Á Nam Trần Tuấn Khải: Mượn tiếng
văn chương gọi giống nòi
Hồi nhỏ sống ở thành phố Nam Định, những lúc nhàn rỗi tôi thường
ra bến đò Tân Đệ, xem cảnh trên bến dưới thuyền tấp nập, nhìn cánh buồm trắng lờ
đờ trôi về chân trời dấy lên trong lòng bao mơ mộng phiêu lưu. Ở bến đò, một
người hát xẩm kéo nhị, gân cổ hát bài “thập ân”. Đang chán tai vì cái âm điệu rền
rĩ đơn điệu đó, bỗng tiếng đàn bầu thánh thót rung lên quyện với tiếng hát mộc
mạc thiết tha:
Anh Khóa ơi! Em tiễn chân anh xuống tận bến tàu
Đôi tay em đỡ cái khăn trầu, em lấy đưa anh
Tay cầm trầu giọt lệ chạy quanh
Anh xơi một miếng cho bõ chút tình em nhớ thương.
Đó là một cuộc chia ly như tất cả những cuộc chia ly từ nghìn
thuở trên đất nước Việt Nam, có người phụ nữ giữ khăn trầu, cầm một miếng trầu
đưa cho người nam, nhưng ở đây đã có dấu vết của thời cơ khí hiện đại, báo hiệu
chia ly không còn là tiếng ngựa hý, tiếng nhạc reo, tiếng nước róc rách và tiếng
gió phần phật… mà là tiếng còi tàu tu tu như hồi chuông nghiệt ngã của số phận,
cắt đứt tình duyên đôi lứa.
Anh Khóa ơi! Còi tu tu tàu sắp kéo cầu
Đường trần em sắp sửa gánh sầu từ đây
Trông anh, em chẳng nỡ rời tay
Nỗi riêng em dặn câu này anh chớ có quên
Anh Khóa ơi! Người ta lắm bạc nhiều tiền
Anh em ta phận kém duyên hèn mới phải long đong
Một mình anh nay Bắc lại mai Đông
Lấy ai trò chuyện cho khuây lòng lúc sớm khuya
Anh Khóa ơi! Chữ tương tư vai gánh nặng nề
Giang hồ anh sớm liệu trở về kẻo nữa em mong
Tính toan sao cho phỉ chí tang bồng
Ở nhà em cũng dốc một lòng giữ phận thuyền quyên…
Người làm bài “Tiễn chân anh Khóa xuống tàu” thì tôi không lạ,
đó là nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải, người làng Quang Xán, huyện Mỹ Lộc, ngoại
thành Nam Định. Thân sinh Á Nam, cụ Cử nhân Trần Văn Hoán là chỗ thanh khí với
Tam nguyên Vị Xuyên Trần Bích San và Trần Tế Xương. Điều tôi băn khoăn: Anh
Khoá này là ai mà hoài bão chí khí lớn lao muốn làm sao cho “phỉ chí tang bồng”.
Đến năm 1984, đọc chú thích cuốn “Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải”
(NXB Văn học) thông qua lời tác giả kể về xuất xứ bài thơ, tôi được biết: “Khoảng
năm hai mươi tuổi, tác giả thường giao du với các nhà chí sĩ, những bậc lão
thành, cũng như những người thiếu tráng, ngày đêm mài miệt ngâm vịnh văn
chương, nghiên cứu các học thuyết đông tây kim cổ. Lúc đó trong đám anh em, có
nhiều người vì mang lòng phẫn uất với bọn thực dân Pháp, trốn tránh đi ra nước
ngoài để tìm phương kế cứu giang sơn Tổ quốc. Trong thời gian đó, tác giả cũng
đã có phen lần ra tận biên thùy ở miền Móng Cái, mong lân la sang bên Trung Quốc
để tìm kiếm bạn đồng tâm.
Chẳng may công chuyện không thành, đành buồn bã quay về. Sau
đó, còn có nhiều phen lần theo các đường khác để đi (như vào Trung Kỳ, Nam Kỳ)
song cũng đều thất vọng”. Tuy vậy, trong đám bạn bè cùng chí hướng của ông, những
người gặp được cơ hội len lỏi ra nước ngoài cũng không phải là ít. Vì thế,
trong lúc tiễn đưa bạn hữu, tác giả đã chan chứa cảm xúc, viết ra bài hát trên
để tả tấm lòng tha thiết của mình. Bài hát rất phổ biến trong Nam, ngoài Bắc hồi
đó.
Tập thơ đầu có in bài “Tiễn chân anh Khóa xuống tàu”, tuy đã
nguỵ trang như lấy nhan đề “Duyên nợ phù sinh”, phụ đề chữ Hán “Kim sinh luỵ”,
bài thơ mở đầu “Hồn luỵ”, ký tên “Luỵ Giả”, cho giống với những cuốn sách đang
lưu hành; nhưng dụng ý của Á Nam mượn thơ văn để khích động lòng yêu nước, gây
chí tự lập, nghĩa hợp quần đã được người đương thời nhận ra. Nguyễn Văn Vĩnh đứng
trên lập trường thân Pháp, viết một bài trên tạp chí Annam Nouveau, dùng giọng
úp mở quanh co, kết tội Trần Tuấn Khải quá thiên về tinh thần quốc gia mà quên
nói đến tình cảm thông thường của con người. Tuy cũng ra làm quan với Pháp,
nhưng Cử nhân Tuần phủ Thái Bình Trần Mỹ còn có đôi chút tâm huyết với đất nước,
khi “Duyên nợ phù sinh” ra đời năm 1921, Trần Mỹ cảm đề:
Xem qua một tập Kim sinh
Rằng tài nên trọng, mà tình nên thương
Nhớ ai vơ vẩn đêm trường
Sầu ai trăm mối tơ vương bên mình!…
Tạp chí Nam Phong (Tháng 5.1921) viết: “Đã lâu nay, các văn
thông được mấy quyển hay, nay mới lại được đọc tập “Duyên nợ Phù sinh” của ông
Trần Tuấn Khải này thật là văn chương có giá trị… Nhiều bài hát thật là hay,
như bài “Tiễn chân anh Khoá xuống tàu” và thứ nhất là bài “Gánh nước đêm” lời
giản dị mà ý tứ sâu xa biết bao nhiêu… Cả tập thơ chỉ được một bài này, cũng
đáng khen, huống còn nhiều bài hay nữa”.
Hoàng Ngọc Phách viết trong báo Trung Bắc Tân văn số 1282: “Tự
bảo mình rằng lúc thơ phú tàn canh, mà còn có thơ này, lời lẽ thanh thoát, ý tứ
dồi dào, cảm hoài những việc vẩn vơ mà cao thượng”… “Có người bảo văn ông có
nhiều vẻ buồn, ký giả cũng tưởng như vậy”… “Nếu vì quốc văn, vì luân lý, vì hai
vai thân thế, một gánh giang san, cuộc văn chương dẫu đến khi tàn, mà ngọn bút
quan hoài biết bao giờ cho ráo mực” mà ông buồn, thì cái buồn ấy cũng có vẻ cao
thượng”. Tú tài Nam Định Nguyễn Xuân Xứng viết: “Quyển “Duyên nợ Phù sinh”… văn
chương mực thước, lời lẽ thâm trầm, chẳng khác chi một mảnh gương soi suốt nhân
tình thế thái, so với bốn chữ nhan đề quả là thích hợp…
Một quyển văn thư mấy đoạn tình
Kiếp người dan díu nợ phù sinh
Non sông dấu cũ văn chương mới
Những lời khen ngợi trên đây còn mang tính chất bóng gió,
nhưng đến Thiếu Sơn trong “Phê bình và cảo luận” (1933) đã nói rõ ràng hơn:
“Ông Khải thường hay cảm về thời thế, mà nặng lòng với đất nước non sông, nên
ông thường hay ngâm vịnh về lịch sử để dựa theo mà khóc cảnh tang thương…
Coi lịch sử gương kia còn tỏ
Mở dư đồ đất nọ chưa tan
Giang san này vẫn giang san
Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?
Vì ai? Độc giả cũng dư biết vì ai. Song lịch sử đã đầy những
sự vẻ vang quá khứ, mà hiện nay trông lại, chỉ thấy rặt những cảnh thảm mục
thương tâm, thì những nhà chí sĩ lo đời, há được bình an toạ thị?
Bởi vậy mà anh Khóa mới lên tiếng hô hào, rắp mong được nhiều
người hưởng ứng.
Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại” (1941) cũng viết: “Có lẽ
ông (Trần Tuấn Khải) là một thi sĩ mà cách đây không lâu các bài ca đã được nhiều
người hát nhất. Ở Bắc kỳ, hai bài “Anh Khóa” của ông, trong xóm bình khang, các
đào nương lại thường hay hát lắm. Hai bài “Anh Khóa” phổ thông đến nỗi người ta
đã lấy cả vào đĩa hát ở miệng những tay danh ca bậc nhất.
Những việc ấy đủ chứng ra rằng hai bài “Anh Khóa” đã hợp với
tính tình của nhiều người, người học thức cũng như người ít học. mà không cứ
hai bài “Anh Khóa”, những thi ca của Trần Tuấn Khải hầu hết đều nhẹ nhàng, dễ
hiểu, đều có tính cách phổ thông như thế cả”.
Trong sách không thấy nói đến việc bài “Anh Khóa” sở dĩ được
hưởng ứng nhiệt liệt vì nó đáp ứng đúng tình cảm yêu nước của quần chúng. Nhưng
sau này, khi đọc hồi ký “Những năm tháng ấy” (1987), được Vũ Ngọc Phan cho biết:
“Bài Anh Khóa của Trần Tuấn Khải xẩm họ hát ơi ới khắp nơi thì không sao, nhưng
đưa vào sách (Nhà văn hiện đại - HA) thì bị xóa liền”, chúng ta mới hiểu đoạn
nói về nội dung yêu nước của “Anh Khóa” đã bị kiểm duyệt thực dân xoá bỏ.
Hiện tượng “Anh Khóa” nói lên một biến chuyển kỳ lạ và đặc biệt
của văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20, đó là sự xâm nhập mạnh mẽ của văn học dân
gian vào văn học viết. Ý thức hệ nho sĩ phong kiến đã đến lúc tàn, không đủ sức
gây dựng một luồng văn thơ có sinh khí và sức vang dội nữa.
Nếu Á Nam chỉ làm những bài thơ hoài cổ như “Chơi thành Cổ
Loa”, “Chơi núi Sài Sơn”, “Chơi thuyền Hồ Gươm”… thì ông cũng chỉ góp thêm vào
tiếng thở dài của một thế hệ từ Nguyễn Khuyến cho đến Chu Mạnh Trinh… hay nếu
chỉ làm những bài thơ châm biếm trào phúng như “Lên chợ Giời”, “Trách đồng bạc”,
“Vịnh ông Hộ Pháp”… thì ông cũng chỉ góp thêm vào tiếng cười mỉa mai cay độc của
nhà nho thất thế như Từ Diễn Đồng, Trần Tế Xương…
Sau khi Á Nam làm một số bài phong dao và câu hát vặt mang
hơi thở lành mạnh, trong trẻo của dân gian, quần chúng nhân dân đã nhận ra người
thi sĩ chân chính của mình, hà hơi tiếp sức cho ông, nâng thơ ông tới đỉnh cao,
truyền bá thơ ông rộng rãi, choàng cho ông vòng nguyệt quế “ca sĩ của lớp người
tấn công lên trời”. Trước sự ủng hộ và suy tôn nhiệt liệt của đông đảo quần
chúng, giới văn học bác học đương thời không thể không dành cho ông một vị trí
xứng đáng trong nền văn học.
Bài “Anh Khóa” đã thổi một luồng gió trong lành, khoẻ khoắn
vào không khí văn học già nua lúc bấy giờ, khiến nó tiếp cận hơn với văn mạch dân
tộc, nguồn gốc dân ca, chất trữ tình của nó là chất lãng mạn tích cực khác xa với
chất lãng mạn tiêu cực ẻo lẻ, bạc nhược tràn ngập văn đàn thời ấy… Á Nam không
coi đời toàn là bể thảm như Đoàn Như Khuê mà xác định mình là người ở giời Nam
bể Á (do đó mới lấy hiệu là Á Nam). Trong bài “Hồn lụy” ông viết:
Giời Nam bể Á bao la
Nực cười vơ vẩn là ta với mình
Ham chi duyên nợ phù sinh?
Ngàn thu luống để vương tình nước non
Cái sầu này không phải là cái sầu vơ vẩn, vô cớ như Tản Đà “sầu
không có mối, chém sao cho đứt, sầu không có khối, đập sao cho tan”, cũng không
phải là sầu vì “duyên nợ phù sinh” như Tương Phố “Tình thu ai để duyên em bẽ
bàng”, mà cái sầu có nguồn gốc rõ rệt “ngàn thu luống để vương tình nước non”.
Tần số xuất hiện những chữ nước non, giang san, sơn hà, đất
Việt, Hồng Lạc, biển Á, giời Nam, Nam Việt, Tổ quốc… chiếm đa số tuyệt đối, áp
đảo trong văn bản của Á Nam, văn có non song mới có hồn, là nguồn thơ chủ yếu hầu
như duy nhất của Á Nam thậm chí bài thơ khóc vợ “Non trách nước” (1932) cũng vẫn
ngụ ý nói đến đất nước. Thiếu Sơn đã nhận xét: “Thơ ông Hiếu thì ngộ nghĩnh mà
thần tình, còn thơ ông Khải thì trang nghiêm mà thống thiết”.
Sau loạt bài “Tiễn chân anh Khóa xuống tàu”, “Gửi thư cho anh
Khóa”, “Mong anh Khóa”… Á Nam đã viết những bài có hàm ý kêu gọi đồng bào sớm tỉnh
cơn mê giấc mộng, đoàn kết lại đứng lên chống Pháp như trong bài “Gọi đàn”:
Đời như nước mặt bể khơi
Người như chiếc lá ngược xuôi giữa dòng
Xiết bao sóng gió hãi hùng,
Chân sào tay lái ai cùng với ta?
Đừng theo con nhạn mới sa,
Thấy con sóng bạc tưởng là mồi ngon.
Lênh đênh bay lộn chập chờn
Biết bao hy vọng theo nguồn nước xuôi!
Kiền khôn một giấc mộng dài
Mộng trong giấc mộng, vui cười được bao?
Ngàn mê bến giác bên nào
Thương nhau xin bắt lái vào cùng nhau
Lòng này hẹn với cao sâu
Trái tim vẫn chứa lưng bầu máu xưa
Trăm năm mấy hội tình cờ,
Trên thuyền tri kỷ còn ta còn mình.
Giang hồ muôn trượng thênh thênh,
Sá chi những giống lênh đênh bọt bèo
Tấm thân từng trải đã nhiều
Bao nhiêu nguy hiểm, bấy nhiêu anh hùng.
Nguồn trong dòng nước càng trong,
Xin đừng cuộn đục cho lòng thêm thương.
Mấy phen qua vượt trùng dương,
Can trường mới biết can trường này đây.
Dầu sao bài này vẫn mang tính chất bóng gió, như bến giác có
thể hiểu là giác ngộ cách mạng, nhưng đến những bài sau có nội dung yêu nước, cụ
thể, mãnh liệt hơn, như “Văn tế Đức Trần Hưng Đạo” (in trong tập thơ “Với sơn
hà 1” (1936) với lời kêu gọi hùng hồn: Hai mấy triệu nào con nào cháu, mài tim
gan trông nếp cũ cùng theo, muôn nghìn năm nào gái nào trai, luyện vây cánh sấn
đường mây thẳng trỏ, nghe như “Văn tế Phan Châu Trinh” của Phan Bội Châu. Trong
bài “Hai chữ nước nhà” mượn lời Nguyễn Phi Khanh dặn Nguyễn Trãi, nhà thơ viết:
Lời cha dặn khắc xương để dạ,
Mấy gian lao con chớ sai nguyền;
Tuốt gươm thề với sương thiên,
Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu.
Gan tráng sĩ vững sau như trước,
Chí nam nhi lấy nước làm nhà,
Tấm thân sẻ với sơn hà,
Tượng đồng bia đá hoạ là cam công.
Hơi văn bi hùng chẳng khác gì những bài ca của phong trào Việt
Nam Quang Phục Hội thời bấy giờ. Bên cạnh sự hưởng ứng của quần chúng, còn có
tác động của tình thế cách mạng sôi sục đương thời.
Chúng ta phải thông cảm, khi chưa rõ phong trào tân nhạc ra đời,
các nhà thơ phải làm những bài ca cách mạng cho quần chúng hát. Những bài ca của
Á Nam khiến tôi liên tưởng đến Béranger (1780 - 1857), những bài hát chính trị
của ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của các điệu dân ca, ca ngợi quần chúng.
Nếu Béranger hai lần bị tù vì chính kiến trong các bài hát,
thì hai cuốn “Bút quan hoài” và “Hồn tự lập” của Á Nam đã bị thực dân tịch thu,
cấm tàng trữ, lưu hành trong toàn quốc, và khi in cuốn “Sách chơi xuân năm Nhâm
Thân” (1932) trong có 10 bài thơ mượn lời bà Trưng Trắc nhủ em là Trưng Nhị khi
nổi quân đánh đuổi Tô Định, ông bị bắt giam vào Hỏa Lò Hà Nội.
Cuốn “Hồn tự lập” tập II (1928) do Á Nam viết bằng văn xuôi,
nội dung thuật chuyện ba nhà nữ cách mạng Nga, do Nhà in Nữ lưu thư quán, Gò
Công, xuất bản. Bài thơ đề đầu cuốn sách như sau:
Lò vũ trụ đêm mù hiu hắt,
Cảnh muôn loài say giấc ngổn ngang.
Tiếng đâu kêu réo kinh hoàng
Nghe ra hùng tráng bi thương đến điều?
Mặt biển nọ nước reo chính khí
Đỉnh non kia mây hé tự do.
Ngọn đèn nhân loại khêu to,
Những ai soi rạng cơ đồ bấy nay?
Mở lịch sử đông tây coi thử,
Kìa anh hùng hiệp nữ là ai?
Mấy phen động đất kinh giời,
Máu hồng lai láng muôn đời còn in.
Lầu cố quốc khêu đèn tự lập
Chén hô quần mong nhấp cùng ai?
Phấn son ai cũng kiếp người,
Tình non nước, nghĩa giống nòi, sao đây?
Chúng ta thấy lời hô hào yêu nước của Á Nam không mang ý thức
hệ sĩ phu phong kiến mà đã mang ý thức cách mạng tư sản dân quyền, nhiều câu
trong bài “Hai chữ nước nhà” rất giống với những câu trong bài La Marseillaise
của Rouget de Lisle (1792).
Thí dụ câu: Chí nam nhi lấy nước làm nhà, tấm thân sẻ với sơn
hà, Tượng đồng bia đá hoạ là cam công, gợi người ta nhớ đến câu Allons, enfants
de la patrie, Le jour de gloire est arrivé, được người Việt Nam trước đây dịch
theo nguyên điệu là: “Này người dân con quê hương ai đó hỡi, Bia đá danh đề, đến
lúc rồi kìa”, và câu: Nữa mai mốt giết xong thù nghịch, Mũi long tuyền lau sạch
máu tanh, gợi nhớ câu: Aux armes, citoyens! Formez vos bataillons! Marchons!
Marchons! Qu’un sang impur abreuve nos sillons! được dịch là “Khí giới chúng ta
cầm mau! Quyết chí dấy quân cùng nhau! Đi mau! Đi mau! Sao cho luống cày, máu
nhơ nhớp, tưới dồi dào!”
Còn bài đề cuốn “Hồn tự lập II” thì lại phảng phất giọng văn
của Lương Khải Siêu, người cha tinh thần của Cách mạng Tân Hợi Trung Quốc. Trong
cuốn “Hồn tự lập I” (1927), Á Nam nêu tấm gương đấu tranh của nhà yêu nước Ấn Độ
Gandhi, chống thực dân Anh. Chủ nghĩa yêu nước của Á Nam đã thấm nhuần tinh thần
dân chủ và quốc tế. Á Nam không những đã đọc tân thư của Trung Quốc mà còn đọc
cả sách chữ Pháp, ông đã dịch nhiều bài thơ của Alfred de Musset, Victor Hugo…
sang tiếng Việt.
Á Nam còn dịch những tiểu thuyết Trung Quốc ca ngợi những anh
hùng khởi nghĩa nông dân như Thuỷ Hử, Hồng Tú Toàn… Bài đề từ bản dịch Thuỷ Hử
(1925) mang đầy khí phách hào hùng:
Tai mắt tim gan đứng cõi đời,
Không duyên cũng nợ núi sông chơi
Còn vầng máu đỏ, còn nhân loại,
Đâu lẽ khoanh tay chịu mặc Trời?
Mở gương thiên cổ mà coi,
Anh hùng liệt nữ những ai đó mà?
Đòi phen gió táp mưa sa,
Trong lời chú Thủy Hử, cũng có những câu thơ khêu gợi lòng
yêu nước, như:
Làm trai sướng nhất ba điều:
Một là thân thế riêng chiều tự do,
Hai là giết hết quân thù,
Đem gan nghĩa hiệp đền bù núi sông
Á Nam còn viết bộ tiểu thuyết “Thiên thai lão hiệp” (1934 -
1935) lợi dụng phong trào kiếm hiệp thời ấy mà đưa ra những nhân vật dị kỳ, cổ
quái nhằm hấp dẫn độc giả, nhưng cốt ý là để cổ xuý cách mạng.
Sau khi thực dân Pháp bắt giam tác giả và cấm lưu hành tác phẩm
của Á Nam, không nhà xuất bản nào dám in sách của ông nữa. Lúc toàn quốc kháng
chiến tháng 12.1946 nổ ra ở Hà Nội, ông mang được một rương đựng đầy bản thảo
thơ văn cùng gia đình đi tản cư ba bốn chỗ, sau mới về ngụ ở làng Sơn Lộ, phủ
Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, thì rủi bị giặc Pháp tới nơi đốt phá tan tành không còn
sót được một mảnh chữ nào. Mãi sau này ông mới nhớ lại được một số bài đưa in
trong cuốn “Với sơn hà” tập II (1949).
Lúc còn ở Bắc, ông đã theo kháng chiến ở Vân Đình Chợ Đại một
thời gian. Nhưng kỳ diệu thay sức sống bất khuất của thành phố Sài Gòn, chính ở
đây, Á Nam đã tìm được chỗ đứng xứng đáng trong cuộc chiến của nhân dân thành
phố chống đế quốc Mỹ và tay sai. Ông đã tiếp xúc với nhiều hội đoàn dân chủ nhất
là phong trào Tự quyết và thường đến họp với tổ chức này từ năm 1964.
Năm 1966, Trần Tuấn Khải được bầu làm Chủ tịch danh dự của Lực
lượng bảo vệ văn hóa dân tộc cùng với giáo sư Dương Minh Thới. Lời phát biểu mạnh
mẽ của ông trong lễ ra mắt ngay trước “Hạ viện” Sài gòn, được mọi người hết sức
hoan nghênh.
Năm 1967, Trần Tuấn Khải được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp hội
Văn học nghệ thuật, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Văn hóa. Năm 1972, có lần ông
được đưa vào vùng giải phóng Long An họp hội nghị suốt một ngày.
Sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân (1968) Trần Tuấn Khải
làm việc dịch thuật cổ văn ở phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hoá, nhưng ông đã
dùng phòng làm việc của ông ở thư viện Quốc gia làm nơi gặp gỡ của anh em công
tác thành. Những năm 68 - 70, cán bộ chỉ đạo hoạt động nội thành bao giờ cũng
nêu tên ông đầu tiên trên các bản kiến nghị đấu tranh như phong trào chống văn
hóa nô dịch của Mỹ nguỵ, phong trào đấu tranh đòi hòa bình, dân sinh và dân chủ.
Sau 30.4.1975, Trần Tuấn Khải làm cố vấn Hội Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
Khi hai nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận từ miền Bắc vào Nam, đến nhà thăm Á Nam, hôm
ấy cụ còn yếu mệt, đang nằm giường bệnh, nghe anh Huy Cận cười hỏi: “Nay anh
Khoá đã về, bà Khoá đã hả lòng chưa?”, thì cụ Á Nam bất giác tươi tỉnh, sau khi
tiễn bạn ra về, cụ đã viết ngay bài “Mừng anh Khoá về” (1975)
Mấy tháng trước khi qua đời ngày 7.3.1983, cụ đã làm bài thơ
“Tám mươi tám tuổi tự vịnh” (1982), như sau:
Ta nghĩ mình ta cũng nực cười,
Sống trong thanh bạch vẫn yên vui.
Lấy câu trung nghĩa khuyên con cháu,
Mượn tiếng văn chương gọi giống nòi
Nghĩa cả giang sơn ghi đáy dạ,
Chuyện đời danh lợi gác ngoài tai
Tám mươi tám tuổi xuân còn mãi,
Còn vững lòng son chẳng đổi dời.
Trần Tuấn Khải đã thể hiện trọng vẹn đúng như tâm nguyện của
cụ buổi đầu: “Góp cùng kim cổ lưng bầu huyết, Gửi với sơn hà một áng văn”.
13/6/2018
Hoài Anh
Nguồn: VHVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét