Về ba câu kết bài thơ
T
|
rong văn chương, đặc biệt với thơ, thường chứa đựng những
ẩn số khiến không chỉ người đọc, mà ngay cả người làm ra nó có khi cũng không
hiểu nổi bởi những ý tưởng biểu đạt thường nhiều hơn cái mà nó biểu đạt, trong
điều kiện đó chỉ có bản thân câu thơ mới tự biết nó nói lên những gì mà thôi!
Ba câu thơ kết thúc bài thơ Tống biệt hành nổi tiếng của Thâm Tâm
cũng trong loạt những câu rắc rối mà mọi tranh cãi vẫn chưa nguôi trong sự tạm
lắng giữa bao bề bộn:
Mẹ - thà coi như chiếc lá bay,
Chị - thà coi như là hạt bụi,
Em - thà coi như hơi rượu say.
Việc đi đến tận cùng gốc rễ một bài thơ không phải là mục
đích cuối cùng và bắt buộc, song nếu còn có thể làm được thì cứ vẫn nên làm. Ba
câu thơ trên cũng còn có lối đi dù rắc rối. Nói rắc rối, là vì ý Thâm Tâm ra
sao, hầu như không cảm hết; còn với người đọc, thì tuy đã nghe thấy những kết
luận rồì, nhưng nhiều người vẫn chưa an tâm, lý do là chưa hẳn đã đúng. Kết
luận ấy mọi người đã rõ: Ba câu thơ là những mất mát, đau thương, chia lìa hoặc
của “người đi” dành cho người ở lại; hoặc của Mẹ, Chị và Em dành cho “người đi”
qua những hình ảnh bi lụy “chiếc lá bay”, “hạt bụi” và “hơi rượu say”! Rõ ràng
với cách hiểu đó khiến người ta băn khoăn là phải, bởi người ta cần một sự tường
minh chứ không chịu nghe theo cái lối nước đôi “hoặc nọ, hoặc kia” như thế. Ở
đây tính đa nghĩa của thơ gần như khó được người đọc chấp nhận (mà hoặc nọ,
hoặc kia cũng không phải đa nghĩa), bởi bài thơ có những yếu tố tự sự, có
nhân vật (dù là nhân vật trữ tình), cụ thể là có kẻ đi, người ở, do vậy
người đọc cứ muốn biết rõ ai buồn, và buồn cho ai trong mấy câu thơ kia, thêm
vào đó còn là mức độ nỗi buồn sao tới mức bi thương, vô vọng đến thế?
Cùng tâm trạng trên với nhiều bạn đọc, chúng tôi vẫn nghĩ cách hiểu trên e
không đúng, và cố gắng đi tìm cái cần tìm, và có thể chủ quan khi chúng tôi nói
đã nhận thấy tia sáng trong con đường hầm tìm kiếm.
Điều chúng tôi muốn nói, là ba câu thơ trên chính là con
mắt nhìn của “người đi”, một cách nhìn nhằm giảm thiểu nỗi nhớ
thương, xa xót của “người đi” trước những giọt nước mắt người ở lại. Người
ra đi tự tạo ra một tâm thế “dửng dưng”, biết mọi người buồn lắm, nhưng
cũng cứ “coi như” không, “coi như” những giọt lệ kia nhỏ xuống bởi những lý do
khác chẳng dính gì tới cuộc chia tay, chẳng hề buồn đau vì biệt ly
người đi, kẻ ở! (Bởi cả người đi cũng nước mắt đầm đìa thì hỏi còn gì nữa). Đó
là nét ngang tàng của “trai thời loạn”, của người anh hùng gác tình riêng vì
nghĩa lớn, sẵn sàng “da ngựa bọc thây” vào thời điểm đầy nhạy cảm của lịch
sử. Con người có lúc cũng phải bày ra “cú lừa” vô hại rất cần thiết như vậy cho
chính mình và người khác. Cái chữ “coi như” ở đây là một chọn lựa bản lĩnh của
đấng nam nhi. Cách nhìn ấy đã làm “người đi” nhẹ lòng trên bước trường chinh, dẫu
mọi nhớ nhung đâu phải vì thế mà phai nhạt trong lòng. Cách nhìn ấy cũng sẽ làm
vợi bớt những giọt lệ của người ở lại, khi đọc thấy trong ánh mắt “người đi” một
niềm lạc quan, không vướng bận gánh nặng gia đình ...
Chúng tôi cho rằng lối hiểu lâu nay coi “chiếc lá bay”
là chia lìa, có thể không đúng với ý tác giả. Lá bay không phải lá
vàng bay, không phải lìa cành, không phải lá rơi tan tác
trong thơ tự cổ chí kim ta từng thấy. Bay ở đây rất chủ động, là sự vận
động, khác hoàn toàn với rơi rụng, chết chóc; có thể sánh với hình ảnh “cánh hồng
bay bổng tuyệt vời” của Nguyễn Du nói về người anh hùng Từ Hải khi dứt áo ra
đi, chứ không phải là sự đứt gãy, dứt mình khỏi cành để tìm đến hủy diệt. Lá
bay trong bài thơ mang một vẻ đẹp đầy tráng khí của người ra đi trong mắt
người Mẹ, dĩ nhiên ẩn đằng sau đó vẫn là nỗi nhớ thương trong lòng, dù câu thơ
không đề cập đến nhưng người đọc phải hiểu! “Người đi” không muốn mang theo ảnh
hình nước mắt Mẹ già nên dù biết Mẹ khóc thương nhiều, cũng cứ xem như không. “Người
đi” cứ “coi như” Mẹ già xem bản thân mình là gốc cổ thụ, còn đưá con là chiếc
lá từ đó bay xa, chứ không phải lìa rơi. Người Mẹ, đối tượng đặc biệt của nỗi
nhớ nhung đã được anh dành cho sự bình tâm nhất, cứng cỏi nhất trong lòng mình.
Anh cứ xem Mẹ coi chuyến “hành” của người con như chiếc lá rời cành bay xa,
mang theo sự sống đến gieo trồng chồi xanh nụ biếc vào một miền đất mới; lá bay
như phấn thông vàng phiêu du trong gió đi tìm đất lạ… Chữ không mới, nhưng cách
tạo nghĩa thì rất mới, đầy sáng tạo và giàu sức sống.
Hai đối tượng còn lại được nhìn ở góc nhìn khác, trực diện.
Người chị khóc “người đi” nhiều lắm, bởi thương đứa em lắm lắm. Chúng tôi
không dẫn lại những câu thơ ở phần trên nói về điều này nữa, mà muốn
đi ngay vào câu thơ “Chị - thà coi như là hạt bụi”. Tác giả không để cho“Người
đi” xem chị là hạt bụi trong nghĩa “thân cát bụi lại trả về cát bụi”;
cũng không muốn chị có cái nhìn thê lương đó với đứa em. Theo chúng tôi, người
chị dù đã khóc cạn lệ, người em biết, nhưng vẫn tự nhủ, tự động viên mình coi
việc người chị rơi chút nước mắt chỉ như bởi do con mắt vương phải hạt bụi mà
thôi, đâu phải khóc mình ra đi (Cần thấy trong ca dao xưa, trong thơ và ca từ
ngày nay hình ảnh “hạt bụi trong mắt em” xuất hiện khá nhiều). Nghĩa là anh
cũng “nhẹ hoá” những giọt lệ trĩu nặng của người chị đi để vững bước lên đường.
Lại thêm một “coi như” rất “dửng dưng” và cần thiết nữa.
Cuối cùng, đứa em thơ. Quả tình lâu nay mọi người nói rất
rành rọt hình ảnh “chiếc lá bay”, và “hạt bụi”, là mất mát, đau đớn; nhưng đến
“hơi rượu say” thì cứ loanh quanh, bí nước, bởi chẳng tìm đâu ra mối liên hệ với
sự đau đớn, chia lìa trong đó (ngược lại trong thơ xưa nay rượu lại chưa bao giờ
là hình ảnh nỗi buồn, mà chính là chất kích thích khiến cho những cuộc tiễn đưa
đầy hào hứng - Chén đưa nhớ buổi hôm nay - Truyện Kiều). Bởi thế nên giải
thích thế nào cho trót lọt hình ảnh em thơ buồn đau với rượu say? Không lẽ nhà
thơ “nói bừa” đi cho xong? Thật phiền phức! Điều này cho thấy cách hiểu xưa nay
không đủ sức thuyết phục.
Vậy hình ảnh “hơi rượu say” nơi đứa em thơ là gì? Phải chăng
tác giả muốn diễn đạt chút bàng hoàng ở chú bé trước cuộc chia tay? Đứa em,
trong con mắt anh, đỏ hoe đôi mắt bởi thương nhớ người anh đấy, cũng cứ “coi
như” do môi nhấp chút rượu nồng khiến “đỏ mặt lên rồi chếnh choáng say”
như nhà thơ Nguyễn Bính từng tả chuyện trẻ con tập uống rượu mà thôi, đâu có
khóc bởi sự chia ly!
Ba câu thơ, ba lần chữ “coi như” được lặp lại, rõ ràng đây là
dụng ý nghệ thuật của tác giả. Ba câu thơ là sự phát triển của tính cách “người
đi” một cách nhất quán: đã ra đi là quyết dứt áo lên đường, dù nhớ nhung bao
nhiêu cũng đành “coi như” không!
Thật thú vị khi Mẹ, Chị, Em, mỗi người tác giả dành cho
một cái nhìn đúng “của họ”, không thể thay cho nhau được. Một đảo lộn nhỏ cũng
làm trật tính nết nhân vật, đó là điều mà lối hiểu truyền thống không có, ví dụ
theo cách hiểu xưa nay, ta có thể hoán đổi hình ảnh Mẹ và Chị cho nhau cũng chẳng
sao (Chị - chiếc lá bay; Mẹ - hạt bụi).
Một vấn đề đặt ra, là cách nhìn “nhẹ hóa” nỗi đau chia li nói
trên có thể đặt vào con mắt Mẹ, Chị và Em được không? Theo
chúng tôi là khó, bởi đó là những đối tượng vốn mau nước mắt, mềm yếu; họ đã
khóc nhiều ở những câu thơ trước đó rồi, làm sao lại có nổi con mắt ráo hoảnh,
“dửng dưng” kia được. Tóm lại, đó chỉ duy nhất là cách nhìn của đấng nam
nhi bừng bừng khí thế ra đi vì nghĩa lớn. Phải đặt bài thơ trong không khí sôi
sục lên đường, “lạnh lùng vung gươm ra sa trường” của bậc trượng phu, mới thấy
lối hành xử rắn rỏi, không chút uỷ mị của “người đi” trong mấy câu kết là tất yếu…
Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống ngoại xâm vừa qua
của dân tộc ta, đã có hàng vạn cuộc tiễn đưa, không phải không đau buồn, nhưng
chỉ cái không khí buổi đầu “ra đi”mới khiến người ta buồn đến thế, bởi quá lạ
lùng, quá mới mẻ khi cuộc sống đang thanh bình bỗng nhiên thay đổi hẳn; và cuộc
chia ly trong Tống biệt hành nằm trong loạt những cuộc chia ly đầu
tiên, nên tránh sao khỏi bi lụy.
Trong bối cảnh đó, người ra đi phải gồng mình lên, phải cứng rắn hơn bao giờ hết. Và thể hành, cũng chỉ xuất hiện trong cái giờ phút ấy, tâm trạng buồn thương ấy và khí chất người đi ngang tàng trong bối cảnh như vậy, nó không còn xuất hiện trở lại trong thơ kháng chiến sau này cũng là điều không khó hiểu…
Trong bối cảnh đó, người ra đi phải gồng mình lên, phải cứng rắn hơn bao giờ hết. Và thể hành, cũng chỉ xuất hiện trong cái giờ phút ấy, tâm trạng buồn thương ấy và khí chất người đi ngang tàng trong bối cảnh như vậy, nó không còn xuất hiện trở lại trong thơ kháng chiến sau này cũng là điều không khó hiểu…
Bài thơ, như ai nấy đều biết, là đầy những câu ý tứ sâu xa, rất
nhiều nghĩa chìm; vậy chẳng lý gì mấy câu kết lại chỉ có nghĩa đen trần trụi nếu
chỉ hiểu như xưa nay (Mẹ như chiếc lá bay; chị như hạt bụi). Theo
chúng tôi ba câu thơ ấy không nên nhìn với con mắt thực chứng, tách biệt với
toàn bài, mà phải nhất quán trong mạch thơ cả bài, nghĩa là cũng “ý tại ngôn
ngoại” như đã trình bày. Đưa ra cách hiểu mấy câu thơ như đã trình bày không phải
chúng tôi lên gân, cố gán cho bằng được cái gọi là “tinh thần lãng mạn cách mạng”
vào, mà xét thấy trong điều kiện tiếng Việt vốn dễ nói, khó nghe bởi
không thì không giống nên vấn đề đáng được hiểu như thế, chữ
nghĩa, hình ảnh trong thơ ở đây nên hiểu như thế và xin đưa ra một lối lý giải
như thế trong những cách hiểu có thể với Tống biệt hành.
Xưa nay chúng ta coi ba câu thơ trên là cái kết bi thương, và
xem đó là một hạn chế, từ đó, bài thơ Tống biệt hành chỉ dừng lại
nơi vị trí là cái vạch nối của thơ lãng mạn và thơ cách mạng. Điều này xét đến
cùng không mấy băn khoăn, song vấn đề ở chỗ bài thơ cần được hiểu đúng như những
gì đã thể hiện.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét