Vẻ đẹp của hình tượng
Hình tượng nghệ thuật là các
khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những
tác phẩm nghệ thuật. Giá trị trực quan độc lập là đặc điểm quan trọng của hình
tượng nghệ thuật. Bằng chất liệu cụ thể, nó làm cho người ta có thể ngắm nghía,
thưởng ngoạn, tưởng tượng. Hình tượng nghệ thuật có thể là một đồ vật, một
phong cảnh thiên nhiên hay một sự kiện xã hội được cảm nhận. Nhưng nói tới hình
tượng nghệ thuật người ta thường nghĩ tới hình tượng con người, bao gồm cả hình
tượng một tập thể người (như hình tượng nhân dân hoặc hình tượng Tổ quốc) với
những chi tiết biểu hiện cảm tính phong phú và có thể là hình tượng thiên nhiên
đa dạng sắc màu phảng phất tâm trạng của tác giả, của thời đại.
Thiên nhiên là một hình tượng trong các tác phẩm văn học. Tuy
nhiên trong từng thời đại hình tượng thiên nhiên lại biểu thị một đặc điểm
riêng, mang giá trị riêng. Trong nền văn học Việt Nam, thiên nhiên là hình
tượng xuyên suốt, là cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nhà văn. Đọc những vần
thơ, câu văn của các tác giả ta dễ dàng nhận ra nét đẹp rất đặc trưng cho mỗi
giai đoạn, đó là vẻ đẹp cổ điển trong nền văn học trung đại và vẻ đẹp đa sắc
màu của văn học hiện đại.
Từ vẻ đẹp cổ điển trong tác phẩm văn học trung đại…
Thời trung đại, con người sống dựa nhiều vào tự nhiên, khai
thác tự nhiên, vì thế thiên nhiên và con người luôn có sự tương hợp, gắn bó máu
thịt. Nhìn lại những sáng tác của các tác giả văn học trung đại ta sẽ thấy bức
tranh thiên nhiên được cảm nhận ra sao, đồng thời thấy được nét đẹp riêng biệt
của mỗi một giai đoạn văn học cụ thể.
Thiên nhiên trong các sáng tác của thời Lý luôn là những biểu
tượng để truyền tải thông điệp, triết lý hay cảm quan của Phật giáo. Nó không
còn là một hình ảnh thiên nhiên đơn thuần để con người miêu tả, thưởng thức mà
nó là hình ảnh để diễn tả quy luật của tự nhiên: “Xuân khứ bách hoa lạc/ Xuân
đáo bách hoa khai” (Cáo tật thị chúng - Mãn Giác Thiền Sư). Hình ảnh thiên
nhiên trong bài kệ diễn tả quy luật của tự nhiên, cây cối biến đổi theo thời
gian. Nhà thơ nói “hoa rụng” trước, “nở sau” để khẳng định kiếp luân hồi của tự
nhiên, đồng thời cho thấy thái độ xót xa, cô đơn buồn đau khi con người không
thể luân hồi chuyển kiếp giống như cội cây. Tuy nhiên, đằng sau cái chua xót
khi thấy được kiếp sống hạn hẹp của đời người, qua các hình tượng thiên nhiên,
nhà thơ mang đến sức sống mãnh liệt mà tạo hóa ban cho loài người: “Mạc vị xuân
tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” (Cáo tật thị chúng - Mãn Giác
Thiền Sư).
“Cành mai” mang ý nghĩa biểu trưng rất lớn, hình ảnh cánh mai
vàng rung rinh trước sân cho bạn đọc thấy một sức sống mãnh liệt, nó vượt lên
cái quy luật sống - chết, thịnh - suy của cuộc đời để thể hiện cái tinh thần lạc
quan bất biến của con người. “Cành mai” là biểu tượng của cái đẹp, nhưng đó
không phải là cái đẹp của bông mai trong bức tranh tứ quý “tùng, trúc, cúc,
mai” để diễn tả cái thanh cao, quý phái mà là cái đẹp của tinh thần lạc quan, mạnh
mẽ, kiên định của những con người có khí phách khi đứng trước những biến đổi của
đất trời, thời cuộc.
Qua những vần thơ linh hoạt, uyển chuyển của Mãn Giác Thiền
Sư, ta thấy hình tượng thiên nhiên xuất hiện không chỉ là biểu tượng của thời
gian, mà nó còn là cái để nhà thơ bộc lộ quan điểm, chính kiến cá nhân. Qua những
hình ảnh thơ đặc sắc, mang giá trị biểu đạt cao này ta thêm hiểu con người
trong thời nhà Lý - thời kỳ Phật giáo phát triển thịnh vượng, dù họ có xuất gia
tu hành nhưng cũng không quay lưng với cuộc đời mà vẫn đầy bản lĩnh, ý chí tham
gia công cuộc bảo vệ và xây dựng tổ quốc.
Nếu văn học thời Lý chủ yếu nổi bật với nội dung truyền tải
những giáo lý của đạo Phật, thì bước sang thời kỳ nhà Lê văn học lại thuộc về
dòng chảy yêu nước. Thiên nhiên trong các sáng tác thuộc giai đoạn này mang
trong mình niềm tự hào về truyền thống yêu nước, ngợi ca những chiến công vang
dội. Mỗi lần nhắc đến quê hương đất nước, lập tức giọng điệu hào hùng vang lên,
những vần thơ như làm sống dậy những năm tháng oanh liệt, nơi thiên nhiên làm
điểm tựa vững chãi để con người ra sức bảo vệ nền độc lập dân tộc. Thiên nhiên
đồng hành cùng con người trong những tháng ngày gian khổ, đối diện với quân thù
hung hãn để giữ từng tấc đất cho bờ cõi non sông. Cuối cùng đến ngày hòa bình
chúng ta tự hào, trân trọng: “Đến Bạch Đằng thuyền bơi một chiều/ Bát ngát sóng
kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba
thu/ Bờ lau san sát bến lách đìu hiu” (Phú sông Bạch Đằng – Trương Hán Siêu).
Với giọng ngợi ca, Trương Hán Siêu đã dựng lại hình tượng
thiên nhiên kỳ vĩ - sông Bạch Đằng. Đây không chỉ là một thắng cảnh đẹp của quê
hương và còn là dòng sông lịch sử - là nhánh sông ghi dấu ấn nhiều chiến công
trong hành trình đấu tranh giữ nước của dân tộc. Nhắc đến Bạch Đằng không thể
không nhắc đến chiến công vang dội của Ngô Quyền phá tan quan Nam Hán, Trần Quốc
Tuấn đánh quân xâm lược Nguyên - Mông… Sông Bạch Đằng trong Bạch Đằng giang phú
được Trương Hán Siêu tái hiện lại qua lời kể của các nhân vật, qua niềm tự hào
của chính tác giả: “Sông Đằng một dải dài ghê/ Luồng to sóng lớn dồn về biển
Đông/ Những người bất nghĩa tiêu vong/ Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”, tác
giả tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất, đạo lý nhân nghĩa của dân tộc,
bên cạnh đó khẳng định chân lí của các cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc của nhân
dân ta, đồng thời cho thấy cái kết “tiêu vong” của những kẻ “bất nghĩa”.
Không chỉ biểu hiện niềm tự hào về truyền thống chống giặc
ngoại xâm, các tác giả trong giai đoạn văn học này còn thông qua thiên nhiên để
miêu tả cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của con người. Đó là thiên nhiên mang vẻ
đẹp gần gũi, phảng phất hương vị đồng quê. Đó là bức tranh ngày hè mang vẻ đẹp
thơ mộng, hài hòa, ấm áp, tràn đầy sức sống của trong bài thơ Cảnh ngày hè của
Nguyễn Trãi: “Rồi hóng mát thuở ngày trường/ Hòe lục đùn đùn tán rợp giương/ Thạch
lựu hiên còn phun thức đỏ/ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”. Bức tranh thiên
nhiên được ngòi bút tài hoa của tác gia Nguyễn Trãi vẽ lên ở trạng thái động,
biến hóa linh hoạt với nhiều gam màu rực rỡ. Sự vận động ở bên trong của sự vật
như muốn trào ra, trỗi dậy mãnh liệt, tất cả đang ở thời điểm cực thịnh của cuộc
đời mình.
Trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi, hình tượng thiên nhiên được
nhắc đến rất nhiều, xuất hiện với tần số rất lớn. Ngoài những hình ảnh thiên
nhiên gần gũi với đời thường còn có một số hình tượng thiên nhiên mang màu sắc
ước lệ như tùng, trúc, cúc, mai, mẫu đơn…, Bức tranh ngày hè mà Nguyễn Trãi vẽ
trong Bảo kính cảnh giới số 43 cũng không ngoại lệ, thiên nhiên được nhắc tới
biểu trưng cho khát vọng, quyết tâm giữ mình trong sạch. Theo văn hóa phương
Đông, “cây hòe” là loài cây lộc đại diện cho sự giàu sang may mắn. Người xưa
thường trồng “cây hòe” trước nhà để mong con cháu thành danh, vinh hiển. Cây
“thạch lựu” tượng trưng cho đa phúc, đa tử mang lại nhiều may mắn, tốt lành.
Riêng “hoa sen” là loài hoa nhân sinh thể hiện nhân cách cao đẹp của tác giả.
Ba loài cây trong thơ Nguyễn Trãi là ba khát vọng đẹp của Nguyễn Trãi: khát vọng
con cháu thành danh, gặp may mắn, sung túc và quyết giữ phẩm giá thanh cao.
Dẫu có gần với cuộc sống hằng ngày nhưng hình ảnh thiên nhiên
ở giai đoạn này
Vậy thơ trong giai đoạn này dù vẫn mang tính chất khuôn mẫu, ước lệ và mang đậm dấu ấn của thời đại nhưng các tác giả đã linh hoạt khéo léo đưa thiên nhiên gần hơn với cuộc sống sinh hoạt của con người, tạo nên những vần thơ hay, sáng tạo và mới mẻ so với thời đại. Thiên nhiên tuy mang tính biểu tượng cao nhưng kèm theo đó là khát vọng rất đời thường của các tác giả. Có lẽ vậy mà thiên nhiên mới trở nên hài hòa, gần gũi với cuộc sống của con người.
Vậy thơ trong giai đoạn này dù vẫn mang tính chất khuôn mẫu, ước lệ và mang đậm dấu ấn của thời đại nhưng các tác giả đã linh hoạt khéo léo đưa thiên nhiên gần hơn với cuộc sống sinh hoạt của con người, tạo nên những vần thơ hay, sáng tạo và mới mẻ so với thời đại. Thiên nhiên tuy mang tính biểu tượng cao nhưng kèm theo đó là khát vọng rất đời thường của các tác giả. Có lẽ vậy mà thiên nhiên mới trở nên hài hòa, gần gũi với cuộc sống của con người.
Bước sang thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XVIII, tác phẩm vẫn mang
nét đẹp rất đặc trưng của các giai đoạn trước đó nhưng dấu ấn thời đại lúc này
lại đậm nét hơn rất nhiều. Giai đoạn lịch sử này đã có những biến động, chế độ
phong kiến bắt đầu rơi vào khủng hoảng, từ đó hệ tư tưởng của các sĩ phu cũng
có nhiều chuyển biến phức tạp. Xã hội phong kiến bắt đầu có dấu hiệu khủng hoảng,
các tập đoàn phong kiến không còn gắn lợi ích với lợi ích của nhân dân lao động.
Các giá trị đạo đức vững chãi trong xã hội bắt đầu lung lay, có một số nhà nho
không chấp nhận những biến cố thời cuộc đã phải cáo quan về quê ở ẩn, sống một
cuộc sống thanh cao, hòa hợp với thiên nhiên vạn vật dù vẫn nặng lòng với non
sông: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Nhàn - Nguyễn
Bỉnh Khiêm). Các tác giả chọn lối sống đắm mình trong vẻ đẹp của trời đất, mùa
nào thức ấy, rất giản dị nhưng cũng rất thanh cao để xa rời dần chốn nhiễu
nhương.
Về ở ẩn với thiên nhiên, nhà thơ tận hưởng lộc của thiên
nhiên bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông, hấp thụ tinh khí của trời đất để gột bỏ
những lo toan vướng bận riêng tư. Cuộc sống về với thiên nhiên của nhà thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm và các nhà thơ ở giai đoạn này tiêu biểu cho quan niệm “độc thiện kỳ
thân” của các nhà nho, có nét gần với triết lý “vô vi” của đạo Lão, “thoát tục”
của Phật giáo. Bỏ qua những triết lý sâu xa, ta nhận ra thiên nhiên trong giai
đoạn này phần nào gỡ bỏ được mực thước, khuôn mẫu mà có phần gần gũi. Những
hình ảnh nhỏ bé, thân quen như: măng trúc, hồ sen, giá… rất quen thuộc với đời
sống nhân dân, và vô cùng gắn kết với phẩm giá thanh cao của các nhà nho.
Các nhà thơ ở giai đoạn này yêu thiên nhiên bằng cả tấm lòng,
họ nâng niu, trân trọng từng cái cây ngọn cỏ, họ thể hiện tình cảm ấm áp, trong
trẻo, đồng thời cũng thể hiện sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên, hòa
chung vào nhau thân tình giống như tri âm, tri kỷ cùng trao đổi để bộc lộ nhân
sinh quan: “Rượu đến cội cây ta sẽ uống/ Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao” (Nhàn -
Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Đến nửa cuối TK XVIII nửa đầu TK XIX, giai đoạn này xuất hiện
các nhà thơ xuất chúng, có nét cá tính rất riêng, đồng thời đây cũng là giai đoạn
có những tác phẩm kiệt xuất của văn học Việt Nam nói chung, nền văn học trung đại
nói riêng. Hình ảnh thiên nhiên trong các tác phẩm thuộc giai đoạn này không
đơn thuần là ca ngợi đất nước mà nó là nơi bộc lộ nỗi niềm riêng, hay nói nên nỗi
thống khổ của những con người sống dưới đáy của xã hội. Ta bắt gặp rất nhiều
hình ảnh thiên nhiên trong thơ của Đặng Trần Côn, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du… tất
cả những vần thơ ấy để truyền tải một thông điệp rất nhân văn, mang giá trị
nhân đạo lớn.
Thiên nhiên trong tác phẩm Chinh Phụ ngâm của Đặng Trần Côn
do Đoàn Thị Điểm diễn nôm là một hình ảnh mang giá trị nghệ thuật cao. Bức
tranh thiên nhiên hiện lên gắn với tâm trạng của người chinh phụ, nó là nơi người
chinh phụ trút bầu tâm sự. Vì thế thiên nhiên cũng mang tâm trạng u sầu: “Gà eo
óc gáy sương năm trống/ Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên/ Khắc giờ đằng đẵng như
niên/ Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”. Thiên nhiên xuất hiện nhưng ở đây chỉ
là “phất phơ rủ bóng” chứ không phải là thiên nhiên đầy sinh khí như hình ảnh
“tán rợp giương” trong bức tranh mùa hè của nhà thơ Nguyễn Trãi, nó đã bị tâm
trạng u uất của người chinh phụ phủ nên, thiên nhiêm giờ đây cũng như một sinh
thể có hồn, biết buồn, vui, oán trách, lo lắng, sầu thẳm, cô đơn bởi “cảnh nào
cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du).
Bên cạnh hình ảnh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng, ta phát hiện
hầu hết bức tranh thiên nhiên vẫn mang tính chất ước lệ tượng trưng: “Ngoài rèm
thước chẳng mách tin/ trong rèm dường đã có đèn biết chăng”. Hình ảnh “chim thước”
là hình ảnh được sử dụng quen thuộc trong thơ ca cổ, nó là loài chim đại diện
cho điềm lạnh, báo hiệu nhà có khách, người ở xa về. Tuy nhiên tiếng “chim thước” kia
chỉ là mơ ước của người chinh phụ mà thôi. Hay hình ảnh núi non cũng chỉ mang
tính chất ước lệ, nếu tác giả có sử dụng thì nó cũng chỉ là hình ảnh tượng
trưng, nó gắng liền với một tích cũ xa xưa: Lòng này gửi gió đông có tiện/
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên”.“Non Yên” ở đây là núi Yên Nhiên, núi này găn với
tích Hậu Hiến đời Hậu Hán đuổi giắc đến núi Bắc Thiền Vu đến núi Yên Nhiên khắc
đá ghi công ở đó rồi trở về. Ở đây ta có thể hiểu “non Yên” là chiến trường xa
xôi đầy khó khăn, nguy hiểm.
Nếu thiên nhiên trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Đoàn
Thị Điểm mang đậm tính hoài cổ, ước lệ tượng trưng, đồng thời nhuốm màu tâm trạng
của nhân vật trữ tình thì thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương mang đậm dấu ấn
cá nhân: “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương đã quệt rồi” (Mời
trầu). Trong thơ bà, hình ảnh thiên nhiên rất thật gắn liền với cuộc sống thường
ngày, nó thể hiện một cá tính mạnh mẽ, ngạo nghễ của người phụ nữ không theo
khuôn phép trong xã hội phong kiến.
Trong tác phẩm Tự tình II thuộc chương trình trung học phổ
thông, cũng cho bạn đọc thấy được hình ảnh thiên nhiên đẹp, nhưng vẻ đẹp đó là
vẻ đẹp của nỗi sầu lẻ bóng: “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh/ Vầng trăng bóng
xế khuyết chưa tròn”. Tâm trạng của nữ thi sĩ hòa trong cảnh trăng, nhưng là
trăng “khuyết chưa tròn”, tuổi xuân của người con gái sắp qua đi nhưng tình
duyên vẫn chưa vẹn tròn.
Tiếp tục hướng đến ngoại cảnh, đặc biệt là thiên nhiên, bởi
nơi đây là nơi con người sống thật nhất với lòng mình: “Xiên ngang mặt đất rêu
từng đám/ Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”, hình ảnh thiên nhiên được Xuân Hương lựa
chọn miêu tả không phải là những hình ảnh cao quý, thanh cao mà lại là những sự
vật nhỏ bé, yếu đuổi, mỏng manh: “rêu”, “đá”. Tuy là những sự vật yếu mềm nhưng
nó không chấp nhận sự thấp bé, vươn lên bằng mọi cách, vượt qua mọi rào cản để
chứng tỏ mình. Cách Xuân Hương miêu tả sức sống tiềm tàng mãnh liệt của những vật
nhỏ bé khiến ta liên tưởng đến một nàng Xuân Hương dám mang tấm thân mỏng manh
của mình ra chống trọi với toàn bộ lễ giáo phong kiến đương thời.
Qua những vần thơ của Xuân Hương ta nhận ra càng về sau, những
vần thơ viết về thiên nhiên càng mới mẻ, nó dần mất đi tính chất ước lệ tượng
trưng của văn học trung đại mà thay vào đó là một hình ảnh thiên nhiên bình dị,
gần gũi hơn với cuộc sống của con người.
Nhắc đến thiên nhiên dung dị, ấm áp, gần gũi, quen thuộc ta
không thể không nhắc đến Nguyễn Khuyến - nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Văn
chương trong thơ ông gần như xóa đi sự mực thước, thay vào đó là hình tượng thơ
gợi cảm, hiền hậu và đậm đà bản sắc Việt: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo/ Một
chiếc thuyền câu bé tẻo teo” (Câu cá mùa thu - Nguyễn Khuyến). Những vần thơ
vang ra, vẽ một bức tranh vè mùa thu của Bắc Bộ, người thi sĩ dường như đắm
mình trong cảnh vật, lặng lẽ, mơ màng thưởng thức vẻ đẹp bao la của bầu trời,
áng mây nhè nhẹ trôi: “Tầng mây lơ lửng trời xanh mát/ Ngõ trúc quanh co khách
vắng teo” (Câu cá mùa thu - Nguyễn Khuyến). Cảnh đẹp trong thơ Nguyễn Khuyến êm
đềm tĩnh lặng nhưng cũng có chút gì đó man mác buồn.
Như vậy, thông qua những tác phẩm thuộc chương trình phổ
thông, chúng ta phần nào có cái nhìn khái quát về hình tượng hiên nhiên trong
văn học trung đại. Tuy cùng là vẻ đẹp mực thước, khuôn mẫu nhưng ở mỗi giai đoạn,
mỗi nhà thơ hình tượng thiên nhiên lại mang một dấu ấn riêng biệt. Có lẽ vậy,
hình tượng thiên nhiên luôn là đề tài vô tận của các nhà thơ trong mọi thời đại,
vẻ đẹp thiên nhiên ấy được các nhà văn hiện đại vẽ một tài hoa trong các sáng
tác của mình.
… Đến vẻ đẹp nhiều sắc màu trong tác phẩm văn học hiện đại
Bước sang đầu thế kỷ XX việc miêu tả thiên nhiên không còn những
hình ảnh ước lệ tượng trưng, miêu tả cảnh vật theo quy ước mà thiên nhiên được
các tác giả dựa vào hiện thực đời sống thật để miêu tả.Ở phong trào thơ Mới, đã
có những thay đổi rất cơ bản trong việc miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên được
miêu tả rất chân thật, đó có thể là bức tranh thôn Vĩ với không gian đẹp, ngập
tràn trong nắng sớm, có hàng cau, có khóm trúc, có cả vườn cây trái “xanh như
ngọc” và còn có người con gái yêu kiều nào đó: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?/
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc/ Lá trúc che
ngang mặt chữ điền” (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử). Đây là bức tranh thiên nhiên
tươi đẹp, là nơi tác giả yêu thương tha thiết, là sự yêu mến của thi nhân với
cuộc sống, với mảnh đất kinh kì hằn in cả một thời hoa mộng.
Đâu đó là bắt gặp bức tranh thiên nhiên căng tràn nhựa sống:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật/ Này đây hoa của đồng nội xanh rì/ Này đây
lá của cành tơ phơ phất/ Của yến anh này đây khúc tình si/ Và này đây ánh sáng
chớp hàng mi/ Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa/ Tháng giêng ngon như một cặp
môi gần” (Vội vàng - Xuân Diệu). Tác giả Xuân Diệu tỉ mỉ, cảm nhận bằng nhiều
giác quan để cảm nhận bức tranh non tơ, tươi mới và đầy sức sống. Những vần thơ
về thiên nhiên của Xuân Diệu rất mới, rất lạ, khác hẳn với lối miêu tả cũ trước
kia.
Nếu đọc thơ Thế Lữ ta bị cuốn theo hình ảnh suối đào, hạc trắng,
kim đồng, ngọc nữ, chốn bồng lai… thì đến với Xuân Diệu ông đã “đốt cảnh bồng
lai và xua ai nấy về hạ giới” (Hoài Thanh - Hoài Chân, 1988). Đúng vậy, cảnh bồng
lai của tiên giới được ngòi bút tài năng của Xuân Diệu đưa về trần gian, phải
có một tình yêu mãnh liệt với mới có thể thốt lên “tháng giêng ngon như một cặp
môi gần”. Tác giả yêu mến, thiết tha với cuộc sống, tâm hồn nhà thơ luôn mở rộng
giao cảm với đời với mọi người, thiên nhiên chính là phương tiện để nhà thơ bày
tỏ quan điểm, tình cảm của mình.
Cảnh vật nông thôn cũng được miêu tả rất đẹp trong thơ của
Nguyễn Bính, Anh Thơ. Giữa những cách tân mạnh mẽ của thơ Mới từ nội dung đến
hình thức, giữa những xô bồ hỗn tạp của văn hóa Đông - Tây, người ta vẫn hướng
đến một không gian mang bản sắc của người Việt trong thơ Nguyễn Bính: “Nhà em
có một giàn trầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng” (Tương tư - Nguyễn Bính).
Chính những vần thơ về cảnh vật nông thôn của Nguyễn Bính minh chứng cho chúng
ta một điều: con đường mang tính bền vững và sâu sắc nhất là biết thừa kế những
giá trị truyền thống của cha ông tự ngàn xưa.
Riêng trong thơ của nữ thi sĩ Anh Thơ, ta bắt gặp những hình ảnh
về miền quê quen thuộc, thơ bà luôn đầy ắp những sự vật. Chỉ riêng bài Chiều
xuân, với 12 câu thơ là 11 hình ảnh thiên nhiên và một hình ảnh con người: “Mưa đổ
bụi êm êm trên bến vắng/ Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi/ Quán tranh đứng
im lìm trong vắng lặng/ Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời/ Ngoài đường đê cỏ
non tràn biếc cỏ/ Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ/ Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước
gió/ Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa/ Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặn/ Lũ
cò con chốc chốc vụt bay ra/ Làm giật mình một cô nàng yếm thắm/ Cúi cuốc cào cỏ
ruộng sắp ra hoa” (Chiều xuân - Anh Thơ). Bức tranh thiên nhiên hữu tình mà Anh
Thơ tạo ra được liệt kê, nối tiếp nhau. Toàn bộ tác phẩm là sự liên ứng hài hòa
giữa ba mảng không gian: mặt đất, bầu trời và dòng sông. Cách xử lí không gian
của nữ thi sĩ Anh Thơ cho lạ đi bằng cách đặt thêm các hình ảnh không gian khác
vào không gian đó. Chính sự kết hợp này tạo nên sự mới mẻ, tạo được lực hấp dẫn
cho cảnh vật cũ.
Thiên nhiên trong thơ Mới là sản phẩm của trí tưởng tượng, thấm
tâm trạng của tác giả. Chỉ riêng với hình ảnh vầng trăng, ánh trăng trong thơ
Hàn Mặc Tử cũng khiến bạn đọc thấy cảm xúc trào dâng. Hình ảnh ánh trăng được
miêu tả rất gợi cảm, từ ánh trăng xanh trong vườn khuya của tình yêu đôi lứa, đến
một không gian huyền ảo ngập tràn ánh trăng: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/
Có chở trăng về kịp tối nay” (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử). Qua những vần thơ
huyền ảo, Hàn Mặc Tử đưa bạn đọc cập vào một bến mộng ảo chứng kiến thuyền
trăng lướt đi vào miền lo âu, mơ hồ vừa được đánh thức.
Hình ảnh thiên nhiên trong thơ Mới được các nhà thơ khắc họa
một cách tinh tế. Mỗi một cảnh vật đều là tâm huyết của các nhà thơ, nó là lòng
yêu quê hương, đất nước thầm kín, thiết tha và tinh thần dân tộc sâu sắc. Mỗi
hình ảnh thiên nhiên là một nét đẹp của quê hương bình dị, nồng hậu và quen thuộc.
Nếu trong thơ Mới đem đến cảm hứng lãng mạn thoát ly thì thơ
cách mạng hướng đến lãng mạn cách mạng. Xuất phát từ đặc điểm tính cách phẩm chất
người Việt luôn lạc quan, tin tưởng dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cùng với tâm
hồn thơ mộng giàu cảm xúc “Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”, “Khi Nguyễn Trãi
làm thơ và đánh giặc/ Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn” đã tạo nên sự
lãng mạn trong đời sống tinh thần của người Việt.
Giai đoạn lịch sử 1945 - 1975 có thể coi là giai đoạn khốc liệt,
máu lửa, đau thương của dân tộc Việt Nam. Con người trong hoàn cảnh này tuy đứng
ở hiện tại đầy gian khổ nhưng tâm hồn luôn hướng đến tương lai. Vì thế, những vần
thơ trong giai đoạn thường thể hiện tinh thần lạc quan, tin tưởng nên bức tranh
thiên nhiên của các tác giả giai đoạn này cũng được nhìn một cách lãng mạn hóa.
Đó cũng là biểu hiện của đặc điểm văn học giai đoạn này: Mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bởi giai đoạn văn học này gắn liền với hai cuộc kháng chiến với những chiến công lẫy lừng của dân tộc ta nên cảm hứng lãng mạn khác với văn học giai đoạn trước đó, là cái tôi tràn đầy cảm xúc hướng tới lý tưởng cách mạng, là ước mơ khát vọng về tương lai tươi sáng của dân tộc. Thiên nhiên trong thơ giai đoạn này gắn liền với cuộc hành quân gian khổ của các chiến sĩ, vừa là cảnh đẹp hút hồn người chiến sĩ, vừa là kẻ thù nguy hiểm đe dọa đến tính mạng con người: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây, súng ngửi trời/ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống/ Nhà ai Pha Luông mưa xã khơi” (Tây Tiến - Quang Dũng). Những nét vẽ gân guốc, khỏe khoắn, cách phối hợp thanh bằng trắc đầy sáng tạo đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, lớn lao mà cũng đầy nguy hiểm, khẳng định được tầm vóc ngang tầm đất trời, vũ trụ của người lính Tây Tiến. Thiên nhiên hùng vĩ cũng là con đường gian khổ mà người lính phải vượt qua trên bước đường hành quân.
Đó cũng là biểu hiện của đặc điểm văn học giai đoạn này: Mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bởi giai đoạn văn học này gắn liền với hai cuộc kháng chiến với những chiến công lẫy lừng của dân tộc ta nên cảm hứng lãng mạn khác với văn học giai đoạn trước đó, là cái tôi tràn đầy cảm xúc hướng tới lý tưởng cách mạng, là ước mơ khát vọng về tương lai tươi sáng của dân tộc. Thiên nhiên trong thơ giai đoạn này gắn liền với cuộc hành quân gian khổ của các chiến sĩ, vừa là cảnh đẹp hút hồn người chiến sĩ, vừa là kẻ thù nguy hiểm đe dọa đến tính mạng con người: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây, súng ngửi trời/ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống/ Nhà ai Pha Luông mưa xã khơi” (Tây Tiến - Quang Dũng). Những nét vẽ gân guốc, khỏe khoắn, cách phối hợp thanh bằng trắc đầy sáng tạo đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, lớn lao mà cũng đầy nguy hiểm, khẳng định được tầm vóc ngang tầm đất trời, vũ trụ của người lính Tây Tiến. Thiên nhiên hùng vĩ cũng là con đường gian khổ mà người lính phải vượt qua trên bước đường hành quân.
Bên cạnh đó ta cũng bắt gặp những nét vẽ thơ mộng, hiền hòa, đậm
chất lãng mạn của núi rừng sông nước Tây Bắc. Đó là hình ảnh thấp thoáng bóng
nhà, bóng người, bóng “ai” sau màn “mưa xa khơi” (“Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi”). Hoặc hình ảnh ấn tượng và giàu chất “lính” “Mường Lát hoa về trong đêm
hơi” khi đoàn quân Tây Tiến hành quân trong đêm. Và tâm hồn người lính, những
người hầu hết xuất thân từ lớp thanh niên trai trẻ của Hà Thành có lúc lại xao
xuyến trước vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc hoa mộng: “Người đi Châu Mộc chiều sương
ấy/ Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ/ Có nhớ dáng người trên độc mộc/ Trôi dòng nước lũ
hoa đong đưa”.
Thiên nhiên trong văn học kháng chiến còn “phát huy sức mạnh,
truyền thống” theo dòng lịch sử, sát cánh với con người khi đánh đuổi kẻ thù:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng/ Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây/ Núi giăng thành
luỹ sắt dày/ Rừng che bộ đội rừng vây quân thù. Nếu dòng Bạch Đằng năm xưa
trong Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu) là thế trận để bao lần ta thắng địch,
trong cuộc kháng chiến chống Pháp hào hùng, núi rừng là điểm tựa vững chắc để quân
và dân ta đánh giặc, là nơi chở che, bao bọc khiến kẻ thù phải khiếp sợ. Thiên
nhiên đồng sức đồng lòng cùng con người để đánh tan giặc ngoại xâm.
Không chỉ sát cánh với con người trong những cuộc hành quân
gian khổ, thiên nhiên còn cùng con người lao động sản xuất trong những ngày
kháng chiến gian lao: “Ta về mình có nhớ ta/ Ta về, ta nhớ những hoa cùng người/
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng/ Ngày xuân mơ nở
trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang/ Ve kêu rừng phách đổ vàng/
Nhớ cô em gái hái măng một mình/ Rừng thu trăng rọi hoà bình/ Nhớ ai tiếng hát
ân tình thuỷ chung” (Việt Bắc - Tố Hữu), cùng đau đớn xót xa khi quê hương bị
giày xéo: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều” (Đất
nước - Nguyễn Đình Thi), căm hờn khi nhân dân lầm than: “từ gốc lúa bờ tre hồn
hậu/ Đã bật lên những tiếng căm hờn”.
Rồi thiên nhiên lại hòa với niềm vui chiến thắng, độc lập của
dân tộc: “Tin vui chiến thắng trăm miền/ Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về/ Vui
từ Đồng Tháp, An Khê/ Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng” (Việt Bắc - Tố Hữu),
hân hoan khi ta được làm chủ: “Trời xanh đây là của chúng ta/ Núi rừng đây là của
chúng ta/ Những cánh đồng thơm ngát/ những ngả đường bát ngát/ Những dòng song
đỏ nặng phù xa” (Đất nước - Nguyễn Đình Thi). Thiên nhiên trong giai đoạn này
là sự lấp lánh giao thoa của nguồn cảm hứng hiện thực và lãng mạn, lãng mạn và
bi tráng, nó là những vần thơ gieo vào lòng bạn đọc một sự tin tưởng cần thiết
trong một hoàn cảnh nghiệt ngã.
Đến với những vần thơ Xuân Quỳnh, ta nhận thấy tác giả dựa
vào hình ảnh thiên nhiên để nói lên nỗi lòng của người phụ nữ trong tình yêu,
đó là cảm giác băn khoăn, loay hoay lý giải tình yêu: “Sóng bắt đầu từ gió/ gió
bắt đầu từ đâu/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”, đôi lúc lại bày tỏ
những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tình yêu: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng
lẽ”, như nỗi nhớ luôn thường trực: “Con sóng dưới lòng sâu/ Con sóng trên mặt
nước/ Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được” (Sóng - Xuân Quỳnh). Cái kết
của bài thơ thật đẹp, là hình ảnh con sóng -hiện thân của “em”, muốn được tan
ra, hòa nhập giữa đại dương muôn trùng: “Làm sao được tan ra/ Thành trăm con
sóng nhỏ/ Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ”. Đặt bài thơ trong hoàn cảnh
sáng tác là những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi
những lớp người con gái con trai “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” mới thấy được
nỗi khát khao cháy bỏng về tình yêu. “Em” hòa trong hình tượng “sóng”, mong ước
hòa chung cái “tôi” trong cái “ta” chung của dân tộc, cá nhân với cộng đồng để
tình yêu mãi trường tồn vĩnh cửu.
Có thể nói hình tượng thiên nhiên xuất hiện trong thơ ca
kháng chiến đã thoát khỏi những điển cố, thoát khỏi những ước lệ mang tính
khuôn sáo. Hình tượng thiên nhiên trong giai đoạn này mang hơi thở của cuộc đấu
tranh chống giặc ngoại xâm, chưa lúc nào ta cảm thấy thiên nhiên kỳ vĩ, lớn lao
mà cũng rất đỗi gần gũi, thân thương như trong giai đoạn này.
Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân miền Bắc
còn tiến lên xây dựng một cuộc sống mới, con người mới. Họ sẵn sàng theo lời vẫy
gọi của tổ quốc yêu thương để đến những vùng đất khác, để tiếp tục lao động,
chiến đấu. Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ tài hoa đã bắt gặp chân lý đó để đến với
vùng Tây Bắc yêu thương, với con sông Đà dữ dội, hung bạo và cũng thơ mộng, trữ
tình. Con sông là biểu tượng cho sức mạnh thiên nhiên mà con người cần phải
chinh phục. Vì lẽ đó, thiên nhiên vừa là người bạn ân tình, là kẻ thù ngang sức,
để từ đó nhà văn Nguyễn Tuân ca ngợi “chất vàng mười” Tây Bắc: Là bản lĩnh, ý
chí, khát vọng chinh phục thiên nhiên của con người - những người lái đò tài
hoa.
Chiến tranh đã đi qua, sau niềm vui chiến thắng con người lại
trở về với cuộc sống đời thường, phải đối diện với khó khăn gian khổ, thiếu thốn
về vật chất, bộn bề với những ngang trái bất công của cuộc sống hằng ngày. Sau
năm 1975, người ta từ giã cái tháp vinh quang trở về với cái dung dị vốn có. Từ
chỗ thiên về cái cao cả, phi thường, kì vĩ, đất nước, dân tộc, giờ đây nghệ thuật
trở về với cuộc sống, với đời tư của mỗi cá nhân trong xã hội. Điểm tựa của
giai đoạn này không còn là biến cố lịch sử mà là những chuyện hằng ngày, những
quan hệ nhân sinh muôn thuở.
Với cảm hứng đời tư, thế sự sau năm 1975, thiên nhiên trong
các tác phẩm này cũng gắn với cảm xúc cá nhân, thấm chất thế sự. Sau những năm
tháng chiến tranh, con người dùng hết tình yêu cho quê hương đất nước, đến hôm
nay họ về sống với bản ngã của mình, trải lòng để rồi khát khao mãnh liệt tới hạnh
phúc cá nhân, hạnh phúc đời thường.
Đến với những sáng tác của tác giả Nguyễn Minh Châu, nhà văn
dù trước hay sau mốc thời gian lịch sử 1975 đều bỏ công kiếm tìm những “hạt ngọc
ẩn sâu trong tâm hồn con người, ta nhận thấy thiên nhiên muôn màu muôn vẻ.
Thiên nhiên trong sáng tác của ông đôi lúc chỉ là bức nền cho những số phận nhỏ
bé bất hạnh, tất cả ẩn nấp sau cái vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hóa. Đằng sau bức
tranh “đắt giá”, “trời cho”, “bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ”, bức
tranh với “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa
có pha chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào” trong tác phẩm Chiếc thuyền
ngoài xa là một câu chuyện nhức nhối của một gia đình làng chài, cảnh tượng
đánh đập dã man của người đàn ông đối với vợ mình khiến bất cứ ai cũng phải giật
mình. Bức tranh thiên nhiên thứ nhất là buổi bình minh trên biển, khi con thuyền
ẩn hiện trong màn sương sớm trên biển bao la, khiến người nghệ sĩ thăng hoa trước
cái đẹp của ngoại cảnh. Nhưng khi con thuyền cập vào bờ, đằng sau cảnh đẹp ảo
huyền đó là cả một nỗi bất hạnh của những con người khốn khó bởi cuộc sống sau
chiến tranh.
Thiên nhiên bao giờ cũng đẹp, bức tranh thiên nhiên luôn gắn
liền với tâm hồn của người nghệ sĩ. Thiên nhiên là đối tượng của văn học nghệ
thuật, để nhà văn gửi gắm tâm tư, tình cảm, quan điểm của mình. Từ ngàn xưa đến
nay, thiên nhiên đến với thơ ca như một người bạn của thi sĩ, dẫu nó có mang
nét đẹp của thời đại, mang dấu ấn riêng của tác giả thì thiên nhiên vẫn hồn
nhiên, trong sáng, giản dị như nó vốn có. Thiên nhiên có đẹp thì thơ mới sáng,
cảnh có tình thì vần thơ mới thực, điều này đã được các nhà thơ từ xưa đến nay
chứng minh qua vô vàn những thi phẩm, nên hình tượng thiên nhiên trong văn học
luôn mang một vẻ đẹp ước lệ, thuần khiết, thanh cao trong văn học trung đại, đồng
thời mang vẻ đẹp tươi mới, kỳ vĩ mà cũng rất đời thường trong văn học hiện đại.
Tài liệu tham khảo:
[1] Lại Nguyên Ân (1993), Cuộc cải cách của phong trào Thơ Mới
và tiến trình thơ ca Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 1/1993.
[2] Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[3] Lê Huy Bắc (2001), Thẩm bình tác phẩm văn chương (2,3), NXB Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[4] Nguyễn Sĩ Cẩn (1984), Mấy vấn đề phương pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[5] Hoàng Minh Châu (1990), Bàn về thơ, NXB Văn học, Hà Nội.
[6] Nguyễn Viết Chữ (2005), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo thể loại), NXB Đại học Sư phạm.
[7] Nhật Chiêu (1998), Thơ ca Nhật Bản, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[8] Phan Huy Dũng (2009), Tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thông một góc nhìn, một cách đọc, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
[9] Nguyễn Văn Đấu (2014), Phân tích tác phẩm văn học theo đặc trưng thi pháp, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên, Trường Đại học Quy Nhơn, Bình Định.
[10] Phan Cự Đệ (1996), Phong trào thơ mới, NXB KHXH, Hà Nội.
[2] Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[3] Lê Huy Bắc (2001), Thẩm bình tác phẩm văn chương (2,3), NXB Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[4] Nguyễn Sĩ Cẩn (1984), Mấy vấn đề phương pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[5] Hoàng Minh Châu (1990), Bàn về thơ, NXB Văn học, Hà Nội.
[6] Nguyễn Viết Chữ (2005), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo thể loại), NXB Đại học Sư phạm.
[7] Nhật Chiêu (1998), Thơ ca Nhật Bản, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[8] Phan Huy Dũng (2009), Tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thông một góc nhìn, một cách đọc, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
[9] Nguyễn Văn Đấu (2014), Phân tích tác phẩm văn học theo đặc trưng thi pháp, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên, Trường Đại học Quy Nhơn, Bình Định.
[10] Phan Cự Đệ (1996), Phong trào thơ mới, NXB KHXH, Hà Nội.
29 Tháng Sáu, 2019
Nguyễn Thị Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét