Cái hay của Thơ mới
(1932 - 1945)
Với chủ đề “Đồng hành và sáng tạo cùng Đất nước”, Ngày Thơ Việt
Nam lần thứ 15 sẽ diễn ra vào ngày Rằm tháng Giêng (11/1/2017) tại Văn Miếu -
Quốc Tử Giám (Hà Nội). Được biết, năm nay, lần đầu tiên “Con đường thi nhân” sẽ
được mở trong khuôn khổ Ngày Thơ Việt Nam. Tại đây, ban tổ chức sẽ giới thiệu
cuộc đời và sự nghiệp của các nhà thơ Việt Nam tiêu biểu. Bên cạnh đó, nhiều bức
ảnh chưa từng được công bố về các nhà văn, nhà thơ Việt Nam tiêu biểu cũng như
về quá trình hình thành và phát triển của Hội Nhà văn Việt Nam cũng sẽ được giới
thiệu tới công chúng tại triển lãm “60 năm Hội Nhà văn Việt Nam” (diễn ra tại
khu vực Hồ Văn).
Ngày Thơ Việt Nam được tổ chức
tại Văn miếu Quốc Tử Giám
Ban biên tập xin giới thiệu bài viết của tác giả Bảo Châu về
“Cái hay của Thơ mới”. Trong bài viết này, tác giả đã tập trung làm phân tích
những nội dung như: sự khẳng định “cái tôi”, nỗi buồn cô đơn, cảm hứng thiên
nhiên và tình yêu cũng như đề cập đến một số đặc sắc về nghệ thuật trong Thơ mới.
Ngày nay, khi nhắc đến hai từ “Thơ mới”, ngay lập tức người
ta nghĩ ngay đến một thời kỳ trong tiến trình phát triển rực rỡ của lịch sử văn
học dân tộc. Người ta lại biết đến Thơ mới qua các bài thơ tiêu biểu của các
tác giả nổi danh như Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Chế Lan Viên, Đông Hồ, Nguyễn
Nhược Pháp, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính... Nhưng ít ai biết được rằng, để có được
một phong trào thơ với đúng như tên gọi của nó, thế hệ văn nghệ sĩ thời bấy giờ
đã trải qua những bước thăng trầm như thế nào.
Thật vậy, phong trào Thơ mới (1932 - 1945) khi đang còn trong
thời kỳ “trứng nước” đã phải đối mặt với không ít những ý kiến, quan điểm phản
đối gay gắt , mạnh mẽ của “thơ cũ”. Xã hội truyền thống Việt Nam chưa “cho
phép”, chưa “chuẩn bị” để làm một cuộc “cách mạng trong thi ca”. Vì vậy, vào một
ngày nọ (10/3/1932) “Cuộc cách mạng trong thi ca đã nhóm dậy” (Hoài Thanh -
Hoài Chân). Lần đầu tiên trong thành trì thơ cũ hiện ra một lỗ thủng với bài
thơ “Tình già” của Phan Khôi trên tờ Phụ nữ Tân văn. Nói như Huy Cận trong
bài phát biểu nhân kỉ niệm 60 năm phong trào Thơ mới (15/2/1992) “Bây giờ
đây, Thơ mới đã nghiễm nhiên nằm trong văn mạch dân tộc và là một chương rất
quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà. Nhưng hồi đó (1932) Thơ mới là nỗi
niềm, thái độ, là một cuộc ra trận của cả một thế hệ văn chương, một lực lượng
trẻ văn hoá dân tộc quyết đổi mới cả một nền văn thơ, văn chương đã mỏi mòn,
khô cứng, bạc màu”.
Tổng kết về Thơ mới, Hoài Thanh, Hoài Chân trong Thi
nhân Việt Nam đã khẳng định: “Không lấy một người so sánh với một người,
hãy lấy thời đại so sánh với thời đại. Tôi quyết rằng chưa có thời đại nào
phong phú như thời đại này trong lịch sử thi ca Việt Nam. Chưa bao giờ người ta
thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng
Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy
Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn
khoăn như Xuân Diệu”.
Thơ mới tạo lập và chứa đựng nhiều nỗi niềm, là một phong trào thơ, một nền thơ, các nhà Thơ mới có quan điểm thẩm mỹ, có những cách thể hiện riêng được định hình thông qua các nhà thơ tiêu biểu, từ đó chi phối cả nền thơ.
Thơ mới tạo lập và chứa đựng nhiều nỗi niềm, là một phong trào thơ, một nền thơ, các nhà Thơ mới có quan điểm thẩm mỹ, có những cách thể hiện riêng được định hình thông qua các nhà thơ tiêu biểu, từ đó chi phối cả nền thơ.
Trước hết, Thơ mới thể hiện “cái tôi” cá nhân (In-di-vi-du) một
cách rõ rệt. “Cái tôi” trong Thơ mới có cái tinh tươm, tinh tường của nó và cái
lớn muốn hòa vào đại dương, muốn đẩy xa không ngừng cả lớp sóng của cả trường
giang. “Cái tôi” khi vừa mới phát hiện ra, nó đã đem lại cho ta nhiều giá trị mới.
Nó thể hiện sự cách tân của thơ vì cuộc đời và lẽ sống. “Cái tôi” trong Thơ mới
xuất hiện gắn liền với từng lớp thị dân, gắn với nền văn minh công nghiệp, đó vừa
là sản phẩm, vừa là chủ thể của nền văn hoá mới. Các nhà Thơ mới đều có ý thức
khẳng định mình như một thực thể duy nhất không lặp lại.
Nền văn học trung đại trong khuôn khổ chế độ phong kiến chủ yếu
là một nền văn học phi ngã. Sự cựa quậy, bứt phá tìm đến bản ngã đã ít nhiều xuất
hiện trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,… Đến phong trào Thơ mới, “cái
tôi” ra đời đòi được giải phóng cá nhân, thoát khỏi luân lí lễ giáo phong kiến
chính là sự tiếp nối và đề cao cái bản ngã đã được khẳng định trước đó. Đó là một
sự lựa chọn khuynh hướng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật mới của các nhà Thơ mới.
Ý thức về “cái tôi” đã đem đến một sự đa dạng phong phú trong cách biểu hiện. “Cái tôi” với tư cách là một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh của thơ ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học. Đó là con người cá tính, con người bản năng chứ không phải con người ý thức nghĩa vụ, giờ đây nó đàng hoàng bước ra “trình làng” (chữ dùng của Phan Khôi). Xuân Diệu - “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới” (Hoài Thanh) lên tiếng trước:
Ý thức về “cái tôi” đã đem đến một sự đa dạng phong phú trong cách biểu hiện. “Cái tôi” với tư cách là một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh của thơ ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học. Đó là con người cá tính, con người bản năng chứ không phải con người ý thức nghĩa vụ, giờ đây nó đàng hoàng bước ra “trình làng” (chữ dùng của Phan Khôi). Xuân Diệu - “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới” (Hoài Thanh) lên tiếng trước:
“Tôi là con chim đến từ núi lạ,
Ngứa cổ hót chơi”
(Lời thơ vào tập gởi hương)
hay:
“Tôi là con nai bị chiều đánh lưới,
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối”
(Khi chiều giăng lưới)
Có khi đại từ nhân xưng “tôi” chuyển thành “anh”:
“Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!”
(Tương tư chiều)
Thảng hoặc có khi lại là “Ta”:
“Ta là Một, là Riêng là Thứ Nhất.
Không có chi bè bạn nổi cùng ta”
(Hy Mã Lạp sơn)
Thơ mới đề cao “cái tôi” như một sự cố gắng cuối cùng để khẳng
định bản ngã của mình và mong được đóng góp vào “văn mạch dân tộc”, mở đường cho
sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.
Trong bài Về cái buồn trong Thơ mới, Hoài Chân cho rằng
“Đúng là Thơ mới buồn, buồn nhiều”, “Cái buồn của Thơ mới không phải là cái buồn
ủy mị, bạc nhược mà là cái buồn của những người có tâm huyết, đau buồn vì bị bế
tắc chưa tìm thấy lối ra”.
“Cái tôi” trong Thơ mới trốn vào nhiều nẻo đường khác nhau, ở
đâu cũng thấy buồn và cô đơn. Nỗi buồn cô đơn tràn ngập trong cảm thức về Tiếng
thu với hình ảnh:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
(Lưu Trọng Lư)
Với Chế Lan Viên đó là Nỗi buồn thương nhớ tiếc dân Hời (dân
Hời tức là dân Chàm):
“Đường về thu trước xa xăm lắm
Mà kẻ đi về chỉ một tôi”
Nghe một tiếng gà gáy bên sông, Lưu Trọng Lư cảm nhận được nỗi
buồn “Xao xác gà trưa gáy não nùng” còn Xuân Diệu lại thấy “Tiếng gà gáy buồn
nghe như máu ứa”. Về điều này, Hoài Chân cho rằng “Xuân Diệu phải là người buồn
nhiều, đau buồn nhiều mới viết được những câu thơ nhức xương như: “Thà một phút
huy hoàng rồi chợt tối. Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.
Nỗi buồn cô đơn là cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn. Với các
nhà Thơ mới, nỗi buồn ấy còn là cách giải thoát tâm hồn, là niềm mong ước được
trải lòng với đời và với chính mình.
Lưu Trọng Lư đã “mỉm cười trong thú đau thương”. Đồng thời,
các nhà Thơ mới quan niệm rằng cô đơn, buồn chính là cái đẹp. Huy Cận đã từng bảo
rằng “Cái đẹp bao giờ cũng hơi buồn”. Những quan niệm ấy có lẽ được khởi nguồn
từ phương Tây khi nhà thơ Mỹ Edgar Allan Poe đã từng nói: “Giọng điệu buồn là
giọng điệu thích hợp với thơ ca”. Rõ ràng, khi quan niệm như vậy thì việc thể
hiện thế giới tự nhiên cũng đồng thời cho việc bộc bạch tâm trạng. Huy Cận đã
phải thốt lên:
“Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biển”
(Mai sau)
Cả một thiên cổ sầu ngìn năm dồn chất vào trong một tâm hồn
thơ. Hoài Thanh đã nhận xét trong Thi nhân Việt Nam rằng: “Các cụ nhà ta
khi nhìn thấy một cô gái xinh đẹp thì có cảm giác tội lỗi”. Nhưng xã hội đã đổi
mới rồi, “Một xã hội mới hình thành thay thế cho xã hội truyền thống. Một ý thức
hệ mới đang hình thành thay cho ý thức hệ cố hữu. Một con người mới - dầu chưa
phải là đa số quốc dân đang muốn hướng cuộc sống theo ý của họ. Những con người
“ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi giày Tây, mặc áo Tây...”.
Các nhà Thơ mới say sưa viết về những mối tình dang dở. Họ
quan niệm:
“Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề”
Vũ Hoàng Chương như mất hết cả niềm đam mê, khi:
“Em ơi lửa tắt bình khô cạn
Đời vắng em rồi say với ai?”
(Đời vắng em rồi)
Hàn Mặc Tử cũng “hoá dại khờ”:
“Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi hóa dại khờ”
(Những giọt lệ)
Chủ nghĩa lãng mạn thường viết về những đề tài thiên nhiên và
tình yêu, hay thiên nhiên và tình yêu là đề tài rất phù hợp với các nhà thơ. Bởi
vậy, Hoài Thanh đã từng khen hai câu thơ hay nhất trong nền thơ ca viết về đề
tài mùa thu của Bích Khê: "Tôi đã gặp trong Tinh huyết những
câu thơ hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam: "Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng.
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông".
Thơ mới nói chung thường thích những cảnh “sông dài trời rộng”,
những cảnh gợi cho người ta cảm giác bâng khuâng, man mác, cô đơn... Các nhà
Thơ mới thích những đêm trăng lạnh, những buổi chiều tà mà tiêu biểu là Huy Cận
với bài Tràng giang:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
3. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu
Ngay từ khi ra đời, Thơ mới đã đổi mới cảm xúc, đã tạo ra một
cảm xúc mới trước cuộc đời và trước thiên nhiên, vũ trụ. Cảm hứng về thiên
nhiên và tình yêu đã tạo nên bộ mặt riêng cho Thơ mới. Đó là vẻ đẹp tươi mới, đầy
hương sắc, âm thanh, tràn trề sự sống.
Đây là cảnh mưa xuân trong thơ Nguyễn Bính:
“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy”
(Mưa xuân)
Và đây là hình ảnh buổi trưa hè:
“Buổi trưa hè nhè nhẹ trong ca dao.
Có cu gáy và bướm vàng nữa chứ”
(Đi giữa đường thơm - Huy Cận)
Trong thơ Chế Lan Viên có không ít những hình ảnh như:
“Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang bóng
Những khóm tre cao rủ trước thành”
(Thu (I))
Tất cả gợi lên hình ảnh quê hương bình dị, thân thuộc với mỗi
người Việt Nam. Những cung bậc của tình yêu đã làm thăng hoa cảm xúc các nhà
Thơ mới.
“Ông hoàng của thơ tình” Xuân Diệu bộc bạch một cách hồn
nhiên:
“Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá
Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”
Khác với Xuân Diệu, nhà thơ Chế Lan Viên cảm nhận thân phận bằng
nỗi cô đơn sầu não:
“Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau”
(Xuân)
Nói chung, Thơ mới thể hiện nỗ lực sáng tạo hình thức thơ ca.
Có thể nói trong Thơ mới, có nhiều câu thơ rất mới lạ so với thơ ca truyền thống.
Cái mới ấy được biểu hiện trong cách thể hiện của các nhà thơ chịu ảnh hưởng bởi
Baudelaire và trường phái tượng trưng Pháp, với những câu thơ đầy tính “nổi loạn”
như:
“Ô kìa! Bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe”
(Bẽn lẽn - Hàn Mặc Tử)
Và đây là những câu thơ hoàn toàn mới lạ của Xuân Diệu:
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh”
(Đây mùa thu tới)
4. Một số đặc sắc về nghệ thuật
Thơ mới là một bước phát triển quan trọng trong tiến trình hiện
đại hóa nền văn học nước nhà những năm đầu thế kỷ XX với những cuộc cách tân
nghệ thuật sâu sắc.
Về thể loại, ban đầu Thơ mới phá phách một cách phóng túng
nhưng dần dần trở về với các thể thơ truyền thống quen thuộc như thơ ngũ ngôn,
thất ngôn, thơ lục bát. Các bài thơ ngũ ngôn có Tiếng thu (Lưu Trọng
Lư), Ông đồ (Vũ Đình Liên), Em đi chùa Hương (Nguyễn Nhược
Pháp)… Các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, T.T.Kh chủ yếu viết theo
thể thơ thất ngôn, còn Nguyễn Bính, Thế Lữ lại dùng thể thơ lục bát v.v…
Cách hiệp vần trong Thơ mới rất phong phú, ít sử dụng một vần
(độc vận) mà dùng nhiều vần như trong thơ cổ phong trường thiên: vần ôm, vần
lưng, vần chân, vần liên tiếp, vần gián cách hoặc không theo một trật tự nhất định:
“Tiếng địch thổi đâu đây
Cớ sao nghe réo rắt
Lơ lửng cao đưa tận chân trời xanh ngắt
Mây bay… gió quyến, mây bay
Tiếng vi vút như khoan như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may”
(Tiếng trúc tuyệt vời - Thế Lữ)
Sự kết hợp giữa vần và thanh điệu tạo nên cho Thơ mới một nhạc
điệu riêng.
Đây là những câu thơ toàn thanh bằng:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” (Xuân Diệu)
hay:
“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi!
Vàng rơi!
Thu mênh mông” (Bích Khê)
Ngoài việc sử dụng âm nhạc, Thơ mới còn vận dụng cách ngắt nhịp
một cách linh hoạt:
“Thu lạnh/ càng thêm nguyệt tỏ ngời
Ở một phương diện khác, cuộc cách tân về ngôn ngữ Thơ mới diễn
ra khá rầm rộ. Thoát khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ dày đặc của
“Thơ cũ”, Thơ mới mang đến cho người đọc một thế giới nghệ thuật giàu giá trị tạo
hình và gợi cảm sâu sắc:
“Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều” (Xuân Diệu)
hay:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc dưới sông trôi” (Anh Thơ)
Sự phong phú về thể loại, vần và nhạc điệu cùng với tính hình
tượng, cảm xúc của ngôn ngữ đã tạo nên một phong cách diễn đạt tinh tế, bằng cảm
giác, bằng màu sắc hội họa của thơ mới. Đây là bức tranh “Mùa xuân chín” được
Hàn Mặc Tử cảm nhận qua màu sắc và âm thanh:
“Trong làn nắng ửng, khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên dàn thiên lý. Bóng xuân sang”
Thơ mới ảnh hưởng thơ Đường khá đậm nét. Sự gặp gỡ giữa thơ
Đường và Thơ mới chủ yếu ở thi tài, thi đề. Các nhà thơ mới chỉ tiếp thu và giữ
lại những mặt tích cực, tiến bộ của thơ Đường trong các sáng tác của Đỗ Phủ, Lý
Bạch, Bạch Cư Dị,... Trong bài Tràng giang, Huy Cận mượn tứ thơ của Thôi
Hiệu để bày tỏ lòng yêu nước:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Nếu sự ảnh hưởng thơ Đường làm cho thơ tiếng Việt càng phong
phú giàu có thêm, tinh tế hơn thì sự ảnh hưởng thơ ca lãng mạn Pháp góp phần
cho Thơ mới sáng tạo về thi hứng, bút pháp và cách diễn đạt mới lạ, độc đáo. Một
trong những nhà thơ đầu tiên chịu ảnh hưởng sâu sắc thơ Pháp là Thế Lữ, Huy
Thông, về sau là Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,…
Trong bài “Thơ mới - cuộc nổi loạn ngôn từ” Đỗ Đức Hiểu nêu
nhận xét về hệ thống ngôn từ Thơ mới “Thơ mới là bản hòa âm của hai nền văn hóa
xa nhau vời vợi, là bản giao hưởng cổ và hiện đại”. Đó là sự giao thoa tiếng Việt
với thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. Sự ảnh hưởng thơ Đường và thơ
ca lãng mạn Pháp đối với phong trào Thơ mới không tách rời nhau. Điều này cho
thấy tác động và ảnh hưởng từ nhiều phía đối với Thơ mới là một tất yếu trong
quá trình hiện đại hóa thơ ca. Chính sự kết hợp Đông Tây nói trên đã tạo nên bản
sắc dân tộc và sức hấp dẫn riêng của Thơ mới.
Sau 85 năm, kể từ khi ra đời cho đến nay, Phong trào thơ mới
đã có chỗ đứng vững chắc trong đời sống văn học dân tộc. Qua thời gian, những
giá trị tốt đẹp của Phong trào Thơ mới Việt Nam 1932-1945 càng được thử thách
và có sức sống lâu bền trong lòng các thế hệ người đọc.
10/2/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét