, của dân tộc.
Mà làm sao người ta có thể biết chắc được rằng gỗ, rằng đá không đau? Bia đá cũng còn biết đau như ông đã viết trong một ca khúc. Đá còn vậy huống chi con người trước những tang tóc, đau thương của đồng loại.
Từ một người chỉ muốn được một đời viết và hát nhạc tình, ngợi ca tình yêu, thì cuộc chém giết hàng ngày chung quanh ông đã bắt ông phải nói lên những khát vọng hòa bình, của chúng ta, của cả dân tộc Việt. Không phải chỉ bên này, hay chỉ bên kia mới đươc quyền nói, kêu gọi, đòi hỏi hòa bình, mà chính bạn, tôi, chúng ta, như trong ca khúc nhan đề Chính chúng ta phải nói, ca khúc một thời trên môi tuổi trẻ Việt Nam ở các sân trường học.
Năm 1968, khi chiến tranh ở giai đoạn khốc liệt nhất, thì đó cũng là năm nhạc của Trịnh Công Sơn đi sang một hướng đi khác. Vẫn tiếp những ca khúc lãng mạn ngợi ca những mối tình đến rồi lại đi, nhưng ngay trong các tình khúc ấy, tiếng đạn bom, trái phá cũng đã trùng khắp, con phố xưa đầy dấu đạn, tên em cũng là vết thương khô.
Trịnh Công Sơn bắt đầu viết những ca khúc được nhiều người gọi là nhạc phản chiến.
Không một người nào có trái tim mà không biết nhỏ lệ, mà không biết khóc cho cả một dân tộc, cho anh, cũng như cho em đang quằn quại trong niềm thù hận mà ông gọi là “giả tạo" đó.
Trịnh Công Sơn viết về giọt nước mắt của người mẹ thương con, thương sông, thương rừng, thương đất, thương mây, thương chim, thương đêm, giọt nước mắt không tên, bài hát cảm động nghe muốn khóc. Nguyễn Đình Toàn, một lần, khi giới thiệu giọng hát Khánh Ly, đã gọi đó là giọng hát đi rao giảng những bất hạnh của dân tộc, giọng hát để tang cho đất nước.
Khánh Ly chỉ là người đem những điều Trịnh Công Sơn viết xuống và chuyển đúng được những điều ông gửi gắm.
Tập nhạc ông đặt tên là Kinh Việt Nam, xuất bản năm 1968, theo chính lời ông viết ở trang đầu, là tiếng kêu thương thống thiết, khởi từ một thực trạng máu xương, là lòng mơ ước về một rạng đông cho đêm tối dài lâu này. Đó là những bài hát được viết từ những hân hoan lắng nghe được trong lòng người, là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh.
Nếu đó là nhạc phản chiến, thì tất cả chúng ta đều có đầy đủ lý do và chính nghĩa để chống lại chiến tranh. Phản chiến, như thế, không là taboo, một cấm kỵ nữa, mà là một ước ao tất đẹp nhất của con người.
Trịnh Công Sơn chống lại chiến tranh, giết chóc một cách hiền lành. ông không đòi xương máu, ông không đòi trả thù, ông không đòi tiêu diệt bên này, chôn sống bên kia. ông bất lực không làm gì được để chặn những viên đạn bay, để nâng dậy hòa bình khốn khổ cho dân tộc đầy đoạ triền miên bao nhiêu năm. Ước mơ tội nghiệp đó nghe được trong tất cả những ca khúc phản chiến của ông.
Trịnh Công Sơn, trong thế đứng khó khăn, thế đứng dựa vào nhân bản và dân tộc đó, ông đã giữ được cho đến lúc qua đời mặc dù trong đời sống, đã có lúc ông bị buộc phải đi trên sợi dây cheo leo, dưới chân là bờ vực hiểm nghèo. Nhưng lòng yêu quê hương, lòng thương người của ông, những giọt nước mắt cho người mẹ ngồi chờ, cho người lính ngồi chờ trên đồi, cho chúng ta, là những điều sẽ còn mãi trong lòng cả một xứ sở, một dân tộc trong nhiều năm nữa, chừng nào còn có người hát nhạc Việt.
Trịnh Công Sơn và tôn giáo
Nhạc tôn giáo ít khi tiến được ra ngoài những bức tường của thánh đường hay sân chùa để được trình tấu và thưởng thức cùng với loại nhạc phổ thông và thời trang khác. Lý do là vì cấu trúc của loại nhạc này quá cổ điển, và ngôn ngữ quá tôn nghiêm. Tính chất tôn nghiêm đó khiến cho khó có thể nói về tình yêu, thứ tình cảm thuần khiết và giản dị nhất của con người. Vì thế, nhạc tôn giáo vẫn tiếp tục ở mãi trong những bức tường thâm nghiêm của giáo đường và chùa chiền.
Đầu thập niên 60, The Singing Nun, một nữ tu người Bĩ cũng có biệt hiệu khác là Soeu Sourire, với cây Tây Ban cầm, đã rất thành công trong thế giới nhạc Pop với hai bài d Entre Les étoiles và Dominique, hai bài hát mang rất nhiều hình ảnh tôn giáo, nhưng lại được những người trẻ tuổi nghe nhạc Pop ưa thích ngay. Hai nhạc phẩm lời ca viết bằng tiếng Pháp cũng được ưa chuộng ở các nước nói tiếng Anh. Những rào cản cũ bị dẹp bỏ.
Cùng lúc, Trịnh Công Sơn cũng đem dùng một số những từ ngữ mà trước đó được giữ trong một nơi chốn khác hơn là ngôn ngữ âm nhạc thời trang.
Những chữ phúc âm, lời buồn thánh... dẫu chuỗi hình ảnh đi kèm vẫn là của tình yêu lãng mạn, nhưng đó là lần đầu tiên những loại từ ngữ này được dùng trong những bản nhạc không mang không khí của giáo đường. Trịnh Công Sơn đem thứ ngôn từ đó ra ngoài, biến chúng trở thành thân quen, tình tứ. Chiều chủ nhật, thiên thần, ăn năn... những từ ngữ vang vọng tiếng chuông, tiếng phong cầm ấy được nối tiếp sau đó không bao lâu bằng nhạc phẩm mang tựa đề Phúc âm buồn, cũng lại là một thứ từ ngữ nghe là thấy không khí của tôn giáo. Nhưng Trịnh Công Sơn chỉ dùng những từ ngừ đó như một cái cớ để dàn trải những tình cảm lãng mạn của ông. Không khí mà chử nghĩa lấy từ trong Tân ước được lồng vào hai bản tình ca của Trịnh Công Sơn. Ông biến những chữ trước đó luôn luôn gây những ấn tượng trang nghiêm lạnh buốt thành những ngôn từ gần gũi hơn, thân mật hơn. Đã có lúc người ta tưởng đạo Cơ Đốc là tôn giáo của ông.
Trong một cuộc phỏng vấn, Trịnh Công Sơn cho biết đạo Phật đã ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của ông. Nhưng lớn lên, càng lớn, và càng nhìn ra những khổ hạnh trong đời sống, những bất công, những đau đớn cuộc chiến mang lại, Trịnh Công Sơn càng thấy ra những lời gọi của tôn giáo. Ông tìm được an ủi, trong tuyệt vọng, ông tìm được vỗ về trong hạnh phúc mong manh phù du.
Bài Đóa hoa vô thường - một ca khúc đẫm hương thiền - lại là một ca khúc hạnh phúc nhất của ông. Trong đó, sự cứu rỗi đón lấy ông giữa những trang kinh thơm mùi sen cao quý. Đời sống phù du bỗng bình an vô thường.
Trịnh Công Sơn dùng hình ảnh từ những trang kinh ra để nói về tình yêu. Nhưng rồi ông cũng lại dùng những lời ca tầm thường nhất để tạo một không gian đầy tôn giáo. Bài Nguyệt ca là một ca khúc như thế.
Điều đó cho thấy là bao giờ, thủy chung, Trịnh Công Sơn cũng vẫn là một nhạc sĩ viết tình ca, loại nhạc sẽ ở mãi với con người cho dẫu thời gian, không gian có đổi thay.
Những ru khúc
Trịnh Công Sơn, năm 1995, khi thân mẫu qua đời, đã viết đầy kín một trang giấy những suy nghĩ của ông về cái ngày đau buồn đó. Với ông, chuyện mất mẹ là một chuyện không thể thỏa hiệp, không thể dàn xếp được, dẫu cho người con có bao nhiêu tuổi đi chăng nữa. Ông sống rất lâu với mẹ, từ khi mất cha. Ông bị ảnh hưởng rất nhiều nơi mẹ. Thế nên sự ra đi của người mẹ, mới là điều không thể thỏa hiệp được với ông như ông nói ở trên. Chính những bài hát ông nghe được của mẹ đã tiếp tục theo ông mãi trên đoạn đường dài nhất. Những bài hát mẹ hát để ru những người em đã trở thành những hạt mầm mọc lên những ca khúc ông viết sau này. Trong bài Tình yêu tìm thấy, người ta nghe được câu này về những bài hát ru ấy: Tiếng ru mẹ hát những năm xưa, mãi là lời ca dao bốn mùa, tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá, góc phố nào cũng thấy quê nhà...
Ông rời nhà đi học ở một thành phố lạ, hình ảnh mang theo của bà mẹ là những bài hát ru. Và ông nhắc đến những bài hát ru ấy nhiều trong các ca khúc của ông.
Những bài hát ru của Việt Nam là những vỗ về, là những dỗ dành, là những an ủi, là những vuốt ve đầu tiên của những đứa bé. Vòng tay thơm, giọng hát ấm áp của người mẹ đem lại cảm giác an toàn cuối cùng cho người ta trước khi bị đẩy ra thế giới có khi rất hung bạo ở ngoài cửa. Trịnh Công Sơn tìm thấy trong những bài hát ru ấy một chỗ trú ẩn rất bình yên. Đời sống của người thanh niên trẻ lần đầu tiên sống xa những bức tường an toàn của ngôi nhà cũ ở Huế khiến ông cứ tìm cách để trở về với nó mãi. Và đó là lý do Trịnh Công Sơn viết rất nhiều ru khúc trong chu trình sáng tác của ông. Ông viết để trở về với đoạn đời hạnh phúc, an toàn ấytrong khi đi qua những con đường đầy những gập ghềnh của thế giới ông vừa tiến vào.
Ru ta ngậm ngùi là những an ủi, vuốt ve cho chính mình trong niềm cô đơn tội nghiệp. Ông muốn được trở lại ngủ trong vòng nôi, trong tiếng ru ấy.
Những bài hát ru đem lại cho người nghe cảm giác an toàn hạnh phúc. Và cuộc đời càng đưa tới những bão táp nghiệt ngã, thì người ta càng muốn tìm trở lại nơi trú ẩn cũ. Những bài hát ru của thời thơ ấu cho ông nơi trú ẩn đó. Chiến tranh càng khốc liệt, thì người ta càng cần đến nhiều hơn những nơi trú ẩn, những nơi trú ẩn an toàn nhất của thời thơ ấu, đó là những bài hát ru trong lòng người mẹ. Trịnh Công Sơn nhìn thấy, một cách kinh hoàng khi những tiếng đại bác thay thế cho những tiếng ru hàng đêm: đại bác đêm đêm dội về thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe.
Ông thấy phải thay những tiếng nổ đó bằng những ru khúc. Những bài hát để ru những anh và những em, những người già, và những em bé, ru đất nước và dân tộc, ru cho những đau thương, những bất hạnh ngủ yên.
Trịnh Công Sơn, trong khi đi tìm sự bình yên cho ông bằng những ru khúc ông viết, thì cũng đem lại những an ủi, vỗ về cho nguyên một thế hệ của ông. Có thể nói không một nhạc sĩ nào viết nhiều ru khúc như Trịnh Công Sơn, ít ra cũng phải trên hai chục bài. ông ngậm ngùi ru chính ông. Ông ru tình, ông ru đời. Ông ru đời đã mất. Ông ru người yêu ngủ trong buổi sớm mùa đông, rồi lại một sớm mùa xuân. Ông ru mãi, ru hoài. Ông ru những tháng âm u, ru những chia xa, những phụ rẫy, ngọt bùi. Những lời tỏ tình cũng được lồng vào một điệu ru như trong ca khúc Ru em từng ngón xuân nồng.
Còn một cách tỏ tình nào hơn bài hát ru đó?
Thân phận con người
Tuyển tập Những bài ca không năm tháng xuất bản cuối năm 1998 là một tập nhạc đồ sộ ở con số bản nhạc được chọn để in. Đó là lần đầu tiên, một tập nhạc có con số ca khúc lớn như thế của Trịnh Công Sơn: 127 bản.
Nhưng đó không phải là tất cả những bản nhạc ông viết đã cho phổ biến và đã được hát lên, được nghe trong cuối đời sáng tác của ông. Thông thường thì tác giả nào chẳng muốn in toàn bộ sáng tác của mình, hay ít ra, thì cũng là tất cả những tác phẩm ưng ý nhất, vào một tập. Trịnh Công Sơn cho biết, trong cuộc đời sáng tác của ông, đã viết trên 500 nhạc phẩm, con số mà những người biết ông đều nghĩ là một con số quá khiêm tốn. Nhưng trong số ấy, ông cũng chỉ chọn 127 bài để in trong tập nhạc này.
Tuy được sắp xếp theo thứ tự của tự mẫu La Tinh nhưng tình cờ, ca khúc đầu tiên lại là Bên đời hiu quạnh và bản nhạc cuối của tập nhạc là bản Yêu dấu tan theo, và chính tựa của hai ca khúc in ở đầu và cuối tập nhạc cho thấy những suy nghĩ cuối đời của ông về tác phẩm ông muốn để lại.
Những bản nhạc trong tuyển tập đều không ghi ngày viết và không được xếp theo thứ tự tháng năm sáng tác.
Mở tập Những bài ca không năm tháng người ta thấy ngay một điều: đó là sự thiếu vắng của những ca khúc vẫn thường được gắn liền với tên tuổi của ông. Những bản tin của báo chí hay các hãng thông tấn ngoại quốc như The New York Time, The Washington Post, Reuters, AFP, A-P... đều nhắc đến ông như một nhạc sĩ phản chiến. Nhưng trong tập nhạc cuối cùng này, người đọc không thấy có bất cứ một bản nhạc gọi là nhạc phản chiến nào. Những ca khúc như Chờ nhìn quê hương sáng chói, Ngày mai đây bình yên, Ta đã thấy gì trong đêm nay, Sao mắt mẹ chưa vui, Nước mắt cho quê hương, Ca dao mẹ, Người già em bé, Du mục... đều không có mật.
Mà những ca khúc đó, đều là những bài hát không thể không có trong những sinh hoạt của tuổi trẻ miền Nam Việt Nam trong những năm 60 và 70, những bài hát đóng góp lớn trong việc làm thành tên tuổi ông. Và luôn cả bài Nối vòng tay lớn, bài hát từ nhiều năm nay luôn luôn đi liền với tên ông. Bài hát được hát lên rất nhiều như ước vọng nối lại sơn hà, nối thành phố với nông thôn, nối người chết linh thiêng vào đời, nối Bắc với Nam, nối biển xanh với sông gấm, nối rừng núi với biển xa...
Trịnh Công Sơn không đưa những bài hát này vào tập Những bài ca không năm tháng.
Trong một câu ông viết ở đầu tập nhạc, ông khẳng định:
Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Và những bài ca ông cho in trong tuyển tập chỉ còn là những bài hát về tình yêu và thân phận.
Trịnh Công Sơn viết những ca khúc về thân phận hết sức buồn bã. Ngay cả trong những bài hát ông viết về tình yêu, ông cũng bày ra một nỗi buồn chán, tuyệt vọng. Trong suốt những năm trưởng thành của ông, những gì xẩy ra trên quê hương mà ông chứng kiến, chỉ là những điều buồn phiền như ông đã kể: "Trên quê hương còn lại ta đi qua nửa đời chưa thấy được ngày vui..." (Những con mắt trần gian).
Những bạn bè rời xa, những cuộc tình bỏ đi, ngày qua đi mỗi ngày một xót xa... "Ở cuối chân trời Việt Nam, những tia nắng nghèo nàn và bệnh hoạn từ một mặt trời hết sinh khí sắp đi vào hồn mê". Ông đã viết như thế năm 1968 ở đầu tập nhạc Kinh Việt Nam. Trịnh Công Sơn đã sống những ngày vô cùng tuyệt vọng như thế, như trong ca khúc Như chim ưu phiền mà nhịp đi buồn bã của thơ năm chữ còn rất rõ trong bản nhạc:
Tôi như con chim nhỏ
Bay về rất ngẩn ngơ
Trên nhân gian chia lìa
Lòng đầy những oán thù
Tôi như chim xa lạ
Đứng nhìn những ngày qua
Trong tim tôi bất ngờ
Một lời than rất nhỏ.
Trịnh Công Sơn lớn lên, nhìn chung quanh chỉ thấy những tin buồn, những tin buồn như ông có lần viết là đã mang "từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người" trong ca khúc Gọi tên bốn mùa.
Võ Phiến trong Văn học miền Nam tổng quan nhận xét Trịnh Công Sơn vừa mới lớn lên cũng thốt lời siêu thoát như một đạo sĩ đầu râu tóc bạc chống gậy trúc dưới một chân núi nào.
Nhưng thân phận ấy cũng không phải chỉ là của riêng ông, mà là của cả dân tộc và đất nước đau khổ ông đang sống với những lìa xa, chết chóc, vong thân, tù ngục, đầy đọa triền miên. Đứa bé ra đồng đạp trái mìn nổ chậm chết không toàn thây, bờ môi như vẫn còn thầm hỏi có thiên đường hay không... Trong đời sống như vậy, thế hệ mất tuổi trẻ, không hạnh phúc của ông bỗng tìm thấy một phát ngôn nhân, một tiếng nói nói lên, thay mặt họ, về những bất hạnh của cuộc sống, những hoài nghi ngay cả về những bàn tay cứu rỗi của cả Phật lẫn Chúa như trong bài Này em có nhớ.
Cùng thời với ông, Thanh Tâm Tuyền kêu lên thảng thốt:
Sao tuổi trẻ quá buồn,
Như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
Như bàn ghế không bầy...
Thân phận buồn bã của tuổi trẻ trong cuộc chiến trở thành một ám ảnh không bao giờ rời Trịnh Công Sơn. Ông khóc cho họ, đau cho họ, rồi lại quay về an ủi, vỗ về họ.
Nhưng còn khúc hát nào buồn hơn trong vỗ về an ủi, bảo cho mọi người vui lên mà đau đớn như bài Hãy cứ vui như mọi ngày? "Dù ta như con đường dài vắng người... Hãy cứ vui chơi cuộc đời..."
Tiếng réo gọi về với ca dao
Năm 1967, chiến tranh Việt Nam leo thang lên gần đến điểm cao nhất, số người chết ởcả hai phía đều lên đến những con số làm kinh động lương tri của nhân loại. Việt Nam là một quốc gia đang trên đường tan rã. Tất cả mọi giá trị, mọi truyền thống đều bị đem ra thử thách, để rồi bị gạt sang một bên. Thành thị, nông thôn bốc cháy trong lửa của chiến tranh khốc liệt. Một thế hệ lớn lên không có được một ngày thanh bình, những nét tốt đẹp nhất của dân tộc bị thay thế bằng thù hận, bom đạn, tuyên truyền xảo trá, chiêu bài giả dối. Thế hệ đó như sắp đánh mất quá khứ và căn cước của họ sau bao nhiêu đổi thay, đổ vỡ, quê hương chỉ còn là những đống gạch vụn nát không thể trở về. Một nền văn minh khác đang đe dọa tiến vào, xóa đi những truyền thống cũ.
Thì đúng vào thời gian đó, bài Người con gái Việt Nam da vàng được hát lên lần đầu tiên ở một hội quán nhỏ ở Sài Gòn của sinh viên.
Người nghe, cái thế hệ thiệt thòi và tội nghiệp đó, thế hệ không được biết hòa bình bỗng được chỉ cho thấy cái họ sắp đánh mất. Cuộc sống tốt đẹp cũ trong một thời gian ngắn, đã trở thành quá xa lạ.
Trịnh Công Sơn có thể dùng một thể nhạc chậm hơn, không cần phải đầy nét hối hả để viết bài Người con gái Việt Nam da vàng, nhưng ông chọn một nhịp nhanh hơn để viết ca khúc này. Kết quả là bài ca mang nhiều hối thúc giục giã hơn. Và có lẽ ít có một ca khúc nào tạo được nhiều xúc động như một câu trong bài, câu: “... Em chưa hát ca dao một lần, em chỉ có con tim căm hờn...".
Nguyên một thế hệ xa lạ hẳn với ca dao vì chiến tranh, bom đạn. Dòng nước ngọt với những lục bát vỗ về tình tứ, những an ủi, những tỏ tình, những lẳng lơ tuyệt đẹp thế hệ này không biết. Nhiều tiếng nói cất lên để báo động: dân tộc sắp đi tới một hành động phá sản tự sát văn hóa.
Trịnh Công Sơn, bằng ca khúc Người con gái Việt Nam da vàng, đã lên tiếng nhắc thế hệ của ông, cái thế hệ đi trong đêm vang ầm tiếng súng, mang trong con tim những căm hờn, yêu quê hương nay đã không còn, rằng họ chưa được hát ca dao một lần, họ cũng quên mất xưa kia Việt Nam không như Việt Nam mà họ đang phải sống từng ngày.
Tiếng réo gọi của bài hát thật là khủng khiếp. Ông kéo người nghe lại gần, rồi chỉ cho thấy quê hương khốn khổ ấy, nơi những địa danh, những tên thành phố chỉ còn là nhắc nhở về những cái chết, là nỗi bất hạnh, là những khổ đau của cả một dân tộc.
Những hình ảnh quê hương đất nước thanh bình mà các nhạc sĩ lớp trước vừa vẽ ra được như trong các ca khúc của Nguyễn Văn Khánh, Phạm Đình Chương, Phạm Duy, Lam Phương, Văn Phụng... qua đến Trịnh Công Sơn thì không còn nữa. Những hình ảnh của một thời thanh bình ấy được thay bằng những cái chết không manh áo, ngoài đồng, trên sông, lòng đèo, ở Ba Gia, ở Chu Prong, ở Huế, Sài Gòn, Hà Nội... trong Tình ca của người mất trí.
Trịnh Công Sơn viết về đất nước như một hành động đòi lấy quyền để nói, để nhắc nhở cho thế hệ của ông, trước ông và sau ông về một quê hương Việt Nam đang bốc cháy để báo động trận hỏa hoạn, để hét lên lời cầu cứu..."Hố thẳm đã mở ra dưới chân dân tộc này. Lương tâm con người đang trên đà bị phát mãi.” Ông viết ở đầu cuốn Kinh Việt Nam như thế.
Ca khúc tiếp theo, Lại gần với nhau là những lời gọi thảm thiết, gọi anh, gọi chị, gọi em, gọi mọi người ngồi lại, ngồi gần lại nhau.
Trịnh Công Sơn nói với một người bạn rằng ông không thể sống ở ngoài Việt Nam, bất kể đó là một Việt Nam thế nào đi chăng nữa. Ông ôm lấy quê hương tơi tả rách nát chờ một ngày đất nước đứng dậy, vực lại quá khứ huy hoàng cũ. Cũng ở tập nhạc in năm 1968, ông viết: "Xin đừng bao giờ làm kẻ phản bội một quá khứ hiển linh."
Trịnh Công Sơn không viết về quê hương thanh bình: “Em không biết quê hương thanh bình, em chưa thấy xưa kia Việt Nam..” Ông viết về quê hương của những ngày sắp tới, khi ba thành phố nắm tay nhau, ba dòng sông góp thành hội trùng dương. Huế sài Gòn Hà Nội nói lên ước mơ của những trái tim đau sắp kiệt lực, những chờ đợi cho những con đường nở hoa, cho lá trầu, miếng cau cau cổ tích trùng phùng. Ước mong đó không thể là của một người, mà của cả dân tộc bị đầy đọa khốn cùng. Trịnh Công Sơn đã nói lên tất cả những điều đó cho những người anh em của ông, chúng ta.
Nỗi cô đơn giữa đám đông
Trịnh Công Sơn trong suốt nhiều năm, lúc nào cũng có đông bạn bè ở chung quanh nhưng ông lại là người hết sức cô đơn ở giữa đám đông ấy. Ông cứ loay hoay với những mệt mỏi của cuộc chiến tranh mãi không tìm ra được lối thoát trong khi những tiếng động của cuộc chiến vẫn vọng về cắt ngang những đời sống, những tương lai, những cuộc tình, những bạn bè, tuổi trẻ của thế hệ cùng thời với ông. Càng nghĩ tới những chuyện đó, ông càng thấy rất nhiều suy nghĩ của ông không được chia sẻ. Nhịp quay của đời sống cuốn theo, nuốt trôi mọi thứ. Ông vừa thấy bất lực trước chung quanh nghiệt ngã, vừa cảm thấy lúc nào ông cũng một mình. Chỉ những khi bóng tối che ngang, lúc có những tiếng gọi thì thầm của trăm năm, như đoạn mở đầu của bài Còn có bao ngày, ông mới tìm thấy được ở ban đêm, ở bóng tối chỗ ẩn náu, nơi trở về an toàn, tịch lặng nhất với những đêm tối, về an ủi cho mình. ông nhắc rất nhiều đến những đê những hoàng hôn, những đêm khuya trong nhạc.
Đó là những lúc để ông nhìn ngắm lại cuộc đời mình. Đó cũng là lúc ông "đau đớn nhận ra rằng cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh". Ông viết như thế ở trang 275 của tuyển tập Những bài ca không năm tháng.
Những suy nghĩ về cuộc đời, về thân phận một người đang đi qua một cuộc chiến thảm khốc với những tư tưởng không ở giữa dòng nước càng ngày càng đẩy ông ra ngoài đám đông mặc dù ông vẫn đang ở giữa quê hương đau khổ.
Ông không đồng ý và chấp nhận một đời sống tự hủy đang diễn ra chung quanh.
Ông là người đi lạc trong một thành phố tưởng là quen thân lắm. Nhưng thực ra, Trịnh Công Sơn không thuộc vào một nơi nào hết. Ông cứ đứng ở bên ngoài, tự chọn cho mình thế đứng không nhập cuộc, hai vai hai vầng nhật nguyệt, thư thái trên con đường chỉ một mình đi.
Trong Một cõi đi về... "Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ. Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà..." chỉ một câu, cũng đủ để bầy ra tất cả sự cô đơn khủng khiếp ông phải đối mặt mỗi ngày trong đời sống rất nhiều biến động.
Tâm trạng cô đơn đứng ngoài một mình không tham dự và nhập cuộc của Trịnh Công Sơn còn được thấy rõ hơn trong bài Tự tình khúc. Ông thấy mình là đứa bé ngồi nhìn thế kỷ qua đi, vẫn không thấy được nơi nương tựa, vẫn cứ chỉ là ngọn đèn nhỏ thắp lên cho riêng mình. Bài ballad viết về sự cô đơn ấy đầy những hình ảnh xót xa hết sức bi thảm và cảm động. Trên cái vực thẳm ngó xuống lòng sâu của cô đơn, ông ngồi một mình.
Căn bản, các sáng tác của Trịnh Công Sơn là nhạc tình. Bài Tình xa là một ca khúc ông viết cùng thời gian với Tình nhớ và Tình sầu để thành một trilogy trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của ông. Và trong Tình xa, sóng được cho dội vào đời buốt giá, gió cát phù du bay về để nói về nỗi cô đơn của ông. Ông dùng hơn một tình khúc để nói về sự cô đơn đó.
Sự cô đơn đã là một cơn đau suốt đời của Trịnh Công Sơn. Nhưng chính ông đã lựa chọn để sống với nó.
Cũng như Socrates, ông thà sống khốn khổ còn hơn.
Những để lại
Nhiều so sánh đã được đưa ra để tạo ấn tượng về một sự việc ít ai biết với một sự việc đã quen thuộc với nhiều người. Thí dụ khi nói nhà văn X là một Solzhenitsyn của văn chương Pháp, họa sĩ Y là một Cezanne của hội họa ý, nhà thơ Z là Đỗ Phủ của thi ca Đại Hàn... thì người nghe có ngay một số khái niệm về các ông XYZ ngay. Nhưng cũng rất nhiều khi những so sánh này lại là những bất công đáng kể với những tiêu chuẩn được đem ra dùng để so sánh. Các ông Solzhenitsyn Cezanne, Đỗ Phủ lớn hơn các ông XYX chẳng hạn.
Và cũng có những trường hợp ngược lại.
Joan Baez, một nữ ca sĩ nhạc dân ca - folk singer - của nhạc Mỹ, khi được giới thiệu với Trịnh Công Sơn, đã đưa ra một so sánh lập tức: Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam.
Việc Joan Baez làm cũng dễ hiểu: cô tạo được sự nghiệp ca hát phần lớn là nhờ nhạc của Bob Dylan, những ca khúc chống chiến tranh của người nhạc sĩ này. Nhưng cô chưa biết được đủ về Trịnh Công Sơn. Nguyên số lượng ca khúc mà Trịnh Công Sơn viết đã nhiều hơn số ca khúc của Bob Dylan. Mà đó mới chỉ nói về số lượng sáng tác.
Như vậy sự so sánh có bất công cho Trịnh Công Sơn. Bob Dylan viết một số nhạc phản chiến - anti war song - và phản kháng - protest songs - cùng một số đề tài khác. Trịnh Công Sơn viết nhạc phản chiến, phản kháng, nhưng chủ yếu là tình ca, những đề tài khác là quê hương, thân phận con người, trong đó, triết lý và tôn giáo là những nét nổi bật. Bài nổi tiếng nhất của Bob Dylan là ca khúc Blowin In The Wind, bài hát nói về chiến tranh, bom đạn, chết chóc, ước mơ hòa bình được coi như bài hát đầu môi của các phong trào phản chiến hồi thập niên 60. Nhưng Blowin In The Wind vẫn chưa tới được mức bi thảm như các ca khúc Chính chúng ta phải nói, Người già em bé, Nước mắt cho quê hương hay Đại bác ru đêm.
Pete Seeger là một nhạc sĩ dân ca hàng đầu của Mỹ. Ông cũng viết nhiều ca khúc chống chiến tranh, và một trong những bài nổi tiếng của ông được hát rất nhiều trong những sinh hoạt chống chiến tranh của thập niên 60 là bài Where Have All The Flowers Gone. Pete Seeger lớn tuổi hơn Trịnh Công Sơn và Bob Dylan nên không được đem ra so sánh. Nhưng cùng những ý tưởng và hình ảnh thì Where Have All The Flowers Gone chưa bi thảm bằng Người con gái Việt Nam da vàng hay Tình ca người mất trí.
Pete Seeger cũng viết về nước Mỹ, This Land Is Your Land, nhưng lòng yêu thương đất nước: Đất này là đất của anh, đất này là đất của tôi, từ rừng hồng mộc miền Tây đến biển đầy bọt trắng miền Đông, đất này được tạo ra cho chúng ta... không thể cảm động như Huế Sài Gòn Hà Nội của Trịnh Công Sơn. Huế sài Gòn Hà Nội có tiếng hối thúc, réo gọi, hừng hực...
Trịnh Công Sơn viết tình ca nhiều hơn Burt Bucharach mặc dù số lượng mà tác giả của I’ll Never Fall In love Again, của Raindrop Keep Falling On My Head, Alfie, Anyone Who Had A Heart cũng đã nhiều. Nhiều nhưng chưa thể vượt quá con số 127 bài mà Trịnh Công Sơn chọn để in trong tuyển tập Những ca khúc không năm tháng sau khi đã bỏ ra ngoài một số lượng rất lớn những ca khúc viết về các đề tài khác của ông.
Một đóa hoa quỳnh không bao nhiêu người biết, qua những khuông nhạc của Trịnh Công Sơn, nó biến thành một lời tỏ tình. Những bước chân trở về của người phụ nữ không may mắn, làm công việc rất bất hạnh của xã hội đã thành một tình khúc bi thảm, bài Nghe những tàn phai.
Những chi tiết vừa kể cho thấy đem những tên tuổi khác để so sánh với Trịnh Công Sơn là một việc vừa sai lầm vừa bất công.
Có một chi tiết nhỏ về những ca khúc của Trịnh Công Sơn, đó là với một số lượng sáng tác lớn như thế và được phổ biến rộng rãi như thế, chỉ có một hay hai bài, có phần chắc là không quá hai bài, bị đem ra đặt cho những lời ca khác nhảm nhí.
Đó có phải là một thái độ yêu mến trong khi vẫn còn dành cho tác giả rất nhiều tôn trọng của những người yêu nhạc, sống cùng thời với ông không?
Chúng tôi nghĩ là có.
Như một lời chia tay
Ở tuổi hai mươi mấy, ít người viết những lời ca trong bài Cát bụi. Và cũng không nhiều người viết di chúc hay những chữ khắc trên mộ bia cho mình ở cái tuổi ấy. Ít người nghĩ đến cái chết, đến sự trở về với những hạt cát, những hạt bụi của nguyên thủy.
Trịnh Công Sơn đã làm công việc ấy một cách quá sớm. Ông viết Cát bụi năm ông chưa tới 30 tuổi, như thể ông nhìn thấy sự ra đi ngay trong sự sống qua những hạt bụi...
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi... ôi cát bụi phận này, vết mực nào xóa bỏ không hay...
Rồi vài chục năm sau, ông lại viết: "... trong xuân thì thấy bóng trăm năm..." ông luôn luôn nhìn thấy cái chết ở sự sống, trong hạnh phúc có bất hạnh, trong hôm nay có ngày mai, "dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ, dưới chân ngày cỏ xót xa đưa."
Có lẽ những năm chiến tranh, sự ra đi quá sớm của người cha, những bất trắc của đời sống làm ông luôn luôn bị nhắc nhở và ám ảnh về cái chết.
Cuối năm 1992, trong những dòng viết ở cuối tập nhạc Những bài ca không năm tháng Trịnh Công Sơn viết: "mỗi ngày sống tới, mỗi ngày tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm... Đời sống thật sự không tiềm ẩn điều gì mới lạ. Có lẽ vì thế, sự quen mặt mỗi lúc mỗi gần gũi, thắm thiết hơn, nên tôi càng thấy yêu mến cuộc đời."
Đó lại là những điều viết xuống của một người nói rất nhiều đến cái chết. Thực sự, ông là người rất yêu đời sống như lời ca của bài Hãy cứ vui như mọi ngày. Thí dụ:
... Hãy cứ vui như mọi ngày
Bên trời còn nắng
Lá trời còn xanh
Phố còn người đông...
Rồi ông lại viết "Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người" trong Để gió cuốn đi, một bài hát đọc thấy tấm lòng của ông với đời sống bằng nhịp 3/4 thư thả mà thiết tha.
Có lúc ông quay ra đùa cợt với cuộc đời, mà ông coi chỉ là nơi ông ở trọ. Mượn chút hơi dân ca, ông nhờ không khí lục bát trong ca dao để viết bài ở trọ bằng nhịp 2/4 vừa lẳng lơ vừa lý lắc những bước nhún nhẩy. Coi mọi thứ tình yêu, cuộc sống chỉ là vô thường, lúc có lúc không. Toàn bài nghe như những công án Thiền. Bài ca lời lẽ giản dị, có lúc tươi tắn lạ thường lại là những tư tưởng rất Phật giáo, được kéo xuống gần gũi hơn nhờ những í a của dân ca miền Bắc.
Trịnh Công Sơn viết nhạc cho người khác hát. Ông ít khi hát nhạc của mình trước đám đông mặc dù ông có giọng tốt.
Thêm nữa, là người viết những ca khúc ấy, ông hát chắc phải rất chính xác. Bài Như một lờichia tay đã được thu thanh bởi ít nhất là hai giọng hát mà ông rất tin cậy. Nhưng ca khúc này, hát lên bằng giọng của ông lại mang một nét khác nữa. Ông hát mà như gửi lại những điều đã đi qua đời ông cho người nghe, như đóng lại trang cuối cùng của cuốn sách. Lời ca của bài Như một lời chia tay đọc lên, không cần phải nghe ông hát cũng đủ tạo xúc động. Ông xếp lại đời sống, ông cám ơn cuộc đời, ông nhìn lại những cuộc tình, ông nhớ lại bông hoa mong manh cuối trời, coi đó như một lời giã biệt. Ý của lời ca thì bi đát, nhưng nghe qua giọng của ông, người nghe thấy được sự bình thản của ông khi từ biệt cuộc sống.
Trịnh Công Sơn đã về với cát bụi, giã từ nơi ông ở trọ. Ông biết trước chuyến đi về nơi vĩnh hằng. Nhưng ông cũng sẽ còn ở lại với chúng ta mãi mãi. Chúng ta mãi mãi nhớ ông, biết ơn ông, biết ơn ông đã nói hộ chúng ta những điều khó nói nhất, biết ơn ông đã vỗ về an ủi cuộc đời chúng ta trong những lúc hân hoan hạnh phúc cũng như những lúc sầu thảm bất hạnh.
Ba trăm năm nữa sẽ còn người hát và nghe những gì ôngđể lại.
Đó là món quà âm nhạc. Một món quà mà thỉnh thoảng lắm, có khi là vài trăm năm Việt Nam mới được món quà quý giá như thế.
Cám ơn Trịnh Công Sơn.
TRỊNH CÔNG SƠN VÀ NHỮNG CƠN MƯA Hải Trung
Chiều chủ nhật buồn
Nằm trong căn gác dìu hiu
Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều
Trời mưa trời mưa không dứt
Ô hay mình vẫn cô liêu.
Có một nỗi buồn vừa hiện hữu, vừa mơ hồ ở đây, mưa xanh mang tiếng hát xanh cứ chảy mãi trong từng tiết tấu giai điệu của tâm hồn. Tâm hồn ấy muốn được sẻ chia. Trịnh Công Sơn hình như đã thấy sự an ủi với sức mạnh ghê gớm của ngôn từ với những lớp nghĩa ẩn dụ lớn lao, lắng vào hồn người những tâm huyết tình đời. Giữa tầm tã mưa Huế, tôi chợt nhòa đi giữa lớp nghĩa ngôn từ của Trịnh Công Sơn qua hàng loạt ca khúc của ông.
Trịnh Công Sơn từng cho rằng: "Tôi chỉ là tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên nhưng linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo". Và có những linh cảm được khơi gợi bằng những âm thanh, hình ảnh mưa qua ca khúc của Trịnh Công Sơn gắn liền với tâm trạng, gắn liền với những ký ức sâu thẳm. Và một khi đạt đến đỉnh cao của cảm xúc, tình cảm, mưa đã trở thành ám ảnh khôn nguôi, trở thành biểu trưng cho cái đẹp của thế giới tự nhiên. Từ ký ức ập về, mưa đã hóa thành tiếng nói thầm thì đầy đồng cảm với điệuhồn tác giả.
Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa, reo mòn gót nhỏ
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu (Diễm xưa)
Không gian và thời gian quyện cùng nhau ở cùng một giai điệu, khoét thành chiều sâu tâm trạng. Cuốn theo giai điệu ấy, tiếng mưa Trịnh Công Sơn rơi theo từng cung bậc cảm xúc. Nhiều khi, ông day dứt chơi vơi vì một chuỗi hồi ức mưa sườn sượt, lê thê từ quá khứ.
Ngoài hiên mưa rơi rơi
Lòng ai như chơi vơi
Người ơi nước mắt hoen mi rồi.
Có thể bóng dáng một nàng Diễm của lòng ông chăng? Hay một nàng áo trắng cố đô chợt thoáng qua trong tưởng tượng của nhạc sĩ? Ca khúc đầu tiên này của ông mang một vẻ đẹp buồn, lãng mạn cũng vút lên từ giai điệu của những cơn mưa. Suy tư và chiêm nghiệm, mưa trong ca từ của ông được biến tấu qua nhiều hình ảnh sinh động, đồng thời là sự tái hiện ký ức ông thổn thức trước tình yêu lặng lẽ, âm thầm mà ngày mưa, tháng nắng ở đây vừa là chứng nhận vừa là hình thức để biểu đạt sự âm thầm, lặng lẽ đó.
Tôi đã yêu em bao ngày nắng
Tôi đã yêu em bao ngày mưa
Yêu em bên đời lặng lẽ (Trong nổi đau tình cờ)
Bởi vì, ông đã từng tiếc nuối, nhớ nhung một hình bóng xa vời: Ngày mai em đi biển nhớ tên em gọi về... (Biển nhớ). Bởi vì, lời hẹn thề là những cơn mưa (Tình xa).
Nên cuối cùng còn lại chăng chỉ là nỗi khát khao vô tận, ước mơ giản dị nhưng suốt hành trình vẫn là mơ ước "xin là mưa bay trong vườn em mùa hạ"; vẫn là đợi chờ, khát vọng "mưa đòi cơn nắng/ nhặt trời lấp lánh trên cao vừa xa vừa gần" (Bốn mùa thay lá).
Mưa đã đi qua rồi trở lại bằng những vệt ưu tư hằn trên khuôn mặt cuộc đời như báo hiệu sự bất an trong tâm cảm. Vượt lên tất cả mọi giới hạn của không gian và thời gian, vượt lên cả mọi hữu hình để tan vào cõi vô biên, giàu tính triết luận về tình yêu, về cuộc đời là đặc trưng của ca từ Trịnh Công Sơn. Ở đây, cái riêng được diễn đạt hòa trong cái chung và ngược lại cái chung biểu đạt được cái riêng như Thái Sơn của sáng tạo mà nghệ sĩ vươn tới. Đã có không ít những cơn mưa tái hiện trong nhiều nhiều ca khúc của Trịnh Công Sơn, mưa như đã là đối tượng, đã là một trong những hình thức biểu đạt cảm xúc tác giả. Mưa và con người - không gian bao la và tâm trạng cụ thể gắn bó mật thiết.
Thực tế cho thấy, trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, mỗi một tác giả đều muốn tạo cho mình một mô-típ về hình ảnh. Với Trịnh Công Sơn, hình tượng mưa, hình tượng nắng cùng xuất hiện một lúc trong nhiều trường hợp. Có thể chứng minh điều này bằng một loại hình ảnh trong các ca khúc Nắng thủy linh, Biển nhớ, Tạ ơn, Phôi pha, Như cánh vạc bay...
Màu nắng hay là màu mắt em
Mùa thu mưa bay cho tay mềm,
Nhìn từng hôm nắng ngời
Nhìn từng khi mưa bay
Nắng có hồng bằng đôi môi em
Mưa có buồn bằng đôi mắt em...
Đó là những hình ảnh chồng chất âm thanh sắc màu; thu hút vào đấy những nhịp điệu hồn cốt của cảm hứng như là nhánh thiên nhiên chảy mãi vào cảm xúc của Trịnh Công Sơn.
Không thể nghe ca khúc của ông một lần mà có thể cảm được nhận được, phần lớn các ca khúc của Trịnh Công Sơn không khép lại trong một kết luận cụ thể mà nó còn để ngỏ, dành cho sự liên tưởng, sự cảm nhận riêng của từng người nghe.
Tôi vẫn nhớ một câu thơ của nhà thơ Trần Dần:
“Mưa không cần phiên dịch". Thôi thì hãy để cho những cơn mưa của Trịnh Công Sơn dịch lấy bức thông điệp của mình...
Khi mà ông có khả năng "đánh thức cả trời mơ mộng tưởng chừng đã quá xa trong đời người"; khi mà "Trịnh Công Sơn trở thành người tình lãng du của nhiều thế hệ".
MỘT THIỀN SƯ DU CA Đỗ Minh Tuấn
Thế là Trịnh Công Sơn đã chính thức giã từ cõi tạm. Quá yêu cuộc đời, sợ hãi cô đơn và cái chết nên Trịnh Công Sơn đã tập sống thản nhiên trước hư vô và cát bụi từ rất lâu rồi, ấy thế mà khi anh ra đi ta vẫn sững sờ, đột ngột xúc động như thấy một người chơi ú tim nấp trong cát bụi đột nhiên lại trở thành cát bụi ngay trước mắt ta.
Một niềm hoài cổ nỗi cô đơn, một chút xót xa day dứt, một lời khuyên nhủ tâm tình, một thoáng rợn ngợp trước cõi hư vô, một tiếng thở dài cam chịu, một lời than trách nhẹ như không, có biết bao nhiêu sắc thái khác nhau trong âm nhạc của Trịnh Công Sơn, thứ âm nhạc vút lên giữa tồn tại và hư vô, tiền kiếp và mai hậu, cát bụi và thiên đàng. Trịnh Công Sơn không đi trên ranh giới của các thái cực như một người làm xiếc, mà anh đã tạo dựng trên đường biên mong manh đó cả một thế giới riêng, hơn thế nữa một đạo riêng, đạo của cái đẹp, đạo của tình yêu. Có thể coi anh là một thiền sư, một thiền sư đã "ngộ" cái phù du tạm bợ của cõi thế và đã lựa chọn trước cho mình những nghi lễ của nhà Phật để giã từ cõi tạm. Âm nhạc của anh là những chiêm nghiệm vừa hàm súc, vừa thăm thẳm về một cõi yêu, cõi đẹp, cõi mơ mà trái tim anh đã bừng ngộ trong tình yêu và nỗi đau. Mỗi ca khúc là một cửa sổ mở ra cho chúng sinh nhìn thấy cõi tịch mịch huy hoàng. Mỗi giai điệu là một bàn tay ân cần chìa xuống từ cõi thiên thu, vừa xoa dịu cho con người những nỗi đau nhân thế, vừa vỗ về an ủi nó, vừa nhẹ nhàng trách móc nó, lại vừa ân cần dìu nó đến cái thế giới chói chang của một cảnh giới không có những hận thù, chia cách. Trịnh Công Sơn là một thiền sư du ca. Cõi đi về là cõi của người nghệ sĩ, ở đó, trong tư cách kẻ du ca, anh là con thoi đi về nối liền cõi đời và cõi đạo, nước mắt và tiếng cười trần thế và ảo mộng. Trong tư cách thiền sư du ca ấy, "cõi tạm" của Trịnh Công Sơn chính là cõi vĩnh hằng, là cõi yêu thương. Anh nhắc nhiều đến cõi tạm, không phải để xui con người nhấp nhỏm chia tay trần thế đắng cay này, mà để giác ngộ cho ta cái phù du của danh lợi, cái phi lý cua tranh chấp và thù hận, nhằm hối thúc ta hãy biết đem yêu thương chống lại cái mong manh tạm bợ của cõi đời. Anh nhắc nhiều đến cát bụi, không phải để thản nhiên chờ đón cái chết, mà chính là ú tim với cái chết, để mở rộng cõi thế và tình yêu trần gian sang thế giới bên kia. “Tôi là ai mà còn trần gian thế, tôi là ai mà yêu quá đời này". Như một đứa trẻ quá yêu đời, thỉnh thoảng lại thu mình lại trong trò ú tim nấp sau cát bụi, để nhấm nháp cái thiếu vắng của mình, để dõi theo cái tìm kiếm của đời, để nhẹ nhàng hờn dỗi và trách móc. “Yêu quá đời này" nên anh đã bằng tài năng âm nhạc của mình nới rộng cuộc đời sang cõi hư vô, nối liền khoảnh khắc với trăm năm và nối liền tình yêu vào cái chết. Những người thích rạch ròi, náo nhiệt có thể thấy âm nhạc của anh chỉ là những khúc ca dao đơn giản. Nhưng âm nhạc của Trịnh Công Sơn có một sự phức hợp và hoành tráng trong chiều kích thẩm mỹ, tâm linh. Một tiết tấu ám ảnh tưởng như là đơn điệu, nhưng nó gợi lên một sự tĩnh tại của thiền sư, một sự kiên nhẫn vô bờ của tình yêu, một nhịp trống dân gian sinh động và hối thúc. Những lời ca vừa trong sáng như dân ca, vừa thăm thẳm như lời kinh, vừa gần gũi giản dị như lời tâm tình trong tình yêu, gợi truyền thống hát nói của sân khấu Việt. Những ca khúc có thể hát trong sa-lông cho một người nghe, có thể hát ở quảng trường cho nhiều người hưởng ứng.
Âm nhạc của Trịnh Công Sơn luôn là âm nhạc dung hoà các thái cực, hoà trộn tình yêu đời, yêu người, yêu quê hương máu thịt và cái cảm thức vừa thản nhiên vừa day dứt trước cõi hư vô.
Cái cốt cách lưỡng cực, dung hợp và cái xu hướng nhân bản, khoan dung, đặt tình người cao hơn tất thảy ấy, đó là những cái làm cho âm nhạc của Trịnh Công Sơn thấm đẫm tinh thần văn hoá Việt. Cho nên, cái hạt - bụi - Trịnh - Công - Sơn ấy trong tư cách sứ giả của cõi vĩnh hằng, cõi hư vô vẫn chỉ là hạt bụi Việt Nam kết đọng tình yêu Việt, nhân cách Việt, thân phận Việt.
ANH ĐÃ VẮT KIỆT TÌNH YÊU CHO ĐỜI... Thanh Tùng
2-4-2001
Thế là người Việt Nam viết tình ca hay nhất thế kỷ đã qua đời. Thế là một trái tim nhân hậu đã ngừng đập, một thân phận mà sự hiến dâng là vô vàn trái ngọt còn sự hưởng thụ lại hết sức đắng cay... thân phận ấy đã chấm dứt.
Mặc dù đã cố gắng hết sức mình, từ Hà Nội tôi vẫn không thể nào trở về kịp trong giờ phút lâm chung của anh, để được ngồi bên giường bệnh cầm tay anh, nghe dù chỉ một lời của anh như trước đây hơn mười năm anh đã làm như vậy khi vợ tôi ra đi. Chợt nghĩ đến câu “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”, mà lòng đau vô hạn. Đôi khi tôi ngồi với anh trong căn phòng nhỏ ngổn ngang những bức tranh đó, có lúc hàng giờ đồng hồ chẳng ai nói với ai tiếng nào, dường như ai cũng đang theo đuổi một ý tưởng nào đó... Không! Chẳng có ý tưởng nào cả! Vì Sơn có một câu hát mà tôi rất thích: “Đôi khi một người ngồi trong im lặng, thực ra đang ngồi thành thơi”.
vâng, giờ thì anh đã thảnh thơi, xin anh thật thảnh thơi, đừng mang theo những nỗi đau còn sót lại trên cuộc đời này làm gì cho vướng bận.
Rồi:
Một buổi sáng mùa Xuân
Một đứa bé yên nằm
Bờ môi dường thầm hỏi
Có thiên đàng hay không?
Có? Hay không? Thiên đàng hay một chốn nào như vậy xin hãy đón nhận từ anh một linh hồn trong sáng như trẻ thơ. Tôi nghĩ đó không chỉ là lời cầu mong của riêng tôi mà có lẽ là của hàng triệu người yêu mến anh.
Trước đây có người nói: "Trịnh Công Sơn là phù thủy của ngôn ngữ" để có ý ám chỉ tài năng văn học hay khả năng sử dụng ngôn ngữ của anh trong ca từ. Tôi không phản đối, về tài năng này của anh thì không ai sánh kịp, thế nhưng ở anh tài năng lại được nhân lên gấp nhiều lần bởi chính tâm hồn anh. Quả thật “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài".
Sơn hầu như chưa bao giờ làm cho ai giận, ngược lại đối với những người có lỗi với anh - có giận mấy anh cũng không bao giờ mất bình tĩnh, câu phán xét cuối cùng của anh thường là một tiếng tặc lưỡi kèm theo câu nói: “Thôi kệ”.
Sự thông thái, tính bao dung, sự từng trải, tính khiêm nhường tạo nên một Trịnh Công Sơn có phong cách của một nhà hiền triết khổ hạnh, một nhân cách có cá tính độc đáo nhưng lại hoà đồng, cao siêu vời vợi nhưng lại dễ gần.
Chua xót là để có thể cảm thông được nỗi đau của kiếp người, con người tài hoa ấy hầu như phải hứng chịu tất cả những nỗi đau. Tất nhiên bù lại anh được sự kính trọng yêu mến, đôi khi là sự sùng bái hoà lẫn với vinh quang. Sự kính trọng quý mến: anh khiêm nhường đón nhận và đền đáp, nhưng sự vinh quang đôi lúc quá nhiều anh cũng ngán ngẫm: "Cũng chỉ là giả mà thôi!”
Sơn đã thốt lên:
“Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ
Ôi những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những cơn mưa".
Cho dù vậy, với anh tất cả đều có thể được, trái tim anh lúc nào cũng cháy bỏng tình yêu cho dù là đơn phương hay song phương, cho dù là đa phương hay vô định. Tình yêu đã đầy ắp trái tim thì phải cho, cho mà chẳng mong nhận lại, trong sáng, cao thượng hiện hữu nhưng chẳng phải bao giờ cũng nắm giữ được, đó là tình yêu của Sơn.
Mặt trời, mặt trời đã lên, còn nhìn, còn thấy con người.
Một ngày tình cờ biết em, là ngày lạ lùng nhất trần gian.
Có đúng là một ngày nào đó Sơn đã gặp một ai đó và anh cảm thấy đó là một ngày lạ lùng nhất trần gian không? Có thể nhiều người không tin, còn tôi thì tôi tin vì tôi cũng đã từng gặp được điều đó, chỉ có điều tôi không nghĩ được ra một bài hát như vậy mà thôi.
Lại nói: "Trong đạo làm người đức hy sinh là đức tính cao quý vô cùng, hiến dâng mà không cần đền đáp, đó là sự cao thượng nhất của đức hy sinh". Sơn nói: "Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi!". Anh cũng viết: "Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người”, có nghĩa anh biết chấp nhận sự đau khổ của đời sống. Anh thường nói với tôi là anh xác tín “Sống chứ không phải tồn tại". Bởi vì từ lâu bằng một giọng lạc quan, anh đã viết: "Tôi nay ở trọ trần gian. Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời”.
Và dù cuộc đời chỉ là cõi tạm, anh vẫn phải sống, phải yêu thương, vẫn hy vọng ước ao: “Tim em người trọ là tôi mai kia dù có xa xôi cũng đành".
Ôi cái chữ "đành" này nghe mới thật là lạ, nó tưởng như mềm yếu lại hoá thành dũng cảm, nó quyết liệt chấp nhận sự đối đầu với định mệnh như chấp nhận sự bất thành tạm thời của những hy vọng và hoài bão mà vẫn dấn thân vì như anh đã viết:
“Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ”.
Quả thật cuộc đời chẳng được bao lâu trái tim anh đã không bao giờ hờ hững với cuộc đời, anh đã vắt kiệt tình yêu cho cuộc sống, cho những thân phận khổ đau. Và giây khắc cuối nó đã ngừng đập.
Tôi dừng lại ở đây với một nỗi băn khoăn; không biết đến bao giờ đất nước chúng ta mới lại có được một nhạc sĩ với cả tài năng đức độ và sự nghiệp như anh.
HÀNH TINH YÊU THƯƠNG CỦA HOÀNG TỬ BÉ Hoàng Phủ Ngọc Tường
Huế, 20-4-1995 (Nhàn đàm - Người ham chơi)
Khác với văn cao và Phạm Duy, Trịnh Công Sơn là người chăm chú cúi xuống hiện hữu, và bằng kinh nghiệm sống của chính bản thân phát hiện hết mọi lẽ bất hạnh của thân phận con người.
Sự từ khước hy vọng ảo tưởng; những đam mê vô ích; tâm trạng lưu đầy; nỗi cô đơn không cứu vãn; nỗi lo âu trước vực thẳm; vân vân..., tất cả đó là những vấn đề cốt lõi của triết học hiện sinh châu âu, cũng cốt lõi như vấn đề sinh lão bệnh tử của Phật giáo châu á về phận người.
Đánh thức bởi sự tan vỡ của thế giới sau Đại chiến, triết hiện sinh trở thành những món ăn hợp gu của con người hiện đại, bỗng nhiên tìm thấy bạn tri kỷ trong thế hệ trẻ các đô thị miền Nam (cũng như Nhật Bản) trong đó có tuổi trẻ của Trịnh Công Sơn. Đặc biệt là cái chết, một phạm trù “kinh điển" của triết hiện sinh (cái chết là hoàn cảnh giới hạn để nhận biết hiện hữu: "cái gì vẫn còn là căn bản đối diện với cái chết, là thuộc về hiện hữu”. K.Jaspers), hoá thành ám ảnh, có sức hút của hố thẳm trong khát vọng sống của tuổi trẻ một thời bị ném vào lò lửa của cuộc chiến tranh tàn khốc...
Có vài lần tôi tìm đến với Sơn ở Blao, hồi ấy Sơn làm “trưởng giáo" của một ngôi trường ấp chiến lược, chỉ để được hoãn quân dịch. Nơi thị trấn chiến tranh heo hút buồn đó, Sơn và tôi mỗi ngày băng qua một nghĩa trang đầy quạ đen, buổi chiều nghe tiếng chuông báo tử của ngôi giáo đường nhỏ, và đêm ngồi uống cà phê ở quán Le Cap oral nghe lão Tây già nhại tiếng con chim chiến tranh (Oiseau de guerre) kêu thê thiết trong đêm sương, nhại theo kiểu vùng quê Normandie của lão trong thế chiến: "Père, Mère, Frères - tout est perdu”. * (Cha tôi, Mẹ tôi, Anh em tôi, Tất cả đều mất hết)
Đêm ở Blao, Sơn thường ra ngoài đi lang thang và để đánh lừa kẻ lạ vô nhà, Sơn dùng chiếc drap trắng trùm kín cây ghi ta trên giường, giả vờ người nằm bệnh. Thế đấy! Từ đây qua suốt thời tuổi trẻ, Sơn vẫn hát về cuộc đời như một “cơn đau vùi".
Những năm vào đời của một tài năng, Trịnh Công Sơn đã khám phá ra âm hưởng La thứ dịu dàng của dòng sông ở Huế (Ướt mi, Nắng thủy tinh...), nỗi cô đơn ở ghềnh đá eo biển Quy Nhơn (Biển nhớ, Lời buồn thánh...) và ở thị trấn cao nguyên kia, là chiến tranh và cái chết (Phúc âm buồn, Gọi tên bốn mùa, và tất cả trong Kinh Việt Nam).
Trong bối cảnh của cuộc chiến tranh quá dữ dằn và kéo dài, nỗi chết là một ám ảnh không rời trong tâm cảm quê hương của Trịnh Công Sơn, như trong Tình ca của người mất trí chẳng hạn: “Chết tình cờ, chết không hẹn hò, nằm chết như mơ..." Chính điều này đã khiến Sơn trở thành thần tượng nghệ thuật của tuổi trẻ một thời lửa đạn, và tên tuổi Trịnh Công Sơn được biết đến giữa những nghệ sĩ phản chiến của thế giới, đối diện với chính sách Mỹ ở Việt Nam.
Còn xa hơn nữa, nỗi ám ảnh kia đã hằn sâu trong khát vọng sống của tâm hồn Sơn, như vết máu không tẫy xóa được trên chiếc chìa khoá mở cửa vào lâu đài kinh dị trong cổ tích Con yêu râu xanh: "Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời” (Bên đời hiu quạnh) "Mệt quá thân tôi nằm xuống với đất muôn đời" (Ngẫu nhiên)... Rất nhiều lần Sơn "nói dại miệng" theo kiểu đó, kể cả khi đang thiết tha cùng em: "Thí dụ bây giờ tôi phải đi. Tôi phải đi, tay chia ly cùng đời sống" (Rơi lệ ru người)... Sự nhạy cảm thường trực về tính hữu hạn của đời người đã thúc đẩy trầm tư âm nhạc của Trịnh Công Sơn tiếp cận với ý thức Cát bụi, với tâm thức lãng du qua cõi đời vô thường (Một cõi đi về), nỗi hoài niệm về nơi "nguyên quán" vĩnh hằng (Bên đời hiu quạnh); từ đó, vào cuối cuộc hành trình của phận người, Sơn rẽ hướng tìm về cội nguồn minh triết của phương Đông, níu lấy cái Tâm của mình để sống với đồng loại:
Con tinh yêu thương vô tình chợt gọi
Lại thấy trong ta hiện bóng con người. (Một cõi đi về)
Đây là sự dịu dàng của tâm hồn Trịnh Công Sơn; sự dịu dàng thuộc về bản chất đã khiến cho người này trở thành người Mẹ và người kia là nghệ sĩ.
Tôi vẫn giữ một hình ảnh rất xúc động về Sơn hồi trẻ; thời Sơn còn dạy học ở Blao, nghỉ hè về Huế, chúng tôi thường ngồi ở quán cà phê Thành Hội. Hôm ấy, em bé gái bưng bàn lỡ tay đánh vỡ tách cà phê, làm bẩn áo Sơn. Bà chủ quán chạy đến, hoảng hốt, giận dữ, con bé rúm người vì sợ hãi. Sơn đứng dậy che đòn cho con bé, ôn tồn nói với chủ quán: "Chính tôi làm vỡ, không phải lỗi của nó". Và Sơn thản nhiên rút túi bù tiền, cười nháy mắt với con bé rồi đi... Nhiều năm sau, tôi gặp lại cô bé trên rừng, nay đã lớn làm giao liên nội thành, đi dự hội nghị chiến sĩ thi đua ở Khu. Bé nhắc lại với tôi kỷ niệm đầy trìu mến về anh Sơn đã tập cho bé hồi ởquán: "Ông tiên vui, ông thường hay nói dối. Chốn thiên đường không có tháng ngày trôi".
Lòng nhân ái nhu mì và sự bao dung không mặc cả là cốt cách nghệ sĩ hằng có ở Trịnh Công Sơn, như là một giải pháp cứu vãn, để đối diện với chiến tranh, thù hận, và nỗi gay gắt của thân phận con người:
Sống trong đời sống
Cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết không?
Để gió cuốn đi! (Để gió cuốn đi)
Điều rất lạ, toàn những ý tưởng triết học đa đoan kia, Trịnh Công Sơn chỉ chọn một người để nói với là Người Tình. Dù nói về điều gì đi nữa, kể cả về Cái Chết, mọi bài hát của Trịnh Công Sơn đều là Tình ca, với giai điệu dịu dàng và thành thực kỳ lạ, và với chất liệu của nụ hoa tầm xuân mà chàng thi sĩ trong ca dao đã một lần hái và dâng tặng. Không có gì để nghi ngờ, chính Trịnh Công Sơn đã khẳng định về điều này: "Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu, để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời". Tôi đã nghe Khánh Ly hát Trịnh Công Sơn từ những ngày nàng còn là Lệ Mai ở phòng trà Đà Lạt. Cho tới bây giờ, gần suốt một đời "nghe hát" - theo nghĩa của Nguyễn Công Trứ - cảm nhận của tôi vẫn là thế, rằng với Sơn, Khánh Ly luôn luôn là giọng hát của Người Tình.
Tại sao trong từng khoảnh khắc của đời mình, Trịnh Công Sơn lại chọn Người Tình để nói lại mọi điều? Có lẽ thế, bởi em sinh ra là để nuôi nấng nỗi buồn của đời tôi. Cũng bởi em là loài phù du tóc dài để hiểu tôi trong mọi nỗi phù du, như thơ Ngô Kha: "Ngày xưa tôi lỡ làm người tương tri”.
Với Sơn, Người Tình là người đối thoại cần thiết, và vì thế trong Tình ca Trịnh Công Sơn, người nói không là “Anh" mà là "Tôi và Em". Hai tiếng Anh Em ngọt ngào đó hình như không thích hợp với những điều cay đắng. Không thích hợp với nhiều thứ gai góc cuộc đời, như thân phận, cái chết, và nỗi tuyệt vọng: "Và như thế, tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng tuyệt vọng". (Tuyển tập những bài ca không năm tháng - 1995).
Đến đây thì mọi sự đã ngã ngũ, rằng Tình Ca Trịnh Công Sơn chính là siêu hình học, và vì thế không bao giờ cũ.
Năm tháng trôi đi, bao nhiêu nước đã chảy dưới chân những cây cầu những người yêu nhau đã đi qua. Những Người Đẹp một thời đã thành thiếu phụ, và những cô bé đã lớn lên thành thiếu nữ. Và tất cả vẫn hát Trịnh Công Sơn như là Tình Ca của hôm nay, vẫn nhìn thấy ở Trịnh Công Sơn một gương mặt Hoàng tử sầu muộn và dịu dàng không hề xa lạ.
Hạt bụi và tia sáng
Nếu nói "ảnh hưởng" của một đại gia cổ điển nào đó với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, có lẽ dễ thuyết phục hơn là ảnh hưởng của Phật giáo.
Không phải là người ham mê nghiên cứu đạo Phật, điều ấy thật là hiển nhiên, nhưng Trịnh Công Sơn đã lớn lên trong một thành phố đầy những ngôi chùa cổ, trong tiếng chuông thu không mỗi chiều hôm. Ảnh hưởng của Phật giáo đối với nhạc Trịnh Công Sơn là một điều không thể tránh được. Như ta biết, thế giới của Trịnh Công Sơn là một vòng khép kín, giống như một lâu đài bằng đá cổ xưa, tĩnh mịch trong rừng, trong đó bằng sự nhạy cảm của một nghệ sĩ,
Sơn thu nhận hết mọi biến cố của kiếp người và Sơn lơ đãng ngồi ký tên vào từng viên đá. Gần như quán xuyến tất cả, âm nhạc của Trịnh Công Sơn diễn ra trong cung la thứ, chuyển tải hết cả biến cố của một đời người.
Một truyền thuyết nhà Phật nói rằng, về nỗi khổ của kiếp người, kinh sách Phật giáo có đến hàng vạn cuốn, rút gọn lại trong bốn chữ Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Nhạc của Trịnh Công Sơn cũng đề cập đến những điều ấy, dù không có ý thức.
Sinh là một cú nhảy khởi đầu vào kiếp luân hồi. Sinh tự nó không phải là một điều đáng buồn, nhưng vì Sinh mở đầu một quá trình gọi là Tứ Diệu Đế (Sinh, Lão, Bệnh, Tử) nên cũng không phải là điều đáng ước muốn. Kinh Thánh truyền đạt lại ý nghĩa của ngày lễ Noel, tức là ngày sinh của Chúa, nên gọi là tin mừng. Trịnh Công Sơn thì gọi là Phúc âm buồn: "Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người, (Gọi tên bốn mùa).
Đọc Trịnh Công Sơn, ta lấy làm ngạc nhiên khi bắt gặp cái nhìn buồn bã của tác giả về cuộc đời. Buồn bã vì trong cuộc đời còn có sẵn một biến cố đáng buồn, là sự ra đời của con người. Ôn Như Hầu trong một tác phẩm thấm nhuần tư tưởng Phật giáo cũng cho rằng: "Thảo nào khi mới chôn nhau. Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra”. Điều ấy người ta cũng bắt gặp trong ngôn ngữ Trịnh Công Sơn: "Để một mai tôi về làm cát bụi" (Cát bụi); “ Ru bạc tóc thôi" (Lời mẹ ru).
Lưu ý rằng, thời điểm của chử Sinh rất ngắn, tuồng như con người chưa có đầy đủ ý thức về sự ra đời của chính mình. Nhà tâm lý học hiện đại Pháp Merleau Bonty có nói rằng người ta không thể sinh ra trước một phút để biết mình ra đời như thế nào... Vì thế, âm nhạc của Trịnh Công Sơn ít khi nói trực tiếp vào sự ra đời, mà chỉ nói qua hình ảnh hát ru và một cách nào đó làm dịu đi ý nghĩa gay gắt của sự ra đời: “Tiếng khóc ban đầu còn đâu, còn đâu, còn đâu” (Lời mẹ ru).
Nhưng Trịnh Công Sơn cũng nhanh chóng rời bỏ vấn đề này để sang địa hạt của chữ Lão... "Tóc xanh mấy mùa” (Phôi pha); "Con sông đâu có ngờ ngày kia trăng sẽ già” (Biết đâu nguồn cội); "Từng tuổi xuân đã già" (Phôi pha); “Chợt một chiều tóc trắng như vôi" (Cát bụi). Lão hoá là một quá trình bất lực trước thân thể, trước vật chất và tinh thần. Thế giới đổi khác, và tôi cũng suy nghĩ khác, ấy là vì tôi đã già đi. Trịnh Công Sơn đã nói đến chữ Lão bằng tất cả giọng buồn nản: "Có một bạc đầu tôi đi, tôi đi" (Có một ngày như thế).
Nếu như Lão là một sự bất lực trước cuộc sống, thì Bệnh là một tình trạng suy thoái và mất chất lượng của cuộc sống, do sự bất lực tạo nên. Thân thể tiềm ẩn sẵn những mầm mống của bệnh, có thể coi con người là một bệnh tiềm thể: và vì mang sẵn mầm bệnh như Trịnh Công Sơn nên tự xem mình ấp ủ sẵn một "mặc cảm lâm bệnh". Có thể nói con người là một gã mắc bệnh trường kỳ, nghĩa là để hoạch định cho bước đi của mình trong cõi luân hồi, con người không có được mấy khoảnh khắc biểu hiện sự khỏe mạnh, tính chính xác hoặc là sự sáng suốt đáng tin cậy: "Ngày thu đông phố xưa nằm bệnh" (Có nghe đời nghiêng); "Chập chờn lau trắng trong tay" (Chiếc lá thu phai); “Nghe bao nỗi đau trên một bàn tay" (Tôi đang lắng nghe); "Ngày tháng trôi qua cơn đau mịt mù” (Hoa vàng mấy độ).
Không quên rằng sự hạn chế của sức khỏe bản thân, những đêm thức khuya mất ngủ đã gieo vào lòng tác giả cái mặc cảm nói trên. Nhưng mặt khác, do một quan niệm có tính chất khổ hạnh, Trịnh Công Sơn đã xem "lâm bệnh” chính là bản chất cuộc đời.
Đáng buồn nhất là cái chết (Tử). Triết học phương Tây cho rằng cái chết không thuộc về đời người: nó thuộc về vũ trụ, nó giống như bức tường trắng, trắng nhờ, phẳng lỳ vô nghĩa (J.P.Sartre. Le Muer). Nhưng với phương Đông cái chết thuộc về đời người. Nó găm vào hữu thể, làm rỗng những hữu thể. Nó giống như con sâu đục khoét trái cây và làm rỗng dần ruột trái cây. Vì mang sẵn mặc cảm lâm bệnh nên, theo Sơn nghĩ, con người ta có thể sẽ đi ra khỏi thế giới này lúc nào cũng được: "Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời” (Bên đời hiu quạnh); “Một hôm buồn lên núi nằm" (Tự tình khúc); "Thí dụ bây giờ tôi phải đi. Tôi phải đi, tay chia ly cùng đời sống" (Rơi lệ ru người); "Dưới vành nôi mọc từng nấm mộ" (Cỏ xót xa đưa); "Có một dòng sông đã qua đời" (Có một dòng sông đã qua đời).
Cái chết là tất yếu, là bất khả kháng đối với con người. Có chăng là giờ điểm của chuông chiêu hồn. Hình ảnh này, được lặp lại muôn nghìn lần, đã khiến cho âm nhạc Trịnh Công Sơn gồm những lời tiên đoán xui xẻo, và một màu nâu xám buồn bã, mê hoặc.
Cho đến trước năm 1975, Trịnh Công Sơn đã xây dựng xong toàn bộ một thế giới với bốn yếu tố nguyên thủy của nhà Phật là Sinh, Lão, Bệnh, Tử đều có tính hư vô. Nhưng Trịnh Công Sơn đã tìm cách hoá giải chúng, bằng cách sữ dụng một báu vật của tâm hồn, nửa ảo nửa thật rất lạ: “Sống trong đời sống cần óó một tấm lòng. Để làm gì em biết không?”.
Chính đó là cái tâm. Cái tâm thì không tìm kiếm cái gì cho mình, "Cái tâm" chỉ giống như tấm chiếu để trải ra cho thiên hạ ngồi lên. Kinh Phật có nói rằng lòng tốt của đời giúp được cho con người, như một đôi hài cỏ chỉgiúp người đi qua một đoạn đường. Nghĩ cho cùng thì nhiều bài hát của Trịnh Công Sơn, như bài ở trọ, Đóa hoa vô thường, Một cõi đi về đều viết về đề tài có mang hơi hướng triết lý nhà Phật.
Chuyện nhà Phật kể rằng, ngày xưa, có một con thằn lằn chọn Nghiệp...
Biết mình sắp viên tịch, vị sư già quyết định đọc một biến kinh sau cùng của đời mình để bày tỏ lòng ăn năn hối cải. Nhưng biến kinh của ông đã không bao giờ thực hiện được, vì khi sắp hết bài thì ngọn đèn chợt tắt, và câm bặt hết ánh sáng. Con thằn lằn đã bò theo mặt bàn, lên đĩa đèn và uống cạn dầu. Khám phá ra con thằn lằn, vị sư già mắng nó là "nghiệt súc", và cầm dùi chuông đánh chết nó. Linh hồn con thằn lằn bay về địa ngục. Diêm vương cho nó biết là nó được tự do lựa chọn cách hoá thân. Con thằn lằn khẩn nguyện rằng xin đem nó đến đài hoàn vũ và thiêu hũy thân thể nó thành tro bụi. Mỗi hạt bụi được tung ra khắp bốn phương trời, sẽ hoá thành một tia sáng, soi rọi vào chốn mê lầm của con người.
Thuở niên thiếu, vì hoàn cảnh riêng, gia đình đã gửi Trịnh Công Sơn vào một ngôi chùa. Ở đó, Trịnh Công Sơn phải đứng bên vị sư già chùa Hiếu Quang để lật từng trang kinh cho sư phụ đọc.
Con thằn lằn đã chọn nghiệp từ thuở ấy...
Căn nhà của những gã lang thang

Huế. 29/10/2000
Thanh niên, Xuân 2001
Theo tôi, người ta không nên dính líu quá nhiều đến quá khứ nhưng người ta cũng khó lòng đoạn tuyệt với quá khứ. Bởi vì, chẳng phải sao, quá khứ là những gì thân thuộc nhất của tâm hồn và quá khứ là" khu vườn bí mật" của tâm hồn; có thể nói quá khứ là tài sản quý báu còn lại sau cùng của đời người, mãi mãi không thay đổi. Đó là lý do tại sao tôi cứ khăng khăng ởlại ngôi nhà này khi Sơn đã cùng gia đình dọn vào sống ở thành phố Hồ Chí Minh và giao căn nhà ở Huế lại cho tôi.
Hình như trong mỗi góc đầy bóng tối của căn nhà này, trên chiếc bàn bằng gỗ mộc của Sơn để lại, và trong chiếc ghế làm bằng sợi mây heo to mà Cường thường ngày vẫn ngồi vẽ, đều dậy lên mùi hương lặng lẽ của tuổi trẻ chúng tôi. Hồi ấy gia đình Sơn sống ở ngôi nhà này, còn tôi và
Đinh Cường thì sống chung ở một căn nhà thuê ở hẻm Bến Ngự bên kia sông. Tôi quên sao được hình ảnh của Cường thường treo một cánh tay lên cổ, bông băng và thuốc đỏ băng kín, giả vờ làm bị thương để vẽ về chiến tranh. Tôi ngồi chấm bài trước bàn làm việc, trong căn phòng im lặng, trong khi bên ngoài hàng rào chè tàu xình xịch một đoàn tàu dài xuôi Nam chở theo những gương mặt quen thuộc ở lớp học, cố nhoi ra bên ngoài cửa sổ như để nói lời vĩnh biệt với tôi. Vâng, chúng tôi lớn lên bằng tuổi chiến tranh; và đó là nền tảng hội họa sơn dầu của Đinh Cường, của nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn; và của tuổi trẻ bi thảm của chúng tôi đang loanh quanh ở thành phố này.
Buổi tối, Cường và tôi thường thả bộ qua nhà Sơn ở phía bên kia chiếc cầu nhỏ để cùng Sơn đi lang thang dọc sông Hương. Phía ngoài căn nhà Sơn đang sống là một hành lang dài, và ở dưới đường, quãng trước mặt nhà có những cây long não đại thụ chừng thuộc thế hệ những cây đầu tiên của thành phố còn lại sau những cơn bão. Ở đầu kia đường, có một cây xà cừ to lớn, về mùa thu lá vàng chói nguyên cả cây, giống y như mỗi chiếc lá đều được thợ kim hoàn đúc bằng vàng. Phía cuối hành lang là một dòng sông nhỏ mà chúng tôi thường đứng ngắm qua mỗi cơn mưa. Dưới cơn mưa, dòng sông phẳng lặng và hình như rộng hơn; trên mặt nước trong xanh này, thánh thót hàng ngàn giọt mưa sáng chói, và reo ca như những phím dương cầm "Ôi những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những cơn mưa “, như trong bài hát của Sơn.
Tấm kính nơi chiếc cửa lớn nhìn ra mặt tiền nhà Sơn đã vỡ từ lâu, Sơn cũng lười không gắn lại; gió heo may bên ngoài cứ thổi thẳng vào nhà, nghe văng vẳng như tiếng người. Sau này về sống trong căn nhà của Sơn, tôi ngồi viết ở phòng sau, cứ nghe tiếng người ta gọi tên mình ở trước cửa. Giờ này hai đứa bé đều đi học, căn nhà trở nên quạnh hiu lạ lùng, tôi thường mong có bạn đến chơi. Nghe tiếng gọi ngoài cửa tôi mừng quá, đặt bút chạy ra mở cửa. Hóa ra chỉ là tiếng gió thổi, mấy chiếc lá khô theo cơn gió chạy dài dọc hành lang.
Căn phòng sau, do Sơn tự thiết kế, bày biện làm phòng học; tôi thường đến vào giờ nghỉ, để dạy thêm cho các em Sơn. Phải thành thực nói rằng vào hồi đó ở Huế, hội họa trừu tượng đang xa lạ với công chúng, nên trong bạn bè, Cường vẫn được tôn sùng như một người thuộc "Thế kỷ ánh sáng".
Thỉnh thoảng Cường vào Sài Gòn tổ chức triển lãm. Có lần, tôi đang bận dạy học thì được văn phòng nhà trường chuyển cho một tấm vé máy bay. Đó là tấm vé của Cường gửi để rủ tôi lên dự cuộc triển lãm của Cường mở ở Đà Lạt. Tôi còn nhớ đó là một ngày lễ Noel, và bức tranh Thiếu nữ trong màu hoa anh đào của Cường được nhiều người hỏi mua, trong đó Cường vẽ một khuôn mặt thiếu nữ từ khung cửa sổ của một biệt thự đang đăm đắm cúi nhìn xuống một nụ hoa anh đào đầu mùa. Ở Huế, Cường có vẽ tặng tôi bức Cầu say trong đó, những nét vẻ nguệch ngoạc, chiếc cầu Trường Tiền nổi bật trên nền màu gạch và một chấm đèn màu vàng le lói trên cao, như một dấu hiệu của ý thức. Có lẽ đó là cơn say của chúng tôi trong những đêm lang thang ở Huế.
Ở Huế đi lang thang cũng là một sinh hoạt văn hóa. Cường luôn luôn ăn vận đàng hoàng, lúc nào cũng như mới, và thường sang phòng tôi gọi tôi đi chơi. Tôi mặc một chiếc vét cũ của anh Đỗ cho, áo khoác vào dài quá nửa vế, dệt bằng sợi len thô, có lẽ là áo anh Đỗ thường mặc vào ban đêm, lúc đứng chờ chị Quỳ ở ga tàu điện ngầm ở Paris. Thỉnh thoảng, chúng tôi còn có Ngô Kha nhập bọn; Ngô Kha, vốn là thi sĩ khá nổi tiếng bị động viên làm sĩ quan quân đoàn I đóng ở Đà Nẵng. Thỉnh thoảng Ngô Kha ra Huế nghỉ phép và cùng đi lang thang với chúng tôi.
Chúng tôi thường ra khỏi nhà vào lúc đêm đã khuya, đường phố vắng không có xe cộ, cũng không có người. Chúng tối thường ghé vào cư xá đại học rủ anh Đỗ đi chơi; vào giờ ấy chị Quỳ đã đi ngủ, và anh Đỗ còn ngồi một mình, nhấm nháp ly cà phê pha loãng và đọc truyện chưởng Kim Dung. Chúng tôi coi cuộc đi chơi bắt đầu từ nhà Sơn, lúc ấy, mọi người đã đông đủ. Chúng tôi đi theo đường phố dọc sông Hương, kéo sang cầu Trường Tiền và ngồi ở một quán cà phê nổi tiếng thời đó. Đường vắng, hai hàng cây muối bên đường như chụm đầu vào nhau thành một cái vòm trên đầu, và con đường Lê Lợi như dài thêm ra dưới ánh đèn đường. Thỉnh thoảng trên đường phố vắng chúng tôi có gặp những người phu quét đường chở lá rụng trong những xe ba gác và đẩy đi cành cạch trên mặt đường. Đi bên Sơn, tôi hát thầm những câu hát của Sơn: “Đại bác đêm đêm dội về thành phố. Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe”.
Còn Ngô Kha thì dọc cho chúng tôi nghe bài thơ mới làm; Kha thích ngâm thơ dưới những hàng cây ban đêm, còn tôi thì thích nghe hết mọi cái ngoài giờ dạy học. Hình như những lúc đó chúng tôi mới nhận thức được rằng con người là một tự do.
Tôi nhớ câu thơ của Ngô Kha làm trong những cuộc lang thang ấy:
Lần hồi sinh trên con tàu cuối cùng
Chung quanh anh phù sa cát đỏ
Anh hỏi thầm về đời mình
Gỗ đá có buồn không?
Trong những cuộc lang thang này, chúng tôi thường gặp Bích. Bích thường mặc quần áo Jean, đầu cạo trọc, vừa lang thang vừa huýt sáo, một điệu nhạc nào đó đang thời thượng trong giới trẻ thành phố. Bích huýt sáo rất hay, thường từ xa nghe tiếng huýt sáo người ta đã biết Bích đang đi lên. Có lần, tôi thấy Bích đi bộ ngang trước nhà Sơn; khi Bích bắt đầu huýt sáo thì người ta đổ ra xem, đứng kín hết cả ban công của ngôi chung cư đầu cầu.
Người ta chết một mình nên cũng sống một mình. Từ đó, chúng tôi xem nhà ở chỉ là một nơi tạm trú, một nơi tạm dừng chân ở cõi đời. Chúng tôi, cả ba người giống nhau, đều quan niệm rằng nghệ thuật chỉ là một cách thế đối diện với cái chết. Từ ấy về sau, người ta không còn nghe tiếng huýt sáo khuya khoắt của Bích nữa. Có lẽ vì cả thành phố không ai có thể huýt sáo hay giống như Bích, mà Bích thì đã bị điều đi quân dịch không biết sống chết ở chiến trường nào. Khắp nơi đều khói lửa mịt mù...
Trong những cuộc đi chơi đêm hôm như vậy, Cường rất thích dừng lại đọc một mỹ cảm nào không biết trên những bức tường rêu phong, dưới ánh đèn vàng. Theo ngón tay của Cường, tôi thấy hiện ra nhiều thứ hình trên nền gạch cổ, khi thì một mặt người nhìn nghiêng, khi thì con chim đang bay, thảng hoặc một vài ngôi nhà thờ hoang phế trên đồi.
Đó chính là nguồn cảm hứng đích thực của Cường, và thỉnh thoảng, tất cả lại hiện ra trên khung vải của Cường, dưới một màu rêu xám ảm đạm và sang trọng, rất được quần chúng hâm mộ trong các phòng triển lãm, từ đó bạn bè gọi đùa là tranh sơn dầu của Đinh Cường thuộc trường phái “rêu phong".
Còn Sơn... Sau những ngày đông vui giữa bạn bè, giữa đám con gái bay lượn trong bộ cánh rất mốt ở Sài Gòn, Sơn lại quay về với sự tĩnh mịch của mùa thu ở Huế. Và tất cả khối lượng âm nhạc phản chiến đồ sộ ký tên Trịnh Công Sơn đều được viết ra từ căn phòng này. Nhạc phản chiến là rất mới đối với quần chúng các đô thị miền Nam thời bấy giờ, trong đó, đối diện với cuộc chiến tranh dữ dằn, người ta thấy một khuôn mặt trẻ mệt mỏi, hờ hừng, không biết hy vọng gì ở tương lai...
Chúng tôi đi lang thang trong những đêm mùa hạ, thơm ngát mùi hương ngọc lan, trong những khu vườn tối, và trên trời nhiều mây trắng bay. Tôi ước mơ tập luận văn triết học của tôi sẽ đầy ắp hình ảnh của bạn bè, và cái tự do phù phiếm của tôi sẽ được viết trên nền trời xanh trong nét bút của mây trắng. Qua những cuộc rong chơi trên thành phố mến yêu, giống như những người thợ thủy tinh, chúng tôi thổi hơi thở của mình vào chất nhựa chai của tư duy, để làm hình thành ở đó một thế giới lấp lánh muôn màu dưới ánh sáng nghệ thuật, một thế giới từ không thành có, từ khoảng khắc thành vĩnh cửu, hoặc như bài hát của Sơn "Ta nghe đời rất mênh mông. Trong chân người bước chầm chậm”.
Đêm ấy, chúng tôi lại tiễn đưa anh Đỗ đi quân dịch. Cả anh Đỗ và Sơn đều bị gọi lính vào một trại quân nào đó ở Đà Nẵng vì tham gia một phong trào đòi hoà bình ở Sài Gòn. Sơn đã uống thuốc xổ, để cơ thể mất quá nhiều nước và do đó được hoãn quân dịch. Sau khi ngồi ở quán cà phê, chúng tôi về lang thang dọc sông Bến Ngự. Anh Đỗ xé nát tấm giấy gọi lính, và nằm lăn ra ngủ dưới gốc cây bên đường. Đây là một con đường ven sông có thảm cỏ dày, và hương cỏ đêm khuya thơm lạ lùng làm người ta nghĩ đến một nỗi bình yên nào đó không có ở đời. Khi anh Đỗ ngủ say, Ngô Kha đi nhặt đâu đó những cánh hoa phượng vĩ hồng đem rải quanh người anh, để khi anh ngủ dậy, còn lại dấu vết một hình người trên mặt cỏ. Chiều hôm sau, chúng tôi đưa Sơn và anh Đỗ vào trại Cây Điệp ở Đà Nẵng. Khác với tình trạng nhẹ cân của Sơn, anh Đỗ bị chất độc trong thuốc xổ ảnh hưởng đến tâm thần. Người ta phải thả để anh về, vì anh đã mất hết trí nhớ, không dùng được vào việc binh. Trước ngày lên đường, tôi có việc cần phải lên Đà Lạt, có ý tìm thăm anh Đỗ, định nói với anh một điều. Tôi gặp anh đi thơ thẩn một mình trong rừng thông, mặt ngơ ngác như một người đã quên hết mọi sự ở đời.
Tôi đành quay về Huế một mình và cũng không tiện từ giã anh lúc ra đi.
Đêm ấy...
Con sông Hương trôi trong đêm tối, êm đềm như một dải lụa huyền. Ngay trong thành phố, thỉnh thoảng người ta vẫn gặp một vài đám lau sậy um tùm, tưởng như chỗ buộc thuyền của người kỹ nữ bến Tầm Dương xưa và chàng Tư Mã khóc đời bằng dòng nước mắt màu xanh, nên bây giờ dòng nước sông Hương xanh thẳm đến lạ lùng. Sau này, trong những năm đi xa chợt nhớ về anh Đỗ, không hiểu tại sao trong tâm trí tôi vẫn hiện ra một hình người vẽ bằng nét hoa nằm im trên cỏ.
Một chiều, tôi gặp một người giao liên hợp pháp thông báo với tôi ý kiến của Thành ủy nói rằng Toà lãnh sự Mỹ ở Huế đã bị thiêu hủy, thế hợp pháp của tôi và em trai tôi đã hết; và chúng tôi cần rút "lên xanh" để được an toàn, tránh sự nguy hiểm từ phía địch. Đi hay không là tuỳ bọn tôi, nhưng phải trả lời ngay bây giờ để tổ chức tiện bố trí đường dây. Tôi đồng ý là phải đi, trời đất rộng bao la mà ở đây không có một chỗ dung thân cho anh em tôi. Đã hết rồi những cuộc lang thang với bạn bè...
Từ chỗ trú ẩn bên kia sông Bến Ngự, tôi sang ăn bữa cơm chiều cuối cùng với nhà Sơn. Tôi vẫn duy trì những buổi dạy kèm với em Sơn giữa những đợt đấu tranh của thành phố. Vào giờ học, Thủy, em của Sơn, nói với tôi rằng theo lời dặn của Ngô Kha, thì quân đội của tướng Nguyễn Cao Kỳ sẽ kéo đại quân ra Huế để đàn áp cuộc nổi dậy. Kha dặn tôi hãy tìm một nơi khác, lên Trường Sơn cũng được, tạm tránh lúc tranh tối tranh sáng của cuộc tiến công. Theo tin tức quân báo của Kha nhận từ đoạn Đà Nẵng, thì lực lượng thủy quân lục chiến của Kỳ sẽ chĩa mũi nhọn vào những người của phong trào mà họ cho là nguy hiểm, ngay từ lúc họ đặt chân đến Huế để tránh hậu hoạ. Ngô Kha cùng với chiến đoàn ly khai của anh sẽ kéo dài cuộc cầm cự trên đèo Hải Vân, để tạo điều kiện cho tôi đi thoát. Sau đó, đơn vị của Kha sẽ về bám Lăng Cô đánh "du kích". Kha hy vọng ít lâu sau, Kha và tôi sẽ tái ngộ ở một hang đá nào đó của Trường Sơn.
Ôi? Ngô Kha, thằng bạn khẳng khái của tôi! Ngày tôi về Huế, được tin Kha đã bị địch thủ tiêu sau Hiệp định Paris lòng tôi dấy lên một nỗi đau đớn chưa từng thấy. Làm như thể chiến tranh vẫn chưa đủ ác liệt đối với tôi? Làm như nhiều năm khổ vẫn chưa đủ cho tôi đáng với tư cách thay mặt những bạn bè tại ngôi nhà này để đứng về phía những người kháng chiến.
Trong bữa ăn, tôi ngỏ lời tạm biệt gia đình Sơn và nhờ Sơn chuyển lời tạm biệt đến cha mẹ tôi; tôi cầu mong song thân cố gắng bảo trọng, mai mốt đất nước hoà bình, anh em tôi lại về.
Tạm biệt nhé, những nẻo đường lang thang tôi đi suốt đời không hết; tạm biệt dòng sông đẹp và buồn và uể oải như một thiếu nữ đài trang; tạm biệt con chuồn chuồn đậu lay lắt trên ngọn cỏ may ven sông; tạm biệt thành phố với những ngôi chùa yên tĩnh như ở một cõi đời nào khác. Tạm biệt ngôi nhà với tuổi trẻ và những cuộc lang thang trĩu nặng phiền muộn của chúng tôi; hết chiến tranh tôi sẽ về ngồi đây, thật lâu...
TỪ "DIỄM XƯA" ĐẾN "MỘT CÕI ĐI VỀ" Nguyễn Thanh Ty
Tháng 9/ 2001
Hai Năm Tại Trường Sư Phạm Quy Nhơn 1962-1964
Tôi học chung một khóa sư phạm với Trịnh Công Sơn, khóa I, ngày 22-4-1962 khóa đầu tiên mở ra ở Quy Nhơn. Tên gọi là khóa Thường xuyên 2 năm. Tiêu chuẩn thi vào ít nhất phải có Tú tài I.
Tuy nhiên, khóa ấy đa số thí sinh đều đã có Tú Tài II, một số đã có một hoặc hai chứng chỉ Đại học. Trong số 300 giáo sinh được chấm đậu đa phần đều là người Huế, chiếm khoảng 60 phần trăm, 40 phần trăm còn lại rải rác các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Nha Trang lên tận các tỉnh cao nguyên như Đà Lạt, Lâm Đồng, Pleiku, Kon Tum...
Đa số chúng tôi lúc ấy đều là con nhà nghèo, hoặc học hành dở dang hoặc không đủ khả năng tài chánh vào Sài Gòn hoặc ra Huế để vào Đại học. Cho nên cố thi vào Sư phạm để chắc chắn trong hai năm sẽ có công ăn việc làm nuôi bản thân và giúp gia đình. Nhắc lại ở đây, lúc ấy, Bộ Giáo dục và Bộ Y tế rất thiếu nhân viên. Khóa nào vừa đào tạo xong là được bổ nhiệm liền, lương lại tương đối cao. Trong khi những ngành khác như Công chánh, Nông Lâm Súc tốt nghiệp ra trường, nằm nhà nhiều năm vẫn chưa được tuyển dụng.
Trịnh Công Sơn theo ban Pháp văn, tôi theo ban Anh văn. Những ngày mưa gió ủ ê, không đi ra ngoài được vì đất nhão, chúng tôi nằm khoèo ở nhà, Sơn kể cho tôi nghe về cuộc đời Sơn, nhiều chuyện vui buồn lẫn lộn. Chuyện gia đình Sơn là một trong những chuyện buồn. Cha mất sớm gia đình khánh kiệt, má Sơn phải chật vật lắm mới nuôi nổi bầy con. Sơn phải bỏ học, về lại Huế, phụ giúp mẹ. Sư phạm Quy Nhơn là con đường ngắn nhất có thể giúp Sơn đạt được ý nguyện này. Đơn giản vậy thôi!
Để giới thiệu và quảng bá rộng rãi cho nhiều nơi biết tiếng về trường Sư phạm, Ban Giám đốc trường cho thành lập Ban văn nghệ, sẽ trình diễn một chương trình độc đáo chưa từng có ở Quy Nhơn từ trước đến giờ. Trịnh Công Sơn được bầu làm trưởng ban chịu trách nhiệm tổng quát, Thanh Hải phó ban thứ nhất chịu trách nhiệm về nhạc, Võ Văn Phòng phó ban thứ hai chịu trách nhiệm một vở kịch thơ nhan đề Tiếng cười Bao Tự. Tôi được chọn phụ trách phần thổi sáo đệm thơ trong suốt vở kịch dài hơn 45 phút. Trong dịp này tôi mới biết và quen Trịnh Công Sơn. Buổi trình diễn được dự trù đúng vào ngày Song Thất năm (7/7/1962) chứ không phải đợi đến ngày mãn khóa như Đinh Cường nói.
Trong thời gian này, Trịnh Công Sơn sáng tác trường ca Tiếng hát Dã Tràng hay gọi ngắn hơn là Dã Tràng ca là tiết mục mở màn mà cũng là tiết mục đặc sắc nhất, công phu nhất. Nhạc trưởng Trịnh Công Sơn với ban hợp xướng do anh tuyển chọn gần 50 người, khổ công trong ba tháng trời tập luyện đã thành công tuyệt vời trước sự ngạc nhiên đầy thích thú của quan khách và khán giả. Tôi không ở trong ban hợp xưởng đó nên không thuộc bài này chỉ nhớ lõm bõm câu được, câu mất xin ghi ra đây:
Dã tràng... Dã tràng... Dã tràng...
Dã tràng xe cát biển Đông, Dã tràng xe cát hoài công.
Trùng dương ơi... Trùng dương ơi vỗ sóng vào bờ...
Thôi còn gì nữa đâu, còn gì nữa đâu. Đời lên cơn đau...
Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn mùa làm rét mướt...
Tôi gọi tên tôi giữa nước non ngàn...
Cũng trong thời gian học Sư phạm, anh còn sáng tác những nhạc phẩm khác như Biển nhớ, Nhìn những mùa thu đi, Nắng thủy tinh và một số nhạc thiếu nhi cho chúng tôi sử dụng đi thực tập, dạy các em nhỏ. Những bản nhạc ngắn, dễ hát, dễ nhớ như ông Tiên vui, Ông mặt trời. Tôi xin ghi lại một bài tượng trưng:
Ông Tiên vui, ông có cái râu dài.
Đêm ông về nằm yên trên đỉnh mây.
Hôm em lên ông chợt đi đâu vắng!
Lúc em về, em buồn đến ngẩn ngơ.
Ông Tiên vui ông có cái căn nhà,
Trên ngọn đồi hằng đêm ông ghé qua
Hôm em lên ông chợt đi đâu vắng!
Lúc em về em buồn đến ngẩn ngơ.
Xin nhắc lại ở đây, Quy Nhơn lúc ấy còn nghèo lắm. Cả thành phố có mỗi một quán kem duy nhất, vừa bán kem, vừa bán cà phê thuốc lá, bia, trà. Đó là quán Phi Điệp, nằm trên đường Phan Bội Châu, đối diện với hội trường Quy Nhơn, nơi đã trình diễn văn nghệ. Mỗi buổi chiều hoặc tối, anh chị em nào có tiền thì vào quán kêu một bình trà ngồi với nhau nhâm nhi nghe nhạc. Khá một chút nữa thì kêu chai bia với một tô bò viên gân, ngầu pín của ông ba tàu đậu cái xe phở trước quán. Thế là sang lắm rồi. Còn những anh chị nào "bô xu” thì ra biển ngồi ngắm trăng suông. Biển Quy Nhơn là biển bùn nên cát ở đó màu vàng xỉn trong dơ dáy, không trắng như biển Nha Trang. Dọc theo bãi biển là một hàng dương, chạy dài đến bênh viện Nguyễn Huệ là xóm chài. Tuyệt nhiên không có một lều quán hay kiosque nào bán cà phê, bia rượu gì cả. Trịnh Công Sơn và Tôn Nữ Bích Khê có hẹn hò ra đó với ông Đinh Cường thì cũng chỉ để ngắm trăng vàng vỡ vụn trên sóng biển mà thôi.
Ba Năm Tại Blao, Tức Bảo Lộc
Sau hai năm, mãn khóa, chúng tôi tốt nghiệp ra trường. Tôi và Trịnh Công Sơn cùng bốn giáo sinh khác là Nguyễn Thị Ngọc Trinh (Huế), Nguyễn Văn Sang, Trương khắc Nhượng, Đỗ Thị Nghiễn (Nha Trang) cùng được bỗ nhiệm chung một Sự vụ lệnh đáo nhậm nhiệm sở Ty Tiểu học Lâm Đồng.
Tôi từ Nha Trang lên theo đường Nha Trang - Đà Lạt - Bảo Lộc. Trịnh Công Sơn từ Huế bay vào Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn đi xe đò lên Bảo Lộc. Không hẹn mà gặp nhau trên bến xe vắng vẻ, thưa thớt bóng người. Blao - Bảo Lộc là đây sao? Một phố quận vào chiều thứ sáu sao mà vắng lặng, buồn hiu hắt. Trời lại mưa lâm thâm, lành lạnh. Hai chúng tôi, mỗi người một va ly quần áo nhẹ tênh. Lang thang tìm người hỏi thăm đường đến Ty Tiểu học Lâm Đồng. Lúc bấy giờ, Thị xã Đà Lạt biệt lập với tỉnh Lâm Đồng. Tỉnh Lâm Đồng chỉ có vỏn vẹn hai quận: Blao (Bảo Lộc) và Djiring (Di Linh). Trước năm 1960, Tòa hành chánh Tỉnh đặt ở Di Linh. Sau dời về Bảo Lộc mới mấy năm khi chúng tôi đến, nên trông nó như một thị trấn nhỏ vừa mới bắt đầu tạo dựng. Chúng tôi tìm được đến Ty thì trời đã sụp tối mặc dù chưa tới 6 giờ. Sương mù bốc lên từ mặt đất, bay là đà dưới chân. Ty chỉ cách bến xe non nửa cây số. May mắn, lúc ấy bác lao công đang khóa cửa chuẩn bị ra về. Khi biết chúng tôi là giáo viên mới đổi đến, bác ân cần mời về ở tạm tại nhà bác qua đêm.
Đêm đó chúng tôi trải chiếu, chăn dưới thềm nhà, năm người bạn trẻ, trừ anh Lãng nằm trên giường, tuổi chỉ từ hai bốn đến hai sáu, cùng nhau trao đổi những câu chuyện quê hương đi dần từ Sài Gòn ra đến Huế rồi thiếp vào giấc ngủ. Lúc bừng thức dậy là đã 9 giờ sáng.
Đến sáng thứ hai, trình diện tại Ty để chờ bổ nhiệm, chúng tôi gặp hầu hết các bạn khác từ các nơi cũng đã đến từ ngày thứ bảy, chủ nhật. Trịnh Công Sơn được bổ về một trường Sơ cấp Thượng, ở sát nách Ty chừng non cây số, với chức Trưởng giáo. Sau khi phân bổ xong, chúng tôi được Ty cho phép một tuần ở nhà để lo thu xếp nơi ăn chốn ở. Thứ hai tuần tới sẽ trình diện nhiệm sở mới. Khi về đến nhà, chúng tôi bò lăn ra cười với cái chức Trưởng giáo của Sơn. Vì lần đầu mới được nghe cái chức này, ai cũng liên tưởng tới các chức Trưởng lão hay Giáo chủ trong Ma giáo của tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung.
Mấy ngày thong thả, chúng tôi đi dạo khắp nơi để tìm nhà trọ nhưng không nơi nào vừa ý. Cuối cùng, tôi và Sơn rủ thêm hai người bạn nữa thuê được nhà bà Trần Thị Phi.
Những ngày chúng tôi sống trong ngôi "biệt thự" của bà Trần Thị Phi thật là vui nhộn. Cũng chính trong căn phòng có khuôn cửa sổ ngó ra con đường đất đỏ trước mặt của căn nhà này, Trịnh Công Sơn đã sáng tác các nhạc phẩm: Chiều một mình qua phố, Lời buồn thánh, Vết lăn trầm và Ca khúc da vàng.
Ngày lãnh lương đầu đời
Mới ngày nào vừa trình diện để nhận nhiệm sở, thoáng cái đã đến cuối tháng lãnh lương. Ngày lãnh lương đầu tiên, chúng tôi ai nấy đều háo hức đến Ty thật sớm để ký tên vào sổ lương, lãnh một món tiền lớn do chính tay mình làm ra.
Lãnh lương xong, ra khỏi cửa, Sơn sải chân đi thật lẹ. Sơn vốn cao, chân dài. Tôi thấp, chỉ tới tai Sơn, chân ngắn, nên phải nhảy ba bước một, mới bắt kịp. Vừa thở, vừa kêu Sơn đợi. Sơn không đáp cứ cắm đầu đi thẳng. Vừa vào phòng, Sơn khóa ngay cửa lại. Tôi ngạc nhiên coi anh chàng làm cái trò gì đây. Sơn để nguyên quần áo, giầy vớ nằm ngửa ra đi văng, tay rút trong túi quần ra cái phong bì lương lúc nãy, xé phong bì, nắm hết nắm tiền 5200$ gồm giấy 5$, 10$, 50$ tung lên trần nhà. Giấy bạc mới tinh, phát ngân viên Thành vừa lãnh từ kho bạc ra, rơi lả tả xuống người Sơn, rơi xuống đi văng. Sơn hốt lên, tung trở lại. Sơn cười sằng sặc. Sơn cười ha hả. Tiếng cười nghe là lạ. Nó pha lẫn niềm vui và nỗi phẫn hận. Rồi Sơn chửi thề: “Đù mạ mi! Đù mạ mi! Tiền! Tiền". Đó là lần đầu tiên tôi nghe Sơn chữi thề. Và cũng là lần duy nhất suốt ba năm sống chung với nhau. Tôi để mặc Sơn tự do trong những giây phút ấy. Tôi không muốn xen vào để quấy rầy Sơn đang đắm chìm trong thế giới riêng tư của mình.
Chiều hôm đó chúng tôi không ăn cơm. Phải tự khao một chầu linh đình mới được. Tại nhà hàng Ngọc Hương (bây giờ ông bà chủ quen mặt chúng tôi quá rồi) có mặt đông đủ những ông giáo trẻ vừa mới có được thành tích: một tháng công vụ. Đêm đó chúng tôi tưng bừng ăn uống, cười nói hả hê. Ôi! Một thời tuổi trẻ vô tư hồn nhiên.
Nhìn cái cảnh ông Trưởng giáo Trịnh Công Sơn ngồi dạy học ở ngôi trường Sơ cấp Thượng thì thật là vừa bi vừa hài. Mỗi buổi sáng, cái hoạt cảnh ông đi dạy đã là buồn cười rồi.
Tôi và Sơn có điểm giống nhau là không bao giờ đeo đồng hồ. Tôi dạy buổi chiều nên tha hồ nằm nướng trên giường. Sơn phải dậy sớm lúc bảy giờ để đến trường. Những ngày có mặt trời thì nhìn bóng nắng mà đi. Những ngày sương mù hay mưa dầm thì lắng nghe tiếng kèn lính chào cờ ở một đồn lính nào đó rất xa vọng lại văng vẳng. Te te... Tò tí te... Tò tí te... Sơn xỏ vội chiếc áo ka ki màu vàng cộc tay (chiếc áo này tôi thấy mặc từ lúc còn ở trường Sư phạm), đôi giầy ba-ta màu nâu, nách trái kẹp cuốn vở soạn bài cuộn tròn, miệng ngậm ống vố, chân sải bươn bả đến trường. Trường không xa lắm, non nửa cây số, Sơn lội bộ hằng ngày, trên con đường đất đỏ, càng lúc càng lên dốc. Ngày nắng thì bụi đỏ mù trời, ngày mưa thì nhèm nhẹp. Đi một lúc phải tìm chỗ nào có cây hay cục đá để gạt bớt đất nhão dính vào đế giày càng lúc càng nặng. Có hôm Sơn ngồi chờ mãi mà vẫn không nghe thấy tiếng Kèn đồng giục giã tò te, tí te, cứ ngồi ôm đàn tìm nốt nhạc. Đến khi sương tan hết, mặt trời ló ra thì đã gần đứng bóng. Ba chân, bốn cẳng Sơn vội vã như ngựa phi nước đại đến trường.
Một hôm tôi bỗng nảy ý định đến xem ngôi trường của ông Trưởng giáo nó ra làm sao. Leo hết con dốc ngắn, ngôi trường hiện ra trên một khoảng đất trống, xung quanh trơ trọi không một cây cối gì cả. Trường được ngăn đôi thành hai lớp. Mái tranh, vách đất, không cửa neo. Trong lớp, một bàn vuông cho thầy, sáu bộ bàn ghế dài cho trò. Trên vách treo một bảng đen, màu đen bạc thếch ở giữa. Chắc trải nhiều năm tháng không ai buồn sơn lại. Bụi đỏ bám khắp nơi. Từ vách đến bàn ghế thầy lẫn trò. Tôi đến đó khoảng mười giờ. Học trò hầu hết là các em bé người Thượng, chỉ xen lẫn vài em người Kinh, có lẽ con của một vài gia đình lính đóng đồn gần đó. Tất cả đều bẩn thỉu. Có đứa ở trần, đánh độc chiếc quần xà lỏn. Có đứa cũng đủ bộ nhưng màu đất đỏ đã nhuộm từ ống quần trở lên nên không còn nhận ra được màu nguyên thủy của nó là màu gì. Thầy Sơn đang ngồi tư lự, miệng ngậm ống vố, mắt nhìn lơ đãng về phía cánh rừng xa xa mặc cho đám học trò làm gì thì làm. Một túm đang gò lưng trên bàn, méo mồm méo miệng nắn nót viết bài theo trên bảng. Một túm đang bò lê bắn bi dưới đất. Cuối lớp vài đứa đang dựa lưng vào vách, há mồm ngủ.
Thấy tôi vào, Sơn cười miệng: - Tới coi ông Trưởng giáo làm ăn ra sao cho biết, tôi cười cười - Còn ông già Thống đâu? - Ông Thống dạy buổi chiều. - Có mấy lớp anh Sơn - Ba, tôi dạy lớp ba, ông già Thống dạy lớp một và hai. sinh đông không? - Thì ông thấy đó, bữa nào không đi hái trà thì được hai chục, bữa nào cha mẹ nó cần thêm công nhân thì mươi, mười lăm đứa.
Những đứa học trò thấy có người lạ thì cứ trố mắt nhìn. Sơn gõ gõ cây thước lên bàn làm hiệu. Đám học trò ngưng hẳn cuộc chơi chờ lệnh thầy. Sơn nói: "Hôm nay thầy có khách, cho các em về sớm". Đám trẻ con mừng hớn hở ra mặt, vội thu xếp sách vở, ùa ra khỏi cửa. Trong giây lát, tất cả trở về trong yên lặng. Sơn ngồi trầm ngâm, nán lại thêm chút nữa, đảo mắt nhìn quanh một vòng rồi tặc lưỡi đứng lên. Hai chúng tôi yên lặng xuống đồi. Trong thâm tâm có lẽ mỗi người đang theo đuổi một ý nghĩ khác nhau.
Sau khoảng vài tháng đầu niên khóa 64-65, ông Trương Cảnh Ngôn về hưu, ông Lê Cao Lợi, thanh tra kỳ cựu, có tu nghiệp ở Mỹ một thời gian, được Bộ đề cử chức Ty trưởng thay ông Ngôn. Đây là thời gian vàng son của Trịnh Công Sơn. Ty trưởng Lợi, trung niên, có tâm hồn văn nghệ, thích thơ, nhạc, nên đối với một người như Sơn ông dành cho nhiều dễ dãi. Đôi lúc nhắm mắt làm ngơ cho Sơn dùng thì giờ dạy học làm việc riêng của mình.
Khi chúng tôi đặt chân lên Bảo Lộc, trời đã vào thu.
Những tháng đầu hãy còn lạ nước, lạ cái, không biết đi đâu, làm gì để hết thì giờ vì chỉ phải dạy có một buổi; chúng tôi có suốt những buổi chiều lang thang. Cứ hết “những bước chân âm thầm" trong khuôn viên trường Nông Lâm Súc im lìm vắng vẻ với những tàn cây sao, cây gõ, cây gụ cao vút tận trời xanh, lại đến đoạn đường quốc lộ I chạy xuyên qua con phố Blao lèo tèo vài quán ăn dọc đường ngắn củn. Chúng tôi lại đi vòng bờ hồ cho đến khi chiều xuống hẳn, sương mù bắt đầu xuất hiện trên mặt hồ, ban đầu mỏng rồi dầy dần cho đến lúc che khuất một chòm cây khô giữa hồ, chỉ còn thấy một thân cây khô với những cành khẳng khiu vươn lên trơ trọi giữa khoảng trời mây. Đến lúc đó ai cũng cảm thấy mỏi chân và muốn vào quán ngồi uống cà phê, hoặc uống bia nghe nhạc, chờ tối để về nhà tìm giấc ngủ. Trong cái không gian và thời gian đó, Trịnh Công Sơn cảm hứng sáng tác nhạc phẩm Chiều một mình qua phố. Cái lạ là suốt thời gian gần ba năm làm nhạc tại Bảo Lộc, những bản Chiều một mình qua phố, Lời buồn thánh, Vết lăn trầm và tập Ca khúc da vàng, mặc dù đã có tiền nặng túi, Sơn vẫn không có nổi cây đàn (hay Sơn không muốn mua?). Sơn dùng cây đàn ghi ta của cô Đỗ Thị Nghiễn. Cây đàn này đã giúp Sơn ghi lại những nốt nhạc mà Sơn thai nghén trong những lúc đi dạy hoặc lang thang với chúng tôi ban ngày, tối về chúng tôi say sưa trong giấc ngủ thì Sơn ôm đàn say sưa dò lại những âm thanh đang chập chờn ẩn hiện trong đầu. Sau những đêm như thế, Sơn phờ phạc hẳn. Một giỏ rác đầy tràn những tờ giấy bản dùng để quay ronéo Sơn chép vội những dòng nhạc vừa xuất hiện trong đầu rồi chợt biến, vo tròn, ném lại dò tìm. Sơn sợ làm ồn giấc ngủ của bạn, nên phải chận phím để tạo những âm thanh câm.
* Nhạc phẩm đầu tiên được ấn hành
Mặc dù trước đó Trịnh Công Sơn đã có nhiều nhạc phẩm rất hay như Ướt mi, Thương một người, Biển nhớ, Nhìn những mùa thu đi... nhưng chỉ chuyền tay nhau hát trong chốn bạn bè, không có điều kiện hay vì những lý do nào đó Sơn không thể xuất bản để phổ biến rộng rãi. Đến khi ở tại Blao, sau khi hoàn chỉnh nhạc phẩm Chiều một mình qua phố, Sơn quyết định mang đứa con của mình về Sài Gòn tìm nhà xuất bản. Sơn ở rịt tại Sài Gòn gần ba tuần lễ.
Mấy ngày sau Sơn về. Phờ phạc, hốc hác. Tôi kể chuyện ông già Thống đi tìm. Sơn nói là sẽ xin lỗi sau. Xong, Sơn ngủ vùi suốt ngày hôm đó. Ngày hôm sau Sơn kể cho tôi nghe mọi việc về nhạc phẩm Chiều một mình qua phố.
Sơn nói: "Mình bán cho cha Duy Khánh. Chả trả có ba ngàn đồng bạc, mình nài thêm, chả nói, nhạc Phạm Duy là đắt nhất mà cũng chỉ tới năm ngàn là cùng, ông là nhạc sĩ mới, giá vậy là cao lắm rồi". Sơn tặc lưỡi nói tiếp: "Thôi cũng được, nhưng tiếc một điều là chả làm hư bài hát của mình. Mình bán đứt bản quyền rồi đâu có ý kiến chi được”. Tôi thắc mắc: “Hư là hư làm sao?". Sơn nói: "Nhạc của mình êm, nhẹ để diễn tả nỗi buồn của những ngày lang thang trên phố vắng, đìu hiu, quạnh quẽ mà chả cứ rống lên như bò rống”. Sơn giả giọng Duy Khánh, tay nắm lấy da cổ họng giựt giựt, miệng rống lên “Chiều một mình qua phố... ố... ố... ố”. Tôi không sao nín cười được. Từ đó Sơn giải nghĩa cho tôi nghe về việc in ấn, tác quyền, phát hành, đại lý, gom tiền... rất nhiều, nhiều giai đoạn nhiêu khê, tác giả một nhạc phẩm hay một tiểu thuyết không thể nào tự mình làm được các việc đó, nên bị các nhà xuất bản bắt chẹt, đành phải bán bản quyền cho họ. Bây giờ tôi mới vỡ lẽ ra. Bấy lâu nay tôi cứ ngỡ các ông văn sĩ, nhạc sĩ có sách, có nhạc được in ra, đem bán khắp nơi chắc lại giàu lắm.
* Cô nữ sinh tên Ngà, tiếng kèn đồng và Lời buồn thánh
Khoảng đầu tháng tư năm 1965, chúng tôi đau buồn tiễn biệt người bạn trẻ Nguyễn Văn Ba về bên kia thế giới. Cái chết của Nguyễn Văn Ba phần nào giúp Sơn hoàn thành một bản nhạc bất hủ khác: Lời buồn thánh. Số là trước đó, cứ trưa thứ sáu, sau khi bãi học, Sơn đi thẳng ra bến xe, lấy vé về Sài Gòn. Xe nhỏ Minh Tâm chỉ bốn tiếng đồng hồ là Sơn đã tiếu ngạo ở thành phố hoa lệ. Mười hai giờ trưa chủ nhật, Sơn lại leo lên xe đò, đánh một giấc. Năm giờ chiều đã có mặt tại bàn bi da Cà phê Ngọc Trang. Sau cái chết của Nguyễn Văn Ba, Sơn rét, không dám về Sài Gòn hằng tuần nữa. Những ngày bó gối nằm nhà, Sơn thường ngồi tư lự trước bàn viết duy nhất dành cho cả hai soạn bài dạy, nhìn ra con đường đất đỏ. Mùa này, bông lau nở trắng xóa khắp nơi, dọc theo con đường dốc chạy dài từ trong buôn ra tới quốc lộ, băng ngang trước nhà chúng tôi. Buổi chiều, những cơn gió nồm thổi nhẹ tới từng cơn, lướt qua rừng bông lau, xô chúng ngả nghiêng xuống, rồi chúng bật dậy, tạo thành những âm thanh xào xạc nhè nhẹ, đều đều, buồn buồn. Chiều xuống dần, những vạt nắng cuối cùng chiếu xiên trên ngọn bông lau, lấp lánh sáng ngời. Gió lắng dần, không gian trở nên im ắng, tĩnh mịch. Chợt tiếng kèn đồng xa xa vẳng lại, lúc nghe, lúc mất thật hiu hắt buồn. Đó là lúc cô nữ sinh hàng xóm, cô Ngà, đúng giờ đi lễ. Chuông nhà thờ đang dồn dập từng hồi thúc giục con chiên đến giáo đường. Thật đúng như tên đặt, da cô trắng ngà, người mảnh mai với mái tóc thề chấm ngang vai, khuôn mặt phảng phất như Đức mẹ Maria. Rất dịu dàng trong dáng đi, mỗi buổi chiều cô đi lễ, đều đi ngang nhà chúng tôi. Hai tay ấp quyển Kinh Thánh trước ngực, đầu hơi cúi xuống, lặng lẽ, khoan thai bước. Đã bao lâu rồi, cái hình ảnh rất đẹp ấy, cái mầu áo dài trắng nổi bật trên nền đất đỏ, thấp thoáng ẩn hiện trong đám lau trắng, đã đi ngang nhà chúng tôi bao nhiêu chiều rồi mà chúng tôi không hề hay biết. Thật uổng phí? Chẳng là, cứ ba giờ chiều là chúng tôi đã túc trực quanh mấy cái bàn bi da để dành chỗ rồi chơi cho đến khi tắt điện mới mò về, thì làm sao có thì giờ để biết bên hàng xóm có người đẹp. Cái tên Ngà mãi về sau, theo dõi, lắng nghe mấy đứa em cô gọi mới biết. Từ ngày Nguyễn Văn Ba chết chúng tôi buồn vì thiếu vắng một người bạn, nên không còn hứng thú trong những buổi lang thang nữa. Ngồi nhà suốt một tuần nên mới phát hiện ra bên hàng dậu có người ngọc. Cả ba: Sơn, Tâm và tôi bắt đầu theo đuổi. Nhưng cả ba đều không thành công. Lý do: tuổi trẻ ham chơi nên không bỏ hết thì giờ để đeo đuổi, thứ nữa là sĩ diện, quan trên trông xuống người ta trông vào, thầy giáo mà đi chọc gái thì ê càng quá. Tuy nhiên với tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ, Sơn đã thành công khi đưa tất cả những âm thanh mơ hồ của ngàn lau, của tiếng kèn đồng, tiếng chuông nhà thờ cùng dáng yểu điệu của cô Ngà hòa nhập với gió chiều nhè nhẹ để cấu thành chất liệu tuyệt vời tạo nên nhạc phẩm Lời buồn thánh.
xuất xứ vài nhạc phẩm - những mối tình một thoáng mây bay
Ngoài những nhạc phẩm như Biển nhớ, Nhìn những mùa thu đi, Dã tràng ca... Sơn sáng tác ở Quy Nhơn năm 62-64, Chiều một mình qua phố, Lời buồn thánh, Vết lăn trầm...
Sơn làm tại Bảo Lộc thì tôi biết rõ xuất xứ vào thời gian như đã lướt qua ở trên, tôi còn biết thêm một vài nhạc phẩm khá hay liên quan đến những mối tình, mà anh gọi là "một thoáng mây bay" do anh kể lại, nay một chuyện, mai một chuyện. Thường thường những chuyện này được kể trong những chiều trời mây u ám, mưa rả rích, dai dẳng. Hai anh em chúng tôi đem đàn, sáo ra hòa điệu. Rồi cũng chán. Lại cà phê. Khói thuốc mịt mù, mờ khuôn cửa kính. Anh kể chuyện hấp dẫn, có duyên. Bất cứ chuyện gì anh kể tôi cũng đều thấy hay. Có khi khôi hài cũng rất dí dỏm. Vừa nói, vừa diễn ra điệu bộ, làm cho câu chuyện rất sống động, lôi cuốn người nghe từ đầu đến cuối.
* Diễm của Diễm xưa
“Hai chị em, người chị là Bích Diễm, người em là Dao ánh, - Sơn kể, - hai chị em đều đẹp và quý phái, nhưng tôi theo cô chị. Mối tình học trò kéo dài từ khi tôi còn ở Huế cho đến lúc tôi vào Sài Gòn trọ học. Cha mẹ Diễm khó và không thích tôi. Năm đó tôi thi trượt Bậc II, Diễm thi đậu, vào Sài Gòn để vào đại học Văn khoa. Còn tôi thì lại về Huế, bỏ ngang việc học vì gia cảnh. Phần buồn, phần tự ái tôi không còn liên lạc với Diễm nữa và Diễm có lẽ thấy tôi lâu quá không thư từ, thăm hỏi, nghĩ rằng tôi đã quên, nên Diễm cũng lơ luôn. Đâu biết rằng đó là thời gian tôi đau khổ nhất. Tôi đã nén mọi khổ đau trong im lặng. Sự đau khổ và nổi nhớ nhung dày vò tôi từng đêm, tôi đã viết nên bài Diễm xưa để trút bớt nỗi đau khổ trong lòng. Nhưng lạ một điều là khi tôi viết xong nhạc phẩm này, lòng tôi lại thanh thản, nhẹ nhàng. Tôi cảm thấy vơi đi rất nhiều nỗi nhớ và tình yêu trong lòng tôi bây giờ chỉ còn một chút mong manh như sương, như khói. Nó không còn nồng nàn, mãnh liệt như trước. Một dịp tôi vào Sài Gòn, tìm đến cư xá Diễm đang nội trú với ý định tặng nàng bản nhạc để làm kỷ niệm một thời thơ mộng của tuổi trẻ, rồi thôi.
Nhưng không gặp, tôi nhờ mấy người bạn gái đang đứng ở cổng trao lại giùm cho Diễm. Khi tôi đi được một quãng thì nghe tiếng Diễm từ trên ban công gọi theo “Anh
Sơn! Anh Sơn!" Nhưng tôi không ngoái lại. Tôi cắm đầu đi thẳng. Tiếng gọi anh Sơn, anh Sơn vẫn còn nghe văng vẳng sau lưng. Từ ấy đến nay, tôi tự nhủ lòng sẽ không bao giờ gặp lại.
* Tôn Nữ Bích Khê và Biển nhớ
Nhóm học sinh Nha Trang khăn gói ra Quy Nhơn học Sư phạm có mười một người, bảy nam và bốn nữ. Các nữ giáo sinh gồm có Mân Thị Dương (em gái kế của Mân Thiệu tức nhạc sĩ Thanh Châu, tác giả nhạc phẩm Thư gửi người lính chiến), Nguyễn Thị Tảo, Tảo học chung lớp Đệ nhất B3, Võ Tánh với tôi; cô Kiều Thị Đợi và Tôn Nữ Bích Khê. Bích Khê có hai người em gái cũng tên Khê, đó là Thuần Khê và Cẩm Khê. Bích Khê dáng người nhỏ, tròn lẳn, nước da ngăm đen như Trịnh Công Sơn, thường đánh tóc rối thành một búi lớn ngược ra sau đỉnh đầu. Mang guốc cao gót, nhọn, hiệu Đakao, đi chân sáo. Đứng xa nhìn Bích Khê đi trông giống như con sáo nhỏ đang nhảy nhót trong sân. Cái búi tóc nhảy tưng tưng theo nhịp bước, người ta có cảm tưởng có lúc nó sẽ kéo người chủ nó té ngửa ra sau. Bích Khê không đẹp nhưng rất có duyên, quyến rũ. Bích Khê cũng ở trong ban hợp xướng. Người lĩnh xướng là Nguyễn Thị Ngọc Trinh... Tôi không biết rõ chuyện tình của Sơn và Khê bằng ông Đinh Cường, mặc dù học chung hai năm với nhau. Bởi vì hầu như ngày nào cũng có nhiều cô đến nhà trọ của Sơn. Sau khi bản Biển nhớ được sáng tác và tập dượt để ra mắt buổi văn nghệ thì giáo sinh sư phạm mới lưu ý tới Bích Khê và bàn tán, vì tình cờ hay cố ý, Sơn đã viết "trời cao níu bước sơn khê" trong lời nhạc. Về sau, 1970, tôi được chuyển về Nha Trang, gặp lại Bích Khê nay đã yên bề gia thất, chồng nàng tên Chương, thợ sửa máy lạnh, có cửa hàng mua, bán - sửa chữa tại đường Quang Trung, đối diện với hiệu ảnh Photo Vỹ. Sau 1975, hai vợ chồng trở nên giàu có hơn xưa ở Blao. Tôi có hỏi Sơn về sự liên quan giữa nhạc và người. Sơn nói chỉ là bạn như những người bạn khác. Chữ sơn khê chỉ là tình cờ.
* Nhìn những mùa thu đi
Bản Nhìn những mùa thu đi cũng trong trường hợp tương tự. Trong lớp tôi đã có ba cô Thu rồi. Các lớp khác cũng hai hay ba Thu, nên không biết Thu nào đã đến với Sơn hay Sơn đã yêu Thu nào. Mỗi khi có cô Thu nào đi ngang, bọn chúng tôi hát ghẹo "Nhìn những lần thu đi, anh nghe hồn anh đau đớn...". Mãn khóa, chia tay. Không ai có thì giờ để ý đến chuyện của ai. Chăm chú, hồi hộp đợi danh sách bổ nhiệm, xem cuộc đời đưa đẩy số phận mình đến phương trời nào.
* Ca khúc da vàng
Sau vụ bị rao tìm trên đài phát thanh Đà Lạt và bị quở trách tại Ty, Sơn trở nên cần mẫn hơn, khuôn phép hơn.
Sơn ít đi lại Sài Gòn - Đà Lạt. Thỉnh thoảng có đi thì về kịp sáng thứ hai để đi dạy. Trong thời gian này Sơn nhận được rất nhiều thư. Phong nào cũng dày cộm. Sơn dạy buổi sáng, nên người nhận thư là tôi. Nhìn con dấu bưu điện tôi biết thư được gửi từ Huế. Đấy là thư bạn của Sơn... Từ lúc đọc những lá thư dày cộm đó, Sơn bỗng nhiên thay đổi hẳn tâm tính. Lúc nào cũng có vẻ bồn chồn, lo lắng. Ít đi lang thang những buổi chiều nữa. Có lúc ngồi trước bàn, thẫn thờ, mắt đăm chiêu nhìn qua cửa sổ hằng giờ, yên lặng với khói thuốc. Có khi điếu thuốc từ lúc châm đến lúc tàn chỉ rít một hai hơi. Chiếc gạt tàn đầy ứ, tràn ra bên ngoài. Sơn mua khóa về khóa chặt va li để cất những thứ ấy. Có cái Sơn đem ra đốt ngay sau khi đọc.
Sau đó, Sơn lại thường xuyên đi Đà Lạt hơn. Khi hai, khi ba ngày Sơn kể tôi nghe về một trang trại ở Phim Nôm gần Đức Trọng, một quận của Tuyên Đức. Sơn ở đó với vài người bạn (Sơn không kể tên) bàn chuyện làm ăn. Có lần Sơn rủ tôi làm chung, mỗi tháng lương là mười ngàn. Hết hè, tôi vẫn còn luyến tiếc thời gian ba tháng trôi qua quá mau. Trở lại căn phòng trên Bảo Lộc, tôi hết đỗi ngạc nhiên, khi thấy Sơn đã có mặt ở đây rồi. Căn phòng bừa bộn, bẩn thỉu. Tôi nhìn Sơn ái ngại. Sơn xanh hẳn. Khuôn mặt hốc hác. Người đã ốm lại càng gầy thêm. Gầy rạc. Bộ đồ pijama trở nên rộng thùng thình, đen xỉn, nhàu nát. Có lẽ ba tháng nay không giặt! Nhưng nét mặt lại lộ vẻ vui. Vừa xếp dọn lại chỗ nằm của mình, tôi vừa trò chuyện với Sơn. “Ông làm gì mà nằm ép rệp ở đây đến ba tháng lận? Không buồn à?”. Sơn phấn khích chìa tập nhạc ra khoe tôi: “Công trình ba tháng đó". Tôi cầm xấp bản thảo liếc qua trang đầu có nhan đề Ca khúc da vàng, lật thêm mấy tờ bên dưới lại thấy những tựa rất lạ: Gia tài của mẹ, Đàn bò vào thành phố, Người già và em bé, Người con gái Việt Nam da vàng v.v... với những lời ca lạ lẫm, khác hẳn những lời trong tình ca đến 180 độ. Tôi ngờ vực có một cái gì đó đã thay đổi con người của Sơn nhưng chưa xác định được rõ ràng nó là cái gì.
Tối đó Sơn hát cho tôi nghe một vài bài tiêu biểu trong tập Ca khúc da vàng. Đến những đoạn như "gia tài của Mẹ, một bọn lai căng. Gia tài của Mẹ, một lũ bội tình" hay như “đại bác đêm đêm dội về thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe" hoặc như "tôi có người yêu chết trận đêm qua, chết thật tình cờ”, tôi bỗng nổi da gà. Lời ca thật xúc động, nó xoáy sâu vào tim người nghe rồi chuyền lên óc làm cho rung động tâm can, tỏa lan dần khắp cơ thể làm cho bải hoải tứ chi.
Dần dà trong bọn chúng tôi ai ai cũng biết Sơn vừa sáng tác một tập nhạc mới. Lại chia làm hai phe. Lúc đó đâu đã có từ "phản chiến" để chỉ loại nhạc này. Chúng tôi ngâm nga hát mỗi bài vài ba câu. "Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày".
Thời gian sau, Sơn rất bận rộn. Đi đi, về về Sài Gòn - Đà Lạt liên tục. Thường xuyên bỏ trường hơn trước, nhưng thời gian không lâu. Có khi hai, có khi ba ngày. Sơn cho tôi biết là đang chuẩn bị in tập Ca khúc da vàng và hé cho tôi biết thêm là giới sinh viên thích lắm, họ đang yêu cầu có những buổi hát ngoài trời gọi là "du ca" và Sơn cũng nói đến một vài cái tên sinh viên sẵn sàng giúp Sơn thực hiện những buổi trình diễn ấy. Những điều Sơn kể cùng những cái tên xa lạ không ăn nhập gì với đời sống đang tươi đẹp của tôi, nên từ tai này qua tai kia, chốc lát tôi quên hết. Khi Sơn đi, tôi còn khối bạn bè để vui chơi. Nào Tín, nào Đạo, Bạch, Lãng, Tâm mập, Tâm lùn, Hinh, Sang, Thao, Hiện, Rầm, Nhượng... Tuần này xuống Tân Hà, đến nhà ông hiệu trưởng Ngọc, hạ cờ tây. Tuần sau kéo nhau vào ấp Lam Sơn, hai bên đường vào ấp, trồng toàn hoa đào, nên còn có cái tên thơ mộng là Đào Hoa thôn, đến nhà ông Tề ngắm phong lan. Lại có lúc, cùng các cô, chúng tôi dạo suối Đại Bình, cách Blao chừng vài cây số. Cứ thế tuổi trẻ của tôi, ngoài việc dạy dỗ các học sinh, đã trải qua những ngày tháng tươi vui, đáng sống ở cái quận lỵ bé nhỏ, mà mới ngày nào tôi gặp Sơn ở bến xe một buổi chiều cuối tuần đìu hiu có mưa rả rích, buồn thúi ruột.
Chia tay
Hè 1967, chúng tôi đang mỗi người một nơi nghỉ hè bỗng đồng loạt nhận được điện khẩn của Ty, nhắn lên gấp để nhận lệnh nhập ngũ. Phía dưới còn bị chú hàng chữ: Nếu trình diện trễ bạn sẽ bị đưa ra trường hạ sĩ quan Đồng Đế. Thế là chúng tôi không hẹn mà gặp nhau một ngày tại Ty. Tay trái nhận lệnh Tổng động viên, tay phải nhận phong bì ứng trước một tháng lương để có tiền ăn đi đường, lên đường nhập ngũ. Không thấy Sơn đâu.
Hỏi anh Thành phát ngân viên, anh cho biết Sơn đến hôm qua lãnh lương đi rồi. Tối hôm đó chúng tôi gồm: Đạo, Hinh, Sang, Nghị, Nhượng, Bạch, Tâm lùn, Ngọc (Lãng sốt rét, Thao què giò được miễn) và tôi, uống một bửa thật say. Ai cũng ví mình là Kinh Kha đang ở bên bờ sông Dịch một đi không trở lại. Chỉ tiếc không có ai là Cao Tiệm Ly thổi đưa khúc sáo lên đường. Chúng tôi đang lúc ngà ngà, ôm nhau hát bài Những ngày xưa thân ái của Phạm Thế Mỹ, cứ lặp đi, lặp lại điệp khúc “Chỉ còn tay súng nhỏ, giữa rừng sâu giết thù, những ngày xưa thân ái xin gửi lại cho nhau” rồi cùng nhau khóc, khóc như trẻ thơ, khóc tự nhiên không một chút xấu hổ. Sáng hôm sau tỉnh dậy chỉ còn lại vài mạng, say quá chưa tỉnh nổi, còn bao nhiêu thì đã đi rồi. Tôi ra bến xe, nhìn lại quang cảnh, vẫn y như cũ, không có gì thay đổi, nhưng hôm nay sao thấy buồn quá đỗi. Cái gì cũng có vẻ xa vắng, bơ thờ. Khi xe chạy ngang bờ hồ, tôi thì thầm “Giã từ Bảo Lộc mến yêu, biết bao giờ gặp lại nhau!". Xe khuất dần, tôi cố ngoái lại lần chót, chỉ còn thấy ngọn cây khô chết giữa hồ. Nước mắt tôi lại ứa ra.
CUỘC HÀNH TRÌNH CỦA NGƯỜI VIỆT NAM QUA TRỊNH CÔNG SƠN Thế Uyên
Trong căn phòng đã bắt đầu thiếu ánh sáng của trụ sở Tổng hội Sinh viên Huế, tôi vẫn còn cố gắng tranh luận, thuyết phục. Bên trái tôi là anh chủ nhiệm tạp chí tôi đang cộng tác thường xuyên, bên phải tôi là Hoàng Phủ Ngọc Tường, một trong những bạn học thân nhất của tôi trong những năm đầu ở Viện Đại học Sài Gòn. Bên kia đầu bàn là một người trẻ mang kính trắng, Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Huế, hai bên hiện diện đầy đủ hầu hết các đại diện cho giới trẻ của cố đô. Tôi đang cố gắng thuyết phục tất cả những người đó không nên tham gia và phát động cuộc tranh đấu mà sau này mọi người thường gọi là phong trào tranh đấu của miền Trung. Tôi không tin là cuộc tranh đấu ấy sẽ thành công: ngồi ở Sài Gòn vào một vị trí khá thuận tiện để nghiên cứu vào thời gian đó, tôi đã ước tính là những người trẻ Việt Nam, trong đó có các bạn đang ngồi kia với tôi, cộng với cả Phật giáo nữa, cũng không thể nào làm thay đổi được chính sách tại miền Nam này.
Trời đã hết hẳn nắng từ lâu, phòng họp đã mờ khuôn mặt người, tôi vẫn còn cố thuyết phục. Cách mạng đâu có thể thực hiện được bằng truyền đơn, biểu ngữ và các cuộc tuần hành ngoài đường phố. Phong trào mà những người bạn tôi đang ngồi kia sắp tham gia, tôi không tin sẽ dẫn tới một thay đổi căn bản nào cho chiến tranh Việt Nam - tại Á châu, lẽ phải nằm ở đầu ngọn lưỡi lê và lưỡi lê ấy, chúng ta không có hay chưa có. Phải dành sinh lực và thiện chí cùng nhân sự để rèn lưỡi lê cần thiết đó đã... Hình như trong không gian mờ tối của căn phòng, tôi đã trình bầy như thế.
Tôi phải dùng chữ "hình như", bởi vì thời gian qua cũng đã lâu rồi kể từ ngày ấy.
Vào một lúc nào đó, tôi chợt khám phá ra tôi đang độc thoại. Từ đã lâu rồi, những khoảng người ngồi quanh bàn đã câm nín. Tôi cũng im theo và trong một khắc im lặng ngắn, tôi chợt cảm thấy như có một ranh giới vô hình đã xuất hiện giữa tôi và các bạn. Ngay cả đối với Hoàng Phủ Ngọc Tường. Không còn gì để nói với nhau nữa, mỗi bên giữ vững lập trường của mình, đường ai người ấy đi. Nhưng tôi không muốn để đứt đoạn, phân cách nhau một cách vô lý như thế. Tôi không hề muốn từ giã họ như thù nghịch - bởi vì điều bất đồng ý, không hề nằm ở mục tiêu theo đuổi, mà là ở phương thức thực hiện. Có lẽ Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng cảm thấy tương tự nên đã cùng với tôi tuyên bố chấm dứt thảo luận chính trị, và kể từ giờ cho tới khi tôi rời Huế, chỉ còn chuyện văn nghệ và sinh hoạt với nhau như bạn mà thôi. Tất cả đều tán đồng và hẹn gặp lại ở Tuyệt tình cốc.
Đến địa điểm hẹn gặp, ở một con đường nào của Huế, tôi bây giờ không sao nhớ lại được. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đợi sẵn và dẫn tôi đi theo một con đường nhỏ hai bên hàng rào âm u như một xứ quê. Quả xứng đáng là con đường dẫn vào Tuyệt tình cốc. Một căn nhà tranh vách đất và nền cũng bằng đất, không điện và cũng không có một dấu vết nào chứng tỏ có vết tích của cơ khí Tây phương. Vài chiếc chiếu trải trên đất, các ngọn nến thắp rải rác quanh vài đĩa bánh và các ly cà phê đen sánh, đen như mầu mắt của ba thiếu nữ duy nhất hiện diện. Hoàng Phủ Ngọc Tường giới thiệu chung và vì quá đông, tôi chỉ nhớ được tên vài người như Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân... và một người rất trẻ mặc chiếc áo ka ki, vẻ mặt trong sáng hiền lành sau làn kính trắng có cái tên rất hợp với Tuyệt tình cốc: Trịnh Công Sơn.
Khi Trịnh Công Sơn bắt đầu hát, tôi chú ý nghe bởi vì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có lần chê tôi là "không biết Trịnh Công Sơn kể như chưa biết gì về văn nghệ miền này”. Nhưng ngay lập tức, tôi không cần phải chú ý nữa - tôi đã bị chìm ngập ngay vào trong thế giới âm thanh của Trịnh Công Sơn. Tôi vẩn vơ theo dõi những viên đá, hay một viên đá, lăn trầm bồng bềnh trong cuộc đời, tôi cầu xin mặt trời ngủ yên cho đàn bò đi vào thành phố băng qua những giáo đường tình yêu... Khi Sơn đã ngừng hát, tôi vẫn còn sững sờ vì không thể ngờ nổi ở Việt Nam lại có thể xuất hiện những bản nhạc như thế. Những âm thanh lê thê, những hình ảnh hoang tàn, rã rời, nhưng... tôi vẫn cảm thấy một sức mạnh tiềm tàng lẩn khuất trong từng âm thanh của bản nhạc, trong những người đang ngồi quanh dưới các ánh nến chập chờn và những bóng đèn lung linh trên vách đất. Đêm khuya, khi ra tới đường lộ, Hoàng Phủ Ngọc Tường tách ra khỏi bạn bè, hỏi riêng tôi: thực ra còn lý do chi nữa làm anh tin bọn tôi sẽ thất bại?... Và khi bắt tay từ giã Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi quyết tâm theo đuổi con đường mình cho là đúng nhất, con đường đã chọn lựa. Hoàng Phủ Ngọc Tường và tất cả những người của Tuyệt tình cốc - trừ ba người nữ - đã lao vào phong trào tranh đấu do Phật giáo phát động một thời gian sau, còn tôi, về tới Sài Gòn là lo treo ấn từ quan (một chiếc ấn bé xíu của một chức quan hữu danh vô thực) cùng các bạn lập nhóm Thái Độ để lao mình vào một cuộc phiêu lưu thực hiện "giấc mơ trăm năm của dân tộc": hoài bão thực hiện một cuộc vận động văn hoá mới tiến tới cách mạng xã hội. Và trong đêm, khi lái chiếc xe Jeep già nua đưa một trong ba thiếu nữ đã có mặt trong Tuyệt tình cốc trở về nhà qua những con đường nhỏ ngủ êm, ven một con sông rất nhỏ và rất êm đềm, tôi không thể ngờ đó là lần chót tôi gặp Hoàng Phủ Ngọc Tường và rất nhiều người trẻ của thành phố cổ xưa này.
Sau những tháng gay cấn dữ dội, phong trào tranh đấu của miền Trung đã thất bại. Trong thời gian này, mặc bộ quân phục bạc phếch, tôi vừa quay ronéo từng trang cho những tập Thái Độ đầu tiên, vừa cùng các bạn theo dõi cuộc đấu tranh khốc liệt. Và phong trào tan rã, Tuyệt tình cốc, chỉ còn Trịnh Công Sơn xuất hiện, mỗi ngày một nổi danh vì những bản nhạc của mình. Những bản tình ca của anh được lớp trẻ hoan nghênh dữ dội và phổ biến sâu rộng: không ngồi nơi nào không nghe thấy những âm điệu của anh. Nhưng tôi biết anh không thể ngừng ở đấy, không thể chỉ là một người làm tình ca cho thiên hạ yêu nhau.
Kể cũng lạ. Sơn và tôi cùng những người đồng lứa, chúng tôi có tuổi trẻ, quá nhiều tuổi trẻ để hưởng tình yêu cùng những mật ngọt của trần gian. Nhưng chúng tôi không làm sao nếm mật mà không cảm thấy vị đắng cay.
Không tìm thấy gì, nhưng không thể sống mà không có một vị trí trong cuộc đời. Trừ những người tin theo các triết thuyết nhập cảng đóng hộp từ phương Tây và những người buông thả vào trong siêu hình Ấn Độ, không ai có thể sống hàm hồ. Mỗi người đều ước mơ: Ước gì ta được là ta, hay làm sao khi thức dậy, tôi tìm thấy tôi. Trong cuộc hành trình đi tìm chính ta, chính tôi, chính mình này, những người trẻ trung vung tay xé rách các tấm màn để biết rằng mình không phải là tây con, là phó hoa kỳ. Cuộc hành trình phải tiếp tục, và lần này, đi lại từ đầu: đi tìm quê hương. Những mốc dấu đầu tiên thực thảm hại:
Người nô lệ da vàng ngủ quên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ, ngủ quên đã bao năm,
Ngủ quên đã bao năm,
Ngủ quên không thấy quê hương. (Đi tìm quê hương)
Khám phá đầu tiên ấy thực là buồn. Nhưng những người trẻ chấp nhận: chúng ta là nô lệ, chúng ta chưa là người tự do, chúng ta là người nô lệ, không phải nô lệ da trắng, mà là nô lệ da vàng. Màu da vàng là màu da chúng ta, là thân phận chúng ta ở cõi đời này, chúng ta chấp nhận và hãnh diện.
Và người nữ chúng ta yêu, người nữ thần tượng, không phải là những người "tóc vàng sợi nhỏ", những Birgitte Bardot, Sharon Tate, Raquel Welch, mà là người con gái Việt Nam:
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương như yêu đồng lúa chín
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương nước mắt lưng dòng...
Em chưa biết quê hương thanh bình
Em chưa thấy xưa kia Việt Nam
Em chưa hát ca dao một lần
Em chỉ có con tim căm hờn
Người con gái một hôm qua làng
Đi trong đêm, đêm vang ầm tiếng súng
Người con gái chợt ôm tim mình
Trên da thơm và máu loang dần
Người con gái Việt Nam da vàng
Mang giấc mơ quê hương lìa kiếp sống... 
(Người con gái Việt Nam, Ca khúc da vàng)
Đã tìm thấy người nữ của mình, người con gái Việt Nam da vàng, tất nhiên cuộc hành trình phải tiếp tục, ổn cố vững vàng hơn.
Người nô lệ da vàng bước đi bước đi
Đi về đầu non
Người nô lệ da vàng bước đi
Đi về biển xanh
Đi khâu vá non sông Việt Nam
Hai mươi năm liền thịt xương.
Phơi trên đôi miền
Đi cho thấy quê hương
Đi cho thấy quê hương
Đi cho thấy quê hương... 
(Đi tìm quê hương)
Và tới cuối chặng đường thứ nhất của cuộc hành trình, những người trẻ thấy mình là người Việt Nam, màu da vàng, với tất cả những khốn khổ cũng như oai hùng của dòng giống. Nhìn sang bên kia, cũng thấy cùng, mầu da, cùng Việt Nam.
Đã gọi là di sản, thì được nhà cao cửa rộng, ruộng cả ao liền, xã hội thanh bình cả nước hoa đăng... càng tốt. Còn nếu không, gia tài là của mẹ, thì dù có là ruộng đồng khô khát, nhà cháy từng hàng, một rừng xương khô, một núi đầy mồ... cũng xin giơ hai tay mà đón nhận. Không phải nhận để rồi mà khóc than thương cho phận mình. Nhận đây là để làm cho khá hơn, trồng cây trên núi, trồng lại lúa trên vùng khai hoang - dù rằng muốn làm thế có phải làm từ đầu là dạy dỗ lại nhau từ đầu:
Dạy cho con tiếng nói thật thà
Mẹ mong con chớ quên mầu da
Con chớ quên màu da nước Việt xưa
Mẹ trông con mau bước về nhà
Mẹ mong con lũ con đường xa
Ôi lũ con cùng cha
Quên hận thù. 
(Gia tài của mẹ - đoạn kết)
Bắt đầu từ chặng này cuộc hành trình, những người trẻ đó chỉ còn có thể lên tiếng tuyên bố: như trong phần chót của bài ca trên:
Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam
Ngày gió lớn tôi đi môi gọi thầm
Gọi tên anh, tên Việt Nam
Gần nhau trong tiếng nói da vàng
Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam
Ngày mới lớn tai nghe quen đạn mìn
Thừa đôi tay, dư làn môi
Từ nay tôi quên hết tiếng người.
Đó là một lời tuyên ngôn dịu dàng nhất và cũng minh bạch nhất: Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam chứ không phải: "Tôi muốn yêu anh nước bạn đồng minh Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc".
Tôi được nghe bài ca trên khi phụ trách huấn luyện quân sự cho sinh viên Văn khoa Sài Gòn. Suốt nhiều buổi trưa, tôi ngồi trong một quán cà phê gần trường, nghe đi nghe lại bản nhạc xót xa buồn thảm, đầy chết chóc đau thương ấy, tôi biết Trịnh Công Sơn đang đi vào tuyệt lộ dẫn tới lao tù.
Ở miền Nam có một thành phần rất sợ hoà bình - bất cứ hoà bình kiểu gì và bất kể từ đâu tới! Lý do bởi vì quyền lợi và danh vọng hiện tại của họ xây dựng trên căn bản là trục lợi chiến tranh, đấu thầu cuộc chiến. Kêu gọi tình tự dân tộc tới hòa bình, kể như lay động tới nền tảng quyền lợi của họ rồi. Chính thành phần này từ đã bao năm hô hào chiến đấu chiến tranh bằng mồm (hô hào mọi người thôi, còn thân họ thì không bao giờ dám đưa ra gần nơi lửa đạn, và con cái họ đều được trốn nghĩa vụ hợp pháp để du học bên Mỹ, bên Âu, Nga), chính những người này bao giờ cũng muốn chính quyền bắt bỏ tù, cho đi hải đảo bất cứ ai muốn khơi dậy, đề cao tình tự làm người Việt Nam...
Và tất nhiên là Trịnh Công Sơn không thoát được số phận của mình. Các biện pháp nặng nhẹ đủ loại đã được đưa ra áp dụng cho con người hiền lành dễ thương nhất của Tuyệt tình cốc, nhưng không đưa được anh tới lao tù đầy ải: quá nhiều người Việt đã lên đường vào cuộc hành trình làm người Việt Nam, và không ai nỡ để con người thư sinh giản dị, tối ôm đàn đi hát, khuya về ngủ trên ghế bố của căn nhà gỗ Hội họa sĩ trẻ trên thềm Khám Lớn xưa, phải chịu đọa đày hay thủ tiêu từ từ trong chuồng cọp.
Vẫn được tự do dù là thứ tự do hạn chế, anh vẫn làm nhạc: cuộc hành trình vẫn tiếp tục. Lần cuối cùng gặp nhau trước khi Trịnh Công Sơn trở về Huế, trong căn gác xép mưa dột đầy một góc, ngồi trên chiếu rách, anh có hỏi tôi: khi đất nước thanh bình, bạn bè hai bên trở về, sẽ ra sao nhỉ? Tôi không thể trả lời câu hỏi ấy, nhưng tôi biết khi thanh bình, tôi sẽ làm gì. Tôi sẽ ra Huế, kiếm Trịnh Công Sơn, và sẽ rủ anh làm như trong một bản nhạc anh đặt tên Tôi sẽ đi thăm.
Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm
Tôi sẽ đi thăm một phố đầy hầm,
Đi thăm một con đường nhiều hố.
Khi đất nước tôi thanh bình
Tôi sẽ đi thăm cầu gẫy vì mìn,
Đi thăm hầm chông và mã tấu
Khi đất nước tôi không còn giết nhau
Trẻ con đi hát đồng dao ngoài đường
Khi đất nước tôi thanh bình
Tôi sẽ đi không ngừng,
Sài Gòn ra Trung, Hà Nội vô Nam
Tôi đi chung cuộc mừng và mong sẽ quên
Chuyện non nước mình 
“Đi chung cuộc mừng và quên chuyện non nước mình...”
Tới đây có lẽ mới là tận cùng của cuộc hành trình người Việt Nam, và có lẽ cũng tới đây Sơn và tôi mới hy vọng sẽ chỉ còn một việc là: làm tình ca và viết chuyện tình rất viễn mơ. Dĩ nhiên là với điều kiện lúc đó phải quên được:
Khi đất nước tôi không còn chiến tranh
Bạn bè mấy đứa vừa xanh nấm mồ...
TRỊNH CÔNG SƠN - KẺ DU CA Bửu Ý
Huế 8/1990
Từ lâu lắm Trịnh Công Sơn được giới ái mộ trao tặng danh hiệu là kẻ du ca về tình yêu, quê hương và thân phận.
Anh lớn lên bằng tuổi chiến tranh đứt rồi lại nối, chiến tranh dai dẳng và cùng khắp đến nỗi đứng ở toạ độ nào trên đất nước cũng thấy và sống trong chiến tranh, từ đó người chiến sĩ dấn thân tự đề ra cách thế sống và hành động phù hợp với sở nguyện mà vẫn đạt hiệu quả mong muốn. Thế đứng trước nay ở miền Nam của anh, tối thiểu, không hại cho uy tín và sự nghiệp của anh. Lịch sử đất nước lật hẳn sang một chương khác, trước sau anh vẫn an nhiên ("Đôi khi một người dường như chờ đợi thật ra đang ngồi thảnh thơi”, Tự tình khúc), hay ít nhất anh giữ an nhiên cho nghệ thuật của mình. Anh đi vào nhạc, anh bước xuống đường, y như người ta hít thở. Và nói như thế, không có nghĩa anh phó mặc đời, mà có nghĩa là anh gieo trồng vào những luống đã tự đào sẵn, không phải ngoái lui, không cần xoá đi làm lại. Nay nhạc và lời của anh, nếu có chuyển đổi chẳng qua vì tâm hồn đến tuổi đổi mùa. Cần nói thêm rằng cái an nhiên là món quà lưu chủ của đời, sau khi khổ chủ đã hoàn trả cho người - người tình, người bạn, người đời - những hơn thua, ngộ nhận, thị phi.
Nhạc của Trịnh Công Sơn không tuyền là nhạc, bài hát không chỉ là bài hát. Mỗi bài là một truyện ngắn, mỗi ca khúc là một chương khúc của truyện dài không có kết thúc, vẫn mở ra như một vết thương, một vết thương người, một vết thương thời đại, vết thương thiết thân, phải cưu mang và lưu truyền.
Nhưng không có đoạn truyện nào kết thúc có hậu như trong truyện cổ tích, mà ngược lại đó là những loại Tình sầu, Tình xa, Tình vơi. Không còn là cái đẹp của đối xứng, vuông tròn, thủy chung. Bởi cùng nhau tắm gội trong biển bấp bênh của thời đại, con người xót xa khám phá ra cái đẹp chông chênh, cái ma lực của chén đắng. Đời dành riêng cho kẻ nào đã lên tới đỉnh buồn và xuống tới vực thẳm, một đôi mắt bên trong để nhìn ra những vẻ đẹp của mặt đất, của nghịch lý khiến cho y nhận chân cái tất yếu của cô đơn, cái hào quang của thất bại, cái quyến rũ của triền dốc. Con người sinh ra là đã thua cuộc, vấn đề còn lại của con người, vấn đề hoàn toàn nguyên vẹn, là khoác lên sự thua cuộc ấy một gương mặt người do từng cá nhân đắp dập lấy. Theo chiều hướng này, ta sẽ mục kích hàng hiên phô bày toàn chân dung lập thể: hoặc thiếu mắt thừa môi, hoặc mặt lật vào trong mà dạ để ra ngoài.
Nguồn cảm hứng khơi mạch từ đó, rất dễ rơi vào chỗ sướt mướt, ê chề, rất dễ đưa tới trạng thái buông thả, quy hàng... là những gì nhiều người từng quy nạp cho ca khúc Trịnh Công Sơn. Đành rằng vài tình cảm ấy không hoàn toàn vắng bóng, và đậm nhạt khác nhau từng nơi từng lúc, nhưng nghiễm nhiên được biến chế, vượt qua, đủ để ta nhận ra đó không còn là những tình cảm hoàn cảnh mà là những tình cảm bản chất cần được khẳng định và hoá kiếp thành đức tin, động lực phản kháng những giới hạn của con người. Không những thế mà thôi, ta phải nhặt nhạnh những tàn phai, tóc trắng, tan tành theo giọt mưa, hạt bụi, lăn lóc như hòn cuội, không ngạc nhiên trước những tráo trở, lật lọng, chấp nhận gươm giáo, nọc độc, gọt tỉa màu mun của đêm, vốc bùn sóng sánh, phải nâng niu những vết thương cùng nét xanh xao, hao gầy, cám ơn những mối tình tơi tả, phải thương yêu nỗi chết... dung nạp tất cả vào lòng và bện thành tấm áo giáp, thứ áo giáp mặc trong.
Trịnh Công Sơn là người khát sống. Anh muốn sống nhiều nơi cùng một lúc, ngồi nơi này, nhớ nơi kia, muốn sống gấp đôi sợ không đủ thì giờ, lắm lúc không phân biệt ngày với đêm. Anh thích những chuyến tàu xuyên suốt, những chuyến xe đỗ rồi lại đi, anh thích rút ngắn không gian giữa rừng với biển, giữa đó anh tha hồ sống với ghềnh, bãi, lũng sâu và núi, tháp, cánh đồng, anh muốn rút ngắn thời gian giữa lạ với quen và xua tan những cánh dơi thù nghịch.
Hình ảnh phố phô mình phân rải trong ca khúc anh. phố xưa (Khói thời mênh mông), phố hẹn (Khói trời mênh mông), phố xôn xao (Yêu dấu tan theo), phố rộng (Tưởng rằng đã quên), phố thênh thang (Quỳnh hương), phố cao nguyên (Lời thiên thu gọi), phố nọ (Đêm thấy ta là thác đổ), phố xa lạ (Bên đời hiu quạnh)... Phố như là nơi triển lãm của sự sống, một đại hội đời, một nơi tập cư đủ mẫu người, một bãi thí nghiệm bao thế thái nhân tình làm thoả lòng con người nào muốn sưu tập con người. Do những hình ảnh phố xá như thế này, có người bảo: Trịnh Công Sơn thích lui tới những nơi đô hội. Điều này đúng một phần bởi lẽ: anh thích những nơi có bóng dáng con người, anh thèm tiếng người hơn là cõi vắng lặng, nhưng điều cần nói thêm, là: anh ước mơ hình ảnh xã hội được đô hội hoá chứ không phải là sa mạc hoá, và được đô hội hóa thường trực, sao cho ngày ngày hàng cây thắp nến lên hai hàng, lễ lạt trên tầng lá xanh, lễ lạt trên từng nẽo đường, khắp mọi nhà và trong mỗi con tim.
Trí óc và cảm xúc của Trịnh Công Sơn phù hợp với tổng hợp hơn là phân tích, nghiêng về kết hợp hơn là phân chia. Hình ảnh chiếc cầu đối với anh là một lời mời gọi cất bước sang bên kia, đồng thời chuyển biến bên kia thành bên này và ngược lại. Băng qua cầu là để sống với bên kia và nhớ bên này. Trong nỗi sống đã tượng hình nỗi nhớ. Người đi trên cầu không những nhìn ôm cả hai phía mà có thể nhìn cút bắt với những khủy sông thấp thoáng ẩn hiện, cấu tạo dần dần trong tâm khảm cái dự cảm lìa xa, mất mát.
Tình yêu. Quê hương. Thân phận. Làm sao nói về những vấn đề này bằng lời hát và chuyên chở bằng nhạc, những ưu tư thường trực của mọi người và được mọi người ít nhiều nói đến? Trịnh Công Sơn có cách nói riêng, bằng lời và bằng nhạc. Lời tách riêng, đó là những đoạn thơ hoặc là truyện thơ tâm sự về giọt mưa, giọt nắng, về một vùng biển đầy ắp sự vắng mặt... Nhạc tách riêng có khi nhún nhảy như loại đồng dao hay thanh bình ca, có khi lại rất thích hợp với ánh đèn màu và khói thuốc của vũ trường, cũng có khi dòng nhạc Trịnh Công Sơn gần gũi với thánh ca thanh thoát...
Nhiều nhạc sĩ viết về tình yêu và quê hương.
Tình yêu, với Trịnh Công Sơn, là diễm tình. Trước hết là phải đẹp, đẹp trong từng lời bội bạc, bước chân quay gót, trong dang dở và tan vỡ. Sẽ không có mối tình rách rưới hay nhầy nhụa, sẽ không có mối tình than khóc lâm ly, sẽ không có luôn cả đau khổ, hoặc nếu có chăng nữa thì đó là một nỗi đau khổ đã đành, dành sẵn, và cần được siêu sắc nuôi dưỡng cái giống nòi tình. Cái đẹp ở đây là cái đẹp siêu thực, tức là ít nhiều nhuốm màu sắc ý chí của kẻ chủ trương và đồng thời nhạt bớt hương vị của thường tình. Tình yêu lên ngôi. Một đỉnh chiêm ngưỡng, đúng hơn là một điểm hẹn. Đối tượng tình yêu trở thành ý niệm. Trịnh Công Sơn nguyện làm kẻ hái lộc chứ không phải hái trái. Lộc nõn và luôn cả lộc xoan ngọn tố trở trời. Tình yêu được thăng hoa để trở thành điểm ngắm. Nó vượt qua cái riêng tư, vị kỷ. Như Đức Giáo Hoàng của "ái tình giáo", người nghệ sĩ lớn tiếng hô hào mọi người Hãy yêu nhau đi. Đây là lời thần chú mở cửa địa đàng. Đây mới thật là tình yêu cứu rỗi. Yêu trong một tình yêu rộng lớn, chung cùng. Như mỗi giai điệu trong đại hợp tấu. Yêu nghĩa là tỏa sáng. Phần nào giống như thủ pháp nhuộm mây nẩy trăng theo cách gọi của Thánh Thán (vẽ mây đẹp để làm nổi bật trăng), Trịnh Công Sơn ca ngợi tình yêu bằng cách vẽ ra vùng ảnh hưởng của tình yêu qua giọt nắng thủy tinh, cây cầu, hạt mưa, hàng cây chụm đầu vào nhau... Khi vẽ ra áo xưa lồng lộng chẳng hạn, tác giả không vẽ vạt áo, mà vẽ kỷ niệm, vẽ không khí và hơi hám của áo.
Đó là những khối tình nở ra trong khói lửa, như những cánh hoa xương rồng giữa khô căn gai góc. Bóng đen chiến tranh càng làm cho tình yêu thêm phần gấp gãy.
Quê hương nổi bật ở hai nét lớn: nghèo và chiến tranh. Cái nghèo của quê hương thì có lắm chuyện để nói, để tả, để mủi lòng. Cái nghèo còn là hậu quả của chiến tranh. Dứt chiến tranh là cứu giải cái nghèo. Và chiến tranh diễn ra không phải ở chiến trường, không phải do những người cầm súng, nó diễn ra ở bàn tròn, ở trong đầu óc những con người mua bán chiến tranh. Những bài hát trong hai tập Ca khúc da vàng và Kinh Việt Nam, cũng theo phép nhuộm mây nẩy trăng như có nói ở trên, nhưng ở đây được trưng dụng những màu sắc hoàn toàn điên đảo, không nhằm miêu tả hay tường thuật chiến tranh, mà vẽ ra những phóng xạ của chiến tranh. Do đó, đến khi chiến tranh kết liễu, nhạc anh vẫn tồn tại, vì nó vẫn còn công lực cảnh giác. Hình ảnh người nô lệ da vàng, vốn làm phật ý những người quốc gia chủ nghĩa, là một lối cưỡng từ đoạt ý rất kiến hiệu trong việc thiết lập đối thoại ban đầu. Đây là một bước lùi giữa hai bước tiến, gần như phương sách tự chuốt nhục của con người muốn đối phó với tình hình đất nước nguy kịch đến độ chiến tranh không đủ để tiêu diệt chiến tranh, vũ lực không đủ để tiêu diệt vũ lực, mà trớ trêu thay phải có nghệ thuật hỗ trợ và nhất thiết là nghệ thuật trong nghệ thuật. Lập trường như thế này dễ hứng lấy búa rìu dư luận. Ngay giữa chiến tranh, anh đã vẽ ra thời buổi sau chiến tranh mà con người có quyền hưởng thụ và có nghĩa vụ tô bồi. Những dự phóng này nảy nở trên nền tảng làm bằng những ám ảnh mất mát, cái bấp bênh của những gì hiện có, nỗi bất lực không yêu được bội phần.
Giữa một nền trời như vậy, thân phận con người là một vấn nạn. Ta nên nói ngay: đây là một chủ đề tư tưởng, nếu không muốn nói là triết lý. Chủ đề được đề cập, phân tích, lý giải từ Đông sang Tây, nhưng là do những nhà tư tưởng, triết gia và những nhà viết văn xuôi đề xướng.
Giữa cõi vô thường, bị thường trực kìm kẹp bằng một nỗi khó sống, người nghệ sĩ trong những phút xuất thần tự đồng hoá với các vật thể vạn thù trong đời sống: có khi ta là mục đồng, là lá cỏ, cơn gió, có khi là giọt mưa tan giữa trời, là hòn cuội, con sâu. Nhưng trong khi cỏ suốt đời là cỏ, cuội trọn kiếp là cuội, thì con người mỗi phút mỗi chực vong thân.
Trịnh Công Sơn chắp cánh cho tưởng tượng, và tưởng tượng len lỏi vào các hốc hẻm của đời sống, khiến cho anh sờ mó đến sự vật nào là sự vật ấy dường như bớt thật và trở nên lung linh bằng một quầng mộng ảo. Cho nên anh đi trước người khác một bước: ngạc nhiên trước người khác, mừng reo hay tư lự cũng trước người khác. Cái “có” đang nằm trong tay, anh đã sống với cái "mất" nó rồi. Đóa hoa nào đi qua lòng anh cũng trở thành đẹp hơn vẻ đẹp thật và đóa hoa đương độ lại nhuốm vẻ não lòng của héo úa.
Sự sống bước giật lùi mỗi phút giây như hình ảnh cuốn chiếu. Trịnh Công Sơn quả quyết: Chỉ có ta trong một đời và dứt khoát chọn lựa: Sống. Sống hết mình. Không khất hẹn, không chờ đợi, không ủy quyền. Anh vâng theo cái mệnh lệnh "Hãy tận hưởng ngày hôm nay" của thi sĩ Horace mà cố cách vặn lùi thời gian, sống chong chong, thu rút giấc ngủ, thót người trước cảnh tượng "Thành phố ngủ trưa" (Đêm thấy ta là thác đổ), xem giấc ngủ như là một cái dợm chết: "Hôm nay thức dậy. Ôi ngẩn ngơ tôi" (Xa dấu mặt trời) tự ru mình bằng cách Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui và rêu rao cuộc đời đáng sống.
Phải ôm cho hết cuộc đời nhị nguyên cồm cộm này, bao gồm những cặp phạm trù khó dung nạp nhau nhưng khó thể phân ly: sống chết ("Chết từng ngày sống từng ngày”; Buồn vui phút giây), buồn vui ("Buồn vui kia là một”, Nguyệt ca), hạnh phúc khổ đau (“Hãy trao cho nhau hạnh phúc lẫn thương đau”, Hãy yêu nhau đi), tình yêu mật ngọt mật đắng (Lặng lẽ nơi này)... cái mặt phải trái của sự vật sao mà cận kề nhau đến thế, như đêm ngày, nhật nguyệt, như sum họp với chia phôi. Khổ cho kẻ nào chủ phân biệt!
Phải quên đi những ám ảnh của tuổi tác "Chập chờn lau trắng trong tay”, (Chiếc lá thu phai) và chuẩn bị tinh thần cho cái phút sau rốt của đời người:
... Một trăm năm sau mãi ngủ yên (Sẽ còn ai)
... Mai kia chào cuộc đời (Những con mắt trần gian)
... Một hôm buồn lên núi nằm xuống (Tự tình khúc)
... Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời (Bên đời hiu quạnh).
Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ đầu tiên viết về thân phận con người. Để phục vụ mục tiêu ấy anh đã sai sử lời, nhạc và tư tưởng kết hợp thành một thể thống nhất và đã thành đạt trong công cuộc thể nghiệm một dòng nhạc vốn không dễ nhập cảnh vào lòng quần chúng trong buổi đầu. Có thể nói anh đã khẳng định thân phận bằng thơ và bằng nhạc: đây là sự đóng đinh màu hồng cho con người thời đại.
Cùng một trật, ta còn chứng kiến một công cuộc thể nghiệm của tiếng Việt trên những chặng đường mới của ngôn ngữ với những kết hợp từ ngữ tài hoa, những góc độ thu hình lạ lẫm, những tri giác dày dặn nhiều tầng, đồng thời làm sáng giá những sự vật thông thường và tầm thường, khả năng tưởng tượng bay bổng.
Cuối những năm 50 và đầu những năm 60, xuất hiện một số ca khúc với nhan đề nghe lạ tai như Lời buồn thánh, Diễm xưa, Tuổi đá buồn, Vết lăn trầm, Biển nhớ, Dấu chân địa đàng... Đó là những cửa ngõ vào khu vườn siêu thực đang rộ lên những sắc hoa tươi mới trong thời kỳ ấy: “loài sâu ngủ quên trong tóc chiều... thương cho người rồi lạnh lùng riêng... tiếng hát về ru mình trong giấc ngủ vừa... hôm nay thức dậy không còn thấy loài người... hãy nghe đời nghiêng... chiều đã đi vào vườn mắt em... ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau...".
Người nhạc sĩ này đặc biệt sâu nặng với những tính từ: đời bềnh bồng, môi rồ dại, bóng lung linh, tiếng hát lênh đênh, một vòng tiều tụy, bờ cỏ non mộng mị, phố xá thênh thang, mắt xanh xao, hồn xanh buốt, đêm thần thoại, cành bão bùng... Những hình dung từ này cùng chung một thể thái, hay còn gọi là đồng vị (isotopie) và trở đi trở lại hơn một lần qua bài hát. Trong số này, có tần số xuất hiện cao nhất là: “mong manh” (tình mong manh, gió mong manh, cỏ lá mong manh, sống chết mong manh, tay gối mong manh, nụ cười mong manh...) như thể là một ám ảnh lớn trong vũ trụ quan và nhân sinh quan của nhạc sĩ.
Lời trong ca khúc Trịnh Công Sơn đã tạo ra tên tuổi Trịnh Công Sơn. Lời ở đây, như đã nói, là truyện thơ, là hình ảnh siêu thực, nét chấm phá, những hoa gấm cho sóng nhạc và có những giây lát cao độ, lời được đặc cách hóa kiếp thành kinh. Kinh là những lời ước nguyện nhằm chuyển hóa thực tại. Kinh là tinh túy của lời được kinh qua đời thực lặp đi lặp lại để cuối cùng kết tinh dưới hình thức đơn khiết, cô đọng. Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, ta nhận ra người mẹ cầu kinh gửi gắm cho một Đấng Vô Hình, Siêu Nhiên nào chăng? Không, đấy là một loại kinh do chính mình phát nguyện, dóng tiếng và gửi gắm trở lại cho chính mình hay nói cách khác, đây là một loại tâm kinh hay là một loại độc thoại nội tâm tự khẳng định. Câu kinh có cái sức mạnh của đức tin, hy vọng, nâng cao con người lên, kéo con người ra khỏi thân phận mình, nhưng khổ nỗi! Nó không phải là thực tại, cũng không có hy vọng biến thành thực tại nốt. Thực ra, tất cả sức mạnh của cầu nguyện đều tích tụ trong tư thế chuẩn bị cầu nguyện kèm những động tác đơn giản tầm thường. Người mẹ cầu nguyện cho con ở chiến trường có nghĩa là cầu nguyện cho mình có đủ sức mạnh đối phó với tình huống bất trắc, và sức mạnh ấy phát sinh từ ngọn đèn thắp thì mờ giữa đêm khuya, chẳng hạn; thiếu nữ cầu nguyện cho mối tình của mình ở bờ sông và lời kinh này sẽ làm bằng im lặng, gió trời và kỷ niệm.
Trên đây là một số cảm nghĩ về âm nhạc Trịnh Công Sơn, những cảm nghĩ vụn rời, thiếu thừa không rõ, vừa chắp nối vào những bài viết khác, vừa gợi mở những bài viết về sau chung quanh đề tài này. Một đề tài tát không cạn.
(*) Đây là Lời tựa cho tập sách Trịnh Công Sơn
Tuyển tập những bài ca không năm tháng - NXB Âm Nhạc - 1995. Tên bài do chúng tôi đặt. (BT)
Đèn thắp thì mờ
Ngồi trên một con tàu sau khi đã bon bon qua các quãng đường bằng phẳng, rầm rầm rập rập lăn bánh qua mấy đoạn cầu và nay khởi sự rúc vào một vùng cây rậm ven núi giữa khì bóng tối bắt đầu bủa vây, con mắt của hành khách phóng ra ngoài trời, giữa cõi mờ mịt, nếu cố tình xoi thọc vào bóng tối, thế nào cũng phát hiện ra vài đốm đen.
Mấy đốm đen ấy, thường khi là đèn dầu, nếu tàu qua sớm hơn, sẽ chưa được đốt lên, còn nếu tàu qua chậm, biết đâu đã phụt tắt, khi ẩn khi hiện qua tảng lá, khi bị khuất lấp vì một thân cây, nhưng cứ hiện ra chong chong, nếu con mắt kiên nhẫn nhìn lui cố tìm cho được một điểm sáng giữa bóng tối mịt mùng.
Đèn thắp thì mờ..."
Vang lên đâu đây mấy chứ nhỏ giọt ấy trong bài Người nô lệ da vàng của Trịnh Công Sơn.
Không "mờ" sao được? Bởi đó là đốm đèn dầu. Mà hà tất phân biệt đèn mờ với đèn sáng? Miễn sao nó xoi thủng bóng đêm. Miễn sao nó quần tụ những đầu người bên nồi cơm, hay cùng nói nói cười cười sau một ngày xa cách nhau mỗi người một nơi vì công việc.
Ngọn đèn ấy trông thật thân quen. Nó đã được thắp lên từ trong đêm đen của thế kỷ lịch sử xa xăm.
Từ thuở chưa có con đường sắt rạch xuyên rừng, từ thuở chưa có con tàu ngày ngày rập rình băng qua và chở trên mình nó những con mắt chằm chặp nhìn vào rừng sâu, những ngọn đèn này, không hẹn mà nên, đều được đốt lên khi chiều xuống.
Đèn sao, nhà vậy. Nhà sao, đèn vậy. Ngôi nhà lu thu, ánh đèn cũng lu thu. Ngôi nhà lặng lẽ, ánh đèn lặng lẽ. Ban ngày, ngôi nhà lọt thỏm giữa rừng. Ban đêm, ngọn đèn lọt thỏm giữa nhà. Không còn thấy ngôi nhà, chỉ còn thấy ngọn đèn. Đèn đã thay nhà rồi đó.
Đèn là một hiện diện. Không chỉ là hiện diện của chính nó: Nó không hiện diện suông. Nó nói lên sự hiện diện của ngôi nhà. Và nhất là nó nói lên sự hiện diện của con người. Đèn đâu, người đó.
Hiềm chẳng phải bao giờ hễ có đèn là có người. Có khi đèn chong chong chờ đợi mãi. Rốt cục vẫn trơ một đốm đèn cô quả. Đèn đã thay người rồi đó.
Hình ảnh "đèn thắp thì mờ” hiển nhiên là hình ảnh của nghèo nàn, vàng vọt, trong đó ánh sáng và bóng tối xen lẫn vào nhau, không ngớt xô lấn nhau. “Đèn thắp thì mờ “ là một thực tế. Ta đã từng sống trong làng hay trong rừng sâu. Hoặc nếu không phải là ta, thì đó là cha mẹ, anh em, họ hàng đã từng sống trong cảnh huống ấy. Làng là như vậy, rừng là như vậy, đêm đêm sáng lên một đốm đèn, nếu chẳng soi nổi vật dụng, ít nữa cũng đủ soi rõ mặt nhau. “Đèn thắp thì mờ” là một thực tế lặp đi lặp lại nhiều lần và khắp nơi trong nước đến nỗi nó có khi trở đi trở lại như muốn nhắc nhở một tình cảnh vây khốn con người, khó lòng tránh thoát ra khỏi, đến nỗi nó trở thành nhức nhối, nó nhoi lên trong ký ức, trong tim, nó vang lên và dội lại trong tâm thức của người anh em dù không trải qua hoàn cảnh ấy vẫn dễ dàng cảm thông.
Người nô lệ da vàng
Ngủ yên, ngủ yên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ...
Ngọn "đèn thắp thì mờ” ấy tất nhiên ở "trong căn nhà nhỏ" mà chủ nhân là "người nô lệ da vàng": đó là lịch sử.
thỏa hiệp. Và nếu nhìn vào đời sống vật chất của anh, người ta dễ kết luận rằng anh là con người thích vui chơi, thích ngồi quán tiệm, chỉ thoải mái trong cảnh ăn sung mặc sướng.
Bình tâm mà xét, trong cõi nhân sinh, không có ai không thích ăn sung mặc sướng, chẳng qua con người khi chưa có điều kiện và phương tiện đành sống kham khổ thôi. Sống kham khổ chỉ là một tình trạng sống cần vượt qua; không phải là một phong cách sống và lại càng không phải là một mục tiêu trong đời sống. Cùng lắm là phong cách sống của hạng người ẩn nhẫn, của một dân tộc nhược tiểu không có sức vươn lên hoặc không có khả năng cải thiện đời mình. Ăn sung mặc sướng cũng không phải là thỏa hiệp với đồng tiền hoặc vong thân theo những thoái hóa của xã hội. Con đường đấu tranh không phải chỉ có một đường. Cũng như phương cách đấu tranh không chỉ là cách ly xã hội. (Về tôn giáo cũng tương tự. Việc tu hành không nhất thiết phải tách lìa xã hội. Trái lại, có giáo phái bó buộc giáo đồ sống xen lẫn với người đời, đối mặt với xã hội bằng cách, chẳng hạn, mở hộp đêm, và chung đụng luôn với gái giang hồ. Đó là những thử thách một mất một còn mà con người trải qua. Tồn tại hay không tồn tại được treo lơ lửng trên lưỡi dao cạo ấy).
Có người còn đòi hỏi tranh đấu là phải quyết liệt, rạch ròi, không nhân nhượng. Và quyết liệt ngay từ đầu. Quyết liệt như vậy là không tính đến đường dài, là quy kết tất cả vào cái nhãn tiền.
Cứ gióng theo những quan niệm ấy, người ta buộc lòng hạn chế giá trị ca khúc của Trịnh Công Sơn.
Trịnh Công Sơn không ngớt suy nghĩ, dằn vặt về ý nghĩa và phương thức đấu tranh của mình.
Đấu tranh thế nào để đã phá một tổ chức xã hội và chính trị đang đặt định một tình trạng nô dịch, thối nát, hòng mong kiến tạo một trật tự mới dân chủ, ấm no, hạnh phúc, không còn có bất công. Với anh, không có con đường nào dẫn đến hạnh phúc toàn vẹn cho bằng con đường hòa bình. Trịnh Công Sơn tất nhiên không phải là người đầu tiên thấy ra điều này. Đó cũng là con đường trong sạch hơn cả, không chôn giấu mưu đồ, vụ lợi nào cả. Con người lâm chiến có khi không nhìn ra điều này, vì bản thân vừa bị bưng bít vừa bị trói buộc nhiều mặt. Con người cần tuyên chiến với áp bức, thối nát, khổ đau và cần tuyên chiến với chiến tranh luôn nữa. Đó là nhiệm vụ của nghệ sĩ. Đó là nhiệm vụ của Trịnh Công Sơn. Cho nên anh một mặt vạch ra bộ mặt ghê rợn của chiến tranh, một mặt vớt vát tất cả những gì chưa bị chiến tranh vùi dập và vẽ lên, nói lên, hát lên những nhỏ bé tầm thường để cùng nhau chung sức chung lòng gìn giữ và phục hồi.
Cái ưu thế của nghệ sĩ du ca Trịnh Công Sơn chẳng khác nào anh chàng đu dây. Bên trái là vực thẳm, bên phải là vực thẳm. Con mắt nào chằm chặp dõi theo người đu dây là con mắt chỉ còn chờ con người ấy ngã xuống, ngã bên nào cũng được, ngã cho tan xương nát thịt, để được dịp gọi đó là “cái chết ngoạn mục". Người ta bảo: Trịnh Công Sơn đi giữa hai làn đạn. Miền Bắc không tán thành lập trường, lập thuyết của anh, xem loại nhạc phản chiến của anh là một loại "nhạc lậu”, phản tác dụng. Miền Nam phức tạp hơn: trong khi nhân dân khai thác khía cạnh phản chiến trong nhạc của anh, bộ máy cầm quyền lên án chính cái tính cách phản chiến ấy đang làm nhụt lòng những người cầm súng.
Miền Nam trước ngày giải phóng, do hoàn cảnh, tạo dựng lên một mẫu người riêng biệt: anh chàng phản chiến, kẻ trốn lính.
Kẻ trốn lính là kẻ kỳ dị: sống chui rúc, không có nơi ở, không có chỗ ngủ, tất nhiên không có địa chỉ. Càng sống chui rúc, càng phải sắm sanh một vẻ bề ngoài bình thường, hoặc “dễ coi", để đánh lạc con mắt dòm ngó. Nó luôn luôn thủ trong túi đủ loại giấy tờ có giá trị trái ngược nhau và cả những giấy tờ không hơn gì giấy loại nhưng đối với nó vẫn có giá trị "cần âu”. Nó là kẻ ngậm hai ngôn ngừ khác nhau tùy nghi đem ra sử dụng. Nó là kẻ sẵn sàng tham gia những cuộc hội thảo, vận động cho chính nghĩa nhưng cũng là kẻ thường xuyên cảnh giác và thủ thế. Đó là một loại “bán công dân”, không sống như công dân bình thường, mang tâm trạng của kẻ bị truy nã.
Kẻ trốn lính là kẻ thiên tả. Hai là một. Không đi lính ở miền Nam trước đây là kẻ không chịu cầm súng tiến hành một cuộc chiến bế tắc và tội lỗi. Thấy như vậy, biết như vậy, nhưng sống như thế nào đây? Kẻ trốn lính sống ở thành thị miền Nam trước đây, nếu vẫn đi học đi dạy hay đi làm việc như mọi công dân bình thường, thật không dễ. Tìm cả miếng ăn và chỗ ngủ hàng ngày, đi qua các ngả đường có lính canh và nút chặn, kẻ trốn lính thường xuyên nơm nớp đề phòng, chơi trò cút bắt bất đắc dĩ, gần như bôi mặt và giả dạng, sống nơi này nơi kia và ngủ nơi khác.
Kẻ thiên tả thường là kẻ trí thức. Hoặc đảo lại, hầu hết trí thức miền Nam trước đây là thiên tả. Không thiên tả toàn phần: thì thiên tả nửa phần. Không thiên tả trong hành động thì thiên tả trong đầu óc. Thiên tả như là một sự cứu rỗi linh hồn. Thiên tả như là một hướng - cụ thể hoặc trừu tượng - thoát ra khỏi bế tắc hiện tại trong đời sống vật chất và tinh thần.
Trịnh Công Sơn là bạn của tất cả mọi người trong chiến tranh, trong ngưỡng vọng hòa bình, trong hòa bình tìm lại được. Anh là người sống tràn đầy bi kịch thống thiết của đất nước quằn quại qua các thời kỳ xóa bỏ nhau, đi ngược chiều với nhau khiến cho cảm xúc của anh vượt lên sự phân biệt chiến tuyến để chỉ còn nhìn thấy bộ mặt tàn khốc của chiến tranh. Người viết nên Cho một người nằm xuống trước 1975 và người viết nên Huyền thoại mẹ sau 1975 là một Trịnh Công Sơn. Công dân "nằm xuống" bên này hay bên kia, công dân còn sống trong nước hay ngoài nước đều sinh ra từ “huyền thoại mẹ" ấy, đều được định sẵn trong sách trời.
Một số ca khúc phản chiến của anh không được nhập cảnh ở miền Nam cũng như ở miền Bắc. Chúng chỉ được "in lậu” hoặc "phổ biến kín" mà thôi.
Sau 1975, anh có dịp đi ra nước ngoài. Ở Pháp và ở Canada, anh được đông đảo thanh niên mừng đón, Nhưng ở các nước ấy, vẫn có những nhóm người Việt “tẩy chay” Trịnh Công Sơn vì "công tác" với chế độ hiện tại. Anh chưa đặt chân lên đất Hoa Kỳ, không phải là không có dịp, nhưng là vì anh nghe nói tại đây có làn sóng người Việt phản đối con người chính trị trong anh một cách khá mạnh có thể gây nguy hiểm cho anh.
Ở trong nước, ngay trước khi qua đời, dù được đa số thính giả tán thưởng và ái mộ, anh biết vẫn có một số người dè dặt đến với anh, nghi ngờ anh, muốn cật vấn anh về quan điểm chính trị, gốc gác một số bài, quá khứ của anh, để từ đó gieo rắc thắc mắc, nghi ngờ và hạ thấp uy tín của anh.
Hội chứng Trịnh Công Sơn không chừa một ai, dù nói sao nghĩ sao mặc lòng. Đó là điều hiển nhiên. Ngày nay, có người Việt Nam nào không có ca khúc, băng nhạc, đĩa nhạc Trịnh Công Sơn ở trong nhà? Có máy hát nào không phát thanh nhạc Trịnh Công Sơn?
Trịnh Công Sơn là bi kịch thu nhỏ của Việt Nam. Đó là con người của miền Nam. Đó là con người của miền Bắc. Đó là con người của thời trước 1975 và sau 1975, là sản phẩm của chiến tranh và hòa bình trên đất nước Việt Nam, một sản phẩm trí óc và tâm hồn được kết tinh đến độ trong suốt nhờ tôi luyện qua một con đường hầm lịch sử dằng dặc mà khởi đầu là:
Đèn thắp thì mờ
... đầy gian nan, bóng tối, để cuối cùng ra đến phía bên kia hiên ngang rạng rỡ.
Cám ơn và xin lỗi
Trong cõi chung, là đời sống, người nghệ sĩ sớm tạo một cõi riêng cho mình, một cõi vừa vặn với kích thước của mình, do cảm quan bản thân tạo dựng nên, trong đó nghệ sĩ tha hồ xoay trở, với những phương tiện dụng cụ thật thô sơ, nhưng kèm theo đó là cả một viện bảo tàng hình ảnh và kỷ niệm cùng những nhịp đập của trái tim liên hồi mới mẻ.
Đời cũng chỉ chừng ấy, quanh đi quẩn lại chẳng có món nào mới lạ: mặt trời mọc rồi mặt trời lặn, lá rụng rồi chồi non, nước mưa hòa nước suối, tà áo bay bay trước khi mất hút, tình non đến lúc phải già, hạt bụi trở về hạt bụi...
Có ngờ đâu, trên con đường biến hóa, các sự vật thường ngày phải đi qua một trường vi ba cảm xúc của con người để phải chịu chấn động nhiều tầng và chảy chuyền qua những mạch ngầm của tình cảm khiến cho sự vật thoắt đâu trở thành lung linh, diễm ảo như chứa đựng hồn người.
“Từng ngày từng ngày nhớ ơn đời” (Còn thấy mặt người)
Trịnh Công Sơn là người không đành lòng chứng kiến sự vật trôi xuôi về hư vô. Anh cần phải yêu, bồng bột, say đắm. Anh cần vẫy gọi, mời mọc, nắm bắt, vồ vập. Anh cần ăn tham, uống cạn, thức chong. Như muốn đóng đinh sự vật lên từng nỗi đợi chờ, mong ước, mà anh sẵn sàng biến thành lời kinh.
Mỗi lúc là một cuộc hẹn mà anh muốn kéo dài thêm ra.
Anh tự trao cho mình mọi thứ quyền lực để bắt ép hoặc nài ép kéo dài tuổi thọ cho bao thứ "mong manh” giữa đời. “Tạ ơn hoa sáng thơm cho mẹ
Tạ ơn chim chiều hót cho cha" (Có nghe đời nghiêng)
Con người vốn hữu hạn, vô thường. Có cái gì của con người tránh khỏi mong manh, ngoại trừ ý lực lọt ra ngoài vòng sắc tướng?
Cho nên Trịnh Công Sơn thường trực hốt hoảng vội vã, thường trực nơm nớp bồn chồn, phân thân giữa cái "có” và “không", cái "được" và "mất". Mà cái có, cái được thì bọt bèo, mong manh, trong khi cái không, cái mất thì rợn ngợp.
Làm sao yêu được đầy đủ từng chiếc lá nõn nà ngọc bích đang túm tụm rún rẩy cùng nhau khúc khích trong yến sáng thủy tinh của mặt trời hồi sinh?
Nụ hồng đời, trong điều kiện ấy, làm sao yêu?
“Thành phố vẫn có những giấc mơ, vẫn sống thiết tha, vẫn lấp lánh hoa trên đường đi” (Em còn nhớ hay em đã quên).
Ngàn vạn nụ hồng lấp lánh trên đường đi, cũng như ngàn vạn nụ cười lách tách pháo hoa trên da trời, tạo thành đại tiệc đời: đâu là những gì ta ôm vào lòng, đâu là những gì ta cam đành rũ bỏ? Trịnh Công Sơn sẵn câu trả lời: nhất thiết ôm tất cả vào lòng. Hệ quả kéo theo rành rành: không thể nào kham. Trong tình cảnh bất kham vô bờ ấy, hy vọng của con người rất gần với tuyệt vọng.
Hình ảnh của con người đốt nến hai đầu. Chân ở nơi này, lòng ở nơi kia. "Thương một người” mà vẫn “nhớ mọi người”.
Người đẹp nào cũng đẹp một cách lập thể. Trịnh Công Sơn nhặt nhạnh từng phiến đẹp, gom góp từng phiến tài tình. Người yêu nào cũng có một cái gì đó vừa thừa vừa thiếu. Có người thừa yêu mà thiếu hờn. Có nồng mà không đượm. Bên ngoài bẽn lẽn nhưng bên trong không bịn rịn. Cho nên phải yêu vơ vào. Tình sẽ không đậu xuống yên chỗ ở nụ hồng này hay nụ hồng kia, mà dường như là ở giữa hai nụ hồng. Chính vị trí "ở giữa" này đã cứu vớt tình yêu khỏi sa lầy vào cưỡng bức, chiếm đoạt, mặt khác vừa mang tính “vì người khác" vừa làm tăng nỗi khao khát.
Trịnh Công Sơn là người nóng lòng chờ đợi mặt trời lên, mở màn cho một ngày. Lẽ nào trời tối mãi, lẽ nào bóng tối vây quanh dằng dặc? Mặt trời lên, ngày lên, là bao nhiêu hứa hẹn. Cây xanh, tiếng chim đâu đó, giọng người từ gần tới xa, sinh hoạt răm rắp, tiếng rao bán, cãi cọ cũng được, cười reo thì hơn, chào hỏi, gặp gỡ, mời mọc. Một bức tranh: tôi, bạn bè, anh em, người khác, người quen lâu ngày, người mới quen. “Xin cho nghe những bước rộn vui" (Nghe tiếng muôn trùng)
...“Cần có một tiếng cười" (Để gió cuốn đi)
Anh dọn mình sẵn sàng cho một ngày: tươm tất, mát mẻ. Bỗng điện thoại reo. Vừa vồ lấy điện thoại, anh vừa tự hỏi: “Ai gọi sớm, hè?". Và lập tức: "Alô?". Tiếp đó, chỉ cần nhìn nét mặt anh hoặc chăm chăm bám vào ống nói hoặc cười khặc khẽo và tay rảy tàn thuốc lia lịa, là đoán được già nửa nội dung trao đổi. Tên của người đang ngồi quan sát anh điện thoại cũng được anh đưa vào ống nói để người ở đầu dây bên kia biết mà đi đến góp mặt. Máy tắt rồi, cuộc điện đàm được tiếp diễn bên cốc cà phê mãi cho đến khi người vừa điện thoại xuất hiện. Lại thêm lý do để tiếp tục câu chuyện. Có ai đó cần đứng lên ra đi. Anh chọn ngay: "Đi đâu? Nhớ trở lại ngay. Hay là tất cả chúng ta cùng đi?”
Anh không thích hình ảnh "bỏ đi", một phần sợ nó lây lan sang người khác, một phần sợ nó làm tan không khí tụ hội. Anh muốn gặp nhiều người khác nhau, nghe nhiều câu chuyện khác nhau. Ngồi nói chuyện ở đây mà trông anh như nhấp nhổm, mắt phóng ra xa, và cánh tay chốc chốc đưa lên vẫy chào ai đó thoáng thấy. Rồi buổi sáng mai nối vèo buổi trưa. “Thôi, về nhà mình ăn”, anh lên tiếng. Có ai đó dùng dằng, anh mở lời dụ khị: “Mình có chai rượu ngon". Thì giờ qua nhanh không ai hay. Sáng tiếp trưa, trưa tiếp chiều. Bạn bè có thấy anh đi vào phòng vệ sinh, nhưng sao có vẻ ở hơi lâu trong đó. Có người trông chừng về phía ấy, nhưng anh đã trở ra và lại còn tỉnh táo hơn vừa rồi. Ai đó tò mò thì sẽ thấy trên bao thuốc lá của anh có vạch cong queo một dòng nhạc mà anh vừa ghi xong ở trong phòng kín. Ngoài ra, chẳng ai thấy có gì thay đổi. Ít ai dè rằng bao thuốc ấy đã vầy được một cuộc gặp gỡ nối dài từ nhà ra đến phố, và cũng bao thuốc ấy đã vầy được một dòng nhạc mở đầu hay dòng nhạc chủ đề cho một ca khúc về sau, trong đó có hình ảnh ánh nắng ban mai và những con người ngồi lại với nhau.
“Và riêng tôi xin có một ngày ngồi thong dong trao đến mọi loài chút tình tôi" (Như tiếng thở dài)
Không có ai nhiều bạn bè, nhiều người yêu, nhiều người ái mộ cho bằng Trịnh Công Sơn.
“Một ngày bỗng thấy yêu thương mọi người” (Vẫn nhớ cuộc đời)
(Ngôi nhà của Sơn đã từng là nơi gặp gỡ vui vẻ của anh em, bạn bè, ngày nào cũng vậy, luôn luôn rang rảng cười nói và tiếng lanh canh chạm cốc với âm thanh ghi-ta. Chớ vội nghĩ rằng đó là không khí bù khú trà dư tửu hậu của một đám ham chơi, của bầy da du vô tích sự, hay của một phường phóng đãng. Không, đó là những buổi gặp gỡ có ích lợi thực sự cho những ai đang nặng lòng với sáng tác và quan tâm đến các vấn đề thời đại. Đó là những buổi bạn bè được nghe bài hát mới, được thưởng thức một tấm tranh chưa ráo, được nghe một bài thơ chờ góp ý).
Và không có ai cô đơn bằng Trịnh Công Sơn.
Cô đơn không phải là vì "từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ".
Cô đơn cũng không phải là vì "bạn bè rời xa chăn chiếu”.
Cô đơn vì bạn bè của anh hiểu anh và yêu thương anh vốn thật nhiều nhưng, trớ trêu thay, không thỏa đáng.
Cô đơn vì vẫn có những người vẽ rắn thêm chân vào lời phát biểu của anh, hoặc cố tình tìm ra những ngụ ý tưởng tượng trong thái độ của anh.
Anh trải lòng sống với đời nhưng còn có người hiểu anh thật quanh co. Anh tay bắt mặt mừng với nhiều người ư? Có người cho anh là giả dối. Anh vốn có tính nịnh đầm với phụ nữ, và luôn cả với em gái, thì có mấy chàng trai ngấp nghé không bằng lòng. Anh lên sânkhấu có khi đút tay vào túi (để che đậy phần nào cái ống chân gầy gò của mình) thì vẫn có người cho đó là cử chỉ trịch thượng.
Những suy diễn theo chiều hướng ấy là những bóng mây đen phủ chụp xuống một ngày đẹp đẽ của trần gian mà trời đất hoài công trao tặng và hằn thêm vết nhăn lên vầng trán quang đãng của người nghệ sĩ.
Trong bao nhiêu hành động dồn tiếp, không mệt mỏi của anh, ta nhận ra ở anh những nỗ lực luôn luôn đổi mới để làm vừa lòng người khác
“... Muốn một lần tạ ơn với đời” (Như một lời chia tay)
Nói như thế không có nghĩa anh sẵn sàng thỏa hiệp để vừa lòng xã hội. Nhưng anh là người đầy thiện chí kết bạn rộng rãi. Người khác có nhiều lý do khác nhau để không bằng lòng anh. Gia đình, chẳng hạn, thường xuyên nhắc nhở anh chăm lo sức khỏe. Vài bạn trẻ trách anh quên bẵng một giờ hẹn. Một tổ chức văn nghệ không được anh đáp ứng lời mời tham gia. Anh có khi phải từ chối khéo một cuộc phỏng vấn, hoặc không thể trả lời thư cho một người hâm mộ... Bao nhiêu sự việc "làm mất lòng" ấy không làm anh yên tâm, hoặc xem nhẹ, và hễ có dịp thuận tiện, anh nghĩ đến việc đền bù. Anh không dửng dưng trước những biểu hiện tình cảm của người khác, dù biểu hiện ấy không hợp, không đúng, và xem đó là những món nợ tinh thần canh cánh bên lòng. “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng... " (Để gió cuốn đi)
Anh đã được đi khắp nơi bằng xe tàu, "từ Bắc vô Nam" như anh đã ao ước, và còn xa hơn nữa, đi sang đến Liên Xô, Pháp, Canada... Đến đâu, anh chưa kịp chào hỏi, người ta đã biết anh rồi. Hiển nhiên ca khúc của anh đã đi xa bảy dặm, đến nơi trước anh và dọn đường cho anh. Anh thật sự xúc động và hạnh phúc trong những trường hợp như thế này, đặc biệt là những nơi lần đầu anh đặt chân tới (thí dụ như năm 1972 tại trường Bùi Thị Xuân Đà Lạt, năm 1974 tại Đại học Cộng đồng Duyên hải Nha Trang; năm 1989, tại Paris...). Những lần như thế này, rõ ràng anh quên ăn quên ngủ, muốn đứng dậy đi, luôn đặt mình vào tư thế tiếp xúc, trả lời và mỗi lúc phát biểu thoải mái, phóng khoáng. Trông anh thật yêu đời, chỉ còn muốn hát, tay cầm cây đàn, tay cầm cây bút hí hoáy một dòng nhạc vừa chớm nở, mắt tìm quanh một gương mặt quen biết và miệng sẵn chực mở lời gọi đến. Chung quanh anh xôn xao một vùng yêu sống tràn đầy tiếng cười, lời hẹn...
Cuộc sống bao la, kho đời vạn hộc...
Vậy mà biết bao nhiêu người dửng dưng với đời sống, nhìn vào đời sống chỉ thấy toàn những đồ vật vô tri, chỉ thấy những con người gây trắc trở cho đời mình.
Hoặc có những người nhìn đời như một cái chợ vĩ đại để cho mình quan hệ bằng mua bán nhưng sao cho bao nhiêu lợi nhuận đều trút về mình.
Lại có hạng người quen sống trong bóng tối, vùng vẫy thỏa thích trong những nguồn nước đục, sống bằng nghệ thuật khai thác, chiếm đoạt, và mọi tha nhân đều là nạn nhân, con mồi của mình, trực tiếp hay gián tiếp, không sớm thì muộn...
Cuộc đời đâu đến nỗi là một bức tranh toàn một màu đen trong đó con người một mực xâu xé nhau? Nó luôn luôn hai mặt, kề cạnh nhau, đi vào nhau, tùy con người mà biến màu, biến dạng.
Trịnh Công Sơn, bằng ca nhạc của mình, suốt đời chỉ muốn xua tan, đẩy lùi bóng tối.
Nhịp thở xã hội, cũng như nhịp thở của con người, không một phút ngừng nghỉ. Thiệt cho ai bỏ cuộc, đứng lọt ra ngoài vòng hoặc gõ nhầm cửa.
Đời sống nói thưa, chào hỏi liền tay. “Tôi chào vẫy mọi người” (Có những con đường)
Không chỉ chào hỏi con người mà thôi. Con mắt ghé nhìn bông hoa chớm nở cũng là một lời chào hỏi âm thầm, con người ngắm nhìn mặt trời ló dạng là một lời chào hỏi ngày lành. Ta ra khỏi giấc ngủ khác nào chết đi sống lại, ta mang một ý thức mới mẻ về đời sống, về sự sống lại của bản thân với nhịp tim thoát ra khỏi mê man và con mắt mở ra là- thoát khỏi con mắt nhắm nghiền.
Lời chào hỏi là khởi đầu của chung sống, một nhịp cầu đi đến với người khác.
Trịnh Công Sơn nhắn nhủ người đời chớ dè xẻn lời chào với nhau để khỏi phải ân hận nay mai giữa cái sống chết vô thường của đời người.
Nhớ người trong cõi
Trích các bài viết vềTrịnh Công Sơn
Thế Bảo: Sơn là một người rất nghệ sĩ, một nghệ sĩ lớn, ngoài khuôn khổ thông thường. Có cảm giác anh là một người thiên về thiền. Coi cuộc đời như một cõi tạm, nhưng ngay trong cõi tạm này, anh vẫn để lại một gia tài vô cùng lớn. Sống hết mình và tận tâm - đó là Sơn.
NAM DAO: Với ca khúc, Sơn đi từ hình thức lãng mạn sang siêu thực, mang mang chất Thiền để rồi cuối đời anh trở về với nỗi lòng anh một cách trực tiếp giản đơn, không chút phù phiếm chữ nghĩa. Sơn là người đầu tiên nói với tôi rằng cách phân chia động từ, tính từ, danh từ đều phần nào giả tạo. Anh cố ý đảo, chẳng hạn như “Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh". Bình minh không còn là danh từ mà thành tính từ. Anh thường sử dụng tính mơ hồ của ngôn ngữ. Sơn cũng là người có những cách ghép ngôn từ hết sức bất ngờ.
Phạm Tiến Duật: Gần nửa thế kỷ sáng tác ca khúc, hành trình của Trịnh Công Sơn là hành trình của một trái tim yêu người, yêu giống nòi, luôn luôn tìm cách trả lời những câu hỏi không phải của khối óc mà là câu hỏi của chính trái tim anh đặt ra, trong đó, sự trăn trở giữa cái bản ngã và phi bản ngã là sự trăn trở thường trực... các nhà thơ từ Nam đến Bắc đều coi anh là thi sĩ.
Nguyên Duy: tôi lắng nghe, âm nhạc trịnh công sơn linh thiêng như tiếng gọi hồn, như sóng âm, như địa chấn, làm loạn nhịp tim tôi và làm loạn nhịp tim biết bao triệu người hâm mộ... cái âm nhạc dồi dào ma lực từng lay động tâm hồn nhiều thế hệ bất kể quốc gia và chủng tộc.
Âm nhạc Trịnh Công Sơn đã nâng cao, nối dài, và vô hạn hóa cuộc đời hữu hạn của tác giả.
Phạm Kỳ Đăng: Trịnh Công Sơn đã tạo nên một chỉnh thể nhất phiến gắn quyện. Qua cách xử lý chất liệu thơ và âm, những bài hát Trịnh Công Sơn thành những hạt sống, lóng lánh bay đi không tàn sắc, không có các đốm chân hương, để người ăn theo so nùn rơm thổi lửa. Tức không tiền khoáng hậu... Nghệ thuật Trịnh Công Sơn ăm ắp (chứ không thuần túy phản ánh) thần thái thời đại, thế hệ, trong những giờ hân hoan bi thiết của dân tộc ông cả hai bên bờ vĩ tuyến...
Phan Hạng: Thật khó mà tưởng tượng rằng trong khu vườn âm nhạc Việt Nam muôn hình muôn sắc lại thiếu vắng một khoảng trưng bày âm nhạc Trịnh Công Sơn, vì rằng đã có quá nhiều Ca khúc - Thơ của Trịnh Công Sơn bén rễ trong hàng triệu trái tim mất rồi!
Người nghệ sĩ tài hoa rất mực ấy đã tạo được cho mình một quyền năng tối thượng: "Quyền năng sáng tạo" và anh đã trang trải nó cho khắp cùng nhân thế bằng sự hiến dâng, tự nguyện, hết mình. Một khối lượng tác phẩm âm nhạc đồ sộ được rút ra từ gan ruột như cảnh tình bi tráng của Tô Đông Pha? Nhưng vượt lên trên nghiệp dĩ đa đoan của nòi phong vận, ý thức cộng đồng, trách nhiệm công dân và sự minh triết đầy nội lực đã giúp Sơn biến những nốt trầm của số phận thành những nốt thăng đắt giá trong sự nghiệp âm nhạc đời mình.
VŨ THƯ HIÊN: Xét cho cùng Trịnh Công Sơn là một nhà thơ. Một nhà thơ lớn. Nhạc là cái xe tải anh lắp lấy để chở thơ anh đến với chúng ta.
Phạm Thị Hoài: Thế kỷ vừa rồi hiếm khi cho chúng ta một nghệ sĩ đặc biệt như thế.
Ông không phải là một trong những nhạc sĩ lỗi lạc nhất, song hầu như không ai khác từ lúc sinh thời đã để lại một ảnh hưởng rộng rãi như vậy với người làm nhạc và người nghe nhạc Việt Nam.
Ông không phải là mốt ca sĩ trứ danh, song ông đã được so với Bob Dylan, và đem lại cho danh hiệu kẻ du ca một ý nghĩa hiện đại.
Ông không phải là một trong những nhà thơ sáng giá nhất, song cách ông đặt lời bài hát đã thành một trường phái và dựng nên một phong cách ngôn ngữ xứng đáng được ghi nhận trong lịch sử văn học Việt Nam.
Ông không phải là một trong những chiến sĩ của hòa bình, tự do và nhân phẩm kiên cường nhất, song với đông đảo bạn hữu và quần chúng, ông đã tượng trưng cho những giá trị ấy, hoặc là một hy vọng cho những giá trị ấy.
Ông không phải là một trong những nhân cách nghệ sĩ được nhất trí cho rằng lý tưởng nhất, song không chỉ một thế hệ đã tìm thấy, hoặc tưởng tìm thấy ở ông một lý tưởng nghệ thuật.
Và có lẽ ông cũng không phải là một người cùng thời dễ chịu nhất, song với hầu hết người thân thật, kẻ thân sơ cũng như ai không hề quen biết, ông được miêu tả là hiện thân của sự đáng yêu.
Ông là một hiện tượng, một biểu tượng, một thần tượng. Ông là một huyền thoại với tất cả may mắn và bi kịch mà xã hội Việt Nam thế kỉ vừa qua có thể đem lại cho những huyền thoại của mình.
Ông đơn giản là Trịnh Công Sơn.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG: âm nhạc của Trịnh Công Sơn vượt qua "phản chiến". Nó nhìn thấu suốt được kiếp nhân sinh. Nó không ngừng ở chỗ những lời tình tự giữa hai người nam và nữ. Âm nhạc Trịnh Công Sơn phát lên tín hiệu của những người cùng thế hệ với anh, thế hệ lớn lên trong một cuộc chiến nhưng đồng thời âm nhạc của anh không có tuổi. Nó vượt qua không gian và tôi nghĩ nó còn sống lâu với chúng ta, khi nào người ta còn tình yêu. Những ca từ như thơ trong âm nhạc anh trở thành tiếng kêu của kiếp người. Thượng đế của nó, nếu muốn gọi như thế, đó là con người.
Người ta không ngạc nhiên khi nghiệm ra ca từ trong các khúc tình ca của anh đẹp đẽ mà rời rạc, chữ này không dính chữ kia, câu này không dính câu nọ, ý trên rất xa ý dưới, mông lung và mơ hồ. Xin đừng đi tìm sợi xích thuận lý trong ca từ của anh. Hãy thưởng thức âm nhạc Trịnh Công Sơn trong một tổng thể. Ở mỗi ca khúc của anh, người ta cảm nhận một tuyên ngôn. Ở mỗi ca từ là một tiếng kêu ngạc nhiên bất ngờ trên mặt đất.
Trịnh Công Sơn là một thi sĩ.
NGUYỄN TRỌNG HUẤN: Sơn là một số phận đặc biệt như là một sự lựa chọn của tiền định. Sơn hiểu đến cùng thân phận của một kiếp người, bằng tài năng của mình diễn đạt cái đó một cách thông suốt, thấu đáo. Chính vì thế mà Sơn làm cho mọi người gần nhau hơn. Ca khúc của
Sơn giống như một thứ kinh, giải toả cho con người, để con người hiểu chính mình, để vượt qua số phận và sống một cách nhẹ nhàng hơn.
TUẤN HUY: Trịnh Công Sơn là một nhà thơ lớn, là một triết gia đáng kể, là một thiên tài không thể chối cãi. Mỗi bài ca của Trịnh Công Sơn đều như một thông điệp rất súc tích, rất tốt đẹp gửi đến cuộc đời, gửi đến con người những điều chói lòa nhân bản về tình yêu, về cuộc sống, về tình người, về lòng nhân ái rạng ngời cao cả. Và trọn cả một đời, Trịnh Công Sơn đã nói thay cho chúng ta những âu lo, những vò xé, những thao thức, những băn khoăn, những đớn đau, những tiếc nuối, những tủi hận, những ngỡ ngàng và cả những chán chường, và cả những hoài nghi, và cả những mê đắm... về thân phận con người, về chiến tranh nhân loại, về tình yêu thương gắn bó, về sự tan nát chia xa... Trịnh Công Sơn trọn vẹn là một tấm lòng, một trái tim, một tâm hồn rực rỡ Việt Nam.
TỪ HUY: Nói đến Trịnh Công Sơn là nói đến một tấm lòng, một thiên tài, một con người cao cả và nhân bản. Nói đến Trịnh Công Sơn là nói đến một kho tàng ca khúc, ca khúc của tư tưởng, thân phận con người, tình yêu và nhân ái. Nói đến Trịnh Công Sơn là nói đến rượu và bạn bè. Nói đến Trịnh Công Sơn là nói đến quê hương đời đời bất diệt. Nói đến Trịnh Công Sơn là nói đến tất cả những gì gần gũi nhất của mọi con người biết yêu âm nhạc. Bởi vì trong ca khúc của Trịnh Công Sơn có sự hiện diện của bất cứ con người hân hoan và bất hạnh nào.
Nói đến Trịnh Công Sơn cũng là nói đến cái vô hạn và hữu hạn trong cuộc đời vô thường này. Tôi quý trọng anh Sơn - tôi chiêm ngưỡng anh Sơn bằng tất cả tấm lòng có trong con người nghệ sĩ của tôi.
KIKUMI KAKAMURA: Nhạc của anh Sơn đôi khi tôi không hiểu hết lời, nhưng thấy quyến rũ và nhẹ nhõm. Khi nào giận trong người nghe nhạc Trịnh Công Sơn thấy mình hiền hòa trở lại. Anh Sơn là một người nổi tiếng, nhưng lại rất bình dân. Ở Nhật, khó gặp được một người nổi tiếng như vậy lắm.
KHÁNH LY: Từ ông tôi thành danh và quan trọng hơn cả là tôi được thành nhân. Tôi đã sống cùng tên tuổi của ông gần 40 năm, với những lời ông dặn bảo: Phải luôn luôn sống giữa đời với một tấm lòng và sống với người bằng sự tử tế. Ông Trịnh Công Sơn là một nửa đời sống của tôi.
PHÓ ĐỨC PHƯƠNG: Trong thế kỷ đầy biến động gian truân của lịch sử nước ta, ở một miền giông bão nào đó xuất hiện một gương mặt và đã trở thành gương mặt của thế kỷ. Đó là Trịnh Công Sơn. Sơn là một nghệ sĩ đã để lại cho đất nước, cho công chúng những tác phẩm chứa chan tình yêu thương con người, đồng loại. Âm nhạc của anh ấn tượng và siêu thực. Tình yêu của anh rộng lớn đến độ đôi khi, nó thoát khỏi những cái cụ thể, mang đôi chút ảo giác. Có lẽ, phải lựa chọn phương thức ấy, Sơn mới biểu đạt hết nỗi niềm riêng của mình. Nhạc của Sơn rất gần, giản dị nhưng lại xa vời vợi. Nhiều người ngưỡng vọng, yêu mến tài năng này luôn cố gắng làm điều gì đó để được như anh nhưng họ không thể bắt chước được cái “thần” của âm nhạc Trịnh Công Sơn.
LỮ QUỲNH: Trịnh Công Sơn trầm mình trong suy tư về các cõi tạm của đời người. Ai cũng phải một lần chào vĩnh viễn nhân gian. Nhưng giã từ cách nào đây. Quỹ thời gian còn ít, nên phải liệu mà chi tiêu hợp lý. Từ đó những bài hát của anh là lời tỏ tình với cuộc sống, lời nhắn nhủ thầm kín về những nỗi niềm tuyệt vọng, và cũng là một nỗi niềm nuối tiếc khôn nguôi đối với buổi chia lìa cùng mặt đất mà anh đã một thời sẻ chia những buồn vui cùng mọi người... Ca khúc của anh gắn liền với cảm xúc và máu thịt. Bằng tâm hồn rất nhạy cảm, anh ghi nhận từng rung động để rồi dùng thứ ngôn từ phù thủy của mình viết ra."
CHU SƠN: Trịnh Công Sơn đã chiếm lấy nỗi đau làm báu vật và đồng thời làm vũ khí của riêng mình. Lập tức Trịnh Công Sơn hóa thân làm nỗi đau. Và nước mắt chuyển hóa thành năng lượng, thành sức mạnh khiến người nghệ sĩ thể hiện một cách bi thiết và mỹ lệ trong thế giới bát nháo tà bay này.
NGUYỄN TRỌNG TẠO: Ở Việt Nam thế kỷ XX, có hàng vạn người sáng tác ca khúc, nhưng có 3 người không ai là không biết, đấy là Văn Cao, Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Trong 3 người đó, Trịnh Công Sơn là người ít tuổi nhất và nhạc phẩm của anh xuất hiện sau đến vài chục năm, nhưng hơn 500 bài hát của anh được người đời say đắm đến cuồng nhiệt đã tạo ra một hiện tượng lạ lùng trong âm nhạc Việt thế kỷ XX. Anh thực sự là ông
Hoàng của tình ca Việt Nam, nhưng cũng là một nhạc sĩ “phản chiến", một nhạc sĩ của khát vọng hòa bình với cả trăm bài hát trong các tập Kinh Việt Nam và Ca khúc da vàng.
Ca từ của anh không chỉ giàu chất thơ như người ta thường nói, mà đấy là những bài thơ thật sự, những bài thơ thấm đẫm triết lý về cuộc sống, về tình yêu, về sự sinh ra và trở về Cát Bụi của phận người ngắn ngủi.
THANH THẢO: Ma lực của nhạc Trịnh Công Sơn, không hẳn ở lời cũng không hẳn ở nhạc. Đó là hình thức hát thơ rất gần gũi với cảm nhận của người Việt... người nghe chỉ biết nghe, và cảm và bị hút, và..: bị nghiện.
HOÀNG BÌNH THI: Nỗi đam mê tình yêu lứa đôi không thay thế được những điều lớn lao ở nhạc Trịnh Công Sơn, đó là nỗi đam mê nhận thức đời sống, đeo đuổi cho đến cùng câu hỏi nghiệt ngã nhất "ta là ai?". Như một đời sống thứ hai đầy cám dỗ, âm nhạc của Trịnh Công Sơn đã khải thị những giá trị thực của đời người. Nó chống lại sự sáo mòn, băng hoại. Không dồn đuổi con người ta tới một nhịp sống gấp gáp, cũng không làm con người buông xuôi trước số phận mà là nhìn nhận một cách chân xác chỗ đứng đúng nghĩa của con người.
Có lẽ tình yêu và nỗi đau phận người là những giá trị lớn nhất mà Trịnh Công Sơn để lại. Đó là một gia tài đồ sộ đến mức thử giả định nếu không có Trịnh Công Sơn, nếu không có âm nhạc của ông, đời sống của chúng ta sẽ nghèo nàn và thảm hại đến nhường nào.
NGUYỄN VĂN THỌ: Nhạc Trịnh Công Sơn là một thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ tới khúc thức. Một thứ nhạc xanh không đúng với thứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe. Nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách khỏi hận thù trận mạc, tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè bạn hòa bình, đạo lý.
ĐẶNG TIẾN: Đi vào nền tân nhạc với một tâm hồn mới mẻ, Trịnh Công Sơn đã dần dần xây dựng một nhạc ngữ mới phá vỡ những khuôn sáo của nền âm nhạc cải cách, thành hình chỉ hai mươi năm về trước. Trịnh Công Sơn có tài đặt nhạc, soạn lời, lại biết bắt mạch thời đại sống đúng thế hệ của mình, trong lòng đất nước, trong nhạc cảnh thế giới. Ngần ấy cái tài dồn lại gọi là thiên tài, cũng không quá đáng.
PHẠM TUYÊN: Trong lĩnh vực ca khúc, lời ca có một vị trí hết sức quan trọng và về mặt này Trịnh Công Sơn thực sự là một nhà thơ. Lời ca anh không dễ dãi tùy tiện, mà luôn luôn ẩn sâu một triết lý về cuộc đời và điều đáng nói là anh đã tìm được những giai điệu phù hợp, dung dị, không cầu kỳ, kiểu cách để thể hiện nội dung đó. Đối với người sáng tác, có được một phong cách riêng là một điều phải phấn đấu. Trịnh Công Sơn không chủ tâm tạo cho mình một sự khác biệt lập dị, nhưng bằng tình cảm chân thành của mình, anh đã có được một phong cách rất riêng được sự mến mộ của đông đảo công chúng.
Sẽ còn có nhiều công trình nghiên cứu về hàng trăm ca khúc của anh với những sự đánh giá có thể khác nhau, nhưng phải khẳng định rằng sự nghiệp sáng tác của anh đã góp phần xứng đáng vào nền ca khúc Việt Nam hiện đại.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG: Tình ca Trịnh Công Sơn là bài kinh cầu bên vực thẳm, lay động ý thức về thân phận ở bất cứ ai mê muội định tìm một chỗ ẩn trốn an toàn giữa cõi đời
Và như thế, tình ca Trịnh Công Sơn không hẳn chỉ là một bông hồng dâng tặng - nó chứa đựng tất cả tâm trạng lo âu của con người nhạy cảm nhìn ra thế giới hiện đại.
Nhưng khỏi phải e ngại rằng Trịnh Công Sơn định làm triết lý thay vì âm nhạc. Điều khiến cho tình ca Trịnh Công Sơn sống mãi trong lòng người chính là ở đây. Dù những trầm tư của tác giả đi xa đến đâu, âm nhạc Trịnh Công Sơn vẫn là một cõi riêng dành cho tình yêu: nó làm tươi lại bông hoa đầu tiên mà con người đã hái, mang theo từ vườn địa đàng, đánh thức cả trời mộng mơ tưởng chừng đã quá xa trong đời người, để đưa những người tình đến ở một lâu đài cổ xưa trong rừng, êm đềm, giản dị mà cao sang lạ thường.
Nguyễn Trọng Tạo
Nguyễn Thụy Kha - Đoàn Tử Hiến
Theo http://dev.kilopad.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Se sắt vùng cao  Với giọng văn nhẹ nhàng, hiền lành, mộc mạc, đậm chất thơ và có phần trầm buồn nhưng gợi mở nhiều suy ngẫm, truyện của ...