Thứ Tư, 29 tháng 1, 2020

Một cõi Trịnh Công Sơn 1

Một cõi Trịnh Công Sơn 1
Lời mở
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã giã từ chúng ta, giã từ cõi tạm. Thời gian cứ trôi làm nổi xúc động trong mỗi trái tim phần nào lắng lại nhưng nó cũng giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn sự ra đi của nhạc sĩ là một mất mát lớn.
Kẻ du ca về phận người, Sứ giả của tình yêu, Người hát rong của thế kỷ 20, Phù thủy của ngôn từ... Bấy nhiêu danh xưng có lẽ cũng chưa nói hết được tấm lòng và tài năng của người nhạc sĩ độc đáo này. Từ khi ông qua đời đến nay, không kể báo chí trong và ngoài nước, ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã có ít nhất 5 cuốn sách được xuất bản để tưởng nhớ ông và nói về sự nghiệp của ông. Hiếm có một nhạc sĩ nào nhận được sự yêu mến và ngưỡng mộ đến thế, ngay sau khi Trịnh công Sơn qua đời.
Cuốn sách được chia làm 2 phần lớn: 
Phần 1: Những bài viết về TCS sắp xếp theo vần tên tác giả; 
Phần 2: Sưu tập các tác phẩm văn xuôi của chính nhạc sĩ cùng một số ca từ tiêu biểu và giàu chất thơ của ông.
Đây là một sưu tập về những nhận định, những tiếc thương, những hồi ức của những người đã có từng liên hệ, sống, làm việc tiếp xúc với ông qua con người thật hoặc chỉ là qua sự cảm nhận, thưởng thức nhạc của ông. Có những cảm nhận, những suy nghĩ về ông rất là riêng tư, nhưng qua đó cũng hy vọng người đọc rút tỉa được vài hình ảnh thật về một nhà nhạc sĩ tài ba.
"ĐỂ GIÓ CUỐN ĐI..." Hồ Thị Hải Âu
Hình như ai cũng có thể tìm thấy mình trong bài hát của Trịnh Công Sơn - tôi nhớ lại một lời nhận xét đầy thân ái và gần gũi của một nhạc sĩ khi nói về Trịnh Công Sơn. Và xin mượn lời nhận xét đó để làm căn cứ cho bài viết của mình. Cách đây hơn hai mươi năm, tôi đã đến với nhạc Trịnh Công Sơn một cách hết sức vô tình và bột phát với những lời ca dễ thương như thế này: "Cây có cành bầy chim làm tổ. Sông có nguồn từ suối chảy ra. Tim mỗi người là căn nhà nhỏ. Tình nồng thắm như mặt trời xa...". Lời ca đã khiến cho tuổi thơ tôi bay lên trong những giấc mơ hồng êm ái, dịu ngọt và... điều quan trọng là trong giấc mơ đó không còn tiếng bom. Thời đó, bài hát Em sẽ và mùa xuân của mẹ lập tức được người nghe đón nhận hết sức nồng nhiệt và nhanh chóng được lan truyền rộng rãi trong cộng đồng. Bên cạnh những bài hát như Em đi đưa cơm cho mẹ đi cày hay Thiếu nhi thế giới vui liên hoan... vang đầy hơi thở và hào khí của một thế hệ thiếu nhi Việt Nam trong những tháng năm đạn bom ác liệt, thể hiện một ý thức trách nhiệm và ý thức công dân của những chủ nhân “nhí" trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước. Em sẽ là mùa xuân của Trịnh Công Sơn đã đưa các em trở về với bản ngã tuổi thơ, Trẻ em như búp trên cành... Mềm mại như mùa xuân hạnh phúc của mẹ, ca khúc viết cho thiếu nhi thời ấy của Trịnh Công Sơn như mở ra một trang mới, dự báo một chân trời hạnh phúc của cả dân tộc. Hai mươi năm đã qua đi, các em nhỏ Việt Nam vẫn tiếp tục yêu thích ca khúc đó, và tôi cũng thế.
Càng ngày tình yêu của tôi đối với nhũng ca khúc Trịnh Công Sơn càng trở nên ám ảnh, không sao dứt được. Cũng như bao thiếu nữ khác tôi hát nhạc Trịnh Công Sơn, những tình khúc buồn của tuổi mười tám rất giàu xúc cảm: "Ngoài hiên mưa rơi rơi, lòng ai như chơi vơi, Người ơi hoen ướt mi ai rồi”... Buồn! Nhạc của Trịnh Công Sơn là vậy. Những trái tim nào biết yêu mà chẳng biết buồn... và lúc buồn thì anh sẽ làm bạn tâm tình rất đỗi dịu dàng. Trịnh Công Sơn có một tình yêu thật sâu sắc và bao dung, như thể tâm hồn anh đã được “thiền" nên trải lòng yêu thương vô bờ bến tới mọi thân phận. Anh hiểu đến tận cùng giá trị thực của một kiếp sống trước cái vô tận của vũ trụ nên lòng anh độ lượng như thế này: “Yêu em phụ rẫy trong ta, yêu em yêu thêm tình phụ, yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ...". Yêu em cả khi em phụ bạc để rồi cảm thấy trái tim từ bi độ lượng... Có lẽ chính cái tinh thần cao thượng nhân ái đến mức có vẻ như thủ tiêu đấu tranh trong anh, làm cho những ca khúc của anh mang màu sắc Phật giáo, giai điệu đều đều, trầm buồn như kinh cầu mà rất đọng trong lòng người nghe.
Có rất nhiều bài báo viết về anh, một Trịnh Công Sơn - với những bài hát mang đầy ý thức trách nhiệm công dân như Nối vòng tay lớn, Hãy đi cùng nhau, Đại bác ru đêm... Rồi sau này là Huyền thoại Mẹ, Hà Nội mùa thu... Phản chiến, ngợi ca hoà bình, ngợi ca quê hương đất nước bằng những ca khúc đã trở nên quá phổ biến và lừng danh trong cả nước có lẽ cũng không nhiều nhạc sĩ làm được điều này.
Người ta nói đến Trịnh Công Sơn như là một nghệ sĩ của tình yêu, bởi lẽ đa phần ca khúc của anh đều ngợi ca, hoặc đau đớn, ngậm ngùi về một mối tình nào đó: “Chiều nay còn mưa, sao em không lại, nhớ mãi trong cơn đau vùi, làm sao có nhau..." (Diễm xưa). Có người còn bảo: “Thích hát nhạc TCS vì nhạc anh cô liêu”... Cũng như số đông, tôi yêu những bài hát của Trịnh Công Sơn. Yêu đến ám ảnh tâm hồn tôi, nhưng không thể cắt nghĩa. Anh mở lối cho ta đi vào đường đời muôn nẻo: “Em đi về chiều mưa ướt áo, đường phượng bay mù không lối vào"... Hay như "Gió heo may đã về, chiều tím loang vỉa hè, và gió hôn tóc thề...". Trong những bài hát này của anh, có ai đó nhận xét: “Nó không có chính trị”. Cũng phải thôi, có những lúc mỗi chúng ta tạm tách khỏi cộng đồng để tự đối diện với chính mình: buồn vui riêng mình... Và lúc đó những ca khúc của TCS thầm thì bên tai. Chẳng thế, mà anh có rất nhiều bài ru: Ru ta ngậm ngùi, Tôi ru em ngủ, Ru tình . Ru em từng ngón xuân nồng . Ở một ca khúc ru, anh đã viết những ca từ như thế này: “Ru em đầu con gió, em hong tóc ven hồ. Khi sen hồng mới nở, nhụy đời ôi thơm quá...” Tình yêu thương đối với con người của anh mới cao quý làm sao, anh nâng niu và ngợi ca cái đẹp nguyên sơ của người con gái “Nhụy đời ôi thơm quá". Còn sự tôn vinh con người nào cao hơn thế! Tuy nhiên TCS cũng rất thẳng thắn, thức tỉnh chúng ta phải đối mặt trước những nỗi đau đời - nỗi đau nhân loại bất kể thời đại nào: “Một lần nằm mơ, tôi thấy tôi qua đời"(Bên đời hiu quạnh), hay “Đôi khi thấy trăm vết thương. Rồi như đángây ngô..." Tôi bị ám ảnh bởi ca khúc Trịnh Công Sơn, vì ở đó chứa đầy vẻ liêu trai, phiêu diêu đến độ có người bảo: “Lời ca của TCS cứ lẩn thẩn, vẩn vơ thế nào ấy“. Nhưng thực ra, anh gửi gắm trong những lời ca tưởng dễ dãi như đồng dao con trẻ là cả một triết lý về con người: “Người ta là hoa của đất”, “Sống gửi, thác về...”, bộc lộ rõ trong nhiều ca khúc như Chiếc lá thu phai, Biết đâu nguồn cội, Ở trọ, Một cõi đi về... Dễ hiểu và khó hiểu, bởi âm nhạc của Trịnh Công Sơn là kết hợp của những thanh âm đã siêu thoát làm lay động nơi sáng láng nhất của sự giác ngộ con người như tiếng kinh cầu, đồng thời âm nhạc của anh lại là những giai điệu mộc mạc đơn giản như lời ru, như đồng dao...
Những giai điệu nguyên sơ của cuộc sống con người. Nhiều lúc tôi cứ ray rứt: Chắc Trịnh Công Sơn phải khổ lắm, phải đọa đày lắm để đi hết các nẻo buồn vui con người, để chia sẻ những sướng khổ với nhân quần, an ủi động viên con người vượt qua nỗi đau. với triết lý “nỗi đau đời là tất yếu”, là từ khi “Mẹ cho mang nặng kiếp làm người” (Gọi tên bốn mùa) nên hãy thanh thản đón nhận "Dù thật lệ rơi, lòng không buồn mấy...”(Bên đời hiu quạnh). Để rồi ta sẽ sống nhân ái hơn, có ích hơn: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không?”. Kết cục lại là thế: Một tấm lòng dẫu chỉ để gió cuốn đi...
Anh là kẻ ham chơi lãng tử quên mệt mỏi trong cuộc sống “Hãy cứ vui chơi cuộc đời,đừng cuồng điên mơ trăm năm sau..." và anh còn là người khổ hạnh san sẽ nỗi đau với nhân quần, để tâm hồn chúng ta được thanh thoát.
Nghe Trịnh Công Sơn không dễ. Phải là khi gạt bỏ được mọi sự xô bồ ra bên ngoài khung cửa. Phải là khi đừng quá vui. Chỉ ta với âm nhạc của anh thôi đối diện. Khi buồn, thì lời ca trong Kinh khổ của anh sẽ làm cho ta được an ủi. Khi vui thì lời ca của anh sẽ giúp ta đừng thái quá, âu đó cũng là cái đạo của người nghệ sĩ đích thực - dìu dắt tâm hồn ta đi trọn cuộc đời với những nỗi buồn vui.
PHỐ TRỊNH Yên Ba
Trong nhiều ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về quê hương, thân phận, tình yêu, ngoài vô số những ẩn dụ về sự mong manh, cõi vô thường, sức mạnh của lời ru... có một hình ảnh khi thì thấp thoáng, khi thì trực diện trong nhạc của ông, như một ám ảnh. Đó là ám ảnh phố, một cõi riêng của Trịnh Công Sơn. Những phố trong âm nhạc của Trịnh Công Sơn dường như chính là nơi chốn hẹn gặp của ông với những người nghe nhạc ông.
Nhưng trước hết, phố trong âm nhạc Trịnh Công Sơn là nơi hẹn gặp của những người tình.
Một ngày kia, người tình trong một ca khúc của Trịnh Công Sơn tìm về nơi hẹn xưa trong Khói trời mênh mông: “Ta về nơi đây. Phố xưa dấu đạn. Gió trời lênh đênh. Nhớ con phố hẹn...”. Phố là nơi những người tình xưa theo lối kỷ niệm tìm về. Cho dù có thể là em không còn đó, nhưng dư hương của những ngày cũ thì vẫn còn đây trong Hoa vàng mấy độ: “Một thoáng hương bay, bên trời phố hạ”. Có thế chỉ là một thoáng gặp tình cờ, thời gian trôi đi không thể níu kéo những kỷ niệm cũ, cái còn lại chỉ là một hình ảnh rực rỡ: “Em cười đâu đó, trong lòng phố xá đông vui”. Kỷ niệm là mong manh, nhưng chính cái mong manh ấy, biết đâu lại làm nên sức nặng của kỷ niệm.
Phần lớn trong hành trang những tình khúc của Trịnh Công Sơn nặng một chữ "chia xa”. Và dĩ nhiên, phố là nơi chứng kiến những cuộc chia xa ấy. Lý do nhiều khi chỉ là chuyện thường nhật mà khiến cho những ngày Yêu dấu tan theo: “Em theo đời cơm áo, mai ra cùng phố xôn xao”. Có khi chỉ là một lời chào thật nhẹ nhõm trong Quỳnh hương: “Thôi chào em, về giữa phố xá thênh thang”. Nhưng có khi cũng chẳng vì một lý do gì, chẳng một ai có lỗi mà vẫn phải xa nhau. Chỉ còn lại một người trong một Đêm thấy ta là thác đổ, chợt nhớ đóa hoa tường vi, vậy mà "Bàn tay ngắt hoa từ phố nọ, giờ đây đã quên vườn xưa". Và bởi không còn người xưa cho nên: “Chiều một mình qua phố, âm thầm nhớ nhớ tên em”. Nỗi nhớ quặn thắt ấy chỉ có ở nơi những người biết rằng cuộc tình mình đã vĩnh viễn ra đi không bao giờ trở lại. Chiều một mình qua phố là một trong số ít ca khúc mà Trịnh Công Sơn viết trực tiếp về phố và chỉ còn lại một người... Không chỉ có Anh cảm thấy đau mà Em cũng trống vắng trên phố khi chỉ còn lại một mình, khi bỗng nhiên Nghe những tàn phai: “Chiều nay em ra phố về. Thấy đời mình là những đám đông. Người chia tay nhau cuối đường”. Đó là cái cảm xúc thường thấy khi chỉ vắng đi một người mà bỗng thấy Bên đời hiu quạnh: “Giật mình nhìn quanh, ở phố xa lạ”.
Nhưng phố cũng là nơi mời gọi những con người mỏi mệt trở về. Những ca khúc về thân phận con người của Trịnh Công Sơn thấp thoáng hình ảnh phố như một nơi chốn mà con người có thể tìm thấy một chút bình yên. Đó là "Về trong phố xưa tôi nằm. Có lần nghe tiếng ru bên vườn” và “Nhiều đêm muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà” trong Lời thiên thu gọi. Đó cũng là cái cảm quan hết sức lạ lùng: "Trời đất kia có hay ta về. Một phố hồng, một phố hư không". Cùng với cái cảm quan Nghiêng này mà qua ca từ của Trịnh Công Sơn, phố đã mang một linh hồn: "Ngày thu đông, phố xưa nằm bệnh. Đàn chim non, réo bên vườn hoang”. Như vậy, phố không còn là phố nữa rồi!
Không chỉ mong manh hư ảo, phố trong âm nhạc Trịnh Công Sơn đôi khi cũng thật cụ thể nơi những miền đất mà ông đặt chân qua. Khi Nhìn những mùa thu đi, có thể thấy những phố nhỏ của thành phố quê hương ông, nơi có "Gió heo may đã về, chiều tím loang vỉa hè". Về trên phố cao nguyên ngồi gợi nhớ những phố núi Bảo Lộc nơi Trịnh Công Sơn đã có một thời dạy học với bước chân của những nàng Ơ Bai... nhưng đậm hơn cả là những đường phố của Huế, Sài Gòn và Hà Nội, một nơi mà Trịnh Công Sơn đang sống và một nơi ông có nhiều kỷ niệm. Em còn nhớ hay em đã quên những đường phố của Sài Gòn, hỡi người đã ra đi? Những con đường nằm nghe nắng mưa ấy đã quen bàn chân em qua và gọi em trở lại. Gọi em trở lại còn là một cơn mưa bất chợt của Sài Gòn, hay cơn mưa dầm dề của Huế ngày trước đã là cơn cớ để chúng mình đứng chung dưới một mái phố nào đó: “Trong lòng phố mưa đêm trói chân. Dưới hiên nhìn nước dâng tràn. Phố bỗng là dòng sông uốn quanh"... Còn đối với Hà Nội, thành phố mà đôi lần ông ghé chân qua, Trịnh Công Sơn cũng có những hoài niệm về "Cây bàng lá đỏ, nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu". Những hoài niệm ấy trỗi dậy khi thu về và nhẹ như gió thoảng: “Mùa cốm xanh về, thơm bàn tay nhỏ, cốm sữa vỉa hè, thơm bước chân qua”. Chỉ là một cảm nhận ước lệ, không rõ ràng, mà cũng khó có thể giải thích một cách ngọn ngành, thế nhưng bao giờ người Hà Nội vẫn nhận ra đó chính là vỉa hè của Hà Nội mà thôi. Như một họa sĩ tài ba, Trịnh Công Sơn cũng xuất thần khi ông vẽ phố Hà Nội bằng ngọn bút thuỷ mạc trong Đoản khúc thu Hà Nội: “Nhoà phố mong manh, nhoè phố mưa”. Chỉ một người yêu phố Hà Nội lắm mới có được cái nét vẽ thần sầu ấy!
Không như nhiều nhạc sĩ khác, Trịnh Công Sơn thường tự viết lấy ca từ cho các ca khúc của mình, chỉ trừ một hai bài phổ thơ của Bùi Giáng và của Trịnh Cung bạn ông. Bởi vậy mà có thể nói rằng thế giới phố trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn là do chính ông sáng tạo ra. Họa sĩ Bùi Xuân Phái, qua tranh ông, đã tự mình tạo ra một phố thứ 37 của Hà Nội mang tên Phố Phái. Trịnh Công Sơn, bằng âm nhạc của mình, cũng đã sáng tạo ra một Phố Trịnh trong cái vũ trụ nhạc đa diện đa chiều của ông. Như một tài năng, vốn dĩ rất hiếm hoi trong cuộc đời này, Trịnh Công Sơn đã làm được cái điều mà rất ít người làm được: mỗi người đều có thể tìm thấy trong phố của ông, phố của riêng mình!.
TRỊNH CÔNG SƠN NGƯỜI THƠ CA Văn Cao
Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca (Chantre) bởi ở TCS, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ. Và bởi TCS đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui và đau tận cùng những nỗi đau của Tổ quốc mẹ hiền.
Mãi hơn một năm sau ngày 30 tháng 4, chúng tôi mới thật sự mặt nhìn mặt, tay cầm tay lần đầu, nhưng tôi có cảm giác như chúng tôi đã là bạn của nhau từ bao giờ, mặc dù giữa tôi và TCS còn cả một thế hệ đệm. Nói cách nào đó, tôi đã gặp TCS từ những ngày đất nước còn chia hai miền và còn chìm trong khói lửa. Tôi muốn nhắc đến ở đây một kỷ niệm không thể quên ở nhà một người bạn trẻ. Đêm ấy lần đầu tiên tôi nghe (cũng có nghĩa là gặp) Trịnh Công Sơn... Những bạn trẻ hát cho tôi nghe gần suốt đêm hàng loạt ca khúc Trịnh Công Sơn (không biết họ học ở đâu?), hát say sưa đến nỗi đứt cả dây của cây đàn ghi ta duy nhất trong nhà.
Trong âm nhạc của TCS, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. TCS viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra. Nói như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, một người bạn già của tôi, “Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra". Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn có lẽ là chính ở chỗ đó, ở chỗ không định tạo ra một trường phái nào, một triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới. Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước mà ở cả bên ngoài biên giới. Và nếu tôi không lầm thì dấu ấn của TCS đã ít nhiều in trên các tác phẩm của một số nhạc sĩ thời kỳ sau 1975..
Có lẽ cũng không cần nghe lại nữa, dù bây giờ và sau này TCS có in thêm, một lần là đủ, từ cái đêm chiến tranh ấy, tôi biết mình đã gặp một tâm hồn chị em sẽ chia Một cõi đi về.Và tôi viết lời bạt này cho tập nhạc của TCS như giữ một lời hẹn thầm chưa ngỏ, lời hẹn của một tri âm với tri âm...
Đây là Lời Bạt cho tập sách Trịnh Công Sơn: Em còn nhớ hay em đã quên. Nxb Trẻ 1991. Đầu đề do chúng tôi đặt (BT).
TÔI PHÁT BIỂU VỀ TRỊNH CÔNG SƠN VÀ NHỮNG CA KHÚC PHẢN CHIẾN CỦA ANH Bửu Chỉ.
Vỹ Dạ, 25 - 4 - 2001
Lúc 12 giờ 45, ngày 01 tháng 4 năm 2001, Trịnh Công Sơn đã ra đi. Trái tim nhân ái và nhạy cảm ấy đã ngừng đập; bộ óc đầy mỹ cảm và sáng tạo ấy đã thôi vận động. Anh đã để lại cho bạn bè và những người hâm mộ anh một nỗi tiếc thương vô hạn. Một sự mất mát lớn, một khoảng trống không gì bù đắp nổi cho nền âm nhạc hiện đại Việt Nam. Một nhạc sĩ nổi tiếng cùng thời đã nhìn nhận một cách vô tư rằng Trịnh Công Sơn là người viết tình ca hay nhất thế kỷ của Việt Nam. Nói về sự ra đi của anh, những người mến mộ còn ở lại cái cõi trần ai này đã bày tỏ bằng nhiều cách với nhiều ý nghĩa khác nhau. Nhưng nói bằng cách gì và với ý nghĩa nào thì cũng không thể làm vơi đi được nỗi đau thương và mất mát ấy. Rõ ràng là có một sự biến mất về hình hài vật chất mà cha mẹ anh đã tạo nên anh. Quy luật tự nhiên của vũ trụ vô tình vốn hữu sinh thì hữu diệt, hữu hình thì hữu hoại. Nhưng mà thật ra anh vẫn ở lại, ở lại mãi mãi với nền âm nhạc, với nền văn minh và văn hóa nước nhà. Cả một đời làm việc sáng tạo cật lực, anh đã góp được vào trong sự nghiệp nghệ thuật chung hơn 600 ca khúc. Một sự nghiệp đồ sộ. Và đây chính là cái phương tiện, cái quyền năng đã giúp anh chống lại định mệnh. Cái định mệnh của đời người vốn khắc nghiệt và độc ác đã chưa từng bao giờ cho phép ai sống đến tận cùng niềm vui và nỗi khát vọng sống như chính mình mong muốn.
Đối với cộng đồng xã hội, một khi anh nằm xuống, anh đã thanh thỏa hết mọi "trái khoản" một cách sòng phẳng với trần gian. Một đời mình anh đã làm hết mọi điều mà anh mong muốn, và đã ra đi đúng lúc. Còn tất cả những gì mà anh đã để lại cho cuộc đời, nó sẽ cứ tồn tại một cách hiển nhiên và minh bạch. Không có gì đáng trách và cũng không có gì phải hồ nghi cả.
Thiên tài ư? Anh đâu cần cái hư danh ấy. Anh là anh, chính điều này mới lớn lao. Vả lại, chính hậu thế vốn rộng lòng và trong sáng hơn đương thời sẽ quyết định điều này. Nhưng dù gì thì gì, đấy vẫn là hư danh. Cái hư danh khiến cho những con người đầy tham vọng sẽ vật lộn, tranh giành nhau một cách đau khổ. Mà thật ra chưa khi nào, dù một lần anh đã thầm ước mơ đến cái tên gọi đầy sân hận đó.
Nhân cách của anh? Tôi sẽ trả lời rằng Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ đầy nhân cách. Còn lớn hay nhỏ ư? So với ai? - Người đời vốn hay chấp về hình tướng, mà hình tướng thì thường làm cho con người mê.
Tôi nói nhân cách của Trịnh Công Sơn nó đầy đủ ở trong thái độ nghệ thuật của anh. Thái độ nghệ thuật này luôn nhất quán ở trong sáng tạo nghệ thuật của anh mà chưa hề khi nào vong thân hay thoái hóa biến chất cho đến phút cuối cùng. Khẳng định về một điều như thế đối với một người đang còn sống thật khó. Nhưng đối với một người đã nằm xuống ta sẽ không còn phải lo sợ rằng họ còn có thể tốt hay xấu, còn có thể đúng hay có thể sai, xứng đáng hoặc không xứng đáng nữa.
Một con đường dẫn nhập vòng quanh như vậy đối với tôi là cần thiết, để dọn đường vào vấn đề mà tôi đã tự đặt ra cho mình: Trịnh Công Sơn và nhạc phản chiến của anh. Trong quá trình trình bày vấn đề này, tôi sẽ cố gắng làm toát ra cái tài năng và nhân cách hiếm có của anh nổi bật lên trên cái bối cảnh Việt Nam máu và nước mắt, khói lửa và nỗi kinh hoàng trong cuộc chiến dai dẳng và khốc liệt thời bấy giờ. Một cuộc chiến tranh mang tính tất yếu lịch sử của một dân tộc bị áp bức. Và Trịnh Công Sơn đã xuất hiện trong bối cảnh đó như lương tâm của một con người mang trái tim nhân ái, nhạy cảm. Anh biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương dân tộc.
Tôi sẽ không nói đến những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn với tư cách một nhà phê bình văn học về lời nhạc, cũng như không phải trong tư cách của một nhà nghiên cứu âm nhạc đối với nghệ thuật âm thanh của anh. Mà với tư cách của một người chứng, sống cùng thời và từng sinh hoạt với anh. Tôi sẽ nói về thái độ dấn thân bằng âm nhạc của Trịnh Công Sơn trong công cuộc vận động hòa bình cho đất nước đầy tuyệt vọng, nhưng cũng đầy ý nghĩa và giá trị nhân bản đó. Nghĩa là nói về một Trịnh Công Sơn nghệ sĩ đích thực, một công dân nước Việt mang tình yêu chân thực đối với quê hương vào cuộc. Khẳng định anh trong .ý nghĩa này là khẳng định sự đóng góp của anh vào trong những giá trị văn hóa, văn minh của cả nước. Một Việt Nam luôn xây dựng trên nền tảng con người và hòa bình.
Thế nào là nhạc phản chiến, và phản chiến như thế nào?
Phản chiến ở đây là bày tỏ thái độ của mình không tán thành chiến tranh, và sự không tán thành này có nghĩa là một sự đồng cảm, chia sẻ với những con người đang phải gánh chịu những nỗi mất mát, đau thương trong chiến tranh. Đồng cảm mà không đứng ở ngoài, đứng ở một bên; mà đứng ở cái thế chung cùng một phận, một định mệnh. TCS không nhân danh một "isme" nào cả; cũng không chủ trương chống lại một “isme" nào cả. Hoặc có chăng là anh nhân danh cái gọi là "humanisme", xu hướng nhân bản.Mà thật ra cũng chỉ là một cách gọi đấy thôi. Nói cho cùng, đó là tất cả những gì anh cảm xúc, tất cả những gì vang vọng trong tâm khảm của anh từ một thực tại máu xương của đồng bào. Đỗ Phủ ngày xưa ở bên Tàu làm thơ bày tỏ sự xót thương đối với hàng vạn con đỏ đang bị dìm trong máu lửa chiến tranh mà người đời sau cho rằng ông có tinh thần chống chiến tranh là vậy. Thật ra ông chỉ muốn nói lên niềm xúc động sâu xa của mình đối với thời thế, mà ở đằng sau cái nỗi niềm này không tiềm chứa một ý thức, một tinh thần cơ hội nào.
Tắt một câu, trong dòng nhạc phản chiến của mình, Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả là làm theo mệnh lệnh của con tim mình, một con tim thương đời, thương người, thương quê hương, dân tộc một cách chân thành. Và một khi anh đã vĩnh viễn nằm xuống yên nghỉ thì câu khẳng định này đã trở nên hùng hồn hơn.
Ta sẽ thấy mệnh lệnh của trái tim này đi xuyên suốt trong tất cả các sáng tác thuộc dòng nhạc phản chiến của anh. Trước hết ta có thể tạm sơ lược về con đường sáng tác các ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn như sau:
- Ý thức phản chiến trong ca khúc của Trịnh Công Sơn đã manh nha vào những năm 1965, 1966. Trong giai đoạn này đã cho ra đời tập ca khúc Ca khúc Trịnh Công Sơn (Thần thoại quê hương, tình yêu và thân phận) do An Tiêm xuất bản 1966. Sau đó phát triển dần trong tập Ca khúc da vàng vào cuối 1966 và đầu 1967, tập Kinh Việt Nam năm 1968, tất cả đều do anh tự ấn hành lấy. Cùng với những cuộc xuống đường rầm rộ của thanh niên, sinh viên, học sinh đô thị miền nam Việt Nam chống Mỹ và chế độ cũ đòi hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước, anh đã cho xuất bản tập ca khúc Ta phải thấy mặt trời vào năm 1970 (Tự ấn hành dưới cái tên Nhà xuất bản Nhân Bản). Năm 1972, khi tình hình chiến sự ở miền Nam Việt Nam ngày càng leo thang đến độ khốc liệt nhất, anh đã cho ra đời tập Phụ khúc da vàng (Tự ấn hành dưới cái tên Nhà xuất bản Nhân Bản). Đây là tập cuối cùng của dòng nhạc phản chiến của anh. Tổng kết tất cả gồm 5 tập, với 58 ca khúc, chưa kể những bài rời được sáng tác ngay trong những cuộc xuống đường cùng thanh niên, sinh viên, học sinh Huế.
So với những tình khúc mà Trịnh Công Sơn đã sáng tác được trong suốt cuộc đời mình cho đến lúc qua đời, số lượng của những ca khúc phản chiến tương đối ít. Nhưng chính những ca khúc này đã làm cho danh tiếng của anh sáng lên một cách chói lọi. Phải nói là độc sáng. Và chính trong cái vầng hào quang làm nền này, tình khúc của Trịnh Công Sơn tiếp tục sáng giá cho đến hôm nay và mai sau. Chính những ca khúc phản chiến thời bấy giờ đã chắp cánh cho danh tiếng của anh bay ra khỏi biên giới Việt Nam để đến với thế giới, đặc biệt là Nhật Bản. Nơi xứ sở này anh đã từng có những “Đĩa Vàng". Và lưu danh trong bộ từ điển Bách khoa Pháp Encyclopédie de tous les pays du mon de.
Thật vậy, vào những năm 58, 59, 61, 62, những tình khúc như ướt mi, Thương một người, Nhìn những mùa thu đi, Biển nhớ v. v. . . đã bắt đầu nổi tiếng trong những phòng trà ca nhạc ở miền Nam. Nhưng phải chờ đến những năm 65, 66, 67 khi tiếng hát của Trịnh Công Sơn cất lên trong các giảng đường Đại Học Sài Gòn và Huế, trước hàng ngàn sinh viên học sinh cuồng nhiệt, với những ca khúc trong các tập Ca khúc Trịnh Công Sơn và Ca khúc da vàng, cái tên Trịnh Công Sơn đã trở thành một hiện tượng. Hiện tượng Trịnh Công Sơn.
Những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn được chép để chuyền tay, được in ra băng cassette, hoặc băng từ loại lớn, còn gọi là băng Akai... Nghĩa là mọi hình thức phổ biến, phương tiện phổ biến đều được tận dụng. Người ta nghe nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn trong quán cà phê, người ta nghe trong những cuộc sinh hoạt tập thể của thanh niên, thậm chí người ta nghe trong khuê phòng và nghe ở cả những tiền đồn heo hút . . .
Dàn trải trên nền một điệu Blue buồn đau và uất nghẹn, với nhịp hát kể Recitativo, ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn vút lên:
Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương
Còn có ai không còn người, ôi nhân loại mặt trời
Và em tôi này đôi môi xin thương người
Ôi nhân loại mặt trời trong tôi... (Xin mặt trời ngủ yên - Ca khúc Trịnh Công Sơn)
Và,
... Giọt nước mắt thương con, con ngủ mẹ mừng
Giọt nước mắt thương sông ấp ủ rêu rong
Giọt nước mắt thương đất, đất càn cỗi bao năm
Giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong
(Giọt Nước mắt cho quê hương - Ca khúc Trịnh Công Sơn)
Rồi,
Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn năm qua tuổi mòn
Mẹ nhìn quê hương nghe con mình buồn giọt lệ ăn năn.
Giọt lệ ăn năn đưa con về trần tủi nhục chung thân...
(Ca dao Mẹ - Ca khúc Trịnh Công Sơn)
Hay từ một hiện thực vừa mới xảy ra trong thành phố.
Ghế đá công viên dời ra đường phố.
Người già co ro chiều thiu thiu ngủ.
Người già co ro buồn nghe tiếng nổ.
Eng bé loã lồ khóc tuổi thơ đi...
(Người già em bé - Ca khúc Trịnh Công Sơn)
Và với Phúc âm buồn, Tuổi đá buồn v.v... Tiếng hát Trịnh Công Sơn như một sợi dây vô hình đã nhanh chóng nối kết những tâm trạng riêng, những số phận riêng của người dân đô thị miền Nam vào trong một tâm trạng chung, một số phận chung. Tâm trạng và số phận này là gì? Đó là tâm trạng và số phận của những con người Việt nam đã từng bị lừa, họ là nạn nhân của bạo lực vô minh, mà niềm tin và hi vọng của họ đã trải qua bao lần bể dâu. Đối với họ, mọi khát vọng, mọi dự phóng đều là hư vô. Họ đang vẫy vùng trong một cảnh sống đầy máu xương, mất mát tang tóc của một cuộc chiến tranh phi lý mà lối thoát chưa một lần thấy loé sáng ở cuối con đường hầm cuộc đời tăm tối đó.
Tôi cho rằng, bằng một khả năng cảm nhận sắc bén bẩm sinh, anh đã dễ dàng biến những cảm nhận riêng của mình thành của chung. Bằng một phương cách biểu hiện rất khéo do ở chỗ sử dụng những ẩn dụ, những hình tượng rất mới, anh đã gây được những ấn tượng mạnh cho người nghe, và đặc biệt khi cần phải đối kháng với một thực tại mà anh không thể nào vãn hồi được, anh dựng một thần thoại. Nhờ thế mà tiếng nói của anh dễ dàng lọt vào lòng người, và dễ dàng được đồng cảm.
Người nằm co như loài thú khi mùa đông về
Người nằm yên không kêu than buốt xương da mình
Từng tiếng người nhiều tiếng người gọi hoài giữa đêm...
Người còn đó nhưng lời nói rơi về chân đồi
Người còn đó nhưng trong tim máu tuôn ra ngoài
Nhuộm đất này nhuộm cho hồng hạt mầm trót vay.
(Phúc âm buồn - Ca khúc Trịnh Công Sơn)
Bằng một định hướng, cũng như một phương pháp sáng tác như đã được trình bày ở trên, Trịnh Công Sơn đi vào giai đoạn Ca khúc da vàng. Ở đây, những cảm nhận về quê hương và thân phận đã trở nên mãnh liệt hơn, quặn thắt hơn và đôi khi dẫn đến sự phẫn nộ. Từ Ngày dài trên quê hương, Người con gái Việt Nam, Đại bác ru đêm cho đến Tôi sẽ đi thăm, Tình ca người mất trí, Hãy nói giùm tôi, Gia tài của mẹ... đã nói lên điều đó 
Ta hãy nghe:
Người nô lệ da vàng ngủ quên ngủ quên trong căn nhà nhỏ
đèn thắp thì mờ
ngủ quên quên đã bao năm
ngủ quên không thấy quê hương.
Bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc dân ta
Bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc tự do...
(Đi tìm quê hương - Ca khúc da vàng)
Hãy sống giùm tôi hãy nói giùm tôi hãy thở giùm tôi
Thịt da này dành cho thù hận
cho bạo cường cho tham vọng của một lũ điên...
(Hãy nói giùm tôi - Ca khúc da vàng)
Tiếng hát đã tạo nên những hiệu quả trong đời sống xã hội thật sự. Nó đã làm cho một số không ít thanh niên nhìn ra cái bản chất phi nhân và tàn bạo của cuộc chiến khiến họ đi đến hành động tiêu cực. Dưới con mắt của những người cầm quyền, TCS là một kẻ phá hoại tinh thần chiến đấu của anh em binh sĩ.
Ở miền Nam lúc bấy giờ cường độ của cuộc chiến càng lúc càng gia tăng. Người Mỹ ra sức củng cố chế độ cũ và đẩy mạnh cuộc chiến. Chiến tranh càng lan tràn khắp nơi một cách khốc liệt. Năm 1968, với cuộc chiến Mậu Thân, nhiều thành phố ở trên khắp miền Nam đã trở thành bãi chiến trường . "Con người trong tôi" - của Trịnh Công Sơn lại tiếp tục lên tiếng mỗi lúc một khẩn thiết hơn:
Xác người nằm trôi sông phơi trên ruộng đồng
Trên nóc nhà thành phố trên những đường quanh co
Xác người nằm bơ vơ dưới mái hiên chùa
Trên giáo đường thành phố trên thềm nhà hoang vu...
(Bài ca dành cho những xác người - Ca khúc da vàng 2)
Và trong cái cảnh tượng trần gian là một lò sát sinh đó, đã có những người mẹ, những người chị lâm vào trong một trạng thái tâm thần bệnh lý;
... Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh
Chị vỗ tay hoan hô hòa bình
Người vỗ tay cho thêm thù hận
Người vỗ tay xa dần ăn năn .
(Hát trên những xác người - Ca khúc da vàng 2)
Và sau đó nhiều năm, người dân ở trong các thành phố miền Nam tiếp tục chịu đựng những cuộc nổ mìn, những trận pháo kích. Ngày ngày không dứt tiếng súng tiếng bom. Và hằng đêm trong ánh hỏa châu vàng vọt ghê rợn, người dân thành phố nín thở, nơm nớp lo sợ những điều không may có thể xảy đến cho mình. Mỗi ngày, từ chiến tuyến, những chiếc quan tài phủ cờ được đưa về thành phố, trên đầu những trẻ mồ côi, những góa phụ, khăn tang cứ bay như phướn.
Từ 1968 cho đến những năm 1969, 1970, 1971, thỉnh thoảng người ta lại nghe phong phanh đâu đó về một giải pháp hòa bình cho Việt Nam. Rồi tất cả lại tắt ngấm. Người dân Việt khát khao hòa bình như kẻ đi trong sa mạc khát đến cháy bỏng cổ họng mà ốc đảo xanh tươi hiện ra trước mặt mình chỉ là những ảo ảnh Cuộc chiến khốc liệt cứ tiếp diễn. Phong trào đấu tranh hòa bình Việt Nam ở các đô thị lại bùng lên mãnh liệt. Đặc biệt là phong trào thanh niên sinh viên học sinh bây giờ lập trường của họ đã kiên định: hòa bình. Tôi kẻ viết bài này đã quyết định, đã chọn lựa đứng vào phong trào đó. Tôi đứng về phía dân tộc theo cách của tôi. Để có hòa bình thì dân tộc phải có quyền tự quyết, mà quyền tự quyết thì phải đấu tranh mà dành lấy chứ chẳng ai cho. Nhưng càng đấu tranh thì càng chồng chất đau thương. Những kẻ dễ quên thì dễ sống, còn tôi thì không thể quên điều này. Và phải nói một cách thành thật rằng chính những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn trong những năm đầu tiên đã đánh thức trong tôi tình tự dân tộc, sau đó thì tôi chọn một thế đứng quyết liệt hơn, âu cũng là do tính khí riêng của mình. Nhưng về sau tôi vẫn thường tiếp tục hát những ca khúc phản chiến của anh. Vì tôi thấy nó mang lại cho đầu óc mình sự "mát mẻ", khi mà mình không thể thường xuyên chịu đựng mãi một sự căng thẳng sắt máu. Và đôi khi nó cũng khiến cho mình mơ mộng về một nền hòa bình có thể thế này mà không phải thế kia... Đó là con đường tự do đến hòa bình mà không phải đổ máu. Tôi sợ máu!
Trịnh Công Sơn trong giai đoạn cực đoan này thì sao? Vẫn trung thành với con đường mà tự anh vạch ra từ trước, anh tiếp tục đi, đi theo tiếng gọi của dân tộc mà anh đã nghe thấy theo cách của mình. Có khi anh đi một cách mạnh dạn hơn, và anh kêu gọi, anh hô hào. Và tinh thần của anh, tuỳ mỗi hoàn cảnh khác nhau mà hi vọng, hào hứng hay tuyệt vọng... hoặc ngược lại. Kết quả là hai tập ca khúc kế tiếp nhau ra đời Kinh Việt Nam (1968), Ta phải thấy mặt trời (1970) (anh tự ấn hành dưới tên Nxb Nhân
Bản). Ở giai đoạn này anh cùng xuống đường với thanh niên, sinh viên, học sinh. Anh hát:
Nơi đây tôi chờ.
Nơi kia anh chờ.
Trong căn nhà nhỏ mẹ cũng ngồi chờ.
Anh lính ngồi chờ trên đồi hoang vu.
Người tù ngồi chờ bóng tối mịt mù...
... Chờ tin mừng sông chờ núi cũng chờ mong
Chờ trên vừng trán mẹ thắp lên bình minh
Chờ khô nước mắt chờ đá reo ca
Chờ áo cơm nuôi cho những trẻ con không nhà
Chờ ngày Việt Nam thống nhất cho những tình thương vỡ bờ.
(Chờ nhìn quê hương sáng chói - Kinh Việt Nam)
Hay:
Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nốí sơn hà...
(Nối vòng tay lớn - Kinh Việt Nam)
Hoặc:
Ta bước bước đi, bước bước hoài, trên quê hương dấu yêu này.
Còn bao nhiêu người nhìn nhau hôm nay.
Đôi mắt bóng tối trái tim nghi ngại còn ai quanh đây.
Chưa góp tiếng nói chưa nối lại nắm tay... (Chưa mòn giấc mơ - Ta phải thấy mặt trời)
Huế - Sài Gòn - Hà Nội quê hương ơi sao vẫn còn xa
Huế - Sài Gòn - Hà Nội bao nhiêu năm sao vẫn thờ ơ.
Việt Nam ơi còn bao lâu những con người ngồi nhớ thương nhau..." (Huế - Sài Gòn - Hà Nội - Ta phải thấy mặt trời)
Sang đến năm 1972, cục diện chiến tranh trên toàn miền Nam vô cùng ác liệt, một cuộc "Việt Nam hóa chiến tranh" dưới mắt người Mỹ. Bằng con đường phản chiến lấy trái tim nhân ái mà giải quyết mọi điều, trên cơ sở tình tự dân tộc, Trịnh Công Sơn thì đã mệt nhoài, và tuyệt vọng. Anh cho ra đời tập ca khúc Phụ khúc da vàng, mà anh đã cho rằng đáng lẽ không nên viết. Đây là tập ca khúc cuối cùng của dòng nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn.
Anh hát để kết thúc cho một nỗ lực vô vọng của chính mình:
“Đường anh em sao đi hoài không tới
Đường văn minh xương cao cùng với núi
Đường lương tâm mênh mông hoài bóng tối
Trái đau thương cho con mới ra đời..."
(Hãy nhìn lại - Phụ khúc da vàng)
Nếu hôm nay ta nhìn nhận và đánh giá những tình khúc của anh, chúng ta không thể nào bỏ qua được những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn. Vì chính những ca khúc này đã tạo cho anh có được một tầm cỡ như ngày nay, cho dù những tình khúc của anh vốn đã rất tài hoa.
Có người sẽ cho rằng không phải nói đến những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn nữa, vì chử thời đã qua rồi.
Nghĩa là không còn thời tính nữa. Cũng có người sẽ góp ý thêm rằng các ca khúc phản chiến của anh vốn lừng khừng, dễ dãi, nếu không muốn nói là ngây thơ, hoặc thiếu logicque lịch sử, chính trị hay là cái gì đó...
Tôi thì cho rằng, đến ngày nay, qua những trò dâu bể của cuộc thế, thời tính của những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn vẫn còn. Nó còn trong ý nghĩa của tiếng nói lương tâm và nhân ái. Qua tác phẩm của mình, chưa từng ai nói đến lương tâm và lòng nhân ái đậm đà như anh. Tiếng nói này còn phải luôn luôn được tôn trọng trước khi ta bắt tay vào một công việc, mà công việc đó sẽ có ảnh hưởng trên hàng vạn, hàng triệu sinh linh.
Con đường anh đã chọn và anh đã đi suốt cuộc đời mình là một con đường không dễ chọn. Nếu từ thời điểm hôm nay để nhìn lại thời bấy giờ thì rõ ràng là anh đã đi giữa hai lằn đạn. Mà bất kỳ khi nào một viên đạn từ một hướng nào đó có thể kết liễu cuộc đời anh. Anh có lý của riêng anh. Là một nghệ sĩ chân chính, anh đã chọn cái logicque của quả tim, và bằng trực giác nghệ thuật anh đã dựng nên sự nghiệp của mình. Đừng bắt anh phải làm chính trị, cũng đừng bắt anh làm một "con buôn thời thế”. Anh sẽ không dại gì đầu cơ, cũng như đầu tư tài năng và tâm huyết của mình cho một cuộc chơi ngắn hạn như vậy, mà kết cục thua lỗ là một điều tất nhiên. Anh chỉ biết sống và rung cảm bằng một quả tim trung thực, và dùng tài năng của mình để nói lên điều mà con tim muốn nói. Vì anh là Trịnh Công Sơn, một nghệ sĩ lớn, một nghệ sĩ của mọi người, và sống giữa mọi người. Chính sự ngưỡng mộ của mọi người đối với anh lúc anh còn sống, và đoàn người đông đảo tiễn đưa anh lúc anh qua đời đã nói lên rằng trong sứ mệnh nghệ thuật đối với dân tộc, anh đã thành công.
Trong những ca khúc phản chiến anh còn để lại, phản chiến chẳng qua là một cách gọi, đừng chấp, vẫn còn nhiều ca khúc có thể hát đơn hay đồng ca vào thời bấy giờ.
Hãy tiếp tục hát lên những khúc hát về lương tâm và lòng nhân ái của anh. Vì hơn bao giờ hết, hôm nay chúng ta vẫn đang cần đến lương tâm, lòng nhân ái cho những việc lớn lẫn việc nhỏ. Và chúng ta đừng bao giờ nhìn về bi kịch con người bằng một cái nhìn đơn giản.
NÓI VỀ TRỊNH CÔNG SƠN Trịnh Cung
Trịnh Công Sơn - tôi gặp anh vào năm 1958; lúc đó Trịnh Công Sơn 19 tuổi và tôi 20 tuổi ở tại Huế. Chúng tôi chơi với nhau vì tâm hồn thi ca, và bởi vì lúc đó tôi chưa hề là họa sĩ. Sơn thích thơ của tôi và đã phổ bài Cuối cùng cho một tình yêu năm đó. Trước đó Trịnh Công Sơn đã viết ướt mi, Thương một người và Nhìn những mùa thu đi. Ngôn ngữ của ướt mi, Thương một người và Nhìn những mùa thu đi còn nhẹ nhàng, và còn có gì đó ảnh hưởng của những Đặng Thế Phong trong Giọt mưa thu hoặc là Buồn tàn thu của Văn Cao - nhưng mà khi đến bài thơ của tôi, Trịnh Công Sơn bắt đầu một chương khác, bởi vì lời lẽ của bài thơ đó - lúc đó rất là mới. Tôi đã dùng những chữ "đói” - những chữ “mỏi" vào trong thi ca, mà lúc đó sự ảnh hưởng của thi ca tiền chiến rất dữ dội, thì Sơn lại thích bài thơ đó. Và Diễm xưa sau đó đã đánh dấu một bước ngoặt trong ngôn ngữ nhạc Trịnh Công Sơn.
Tôi cho bài Diễm xưa là mở đầu của một Trịnh Công Sơn hoàn toàn mới lạ và cực kỳ hấp dẫn trong nền nhạc trẻ, hồi đó - mà anh Văn Cao lúc đó là một bậc đàn anh rất lớn. Cuộc đời của Sơn rất là bi kịch, bởi vì thiên tài âm nhạc này được hình thành một cách lạ lùng; bởi vì nếu không có một biến cố gia đình - ba của Sơn mất trong lúc Sơn đang học ở Chasseloup Laubat - một trường dạy chương trình Pháp - và Sơn đang chuẩn bị thi thì phải bỏ học để về chịu tang ba. Rồi sau đó trong một thời gian tập võ - Sơn rất giỏi thể thao, Sơn chạy, tập 10 môn phối hợp rất được chú ý ở trung học. Sơn giỏi về Nhu đạo và Boxing. Trong một buổi dợt với người em là Trịnh Quang Hà. Sơn đã bị một cú choàng vai, và bị tổn thương phổi rất nặng, cho nên Sơn phải bỏ cuộc, và nằm bệnh hai năm. Nếu mà Sơn không bị những sự kiện đó, tôi nghĩ là Sơn sẽ đi học ở Paris và sẽ trở thành một doctor, một kỹ sư... chớ không phải là một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Vậy thì, trong tình bạn và trong sự nghiên cứu của tôi, tôi cho sự kiện biến cố đó đã đặt Trịnh Công Sơn vào trong sự thay đổi con-xen-tuya của mình trong cô đơn, tuyệt vọng. Và trong sự mất mát lớn lao đó, nỗi đau khổ đã trở thành nhân tố của một con người văn nghệ - và Sơn tự tập đàn guitare, tự học guiture với một người bạn, rồi sau đó sáng tác và viết ca khúc ướt mi, nhìn những mùa thu đi.
Khi tôi gặp Sơn, thì Sơn đã bình phục và đã vui chơi trở lại. - Sơn không có diều kiện trở lại Sài Gòn để học tiếp ở Chasseloup Laubat vì gia đình Sơn bị bankruptcy (phá sản), không còn phương tiện để Sơn được học hành như một công tử - bởi vì Sơn lúc đó là con nhà giàu, rất công tử. Và đó cũng !à một lý do để Sơn đến với văn nghệ. Sau đó - để tránh cho Sơn đỡ phải đi quân dịch, cho nên một số bạn như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha đã giúp Sơn thi đậu vào trường Sư phạm Quy Nhơn. Sơn học ở đó để ra làm trưởng giáo của một trường Thượng ở trên Lâm Đồng.
Thế thì bản Biển nhớ ra đời tại trường Sư phạm Quy Nhơn. Và nhân vật để Sơn viết bài Biển nhớ, đó là một người bạn gái có tên là Khê, nên có câu là “Trời cao níu bước Sơn Khê". Đó là tình sử của bài Biển nhớ. Sau đó thì Sơn lên B’Lao nhận chức trưởng giáo của một trường Thượng có hai lớp, cách nhà trọ khoảng năm bảy cây số. Sơn phải đạp xe vào làng Thượng để dạy những em bé người Thượng. Tôi lên thăm Sơn, và đưa Sơn ra Đà Lạt để chơi cuối tuần. Phòng trọ với bốn bức vách đầy chim và bao thuốc lá Basto - ở đó Sơn đã khởi sự một sự nghiệp âm nhạc của anh với những bài như Du mục, như Xin mặt trời ngủ yên, như Dấu chân địa đàng. Và mở đầu cũng là nơi để anh viết những ca khúc về thân phận, ca khúc thân phận và tình khúc luôn luôn song hành trong anh. Thời điểm đó chính là thời điểm tôi và Sơn gặp Khánh Ly tại một phòng trà ca nhạc nhỏ ở Đà Lạt. Người hát nhạc Trịnh Công Sơn đầu tiên và làm cho công chúng yêu nhạc Sài Gòn biết đến Sơn không phải là Khánh Ly mà là Thanh Thúy - Thanh Thúy đã đưa bài ướt mi vào trái tim của mọi người và sau đó Trịnh Công Sơn viết bài Thương một người để tặng cho Thanh Thúy "Thương ai về ngỏ tối, sương rơi ướt đôi vai...”. Thanh Thúy ở trong một cái hẻm ở trên đường Cao Thắng - Sơn về thấy Thanh Thúy đi về trong cái hẻm đó, cho nên "Thương ai về ngõ tối, sương rơi ướt đôi vai. .."
Đó là Trịnh Công Sơn, hát nhạc Sơn mở đầu sự nghiệp nổi tiếng của Sơn chính là Thanh Thúy - nhưng người mà giữ lái con đò âm nhạc của Trịnh Công Sơn trên dòng sông của đất nước chính là Khánh Ly kể từ khi Diễm xưa ra đời. Cuộc gặp gỡ một cô ca sĩ bé nhỏ trông rất là nhếch nhác ở Đà Lạt lại là một định mệnh - Sơn đi tìm một ca sĩ trẻ hoàn toàn vô danh và Sơn bắt đầu từ giọng hát của người ấy và sự tập luyện cho cô ta bởi vì lúc đó, những ca sĩ nổi tiếng của Sài Gòn Sơn chưa hề biết tới, Sơn không quen, Sơn còn xa lạ, và Sơn nghĩ con đường của mình khiêm tốn hơn, và có lẽ dễ hơn là đi tìm một ca sĩ vô danh như Khánh Ly. Ánh sáng của định mệnh đã chỉ cho Sơn đến với Khánh Ly - và từ đó Khánh Ly đã tìm được nơi nương tựa và nơi phát triển tiếng hát của mình lên đỉnh cao.
Thế thì, khi Sơn làm nhạc, chúng tôi thấy hay quá, và chúng tôi khuyến khích Sơn về Sài Gòn, bỏ dạy học - một cái nghề không thích hợp và rất không xứng với Sơn. Tôi có căn phòng rất bé ở đường Trương Minh Giảng, là chỗ Sơn từ Đà Lạt về để ở lại với tôi nhiều năm trong cái căn phòng đó, ở gần chợ Trương Minh Giảng, và bên kia đường là nhà của Bùi Giáng - cũng trong một cái xóm nghèo. Nhà tôi là nơi tạm trú đầu tiên của Trịnh Công Sơn khi về Sài Gòn và Đinh Cường - họa sĩ Đinh Cường cũng là một trong những người bạn rất thân với Sơn - cũng thường ghé đến đó. Đôi khi ba chúng tôi ngủ chung trong một chiếc chiếu, và đã sống với nhau bằng đồng tiền dạy học của tôi.
Từ đó Sơn gặp anh em văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, gặp anh Phạm Duy, gặp Nguyễn Đình Toàn, gặp Thanh Tâm Tuyền, gặp tất cả những con người văn nghệ Sài Gòn sau sự chọn lựa đó...và Sơn xuất hiện tại sân của trường Đại học Văn khoa ở đường Lê Thánh Tôn, nơi có trụ sở của Hội Họa sĩ trẻ và bên sau lưng đó là trụ sở của CPS nơi mà Đỗ Ngọc Yến, Trần Đại Ngọc, Hoàng Tường Cát đã hoạt động chương trình mùa hè ở đó.
Sơn đã đưa Khánh Ly xuất hiện ở sân cỏ, sân đất, và lẽ dĩ nhiên ở đó không thể dành cho những bộ trang phục lộng lẫy, những đôi giày cao gót và Khánh Ly đã đi chân trần và hát cho sinh viên nghe. Họ đã sớm trở thành thần tượng của tuổi trẻ Sài Gòn vì cái tính chất mới mẻ và như đại diện của tâm hồn trẻ thanh niên Sài Gòn lúc đó, và đã trở thành một movement, một hiện tượng âm nhạc ngay lúc đó.
Sau đó có sự hỗ trợ của một phong trào du ca, như anh Nguyễn Đức Quang, Nguyễn Nghĩa... đã ra đời cùng thời điểm đó. Tôi cho thời điểm đó là một thời điểm lịch sử - thật sự bùng nổ về văn nghệ của giới trẻ trong đó có chúng tôi - Hội họa sĩ trẻ.
Thời đại đó, sản sinh ra những hiện tượng như vậy và Trịnh Công Sơn đã là nhân vật nổi bật nhất trong giới trẻ thời đó cũng như Khánh Ly. Họ chóng đạt được những thành công rực rỡ và trở thành thần tượng của cả giới trẻ.
Trịnh Công Sơn nối tiếp cao trào đó đã dấn thân thêm nhiều bước trong lãnh vực âm nhạc của mình để gần gũi với xã hội, để gần gũi với thời cuộc hơn, để chia sẻ với đất nước hơn - những ca thúc da vàng ra đời, rồi đến Kinh Việt Nam (...).
Người ta gọi nhạc Trịnh Công Sơn ở một số ca khúc là nhạc “phản chiến". Tôi cho là chữ “thân phận" của người Việt thì khái quát hơn.
Một thanh niên Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào, thì vẫn đầy sự hồn nhiên, và vẫn đầy lòng lương thiện để có một lý tưởng cho dân tộc, cho sự công bằng, cho sự không đổ máu, cho sự đoàn kết, cho sự thương yêu... và cái chất đó có hầu hết ở chúng ta, và có hầu hết ở các lứa tuổi đang bước vào Đại học... nhưng tuổi trẻ không bao giờ lường trước được những âm mưu - cho nên cái sự hồn nhiên đó phải trả giá.
Trịnh Công Sơn viết những bài Nối vòng tay lớn, Huế - Sài Gòn - Hà Nội 20 năm xa vẫn còn xa... Để làm gì? Để ước mơ đất nước hòa bình thống nhất, để ước mơ anh em bắt tay nhau khi mà người di cư đã viết về “Hà Nội ơi ta nhớ...", thì rõ ràng không ai lại không nhớ Hà Nội nếu bỏ quê hương ra đi, không ai không muốn gặp lại người thân...thì Trịnh Công Sơn đã đứng làm kẻ chịu vác cái thánh giá đó với bao nhiêu bi kịch sau đó (...).
Đến ngày 30 tháng Tư thì Sơn ở lại. Tôi nhớ buổi chiều đó, Đỗ Ngọc Yến đến đón Sơn với một nhà báo Mỹ, đề nghị Sơn đã có máy bay đưa gia đình Sơn đi Hoa Kỳ, nhưng Sơn không đồng ý. Tôi rất muốn đi Hoa Kỳ nhưng mà Đỗ Ngọc Yến lại không hỏi tôi.
Sau đó Sơn về Huế để tìm một nơi nương tựa bởi vì ở đó Sơn có nhiều anh em, Sơn hy vọng là họ sẽ giúp đỡ cho Sơn (...).
Ở Huế, Sơn đi thực tế, tức là đi để biết người nông dân cày bừa cực khổ như thế nào. Sơn đi trên những cánh đồng còn rải rác những chông mìn. Sơn đã thoát chết trong một lần, một con trâu đã cứu Sơn khi nó đạp quả mìn mà đáng lẽ Sơn sẽ đạp.
Bởi vì tài năng âm nhạc của Sơn quá lớn, cho nên trong số những người lãnh đạo, có người, biết cách thức để giữ Sơn lại bằng cách bao bọc cho Sơn khỏi những tình huống hiểm nghèo. Họ đã tìm cách đưa Sơn về Sài Gòn, trả lại hộ khẩu cho Sơn, tạo điều kiện để cho Sơn yên tâm sống ở Sài Gòn. Và Sơn đã nghe được những luận điệu chống mình ở tại hải ngoại, nên Sơn rất sợ mặc dù có nhiều lời mời ở các đại học, Sơn đều không dám đi. Sơn từ chối, vì Sơn sợ cộng đồng ở đây sẽ gây ra nhưng nguy hiểm cho Sơn. Nên không dám đi, cho đến ngày Sơn mất. Có người đã về đề nghị đưa Sơn sang đây để thay gan cho Sơn miễn phí nhưng Sơn cũng từ chối.
Trong thời gian 25 năm sau giải phóng, tôi tiếp tục chơi với Sơn, không làm gì được để giữ Sơn lại với cuộc đời này.
... Những ngày tháng cuối cùng của anh, tôi đã ở bên anh, tôi ngồi với anh dưới bóng cây để uống tách trà, để nhìn nhau cho đỡ nhớ, để nói với nhau một vài thông tin về bạn bè - rồi đi về. Sơn ngồi ở cái vườn trên gác nhà Sơn, có một cây hoa sứ già 28 năm, một giàn hoa giấy... nó đã trở thành một cánh rừng nhỏ của Sơn và tôi đã nhìn Sơn tàn phai theo nắng chiều qua những tia nắng hoặc cuối mùa, cuối ngày qua những chiếc lá của cánh rừng bông giấy. Và thỉnh thoảng có vài tiếng chim hót như chia sẻ cái nỗi cô đơn của Sơn. Buổi chiều, tôi và Sơn đi ra ngoài một cái nhà hàng mà các bạn chắc còn nhớ, đó là Givral để nhìn qua bên kia khách sạn Continental, để nhìn cuộc đời đi qua, để nhìn vài cánh én... rồi đi về.
Sơn thèm đi ra phố, Sơn thèm hơi của thành phố. Bởi vì chúng tôi là những con người đã gắn bó với Sài Gòn từ lúc trẻ đến nay. Vì vậy cho nên... "Chiều một mình qua phố...”, hay "Chiều chủ nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu...". Đó là đời sống của chúng tôi xưa, và nó theo chúng tôi mãi mãi. Và Trịnh Công Sơn - hôm nay tôi được dịp để nói về anh, để nói về cái sự tuyệt vời chịu đựng một bi kịch kéo dài cho tới ngày mà căn bịnh quái ác đã đục khoét tinh thần sức khỏe của anh cho đến hơi thở cuối cùng.
Trích bài nói chuyện của họa sĩ Trịnh Cung, bạn của Trịnh Công Sơn tại Mỹ. (BT).
TRỊNH CÔNG SƠN: ĐÔI NÉT CHẤM PHÁ Trúc Chi
Tình yêu như trái phá... con tim mù lòa... Lúc gặp câu hát ấy lần đầu tiên khi lật một tập nhạc Trịnh Công Sơn trong một tiệm sách ở Huế vào những ngày khá bận rộn với tin tức chiến sự trong nước, tôi đã để mắt tôi dừng lại khá lâu trên trang giấy in bài nhạc có lời ca do chính tay anh viết và tôi cũng đã suy nghĩ khá lâu về hình ảnh mới mẻ này trong ngôn ngữ của tình yêu. Một hình ảnh rõ rệt, mạnh bạo, cho thấy tác giả có óc tưởng tượng phong phú.
Trước khi trái phá được Sơn khai sinh, người Việt chúng ta cũng đã quen thuộc với một từ ngữ khác, cũng chát chúa không kém, tả được cái sững sờ, cái tình trạng ngơ ngẩn, ngẩn ngơ mà ai cũng đã sống qua sau một lần yêu thành thật và do đó đắm đuối, si mê. Và đó là tiếng sét tình yêu (le coup de foudre) trong lối nói của người Pháp.
Tiếng sét này, cả nhân loại nghe được, cảm nhận được. Tiếng nổ này, lọt vào kinh nghiệm sống của một người đã thấm được, mà thấm sâu sắc, cảnh chết chóc, tang tóc do chiến tranh gây ra, nó thành ra tiếng đinh tai của trái phá. Thời bình người ta xửng vửng vì tiếng sét tình yêu. Sống với khói lửa mịt mù, bom đạn chập chờn ngày đêm, âm thanh của trái phá mới lọt một cách hết sức tự nhiên vào suy tư, vào ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn. Thật ra, có tưởng tượng nào mà không thoát thai, phát tích từ kinh nghiệm sống.
Lời trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn nhan nhản những hình ảnh chiến tranh, đầy rẫy những khổ hận của chiến thời như vậy. Lọt vào những bộ óc bị chính trị điều kiện hóa, chúng có thể được đem ra làm lợi khí cho một luận điệu tuyên truyền nào đó, tuỳ theo chỗ đứng - tôi cố ý tránh từ ngữ "lập trường" - của người phát biểu. Nhưng nếu chỉ có những thảm cảnh chiến tranh, nếu chỉ có ngần ấy thì toàn bộ tác phẩm của anh - non 600 bài chứ không ít - đã và sẽ không để lại cái lay động thấm thía mà chúng ta vẫn cảm nhận mỗi khi ngẫm nghĩ về ý nghĩa của một câu hát, một bài ca.
Chúng ta còn có một người nghệ sĩ. Một nghệ sĩ rất giàu tình cảm và nhạy cảm. Một nghệ sĩ bị ám ảnh bởi những thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời. Những thắc mắc, những ray rứt bắt nguồn từ một nhận thức rất rõ ràng về tính cách phi lý của bạo động, của chiến tranh, dù là trong tất cả mấy trăm ca khúc đó, theo chỗ tôi biết, không có câu nào anh nói trắng ra như vậy.
Anh không ngả hẳn về một vũ trụ quan của một tôn giáo hay tín ngưỡng nào. Lý do giản dị là nếu anh hoàn toàn tin tưởng vào một tôn giáo nào thì hẳn anh đã ngưng thắc mắc. Điều tôi tạm gọi là cái “loay hoay siêu hình" của anh nó lướt qua nhiều niềm tin được nhắc đến qua thuật ngữ của Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Lão Trang mà Sơn đã sử dụng trong ngôn từ của anh.
Cát bụi mệt nhoài chăng? Thượng đế của Thiên Chúa chẳng đã tạo ra con người từ một nắm đất là gì? Cái phù du của đời người nó nhắc nhở rằng một ngày nào đó ai cũng trở về với cát bụi. Dấu chân địa đàng chăng? Đặt câu hỏi đó là nghĩ ngay đến Thiên đàng của chúa Ki-tô. Ta thấy em trong tiền kiếp, có nghĩa là thấy người yêu trong luân hồi vô tận. Tìm trong vô thường có đôi dòng kinh... Thì đó, tiền kiếp và vô thường lại là những đóa hoa đượm hương giải thoát luôn hé nụ trong vườn Tứ Diệu Đế của Đức Thích Ca. Không có cái chết đầu tiên... mà cũng không có cái chết sau cùng hình như nhuốm chút vô thủy vô chung của vũ trụ Trang Tử. Một cõi đi về... loáng thoáng hình bóng của sinh ký tử qui, của sống gửi thác về trong tín ngưỡng cổ truyền. Nhưng mà về đâu? Chính vì anh vui chơi giữa đời, biết đâu nguồn cội, chính vì ý thức được cái bé bỏng của con người giữa vũ trụ, tức là thời gian và không gian trong triết học Trung Quốc, rồi không biết về đâu cho nên anh cô đơn vô cùng. Vì cô đơn nên anh khát yêu và khát được yêu. Vì khao khát tình yêu nên trái tim của anh, khối tình của anh, anh trải rộng ra "cả và thiên hạ", nói như Hàn Mặc Tử. Anh yêu từng ánh mắt không kịp bắt, từng tà áo vụt thoáng qua, từng tia nắng, từng giọt mưa, từng viên sỏi, từng chiếc lá. Tôi nghĩ điều anh yêu nhất chính là cái mong manh của từng phút giây hoan lạc trong cuộc sống. Anh khuyên tất cả mọi người hãy yêu, hãy yêu nhau bởi vì sẽ có lúc mà đời đốt nến chia phôi dù nhớ thương cũng hoài. Vì anh thường bận lòng với cái phù du của một nụ cười, cái chớp mắt của một sợi nắng, cái vụt thoáng của một giọt mưa, cái hối hả của ngày tháng, nên ca khúc của anh thường là buồn.
Nhưng cái buồn trong con người Trịnh Công Sơn không chỉ dừng lại ở những nhớ thương tiếc nuối không có đối tượng như cái buồn vơ vẩn, cái nhớ vẩn vơ thường thấy trong cảm xúc của những tâm hồn lãng mạn trữ tình, nó đi xa hơn chút nữa, nó đi sâu hơn chút nữa, nó mở đường cho những chuyến lên đường đi vào thế giới sầu của những quả tim, những khối óc đã ý thức được điều mà chúng ta thường nhắc đến như là "thân phận con người".
Từ ngữ “thân phận con người" thường vẫn hàm một cái ý cam chịu, có phần tiêu cực trước sự sắp xếp của định mệnh, của số kiếp. Cái sầu về thân phận con người trong thi ca Trịnh Công Sơn, có thì có đấy thật, nhưng chính cái sầu đó lại là động cơ thúc giục anh nên yêu chính mình, yêu người yêu đời, yêu tình yêu, nó không bợn một mảy may yếm thế.
Cái tích cực của Trịnh Công Sơn không vùng lên mà phản kháng điều không thể tránh được. Kiếp người đã ngắn ngủi, thêm đó là cảnh con người giết con người. Vạn vật là vô thường, thêm vào đó là sức tàn phá của chiến tranh. Trịnh Công Sơn nhập cuộc - cuộc đây là cuộc đời, cuộc sống - giữa cái màn ấy của một tấn bi kịch, nếu không hẳn là thảm kịch. Đừng bắt anh yêu đời với cái vô tư của tuổi thơ mà hãy nhìn anh yêu đời với cái bó tay của một người đứng trước điều tôi tạm gọi là cái "như-vậy-rồi- đó” của nhân sinh, cái yêu đời thoáng đôi chút ngậm ngùi, ngậm ngùi mà không chua chát, của một cái đầu đang cúi xuống trước khổ lụy của tâm giới, nhưng trí tuệ lại ngẩng lên mà hướng về viễn tượng của cái thoáng, cái thoát, cái độ lượng, cái đạt.
Trước mặt tôi, bây giờ, treo trên tường là bài ở trọ do chính tay Sơn chép tặng vợ chồng tôi. Bài lục bát ấy có hai câu:
Nhân gian về trọ nhiều nơi
Riêng đây là chôn chưa nguôi máu đào,
Trong những ấn bản về sau này của bài đó, tôi thấy vắng bóng hai câu trên. Tôi không nghĩ rằng chính Sơn đã tự ý bỏ điều nhận xét khách quan ấy vì lúc ấy chiến cuộc chưa chấm dứt. Dễ gì mà một người mẹ lại rứt được một đứa con của mình.
Nhưng mà có vắng hai câu thơ kia thì toàn bộ thi ca của anh cũng vẫn không vì thế mà giảm giá. Con người nghệ sĩ lang thang dưới vòm trời này, dưới vùng trời Việt Nam ấy, con người nghệ sĩ này nặng nghìn cân vì cái suy tư của mình mà cũng nhẹ tênh trong tâm trạng của một tên hát rong, con người ấy đã xâu một viên ngọc lưu ly vào chuỗi trân châu kia của thơ và nhạc Việt. Tôi nghĩ cái lóng lánh của viên ngọc ấy còn mãi sưởi ấm niềm cô đơn và xoa dịu nỗi khắc khoải của bất cứ ai biết ngắm nó với một cái nhìn phóng thẳng từ trái tim mình.
NGÀY SAU SỎI ĐÁ Nguyễn Duy
Tphố HCM
Ngày 10/4/1987
Tạp chuẩn nhạc, số 3, 4, năm 1994
... Một đêm tình cờ.... Mặt trận Đường Chín - Nam Lào (1971)... Trong căn hầm kèo bên dòng sông Sêbănghiêng... tôi - phóng viên chiến trường, đang bám theo tiểu đoàn thông tin của sư đoàn 308 do anh hùng quân đội Chu Văn Mùi làm tiểu đoàn trưởng... Nghe, nghe trộm - vâng, lúc đó gọi là nghe trộm - đài Sài Gòn, tình cờ “gặp" Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly... Diễm xưa.... "Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ - làm sao em biết bia đá không đau... Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau...". Quỷ thật! Giai điệu ấy và lời ca ấy tự nhiên "ghim” lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy... Rồi Như cánh vạc bay... Quái thật?... cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà, đắm đuối ấy không thuộc chủng loại èo uột, rên rỉ, nỉ non mà thời ấy người ta vẫn quen gọi chung là "nhạc vàng". Ừ, thì có buồn đấy, đau đấy, quặn thắt nữa đấy... nhưng còn cái gì lành mạnh nảy nở trong đó. Hình như là cái đẹp. Cái đẹp trong câu nhạc. Cái đẹp trong ca từ, cả xác chữ lẫn hồn thơ. Bảng lảng, lờ mờ, khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng rõ ràng là đẹp, đẹp làm sao... và cũng hơi ma quái thế nào. Tôi lớn lên ở vùng đồng bằng sông Mã, vẫn thường nghe tiếng vạc kêu sương. Nào có thấy con vạc đâu, mà tiếng vạc thì rất nhớ. Con vạc xa, thật xa, mà tiếng vạc rơi trong thăm thẳm đêm xưa tịch mịch thì lại gần, thật gần. Sự thật cuộc đời, ít ra đối với tôi cho tới lúc đó - năm tôi hai mươi tuổi, - là như vậy. Mấy ca khúc của Trịnh Công Sơn như cánh vạc bay qua tôi rồi, và để lại cái ám ảnh thẩm mỹ. Ừ, biết đâu ... ngày sau Sỏi đá...
... Rồi một ngày tình cờ... Mặt trận Quảng Trị (mùa hè 1972)... tôi - phóng viên chiến trường, lại bám tiểu đoàn thông tin của sư đoàn 308... theo một tiểu đội trinh sát vào thị trấn Đông Hà đã bỏ trống... Ngọc Hà Tịnh Xá - tôi chưa rõ là đền hay chùa, mái tôn, vách gỗ, lỏng chỏng hương nhang và la liệt sách tung dưới nền xi măng. Kinh Phật... lấy thử vài cuốn coi Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị... nhặt. Nghệ thuật hiện đại của Giô dep E-mi-lơ Muy lê... được. Thơ của Bùi Giáng, của Nguyên Sa... được, thử coi... Và, Ca khúc da vàng của Trịnh Công Sơn... nhặt liền. Tôi làm một ba lô sách, các thứ mà lúc đó gọi là "văn hóa phản động", lặc lè mang ra hậu cứ trước những cái nhìn nửa ngơ ngác, nửa lo ngại của đồng đội. Với tư cách bí thư chi bộ một mũi nhọn độc lập, tôi làm bộ quan trọng ra mặt, nằm bẹp trong hầm "nghiên cứu mấy thứ vừa nhặt được ấy, coi lướt qua và loại bỏ dần. Thật tiếc cuốn Việt Nam tân tự điển, có chú Hán ngữ và Pháp ngữ, nhưng nó nặng quá, đành phải bỏ lại. Tôi dấu trong ba lô suốt các ngả đường chiến dịch, và sau đó mang về Hà Nội được hai cuốn thôi, Nghệ thuật hiện đại và tập nhạc Ca khúc da vàng, kể như thế đã là to gan lớn mật lắm rồi, dám đọc và lưu trữ sách của địch! Tôi hoàn toàn mù nhạc, nghe thì cảm được đại khái là thích hay không thích, hay hoặc không hay, thế thôi... xướng âm thì mít đặc, đọc Ca khúc da vàng như đọc thơ. Ca từ của Trịnh
Công Sơn quả là thơ thật, và hay thật, chữ nghĩa lờ mờ, bảng lảng hồn vía và thi tứ. Một thi sĩ tài ba. Nếu anh ta là người lính đối mặt với tôi, phải bắn nhau, thì cũng phải bắn nhau thôi. Ước gì anh ta mãi mãi làm thi sĩ... Ừ biết đâu... ngày sau sỏi đá...
Rồi một buổi chiều tối tình cờ... năm 1975... nhà thơ Phạm Tiến Duật đưa tôi tới thăm Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên (nhà 26 Lê Lợi, Huế) và gặp Trịnh Công Sơn ở đó. Gương mặt anh phảng phất nét đạo sĩ, ẩn hiện chút... chút gì như là lực hấp dẫn tâm linh. Hèn chi, tác phẩm đầy ám ảnh. Buổi gặp bất ngờ mà thật đông vui. TÔ Nhuận Vỹ - nhà văn, Bửu Chỉ - họa sĩ, Lê Khắc Cầm - giảng sư môn văn của trường Đại học Huế, cặp nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường và Lâm Thị Mỹ Dạ... Thế là, rất tự nhiên, cuộc hội ngộ không hẹn trước bỗng chuyển thành đêm thơ nhạc "Bắc Nam sum họp" mọi người có mặt đều vừa là diễn viên, vừa là khán giả. Người đọc thơ, người đàn hát, mấy anh nhà văn, nhà vẽ thì vểnh tai nghe, và hát theo Trịnh Công Sơn, những tình khúc, những bài hát tranh đấu "Từ Bắc Vô Nam nối liền nắm tay, ta đi... vòng tay lớn mãi....".
Mãi tới hôm đó tôi mới được biết, Trịnh Công Sơn còn có những bài hát yêu nước nổi tiếng, phổ biến trong phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên miền Nam những năm tháng kháng chiến chống Mỹ. Ngay cả trong những bài hát mang tính thời sự ấy, vẫn thấy có xu hướng vươn tới cái đẹp muôn thuở, cái xu hướng mà có người chê là duy mỹ.
Những tháng cuối năm 1975, Trịnh Công Sơn vẫn ở Huế còn tôi thì trở thành khách thường xuyên của gia đình anh ở thành phố Hồ Chí Minh. Tôi làm việc tại cơ quan tiền phương Bộ tư lệnh thông tin liên lạc, trong sân bay Tân Sơn Nhất. Ngày chủ nhật và những buổi tối rảnh rỗi tôi lại ra nhà Trịnh Công Sơn chơi và thường ngủ lại đó cùng với Hoàng Ngọc Tuấn (một nhà văn có tiếng, cùng tuổi với tôi đã ở trong nhà Trịnh Công Sơn nhiều năm, như người nhà). Ở đó, tôi đã được trò chuyện nhiều với má của Sơn, một bà má theo đạo Phật, giàu lòng thương người và tâm tưởng hướng tới cái thiện. Ở đó, tôi đã kết thân với những người em của Sơn, Tịnh và Tâm như hai cái vai của gia đình, gánh vác cơ sự cơm áo, chăm lo hết mình cho sự nghiệp của anh, Thúy và Trinh giống như những người “nuôi" nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong nhà. Ở đó, tôi được cô út Trinh hát cho nghe gần như toàn bộ ca khúc Trịnh Công Sơn, nhiều bài chưa phát hành. Tình khúc lả lơi thay, vậy mà không hề vương nhục dục. Cũng lắm bài hát mang hơi hướng thiền luận, vậy mà không u uẩn. Phần lớn ca khúc của Sơn không nhập thế mà cũng không đoạn đời, cứ chập chờn bay lên đáp xuống, nhằm tới cái cao đẹp nửa thực nửa hư treo lơ lửng giữa thiên đường và trần gian. ở đó, tôi mới hiểu rõ, âm nhạc Trịnh Công Sơn là từ trong nhà đó đi ra, hoàn cảnh xuất thân rất cụ thể để dấu ấn khá đậm trong phong cách tác giả. Ở đó - tôi, một nhà thơ "Việt cộng", xa lạ, người ngợm hom hem, quần áo luộm thuộm lếch thếch... đã được mọi người trong gia đình – dù Sơn không ở nhà và không có một lời giới thiệu nào trước cả - đối xử rất ân cần với tình thân tự nhiên như người trong họ mạc. Chính ở đó, tôi đã làm được bài thơ đầu tiên của mình về miền Nam - bài Tìm thân nhân. Và tiếp theo là bài Bầu trời mặt đất bàn tay... để tặng má của Sơn, bày tỏ cảm nghĩ về mối quan hệ tâm linh tất yếu giữa mẹ - con người nghệ sĩ. Rất tiếc bài thơ này đã bị mất cắp cùng với cái túi xách treo ở tay lái xe đạp, tôi không thể nào nhớ lại được nữa, chỉ nhớ cái tên bài và một câu điệp “biết đâu ngày sau sỏi đá...”
Không còn là tình cờ nữa, lần thứ hai tôi gặp Trịnh Công Sơn, tháng tư năm 1976, gần dịp bầu cử Quốc hội, tôi từ Hà Nội vào nhận công tác tại tuần báo Văn nghệ Giải phóng, tới Huế thì dừng lại để chơi với anh em quen biết ở đó. Một đêm trăng sáng đẹp tuyệt vời, sông Hương được ánh trăng mạ cho lung linh hẳn lên. Chúng tôi tụ tập ngồi ngắm trăng mạ cho suông và rồi lại thơ - nhạc... trên mảnh sân nho nhỏ nhà Nguyễn Khoa Điềm, ở thôn Vĩ Dạ...
Đó là những bước đầu tiên của nhạc Trịnh Công Sơn nhập vào cuộc đời mới sau 30-4-1975. Vẫn là nhịp điệu quen thuộc của Sơn, không lẫn được, những ca từ lại thật quá, tới mức thật thà quá, thành ra bài hát bị nhạt. Nhạc và lời của Trịnh Công Sơn như xác với hồn, không có cái này thì cũng không có cái kia. Về sau tôi mới hiểu rõ, đó chính là lý do giải thích tại sao Sơn không thể phổ thơ của người khác được. Trở lại bài gánh gánh... đó, Sơn cứ say mê hát đi hát mãi mà tôi không làm sao nhớ nổi những giai điệu tiếp sau... cả tên bài hát cũng không nhớ luôn. Đó là dạo anh đang trăn trở, muốn "đẻ" ngay một lứa các ca khúc mới, nhưng "đẻ non" như vậy thì bài hát cũng không sống được. Hơn thế nữa, anh đang ở trong tình trạng khó khăn về tâm lý. Nhiều người ở Huế có ác cảm với chế độ mới, tỏ ý chê trách anh sao mà “nhập cuộc" dễ dàng thế, với ác ý lộ liễu. Cán bộ ở địa phương, phường, khóm, thì lại coi anh là một "phần tử của xã hội cũ cần phải "cảnh giác" và giám sát chặt chẽ. Nhà anh ở thường xuyên bị theo dõi và kiểm tra hộ khẩu ban đêm. Có lần, cả Hoàng Phủ Ngọc Tường lẫn Tô Nhuận Vĩ phải cãi vã với công an phường, vì đang ở chơi đó, mới khoảng mười giờ đêm, đã bị xét hỏi giấy tờ...
Riêng tôi, tại nhà Trịnh Công Sơn (đường Nguyễn Trường Tộ, Huế), tôi đã có một kỷ niệm nhớ đời.
Vâng, trong cái đêm trăng sáng đẹp tuyệt vời ấy, sau khi thơ - nhạc ở nhà Nguyễn Khoa Điềm, chúng tôi kéo nhau về nhà Sơn, kiếm nem bến Ngự nhắm rượu tiếp, lại hát tiếp, trò chuyện và "góp ý" với Sơn đôi điều, động viên anh viết thế này... Gần tới giờ giới nghiêm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Nhuận Vỹ, Bửu Chỉ, và mấy người nữa phải vội vàng "rút lui", còn tôi thì ngủ lại với Sơn cho vui. Hai anh em ra cửa đứng ngắm trăng suông. Trịnh Công Sơn kể về kỷ niệm... "Mưa vẫn hay mưa trên tầng lá nhỏ", chính là trên tầng lá nhỏ kia kìa... Ngày xưa... Diễm vẫn thường đi qua con đường đó... Diễm xưa là viết ở Quy Nhơn, những tầng lá, mấy sỏi đá này là Huế... âm hưởng bài Diễm xưa đưa tôi vào giấc ngủ... Vừa chợp mắt thì nghe tiếng đập cửa thình thình. Công an tới. Xét giấy. Giấy tờ của tôi để trong túi áo quân phục, hồi chiều vừa lột ra gởi lại nhà Tô Nhuận Vỹ. Không có giấy tờ. Tướng mạo lại cục mịch khả nghi. Tôi liền bị mời ra đồn công an Phú Cam, mặc dù Sơn đã cố sức giới thiệu tôi là một nhà thơ quân đội cách mạng, kể tên một loạt những bài thơ của tôi đã in trên nhiều sách báo nữa. "Không có giấy tờ thì cứ ra bót chờ, chi mà phải nhiều lời". Cả tôi và Sơn đành lặng lẽ đi sau người công an vừa nói câu đó. Ngồi đó, mai sáng giải quyết - người trực ban trỏ cho chúng tôi một cái ghế băng đã có ba bốn người ngồi, trong góc đồn. Sáng hôm sau, Sơn phải về Hội Văn nghệ lục túi áo của tôi và mang giấy tờ tới, tôi mới được thả ra, khi đã nghe xong một bài huấn thị tràng giang về vấn đề phòng gian bảo mật... Tôi đọc cho Sơn nghe hai câu “cảm giác" - những câu đầu tiên tôi viết về xứ Huế.
Ở Huế có lệ xét nhà
Ai không có giấy thì ra bót ngồi...
Chúng tôi lại cười vui, chở nhau trên chiếc xe đạp cao kều màu vàng, chạy vòng theo con đường "ngày xưa Diễm thường đi qua", dưới những tầng lá nhỏ. Rồi Trịnh Công Sơn sẽ viết lách thế nào đây? Tôi thầm nghĩ trong tiếng lăn xào xạc của vô vàn viên sỏi nhỏ dưới bánh xe... Ừ, biết đâu ngày sau sỏi đá...
Bây giờ, "Trịnh Công Sơn và tôi gặp nhau hoàn toàn không còn là tình cờ nữa. Những buổi quần tam tụ ngũ với nhau, anh em văn nghệ sĩ thành phố Hồ Chí Minh, thường xuyên vẫn có tiết mục thơ - nhạc, thông báo sáng tác mới, hoặc những dự định, những gợi ý. Một số ca khúc mới của Trịnh Công Sơn sáng tác từ cảm hứng trước hiện thực mới, đã được công chúng lan truyền rộng rãi - trong đó, bài Em ở nông trường, em ra biên giới (1978) được đáng kể là cái mốc đánh dấu chặng đường mới của anh. Anh đã thật sự “bắt" cái bản sắc tươi sáng. Một vài năm trước 1975, anh hơi sa đà vào mạch thiền, bắt đầu có dấu hiệu luẩn quẩn, chớm bước “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt... trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt..." để rồi một chiều ngồi ôm tóc dài... "chập chờn lau trắng trong tay...". Chính hiện thực đời sống đã giúp anh “trẻ lại", anh đi nhiều, sáng tác và ca hát, ở nhà trường, công trường, nông trường, ở các tụ điểm sinh hoạt xã hội của thanh niên sinh viên và trí thức thành phố, lên biên giới ra biển khơi, vào tận bưng biền Đồng Tháp Mười... Kể từ ngày vào hẳn tại thành phố Hồ Chí Minh tới nay, Trịnh Công Sơn đã có thêm hàng chục ca khúc, nhiều nhạc phim, và bài hát trong phim. Để vượt qua được những khó khăn tâm lý của chính mình, suốt mấy năm sau ngày giải phóng, và tiếp đó là sự bắt bẻ, xét nét của không ít bạn đồng nghiệp của một số người ở giới nghiên cứu - phê bình âm nhạc cách mạng, đối với anh là việc không dễ dàng, nhưng dù sao thì anh cũng vượt qua được sự cảm thông và lòng mến mộ dành cho anh và ca khúc mới của anh ngày càng tăng lên. Đó là kết quả tốt lành do chính việc anh làm mang lại. Anh chân thành và say mê sáng tác, chân thành và say mê học hỏi đời sống, vẫn rất kỹ tính với từng nét nhạc, từng lời thơ. Có lần, anh đột ngột hỏi tôi: “Này, ông ở lâu ngoài Hà Nội, ông thấy những buổi chiều trên sông Hồng có gì ám ảnh?...". Tôi kể với anh về bờ đê, và lũy tre mờ xa, sương khói... Và thế rồi, trong bài Chiều trên quê hương tôi, anh chỉ chọn lấy cái bờ xa sương khói thật có hồn. Bài Mùa thu Hà Nội của anh mới chi tiết làm sao, những chi tiết khiến cho ai đã từng thân thương Hà Nội đều phải sừng sờ, “cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ... từng con đường nhỏ trả lời cho tôi”... đột ngột, những con sâm cầm cất cánh trên Hồ Tây. Rất chi là Hà Nội! Phải kể đó là một trong những bài hát hay không phải của riêng Trịnh Công Sơn, mà là của chung Hà Nội. Với anh, có thể kể ra hàng loạt những bài hát được nhiều người yêu thích, Em còn nhớ hay em đã quên, Chiều trên quê hương tôi, Huyền thoại Mẹ, các bài hát trong phim Pho tượng, phim Y võ dưỡng sinh v.v... đều là những bài hát và lời tương sinh như xác với hồn, những chi tiết hiện thực đời sống nâng lên trong xu hướng vươn tới cái đẹp lâu bền, thì đúng là anh duy mỹ rồi! Tôi nghĩ rằng, sự nhập cuộc của anh như thế là đúng tạng, đúng bản sắc, cái riêng nhập vào cái chung như một hạt phù sa nhập vào dòng sông, một làn gió nhập vào cánh đồng. . . Thay đổi luôn cả cái tạng ấy đi thì có nghĩa là mất luôn một Trịnh Công Sơn. Không thể đòi hỏi anh thay đổi ý kiến ấy, cũng như không thể đòi hỏi một con chim họa mi phải đẻ ra những ổ trứng chim cút, một cành hoa phong lan phải cho những chùm quả xum xuê ăn được...
Bởi vì nghệ thuật là phong phú và đa dạng, nó vẫn cần có và dành sẵn chỗ cho những cái vu vơ thẩm mỹ và hướng thiện, như là ngày sau Sỏi đá Cũng cần có nhau...
ĐẸP NHƯ TRANH TRỪU TƯỢNG* Phạm Duy
Trích hồi ký của PD
... Tân Nhạc đã có tới bốn đời nhạc sĩ và có hàng trăm, hàng ngàn ca khúc được soạn ra và hát lên. Trong Hồi ký này, tôi chỉ nhắc tới những người đánh dấu thời đại một cách sâu đậm bằng tác phẩm của mình.
Người nổi nhất là Trịnh Công Sơn. Trước tiên, người ta biết tới anh nhờ Quán Văn. Quán do nhóm sinh viên mang tên Khai hóa chủ trương. Nhóm này đã làm nhà xuất bản Quảng Hóa rồi khi phong trào phòng trà thịnh hành, nhóm mở quán cà phê ở ngay trung tâm Sài Gòn, trên nền Khám Lớn cũ trong khu Đại học Văn khoa, sinh viên tới uống cà phê nghe nhạc và nghe Khánh Ly hát.
Bài hát của Trịnh Công Sơn được nghe tại Quán Văn lúc đầu là Lời buồn thánh. Cũng như nhạc Đặng Thế Phong, bài hát tân lãng mạn (néo-romantique) này nói về nỗi buồn. Bài Lời buồn thánh thật là buồn, như bài hát buồn làm cho người âu Châu phải tự tử là Chủ nhật buồn tôi đã nói tới trong một chương sách. Trong bài hát của mình, họ Trịnh cũng nói tới ngày chủ nhật buồn:
Chiều chủ nhật buồn
Nằm trong căn gác đìu hiu
Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều
Trời mưa trời mưa không dứt
Ô hay mình vẫn cô liêu...
Thoạt nghe đã thấy ngay là tiếng hát đau đớn, thay mưa ảm đạm trong lòng (như thơ Verlaine), thấy sự cô đơn, hoang vắng.
Sinh ra ở Ban Mê Thuột, sống ở Huế, mưa ám ảnh Trịnh Công Sơn rất nhiều cho nên cũng vẫn là nỗi buồn của ngày chủ nhật mùa mưa trong bài Tuổi đá buồn:
Trời còn làm mưa, mưa rơi mênh mang
từng ngón tay buồn em mang em mang
Đi về giáo đường, ngày chủ nhật buồn...
Nhạc Trịnh Công Sơn là nhạc nói về QUÊ HƯƠNG, TìNH YÊU, và THÂN PHẬN CON NGƯỜI. Hãy nói về tình khúc Trịnh Công Sơn, nói về thân phận Người Tình trong giai đoạn quê hương đổ nát này.
Từ khi Tân nhạc Việt Nam ra đời đầu thập niên 40, đã có những tình khúc của Lê Thương, Lê Yên, Hoàng Giác, Doãn Mẫn... Lúc đó là thời bình, khi tình còn xanh và yêu chưa lo sợ. Ngôn ngữ tình yêu thật là bình dị, đối tượng là cô hái mơ, cô láng giềng, cô lái đò, cô hái hoa hay anh Trương Chi. Từ khi nước Việt bị chia đôi, nhạc tình miền Nam đậm sắc và trong mười năm đầu, vì cuộc đời chưa thực sự bị đe doạ, người ta vẫn có những bài hát hữu tình hay thất tình, xinh xinh, hiền lành, lúc đầu còn mới mẻ dần dà ngôn ngữ tình yêu trở thành sáo ngữ. Tới lúc đời sống trở nên bấp bênh, thanh niên được gọi đi lính rất nhiều, biết bao nhiêu đôi lứa phải xa nhau, tình khúc miền Nam thay đổi ngôn ngữ.
Nhạc tình không còn là nhạc lãng mạn, nhạc cảm tính với câu hát đắm đuối hay hờn dỗi nữa! Bây giờ là những bài hát nhức nhối của những tình nhân yêu nhau trong cơn mê sảng. Nhạc trở thành não nề và đánh vào não tính. Nhạc tình bây giờ là tình ca của người mất trí.
Tình khúc Trịnh Công Sơn ra đời, từ giàn phóng là Quán Văn được hoả tiễn Khánh Ly đưa vút vào phòng trà, rồi vào băng cassette và chỉ trong một thời gian ngắn chinh phục được tất cả người nghe. So với tình khúc của ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn rất mới, chất chứa những hình ảnh lạ lùng, quyến rũ như cơn mưa hồng, thuở hồng hoang, dấu địa đàng, cánh vạc bay...
Tình yêu trong nhạc của anh là những cảm xúc dữ dội "Như trái phá con tim mù loà", “Như nỗi chết cơn đau thật dài", như vết thương mở rộng... Cuộc đời là hư vô chủ nghĩa, con người sống trong cảnh Chúa, Phật bỏ loài người. Cuộc đời còn là đám đông nhưng cũng là quán không. Con người là cát bụi mệt nhoài, bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi... Tất cả nói lên sự muộn phiền, đau đớn... Buồn tủi cho thân phận con người nên nhánh cỏ cũng xót xa, phiến đá cũng ưu phiền, và chỉ còn những mưa và mưa để xoa dịu vết thương mở lớn? Hãy nghe thêm những câu hát về mưa trong Diễm xưa:
Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
Làm sao em biết bia đá không đau?
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau...
Diễm xưa cho thấy rõ tiếng hát đứt đoạn của nội tâm về nỗi đau con người trong tình yêu, thấy thêm sự hoang vắng của tâm hồn. Bị ám ảnh bởi mưa đến độ còn nhìn ra mầu sắc của mưa - Mưa hồng - Trịnh Công Sơn nói lên nỗi bàng hoàng của con người khi thấy cái chết nằm ngay trong sự sống:
Người ngồi xuống xin mưa đầy
Trên hai tay cơn đau dài
Người nằm xuống nghe tiếng ru
Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ?
Nguyễn Đình Toàn gọi nhạc Trịnh Công Sơn là những bản tình ca không có hạnh phúc, những bài hát cho quê hương đổ vỡ. Cũng là phản ứng của con người đau đớn trong hoàn cảnh đất nước, nhưng nó là sự chịu đựng và chết lịm hơn là sự nổi xung và chửi bới. Có lẽ vì tác giả là người lớn lên ở Huế, một thành phố nên thơ, hiền hoà, chấp nhận bạo động. Tôi vẫn cho người Việt ở ba miền đất nước có những phản ứng khác nhau trước những hoàn cảnh khó khăn. Ví dụ người con gái miền Bắc thất tình thì phản ứng bằng sự điên giả - CHÈO có vở Vân đại giả điên - hay điên thật rồi nguyền rủa, chửi bới cuộc đời. Sự phản ứng của người gái Huế là buông xuôi (fatalisme), mất người tình là nàng có thể đâm đầu xuống sông tự tử. Còn ở miền Nam à? Không cong đơ gì cả, người thất tình sẽ đốt chồng như cô Quờn.
Về phần nhạc, toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại. Bài hát chỉ cần một chiếc đàn guitare đệm theo, nếu hoà âm phối khí rườm rà thì không hợp với những bài hát soạn theo thể ballade này.
Từ nhạc tình yêu, thân phận con người, Trịnh Công Sơn chuyển qua nhạc thần thoại quê hương. Âm nhạc ở miền Nam trong thời gian này thật phong phú. Vẫn có những bài hát soạn cho tuổi choai choai: Em 16, Em mới biết yêu đã biết sầu, Túp lều lý tưởng, Người tình chung vách, Người tình chung thủy và cho người lính cộng hoà: Lính mà em, Lính dù lên điểm, Lính nghĩ gì, Lính xa nhà, Lời người lính xa, Lính trận miền xa, Anh là lính đa tình, Người lính chung tình, Đám cưới nhà binh... Và có thêm những bài hát phản ứng trước cảnh tang thương của đất nước. Như đã nói trong chương trước, nhạc tâm ca, du ca lúc này là sự phẫn nộ của thanh niên khi thấy mình bị đưa lên giàn hỏa thiêu hoặc phải đi vào quê hương bằng cuộn dây thép gai... rồi xuống vỉa hè và trở thành tục ca.
Bây giờ, ngoài những ca khúc đi vào Tình nhớ, Tình xa, Tình sầu với cơn chết lịm, với nỗi muộn phiền và niềm xót xa trong cảnh cô đơn mà ta đã biết, nhạc Trịnh Công Sơn phản đối nghịch cảnh bằng cách khác. Nhạc anh đi vào quê hương bằng bước chân của người con gái da vàng, của em bé lõa lồ suốt đời lang thang...
Sống cùng thời với những người đi vào quê hương qua nhiều nẻo đường, Trịnh Công Sơn cũng nhận diện lại quê hương. Đi tìm quê hương, phải sống những ngày dài trên quê hương thì phải hát bài quê hương, phải nhỏ giọt nước mắt cho quê hương khi thấy quê hương hình hài nát dấu bom với xác người chết hai lần... Phải gặp những người tình có người yêu chết trận Pleime hay chết ở chiến khu D, gặp thêm người già em bé, chị gái anh trai, người phu quét đường, đồng hóa họ là người nô lệ da vàng, ngủ im trong căn nhà nhỏ... chờ ngày quê hương sáng chói, đứng dậy hò reo, chờ Hoà Bình đến tiếng bom im, cho những bước đi trên những con đường không chông mìn, cho đường giao thông chắp nối chuyến xe qua ba miền, ngày Thống Nhất tới cho những tình thương vô bờ...
Nhạc thần thoại quê hương, nhạc tình yêu và thân phận con người của Trịnh Công Sơn có một tư tưởng chỉ đạo khá rõ, dù toàn bộ âm nhạc của anh đẹp như một bức hoạ trừu tượng hơn là tả thực. Cả nhạc lẫn lời, cả xác chữ lẫn hồn thơ, nghe bảng lảng, mơ hồ khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng nếu nghe kỹ cũng tìm ra ýchính: Trịnh Công Sơn muốn nói lên nỗi đau con người trong cuộc sống hiện đại, có tình yêu, có chiến tranh, có hận thù, có cái chết dễ dàng như chết trong mơ. Anh ca tụng tình yêu, anh chống bạo lực và chống chiến tranh.
Từ 1975 cho tới năm 2000, suốt 25 năm xa quê hương đất nước, tôi không có cơ hội để theo dõi sinh hoạt của âm nhạc Việt Nam và không biết sau cơn hồng thủy. nhạc Trịnh Công Sơn ra sao, là nhạc chắp cánh bay lên hay nhạc la đà chìm xuống? Nhưng qua dăm bẩy băng nhạc sản xuất tại Hoa Kỳ trong đó có vài ba bài ca mới soạn của Trịnh Công Sơn thì tôi thấy nhạc của anh vẫn là nhạc tình yêu và nhạc thân phận làm người.
Nhưng vào năm 1980, ngẫu nhiên Trịnh Công Sơn và tôi cùng có mặt ở Paris, trong nỗi vui mừng gặp nhau của hai người cùng có chung một phận, Trịnh Công Sơn hát cho tôi nghe bài hát Lặng lẽ nơi này mà anh vừa mới viết:
Trời cao đất rộng,
Một mình tôi đi
Một mình tôi đi
Đời như vô tận,
Một mình tôi về
Một mình tôi về... với tôi!
... thì tôi thấy nghệ sĩ nào rồi cũng phải mang số phận cô đơn truyền kiếp, ở quê hương hay xa quê hương vào thời bình hay chinh chiến, giữa dám đông hay khoảng trống, nơi thiên đàng hay địa ngục... Chỉ còn có thể về với mình, về với tôi như Sơn đã nói.
“Trời cao đất rộng, một mình tôi đi"... Cô đơn truyền kiếp phải chăng là kiếp của nhiều ca nhân? Văn Cao khi mới chỉ là chàng Trương Chi tuổi còn rất xanh, tài hoa đang nở rực, chưa hề biết phận mình mỏng manh ra sao trong cơn gió lốc sẽ tới, mà cũng đã chỉ muốn:
Ngồi đây ta gõ mạn thuyền
Ta ca, trái đất còn riêng ta.
Còn tôi? Tôi còn phải sống, đôi khi phải đổi chỗ đứng, đổi chỗ ngồi cho đỡ buồn trong cõi trần ai sầu muộn này, từ rất lâu ngồi đâu thì cũng chỉ là ngồi một mình trong cái TA.
Trịnh Công Sơn đã thực sự về với đất, với trời, nghĩa là về với mình rồi, chúng tôi biết rằng anh đã nghìn lần nói lên nghìn lời trối trăn qua tác phẩm, lời nào cũng làm cho mọi người thấy được nỗi đau làm người, nỗi đau tình cờ, cơn đau chưa dài và cơn đau lên đầy, quá nửa đời người không một ngày vui...
Nhưng theo tôi, có lẽ sau đây là lời trăn trối tuyệt diệu nhất, lời cuối cùng Trịnh Công Sơn nói với Trịnh Công Sơn:
Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng,
Lá mùa Thu rơi rụng giữa mùa Đông.
Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em.
Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo
Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo
Tôi là ai mà còn khi dấu lệ?
Tôi là ai mà còn trần gian thế!
Tôi là ai, là ai... là ai
Mà yêu quá đời này!.
SỰ THẬT CỦA CUỘC RA ĐI - Nguyễn Khoa Điềm
2-4-2001
Anh mất trong ngày 1 tháng Tư
Cái ngày người ta có thể đùa bỡn một chút
Tôi phải hỏi hai lần
Để biết cuộc đi xa của anh là sự thật.
Là sự thật
Anh đã bỏ rơi chúng ta trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI
Là sự thật
Anh đã sống, đã ca hát với chúng ta một nửa thế kỷ XX
Và 90 ngày của thiên niên kỷ mới
Không có gì ngăn cản anh
Đến với Tình yêu
Đến với Đồng bào
Đến với Bạn bè
Đến với Tương lai
Trịnh Công Sơn, từ biệt.
NHƯ CÁNH VẠC BAY Quỳnh Dao
Trịnh Công Sơn viết nhạc từ tuổi đôi mươi cho tới những năm gần đây, cho nên đã cho chúng ta một số lượng tác phẩm rất lớn. Như ở một triết gia đích thực, ở nơi ông nỗi ám ảnh lớn về đời người đã đưa đến ba loại đề tài lớn, là tình yêu, quê hương và thân phận con người, trong đó chiến tranh và đói khổ là sự ngột ngạt bao trùm lên tất cả. Khi chiến tranh đã chấm dứt, và vận nước đã đổi thay, ông thiên về các đề tài mang nhiều triết tính về cuộc đời, nhưng thủy chung vẫn là người viết nhạc tình độc đáo nhất. Nhạc sĩ Văn Cao gọi Trịnh Công Sơn là ca nhân về tình yêu có lẽ là trong ý đó... Từ góc độ của người hát và yêu nhạc, khi nhìn lại Trịnh Công Sơn viết cho tình yêu, Quỳnh Giao muốn được nói lên một sự kiện, đó là từ Trịnh Công Sơn trở đi, các tình khúc đã đổi khác rất nhiều, và nền tân nhạc phải cảm tạ ông về sự khai phá đó... Nói về tình khúc Trịnh
Công Sơn, ta hãy thử nhắm mắt lại để nhìn quanh mà xem... Gió mưa, nắng cát; sông biển, núi non, sa mạc, công viên; lá vàng, sỏi đá; rong rêu, lộc nõn; phố vắng, tháp cổ; mây bay, tóc rối; thân xác, cây già, v.v... ngần ấy hình tượng tản mát đều lấp lánh siêu thực trong các tình khúc của ông. Trịnh Công Sơn là một phù thủy về ngôn ngữ, và căn bản văn hóa Pháp mà ông hấp thụ từ khi còn trẻ có thể phần nào, dù chỉ phần nào thôi, giải thích khả năng dùng chữ đầy ấn tượng lạ kỳ của ông. Phần nào thôi, vì khả năng rất tự nhiên đó, có lẽ ông phải có từ tiền kiếp, nhất là trong lối sử dụng hình dung từ bóng bẩy và hình ảnh bất ngờ mà có sức biểu cảm lớn, như trong hội họa. Ông là một nhà thơ, trước khi là một nhạc sĩ. Ta hãy nghe Ru ta ngậm ngùi chẳng hạn, để bàng hoàng nhớ lại là 30 năm trước ông dùng chữ như thế nào...
Khi tình đã vội quên, tim lăn trên đường mòn
Trên giọt máu cuồng điên, con chim đứng lặng câm
Khi về trong mùa Đông, tay rong rêu muộn màng
Thôi chờ những rạng đông...
Ngoài giá trị của lời ca, điều giải thích vì sao nhạc Trịnh Công Sơn chinh phục người nghe có lẽ là nét nhạc đơn giản, có giá trị ở giai điệu hơn hòa thanh. Nhạc ông dễ nghe dễ cảm lại không đòi hỏi hòa âm cầu kỳ, nên chỉ với một cây đàn, người ta cũng đã diễn tả được cái hồn của nhạc, cái tứ của thơ, chứ không cần tới dàn nhạc lớn được phối khí công phu. Trong ý nghĩa đó, nhạc Trịnh Công Sơn là những khúc rong ca nằm ở một cực đối nghịch với nhạc Dương Thiệu Tước bác học. Nhưng hai người lại giống nhau, và có lẽ hợp nhau, ở trình độ văn hóa rất sâu và khả năng dùng chữ rất tài.
Trước khi phân tích về lời ca của Trịnh Công Sơn, tôi làm ngược những người viết về ông: tôi phân tích phần nhạc rất độc đáo của Trịnh Công Sơn.
Những tình khúc thuở ban đầu như Ướt mi, Biển nhớ, và ngay cả Diễm xưa, Trịnh Công Sơn đã có nhạc thuật rất chỉnh. Giống như Văn Cao hay Phạm Duy trong những ca khúc đầu đời, Trịnh Công Sơn cũng dùng từng câu nhạc rất “balance" như cấu trúc của một câu thơ, mà không bị “môntone". Tôi xin thí dụ:
Hồn cầm phong hương hình dáng xuân tàn
Ngày dần buông trôi sầu vắng cung đàn
Từ ngày ra đi chờ vắng tin người
Từ người ra đi là hết mơ rồi
Cung Thương là tiếng đàn
Cung Nam là tiếng người...
(Cung đàn xưa của Văn Cao)
Bốn câu đầu như một bài thơ tứ tuyệt, mỗi chuỗi nhạc có tám chữ. Đến câu thứ tư nhạc chuyển sang năm chữ, êm đềm, bay bổng...
Đêm năm xưa khi cung đàn lên tơ
Hoa lá quên giờ tàn, mây trắng bay tìm đàn
Hồn người thổn thức trong phòng loan.
Đêm năm xưa khi cung đàn gây mơ
Âu yếm nâng tà quạt hôn gió đưa về thuyền
Tưởng người trên sóng ru thần tiên...
(Khối tình Trương Chi của Phạm Duy).
Đoản khúc trên được chia ra làm hai câu. Câu thứ nhất là một chuỗi tám chữ, câu thứ hai có mười chữ và câu thứ ba bẩy chữ. Rồi cứ như thế Phạm Duy kể cho chúng ta nghe chuyện thần tiên bằng những câu nhạc cân đối, đều đặn như một chuỗi ngọc trai...
Ngoài hiên mưa rơi rơi
Lòng ai như chơi vơi
Người ơi nước mắt hoen mi rồi
Đừng khóc trong đêm mưa
Đừng than trong câu ca
Buồn ơi trong đêm thâu...
(Ướt mi của Trịnh Công Sơn)
Những câu nhạc như bài thơ năm chữ và thỉnh thoảng chêm câu bảy chữ khi kết thúc đoạn nhạc, nghe như tiếng mưa rơi rỉ rả đêm khuya...
Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Dường dài hun hút cho mắt thêm sâu...
(Diễm xưa của Trịnh Công Sơn)
Cả đoạn nhạc đầu là chuỗi thơ tám chữ, nhịp nhàng, cân đối. Đếm ra thì thấy đến câu chuyển nhạc (modulation) Trịnh Công Sơn mới đổi cấu trúc của nhạc. Nghĩa là anh đã dùng tám câu nhạc đầu hoàn toàn tám nốt, không chuyển đổi. Vậy mà ta không thấy bị nhàm, ngấy khi hát tám câu đầu của bài Diễm xưa...
Những ca khúc rộn ràng của anh, dù không có nghĩa rộn ràng về phần lời, mà vì tiết điệu của bài hát như những bài Ở trọ, Hoa xuân ca, và những ca khúc da vàng của anh, lại có nét nhạc cung đình ở Huế, vì anh dùng nhiều ngũ cung và những phách "lỗi" nhịp đặc biệt của điệu "tứ đại cảnh" và "bình bán" này.
Những ca khúc mang âm hưởng "negro spirituel”, dân ca của người da đen của anh mới là tuyệt. Hãy nghe lại Xin mặt trời ngủ yên, Hãy khóc đi em, Hạ trắng... để thấy Trịnh Công Sơn như một Duke Ellington của xóm da đen, với tiếng Saxo thật nức nở, và giọng ca loại khàn đục của Carol Kim một thời mới nghe hết lại cái rã rượi một cách "lười biếng" của loại nhạc da đen này... Riêng bài hát của Trịnh Công Sơn mà tôi yêu thích nhất chính là bài Lời mẹ ru, tôi nghe từ thuở mới đến tuổi dậy thì, chưa có con để biết ru con. Nét nhạc như tiếng kinh cầu, và lời ca tôi coi như trác tuyệt nhất của Trịnh Công Sơn đưa tôi vào thế giới ảo huyền, tôn kính. Những giọng ca trong vắt như của Kim Tước và Hà Thanh thật là thích hợp. Ngày ấy, tuy đã bắt đầu hát ban "người lớn" rồi, nhưng các trưởng ban liệt tôi vào loại "nhi đồng", chỉ hát tango, và valse chứ chưa hát những bài tình cảm như Lời mẹ ru... làm tôi uất ức lắm!
Đôi khi tôi nghĩ là Trịnh Công Sơn phần nào bị "oan". Bị “oan" bởi vì lời ca quá đặc biệt của anh khiến người thưởng ngoạn "quên" đi phần nhạc cũng rất là độc đáo của anh. Nếu ta cứ ngẫm nghĩ lại mà xem: Một người tự học nhạc lấy, không qua một trường đào tạo nào cả. Trong gia đình cũng không hề có người đi trước để có sự di truyền, hay học hỏi. Trịnh Công Sơn đã đơn thương độc mã đi vào lĩnh vực âm nhạc, như một người "học nhạc từ kiếp trước", với những tác phẩm phải nói là có giá trị, và có chỗ đứng ngang hàng với những người viết nhạc được học hành hẳn hoi, không kể là còn xuất thân từ những gia đình dòng dõi, khuê các, được học cả cổ nhạc lẫn nhạc Tây phương.
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác có lần thắc mắc hỏi tôi nghĩ gì về nhạc của Trịnh Công Sơn. Theo anh, thì nhạc của họ Trịnh dù đơn giản, nhưng nghe vẫn có chất "trí thức" trong đó, không giống như những ca khúc phổ thông, dễ nghe dễ hát phần nhiều nghe ngây ngô và bình dân lắm.
Tôi đồng ý với anh Giác, nhưng cũng không giải thích nổi điều này. Đương nhiên là lời ca của anh là của người có học, có chiều sâu của sự suy nghĩ. Nhưng giải thích sao đây phần nhạc cũng rất "mélodieuse", phong phú và uyển chuyển của anh, tuy anh không giỏi gì về nhạc thuật cả! Tôi chỉ dám kết luận anh là một người có "gout”, có khiếu thẩm âm, thẩm mỹ mà thôi...
Đến đây tôi xin chuyển đoạn, để nói tới phần chính yếu mang lại sự thành công của Trịnh Công Sơn.
Nói về sự nghiệp âm nhạc, khi nói về nhạc tình, người ta có thể lý luận dài dòng về tình yêu của Trịnh Công Sơn. Ông viết tình ca cho người, có thể là cho người yêu, nhưng ông không ngưng ở điểm tới của tình yêu, mà đi tới, đi tiếp. Và bay mãi, một mình, như cánh vạc trong đêm. Thực ra, ông có trái tim quá lớn để có hạnh phúc. Trái tim đó đã nở thành cả trăm tình khúc cho đời, mà trong một bài viết, chúng ta chỉ có thể giới thiệu được một phần nhỏ, rất nhỏ, qua một số trích đoạn...
Vào cuối thập niên 50, đầu thập niên 60, khi chúng ta còn sướt mướt với dòng nhạc lãng mạn gọi là tiền chiến, thì Trịnh Công Sơn đã gây kinh ngạc cho mọi người, với một số ca khúc thật lạ. Lạ từ nhan đề tới hình ảnh tân kỳ mang nét siêu thực trong lời ca. Ướt mi, Diễm xưa, Tuổi đá buồn, Lời buồn thánh, Ru ta ngậm ngùi... quả là mới lạ, khi ta đã quen nghe Kiếp hoa, Nỗi lòng, Khúc nhạc tương tư, hay Lá thư, Tan tác, Tạ từ... Rồi mưa bay trên tầng tháp cổ, mắt xanh xao, hồn xanh buốt... là hình tượng mới và màu sắc lạ, đã gây sự chú ý cho người nghe. Và nét nhạc chậm buồn như lời kinh thảm sầu khiến các tình khúc của ông liền chinh phục người nghe...
Sang thập niên sau, Như cánh vạc bay và một loạt các tình khúc khác tiếp tục làm chúng ta say mê, với hình ảnh diễm ảo của tóc em từng sợi nhỏ, rớt xuống đời làm sóng lênh đênh... ta nghe từng giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh... Trịnh Công Sơn viết nhạc tình với nét bút họa sĩ trong một bức tranh cổ, và ông khéo dùng kỹ thuật cổ hoạ, ông đảo ngược ngôi vị chủ khách để vẽ ra những thăng hoa hay tàn phá của tình yêu, khi chủ đích là hát cho người tình.
Cũng trong lối viết tình ca, Trịnh Công Sơn có thể là đứa bé thơ ấu nói về mối tình trăm tuổi, hoặc cụ già thực hư về hoan lạc cuộc đời trẻ dại. Bài Nguyệt ca đã diễn tả được nét vui tươi mơn mởn của tình yêu, đưa ta về quê hương thanh xuân, và toàn bài duy nhất có một chữ tình thì lại là... tình cờ.
Nghệ thuật dùng chữ bóng bẩy, với những tính từ nay mang nghĩa mới sắc mới đã tạo ra phong cách Trịnh Công Sơn. Người nghe cứ tưởng rằng mình được mời vào ngôi vườn cũ, thế rồi cảnh trí đổi thay, bao nhiêu hình tượng hay ý niệm của ước lệ cổ điển bỗng đảo tung và ngôi vườn xưa chợt mở ra khung trời lạ. Sự biến gây choáng váng đó là gì, nếu không do tình yêu? Đóa hoa vô thường, ca khúc công phu nhất và dài hơn 11 phút của ông với sáu chuyển đoạn thần diệu, có thể là điển hình cho nghệ thuật Trịnh Công Sơn khi ông viết về tình yêu như nỗi chết bất tận giữa cõi vĩnh hằng của kiếp sống.
Lâu lắm sau 1975, Trịnh Công Sơn đã viết trở lại về những thể tài đích thực của riêng ông, như Lời thiên thu gọi, như con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo... Bản thân ông rong chơi trên mé bờ tuyệt vọng mà tình ca của ông vẫn nuột nà đằm thắm, và Trịnh Công Sơn vẫn có thính giả của ông, ở mọi lứa tuổi. Như Môi hồng đào 16 tuổi và Hoa vàng mấy độ đã nối lại dòng tình đứt đoạn của một đời quá thăng trầm, như Quỳnh hương nhí nhảnh đùa vui với nhân thế, và ở trọ đã làm tuổi thơ đời nay đi từ dân ca vào âu ca, an nhiên tựa hơi thở.
CA HÁT KHÔNG MỎI MỆT VỀ PHẬN NGƯỜITrần Thanh Hà
“Người đã đến và người sẽ về bên kia núi, từng câu nói là từng cánh buồm dong cuối trời, còn lại...". Người đã đến đây, dự vào khóc cười, đã vui chơi trong cuộc đời này, rồi không hẹn mà ra đi trong một ngày - ngày cũng để vui chơi mà thôi - là ngày thế giới người ta nói dóc với nhau. Mồng một tháng Tư. Người đó là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Nhưng hãy đừng buồn bã vì cuộc chia li này, nơi kia là cát bụi vĩnh hằng, là cõi về, là chốn quê nhà miên viễn mà lần nào đó trong thời trẻ tuổi người nghệ sĩ đã nghe mời gọi âu yếm, "Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy, giật mình tỉnh ra ồ nắng lên rồi...". Ừ đi, người đi, không phải thí dụ bây giờ tôi phải đi, người đi mãi mãi qua bên kia núi đó, để lại đây cho chúng ta hình bóng nụ cười, để lại đây muôn ngàn lời an ủi.
Người ta là ai; là gì trong cõi đời này? Đời người, với Trịnh Công Sơn là một hành trình cát bụi, sự sống chỉ là đối diện với cái chết, trong niềm vui của tuổi trẻ và tình yêu đã thấy đâu đó “Lau trắng trong tay" và đường trần là một chuyến khăn gói để “Mai kia chào cuộc đời nghìn trùng con gió bay". Cái nhìn ấy thật buồn nhưng không hẳn bi quan, bởi vì cũng trong nó vụt sáng lên cái ý niệm Cát bụi tuyệt vời. Dẫu là thoáng chốc thôi trong thế gian vô cùng, thì hãy sống cho tận cùng, sống cho đẹp, hãy yêu, yêu em, yêu cuộc đời và yêu mọi người, "Làm sao biết từng nỗi đời riêng, để yêu thêm yêu cho nồng nàn"; và dẫu cho rồi Em sẽ đi, mọi điều sẽ mất, cũng hãy vui như mọi ngày, vui như mọi người, dù “Chiều nay không ai qua đây hỏi thăm tôi một lời, vẫn yên chờ đêm tới"... Cát bụi hư vô, vậy thì Em ạ, hãy bỏ đi tất cả, đừng hận thù, hãy nhìn đời qua bằng ánh mắt độ lượng, hãy yêu thương vì chỉ có yêu thương là cứu chuộc chúng ta, đừng bao giờ đòi hỏi, “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi...". Trịnh là như thế.
Trong khát vọng cứu chuộc bằng tình yêu đó, Trịnh Công Sơn đã ứng xử với chiến tranh bằng hàng loạt ca khúc phản chiến, những Ca khúc Da vàng, những Lại gần với nhau, những Nối vòng tay lớn... Từ căn gác nhỏ gần cầu Phú Cam, Huế đã bắt đầu cho một tinh thần phản chiến, không như cách của bạn bè: Ngô Kha xuống đường, Hoàng Phủ lên rừng mà bằng âm nhạc. Âm nhạc ấy được hát lên trong những cuộc tranh đấu, ở Huế, ở Đà Nẵng, ở Sài Gòn... Vào năm 1968, có một người trai, tôi không biết người trai ấy từ đâu, là sinh viên ở Huế, là chiến binh giải phóng trong rừng Nam Đông hay Quảng Nam hoặc có thể là một lính bên kia, đã lên đỉnh cao nhất của đèo Hải Vân để khắc dòng chữ Nối vòng tay lớn như là khát vọng nối dài yêu thương. Năm tháng đi qua, đèo Hải Vân rồi người ta không chạy xe qua nữa, nhưng tên ca khúc của Trịnh thì mãi mãi ở đó cùng tuế nguyệt. Tôi biết, có một thế hệ lớn lên những năm 1960, đã sống và đã chết, trong âm hưởng của Trịnh. Một người như thế là Anne, tuyệt vọng vì chiến tranh và thôi thúc lời mời Xin mặt trời ngủ yên, Anne nhảy xuống biển Vũng Tàu, không chết, bèn lên rừng, về sau thành biệt động thành vào tù ra khám, sau giải phóng được người ta biết tới như một tên tuổi của báo chí đổi mới.
Chiến tranh là khoảnh khắc, nhưng những người tình nhân và tình yêu là mãi mãi. Hơn ai hết Trịnh Công Sơn là người thấu tỏ mọi nỗi lòng của người yêu nhau. Đẹp ư? Có hình tượng nào sánh với Diễm xưa, Biển nhớ hay Hoa vàng mấy độ, hay Môi hồng đào. Người nào từng mất mát một mối tình không tìm thấy mình trong tình khúc Trịnh Công Sơn: “Em phụ tôi một thời bé dại... thơ dại ra đi quên hết tình tôi."
Trong niềm vui, người ta đến với Trịnh, trong nỗi buồn người ta càng đến với Trịnh. Làm sao sống qua cuộc đời mà không biết mất mát thương đau, nhưng “Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng", hãy bước xuống phố, ngày này còn đây, hãy nhìn một đoá tường vi và chợt ngộ ra "Đời ta có khi là lá cỏ ngồi hát ca rất tự do..."
Phần lớn tuổi trẻ sôi nổi của tôi trôi qua ở Huế. Ở đó, Trịnh Công Sơn như một Tôn giáo, không phải tôn giáo khuyên người ta cuồng điên mơ trăm năm sau, mà là một tôn giáo giữa đời bình dị này, an ủi và xoa dịu con người. Ở đó, ca khúc Trịnh Công Sơn vang lên trong quán cafe, trong giờ nghỉ trên giảng đường, trong cư xá, trong những đêm trắng bên bờ sông Hương. Trong nỗi buồn và niềm vui tôi đã hát cùng bè bạn, và từ đây mỗi người đi vào đời đều biết một cách nào đó để yêu thương.
Giờ đây, trong những đêm sâu thẳm của Hà Nội, một mình trong căn phòng nhỏ, không có ai, nhiều cuộc tình đã qua đi, chỉ còn lại Trịnh Công Sơn, hát không mỏi, hát để an ủi nỗi cô đơn của tôi. Té ra, người này mới thực sự là người tình chung thủy nhất của tôi.
ANH VẪN LÀ MÙA XUÂNVăn Cầm Hải
Tia sáng, số 4/2002
Hôm ấy anh Sơn vừa trải qua bạo bệnh, anh vốn gầy lại càng mong manh và hư ảo hơn trong nắng hanh vàng đượm màu phù dung xứ Huế. Với cái thân thể nhu mì ấy, sáng qua, trưa đến, chiều đi, anh Sơn vẫn say sưa đáp trả với tôi về những điều mà cả hai tâm đắc, nhất là những ý niệm về những cái chết sinh thành trên sự sống hiện hữu qua hàng trăm ca khúc, hình thành nên một con đường sáng tạo độc đáo giữa bầu trời tân nhạc Việt Nam mà hầu như chưa bao giờ anh tiết lộ. Ngại anh Sơn mệt, một người bạn gái mời anh nghỉ ngơi nhưng anh nhẹ nhàng từ chối: Hãy để anh ngồi lại, để anh được phục sinh với người bạn trẻ này! Anh Sơn đã làm như anh nói, rằng trong đời sống con người cần phải thức tỉnh trong từng sát na như khi uống một ly bia thì hãy tận hưởng một cách toàn diện cảm giác sung sướng của ly bia nên anh vẫn ngồi và thức tỉnh với tôi bằng một cuộc chơi ngôn ngữ lang thang qua mọi nẻo đường triết học và âm nhạc. Bằng giọng buồn như một tiếng thở dài hoang hoài, anh hát cho tôi nghe một đoản khúc về Huế "đêm nghe gió thở dài, đêm nghe tiếng khóc của bào thai, nghe trong gió thở dài, nghe lăng miếu trùng vây, nghe xa cách cuộc đời nghe lăng miêu cạnh đây”. Anh trầm ngâm giải thích, đó là không khí chỉ Huế có, yêu Huế yêu cả tâm hồn Huế đến thế là cùng, vậy mà có người trách khéo anh sao anh không viết về quê nhà vì hầu như chữ “Huế” không có trong ca khúc của anh.
Quê nhà đích thực của anh nơi đâu? Quê nhà của anh không phải là Huế, không phải cõi chết như A.Camus quan niệm bởi chính anh lần đầu tiên đã cho tôi, cho người đời một tưởng tượng đến là ngạc nhiên về "quê nhà của mình". “Quê nhà gần gũi nhất của anh Sơn, Hải biết không đó là bào thai của mẹ! Nằm trong bào thai hơn chín tháng mới ra đời nên đôi lúc buồn nhớ là nhớ đến chỗ nằm trong bào thai mẹ!” Tôi lặng đi trước tâm tình siêu hình nhưng cũng nồng nàn hiện sinh của anh Sơn. Hèn chi, trong nhiều ca khúc rất "da vàng" của anh, hình tượng bào thai thường hay lãng đãng nhú mầm khắp nơi. Có lần, lang thang với người bạn gái xứ Phù Tang Mikodhico - một thực tập sinh về khảo cổ học, tôi nghe nàng thỏ thẻ: Em bên kia nhìn hoa đào rơi mà cứ ngỡ từng bào thai, từng cánh nhạc Trịnh Công Sơn hóa thân giữa tuyết trắng cuộc đời”. Nhạc của anh Sơn không phân biệt giới tính, dân tộc hay tính cách của từng vùng người, nó rong chơi khắp chốn bởi nơi đâu nó cũng có một cõi đi về với những điều mà con người tôn thờ, sợ hãi và hy sinh thanh thản trước tình yêu, cái chết và sự - sống.
Ngôn ngữ của anh là ngôn ngữ dịch biến của không gian và thời gian bởi từng câu, từng khúc khi hát đều dựng lên trong đời sống tinh thần những lâu đài, những mê cung, những thế giới khác lạ nằm ngoài tự nhiên, thế giới của cái tôi đã nhìn và đã sống nói theo điệu chơi hiện tượng học Husserl dù thế giới ấy rồi cũng phôi pha, cũng theo gió cuốn đi mà không hề mặc cảm.
Vẫn chiều hôm ấy, anh Sơn bỗng khoẻ ra. Lần đầu tiên sau những ngày bị ốm, những ly bia đã biết tươi mươi khoé môi. Anh hồn nhiên kể trong cơn nguy biến, may có người con gái xứ Lạng (lại là con gái xứ Bắc) thương anh nên gửi thư bày món thuốc cá chép nấu cách thủy với rau diếp cá. Tanh tao lắm nhưng phải uống, uống vì tình thương và uống để cứu mình với đời vì "nỗi ám ảnh lớn nhất, đeo đẳng tôi từ thuở còn nhỏ cho đến sau này vẫn luôn luôn bị ám ảnh là cái chết và sự mất mát... Suy cho cùng là quá yêu cuộc sống, sợ mất mát nó đấy thôi!". Để vượt và vươn qua sự mất mát và cái chết, anh Sơn đã tìm cho mình một con đường mà anh tận trung với nó bằng cái tôi sáng tạo nghệ thuật khác lạ "Ngay từ lúc còn trẻ cho đến mãi sau này, tôi nghĩ đã đi vào nghệ thuật thì phải chứng tỏ một dấu ấn riêng, một chỗ đúng rất riêng về cái tôi. Thông thường cái tôi thật đáng ghét nhưng trong nghệ thuật phải có cái tôi rõ ràng... Cái gì không độc đáo thì không thể tồn tại lâu dài được! Có phải âm nhạc của anh độc đáo bởi ta nghe trong đó toát lên những âm vực Tứ Diệu Đế (Sinh, Lão, Bệnh, Tử) của Phật giáo hay những đèo dóc lo âu hoang mang phi lý về hữu hạn và vô hạn, về hữu thể và vô thể không ngừng nhấp nhô tính cách trong quảng cung la thứ? Không biết bao người, trước và sau khi anh Sơn ra đi, bằng tư duy kinh viện đã biến âm nhạc anh Sơn lạc biến trong cõi triết, thậm chí ràng buộc anh vào những bến bờ tôn giáo Phật, Lão và cả Thiên Chúa! "Mình chưa bao giờ bị sự ràng buộc vì khi nào cảm thấy một sự ràng buộc nào đó, làm cho mình không thoải mái là mình tìm cách thoát ra ngay tức khắc.
Bao nhiêu lần thoát được cảnh ngộ tù túng rồi, mình luôn luôn đứng bên lề sự tù túng”. Anh hoàn toàn là con người tự do và chân thành tột cùng, với chính cuộc sống "Phải chân thành với cuộc sống thì cuộc sống sẽ cho anh, trả lại anh những điều gì cần để phải nói trong nghệ thuật”. Huế và đạo Phật đã nuôi nấng anh Sơn lớn dậy nhưng để bất tử trước sau anh mãi mãi là một kẻ tình ca tự do luôn luôn lĩnh hội mà không bị hòa tan, không bị tàn phá bởi những triết thuyết cũ kỹ. "Trong sâu xa của tâm hồn có một sự phản kháng triền miên, phản kháng theo kiểu âm thầm chứ không phải phản kháng theo kiểu nổi loạn đập phá. Bởi vì không thể đập phá được, nếu đập phá thì tất cả những gì mình sợ mất mát sẽ chóng mất mát hơn. Có thể ở đây có một sự phản kháng tiềm tàng trong suy nghĩ!". Bằng sự phản kháng tiềm tàng ấy, anh đã "thay thế hệ mình để nói về những điều ai cũng nghĩ đến là tình yêu, cuộc sống và thân phận con người”. Cái điều ai cũng nghĩ nhưng không phải ai cũng có thể hát trừu tượng như anh. Nếu như Đặng Thế Phong là khởi nguồn nỗi đau, Phạm Duy một hư ảo giữa hai bờ buồn vui vô thường, Văn Cao thượng thanh khí với những tiết trời thiên thai thì Trịnh Công Sơn là kẻ bình tĩnh hứng chờ, cứu rỗi nguồn đau cõi tục lụy này. Anh cứu rỗi nguồn đau với một thái độ an nhiên tự tại kể cả lúc đối mặt với cái chết. Hư vô hay cái chết không còn là một đối trọng để người ta lầm tưởng về anh như một người chiến binh, một kẻ thuyết khách mang dòng máu Sisyphus. Trong trí tưởng tượng của anh Sơn, “chết là một sự trở về trong lễ đón đầy hoa quả. Khi đứa con hoang đi lạc trở về, làng xóm người ta cũng vui mừng. Có lẽ cũng có cha mẹ, làng mạc ở quê hương xa xưa đón chào!". Đôi mắt anh Sơn rực rỡ giữa ánh chiều tà, dường như anh đang mơ màng đối thoại với linh hồn ai đó hơn là với tôi. Nghe anh, đặc biệt đọc ca từ - thơ, nhất là những đoạn kết của một ca khúc, dù rong rã và u trầm bao nỗi buồn thì cuối cùng anh vẫn nhiệt nồng hy vọng, cứu rỗi, giải thoát đời sống ra khỏi ảo ảnh hữu thể và vô thể “đường nào dìu tôi đi đến cơn say/ một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời/ Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy/ giật mình tỉnh ra ồ nắng lên rồi” (Bên đời hiu quạnh) hay “Tôi con chinh thanh bình/ mơ được sống hồn nhiên/ như hoa trên đồng xanh/ một sớm kia mai hồng" (Như chim ưu phiền). Anh diễn ca về hư vô mà không bị hư vô hóa, anh niệm kinh bằng giai điệu tục lụy, anh nhuần ấm hiện sinh nhưng không bải hoải, anh triết lý nhưng lời nhạc cứ xanh tươi cây đời. Như mũi tên mang cái tôi độc đáo vượt qua mọi triết thuyết, anh rút ngắn khoảng cách giữa mình và người. Tôi nghĩ trong nghệ thuật, điều quan trọng nhất là làm thế nào để mở ra một con đường ngắn nhất đi từ trái tim của mình đến trái tim của người mà không cần cắt nghĩa gì thêm”. Xin đừng cắt nghĩa anh Sơn bằng những triết thuyết, hãy để anh được anh nhi với tính Việt độc đáo của mình. Tâm tính của một dân tộc luôn luôn có trước triết học. Ngày xa xưa ấy Mỵ Châu và Trọng Thủy nào hay Đức Phật hay Jésus mà Mỵ Châu cũng đủ sức hóa giải ân oán hận thù của chiến tranh bằng diễm ca: “Hỡi chim Lạc và hoa đào/ Tiếng rì rào của trúc bên dòng nước ơi/ mây hồng quyện hoàng hôn/ cầu vồng hai ta/ cầu vồng hai ta/ gặp nhau giữa giải Ngân Hà/ Hồn tôi nhẹ lâng lâng..." trong nhạc kịch opera Mỵ Châu - Trọng Thủy của nhà soạn nhạc tài danh Nguyễn Thiện Đạo. Giữa hai nhạc sỹ Trịnh - Nguyễn không phân tranh như một hồi kịch của lịch sử xa xưa mà đều có chung một chí hướng “Cái gì thuộc về dân tộc thì nó sẽ tồn tại vĩnh cửu. Trịnh Công Sơn là tiếng lòng của dân tộc vì vậy anh chẳng bao giờ phôi pha!" - Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo từng tâm sự với tôi như vậy. Anh Sơn không nói mà hát thay cho thế hệ mình không những về một giai đoạn lịch sử bi thương, anh còn hát về những điều vốn có trước và sau này sẽ xuất hiện trong lòng dân tộc Việt, trong lòng nhân loại. "Chúa đã bỏ loài người/ phật đã bỏ loài người/ này em xin cứu một người/ này em hãy đến tìm tôi/ vì những con sông đã cạn nguồn rồi/ vì gió đêm nay hát lời tù tội quanh đời/ về cùng tôi đứng bên đời âu lo này" (Này em có nhớ). Hãy lo âu với chính cuộc đời này chứ không phải lo âu trước hư vô là thông điệp của anh Sơn. Lo âu nhưng hãy yêu ngày mới dù quá mệt kiếp người "Định mệnh cho phép mình được làm một người liên hệ mật thiết với nghệ thuật. Nếu có kiếp sau nào đi nữa thì mình cũng là nghệ sĩ.
Nghệ sĩ sống khoẻ, thoải mái trong cuộc đời này.Muốn yêu cỏ thì yêu cỏ, muốn yêu hoa thì yêu hoa. Tự do tự tại là con người của mình!". Đó là lời cuối cùng lúc chia tay anh nói với tôi với nhân gian này. Và có thể đối với ai đó mùa xuân này vắng đi một tiếng Sơn ca nhưng với tôi anh Sơn chẳng bao giờ đi xa, ngược lại anh vẫn là mùa xuân đang thay lá thay hoa thay mãi đời ta, thành tiếng trống thu không trên những miền biên giới gọi giấc ngủ chiều lạc lối trở về, ru nồng thân phận con người, như tiếng chuông u minh thức tỉnh chốn trần cũng như cõi âm cùng nhau đi tới chân trời thiện mỹ.
GIÓ TRỜI XIN NGỦ BÌNH YÊN Lê Hữu
Nói Về Trịnh Công Sơn thì chẳng bao giờ hết chuyện. Chỉ cần ghi lại một buổi tranh luận giữa bạn bè về nhạc, về con người Trịnh Công Sơn, là đã có biết bao điều để nói. Người ta cũng có thể viết những cuốn sách rất dày nói về ông, về nhạc của ông, với nhũng phê phán, nhận định, khen chê hay dở... Cái khó bao giờ cũng vẫn là bắt đầu như thế nào.
Khi ấy là vào những năm 66-67 thì phải. Tôi nhớ, lần đầu nghe tình khúc Trịnh Công Sơn, cái cảm giác ấy lạ lắm, thú vị lắm. Một vài ca sĩ đã trình bày Diễm xưa trước đó, nhưng phải đợi đến lúc Trịnh Công Sơn tìm ra được Khánh Ly, người nghe mới thực sự nghe ra Diễm xưa. Sau đó là những Nhìn những mùa thu đi, Lời buồn thánh, Tuổi đá buồn, Hạ trắng, Mưa hồng, Nắng thủy tinh... tất cả đều rất mới, rất lạ, rất là cuốn hút người nghe. (Những ướt mi, Thương một người trước đó ít được biết đến dù được thể hiện qua những giọng ca khá nổi tiếng thời ấy).
Người ta chờ đón những tình khúc tiếp theo nữa của Trịnh Công Sơn, và ông đã không làm mọi người thất vọng. Những Biển nhớ, Tình nhớ, Tình xa, Tình sầu, Như cánh vạc bay, Ru ta ngậm ngùi... lần lượt theo nhau ra đời, lần lượt được người nghe tán thưởng. Có thể nói đây là thời kỳ viết nhạc sung sức nhất của Trịnh Công Sơn, và những tình khúc hay nhất, phổ biến nhất, quyến rũ người nghe nhất đã ra đời trong thời kỳ này. Nhạc tình Trịnh Công Sơn đã hoàn toàn chinh phục trái tim người nghe vì cái mới, cái lạ, cái đẹp, đến mức có một lúc nào đó mọi người tưởng như đã quên đi tên tuổi của các nhạc sĩ khác, quên đi những ca khúc thịnh hành trước đó, và chỉ còn lại nhạc Trịnh Công Sơn. Ở mỗi quán café, mỗi góc phố, mỗi con đường đều nghe vẳng ra tiếng đàn guitare bập bùng, những nốt nhạc đệm rời rạc, và giọng hát khao khao cất lên những lời buồn bã kể lể về thân phận, về quê hương chiến tranh và cả về tình yêu của những lứa đôi trong thời buổi ấy nữa. Nhạc Trịnh Công Sơn có ma lực gì mà cuốn hút, mê hoặc người nghe đến như vậy? Chắc không phải là một loại "thời trang nhạc tuyển". Nếu chỉ là nhạc thời trang hoặc một cái mốt thời thượng thì đâu có sống lâu đến vậy, nhiều lắm cũng chỉ qua được mấy mùa. Thử nghe lại bài Diễm xưa xem sao. Về giai điệu, cũng chẳng có gì đặc biệt lắm, cũng là tiết tấu chầm chậm, dễ dãi, những ngắt câu ngắt nhịp, lặp đi lặp lại. Câu nhạc đầu lại na ná câu đầu một bài hát thể điệu slow rock phổ biến từ những năm trước đó (Bước chân chiều chủ nhật, Đỗ Kim Bảng). Không có gì đặc biệt. Vậy thì cái hay, cái lạ của nhạc Trịnh Công Sơn, của bài hát, là ở lời chứ đâu phải ở nhạc. Đến cái tựa Diễn xưa cũng đã là lạ, cũng đã gợi ra nhiều dấu hỏi. Tại sao là Diễm, Diễm nào vậy, Diễm xưa thế nào, Diễm nay ra sao? Diễm xưa, mà sao lại chỉ kể toàn chuyện mưa. (Hạ trắng, mà sao lại chỉ kể toàn chuyện nắng). Mưa Trịnh Công Sơn cũng lạ, không giống những cơn mưa của những bài nhạc khác. “Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ...", rồi lại "Trên bước chân em âm thầm lá đổ...". Vậy thì mưa rơi hay lá rơi, nghe tiếng mưa hay nghe tiếng lá? Ngôn ngữ Trịnh Công Sơn nghe cũng lạ với những “tầng tháp cổ, vết chim di, xanh buốt, đau vùi, bia đá, đá sỏi, phiêu lãng, lãng du...". Người ta vẫn nói chuyến xe, chuyến tầu, chuyến đò, chuyến phà, chưa thấy có ai nói “buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua". Lại còn những câu hỏi: “Làm sao em biết bia đá không đau? Làm sao em nhớ những vết chim di?" Biết đâu mà trả lời. Những ý tưởng có khi chẳng dính dấp, liền lạc gì với nhau. “Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động" thì có liên hệ gì đến chuyện bia đá đau hay không đau. "Xin hãy cho mưa qua vùng đất rộng" thì có liên quan gì tới “người phiêu lãng quên người lãng du”. Nghe như ông nói gà bà nói vịt, hoặc lấy câu trong bài hát này bỏ vào bài hát kia vậy. Vậy mà tuổi trẻ ngày ấy đã phải lòng Diễm xưa đã nghe đi nghe lại, nghe mãi nghe hoài không biết chán. Diễm xưa, Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn, Diễm xưa, bao nhiêu quán café mang tên Tình nhớ, Hạ trắng, Mưa hồng... và những cô chủ quán hay những cô cashier xinh đẹp không đợi khách yêu cầu đã tự động cho chạy liên tục hết cuốn băng này đến cuốn băng khác Ca khúc da vàng, những Tình khúc Trịnh Công Sơn, mà không cần phải bận tâm lắm đến chuyện café ngon hay không ngon.
Nhạc Trịnh Công Sơn quyến rũ người nghe đến như vậy, nhưng có một điều lạ là không phải ca sĩ nào cũng hát được nhạc Trịnh Công Sơn. Con số những ca sĩ hát nhạc họ Trịnh này nghe được không có nhiều, chỉ một vài. Ngay đến những ca sĩ tên tuổi thời ấy, hát thử Trịnh Công Sơn vài bài, cũng không thành công, cũng không nghe ra Trịnh Công Sơn. Từ đó, biết là không ăn, thôi không hát thêm nữa. Những ca sĩ khác, tự lượng sức mình, không chơi nhạc Trịnh Công Sơn, vì không muốn "như cánh chim chìm xuống". Làm sao biết được giọng hát nào là thích hợp, là thể hiện được nhạc Trịnh Công Sơn? Cứ thử hát đi, thính giả sẽ nói cho biết, người nghe sẽ trả lời. Nghe nhạc Trịnh Công Sơn từ một giọng ca không phải để hát nhạc Trịnh Công Sơn giống như là uống rượu giả vậy. Từ khi những giọng ca chuyên hát nhạc Trịnh Công Sơn bỏ nước ra đi, ở trong nước người ta vẫn loay hoay tìm kiếm, cố gắng tìm cho bằng được những giọng ca khác, để thay thế, cố gắng lăng-xê một vài tên những ca sĩ cũ gắn liền với nhạc Trịnh Công Sơn. Có vẻ nhạc Trịnh Công Sơn thích hợp với giọng nữ nhiều hơn, chỉ một vài nam ca sĩ thể hiện được một đôi bài... Phải nghe Khánh Ly hát Diễm xưa mới biết thế nào là "trong cơn đau vùi", mới thấy đau xót “làm sao có nhau”, mới thấy "hằn lên nỗi đau”, mới hiểu được tại sao sỏi đá cũng cần có nhau”. Còn phải nghe "sầu thôi xuống đầy" bằng những nốt nhạc luyến láy mềm mại ở chữ “xuống”, và bằng chính giọng hát ấy, mới thấy được cánh lá khô lả tả xoay vòng trước khi chạm đất, là dấu chấm “cuối cùng cho một tình yêu”. Phải nghe Lệ Thu hát Hạ trắng mới nghe ra được tận cùng cái thê thiết của "gọi tên em mãi suốt cơn mê này" trong tiếng kèn saxo réo gọi. Và còn phải nghe cả Ru ta ngậm ngùi, bằng chính giọng hát ấy, mới nghe ra nỗi cô đơn sâu thẳm của Người về soi bóng mình, giữa tường trắng lặng câm.
Cái mới trong ngôn ngữ Trịnh Công Sơn
Trong những lời nhạc Trịnh Công Sơn, người ta nhặt được rất nhiều cái mới, từ cách dùng chữ cho đến những ý tưởng. Về màu sắc chẳng hạn, trước đây ta đã có xuân hồng, hạ đỏ, thu tím, thu vàng... thì nay lại có thêm “hạ trắng", và cả những cơn “mưa hồng" (của những cánh phượng rơi), “mưa xanh" (của những lá me bay) cho đủ sắc màu. Về nắng thì có "nắng thủy tinh vàng". Sau tóc mềm, tay mềm, vai mềm, nay lại có thêm “ngoài kia không còn nắng mềm" (Chiều một mình qua phố). Đôi lúc cái mới được đẩy đi quá đà: hết nắng sớm, nắng chiều, lại đến "có khi nắng khuya chưa lên" (vẫn Chiều một mình qua phố). Tại sao không? Nhạc sĩ họ Trịnh có thể nói "Có mưa khuya thì cũng phải có nắng khuya chứ." Và “nắng như môi hoàng hôn trên phố” (Chiều trên quê hương tôi) cũng phải được kể là... nắng mới.
Ta có nghe bể mắt, hồ mắt, giếng mắt, giòng mắt... chứ chưa nghe ai nói "chiều đã đi vào vườn mắt em" (Nắng thủy tinh).
Ta có nghe giọt buồn (chắc là giọt café), sợi buồn (con nhện giăng mau) chứ chưa thấy ai nói "ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô" (Rừng xưa đã khép). Nghe hay hơn là "cọng cỏ khô buồn". Tương tự, "tóc xanh mấy mùa", "hoa vàng mấy độ", "sen hồng một nụ”, “quỳnh hương một đóa" nghe hay hơn là mấy mùa tóc xanh, mấy độ hoa vàng, một nụ sen hồng, một đóa quỳnh hương.
Ta cũng đã nghe giọt mưa, giọt đắng, giọt sầu... nay lại có thêm "giọt chiều trên lá, như mắt người cười giữa chiều phai" (Chiều trên quê hương tôi).
Có rất nhiều những cái mới như vậy trong lời nhạc Trịnh Công Sơn.
Lối sử dụng tính từ như một danh từ, và ngược lại, trước ông vẫn có người dùng, thế nhưng những chữ ông dùng nghe vẫn cứ mới và thú vị, như "nghe những tàn phai", "tôi là ai mà còn trần gian thế...?”.
Có những chữ dùng rất cũ, qua tay Trịnh Công Sơn, như được làm mới lại, vì được sử dụng với những ý mới mẻ:
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, rọi suốt trăm năm một cõi đi về. ... (Một cõi đi về)
“Nhật nguyệt" là những chữ thật xưa cũ, đi với “trên hai vai ta" và “rọi suốt trăm năm" lại nghe như có vẻ mới.
Chữ “cõi” trong cõi sống, cõi chết, cõi nhân gian, cõi người ta... dùng trong "một cõi đi về” như được khoác cho chiếc áo mới. Nói "một chốn đi về” nghe vừa hẹp, vừa không được trọn ý.
Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng... (Một cõi đi về)
“Nhân gian" thì cũ, nhưng “đôi tay nhân gian" quả là chưa có ai dùng, và cũng không thể tìm ra được chữ nào hay hơn để thay thế.
Em theo đời cơm áo, mai ra cùng phố xôn xao... (Yêu dấu tan theo)
“Cơm áo" là chữ dùng quá thường nhưng "đời cơm áo" thì nghe lại mới, nhất là đi với “phố xôn xao"
Thôi em đừng khóc nuối, cho môi còn chút thanh tân... (Yêu dấu tan theo).
Thực khó tìm ra được chữ nào hơn "thanh tân" để chỉ đôi môi chưa hôn ai một lần.
Chữ "chút” ở câu trên cũng hay được ông dùng. Cái gì cũng chỉ chút chút thôi, không nhiều lắm, chỉ là một thoáng mong manh. Chữ ấy tuy cũ mà lại mới, làm đẹp thêm câu hát:
Có chút tình thoảng như gió vội (Như một lời chia tay)
Có chút nắng trong tiếng gà trưa... (Em còn nhớ hay em đã quên)
Đi về đâu hỡi em, khi trong lòng không chút nắng... (Đợi gọi em biết bao lần)
Tôi xin làm chút gió, mát thêm những bờ vai... (Vì tôi cần thấy em yêu đời)
Tóc nào hãy còn xanh, cho ta chút hồn nhiên... (Ru ta ngậm ngùi)
Dịu dàng trao chút hương hoa mùa xuân... (Vẫn có em bên đời)
Cho ta còn mãi mãi, chút mùi phấn hương bay... (Yêu dấu tan theo)
Có rất nhiều "chút” như vậy trong những lời nhạc Trịnh Công Sơn.
Khi nói "tự do như gió thổi trên đồng ruộng", hoặc "hạnh phúc như đón mẹ đi chợ về” là mượn hình ảnh để cụ thể hóa những ý niệm trừu tượng. Ở Trịnh Công Sơn, ta gặp rất nhiều những lối diễn đạt như vậy. Sau mỗi chữ "như" là mỗi hình ảnh mỗi ý tưởng giàu tính sáng tạo:
Tôi như từng cánh diều vui... (Nguyệt ca)
Chuyện trò với lá cây, rồi buồn như lá bay... (Tình sầu)
Nhìn người đi như mây vô danh... (Hãy cứ vui như mọi ngày)
Em cười em nói, như sóng đùa biển khơi... (Tuổi đời mênh mông)
Đời sao im vắng như đồng lúa gặt xong, như rừng núi bỏ hoang... (Ru ta ngậm ngùi)
Cho con mắt người tình, ấm như lời hỏi han... (Những con mắt trần gian)
Có rất nhiều, rất nhiều những cái "như" như vậy trong lời nhạc Trịnh Công Sơn.
Ta còn gặp những cách ví von khác: "Chiều nay em ra phố về, thấy đời là những quán không" (Nghe những tàn phai), hoặc: "Đời ta có khi tựa lá cỏ, ngồi hát ca rất tự do" (Đêm thấy ta là thác đổ) .
Trái tim Trịnh Công Sơn dễ bắt được những rung động của thiên nhiên. Trong những lời nhạc của ông, hoa cỏ, núi đồi, sông suối, nắng gió, mùa màng. . . cũng đều biết cảm xúc, biết nhớ biết thương, biết cười biết khóc, biết vui biết buồn...
Tóc em cười trong gió... (Yêu dấu tan theo)
Gió đến chơi từ biển xa... (Chiều trên quê hương tôi)
Gió sẽ mừng vì tóc em bay, cho mây hờn ngủ quên trên vai... (Như cánh vạc bay)
Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa... (Cỏ xót xa đưa)
Nhớ gì mà nắng vàng cánh rừng... (Vẫn có em bên đời)
Ngày mai em đi, đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ, sỏi đá trông em từng giờ... (Biển nhớ).
Phải có một trái tim thật là nhạy cảm, những giác quan thật là bén nhạy, mới có thể đọc được, nghe được và hiểu được ngôn ngữ kỳ diệu của thiên nhiên, mới có thể “chuyện trò với lá cây” hay "hôn một nụ hồng, hỏi thăm về giọt nắng", hoặc "đi trong sương mù, gọi cây lá vào mùa".
Thử làm một sự so sánh giữa Trịnh Công Sơn và các nhạc sĩ khác trong cách diễn đạt lời nhạc: Trong lúc Phạm Duy viết: “Nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi..." (Nghìn trùng xa cách), thì ông viết: "Từ lúc đưa em về, là biết xa nghìn trùng..." (Như cánh vạc bay). Cung Tiến viết: "Lòng cuồng điên vì nhớ..." (Hoài cảm), thì ông viết: "... chợt từng bước em là từng mũi đinh cuồng điên" (Tưởng rằng đã quên). Phạm Đình Chương viết: "Người đi qua đời tôi..." (Người đi qua đời tôi, thơ Trần Dạ Từ), thì ông viết: "Đời tôi có ai vừa qua..." (Đêm thấy ta là thác đổ).
Ngôn ngữ Trịnh Công Sơn đôi lúc cũng được đi vào những sinh hoạt thường ngày trong cuộc sống. Bạn hỏi thăm sức khỏe: "Hồi này có gì lạ?", trả lời: “Thì cũng một ngày như mọi ngày thôi". Bạn rủ ra quán nhậu, không muốn đi bèn nói: "Ngồi nhà nhậu thoải mái hơn, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt".
Cái lạ trong ngôn ngữ Trịnh Công Sơn
Cái mới được đẩy đi xa chút nữa dễ trở thành cái lạ. Cái lạ dễ thấy trong lời nhạc Trịnh Công Sơn trước tiên là những điều không lý giải được. Những ý tưởng trong một bài nhạc lại như có vẻ chắp vá, thiếu mạch lạc, thậm chí đứt đoạn, rời rạc, thường tạo những khó hiểu hoặc bất ngờ cho người nghe: “Tim nào có bình yên" mà sao lại "ta rêu rao đời mình"?
“Từ khi trăng là nguyệt" mà sao lại "trong tôi có những mặt trời"? (mà không phải là mặt trăng).
“Đôi khi thấy trăm vết thương" mà sao lại "rồi như đá ngây ngô”?
“Mặt trời nào soi sáng tim tôi" mà sao lại "để tình yêu xay mòn thành đá cuội”?
“Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng" mà sao lại “ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”?
Người nghe tuy có thích nhạc Trịnh Công Sơn nhưng lại ít khi thuộc được trọn bài nào của ông cũng vì những chỗ khó hiểu và những ý tưởng không liền lạc như vậy.
Ta còn gặp những cái bất ngờ thú vị khác. "Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không?" Ông hỏi vậy, và người nghe chưa kịp suy nghĩ để trả lời thì ông đã giải đáp luôn: "Để gió cuốn đi". Lát sau lại hỏi tiếp: “Sống trong đời sống cần có một mối tình, để làm gì em biết không?" Câu trả lời vẫn là "để gió cuốn đi". Một người bạn tôi gọi những câu hát này là "đố vui để học".
Đến cả những cái tựa bài hát nghe cũng là lạ "Gần như niềm tuyệt vọng" nghĩa là sao? Mới chỉ gần gần thôi, chưa đến nỗi tuyệt vọng lắm, vẫn còn có chút hy vọng(?). Vậy thì cũng được an ủi phần nào. "Cỏ xót xa đưa" nghe cũng hay hay, nhưng đến "Tình xót xa vừa" thì lại hơi khó hiểu. Biết thế nào là vừa. Là xót xa vừa phải thôi, không nhiều lắm chắc? "Nghe những tàn phai" nghe cũng hay hay, nhưng đến “Xanh lòng phai tàn" thì lại hơi lấn cấn. Nghe giống như . . . "xanh vỏ đỏ lòng" .
Có những chữ Trịnh Công Sơn dùng đi dùng lại nhiều lần, đôi lúc có hơi lạm dụng, nghe không được ổn lắm. “Khói trời mênh mông" hoặc "tuổi đời mênh mông" nghe vẫn hay và dễ hình dung hơn là "mắt cười mênh mông giữa đôi bàn tay" (Vẫn có em bên đời). Dù là mắt cười hay môi cười thì cũng khó mà mênh mông được (không giống như “mắt em mênh mông buồn"). Tương tự, không dễ gì hình dung được thế nào là một tiếng hát... rực rỡ, xanh xao, hay vàng vọt, như là "nghe tiếng hát xanh xao của một buổi chiều” (Lời buồn thánh). Nhưng cũng không hề gì, người hát vẫn cứ hát, người nghe vẫn cứ nghe, có khi lại thấy thích vì những cái là lạ ấy.
Có khi những cái sai vẫn cứ được mọi người chấp nhận, và đấy cũng là một cái lạ nữa. "Một trăm năm đô hộ giặc Tây" (Gia tài của mẹ), câu ấy một đứa bé lên mười ở Việt Nam cũng biết là sai, vậy mà vẫn cứ được hát đi hát lại một thời nào ở trong nước. Lỗi ấy hoặc vì thiếu chữ (để sánh đôi với "một ngàn một năm nô lệ giặc Tầu ở câu trước), hoặc vì trong lúc đặt lời phải chịu gò ép theo những nốt nhạc cao thấp, trầm bổng. (Phạm Duy chẳng hạn, cũng không vượt qua được cái khó tương tự. "Chuyện đôi ta... buồn ít hơn vui" là câu hát mà ông rất muốn viết ngược lại để kể về một chuyện tình buồn thảm mà hai kẻ yêu nhau nay đã "Nghìn trùng xa cách?”). Hoặc, trong một lúc vội vàng, nhạc sĩ họ Trịnh đã viết nhầm một chữ trong câu hát, đọc thành "công viên chiều qua rất... ngắn" (Nhìn những mùa thu đi), và đến nay nhiều người vẫn cứ hát theo như vậy mà không bao giờ chịu đổi lại thành "rất nắng", cũng không bao giờ tự hỏi đâu là sự khác biệt giữa... công viên ngắn và công viên dài?
Sau một quá trình nhiều năm nghe nhạc Trịnh Công Sơn, và lắm lúc còn hát nghêu ngao nữa, tôi thấy cần phải thú nhận một điều, có đôi khi nghe những lời nhạc của ông, tôi thực tình không hiểu ông muốn nói điều gì, và tôi nghĩ may ra chỉ có ông mới giải thích nổi. Tôi nói "may ra" là bởi vì, nói thật, nhiều khi tôi chắc ông cũng không hiểu gì... hơn tôi lắm. Có khác một điều, ông viết ra những lời ấy là xong, là "thân nhẹ nhàng như mây", còn lại người nghe là chúng tôi thì cứ phải suy ngẫm, phải loay hoay giải đoán này nọ, thật là mệt mỏi.
Tôi có đứa cháu thích nhạc Trịnh Công Sơn. Có hôm cháu hỏi: “Cháu thích bài này. Nhưng mà có mấy câu cháu không hiểu được. Tại sao "trong khi ta về lại nhớ ta đi"? Nghe giống như “Vân Tiên cõng mẹ chạy vô chạy ra" quá. Còn "từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe" nghĩa là sao?" Sau khi loay hoay giải thích những đối nghịch và tương quan giữa đi, về, sông, biển mà đứa cháu có vẻ vẫn không chịu hiểu, tôi đành phải nói: “Vấn đề là cháu thích nghe hay không thích nghe, thế thôi. Nếu thích là tốt, cứ tiếp tục nghe. Đừng băn khoăn, đừng nghi ngại". Nhạc Trịnh Công Sơn là nhạc "đừng hỏi tại sao". Tất nhiên là câu trả lời không làm đối tượng thỏa mãn, nên sau đó tôi lại phải đưa ra lối giải thích khác: "Câu hỏi của cháu là những “lời bể sông", mà cách đây ba mươi năm, nghĩa là "từ độ suối khe", chú cũng đã từng hỏi như vậy". Không rõ đối tượng có thỏa mãn hơn, nhưng từ đó không thấy hỏi han gì thêm nữa, trong lúc nghe thì vẫn cứ nghe. Nói điều này để thấy rằng đã có đến hai thế hệ nghe và yêu thích nhạc Trịnh Công Sơn.
Cái lạ được nâng lên một bậc nữa lại đi đến chỗ cầu kỳ, lập dị, hoặc sáo rỗng, vô nghĩa, thường thấy trong những bài nhạc Trịnh Công Sơn viết ở thời kỳ đầu, như: “Ngựa hồng đã mỏi vó, chết trên đồi quê hương..." hay "người hãy nhớ mang theo hành trang qua khoang trời vắng chân mây địa đàng" (Xin mặt trời ngủ yên); hoặc như: “Có khi nắng khuya chưa lên, mà một loài hoa chợt tím..." (Chiều một mình qua phố) hoặc như "Bài ca dao trên cồn đá, trên ngai vàng quê nhà...” (Vết lăn trầm) , hoặc như: "Rồi dòng sông cũng mang theo tên người vào huyền thoại, tay hư vô che dấu, chiều qua truông mây sâu..." (Lời của dòng sông). Những lời lẽ khiến người nghe cứ phải suy ngẫm mãi và dễ cảm thấy mình... "rồi như đá ngây ngô".
Tôi nhớ có lần nghe Trịnh Công Sơn loay hoay giải thích ý nghĩa về cái tựa một bài hát của ông và câu "giật mình ôi chiếc lá thu phai", và về chữ "da du” do ông sáng chế trong câu “chờ ta da du một chuyến" (Vết lăn trầm).
Ông sợ người nghe không hiểu rõ ý nghĩa những từ này, thế nhưng, ông càng cố gắng giải thích, người nghe là tôi lại càng... thấy khó hiểu. Ông muốn nói gì thì nói, với tôi, chiếc lá thu phai là... chiếc lá thu phai. Như thế là đủ, như thế là hay rồi, đâu có cần lời giải thích nào thêm nữa. Ngày xưa chúng tôi đã không đòi ông phải cắt nghĩa thế nào là "lời buồn thánh" với lại "vết lăn trầm", thì bây giờ có lẽ nào lại thắc mắc vớ vẩn về chữ nghĩa của Trịnh Công Sơn.
Cái đẹp trong ngôn ngữ Trịnh Công Sơn
Có người gọi Trịnh Công Sơn là thi sĩ. Tôi không cho là như vậy. Ông có làm thơ, và trong những câu nhạc của ông ta nhặt được ý thơ và cả những câu thơ thật đẹp nữa, nhưng ông mãi mãi là nhạc sĩ, không phải là thi sĩ. (Cũng như ông có vẽ tranh, nhưng không phải họa sĩ) . Nếu ông chỉ làm thơ, tôi không chắc ông sẽ được bao nhiêu người biết tên. Không có ông, ta còn nhiều thi sĩ khác. Nhưng chỉ có một Trịnh Công Sơn thôi. Tôi có đọc ít bài thơ ông, có bài hay, nhưng vẫn không gây cho tôi ấn tượng nào rõ nét lắm, nghĩa là dưới mỗi bài thơ ông không đề lại dấu ấn đậm nét nào có khắc tên ông. Thế nhưng nhạc của ông thì đúng là nhạc Trịnh Công Sơn.
Dường như chỉ khi ông viết lời nhạc, cái thi hứng mới trào ra những lời ấy như hóa thành thơ, và nhạc lẫn thơ bay lên. Người nghe đôi lúc khó phân biệt những câu dưới đây là nhạc hay thơ, là thơ hay nhạc, vì nhạc thơ, thơ nhạc quyện lẫn vào nhau:
Ta vẫn mong, ta chờ mãi trên từng ngày quạnh hiu
Ta vẫn mong em về đây cho đời bày cuộc vui... (Rừng xưa đã khép)
Vườn năm xưa em đã đến, nay trăng quá vô vi
Giọt sương khuya rụng xuống lá, như chân ai lần về... (Nguyệt ca)
Ta nghe nghìn giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh... (Như cánh vạc bay)
Những giọt mưa, những nụ hoa, hẹn hò gặp nhau trước sân nhà. . . (Bốn mùa thay lá)
Sau lưng ngày con gái. Môi son đừng biếng lười. Cho ta còn mãi mãi.
Chút mùi phấn hương bay... (Yêu dấu tan theo)
Lời Trịnh Công Sơn hay đến mức, ở một đôi bài, nhạc không bắt kịp lời. Gặp phải những bài như thế tôi vẫn cứ tiếc, và đôi lúc nghĩ rằng ông ghép nhạc vào lời hơn là ghép lời vào nhạc. Những Nắng thủy tinh, Như cánh vạc bay, Ru ta ngậm ngùi, Yêu dấu tan theo, Nguyệt ca, Đêm thấy ta là thác đổ... là những bài thơ hơn là những bài nhạc. Nắng thủy tinh hoặc Nhìn những mùa thu đi chẳng hạn là những bài đẹp cả về lời thơ lẫn ý nhạc. Những nốt nhạc mềm mại rót xuống ở cuối câu “đưa em về nắng vương nhè nhẹ...", nghe sao mà "nhè nhẹ". Và tiếng hát Khánh Ly, Lệ Thu quấn quýt, đan quyện vào nhau đã luôn luôn là những tiếng hát của một mùa nào lãng mạn, ru tôi trong chiếc nôi đời êm ái, nhìn những cụm mây mùa thu bay đi, bay đi. Trong nhạc Trịnh Công Sơn không phải chỉ có thơ mà còn có cả tranh vẽ nữa, và những bức tranh sinh động của ông cũng thể hiện qua những lời nhạc giàu hình ảnh, có khi chỉ là những nét ký họa, có khi là những bức tranh cảnh vật đầy màu sắc, có khi là những bức chân dung của... “Người về soi bóng mình, giữa tường trắng lặng câm”, hoặc những tranh tĩnh vật như “... thấy đời là những quán không, bàn im hơi bên ghế ngồi", và còn có cả những bức vẽ trừu tượng nữa. Thử dạo qua một vòng phòng tranh Trịnh Công Sơn.
Hồ Tây chiều thu mặt nước vàng lay, bờ xa mời gọi. Màu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời... (Nhớ mùa thu Hà Nội)
Mây và tóc em bay trong chiều gió lộng, trời làm cơn mưa xanh dưới những hàng me...(Tuổi đời mênh mông)
Trong lòng phố mưa đêm trói chân, dưới hiên nhìn nước dâng tràn, phố bỗng là dòng sông uốn quanh... (Em còn nhớ hay em đã quên)
Một vài bức khác đòi hỏi cần có chút tưởng tượng:
Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô. Ta thấy em đang ngồi khóc khi rừng chiều đổ mưa... (Rừng xưa đã khép)
Dòng nước mắt sẽ bay trong trời, làm cơn mưa rớt trên chăn gối, lời cỏ cây hát trên da người... (Hãy khóc đi em)
Có rất nhiều những bức vẽ giàu hình ảnh và màu sắc như vậy.
Cái đẹp, cái hay có khi chỉ nằm ở một dòng chữ trong câu hát, như là chữ "suốt" trong những câu dưới đây chẳng hạn:
Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì... (Một cõi đi về)
Gọi tên em mãi suốt cơn mê này... (Hạ trắng)
Đường đi suốt mùa nắng lên thắp đầy... (Hạ trắng)
Hãy nghiêng đời xuống, nhìn suốt một mối tình... (Để gió cuốn đi)
Lá hát như mưa suốt con đường đi... (Em còn nhớ hay em đã quên)
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về... (Một cõi đi về)
Chữ “suốt" ở câu trên hay đến vậy lại bị một số ca sĩ đổi thành “xuống" thì quả là "nỗi đau phiền muộn" cho những người yêu nhạc Trịnh Công Sơn. Tương tự, trong Hướng về Hà Nội của Hoàng Dương, ở câu hát "thanh bình tiếng guốc reo vui...", tiếng "guốc" bị một số ca sĩ đổi thành tiếng "hát" cũng là một "nỗi đau” khác, vừa vô nghĩa (tiếng hát làm sao mà reo được), vừa không nghe ra được những âm thanh rộn rã rất “thanh bình" trong tiếng guốc khua vang trên những vỉa hè, đường phố Hà Nội, và hình ảnh thướt tha của những tà “áo mầu tung gió chơi vơi". Hát sai một chữ làm hỏng một câu nhạc, có khi cả một bài nhạc.
Có những bài nhạc tôi chắc là Trịnh Công Sơn thích, vì vẫn nghe ông nhắc đến, nhưng lại ít có người hát, ít có người nghe. Có khi ông muốn nói nhiều quá, người nghe lại ít chịu nghe. Những bài hát được ông lồng vào những triết lý, những thiền vị chẳng hạn, dường như ít được thành công, hiểu theo nghĩa ít được phổ biến. Người nghe dễ đón nhận hơn nếu chỉ một vài nét chấm phá và một chút thi vị: “Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ..." (Ru em), hoặc “Cuộc đời đó có bao lâu là hững hờ..." (Mưa hồng)
Cái đẹp còn ở những lời tả tình tả cảnh về một quê hương, một nơi chốn thân quen trong mỗi trái tim người Việt:
Chiều trên quê hương tôi, có những chốn riêng cho mọi người, những con đường lứa đôi, những góc hè phố vui... (Chiều trên quê hương tôi)
Hoặc:... "quê nhà đó năm xưa có em, có bóng dừa, có câu hò, có con đò chở mưa nắng đi." (Em còn nhớ hay em đã quên)
Thật khó mà viết được những lời đẹp đến vậy nếu không có trái tim nặng trĩu tình yêu quê hương. "Trịnh Công Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui, và đau tận cùng những nỗi đau của Tổ quốc mẹ hiền," Văn Cao đã viết về ông như vậy. Đời gọi em biết bao lần, Vì tôi cần thấy em yêu đời, và Tuổi đời mênh mông nữa..., là những bài hát thể hiện cái đẹp của lòng nhân ái.
Ngôn ngữ Trịnh Công Sơn quả đã làm giàu đẹp thêm cho kho tàng tiếng Việt, hoặc ít ra có thể nói mà không sợ lầm, ông là người viết lời đẹp nhất cho những ca khúc. Những lời đó trước đây và cả về sau nữa, tôi tin vậy, chưa từng có ai viết, và cũng không ai bắt chước, không ai làm giả được. (Nếu có hàng mạo hóa, người nghe sẽ nhận ra ngay những Trịnh Công Sơn "giả"). Như thế thì cái chết của ông, ít nhiều cũng gây nên những mất mát và thiệt thòi, ít ra là đối với những người có cái nhìn khách quan về những đóng góp của ông.
Tất nhiên không phải mọi ca khúc Trịnh Công Sơn đều hay cả. Có một số những bài hay, một số những bài trung bình, có bài chỉ nhặt ra được một câu hai câu, có bài không được kể là nhạc vì không bắt nguồn từ một cảm xúc nào, hoặc được làm theo đơn đặt hàng, như bài hát về công trình xây đắp thủy điện Trị An: “Dòng điện như dòng sông, cho đời một tấm lòng..." chẳng hạn. Cũng nói đến “dòng sông", cũng nói về "tấm lòng", nhưng người nghe thấy gượng ép, giả tạo. Những bài nhạc ấy không tồn tại được, không được ai hát. Chúng biến mất ngay khi vừa mới ra đời, và không được người đời nhắc tên. Những bài hát mang một số phận khác.
Nghe nhạc Trịnh Công Sơn giống như là nhấm nháp từng ngụm café hay từng ngụm trà nhỏ, từng ngụm nhỏ thôi, đế nghe được cái hương vị đậm đà chầm chậm, từ từ thấm vào đầu lưỡi. Nghe nhạc Trịnh Công Sơn là phải nghe trong những lúc thư thả, không bận rộn, nghe "không cần vội vã", nghe với “trái tim thật thà", để nghe được từng câu, từng chữ, từng lời nhạc khe khẽ, nhẹ nhàng len lỏi, luồn lách vào mọi ngóc ngách trong cơ thể, thấm vào từng mạch máu, chạm khẽ đến trái tim.
Tình yêu trong nhạc Trịnh Công Sơn
Mùa xuân thay lá mùa đông, để nghe chim hót chuyện tình... (Thành phố mùa xuân)
Câu hát ấy là một trong những câu tôi thích trong những ca khúc Trịnh Công Sơn. Có hai lý do: thứ nhất, câu ấy là nhớ tới câu thơ ngày xưa của Vũ Thành:
Đàn chim về hót trong thành phố
Kể chuyện hai người xa cách nhau
Thứ hai nữa, đây là một câu hiếm thấy trong những câu viết về tình yêu trong nhạc Trịnh Công Sơn: có mùa xuân, có cây lá đâm chổi nẩy lộc, có chim hót líu lo kể chuyện tình.
Tình yêu trong nhạc Trịnh Công Sơn có một khí hậu riêng, có một bộ mặt khác, không giống như những ca khúc viết về tình yêu của những người viết nhạc khác. Dường như ông ít khi viết một chuyện tình nào trọn vẹn, tròn đầy, ông chỉ viết phần cuối, hoặc về một tình yêu đã mất. Cứ đọc thử những cái tựa bài hát là đủ thấy: Cuối cùng cho một tình yêu, Hãy khóc đi em, Tình nhớ, Tình xa, Tình sầu... ông viết về những hạnh phúc buồn bã, những nỗi vui ngậm ngùi, những bất an bất trắc của những cuộc tình không may... Những kẻ yêu nhau trong nhạc Trịnh Công Sơn có vươn tay về phía nhau nhưng không chạm tay vào nhau được.
Nghe nhạc Trịnh Công Sơn cũng là nghe những lời đau xót, những nỗi dằn vặt, giằng xé, dày vò, những "mưa quanh chỗ nằm”, những "đêm đổ xuống đời ta", "đêm thì thầm tiếng buồn”... ở những lời ông viết ta đọc thấy những lần chia tay, những nỗi chia lìa:
Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ... (Tình xa)
Dù ngày mai em như chim bay, bỏ quên đây một người... (Hãy cứ vui như mọi ngày)
Từ lúc đưa em về, là biết xa nghìn trùng... (Như cánh vạc tay)
Đâu ngờ tình như lá úa, khiến tôi chia lìa từng giấc mơ... (Trong nỗi đau tình cờ)
Ông cũng có những lần tự thú trong tình yêu, trái tim ông quá đỗi yếu mềm đến độ lắm lúc ông rất muốn quên đi một hình bóng mà vẫn không sao quên được. Tưởng rằng đã quên chỉ là Tình nhớ nối dài. Chỉ có khác một điều, "những bước chân mềm mại đã đi vào đời người" ở Tình Nhớ, đã đổi thành, "chợt từng bước em là từng mũi đinh cuồng điên" ở Tưởng rằng đã quên. Ông đã phải thú nhận, "Tưởng rằng có thể quên đi dễ dàng một cuộc tình, nhưng hóa ra chẳng bao giờ quên được". Trái tim ông cũng đầy những mảnh vá. “Mượn cuộc tình này để xóa cuộc tình kia chỉ là một sự vá víu cho tâm hồn," ông nói, "những mảnh vá ấy chỉ đủ để làm phẳng lặng bên ngoài mà thôi...".
Có lắm lúc ông thật hồn nhiên trong tình yêu: “Tôi đã yêu em như trẻ thơ...", hoặc "tôi đã yêu em bao ngày nắng, tôi đã yêu em bao ngày mưa, yêu em bên đời lặng lẽ..., yêu em trái tim thật thà" (Trong nỗi đau tình cờ). Cách yêu của ông cũng có vẻ hơi khác thường. Ông yêu thật từ tốn, thật chậm rãi, không phải vội vàng, như người ngồi nhấm nháp và thưởng thức từng ngụm trà nhỏ, hoặc ngồi nhìn từng giọt café rót xuống từng giọt, từng giọt, trong lúc lắng nghe từng nốt nhạc... "Yêu em không cần vội vã, yêu trong nỗi vui đợi chờ” (Trong nổi đau tình cờ). Thậm chí, còn có những khi yêu em, yêu thêm tình phụ, yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ”, (Ru em) nữa. Những lời lẽ nghe dịu dàng, nhẹ nhàng và đơn sơ như vậy, nhưng lại có bao nhiêu là vết thương. Những vết thương sâu mà ông gọi là... "vết thương hồn nhiên". Những nỗi đớn đau mà ông gọi là... "niềm đau ngọt ngào" hay "nỗi đau tình cờ" (trong khi ông cũng biết chắc là khó mà ngọt ngào hay tình cờ nổi). Trong lòng ông luôn luôn dâng lên nỗi khát khao muốn được đi lại từ đầu, muốn được yêu thêm một lần nữa, muốn được bắt đầu lại một chuyện tình với trái tim mới biết yêu. Ông khẩn khoản: “Cho tôi đi xây lại chuyện tình"... (Xin cho tôi), những chuyện tình chắc hẳn đã để lại trong ông rất nhiều hối tiếc.
Trong những tình khúc Trịnh Công Sơn, tình yêu vừa là mật ngọt, vừa là mật đắng, “mật ngọt trên môi, mật đắng trong đời". Tại sao lại như vậy? Người viết những ca khúc ấy không có lời giải thích, chỉ nghe ông nói, "Con người không thể sống mà không yêu. Có người yêu thì hạnh phúc, có người yêu thì đau khổ. Nhưng dù đau khổ hay hạnh phúc, con người vẫn muốn yêu. Tình yêu vì thế mà tồn tại".
Những chuyện tình ông viết thường là những chuyện tình lặng lẽ, không sóng gió, không sôi nổi, nhưng không phải là không đắm say, nồng nàn. "Tôi xin là cây xa, đứng nhìn em rực rỡ. Tôi xin làm nụ cười, chờ em giữa đôi môi. Tôi xin làm mộng nhỏ, em vừa giấc ngủ say..." (Vì tôi cần thấy em yêu đời).
Trong nhạc tình Trịnh Công Sơn, không có những lời thề non hẹn biển, mà chỉ có “ta gặp tình cờ như là cơn gió", và những lời hẹn thề chỉ “là những cơn mưa". Cũng không có những lời thở than, sướt mướt "duyên kiếp lỡ làng rồi", mà chỉ có những lời cố làm ra vẻ hững hờ, dửng dưng như “ừ thôi em về...", hoặc là “em về hãy về đi, ta phiêu du một đời ". Chuyện gì cũng cho là tình cờ, như cơn mưa bất chợt, vội vàng đến vội vàng đi. Ngay đến cả tuổi thọ của những chuyện tình xem ra cũng chẳng dài lâu, chỉ “mong manh như nắng" và "thoảng như gió vội". "Ta gặp tình cờ như là cơn gió..." (Hoa vàng mấy độ), "Em ra đi như thoáng gió thầm..." (Tạ ơn) .
Tình đến lặng lẽ, "tình đi âm thầm, lạnh lùng như dấu chim...", trong khi ông còn ngồi lại đó, "bên đời hiu quạnh", khi mà hạnh phúc đã khô queo như một dòng suối cạn, nhưng vẫn cứ mong đợi hoài những giấc mơ sẽ không bao giờ đến. "Ta vẫn mong, ta chờ mãi trên từng ngày quạnh hiu." "Ta vẫn mong em về đây cho đời bày cuộc vui..." (Rừng xưa đã khép).
Ông cũng hay nói về những giấc mơ. Một bài hát có những lời và hình ảnh thật là đẹp nhưng lại ít được nghe ở đây đón nhận chỉ vì có những câu mà người ta không muốn nghe chút nào, chẳng hạn "thành phố vẫn có những giấc mơ...". Nghĩ cho cùng chẳng ai ngăn cấm được những giấc mơ. Ngay cả khi thân ta bị giam hãm tù đày, những giấc mơ vẫn còn được tự do. Người ta đã mơ. Và cuộc sống không thể nào thiếu được những giấc mơ. Trịnh Công Sơn có một cái tội mà ngay chính ông cũng khó lòng tha thứ cho ông được (vì có tha thứ rồi cũng sẽ tái phạm): đó là ông đã có những giấc mơ (chẳng hạn giấc mơ về thành phố mà ông đang sống, và giấc mơ nối được một vòng tay lớn). Ông đã sống cùng những giấc mơ đó, và chết cùng những giấc mơ đó. Chính những giấc mơ đó, chứ không phải ai khác, không phải điều gì khác, đã khiến ông bị oán ghét. Nhưng ông không thể nào đổ lỗi cho những giấc mơ, mặc dầu ông đã phải trả giá cho những giấc mơ ấy. Đã có người nào đó nói rằng ca khúc Trịnh Công Sơn là "những bản tình ca không có hạnh phúc", tôi nghĩ, đấy còn là những bản tình ca về những giấc mơ rạn vỡ.
“Sống mà giữ mãi trong lòng những hờn oán thì cũng nặng nề... Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn", ông nói vậy, và ta cũng nhận là đúng thôi. Khi còn sống, trong những năm cuối đời, ông có được lắm kẻ yêu và cũng nhiều người ghét, ông nhận được cả những lời ngợi ca và những câu nguyền rủa, cho ông thấy “những con mắt thù hận, cho ta đời lạnh câm" (Những con mắt trần gian). Yêu và ghét, cũng như tốt và xấu, hai mặt của cuộc sống, có khi chỉ là một. Những người ghét ông, là bởi vì trước đó họ đã trót yêu ông quá đấy thôi. Nếu không yêu ông lắm người ta đã không ghét ông nhiều đến vậy. Tình yêu biến thành tình hận. Ông giống như một người tình phụ bạc vậy. Đúng là do lỗi ông thôi, ông không thở than vào đâu được “Đời tôi ngốc dại, tự làm khô héo tôi đây..." (Chiếc lá thu phai), ông cũng chẳng từng đấm ngực tự thú đó sao. Nhưng cũng đâu có phải vì mối hận tình đó mà tấm nhan sắc kia bỗng đổi thành xấu xí, những bản tình ca kia chẳng còn ai muốn nghe... Còn những người yêu ông thì lại càng yêu ông hơn sau ngày ông lặng lẽ rời bỏ "một cõi đi về" này...
Thế còn ông, vì ông đã nói những lời trên, tôi chắc ông cũng chẳng cay đắng, hờn trách chi cuộc đời. Một người từng có những lúc "chuyện trò với lá cây" thì khó mà có thể giận hờn ai được. "Đời cho ta thế”, ông nói trong một ca khúc, có nghĩa là, dẫu có hay dở, tốt xấu thế nào ông cũng sẵn sàng và vui vẻ mở gói quà tặng của cuộc đời. Trịnh Công Sơn, ông là ai vậy? "Tôi biết rõ rằng tôi chỉ là một loài chim nhỏ hót chơi trên đầu những ngọn lau”, ông nói. Nếu không muốn nghe những lời chim hót, tôi chắc cũng chẳng ai đành lòng ném đá xua đuổi để con chim nhỏ ấy phải bay đi nơi khác.
Tôi có người bạn, nghe tin Trịnh Công Sơn mất và thấy nhiều người tỏ lòng thương tiếc người nhạc sĩ tài hoa, anh nhún vai nói: "Chẳng nên bi lụy thái quá. Có những kẻ chết nhiều lần trước khi chết thật. Cái tin này chẳng qua chỉ là xác nhận lại một cái chết từ năm bảy mươi lăm mà thôi." Thế nhưng sau đấy, có một lúc nào đó tôi nghe được từ miệng anh câu hát vu vơ: "Tình mong manh như nắng, tình còn đầy không em?..." Như vậy là anh bỏ Trịnh Công Sơn, chứ Trịnh Công Sơn đâu có bỏ anh. Tôi nghĩ là chúng ta sẽ dễ dàng quên Trịnh Công Sơn thôi nếu một ngày nào đó không còn ai hát nữa những câu nhạc tình vu vơ như vậy. Chắc là phải đợi cho đến lúc ở quanh ta không còn có những cặp tình nhân, không còn có những kẻ yêu nhau và phụ nhau, cũng không còn ai muốn nói với ai những lời tình tự ngọt ngào. Và nếu như thế, cuộc sống sẽ buồn tẻ biết chừng nào.
Nghe nhạc Trịnh Công Sơn có được chút hạnh phúc là có ông chia sớt, san sẻ cùng ta những nỗi vui, niềm đau. Ông nói hộ ta những điều ta muốn nói. Ông cũng bày tỏ, thổ lộ dùm ta những tình cảm sâu kín nhất trong ta. Khi nghe những lời ông tự vỗ về, an ủi, ta như cũng được vuốt ve, xoa dịu.
Trong những ca khúc Trịnh Công Sơn, ông đã vừa nói với ông lại vừa nói với ta nữa. Nhạc Trịnh Công Sơn như vậy, cũng có thể được gọi là những "tự tình khúc", như là tựa một bài hát của ông vậy. Có ai trong mỗi chúng ta lại chẳng có một chút Trịnh Công Sơn, theo cái nghĩa đó. Chỉ cần một chút thôi (nói theo chữ ông hay dùng) cũng đủ giúp ta có lúc tạm quên đi cái gánh nặng "đời cơm áo". Vậy thì cũng nên cám ơn ông lắm chứ, vì ông đã gánh nhẹ dùm ta những nỗi phiền muộn của đời sống, và cũng vì chút lẽ công bằng (biết đâu lại chẳng khiến ông phải ân hận mà rút lại lời trách móc nhẹ nhàng "đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng"). Và cuộc đời như thế cũng sẽ đẹp thêm lên một chút.
Nỗi cô đơn và cái chết trong nhạc Trịnh Công Sơn
Như hầu hết các nhạc sĩ sáng tác, Trịnh Công Sơn không có giọng ca tốt. Ông chỉ là người soạn ca khúc, muốn những ca khúc đó tới được người nghe, ông phải mượn đến những giọng ca khác. Ông nói giọng Huế và khi hát, ông không thoát ra được âm hưởng nằng nặng của chất giọng địa phương đó. Những ca sĩ khác làm được nhưng ông không làm được. Điều này cũng hơi bất tiện cho ông, chẳng hạn khi ông muốn giới thiệu một ca khúc mới, người nghe không dễ gì "cảm" được ca khúc ấy khi nghe ông hát lần đầu. Có thể người ta vẫn chịu khó nghe ông vì họ muốn được nghe bằng chính giọng ca của người làm nên ca khúc đó. Còn nếu ông có ý định thực hiện một dĩa nhạc chỉ với giọng hát của ông thôi tôi e rằng đấy sẽ là một trong những đĩa nhạc bán chậm nhất. Tuy nhiên, có một lần nào đó được nghe ông hát “Một cõi đi về”, tôi lại có cái cảm giác thật khác với những lần tôi nghe những ca sĩ khác hát cùng bài hát ấy. Khi ông cất giọng, giọng của ông nghe vốn đã yếu, lại như vẳng ra nỗi cô đơn thăm thẳm từ một đáy vực nào. Cái giọng hiu hắt ấy theo tôi từ câu đầu tới câu cuối bài hát. Lại thêm tiếng đàn đệm guitare nữa, không rõ có phải tiếng đàn của ông, nghe sao thật rã rời. Cùng với những lời buồn bã của bài hát ấy, tất cả như toát lên nỗi tuyệt vọng thảm sầu... Rõ ràng là tôi chưa hề nghe một giọng hát nào cô đơn đến vậy.
Nếu những ca khúc ông viết ra từ những bài đầu tiên đến những bài cuối cùng, là những bài gần đây nhất, đã trải dài suốt cuộc đời ông, đọc lại lời nhạc trong những ca khúc đó, ta như thấy nỗi cô đơn ấy cũng trải suốt những năm tháng cuộc đời ông, cũng chẳng khác chi "ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì" vậy. Những chữ "hoang vu”, "âm u” được ông dùng nhiều lần trong lời nhạc của ông. Ông như một người bước đi chập choạng trên nỗi cô đơn từng ngày. Ta tưởng tượng chỉ có một mình ông thôi trên "con đường dài vắng người" ấy. ông hay nói "một mình", cái gì cũng chỉ “một mình" thôi. "Một ngày như mọi ngày, đi về một mình tôi” , "bóng đổ một mình tôi" (Một ngày như mọi ngày), hoặc “trời cao đất rộng, một mình tôi đi; đời như vô tận, một mình tôi về, một mình tôi về với tôi" (Lặng lẽ nơi này). Câu hát “làm sao em biết đời sống buồn tênh” nghe như tiếng thở dài thật nhẹ, nhưng cũng đủ thấy lòng chùng xuống. Ông từng trải qua những nỗi cô đơn cùng tận đến có lúc ông phải tự thốt lên lời vỗ về, an ủi chính mình: “Tôi ơi, đừng tuyệt vọng”, nghe như lời kêu cứu thảm thiết để ông phải chạy lại mà cứu lấy chính ông ra khỏi vũng lầy tuyệt vọng.
Không phải là thế giới quanh ông không mang đến được Cho ông chút ý nghĩa nào để ông thấy cuộc đời đáng sống, hoặc chẳng có ai chia sớt cùng ông những niềm vui nỗi buồn trong cõi sống mịt mùng này, ông vẫn có những khi hạnh phúc, vẫn có những thú vui, thế nhưng ngay cả khi ông nói về những nỗi vui, ta vẫn nghe pha chút ngậm ngùi: “Hãy cứ vui chơi cuộc đời, dù ngày mai em như chim bay..." (Chim bay xa rồi làm sao vui được?), hoặc "hãy cứ vui như mọi ngày, bên trời còn nắng, lá trời còn xanh, phố còn người đông, rồi quên rồi quên..." (Quên được chắc cũng còn lâu lắm), hoặc "ôi trái tim phiền muộn, đã vui lại một giờ..." (Một giờ thì có ăn thua gì?).
Những ý tưởng trong bài Một cõi đi về thực ra không mới, chỉ là tổng hợp những ý đã từng được ông lặp lại nhiều lần, rải rác trong những bài trước đó. Trong những lời của bài hát ấy, có một câu khiến tôi phân vân "Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà". Ở ngoài nước người ta đã hát như vậy, ở trong nước người ta cũng hát như vậy. Vậy thì quê hương thực sự ở đâu? Ở trong tim mỗi người, có lẽ. Tôi chắc là ý ông cũng muốn nói như vậy. Ông không nói ra điều này với những người lớn, nhưng với những em bé thì ông bảo rằng" "Tim mỗi người là quê nhà nhỏ" (Em là hoa hồng nhỏ), và còn dặn dò, khuyên nhủ: "Này em trong mỗi con tim, nhớ mang quê hương của mình" (Như hòn bi xanh). Còn riêng ông thì sao? Liệu có đúng là mỗi người đều cần có một quê hương, một nơi chốn để mà trở về... (?)
Ta cũng nghe ông hay nói về gió, những làn gió bay, những hơi gió thoảng. "Em ra đi như thoáng gió thầm..." (Tạ ơn). "Lòng tôi có khi mơ hồ, tưởng mình đang là cơn gió..." (Lời thiên thu gọi). "Một ngày kia đến bờ, đời người như gió qua..." (Phôi pha). Và ông cũng hay nói đến những hẹn hò; “Những hẹn hò từ nay khép lại, thân nhẹ nhàng như mây...” (Như một lời chia tay). "Đất hoang vu khép lại hẹn hò...” (Hát cho người nằm xuống). Và ông cũng đã sắp đặt lại mọi thứ mọi việc cần làm: "Về thu xếp lại..., vội vàng thêm những phút yêu người..." (Chiếc lá thu phai). Và sau cùng, ông cũng ngỏ lời cảm tạ cuộc đời, cảm tạ mọi người, như cách mà người ta vẫn làm trước một chuyến đi xa: "Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn ai đã cho tôi còn những ngày ngồi mơ ước cùng người..." (Tạ ơn). Cái chết như một nỗi ám ảnh, như được báo trước, hay ít ra cũng được chuẩn bị. Chết là hẹn hò với lòng đất, là nói lời chia tay với cuộc đời mà ông đã sống, đã yêu thiết tha, "dù còn phút cuối, xin em nụ cười..." (Vẫn nhớ cuộc đời), và cũng là lời nói chia tay với hết thảy mọi người, những người yêu ông và ghét ông. Cái chết, thật là nhẹ nhàng đối với ông, như là “một hôm buồn ra ngắm dòng sông, một hôm buồn lên núi nằm xuống” (Tự tình khúc).
Sau cái chết của ông, ta có chút hụt hẫng. Không hụt hẫng sao được. Lâu nay vẫn có ông bên cạnh mà ta không để ý, đến lúc ông bỗng nhiên bỏ đi ta mới ngơ ngác. Ta đã cùng đi với ông một đoạn đường dài, đã lỡ theo chân ông tới đây. Rồi bỗng nhiên ông đột ngột chia tay, "bỏ mặc con đường". Trước đây, ta cảm thấy có ông đứng cạnh ta mỉm cười nói: "Hãy cứ vui chơi cuộc đời...". Còn bây giờ ta thấy ông như đứng phía trước ta, đứng giữa con đường, và ông khẽ quay lại, khẽ mỉm cười, lắc lắc đầu nói: "Thôi về đi, đường trần đâu có gì..." Rồi ông biến mất, trong lúc ta còn đứng giữa con đường. Biết làm sao bây giờ? Chắc là phải quay về thôi, phải đành nghe theo lời ông vậy. "Đường trần đâu có gì", ông nói vậy. Nhưng biết làm sao quay về. Ông “đi bỏ lại con đường, bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi...".
Từ khi ông mất, ta nghe cái chết có vẻ như nhẹ nhàng hơn, biên giới giữa sống và chết có vẻ như cận kề hơn, và ta nghe nhạc của ông dường như cũng "thấm" hơn.
MỘT CÕI ÂM THANH Nguyễn Thụy Kha
Tôi rất quý một câu thơ của Nguyễn Bắc Sơn trong tập Chiến tranh Việt Nam và tôi: “Men nhạc Trịnh Công Sơn chảy tràn đêm khuya". Cứ ngược cái thời mấy chục năm đêm... dài miền Nam vừa qua, mới thấy sức sống "chảy tràn" của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong suốt những năm tháng ấy.
Nửa cuối thập niên 1950 - 1960, - giữa lúc dòng nhạc Đoàn Chuẩn đang dần ngưng với Lá đổ muôn chiều, Chiếc lá cuối cùng và Gửi người em gái miền Nam thì dòng nhạc Cung Tiến bắt đầu giao thoa vào với Hương xưa, Thu vàng, Hoài cảm. Tiếp tục giao thoa với dòng âm nhạc Cung Tiến, năm 1958, 19 tuổi đời, Trịnh Công Sơn đã bắt đầu dòng nhạc của mình bằng Ướt mi - một ca khúc mang đậm nỗi buồn Huế. Và sau đó là miên man cho tới nay một cõi âm thanh Trịnh Công Sơn.
Giai đoạn đầu, các ca khúc Trịnh Công Sơn căn bản là tình khúc. Bằng nỗi cô đơn trong trẻo, đầy linh cảm xót xa, mất mát của tuổi đôi mươi, những tình khúc Trịnh Công Sơn khi ấy là lời thốt lên của lớp thanh niên miền Nam sống triền miên trong âu lo, trong phấp phỏng thời cuộc. Đó là những Thương một người, Chiều một mình qua phố, Biển nhớ, Hạ trắng v.v... ở Cuối cùng cho một tình yêu (thơ
Trịnh Cung), tiếng nức nở trào lên một đổ vỡ:
Một lần chia tay,
Một đời bão nổi,
Giã từ giã từ
Chiều mưa giông tới...
Làm sao em biết
Mưa ngoài song bay
Lời ca em nhỏ
Nỗi lòng anh đây...
Trong giai đoạn này, ca khúc Cho một người nằm xuống, đã báo hiệu cho một cái nhìn về chiến tranh. Thân phận những người lính ngã xuống chỉ là một mất mát đời đời:
Anh nằm xuống sau một lần vào viễn du
Đứa con xưa đã tìm về nhà,
Đất hoang vu khép lại hẹn hò...
Báo hiệu này đã dẫn tới những ca khúc phản chiến ở giai đoạn tiếp theo dòng nhạc Trịnh Công Sơn. Nhìn chiến tranh bằng cặp mắt trung thực ở tầm nhân loại, Trịnh Công Sơn đã kêu lên bức bối giữa cuộc đời "nồi da nấu thịt" nơi anh đang sống và chứng kiến:
Một ngày mùa đông hai bên là rừng
Một chiếc xe tang trái mìn nổ chậm
Người chết hai lần thịt da nát tan (Ngụ ngôn mùa đông)
Có lẽ vì cách nhìn như thế nên sau 30-4-1975, Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ miền Nam duy nhất lại có thêm nửa khối thính giả ở miền Bắc. Anh đã tạo ra thính giả bằng chất nhạc riêng của mình.
Cũng cần nói thêm rằng sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn trong thời kỳ này được chắp cánh nhờ giọng hát Khánh Ly. Cuộc trùng phùng này đã để lại một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử âm nhạc Việt Nam.
Trịnh Công Sơn bước vào địa hạt làm âm nhạc cho điện ảnh cũng từ sau giải phóng miền Nam. Mười lăm năm trôi qua, anh đã có mặt ở gần hai chục phim truyện cũng như tài liệu. Từ trong những cuốn phim, ca khúc Trịnh Công Sơn lại đĩnh đạc bước vào đời, sống một cuộc sống riêng như những ca khúc khác. Nói đến phim Tội lỗi cuối cùng không ai có thể quên được "Hiền cá sấu”. Không quên "Hiền cá sấu” tức là nhớ Phương Thanh. Nhưng làm cho khán giả nhớ đến nhân vật này, bên cạnh diễn xuất xuất sắc của Phương Thanh, còn có sự trợ giúp đắc lực của ca khúc Đời gọi em biết bao lần được viết ra cách đây một thập niên. Mỗi khi cất giọng hát lẩm nhẩm: "Đi về đâu hỡi em..." tôi lại thấy hiện lên trước mặt một "Hiền cá sấu” với số phận đầy bi kịch.
Cũng nhờ viết nhạc phim mà Trịnh Công Sơn có được một ca khúc thiếu nhi nổi tiếng: Em là bông hồng nhỏ:
Em sẽ là mùa xuân của mẹ
Em sẽ là màu nắng của cha
Em đến trường học bao điều lạ
Môi em cười là những nụ hoa...
Có một đêm hội Gala 87 ở thành phố Hồ Chí Minh, khi đến tiết mục của mình, Trịnh Công Sơn đã “xỉn xỉn", anh hát không được lôi cuốn. Khán giả bắt đầu ồn ào. Đột nhiên, Sơn chuyển sang: “Em sẽ là mùa xuân...”, thế là cả cầu trường Phan Đình Phùng lại dội lên tiếng vỗ tay rầm rập.
Lạ hơn nữa là Trịnh Công Sơn viết nhạc cho cả phim tài liệu về tập võ thuật. Ca khúc Bốn mùa thay lá nhờ thế mà ra đời. Ngày kỷ niệm 60 năm sinh nhật nhạc sĩ Văn Cao, khi nghe anh giới thiệu xuất xứ bài hát, ai cũng ở trạng thái đón đợi một cái gì cứng rắn, gập ghềnh. Nhưng khi Sơn cất giọng lên: “Bốn mùa thay lá, bốn mùa thay hoa...” thì trôi đến với người nghe lại là một âm điệu dịu dàng, mượt mà, tình cảm.
Nếu ở giai đoạn trước là sự song hành của Trịnh Công Sơn với Khánh Ly, thì ở địa hạt âm nhạc cho điện ảnh lại là song hành của Trịnh Công Sơn với Phạm Trọng Cầu. Hai người bạn, hai nhạc sĩ nhiều đồng cảm với nhau luôn cùng có mặt trong từng bộ phim. Tình bạn giữa hai anh tạo nên âm hưởng của mối giao cảm, luồn trong từng phút nhạc.
Gần đây nhất, hồi cuối tháng 3 năm 1990, nhạc sĩ có một cõi âm thanh của hơn ba mươi năm sáng tạo, của gần 500 ca khúc thoắt một cái đã trở thành diễn viên của phim truyền hình do hãng phát thanh truyền hình BBC thực hiện.
Cất đi những phóng túng trong đời sống cũng như trong âm nhạc, Trịnh Công Sơn đã tự khép mình vào kỷ luật của một diễn viên. Anh phải vội vã bay từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội và chỉ ở lại có 16 tiếng để đứng trước ống kính trong một cảnh gặp gỡ nhạc sĩ Văn Cao tại nhà riêng ở số 108 phố Yết Kiêu. Ngay sau đó, anh bay vào Huế để thực hiện một đoạn phim khác trên quê hương xanh ngắt những miệt vườn lá trúc che ngang mặt chữ điền. Rồi lại quay về thành phố Hồ Chí Minh.
Không biết nhạc sĩ có tạo ra được ngôn ngữ điện ảnh trong diễn xuất độc đáo như ngôn ngữ âm nhạc của mình không. Chắc những người vốn mến mộ Trịnh Công Sơn còn phải chờ đợi khi cuốn phim ra đời. Nhưng chắc không ai mong anh lại bỏ âm nhạc để trở thành diễn viên. Vẫn cứ mong cõi âm thanh Trịnh Công Sơn càng ngày càng thăm thẳm.
TRÒ CHUYỆN VỚI KHÁNH LY 
VỀ TRỊNH CÔNG SƠN Trường Kỳ
Ngòai anh em và người thân trong gia đình, có lẽ Khánh Ly là người gắn bó với Trịnh Công Sơn nhất. Chị đã coi Trịnh Công Sơn như một nửa đời sống của mình sau gần 40 năm gắn liền với những tác phẩm của người nghệ sĩ tài hoa.
Sang Montreal trong dịp gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn làm lễ cầu siêu cho người nhạc sĩ quá cố vào ngày 8 tháng Tư năm 2001, Khánh Ly đã dành cho người viết một cuộc nói chuyện đặc biệt, trong đó chị đã tỏ bày tâm sự của mình bằng tất cả xúc động sau cái chết của Trịnh Công
Sơn... Cuộc nói chuyện được diễn ra trên lầu nhà hàng La Famille Vietnameienne, góc đường St André và Duluth, do vợ chồng em gái nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - bà Trịnh Vĩnh Tâm và ông Hoàng Tá Thích - khai thác từ nhiều năm qua, vào lúc 7 giờ 30 tối ngày 8 tháng Tư năm 2001. Phòng khách trên lầu nơi gia đình em gái Trịnh Công Sơn cư ngụ đã từng diễn ra những buổi họp mặt thân mật và ấm cúng giữa gia đình và bạn bè của Trịnh Công Sơn trong dịp ông sang Montreal thăm các em và cháu vào năm 1992. Một mình với Khánh Ly - nơi có trưng bày một tác phẩm hội họa của Trịnh Công Sơn - trong một bầu không khí ảm đạm, người viết đã được nghe những tâm sự của chị liên quan đến Trịnh Công Sơn, vốn là người mà chị coi là "gắn bó như một định mệnh". Dưới đây là những đoạn trích nguyên văn từ những câu trả lời của Khánh Ly trong buổi nói chuyện đặc biệt này, xen lẫn với những tiếng sụt sùi, nghẹn ngào trên một khuôn mặt đượm nét u buồn...
Trường Kỳ (TK): Chị là một trong số những người ở hải ngoại biết được tin nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua đời sớm nhất. Cảm giác của chị khi nghe được tin ấy ra sao?
Khánh Ly (KL): Tôi không biết là trong trường hợp những người khác, cảm giác của họ khi nhận được tin một người thân vừa đi xa như thế nào. Nhưng mà lúc đó thì tôi hoàn toàn như một người bị đông đá! Đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng và tôi ngồi sững người trên ghế cho đến khi tôi nghe tiếng chồng tôi khóc! Lúc đó tôi mới tỉnh lại, tôi nói với nhà tôi là "Anh Sơn đi rồi”.
TK: Sau đó?
KL: Sau đó, tôi được nói chuyện với anh Thích, em rể của anh Sơn... ở thành phố này, tôi muốn xác nhận tin đó là đúng hay chỉ là tin đồn. Tôi được xác nhận là điều đó đúng và chính anh Thích lúc đó cũng gần như là rơi vào một tình trạng như tôi. Có lẽ tôi là người đầu tiên liên lạc với anh Thích.
TK: Tôi được bạn bè bên Califonia cho biết chị đã phải vào bệnh viện cấp cứu sau khi nghe tin này...
KL: Tôi có ngã từ trên ghế xuống... Tôi cảm thấy tôi thở không được nữa. Đó là ngày hôm sau, sau khi tôi liên lạc về Sài Gòn. Nhà tôi có đưa tôi đi cấp cứu và tôi nằm đến chiều thì tôi đòi về. Vì tôi muốn ở nhà để chờ tin Sài Gòn. Thực sự mà nói, cho tới bây giờ là một tuần lễ đã qua tôi vẫn thấy dường như điều đó không phải là sự thật, tôi không nghĩ rằng đó là sự thật.
TK. Nhưng đúng là anh Sơn đã ra đi. . .
KL: Có lẽ là tôi phải mất một thời gian nữa, lâu lắm tôi mới có thể tin rằng, sự ra đi của anh Sơn là chuyện có thật. Những nỗi vui đến với tôi nhanh và tôi mau quên. Nhưng cái mất mát, cái đau buồn đến với tôi, thường thấm nhập vào tôi rất là chậm và càng ngày tôi càng nhận thức được nỗi đau, nỗi khổ của mình là sự thật. Nó không phải là giấc mơ nữa! Còn đến giờ phút này tôi vẫn như là người sống ở trong một cơn mơ, giống như là sự lặp lại của một ngày vào tháng Tư năm 1975. Đó là ngày 29 tháng Tư năm 1975 khi tôi rời Sài Gòn. Phải đến 15 năm sau khi rời xa Việt Nam tôi mới nhận thức được, tôi mới chịu nhìn nhận rằng là tôi đã thực sự ở xa Việt Nam.
TK. Trường hợp của anh Sơn đối với chị cũng như vậy?
KL: Tôi nghĩ là ông Trịnh Công Sơn đi xa, đi đâu đó một vài giờ đồng hồ, một vài ngày như ông thường đi ra quán nghệ sĩ mỗi buổi sáng để gặp các bạn bè của ông. Dẫu rằng ông chỉ ra đó, ông ngồi uống một ly trà rồi ông đi bộ về. Bây giờ tôi vẫn còn cái cảm giác đó là một lát nữa đây có thể là ông sẽ trở về. Tại vì ở thành phố này là nơi mà năm 1992 tôi được gặp ông. Cũng trong căn phòng này, chúng tôi đã quây quần với các em của ông, các cháu của ông, các bạn của ông. Chúng tôi đã ngồi đây rất hạnh phúc trong một khoảng thời gian mấy tháng trời. Và cũng có lúc ông đi ra ngoài quán cà phê ngồi để nhìn những người khách lạ đi qua đi lại. Bây giờ tôi cũng nghĩ rằng không có mặt ông ở đây chắc là ông đang còn ở một quán cà phê nào đó và ông sẽ trở về kịp bữa cơm tối nay.
TK. Chị đã gặp anh Sơn lần nào sau năm 1975?
KL: Lần đầu tiên tôi gặp ông Trịnh Công Sơn sau năm 1975 là năm 1988 tại Paris. Rồi đến năm 1992 thì tại Canada, tại đây. Đến năm 1997 tôi về với phái đoàn Nhật Bản và năm ngoái, tháng Năm, tôi cũng về với phái đoàn Nhật để hát cho một cuộn phim nói về một người ký giả Nhật đã chết ở Việt Nam. Và khi tìm được xác của anh thì trong túi của anh vẫn còn một cuốn cassette nhạc của ông Trịnh
Công Sơn do tôi hát. Trong suốt thời gian đó, sau những giờ làm việc với phái đoàn của Nhật, của hãng phim Nhật tôi dành hết thì giờ để được nói chuyện với ông Trịnh Công Sơn, được ngồi với ông và một số bạn bè như Lan Ngọc, như Hồng Vân, như anh Nguyễn ánh 9, anh Nguyễn Ngọc Thạch, thoáng gặp Cẩm Vân một lần. Và Hồng Vân, Lan Ngọc là những người bạn, những người em cũ; anh Nguyễn ánh 9 thì lại là người quá thân, một nhạc sĩ mà tôi rất là quý mến. Đồng thời tôi cũng được gặp Bảo Phúc. Bảo Phúc tập nhạc cho tôi tại nhà của anh Sơn. Và anh Sơn đã chỉ cho tôi hát bài “Đồng dao 2000" và bài “Tiến thoái lưỡng nan".
TK. Như vậy vào tháng Năm năm ngoái là lần cuối chị gặp anh Sơn?
KL: Dạ! Đó là lần cuối. Thật ra sau Tết tôi nghe tin anh Sơn nhập viện, tôi có dự định về thăm anh. Nhưng rồi chính tôi cũng lại không được khỏe cho nên tôi hoãn lại. Và đến khi tôi nghe anh Thích và chị Tâm từ Việt Nam về cho biết là tình hình sức khỏe anh Sơn đã khá tôi cũng mừng. Tôi cũng mừng và nghĩ rằng có thể là tôi thu xếp để từ giờ đến cuối năm về thăm anh. Nhưng không ngờ là chỉ có mấy ngày sau thì tôi được tin anh đã nhập viện và bị "coma".
TK: Được biết ở Việt Nam có tin cho là chị sẽ về dự lễ an táng anh Sơn?
KL: Tôi biết, có nhiều người e-mail cho tôi và ở bên úc cũng liên lạc cho tôi biết về tin đồn này. Nhưng tôi nghĩ là tôi về thì cũng chẳng còn được nhìn thấy anh. Mà nhiều khi sự có mặt của tôi cũng trở thành thừa thãi và cũng. . . chẳng có ích lợi gì cho ai? Cho nên ngày hôm nay tôi có mặt ở đây cùng với những người cháu của ông Trịnh Công Sơn và ông Hoàng Tá Thích là em rể của ông Trịnh Công Sơn để làm lễ cầu siêu cho ông Sơn thì cũng là một sự gặp gỡ, chia xẻ trong gia đình. Tôi nghĩ là về Việt Nam hay qua đây thì cũng giống nhau thôi!
TK. Nhưng thật sự trong thâm tâm chị có muốn về Việt Nam ngay sau khi nghe tin anh Sơn qua đời?
KL: Tôi rất muốn! Tôi rất muốn! Nhưng tôi suy nghĩ kỹ thì tôi thấy là tôi không nên về!
TK: Tại sao chị cho là chị không nên về, nghĩ sao khi nói câu đó?
KL: Bởi vì như tôi đã trình bày là tôi không được thấy mặt ông nữa... và... tôi cũng chẳng muốn cho ai thấy mặt tôi ở Việt Nam trong những giờ phút đó?
TK. Khi nói chuyện với chị sáng nay tại lễ cầu siêu cho anh Sơn, tôi có nghe chị nói giữa chị và anh Sơn có một sự liên hệ lạ lùng. Sự liên hệ chị cho là lạ lùng đó như thế nào?
KL: À cái sự liên hệ giữa ông Trịnh Công Sơn với tôi đã kéo dài một thời gian quá lâu. Một sự gắn bó định mệnh. Ông Trịnh Công Sơn có thể có những giây phút không nhớ đến tôi. Nhưng riêng tôi thì lúc nào tôi cũng nhớ đến ông. Bởi vì như tôi đã nói, ông là một nửa đời sống của tôi. Và ngay bây giờ khi tôi nói những lời này, thực sự tôi muốn thưa cùng tất cả là tôi không biết tôi còn hát nổi nữa hay không. Có thể tôi sẽ từ giã... bây giờ điều tôi mơ ước nhất là nếu tôi có thể tan biến đi ra khỏi cuộc đời này hoặc là tôi sẽ không thức dậy sau một đêm, sau một giấc ngủ thì có lẽ điều đó tốt cho tôi hơn!
TK: Như chị đã nói, Trịnh Công Sơn là nửa đời sống của chị, thì đó là một sự liên hệ về mặt tình cảm hay văn nghệ thuần túy hoặc là một sự liên hệ nào khác?
KL: Ông Trịnh Công Sơn và tôi có một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là những tình cảm đời thường. Và vì tôi được gần ông Trịnh Công Sơn nhiều và tôi được ông cắt nghĩa rõ ràng những tác phẩm, nhạc phẩm của ông. Cho nên cảm nhận của tôi là mối liên hệ tình cảm đó phải vượt lên trên tất cả những tình cảm của đời thường. Bởi vì ông Trịnh Công Sơn, điều vĩ đại nhất, vĩ đại hơn cả những tác phẩm của ông là nhân cách, nhân phẩm của ông. Ông là người nhạc sĩ duy nhất đã sống trong đời sống này có một tấm lòng không có thù hận. Và phải hiểu những tác phẩm của ông thì mới có thể nói và yêu thương ông, nếu không hiểu những tác phẩm của ông thì tất cả những điều nói về ông có thể là sai, là không đúng sự thật! Trong lúc này thì thật ra tôi cũng xin phép là tôi không dám nói nhiều, nhưng tôi hy vọng trong cuốn sách tôi sẽ in trước khi tôi từ giã. Tôi sẽ xin được kể lại rất là thật thà, tất cả mọi chuyện từ khởi đầu cho đến kết thúc, quan hệ tình cảm giữa ông Trịnh Công Sơn và tôi. Còn bây giờ tôi xin phép cho tôi được giữ riêng một số những kỷ niệm rất riêng tư giữa chúng tôi.
TK: Khi nào sách sẽ phát hành và tựa đề là gì?
KL: Tôi dự định in cuốn sách đó trong năm 2000 vừa qua, nhưng tôi cũng chưa đủ phương tiện và tôi cũng cảm thấy có nhiều điều còn thiếu sót cho nên có lẽ là năm tới tôi hy vọng sẽ hoàn tất được cuốn sách đó. Và tôi đã lựa cho cuốn sách đó một cái tựa cách đây trên 10 năm là: "Đằng Sau Những Nụ Cười”.
TK: Chị vừa nhắc đến câu "trước khi tôi từ giã". Chị muốn nói lên điều gì qua câu đó?
KL: Thưa anh, thực sự ngay bây giờ khi tôi ngồi đây với anh, tôi không nghĩ là tôi có cất nổi tiếng hát nữa hay không. Và tôi cũng không biết là tôi còn sống tới ngày nào, tôi cũng không biết là tôi sẽ đi lúc nào nữa! Thành ra tất cả những cái gì mà tôi đã viết nếu còn dang dở thì cũng đành chịu thôi. Và nhà tôi sẽ là người cho in ấn cuốn sách đó với những điều còn dang dở. Cứ coi giống như là một câu chuyện nửa đường đứt gánh vậy thôi. Cũng như một đời người vậy! Tôi không thể nói chắc được bất cứ chuyện gì trong giây phút này.
TK. Là người hiểu rõ những tác phẩm của Trịnh Công Sơn, như chị nói, và chị cũng là người đã trình bày rất nhiều nhạc phẩm của anh Sơn. Đối với chị, chị yêu thích những nhạc phẩm nào nhất?
KL: Có nhiều người yêu những bản tình ca của ông Trịnh Công Sơn . Riêng tôi thì tôi thấy... tôi lại yêu những Ca Khúc Da Vàng hơn bởi vì nó lớn hơn tình ca. Tình ca ai viết cũng được, mỗi người viết theo cái cảm xúc của trái tim mình. Và trong những bản tình ca của ông Trịnh Công Sơn, ai cũng nhìn thấy mình ở trong đó, nhất là tôi? Luôn luôn tôi nhìn thấy tôi ở trong tất cả những bản tình ca của ông. Riêng Ca Khúc Da Vàng, tôi còn nhìn thấy cả một quê hương, cả những mơ ước, cả những đớn đau, thân phận của một dân tộc, mơ ước của cả một dân tộc về một nền hòa bình, về một sự thống nhất, một đất nước sau một cuộc nội chiến quá đau thương. Và đó là cái điều mà cả tôi, và tôi nghĩ rằng rất nhiều người, đều mơ ước được sống, được ở lại Việt Nam trong sự thống nhất một đất nước Việt Nam với tự do, với hạnh phúc thực sự.
TK. Anh Sơn đã sáng tác những nhạc phẩm nào dành riêng cho chị?
KL: Tôi nghĩ là cũng có... tôi nghĩ là cũng có! Anh Sơn cũng có nói với tôi... nói với tôi ở đây cùng với tất cả các anh em ở đây, đặc biệt nhất là bài "Rơi Lệ Ru Người" anh viết sau năm 1975 khi anh nghĩ là tôi đã chết trên biển Đông, và anh đã viết bài đó cho tôi. Rồi mãi đến năm 1990, 1991 anh mới tìm lại được bài hát đó và anh đã tập cho tôi khi anh qua đây năm 1992. Còn những bài khác thì bằng cách này và cách khác, chúng tôi có những cách nói với nhau mà không ai biết được, đó là cái cách nói mà không thành tiếng và chỉ nói bằng mắt mà thôi.
TK. Còn riêng về con người của Trịnh Công Sơn, chị có những nhận xét gì?
KL: Ông Trịnh Công Sơn là người nhạc sĩ duy nhất chỉ sống cho người mà không sống cho mình. Cái ông quan tâm đến là gia đình, là bạn bè, là anh em. Và trên hết là dân tộc, là quê hương. Có nghĩa ông là người Việt Nam và ông yêu quê hương, yêu Tổ quốc. Cho nên tôi đã nói ông ở lại Việt Nam là điều đúng. Và ông đã ở lại Việt Nam, ông đã sống những tháng ngày ở Việt Nam sau năm 1975 bằng cả một tấm lòng, một tấm lòng, một trái tim không nặng nề cho dẫu là có những đau đớn ông phải trải qua, có những nỗi oan ông phải gánh chịu. Và chính những điều đó khiến hình ảnh của ông lại càng trở nên vĩ đại hơn, lớn lao hơn trong trái tim của tôi, trong sự suy nghĩ của tôi.
TK. Có thể đây là một chi tiết nhiều người đã biết, tuy nhiên trong dịp này xin chị nhắc lại về trường hợp chị gặp anh Sơn?
KL: Cũng là tình cờ thôi! Tôi là người may mắn được gặp ông Trịnh Công Sơn năm 1964 và đến năm 1967 thì tôi bắt đầu được hát cùng với ông. Ông là hình, tôi là bóng. Và tôi đã được sống cùng với tên tuổi của ông từ năm 1967, nếu phải kể thì phải từ năm 1964 cho tới bây giờ.
TK: Và từ đó, nhờ anh Sơn chị mới có được thành công, mới tạo được tên tuổi?
KL: Từ ông Sơn cũng như tôi đã thưa nhiều lần là nhờ ông, mọi người mới biết đến tôi và tôi mới được sự thương yêu của mọi người, tôi mới thành nhân và mới thành danh. Do đó chẳng bao giờ tôi quên được lời ông dặn tôi là phải ráng sống với một tấm lòng, sống với mọi người bằng sự tử tế và hãy làm những điều gì tốt đẹp nhất cho Việt Nam, có nghĩa là cho quê hương của chúng tôi.
TK: Và chị đã luôn thực hành lời dặn này?
KL: Dĩ nhiên là tôi làm, tôi cố gắng trong khả năng. Dĩ nhiên là trong đời sống của một người tôi khó có thể nói rằng mình là một người hoàn hảo, không bao giờ làm một điều gì lầm lỗi. Nhưng kể từ ngày ra đời cho đến bây giờ, rồi từ lúc được biết ông Trịnh Công Sơn chưa bao giờ tôi phạm phải một cái lầm lỗi nào. Tôi chưa bao giờ làm cho ai phải đau đớn mà tôi cũng chưa bao giờ phụ lòng tin của ông
Trịnh Công Sơn là sống với mọi người bằng sự tử tế, bằng một tấm lòng mà ông Sơn đã dạy tôi. Từ những ngày tôi còn trẻ cho tới bây giờ, tôi nghĩ là tôi không làm cho ông Trịnh Công Sơn thất vọng, cũng như là ông Trịnh Công Sơn không hề phụ lại lòng yêu thương của những người đã thương yêu ông Sơn trong suốt mấy chục năm qua.
TK: Mọi người cho là nếu không có Trịnh Công Sơn sẽ không có Khánh Ly. Chị có cho nhận xét này là đúng?
KL: Tôi luôn luôn nói rằng nếu không có ông Trịnh Công Sơn thì sẽ không có tôi. Có thể tôi vẫn chỉ là một cái bóng mờ nào đó hoặc là tôi sẽ có một cái đường đi nó chật hẹp hơn. Do đó.., tôi luôn luôn nghĩ rằng tôi may mắn đã có được sự giúp đỡ, sự an ủi, dạy bảo, nâng đỡ của ông Trịnh Công Sơn. Và tôi không bao giờ quên cái ơn nghĩa này.
TK. Qua sự thành công của chị, có thể nói chị là một người may mắn?
KL: Tôi một người có rất nhiều may mắn, nhưng đồng thời cũng là một người có rất nhiều bất hạnh. Được may mắn nhiều và cũng đón nhận được nhiều bất hạnh. Tôi chịu nhiều cái tang trong đời sống, nhiều cái tang mà không bao giờ tôi quên. Và mỗi người đi thì để lại trong tim tôi một vết thương. Bây giờ trong trái tim của tôi chỉ còn một chỗ rất là nhỏ nhoi là còn nguyên vẹn. Và cái mảnh tim nguyên vẹn đó còn lại, tôi muốn xin để ghi nhớ ân tình của tất cả mọi khán thính giả ở khắp nơi đã yêu thương tôi, của các con tôi và của chồng tôi. Bởi vì một người giống như tôi khó có thể nào mà chịu đựng được quá nhiều bất hạnh như vậy trong cuộc sống. Những bất hạnh mà những may mắn khó đền bù nổi. Tôi tin là sẽ có người khi nghe tâm sự này của tôi sẽ hiểu những điều mà tôi nói là thật.
Những điều tôi nói đúng theo lời ông Trịnh Công Sơn dạy là sự tử tế tôi muốn gửi đến mọi người. Nếu tôi có đi xa thì cũng xin như một lời chia tay. Tôi cũng xin một giọt nước mắt của những người đã vì ông Trịnh Công Sơn mà yêu thương tôi.
TRỊNH CÔNG SƠN, NƠI VÙNG ƯU TƯ 
THÀNH TIẾNG DU CA Thái Kim Lan
Dẫu biết rằng trong mấy mươi năm hễ ở đâu có Sơn và tiếng hát của Sơn thì cái vòng này càng nới rộng ra, như những làn sóng, khởi đầu từ một điểm xoáy nơi nào đó ở
Huế, có thể nơi khúc sông Bến Ngự, hay nơi hồ Tịnh Tâm, hay ở bến Bao Vinh hay ở đồi Vạn Niên, ở đó Sơn ném một viên sỏi là tiếng hát của mình vào đấy và làn sóng lan ra, từ thế hệ chúng tôi cho đến thế hệ trẻ ngày hôm nay, từ Huế, đến Sài Gòn, Hà Nội, Cà Mau hay Lạng Sơn, vượt qua mấy lần đại dương và cái vòng quây quần quả đất bao la, hôm qua, ngày nay và có lẽ mai sau...
Sơn là tiếng hát -Trịnh Công Sơn của mọi người như tôi vẫn thấy chiều hôm ấy - hay bởi mình muốn thấy như vậy - Sơn như vừa mới đứng dậy ra ngoài châm điếu thuốc, rồi sẽ trở lại ngồi giữa chúng tôi, trong vòng bạn bè, có thể chỉ là ba, hay bốn hay mười hay hai mươi đứa, ở Huế, tại nhà một người bạn nào đó, Chỉ, ý, Tường, Tôn, Hùng, MLan, Điền, Hạnh, Thọ, Kỳ, Lý... ở nơi điểm xoáy sâu nhất của sông Hương - là vùng tâm tư của những người bạn đang tuổi thanh xuân - ngồi yên, ít lời, đôi môi mỏng thoáng nụ cười, mi mắt chớp sau gọng kính trên chiếc mũi thanh lắng nghe những nổi sôi, những phiền muộn quanh mình, như lắng nghe chính con tim mình... trong vùng - tôi xin gọi là -
Vùng ưu tư của Huế những năm 1960
Chính trong những năm tháng ấy, lần đầu tiên tôi gặp “bộ ba" (chữ của HPNT) Trường - Cường - Sơn.
Nguyên do thật là rất "Huế , có thể tìm thấy rải rác đâu đó trong các bài hát của Sơn.
Một buổi chiều nắng vàng chiếu nghiêng trên nón lá, đường phố chính vắng người, không gian yên tĩnh có thể nghe thấy cả tiếng thời gian, chỉ rộn rã tiếng guốc của mấy cô nữ sinh viên - (đã có thể là B Diễm, T Mai, Han, KLan hay , Mươi, NB, DL, KL) đi dạo phố mua sách vở,tà áo lụa lướt bay trong nắng, bụi mờ đàng xa, và có một chàng trai xa lạ nào, có lẽ từ xứ Quảng ra, "chiều một mình qua phố", - đang đứng ngơ ngác nhìn đường phố, bỗng tà áo lụa như có sức hút nam châm, chàng trai thấy mình thơ thẩn bước theo.
Chiều hôm sau nghe báo có anh Tường đến thăm mượn sách, lúc ấy anh Tường tuy đã dạy văn nhưng học thêm môn cử nhân triết cùng khóa với tôi, anh đến với hai người bạn nữa, “cái người hôm qua đi theo tà áo lụa" và người kia là Sơn, "đi theo cho vui" như Sơn bảo. Chiều hôm sau nữa thì tôi cũng biết thêm là trong nhóm bạn của mình, có đứa là "bạn" của Sơn.
Huế nhỏ bé là như thế ấy, người này là bạn của bạn của bạn của bạn... và bạn bè thành ra những vòng tròn quây quần với nhau. Chỉ cần một tiếng “Ới" của thằng bạn ở trước ngõ là đứa trong nhà đã vội vàng với cái mũ bê rê dắt xe đạp ra mà đi rong suốt ngày làm cho cả nhà chới với chờ cơm... Anh Tường hôm ấy thao thao, vì lấy cớ đi mượn sách nên phải nói về sách. Chúng tôi trao đổi với nhau một vài đoạn về chủ nghĩa hiện sinh trong cuốn Hữu thể và hư vô của J. P. Sartre, một chút về ý niệm thời gian của Heidegger, mà chúng tôi đang đọc ở trường.
Sơn ngồi nghe chúng tôi bàn cãi, phân tích, hình như Sơn không bao giờ thay đổi dáng ngồi của mình, khi nào cũng như thế, tham dự nhưng không ồn ào, hiền hậu và luôn luôn thoải mái như khi ở giữa đám bạn thân, lắng nghe, chú ý mà không chút chi cố gắng, ít tranh cãi, dễ thân thiện tự nhiên, một phút phù phiếm và mỏi mệt nơi dáng người, và ánh mắt xa xôi với những chuyện cãi vã cốt dành phần lý về mình cũng như với mục đích khoa danh mà mỗi người sinh viên Huế thời ấy thường đặt ra cho mình.
Gió phương Tây
Chủ nghĩa hiện sinh với Heidegeer, J. P. Sartre, A. Camus, phong trào điện ảnh với Jean Luc Godard, thể điệu “chason" với Juliette Greco, F. Hardy ở phương Tây đã đến với lớp trẻ chúng tôi trong những năm của thập niên 60 như một làn gió chướng thổi qua cái thành phố Huế, nhỏ bé, đóng khung, còn rất cổ kính trong cách nghĩ, cách làm ấy.
Những danh từ “hiện sinh buồn chán”, “lo âu” (angoisse, Angst) "hư vô", “thời gian", "hữu hạn" và vô hạn", "nôn mửa”, thân phận con người, sự vô nghĩa của cuộc đời, nỗi hoài công phi lý của Sisyphus (*), ý niệm về siêu hình, bản thể học (ontologie) đã như những tiếng gõ bí ẩn vào cánh cửa tâm hồn của lớp thanh niên trẻ chúng tôi thời ấy như những mời gọi phiêu lưu vào những vùng đất lạ của tri thức - Bây giờ nhìn lại thì mình dại khờ, bởi chính những tư tưởng mới này chẳng có chi là mới so với triết lý Phật giáo cả - thế nhưng lúc ấy chúng có một sức thu hút quyến rũ kỳ lạ trong cái khung cảnh đều đều êm đềm của xứ Huế, thành trì của thủ cựu và khuôn sáo, là những hàng rào ước lệ mà lớp trẻ thường hay muốn vượt qua.
Chúng tôi thường gặp nhau để kể cho nhau nghe về một quyển sách đã đọc, soạn bàn, tranh luận.
Và có lần với cây đàn ghi ta, Sơn bắt đầu hát cho chúng tôi nghe.
Ưu tư và du ca
Khi nghe Sơn hát tôi giật mình.
Vì Sơn hát... môn “siêu hình học" về cuộc đời, về tình yêu đấy!?, cái môn mà những "con sâu gạo triết" (Đinh Cường) là chúng tôi đang còn "bể đầu , đang chật vật với nó, - nhưng ngược lại, chẳng có một chút khô khan, trừu tượng, gượng ép hay kỳ quặc gì cả, - Sơn "hát triết học" như một bà mẹ Huế có giọng nói hay nhất trên đời kể câu chuyện cổ tích Tấm Cám.
(*) Sisyphus: Nhân vật trong huyền thoại Hy Lạp, con của Aiolos và nữ hoàng Korinth, nổi tiếng là tinh ranh quỷ quyệt đã dám bắt thần chết trói lại để cho con người khỏi phải chết, sau đó bị trừng phạt vì tội ấy suốt đời phải lăn một tảng đá lên núi, nhưng khi đến nơi thì tảng đá lại rớt xuống và Sisyphus lại phải bắt đầu lại công việc lăn đá lên núi.
Như một con ve vừa mới thoát xác lần thứ mấy mươi nghìn năm từ lòng đất của Huế, đã đi về thường xuyên trong tâm thức Huế, đã rung động và cảm ứng với trời - đất Huế, với một âm điệu giản đơn thoát từ gam trầm của giọng Huế, Sơn đã trả lời trong cảm ứng vô thức những tiếng gõ cửa từ phương xa và giải thể chúng tôi khỏi ngõ bí của tư duy.
Trong cái không khí sôi nổi của tuổi trẻ đô thị ham mê siêu hình, Sơn đã bắt đầu hát thay vì cãi nhau, thay vì lý luận dông dài với đám bạn bè, với cả thiên hạ, Sơn hát "cho vui” với anh em như Sơn thường nói, Sơn hát như một sự tham dự vào những đàm luận của bạn bè thuở đó và về sau của cả thiên hạ, mà đúng thật, Sơn hát với những ưu tư thầm kín nhất của tuổi hai mươi chúng tôi, với những tư duy của thế hệ trẻ chúng tôi với một cách "đặt vấn đề," - biệt ngữ của phong trào học Triết học siêu hình thời ấy, - khác với những người nhạc sĩ đi trước.
Sơn hát như cách thế "cởi dép đội lên đầu” đi ra khỏi giảng đường của Thiền Sư Triều Châu (*) không phải là để bỏ đi, từ chối, mà là một cách thế mở ngỏ cho sự sống như Triều Châu.
(*) công án Triều Châu: "Một hôm trong thư viện của Hòa Thượng Nam Tuyền, tăng chúng ởđông và tây dường tranh nhau một con mèo. Nam Tuyền cầm con mèo giơ lên nói: Đại chúng nếu có ai được (đắc đạo) thì cưu mang cho mèo, bằng nói không được (đạo bất đắc) thì ta sẽ chém mèo vậy!". Chúng chẳng ai nói được. Nam Tuyền bèn chém mèo. Chiều đến. Triều Châu về. Nam Tuyền đem chuyện kể lại cho Triều Châu. Triều Châu bèn cởi giầy để lên đầu rồi đi ra. Nam Tuyền nói. "Nếu như có ông ở đó, hẳn đã cứu được mạng cho mèo rồi".
Sơn hát đề tài "có cái gì là khởi đầu, có gì là cái cuối cùng" -- ngõ bí của triết học đấy - nhưng với chất keo của một điệu ca bông đùa diễu cợt, và một chút ranh mãnh hiền triết của một thiền sư thõng tay vào chợ, Sơn hát "không có đâu em này, không có cái chết đầu tiên, và có đâu bao giờ, đâu có cái chết sau cùng...”, hát như con bé điên cứ đánh lưỡi tùy theo cảm hứng của nó lúc chạy theo chế diễu mọi người ở trên một đường phố nhỏ của Huế.
Người nghe có thấy mâu thuẫn hay không cũng phải mỉm cười, và bỗng ngộ được tính phi lý của sự đối nghịch trước sau.
Sơn hát đề tài "bản thể và hư vô" và nhắc chúng tôi tìm về dòng sông Hương nhìn nước chảy, để “thấy" hay "nghe" “tay hư vô thắp nến, chiều chơi vơi lên cao, rồi dòng sông cũng qua mau, đưa người gợi mối sầu..." trong một giai điệu tiếng nước chảy ngược về nội tâm, để thấy sông không chảy mà tâm mình đang chảy... Ai định nghĩa được hư vô? Khổng Tử cũng đã đến dòng sông để thể nghiệm với tiếng thở dài “nước trôi mãi như thế ư?". Phạm Duy hát "Tim nghe nước chảy về đâu” trong một cảm giác buồn bã trôi xuôi. Với ý niệm hư vô, Sơn đặt lại vấn đề và giải mã "sự biến đổi" "sự chảy đi" của dòng sông với cảm tính triết học của mình trong âm giai sâu lắng, giữa tỉnh và mê, giữa buồn bã và giác ngộ.
Sơn hát đề tài “nỗi hoài công của Sysiphus", bằng tiếng vang của “vết lăn trầm... phiến đá quanh", của mùa thu bay đi với vòng tay buồn ôm nuối tiếc và đưa ta về với khung cảnh Huế - không phải Huế thơ mộng mà là một Huế như chốn “lưu đày" đồng thời "quê nhà" trong nỗi nhớ, - bằng một tiếng than dài như xâu chuỗi âm hưởng quấn quýt luân hồi...
Cũng phải nói thêm rằng thuở ấy, việc “đi hát" đối với các vị cha mẹ người Huế là một chuyện đáng nghi ngờ, nền nếp gia phong được rào lại kín cổng cao tường, không ai muốn cho con mình đi đàn đúm rong chơi với những kẻ lãng tử giang hồ. Những bài hát mới do đó đối với chúng tôi thường như những trái cấm.
Cho nên bài hát đầu tiên của Sơn mà chúng tôi hát là một bài hát chuyền tay nhau: Nhìn những mùa thu đi.
Bài ca có lẽ đã bỏ trong túi lâu ngày, chưa được phổ biến, đến tay chúng tôi thì mực đã nhạt nhòe, chúng tôi xúm nhau lại trên thềm xi măng của một gian phòng rộng lớn gọi là hội trường của Ty cảnh sát thành phố Huế (bây giờ là Đại học Sư phạm Huế) lúc ấy tạm sử dụng làm phòng giam những thành phần trí thức Phật tử trong phong trào đòi bình đẳng tôn giáo do việc cấm treo cờ Phật giáo vào ngày Phật Đản 1963 và việc xe tăng cán chết 14 em trong gia đình Phật tử vào đêm Phật Đản tại thành phố Huế - để tập hát. Chúng tôi, sinh viên Phật tử, gia đình Phật tử, các giáo viên và giáo sư đều đồng thời bị bắt một loạt đêm 20; 08/63 - đêm các chùa bị tổng tấn công trên khắp miền Nam Việt Nam, có người đang ngủ ở nhà cũng bị mời vào, như trường hợp của Hoàng Phủ Ngọc Tường - hồi ấy Hoàng Phủ Ngọc Tường không nằm trong đoàn Sinh viên Phật tử, - trong túi áo của anh mảnh giấy Nhìn nhũng mùa thu đi đã trở thành bài hát “cho đỡ buồn" (cũng như Sơn đã nói hát cho vui) trong suốt những ngày tháng bị giam cầm của chúng tôi.
Huế dạo ấy đang độ vào thu, ban đêm mưa sầm sập trên mái ngói, buổi sáng sớm trời trong trẻo, một thứ trong suốt như đóng đinh vạn vật dừng lại ở một điểm cố định, cây bàng độc nhất trong sân đứng với mấy chiếc lá đỏ trên cành, chúng tôi ngồi... "tay trơn” trên nền nhà - trẻ măng là mớ tóc và vầng trán, trẻ măng là sự ôm những lý tưởng, những hoài vọng, những ước ao, những đợi chờ của tuổi hai mươi, - và chúng tôi đã đếm ngày tháng bằng Nhìn những mùa thu đi...
Buổi sáng sớm, khi mưa vẫn còn rỉ rả ngoài sân, nhóm phụ nữ còn nằm trên... "sân khấu” của hội trường - (hội trường là nơi tạm giam chung nam nữ những thành phần trí thức và sinh viên, học sinh Phật tử đã biểu tình, tuyệt thực chưa được định tội rõ ràng - vì tội trạng chưa được rõ ràng nên chúng tôi có thể di chuyển thoải mái trong phòng và được đối xử tương đối tử tế - ban đầu có đến 500 người, sau đó được thả ra dần dần, còn lại khoảng 50, 60 người, được chúng tôi lấy ghế ngăn lại làm hai trạm nghỉ: phần trên sân khấu dành cho phụ nữ cắm lều mùng mền, phần dưới sân khấu dành cho nam giới cắm trại) thì chúng tôi đã được điểm tâm bằng tiếng huýt sáo của ai đó đứng ngoài hiên nhìn mưa "Nhìn những mùa thu đi, anh nghe buồn lên trên ấy, và lá rụng ngoài song...", buổi xế trưa bỗng nghe có ai cao giọng lê thê "Gió heo may đã về, chiều tím loang vỉa hè nhìn mùa thu bay đi" và buổi tối có giọng ai âm thầm ở trong một góc phòng của hậu trường “và lá rụng ngoài song, nghe tên mình vào quên lãng, nghe tháng ngày chết trong thu vàng... thương cho mình... lạnh lùng thêm". Chưa bao giờ trong đời tôi, đã nghe và đã hát một bài hát nhiều lần và trong một quãng thời gian dài liên tiếp ba tháng như thế.
Bài nhạc thật đơn giản về âm giai thể điệu, đề tài mùa thu, một đề tài quen thuộc trong thi ca rất dễ bị rơi vào sáo ngữ, đã có Tiếng thu của Lưu Trọng Lư không tiền khoáng hậu, đã có Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong khó quên trong lòng người, Thu vàng của Cung Tiến âm vang, nhưng Nhìn những mùa thu đi đã là bước đầu thành công của cuộc hành trình ca khúc Trịnh Công Sơn.
Có thể nói hành trình ca khúc Trịnh Công Sơn thực sự bắt đầu từ Nhìn những mùa thu đi chứ không phải Ướt mi, dù Ướt mi đã làm cho người ta biết đến Sơn.
Bởi vì với Nhìn những mùa thu đi Sơn đã đưa chúng ta đến một cảm nhận mới, một thể cách "tân thanh" đến từ chính ý thức của người nghe: chúng ta hát Nhìn những mùa thu đi bằng mỗi "Cái Nhìn” mùa thu như một thể cách “tự mình biết riêng mình", một thể nghiệm riêng cho mỗi cảm nhận lời ca của mỗi một cá nhân. Chúng ta hát "Cái Nhìn" của chúng ta, vào một buổi sáng mai thức dậy bỗng nghe gió heo may lùa vào khe cửa hay vào một buổi trưa nắng le lói trên vỉa hè của đường phố thưa thớt người qua lại hay vào buổi chiều tím bên song. Nỗi "Nhìn" mùa thu trở thành sự rung động mùa thu.
Tôi nhớ đến chữ "Kiến Tính" của Huệ Năng khi ngài xây dựng quan điểm thiền học mới mẻ của mình, thay vì “Thân thị Bồ đề thọ . . . Tâm như minh cảnh đài" của Thần Tú, Huệ Năng đã đổi cách nhìn cuộc đời một cách vật lý so sánh thụ động bằng "Cái Nhìn" sinh động vào bản chất thực sự của sự vật trong tính chuyển đổi sáng tạo của nó “Bồ đề bổn vô thọ, Minh cảnh diệt phi đài". Với "cái nhìn vô niệm" vào diệu dụng của "vô" và "phi", Huệ Năng đã đưa Thiền học vào một con đường dẫn đến giác ngộ đầy sinh động và sáng tạo.
Cũng thế, trong hành trình ca khúc của Sơn, với “Nhìn" những mùa thu đi theo tôi nghĩ Sơn đã mở ra bằng "Cái Nhìn" của mình một thế giới âm thanh mới và lạ, thể cách và âm điệu sinh động vượt ra khỏi những cảm nghĩ khuôn sáo cũ, đi thẳng vào tâm thức người nghe, làm tiền đề cho tiếng hát Trịnh Công Sơn, và có lẽ đã là không phải một trùng hợp ngẫu nhiên mà trong tiếng hát Trịnh Công Sơn chữ "vô" (hư vô, vô thường) đã được ngâm nga một cách tân kỳ so với lời ca của những người đi trước và người đồng thời, ngoại trừ âm nhạc Phật giáo.
Chỉ khác nhau ở một cách đặt vấn đề, với bài hát mùa thu bằng "Cái Nhìn" mùa thu, có thể nói hành trình ca khúc Trịnh Công Sơn đã từ giã khuôn khổ của âm nhạc Việt Nam trước đó để cảm ứng được những trầm tư, thao thức và khát vọng của thế hệ của chính mình và thế hệ kế tiếp mà khởi sắc giai điệu riêng tư của mình.
Mỗi khi nghe giai điệu ca khúc Trịnh Công Sơn, âm hưởng của tiếng ca đi vào lòng người một cách tự nhiên như dòng nước chảy, ta có thể nghe và hát mấy mươi lần một bài mà không chán, tôi cứ nghĩ rằng Sơn đã nắm được yếu tố cốt tủy của âm thanh trong lòng đất Huế, đã triển khai được âm giai trầm của tiếng Huế làm thành thể chất căn bản cho ca khúc, như có lần tôi đã được nghe một công án của Phật: “Có vị Sa môn ban đêm tụng kinh nghe tiếng rất buồn, có vẻ hối tiếc, lưỡng lự, muốn trở về thế tục. Phật gọi mà hỏi, khi ông ở nhà thì đã làm gì? Thưa thường đánh đàn. Dây đàn dùi thì thế nào? Thưa không kêu. Dây đàn cao thì thế nào? Thưa mất tiếng. Cao dùi vừa phải thì thế nào? Thưa âm điệu phát ra đủ cả. Phật nói, học đạo cũng phải như vậy, giữ tâm trí chừng mực thì đạo phải được". (Bài kinh số 33 trong Kinh 42 Chương. Trí Quang dịch).
Âm điệu trong nhạc Trịnh Công Sơn cũng thế đã tùy tâm để thể hiện âm thanh, cho nên nốt nhạc không bao giờ bức xé cũng như không bao giờ quá thấp để không có thể hát được, âm thanh chậm rãi, lưu luyến chảy vào tâm thức như một ý tưởng, một suy tư đang được ánh trăng thanh lọc khỏi những nứt rạn khô khan, cằn cỗi, gượng ép của tư tưởng mà trở thành dòng suối tâm thức tuôn chảy không ngừng.
Nhiều đêm nằm thao thức, nghe bài ca “đi về" “xuôi ngược" dội vào tim, tôi như trực cảm rằng trong bước đầu sáng tạo, Sơn đang từ trong giảng đường đi ra, vừa đi vừa làm một tiểu luận về - nghe buồn cười nếu tôi nói tiếp - “hữu thể và thời gian" của Heidegger, và Nhìn những mùa thu đi là một bài tiểu luận về ý niệm thời gian mà Trịnh Công Sơn đã "điểm nhãn" bằng "giai điệu rung cảm Huế và của tất cả những gì đã diễn biến và lưu lại trong lòng của mảnh đất đã biến thành vùng khổ nạn kể từ năm 1963.
Tình Huế
Ở Huế có lẽ có một mối tình thủy chung duy nhất không bao giờ tàn phai, đó là tình yêu cảnh Huế của người Huế, như núi Kim Phụng mãi mãi đứng đó mà yêu hoài sông
Hương bạc tình chảy xuôi, sông núi đã hun đúc mối tình keo sơn của người Huế với cảnh vật quanh mình ngay từ khi nằm trong nôi nghe mẹ hát "ru con cho tới làng Hồ..." “thuyền về Đại Lược, duyên ngược Kim Long” hay ru em cho théc cho muồi, để mẹ đi chợ... mua vôi... chợ Quán chợCầu, mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh...
Huế có lẽ là thành phố duy nhất trên quả địa cầu có cả núi và sông nằm ngay trong lòng, để cho người Huế dù cho đi xa mấy mươi năm, mấy mươi nghìn vạn dặm vẫn cứ mỏi mòn mong ngày trở lại dòng sông, trở về với núi.
Vườn cây, hoa lá, nắng mưa, mây gió, cảnh chùa đã ôm ru thời thơ ấu và tuổi niên thiếu của mỗi con người Huế, đã uốn nắn trong tâm thức nhạy cảm của người Huế trước thiên nhiên, đã trở thành những âm vang gợi cảm trong suốt cả đời người mỗi khi nghe mưa rơi, nghe lá đổ, nhìn nắng lên hàng cau, nghe hoa bưởi bắt đầu lên hương trong khu vườn buổi sáng.
Ca khúc của Sơn, nhất là khúc tình yêu, thường đã mang nặng “cảnh thức" Huế như một nguồn sống cho ý thơ và âm điệu.
Cho nên khi nghe nhạc của Sơn, người nghe nhất là người Huế thường có cảm giác mình đang đi trên một con đường nào đó ở quê hương, hay đã ở trên đường đi trong cơn mưa "thì thầm dưới chân ngà", trong "mùa hạ khói mây" hay "mùa đông vời vợi", để đến thăm người yêu, chỉ một thoáng rồi đi, chỉ để nhìn mặt hay không nhìn mặt người yêu rồi quay trở về trên đường sỏi đá bên khúc sông Bến Ngự, để vùi trong cơn sốt thương yêu "gọi thân hao gầy, gọi hồn ngất ngây".
Diễm xưa là mối tình đầu của Diễm xưa, sau ướt mi một thời mê say giang hồ, Diễm xưa đã trở thành ca khúc tình đầu của Sơn. Và "Diễm" đã trở nên một huyền thoại "xưa" như chuyện Từ Thức gặp tiên, như một câu chuyện tình cổ lụy cho đời và cho cả chính Sơn.
Tình yêu đã đến với Sơn như một huyền thoại bất ngờ, như một cơn mưa đến từ cõi hoang sơ rơi trên tháp cổ, nên thật bàng hoàng. Có lần Sơn bảo, con gái Huế yêu thật lạ lùng, trong cơn đau vẫn trốn mẹ, tung mền mặc áo mưa băng qua cầu chạy như bay đến để chỉ đặt một trái cây hoặc một bông hoa trước cửa, không cần gặp người yêu, rồi ra về.
Để cho người con trai sững sờ, ngạc nhiên và lặng người trong nỗi nhớ nhung "buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua, trên bước chân em âm thầm lá đổ, chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa"... nỗi nhớ vết chim di, bay qua vùng đất rộng, ước sao bờ sông Bến Ngự nối liền. “Chiều này còn mưa sao em không lại, nhớ mãi trong cơn đau vùi làm sao có nhau... hằn lên nỗi đau, bước chân em xin về mau”. Diễm ơi, Sơn ơi, những mối tình nơi Huế!
Tôi nghĩ rằng không ai cả ngoài Diễm xưa vẫn luôn luôn là bóng dáng người tình trong những tình khúc Trịnh Công Sơn.
Trong Như cánh vạc bay, Quỳnh hương, Tình nhớ, Hạ trắng, Mưa hồng, Gọi tên bốn mùa, Tình sầu v.v..., vẫn thấp thoáng những nét đan thanh, chấm phá của Diễm: mảnh khảnh đến gió thổi bay, vai gầy guộc như đôi cánh cò (chúng tôi thường chế diễu nhau như thế), tay gầy lêu khêu, nét xanh xao, mái tóc rối quăn ôm gương mặt trái xoan nhỏ nhắn, bóng dáng chợt đến chợt đi chợt ẩn chợt hiện như trong Liêu Trai, đi, nhưng trong lòng thì đầy cả đam mê bão táp.
Cái hình ảnh mảnh mai ẻo lả "lãng đãng như gần như xa" như có thực mà như không có thực ấy, khác hẳn với các khuôn mặt tình và khuôn mặt đẹp theo ước lệ trong những ca khúc tình yêu thường nghe, vẻ đẹp hao gầy mong manh trở nên nguồn cảm hứng không ngừng trong ca khúc tình yêu của Trịnh Công Sơn, xúc cảm từ một cuộc tình đam mê, trong trắng, mối tình học trò ngây thơ đầy hương sắc và ánh sáng mà Sơn chưa kịp nhận được thì đã thoáng bay.
Nếu tình yêu cảnh Huế keo sơn bao nhiêu thì tình yêu của người con gái Huế lại càng phù du như đám mây trời, như cơn mưa mùa hạ bấy nhiêu.
Hình như là một thông lệ cho những người yêu nhau ở Huế: yêu ai thì rất mực yêu ai, nhưng khi tính cuộc trăm năm với người nào thì cha mẹ hay tiếng nói của mẹ cha đã nằm sẵn trong tiềm thức của mỗi người quyết định, và thường khi quyết định một cách thực tế là không lựa chọn người mình yêu, dù "nỗi lòng anh đây" nhưng "lời ca anh nhỏ" bé đơn sơ quá cho nên "Này em em hãy phụ người, này em xin cứ phụ tôi", "em cứ phụ đời" bởi vì trời đã sinh ra con gái Huế là để "yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau”.
Ai bảo Sơn không khổ vì yêu, thứ tình "mật ngọt trên môi" trở thành "mật đắng trong đời"? Cho cả cuộc đời, suốt cả bốn mùa mưa nắng "đôi khi thấy trong gió bay lời em nói, đôi khi thấy trên lá cây ngày em đã xa tôi".
Có khổ tận trong tình yêu, có dạt dào trong nỗi khổ mới thể nghiệm được nghĩa vô thường "yêu là chết" và có thể đồng cảm với niềm vui và nỗi khổ của những người đang yêu. Trong tất cả ca khúc tình yêu của Sơn luôn có tâm tình riêng chia với tâm tình chung, như “trên lá khô" chảy ra “dòng suối”, tình yêu không tuyệt vọng...
Và đền bù lại cho những mối tình mây nổi, đã có tình bạn hữu thật chí thiết, đưa vai hứng đỡ những cơn tuyệt vọng chết người “đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng!". “Bạn bè ở Huế thương nhau lắm, một đứa vợ la chín đứa kinh”, có một nhà thơ nhận xét như vậy sau này.
Cô đơn vì người tình "hờn dỗi" lắm khi không cô liêu bằng khi "bạn bè rời xa chăn chiếu”. Và khi bạn yêu người nào thì hình như mình cũng yêu người ấy, khi bạn thất tình thì mình cũng đau khổ không kém gì nỗi đau của bạn.
Trong những lúc Sơn lụy vì tình, đã nhiều lần thay bạn đi thuyết khách, giải thích, hóa ra ai yêu nhau ai giận nhau thì bạn bè đều mau mau đứng ra chịu trận như chính mình là người trong cuộc. Và chính Sơn cũng đã tâm sự với tôi như thể tôi cũng là người trong cuộc của hai người.
Mái chùa
Đối với người Huế, và đối với chúng tôi, yêu cảnh Huế hầu như cũng đồng nghĩa với yêu cảnh chùa ở Huế.
Hình như trong tất cả những lần đi ngoạn cảnh hay đi lang thang ở Huế, vô tình hay hữu ý, nơi đến cuối cùng thường là bước vào cổng chùa, đứng nghỉ nắng hay chờ tạnh mưa dưới mái tam quan hay vào xin một chén nước chè tươi đỡ khát hoặc một chén trà ướp sen cho ấm lòng, tiện thể vào chiêm ngưỡng tượng Phật, thắp hương cho vị tổ sáng lập chùa, thăm thầy trụ trì, nghe một câu chuyện thiền trong một không khí ít lời, thong thả, mát dịu.
Thế rồi bóng nắng mời gọi, hoa trái trong vườn mời gọi, cỏ cây trong sân mời gọi là chân bước theo chân, là mắt đưa theo mắt, là tai chiều theo tai, ngẩn ngơ trong vườn sắn, vườn chè, rừng cây cổ thụ, nơi hồ sen, nơi tiếng ve kêu, nơi chùm khế cây sai trái, dừng lại nơi lá xanh reo, nơi suối róc rách, nơi hoa sen nở, nơi hoa mộc thơm hương - dù chỉ một vài giây vô niệm, không chủ ý - nhưng cũng đủ để thể nghiệm sự tĩnh lặng thường còn trong vạn vật, ởđó thong dong đi về không còn ngăn cách là thấy và nghe, cảm và nghĩ, xúc giác và khứu giác trong một toàn thể bao hàm tất cả những mâu thuẫn của sự trôi đi và dừng lại...
Buổi dừng chân có thể chỉ đủ để bóng nắng nghiêng trên triền đồi hay cơn mưa vừa tạnh hạt, nhưng cũng có thể để ngả lưng đợi giờ tắt cơn nắng gắt hay cơn mưa dai dẳng chưa dứt, để thấy hơn một lần hư không là nắng và vô thường là mưa.
Hay nhiều khi có thể lưu lại chùa vào một đêm trăng sáng, nghe tiếng hòa điệu rộn ràng của trăm thứ hương lồng bóng nguyệt hay cảm nhận được tiếng kinh Phổ môn cầu an tẩm ướt ánh trăng thấm đượm thân thể như giọt nước cành dương, rồi bỗng chiêm nghiệm được trong khoảnh khắc tiếng yêu đương và tiếng yêu người cũng chỉ là một, "yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ”.
Có lẽ trong tất cả những người thanh niên trẻ của thế hệ chúng tôi, Sơn là người đã bắt gặp được sự đốn ngộ bất ngờ ấy sớm hơn ai cả, không phải nghĩa "sớm" của "trước sau” mà là đã "từ bao giờ" không ai hay - trong vòng tay của người mẹ mộ đạo Phật ru đứa con đầu lòng, của gia đình thành tâm thương Phật, anh em có nhau khăng khít, của cả mấy đời người Huế thương chùa, của cả mảnh đất thần kinh thâm u miệt mài hai chữ tu tâm - nên đến bây giờ, chỉ cần một chút "run rẩy" của lá là đã chuyển động "Phật tâm viên tròn thể tánh” trong ý nghĩa đơn giản nhất: chứng ngộ, thấy được chữ "thương ai" (ta và người = từ bi) viết đậm nét trên chiếc lá "hư không".
Mỗi ca khúc của Sơn vì thế, - như ít có nơi những kẻ đi trước và những người đồng thời với Sơn trên lĩnh vực âm nhạc, - có thể nghe và cảm nhận như những công án thiền học về cuộc đời, mà mỗi câu hỏi siêu hình về nó đều bị "trả đũa" bằng một hay hai điều tầm thường, vớ vẩn trong chính cuộc đời, ở đó chữ nghĩa mất hết tính ước lệ, quy luật văn phạm, sự vô nghĩa nằm sát bên có nghĩa. Vô nghĩa đứng cạnh có nghĩa mà vẫn không nghịch lý, người nghe không thấy chối tai mà ngược lại cảm thấy cảm xúc lăn tròn theo tiếng hát, và trong chuỗi âm thanh theo đuổi nhau, mọi nghịch lý, phi lý làm cho con người nghẹt thở của một Sisyphus hì hục lăn tảng đá cuộc đời đều được giải tỏa bằng một hơi thở dài trút hết ưu phiền của tiếng hát lênh đênh.
Mỗi tiếng mỗi chữ trong các ca khúc trở thành những đơn thể của tâm thức trong tính cách hiện sinh duy nhất, tràn đầy sinh động của chúng ta đã được Sơn sử dụng một cách sáng tạo như những phương tiện "tiếng vỗ của một bàn tay" nhằm đánh thức âm hưởng nội tâm của mỗi người nghe, từ đó người nghe có thể đưa thêm vào bàn tay của mình để gây âm thanh cho chính cảm xúc của mình. Và tiếng ca, từ những cọng lá khô không lời, những viên sỏi vô tri im tiếng, bỗng xôn xao "cây lá vào mùa", bỗng lao xao sóng vỗ bờ xa...
Những ý niệm, những ngôn từ trong đạo Phật, hư vô, hư không, cõi tạm, vô thường, cõi đi về, tiền kiếp, từ bi...", thường được xem như những món "cơm chay" khắc khổ, đã được Sơn hóa giải rất tài tình trong lời ca theo nguyên tắc (suốt cả 49 năm Phật không thuyết một lời nào), bỏ hết tất cả những chất khô cứng đóng khung của ngôn ngữ dù đó là lời kinh, chúng được "lắng nghe" và "linh cảm" trong bản chất âm giai nội tâm đối đãi nguyên sơ nhất của chúng. “Tôi đang lắng nghe im lặng dòng sông... tôi đang lắng nghe im lặng ngọn đồi... tôi đang lắng nghe im lặng của tôi...". Bài hát sâu lắng như một tọa Thiền quan sát hơi thở.
Hư vô, cõi tạm do đấy được sử dụng như tiếng thô "đục" của mõ và thanh "bổng" của chuông, hai phương tiện "nghe kinh ngộ đạo" đơn sơ nhất, căn cứ vào tầng rung cảm âm thanh bẩm sinh của mỗi con người, nói nôm na là "tiếng lòng" của mỗi người mà âm vang của tiếng mõ và tiếng chuông có thể làm nở: "đóa hoa vô thường", có thể chở ta ra đi viễn xứ và mang chúng ta trở lại quê nhà.
Có thể nói tính cách tân kỳ của ca khúc Trịnh Công Sơn nằm ở chỗ trong khi Sơn chuyển ý niệm "sắc không” vào âm nhạc, Sơn đã "làm mềm" chúng bằng cách dựa vào giai từng cơ bản đối đãi giữa giải thoát và cõi trần cát bụi trong tương quan chuyển qua đối lại giữa "đục - thanh", "trầm - bổng" của mõ và chuông, từ đó tùy tâm mà chuyển đổi và ứng dụng tất cả những phương tiện khác của âm nhạc, - tứ đại cảnh, ru em, hò hay điệu blue buồn hoặc điệu soul của phong trào tân nhạc âu châu chẳng hạn - để sáng tạo nên thể cách riêng tư của mình. Trong tất cả dòng chảy của âm nhạc Trịnh Công Sơn, sự tĩnh lặng thoát ra cho sự cảm nhận nét nhạc của mỗi bài ca, dù cho bài ấy có dồn dập đến đâu.
Chính nhờ nguyên tắc đối đãi, mà lời và nhạc của Sơn luôn luôn biến chuyển không ngừng, trong nắng hư vô đã thấy tóc em gái, đường xa áo bay,... và lời ru của mẹ, lời ru cho em thường dẫn ta đi vào cõi đời thường như một cõi đời mộng, để cho mộng thực luân lưu trong nội tâm quyện tròn thành một lời êm dịu như tiếng kinh dỗ dành giấc ngủ.
Có thể so sánh sức mạnh sáng tạo trong thơ nhạc của Trịnh Công Sơn với một công án của Hakuin, thiền sư và họa sĩ đắc đạo nhất của Nhật Bản:
Tay không mà cỏ cầm cán mai;
Đi bộ mà ngồi lưng trâu;
Người đi qua trên cầu,
Cầu trôi, nước chẳng trôi!
Cái cố định hóa mềm dưới chân, nỗi ưu tư hóa mềm trong tiếng du ca. Trong cái nhìn của người nghệ sĩ, ngữ căn hay lục căn được cởi bỏ mọi giới hạn, để chỉ còn tự do sáng tạo, ở đó nghe là nhìn, ngửi là nghe, vị giác cũng là nghe, mà Hakuin gọi là phạm trù "kikan" của mỗi công án, phạm trù của cơ cấu mềm dẻo và tự do.
Trong cái nghe sáng tạo, tiếng rơi thô kệch của hòn đá rớt xuống cành mai bỗng hóa thành tiếng chim ca thánh thót khúc qua đời?
Đứng dưới mái chùa, Trịnh Công Sơn đã trả lời Sisyphus bằng một công án như thế!.
Nguyễn Trọng Tạo
Nguyễn Thụy Kha - Đoàn Tử Hiến
Theo http://dev.kilopad.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...