CHƯƠNG 3:
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA THƠ NGUYỄN BÍNH
Trong chương này, chúng tôi đi vào phân tích một số trường từ vựng ngữ nghĩa đặc biệt trong thơ Nguyễn Bính, coi đây như những chìa khóa để mở ra cánh cửa thơ Nguyễn Bính, thấy được nhiều nhất những đóng góp, sáng tạo cũng như cả những hạn chế về mặt ngôn ngữ của ông. Chương này chia làm 6 phần, tương ứng với 6 vấn đề từ vựng ngữ nghĩa trong thơ Nguyễn Bính: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính, Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính, Một số tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc trong thơ Nguyễn Bính Các yếu tố ngôn ngữ chỉ con người trong thơ Nguyễn Bính, Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bính, Từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính.
3.1. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính
3.1.1. Vai trò của không gian trong nhan đề tác phẩm
Trong 272 thi phẩm của Nguyễn Bính, có tới 92 các nhan đề bài thơ thể hiện tính chất không gian, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, chiếm tỷ lệ 34% trong tổng số các nhan đề.
Trong 92 bài kể trên, có tới 70 bài thể hiện tính chất trực tiếp khi ngay trong nhan đề đã có những danh từ/ đại từ định vị không gian, chẳng hạn: Quán lạnh, Hà Nội ba mươi sáu phố phường, Lá thư về Bắc, Chuyến tàu đêm, Qua nhà, Rừng, Những bóng người trên sân ga, Chùa vắng, Xóm cũ, Bến nước, Sao chẳng về đây, Từ độ về đây... Ở 22 bài còn lại, tính chất không gian được thể hiện một cách gián tiếp nhờ vào sự hiện diện của các danh từ, động từ hoặc tính từ. Ở trường hợp các danh từ, có thể kể đến những bài như: Hoa cỏ may, Cây bàng cuối thu, Lá mùa thu, Trông sao... Ở trường hợp động từ, có thể kể đến các bài như: Em về, Người đi, Thôi nàng ở lại, Ngược xuôi, Phơi áo, Tiễn bạn, Lại đi... Ở trường hợp tính từ, có thể kể đến các bài như: Xa cách, Diệu vợi, Xa xôi...
Trong toàn thể các sáng tác của Nguyễn Bính trước cách mạng có sự xuất hiện của hơn 200 đơn vị ngôn ngữ chỉ các không gian khác nhau. Chúng tôi tạm quy các đơn vị nói trên về một số nhóm cơ bản và tiếp tục trình bày cụ thể dưới đây.
3.1.2. Những không gian chung
Có 11 không gian chung xuất hiện trong các thi phẩm của Nguyễn Bính, cụ thể như sau:
Bảng 3.1: Những không gian chung trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Từ bảng quan sát tần số trên, có thể rút ra một nhận xét sơ bộ như sau. Những không gian mang tính chất gia đình, thân mật, là nơi cư ngụ thông thường của con người là Nhà và Lầu lại không phải là những không gian có tần số xuất hiện cao nhất. Trái lại, hai không gian có tần số xuất hiện lớn nhất lại là Sông và Đường. Những không gian còn lại như Rừng, Hồ, Biển, Núi, Đồi, Đèo có tần số xuất hiện ít hơn, nhưng nếu ta làm một phép cộng lại 6 đơn vị không gian này thì cũng thu được một số tổng khá lớn là 91. Những điều trên nói với chúng ta rằng, Nguyễn Bính là nhà thơ có tính hướng ngoại và xê dịch rất cao. Điều này sẽ còn được làm sáng tỏ hơn qua những phần sau qua những số liệu về không gian mang tính địa danh, không gian thành thị và không gian giang hồ trong thơ Nguyễn Bính.
Trở lại với 11 đơn vị định danh ở trên, chúng tôi nhận thấy, có khá nhiều đơn vị mang hai dạng biểu hiện: dạng biểu hiện tả thực và dạng biểu hiện mang tính ẩn dụ - biểu trưng. Sau đây chúng tôi đi vào làm rõ một số đơn vị tiêu biểu:
3.1.2.1 Sông
Sông hiện lên với nghĩa tả thực trong các trường hợp như: Tôi lạnh đầu sông, giá ngọn nguồn/ Nhớ nhà thì ít nhớ em luôn (Một trời quan tái), Sao chẳng về đây múc nước sông/ Tưới cho những luống có hoa hồng (Sao chẳng về đây)
Ngoài định danh Sông, nhà thơ còn dùng một định danh khác là Giang trong những miêu tả theo nghĩa hiện thực: Chén sầu nghiêng giữa tràng giang/ Canh gà bên nớ giằng sang bên này… Chúng tôi người bến sông xa (...) Một con sông lạnh vài dây tơ tằm (Một con sông lạnh)
Trong trường hợp ẩn dụ - biểu trưng, sông (giang) trong thơ Nguyễn Bính có thể dùng để nói về chuyện tình duyên của người phụ nữ và những dự cảm về muôn vàn bi kịch đang đợi chờ phía trước: Rồi đây sóng gió ngang sông/ Đầy thuyền hận, chị lo không tới bờ...(...) Cách mấy mươi con sông sâu/ Và trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh/... Tuổi son sông nước đò giang chưa từng/... Trời giông bão giữa tràng giang lật thuyền/... Coi như chị đã ngang sông đắm đò (Lỡ bước sang ngang)
Sông có thể biểu trưng cho việc trút bỏ những tâm sự u uẩn trong lòng người nghệ sĩ: Uống say cười vỡ ba gian gác/ Ném cái chung tình xuống đáy sông (Xuân tha hương)
3.1.2.2. Đường
Đường hiện lên với nghĩa tả thực qua các trường hợp:
Hôm nay xác pháo đầy đường/ Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng (Lỡ bước sang ngang), Đem theo cát bụi đường xa lại/... Nằm tạm qua đêm quán dọc đường (Quán lạnh)
Đường hiện lên với nghĩa ẩn dụ biểu trưng: Mẹ già một nắng hai sương/ Chị đi một bước trăm đường xót xa/... Hồn trinh ôm chặt chân giường/ Đã cùng chị khóc đoạn đường thơ ngây (Lỡ bước sang ngang).
3.1.2.3. Nhà
Tín hiệu không gian Nhà trong thơ Nguyễn Bính có khá nhiều hình thức biểu hiện. Trước tiên, nó có thể tồn tại với tư cách độc lập - một từ đơn tiết: Cậy em em ở lại nhà/ Vườn dâu em đốn mẹ già em thương (Lỡ bước sang ngang)
Tiếp theo, Nhà có thể kết hợp với một số đơn vị khác để tạo thành những từ ghép, những đơn vị này chỉ ra rõ loại nhà được miêu tả: Anh với em sẽ sống/ Trong một mái nhà tranh (Hôn nhau lần cuối), Cất lên theo kiểu nhà sàn/ Chung quanh quấn quýt đôi giàn ti gôn (Nhà ga), Tay buông xuôi xuống thế gian: nhà mồ (Một chiều chết) Nhà có thể kết hợp với một số đơn vị đi sau (danh từ, đại từ) để nói về tính sở hữu: nhà tôi, nhà nàng, nhà em, nhà anh, nhà ấy, nhà ai. Đặc biệt, sự song hành của các cặp nhà anh - nhà em, nhà nàng - nhà tôi đã làm nên một phong vị dân gian rất đặc trưng trong những vần thơ lục bát của Nguyễn Bính, gợi nhớ về những cặp xưng hô mình - ta thường thấy trong ca dao người Việt: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn (Người hàng xóm), Nhà em có một giàn giầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng (Tương tư), Nhà ấy hình như có mặt trời (Hà Nội ba mươi sáu phố phường), Cô gái nhà ai ở xóm Đông (Nhặt nắng)
Cuối cùng, Nhà cũng có thể kết hợp với các động từ hoặc tính từ, làm thành những ngữ động từ, ngữ tính từ trong một câu thơ, mở rộng hơn những biên độ ngữ nghĩa và cảm xúc xoay quanh tín hiệu không gian này: Sáng giăng chia nửa vườn chè/ Một gian nhà nhỏ đi về có nhau (Thời trước), Lối này lắm bưởi nhiều hoa/ Đi vòng để được qua nhà... đấy thôi/... Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo (Qua nhà)
3.1.2.4. Trời (Giời)
Từ Trời (Giời) xuất hiện nhiều lần trong thơ Nguyễn Bính, nhưng trong bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ thu thập những lần Trời xuất hiện với tư cách một tín hiệu không gian.
Những đơn vị kiểu như: Cơ giời định rót cả mùa đông (Mùa đông nhớ cố nhân) hay Gió mưa là bệnh của giời (Tương tư) không được chúng tôi đưa vào bảng tổng kết tần số phía trên. Trời (giời) trong thơ Nguyễn Bính được tri nhận với những biên độ khác nhau, có lúc chỉ là những miêu tả thiên nhiên đơn thuần: Giời cao gió cả trăng như ban ngày (Đêm cuối cùng) nhưng xuất hiện nhiều hơn là những thể hiện tâm trạng của chủ thể trữ tình: Thu sang nhuốm cả sầu thương một trời (Dòng dư lệ), Anh ở bên này trời oán hận (Em về), Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh (Rượu xuân), Tôi tìm đâu thấy mảnh trời thần tiên (Tôi tìm đâu thấy mảnh trời thần tiên), Một trời quan tái mấy cho say (Một trời quan tái), Để anh thấu rõ tình mong nhớ/ Của đứa em anh ở cuối trời (Lá thư về Bắc)
3.1.2.5. Lầu
Lầu trong thơ Nguyễn Bính là không gian gắn liền với những người đẹp, cụ thể hơn nữa là những người con gái mà nhà thơ dành tình cảm cho họ, những người con gái khiến trái tim thi sĩ rung động. Lầu, theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, NXB Từ điển Bách khoa, 2010) định nghĩa là nhà có gác, có tầng hoặc tầng trên của ngôi nhà. Nhưng đứng từ góc độ văn chương và thi pháp, chúng ta có một hình dung về lầu không đơn giản như Từ điển tiếng Việt định nghĩa. Theo thi pháp trung đại, lầu thuộc về không gian lên cao, con người mỗi khi lựa chọn không gian lên cao là thường muốn bày tỏ tâm trạng, phóng chiếu cảm xúc hoặc hòa cái tiểu ngã của mình vào đại ngã của vũ trụ. Có thể dẫn ra nhiều câu thơ nổi tiếng gắn với lầu: Dục cùng thiên lý mục/ Cánh thướng nhất tằng lâu (Muốn nhìn xa muôn dặm/ Lên thêm một tầng lầu) (Đăng Quán Tước lâu - Vương Chi Hoán), Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu/ Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu (Thiếu phụ phòng khuê chửa biết sầu/ Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu) (Khuê oán - Vương Xương Linh)
Chữ lầu trong thơ Nguyễn Bính vì thế ngoài việc tạo một không khí cổ điển, nó còn mang một ý nghĩa khác là vẻ đẹp cao vời, ở ngoài tầm với, là một tình yêu không dễ dàng đến với nhau, không thể đạt được. Cảm giác này xuyên suốt một loạt các câu thơ có chứa hình ảnh lầu của Nguyễn Bính: Nằm đây mơ dáng lầu cao kinh thành.../... Hồn đơn xin gửi lại miền lầu cao (Thương nhớ kinh thành), Cửa nàng là cửa lầu hoa/ Nàng là tiên nữ tôi là thường nhân (Nàng là tiên nữ), Nàng ở lầu hoa ở đệm bông/ Có đêm nào nghĩ đến tôi không (Người con gái ở lầu hoa), Từ buổi lầu hoa khép cánh sương/ Hồn theo lá úa rụng ven tường (Khép cánh sương)
Ngoài định danh lầu hoa xuất hiện với tần số áp đảo, chữ lầu trong thơ Nguyễn Bính còn xuất hiện trong các định danh lầu thơ, lầu trang, lầu hồng, lầu ngọc: Tôi xin dựng một lầu thơ cho nàng (Tây Thi), Tháng mười nàng bỏ khăn tang/ Giờ đây cánh cửa lầu trang mở rồi (Lạy giời cấm cửa rừng mai), Lầu hồng lưu lại chút tình phân ly (Một đêm ly biệt)
3.1.3. Những không gian nông thôn
Trong các nhà thơ thuộc phong trào Thơ Mới, Nguyễn Bính từ trước đến nay vẫn được mệnh danh là Thi sĩ chân quê. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh gọi Nguyễn Bính là người lưu giữ được hồn xưa của đất nước. Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Phong vị thơ Nguyễn Bính thật gần gũi với ca dao. Có được những điều trên là do nhiều nguyên nhân, nhưng theo chúng tôi, một trong những hạt nhân quan trọng làm nên chất nhà quê trong thơ Nguyễn Bính chính là những tín hiệu ngôn ngữ chỉ các vùng không gian ở nông thôn, xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính như những điểm nhấn quan trọng.
Như ta đã biết, nếu như đơn vị dân cư mang tính văn hóa truyền thống ở nông thôn Bắc Bộ là làng thì đây cũng là không gian xuất hiện với tần số cao nhất trong thơ Nguyễn Bính. Không chỉ có làng, thơ Nguyễn Bính còn có cả thôn, xóm, ngõ. Các đơn vị làng, thôn, xóm ngoài việc đứng độc lập thì còn được kết hợp với các tên riêng để chỉ những làng/ thôn/ xóm cụ thể.
Với làng, ngoài cách diễn đạt mang tính chất danh từ chung, kiểu như: Hội làng mở giữa mùa thu (Đêm cuối cùng), Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng (Lỡ bước sang ngang) thì còn các diễn đạt gắn với danh từ riêng như: làng Ngang, làng Sậm, làng Thượng, làng Trung, làng Hạ...
Với thôn, ngoài cách diễn đạt mang tính chất danh từ chung, kiểu như: Hai thôn chung lại một làng (Tương tư), Cuối thôn gà lại gáy đầu thôn (Nhớ) thì còn các diễn đạt gắn với danh từ riêng như: thôn Đoài, thôn Đông, thôn Trữ La, thôn Vân...
Với xóm, ngoài cách diễn đạt mang tính chất danh từ chung, kiểu như: Có cô lối xóm hàng năm (Đàn tôi), Tôi về xóm cũ một chiều (Xóm cũ) thì còn các diễn đạt gắn với danh từ riêng như: xóm Tây, xóm Đông, xóm Trữ La, xóm Ngự Viên, xóm Dừa, xóm Thổ...
Ngoài ra, Nguyễn Bính còn dùng các diễn đạt khác để chỉ các không gian nông thôn như mái Đoài, tỉnh Bắc, phủ Lạng, phủ Từ, nhà Mường, xứ Thanh, thôn xóm, xóm thôn, xóm làng, làng xóm...
Tần số xuất hiện của các đơn vị không gian mang tính chất văn hóa truyền thống ở nông thôn có thể tổng kết lại trong bảng sau:
Bảng 3.2: Các đơn vị không gian nông thôn mang tính chất văn hóa truyền thống trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Qua tổng kết tần số trên, có thể thấy, trong toàn bộ các sáng tác trước Cách mạng của Nguyễn Bính (270 bài), cứ trung bình 3 bài ta lại gặp một đơn vị mang tính chất không gian hành chính/ sinh hoạt ở nông thôn. Đó là chưa kể đến nhiều không gian đậm đặc chất quê mùa khác nữa mà chúng tôi tiếp tục trình bày dưới đây:
Có 8 không gian cụ thể trong thơ Nguyễn Bính mang đậm phong vị nông thôn, đó là: vườn, bến, hàng xóm/ láng giềng/ lối xóm, đồng, giếng, chùa, đê, (giậu) mùng tơi. Tần số xuất hiện của từng loại thể hiện cụ thể qua bảng sau:
Bảng 3.3: Những không gian nông thôn cụ thể trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Bến trong thơ Nguyễn Bính trước tiên tồn tại với tư cách một từ đơn: Bao giờ bến mới gặp đò (Tương tư). Tiếp theo, bến kết hợp với một loạt các danh từ để tạo chủng loại: bến sông, bến đò, bến gió, bến nước: Lòng cô lái ở bến sông kia (Cô lái đò), Ngồi trên bến gió chờ nàng (Thư lá vàng), Dừng trên bến nước mơ cô lái đò (Bến nước), Đưa anh ra bến đò ngang (Áo anh). Bến tiếp tục kết hợp với các đại từ chỉ địa điểm và danh từ chỉ người tạo thành các kết hợp: bến người, bến anh: Hồn thơ tôi cứ về theo bến người (Bến người), Bờ sông thấp, nước sông cao/ Lá thuyền này đã trôi vào bến anh (Thư lá vàng). Bến cũng kết hợp với những tính từ trong những cấu trúc tính ngữ, nhằm bổ nghĩa đầy đủ hơn cho tính từ trung tâm, chẳng hạn: Giấc bướm ngại sang đò bến lạnh (Mùa đông nhớ cố nhân), Sông Vân bến cũ nằm nghe chuông chùa (...) Bến vinh quang chửa tới nơi (Con nhà Nho cũ). Sau cùng, bến kết hợp với động từ để tạo ra những kết hợp mang tính lạ hóa, khẳng định sáng tạo ngôn từ mang dấu ấn riêng của tác giả: bến yêu, bến mơ: Cố đẩy đò yêu đến bến yêu (Đôi nhạn), Bến mơ thuyền đậu dưới thuyền mơ (Bến mơ).
3.1.4. Không gian thành thị
Nếu như nông thôn là không gian mang tính xuất phát, là hồn cốt của thơ Nguyễn Bính, thì thành thị lại là một thái cực khác cùng tồn tại song song và không ngừng mời gọi bước chân của thi nhân. Con người nông thôn trong thơ Nguyễn Bính, như ta biết, từng muốn chối bỏ sự xâm lăng của đô thị (bài Chân quê) để giữ nguyên những bản sắc cổ truyền. Thế nhưng, dường như đó là một điều vô cùng khó khăn. Và dù con người có bám chặt lấy nông thôn mà sống thì điều kiện ấy cũng chưa thể đủ để chống lại cuộc xâm lăng của văn minh đô thị, nhất là khi tâm thế con người còn đang khá bơ vơ, bất định trước thời cuộc bởi chưa nhìn thấy rõ một tiền đồ cho cả dân tộc. Vì thế, chúng tôi cho rằng, trong thơ Nguyễn Bính, việc con người cất bước ra thành thị là một quyết định dứt khoát phải xảy ra để hiểu hơn thời cuộc mà mình đang sống, để tìm một lối thoát nào đó, dù là trong tâm tưởng, và để tìm những đối chứng cho tình yêu quê hương của mình. Thành thị và nông thôn vì thế trở thành hai bờ giăng mắc qua lại, thường trực trong thơ Nguyễn Bính. Khi ở nông thôn, không lâu sau, con người muốn dứt áo ra đi (Lạy đôi mắt mẹ đừng buồn/ Ngày mai con lại lên đường ra đi, Sống là sống để mà đi/ Con tàu bạn hữu chuyến xe nhân tình). Ngược lại khi ở thành thị, con người lại mơ về quê nhà: Chao ôi Tết đến em không được/ Trông thấy quê hương thật não nùng (Xuân tha hương), Bao giờ em được về quê cũ/ Dâng chị bài thơ “Xuân cố hương” (Xuân vẫn tha hương).
Thơ Nguyễn Bính dùng tới bốn loại định danh khác nhau để chỉ về không gian đô thị.
Thứ nhất là gọi thẳng tên những thành phố nơi ông đã đến và đi như: Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Nam Định: Hà Nội cơ hồ loạn tiếng ve (Nhớ người trong nắng), Giời mưa ở Huế sao buồn thế (Giời mưa ở Huế), Một buổi sớm mai đến Sài Gòn (Lá thư về Bắc), Người Nam Định, kẻ Hưng Yên/ Thương đi gọi, nhớ đi tìm những ai (Chia tay).
Thứ hai là dùng những từ được coi là có nghĩa tương đương với thành thị, bao gồm: thành thị (5 lần), thị thành (3 lần), đô thị (1 lần), kinh đô (3 lần), đế kinh (1 lần), kinh (3 lần), kinh kỳ (4 lần), kinh thành (19 lần).
Thứ ba là những từ chỉ không gian đặc trưng của thành thị, bao gồm: phố (14 lần), phố phường (4 lần), ga (15 lần).
Thứ tư là những từ vốn không có nghĩa là thành thị nhưng lâm thời được nhà thơ sử dụng để tạo sự đối lập giữa thành thị với nông thôn như: phồn hoa đối với thanh đạm, xứ người/ quê người đối với xứ mình/ quê nhà/ quê cũ/ quê hương, ở đấy đối với ở đây: Nằm trong cô tịch nhớ người phồn hoa (Quê tôi), Bơ vơ trong xứ người xa lạ (Lá thư về Bắc), Ở đây cha khóc mà thương nhớ/ Đất Huế dầm mưa mấy tháng tròn (Giời mưa ở Huế), Quê người đắng khói, quê người cay men (Anh về quê cũ).
Nhìn chung, không gian thành thị trong thơ Nguyễn Bính thường gắn với những tính chất âm tính. Có khi là sự không bền vững, dễ đổi thay, không được coi là chính đáng (trong tương quan với nông thôn): Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh/ Tôi đi dan díu với kinh thành (Hoa với rượu). Có khi là cảm giác tang tóc: Kinh thành Hà Nội chít khăn xô (Viếng hồn trinh nữ). Có khi là cảm giác bất an: Hà Nội cơ hồ loạn tiếng ve/ Nắng dâng làm lút cả trưa hè (Nhớ người trong nắng). Có khi là cảm giác buồn bã tàn tạ: Lá úa kinh thành rơi ngập đất/ Lòng vàng hỏi vẫn nhớ thương nhau (Một trời quan tái). Có khi là cảm giác về sự tha hóa: Ở mãi kinh kỳ với bút nghiên/ Đêm đêm quán trọ thức thi đèn/ Xót xa một buổi soi gương cũ/ Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền (Sao chẳng về đây). Có khi là cảm giác xa vời, ngoài tầm với: Nằm đây mơ dáng lầu cao kinh thành (...) Tàu đi ánh sáng kinh thành bừng lên (Đêm mưa nhớ bạn).
Nhìn chung, thành thị trong thơ Nguyễn Bính là một không gian gây cảm giác không phải của mình, không thuộc về mình. Khi con người ở nông thôn thì hướng về thành thị như một háo hức, tò mò. Nhưng khi có mặt ở thành thị rồi thì chỉ toàn thấy những cảm giác bất ổn, không yên tâm, cô đơn và trống vắng. Cuộc sống thành thị kéo con người ra khỏi nông thôn, thậm chí lôi con người ra khỏi tổ ấm của họ và từ đó xuất hiện không gian nhà ga trong thơ Nguyễn Bính như một biểu tượng của sự chia lìa tan tác: Những cuộc chia lìa khởi tự đây/ Cây đàn sum họp đứt từng dây (...) Có lần tôi thấy một bà già/ Đưa tiễn con đi trấn ải xa/ Tàu chạy lâu rồi bà vẫn đứng/ Lưng còng đổ bóng xuống sân ga/ Có lần tôi thấy một người đi/ Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì/ Chân bước hững hờ theo bóng lẻ/ Một mình làm cả cuộc phân ly (Những bóng người trên sân ga). Một không gian khác gắn liền với không gian nhà ga là không gian của những chuyến tàu/ những toa tàu. Tàu trong thơ Nguyễn Bính gắn với cảm giác u ám và bất định, nhuốm màu thê lương: Tàu biết bây giờ chạy đến đâu/ Đêm sâu hoàn trả lại đêm sâu/ Bỏ đây một chiếc tàu kiêng đỗ/ Chở một toa tim nặng oán sầu (Chuyến tàu đêm). Không gian tàu trong thơ Nguyễn Bính gợi ta nhớ đến thuyền trong thơ Vũ Hoàng Chương với những cảm giác tương tự về sự vô định, mất niềm tin và phương hướng: Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng/ Xô về Đông hay dạt tới phương Đoài/ Giữa mặt biển vô cùng cao rộng/ Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi/ Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa/ Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh/ Bể vô tận xá gì phương hướng nữa/ Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh (Phương xa)
3.1.5. Không gian phiêu bạt
Một không gian cuối cùng chúng tôi muốn bàn đến trong thơ Nguyễn Bính là không gian phiêu bạt. Phiêu bạt xuất hiện khi con người rời bỏ nông thôn mà đi, vì thế, có thể xem phiêu bạt giống như một khoảng ở giữa nông thôn và thành thị, hoặc giả bản thân con người khi đang ở thành thị cũng cảm giác về bản thân như một sự phiêu bạt giang hồ. Những đơn vị không gian điển hình của loại này có thể kể tới là: giang hồ/ hồ hải/ hải hồ/ sông hồ/ giang san, nước non/ non nước/ sông núi/ núi sông/ non sông, quán trọ, quán rượu, quán cơm, quán, nhà trọ, gác trọ, biên cương, biên thùy, ải ngoài, ải quan, quan hà, quan san. Tần số xuất hiện của các đơn vị trên được tổng kết qua bảng dưới đây:
Bảng 3.4: Không gian phiêu bạt trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Trong những định danh chỉ không gian phiêu bạt nói trên, chỉ có 6 đơn vị là được miêu tả theo bút pháp hiện thực (quán trọ, quán rượu, quán cơm, nhà trọ, gác trọ, quán), những đơn vị còn lại đều mang tính chất ước lệ. Cảm quan chung từ những đơn vị không gian trên mang lại là sự cô đơn trống vắng, nỗi nhớ nhung (nhớ người thân, nhớ quê hương), bản thân chủ thể trữ tình thì thường rơi vào cảnh khó khăn thiếu thốn (cả vật chất lẫn tinh thần). Thế nhưng phiêu bạt dường như đã thành một định mệnh, con người vẫn lựa chọn ra đi để rồi lại tự đón những khổ đau buồn bã vào mình: Đêm nay trăng rụng về bên ấy/ Gác trọ còn nguyên gió thất tình (Không đề), Em có biết rằng trong quán trọ/ Đầu tôi lại gối cánh tay tôi (Oan nghiệt), Ngồi xếp bằng tròn trong ải lạnh/ Nửa đêm trừ tịch bỗng dưng sầu (Tết biên thùy), Em đi non nước xa khơi quá/ Mỗi độ xuân về bao nhớ thương!/ Mỗi độ xuân về em lại thấy/ Buồn như chú lính ở biên cương (Xuân vẫn tha hương)
3.1.6. Những không gian gắn với địa danh
3.1.6.1. Những địa danh gắn với bút pháp tả thực
Theo thống kê của chúng tôi, trong các thi phẩm trước Cách mạng của Nguyễn Bính có tới 66 địa danh xuất hiện với tổng số tần số của các địa danh là 146 lần.
Vậy là cứ trung bình đọc 1,8 bài thơ của Nguyễn Bính, ta lại thấy một địa danh xuất hiện. Toàn bộ 66 địa danh nói trên hầu hết đều thuộc Việt Nam, chỉ có một địa danh nằm ngoài lãnh thổ Việt là Cao Miên (1 lần) Các địa danh chia thành một số loại chính như sau. Các địa danh có thể là tên các tỉnh thành như: Hà Nội (21 lần), Thanh Hóa (2 lần), Ninh Bình (2 lần), Nam Định (2 lần), Huế (5 lần), Hà Tiên (2 lần), Hƣng Yên (1 lần), Đồng Nai (1 lần). Các địa danh có thể thuộc cấp độ dưới tỉnh hoặc trên tỉnh, chẳng hạn: Bát Tràng (1 lần), Tam Đảo (1 lần), Đồ Sơn (1 lần), Đập Đá (1 lần), Tràng Tiền (1 lần), phủ Từ (1 lần), phủ Lạng (1 lần), Nam Kỳ (2 lần), Cầu Muối (1 lần), Đa Kao (1 lần), Hà Đông (4 lần), Gôi (1 lần). Các địa danh có thể là tên sông, núi, đường, hồ, chợ hoặc những không gian có tính chất tương đương, chẳng hạn: sông Vân (1 lần), núi Ngự (1 lần), bến Ngự (1 lần), sông Hương (3 lần), sông Thương (4 lần), sông Nhuệ (2 lần), chợ Hoàng (1 lần), chợ Quán (1 lần), chùa Hương (5 lần), bến Đục (1 lần), hồ Ba Bể (1 lần). Một loạt các địa danh khác là các tên thôn, xóm, làng. Những cái tên này mang đậm phong vị dân gian đồng bằng Bắc Bộ, góp phần tạo nên ấn tượng về chất chân quê trong thơ Nguyễn Bính: xóm Đông (1 lần), thôn Đoài (7 lần), thôn Đông (3 lần), làng Đặng (2 lần), làng Ngang (3 lần), làng Thượng (3 lần), làng Hạ (1 lần), làng Trung (1 lần), phường Mơ (2 lần), xóm Tây (1 lần), mái Đoài (1 lần), xóm Ngự viên (7 lần), xóm Dừa (1 lần), làng Sậm (1 lần), thôn Vân (9 lần). Tổng kết chi tiết về các địa danh và tần số xuất hiện có thể theo dõi qua bảng sau:
Bảng 3.5: Các địa danh cụ thể trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Với một số lượng địa danh phong phú, dày đặc trải khắp ba miền Bắc Trung Nam, có thể thấy sự di chuyển, xê dịch của nhà thơ là rất lớn. Chẳng thế mà trong thơ Nguyễn Bính xuất hiện tới 13 lần từ giang hồ (Tôi chờ gì nữa mà chưa giang hồ, Tay áo giang hồ tôi sẽ nuôi, Tôi mới giang hồ một nửa thôi, Ai mơ về bóng giang hồ đêm đêm, Đem thân đi với giang hồ...), chưa kể các đơn vị gần gũi khác nhƣ hải hồ, hồ hải, quan san, quan hà, sông hồ. Trong các thi sĩ thuộc phong trào Thơ Mới, theo chúng tôi, chất giang hồ trong thơ Nguyễn Bính được thể hiện đậm nét nhất. Tuy thế, có thể nhận thấy dù có sự xuất hiện của rất nhiều địa danh, song vẫn có sự ưu ái với một vài cái tên đặc biệt. Quan sát ở bảng tổng kết, ta thấy Hà Nội chiếm tần số lớn nhất với 21 lần xuất hiện, kế đến là thôn Vân - quê mẹ với 9 lần xuất hiện. Đối chiếu với tiểu sử tác giả, chúng tôi nhận thấy Nguyễn Bính bắt đầu sự nghiệp thi ca của mình ở Hà Nội (1932) và lưu trú tại đây cho tới năm 1943 thì vào Nam Bộ. Một quãng thời gian 12 năm ở Hà Nội cùng cái hồn cốt Bắc Bộ thấm đẫm khiến nhà thơ dành nhiều tình cảm lưu luyến nhớ nhung cho Hà thành cũng là điều dễ hiểu. Còn đối với các địa danh thôn/ xóm/ làng, thôn Vân nổi lên như một nỗi nhớ thường trực trong lòng thi nhân. Điều ấy nói với chúng ta về mẫu tính trong thơ Nguyễn Bính, về giọng điệu tha thiết ngọt ngào gần gũi quen thuộc như những bài ca dao: Thôn Vân ơi hỡi thôn Vân/ Phương nao kết dải mây Tần cho ta/ Từ nay khi nhớ quê nhà/ Thấy mây Tần đó ngỡ là thôn Vân (Anh về quê cũ)
Những cụm từ: quê nhà, quê cũ, quê hương trở đi trở lại tới 14 lần trong các bài thơ trước Cách mạng của Nguyễn Bính, chưa kể đến sự tồn tại của các định danh quê người/ đất khách như một thế đối ứng để càng làm nổi bật cái tình sâu nặng với quê hương xứ sở: Đêm ba mươi Tết quê người cũng/ Tiếng pháo giao thừa dậy tứ phương/ Chị ạ! Em không người nước Sở/ Nhớ nhà đâu mượn địch Trương Lương/ Đất khách tình dâng nhòa mắt lệ/ Ôi nhà! Ôi chị! Ôi quê hương! (Xuân vẫn tha hương)
3.1.6.2. Những địa danh điển tích
Ngoài những địa danh tả thực như vừa trình bày, thơ Nguyễn Bính còn có sự xuất hiện của 20 địa danh mang tính chất điển tích, là những từ ngữ từng gặp nhiều trong văn chương cổ điển. Loại địa danh này tăng thêm chất cổ kính/ cổ điển trong thơ Nguyễn Bính. Nó cũng bộc lộ với ta một điều về tiểu sử tác giả: Nguyễn Bính không phải là trí thức Tây học như Xuân Diệu, Huy Cận mà vẫn thuộc lớp Hán học, được truyền lại một tinh thần cổ học nhờ những người trong gia đình (cha và cậu). Vậy nên ta có thể bắt gặp những điển tích của phương Tây trong thơ Xuân Diệu (Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine/ Hai chàng thi sĩ choáng hơi men) chứ ở thơ Nguyễn Bính thì tuyệt nhiên không có. Các địa danh mang tính chất điển tích cùng tần số xuất hiện của chúng được tổng kết qua bảng dưới đây:
Bảng 3.6: Địa danh điển tích trong thơ Nguyễn Bính trước 1945
3.1.7. Những không gian tượng trưng - ước lệ
Trong những nghiên cứu trước đây của chúng tôi về các tín hiệu ngôn ngữ chỉ thời gian nghệ thuật [92] và từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính [94], chúng tôi đã chỉ ra những cách diễn đạt ước lệ là một trong những đặc thù của phong cách Nguyễn Bính. Và giờ đây khi khảo sát các tín hiệu ngôn ngữ chỉ không gian nghệ thuật, chúng tôi cũng bắt gặp những biểu hiện tương tự. Những từ ngữ ước lệ là những từ ngữ mà ý nghĩa biểu trưng của nó đã trở thành khuôn mẫu và mặc nhiên được thừa nhận trong văn chương truyền thống. Đứng về mặt sáng tạo, việc sử dụng các từ ngữ ước lệ là sự không tạo ra đóng góp cống hiến mới. Tuy nhiên, về mặt phong cách học và thẩm mỹ, từ ngữ ước lệ dùng ở mức độ vừa phải giống như thêm chút gia vị quen thuộc cho món ăn, tạo ra sự gần gũi và dễ cảm nhận. Sau đây là bảng tổng kết các đơn vị không gian mang tính ước lệ - tượng trưng cùng tần số xuất hiện của chúng: Bảng 3.7: Không gian ước lệ trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Những cách diễn đạt ước lệ - tượng trưng của Nguyễn Bính tuy thế cũng đã có đôi lần đưa đến những sáng tạo độc đáo, bất ngờ, điển hình là hai định danh không gian “nước tình ái” và “nước bướm”: Ví chăng có một nước Tình Ái/ Em làm hoàng hậu, anh làm vua (Ái khanh hành), Em ạ ngày xưa vua nước bướm/ Kén nhân tài mở Điệp lang khoa/ Vua không lấy Trạng vua thề thế/ Con bướm vàng tuyền đậu Thám hoa (Truyện cổ tích).
3.2. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính:
Trong quá trình khảo sát và thống kê tư liệu, chúng tôi nhận thấy việc phân nhóm các phạm vi thời gian sẽ là cách tốt nhất để tiếp cận thế giới thơ Nguyễn Bính từ góc nhìn thời gian nghệ thuật. Vì thế, chúng tôi chia hệ thống thời gian nghệ thuật trong các thi phẩm trước 1945 của Nguyễn Bính ra thành các nhóm như sau: thời gian của ngày, thời gian của năm, các biểu tượng chỉ thời gian và những biểu hiện khác. Trong 272 bài thơ của Nguyễn Bính, thực ra chỉ có 135 bài là xác định được thông số thời gian nghệ thuật, nói một cách khác là ở những bài đó, thời gian nghệ thuật là một nhân tố quan trọng giúp cho việc tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của thi phẩm. Còn ở 137 bài còn lại, vấn đề thời gian nghệ thuật không phải là yếu tố quan trọng cần được đặt ra, nói cách khác là thời gian nghệ thuật không phải là yếu tố có tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn đến giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Như vậy, vấn đề tìm hiều thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính thực chất chỉ xoay quanh 135 bài thơ.
3.2.1. Thời gian của ngày
Chúng tôi quan niệm NGÀY là một đơn vị mang tính cơ sở để chỉ thời gian, đo đếm thời gian, xuất hiện một cách thường trực, thông dụng trong tất cả 89 các tác phẩm văn học nghệ thuật. Thời gian của NGÀY có thể chia thành hai khoảng chính là khi còn ánh sáng mặt trời (ban ngày) và khi hết ánh sáng mặt trời (đêm tối). Thời gian BAN NGÀY sẽ có phạm vi trải rộng hơn thời gian BAN ĐÊM, liên quan đến các định danh sau xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính: sáng (sớm, sớm mai, ban mai, bình minh), trưa (ngọ), chiều (ánh chiều, ráng chiều, ánh trời hôm, hoàng hôn). Phần thời gian còn lại liên quan đến hai định danh chủ đạo là tối và đêm.
3.2.1.1.Thời gian ban ngày
Theo thống kê của chúng tôi trên tư liệu 272 bài thơ của Nguyễn Bính, thời gian ban ngày với các khoảng sáng, trưa, chiều xuất hiện trong 75 bài thơ, chiếm 27% trong tổng số các tác phẩm. 75 bài thơ này lại có thể chia về 10 tiểu nhóm như sau: ngày (sáng) sang đêm (tối), đêm (tối) sang ngày (sáng), sáng ngày (nói chung), sáng đến trưa, trưa, trưa đến chiều, sáng đến chiều, chiều, chiều đến tối, chiều đến đêm. Có thể quan sát tình hình phân bố thời gian ban ngày trong các bài thơ của Nguyễn Bính qua bảng dưới đây:
Bảng 3.8: Thời gian ban ngày trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Qua bảng trên, có thể thấy, bên cạnh việc thời gian ngưng tụ lại ở một khoảng gồm 50 bài thơ: sáng ngày (11 bài), trưa (2 bài), chiều (37 bài) chiếm 67% thì ở 25 bài thơ còn lại (chiếm 33%), thời gian có sự dịch chuyển, vận động từ điểm này sang điểm khác. Sự vận động này có mức độ ngắn dài khác nhau, tùy thuộc vào cấu tứ nội dung bài thơ, tâm trạng cảm xúc của tác giả cũng như những dụng ý nghệ thuật của người sáng tạo. Chẳng hạn ở bài Hết bướm vàng (tập Hương, cố nhân) là bài thơ có sự chuyển dịch thời gian từ ngày sang đêm, điều đó gắn với một ngụ ý biểu tượng cho một cuộc tình được mở ra và khép lại trong một chu trình kín. Có thể theo dõi vắn tắt điều này qua việc tri nhận khổ đầu và khổ cuối của thi phẩm: Anh trồng cả thảy hai vườn cải/ Tháng chạp hoa non nở cánh vàng/ Lũ bướm láng giềng đang khát nhụy/ Mách cùng gió sớm rủ rê sang… Em đã sang ngang với một người/ Anh còn trồng cải nữa hay thôi/ Đêm qua mơ thấy hai con bướm/ Khép cánh tình chung ở giữa trời/ Trong những bài thơ thuộc nhóm Thời gian của ngày, những bài thơ mang thời gian nghệ thuật buổi chiều chiếm một vị trí đặc biệt. Có tới 37 bài thơ mang thời gian nghệ thuật trung tâm, thuần nhất là buổi chiều; 16 bài thơ khác có sự góp mặt của buổi chiều trong những diễn trình vận động khác nhau của thời gian. Như vậy nếu tính tất cả những bài thơ có buổi chiều góp mặt, ta được con số 42 tác phẩm (chiếm 56% trong tổng số 75 tác phẩm thuộc nhóm Thời gian ban ngày) Theo quan niệm và cảm nhận của chúng tôi, buổi chiều trong diễn trình của một ngày (sáng, trưa, chiều, tối) cũng giống như mùa thu trong diễn trình của một năm (xuân, hạ, thu, đông). Buổi chiều có thể nói là điểm tàn của một ngày, cái chết của một ngày, là khoảnh khắc dễ gợi nên trong lòng người nhiều mối tâm trạng, xui khiến cho những tâm trạng đó phát triển về mức độ, cường độ và dường như đối với tâm hồn thi sĩ thì điều này gọi thi ca đến. Từ xưa đến nay, buổi chiều với đầy những bùi ngùi của các nỗi niềm cảm xúc đã chẳng làm nên bao kiệt tác của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà… đó hay sao? Thực thế, không ít những bài thơ với thời gian nghệ thuật chủ đạo là buổi chiều đã trở thành kiệt tác của Nguyễn Bính, là những thi phẩm tạo đƣợc dấu ấn riêng về phong cách cũng như in vào trí nhớ của nhiều thế hệ yêu văn chương. Đó là Viếng hồn trinh nữ, Cô hái mơ, Qua nhà, Những bóng người trên sân ga, Một trời quan tái… Và những câu thơ từ hay đến rất hay nằm trong những bài thơ kể trên đều thấp thoáng có bóng dáng buổi chiều: Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh/ Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ (Viếng hồn trinh nữ), Giếng thơi mưa ngập nước tràn/ Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều (Qua nhà), Chiều nay… thương nhớ nhất chiều nay/ Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy/ Tôi uống cả em và uống cả/ Một trời quan tái, mấy cho say (Một trời quan tái)
Tổng kết số lần xuất hiện của từ chiều, chúng tôi thu được con số 105 lần xuất hiện, trong đó có các biến thể như chiều, chiều ấy, chiều nay, chiều mai, chiều qua, hoàng hôn. Tình hình cụ tể có thể xem qua bảng dưới đây:
Bảng 3.9: Biểu hiện của thời gian buổi chiều trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Điều này cho thấy sự phong phú đa dạng trong biểu hiện thời gian của Nguyễn Bính. Nó cũng thống nhất với sự chi tiết tỷ mỹ trong biểu hiện thời gian của thơ Nguyễn Bính mà chúng tôi sẽ đề cập đến kỹ hơn trong phần sau.
3.2.1.2. Biểu tượng của thời gian ban ngày.
Hằng số nổi bật của thời gian ban ngày trong thơ Nguyễn Bính là nắng. Theo thống kê của chúng tôi, có tới 40 lần từ “nắng” xuất hiện một cách chính danh. Bên cạnh đó là các cách diễn đạt khác như ánh chiều (Chiều quê), ánh mặt trời, ánh ban mai (Trong vườn cúc), ánh trời hôm (Cô hái mơ), ráng chiều (Rừng). Ánh nắng xuất hiện với nhiều cấp độ ngữ nghĩa khác nhau. Có lúc chỉ là những miêu tả ngoại cảnh đơn thuần: Nắng lên mất thú ngồi bên lửa (Tháng ba), Biếc trong nắng sớm hồng trong vườn chiều (Anh về quê cũ), Trời vừa hửng nắng bên đông (Con bé Liên). Nhưng những miêu tả về nắng cũng không ít những lần mang tới sự ngỡ ngàng về những kết hợp ngôn từ lạ lẫm, bất ngờ, độc đáo của thi sĩ: Nắng thoai thoải nắng chiều lưng lửng chiều (Đường rừng chiều), Mưa nhè nhẹ, nắng thanh thanh (Xuân về nhớ cố hương), Nắng đỏ loang trên những ngọn đồi (Nắng đỏ). Tiếp đến, nắng có những lần được xuất hiện một cách gián tiếp, nằm ở vế thứ hai của một cấu trúc so sánh: Lại thấy đời tươi tựa nắng vàng (Tơ trắng), Mẹ em như bóng nắng về chiều (Lòng nào dám tưởng), Những ánh đèn phai tựa nắng tà (Chuyến tàu đêm), Em như cữ nắng bảy ngày chưa thôi (Vũng nước)
Tuy nhiên, những ánh nắng chất chứa tâm trạng là những ánh nắng gây được ấn tượng mạnh nhất đối với người đọc, đó là những ánh nắng có sức ám ảnh về mặt ngôn ngữ: Giếng thơi mưa ngập nước tràn/ Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều (Qua nhà), Nắng vàng rơi mãi bên bờ giếng/ Sao nắng vàng không hẹn một lời (Nhặt nắng), Chiều lại buồn rồi em vẫn xa/ Lá rừng thu đổ nắng sông tà (Một trời quan tái)
Và không phải ngẫu nhiên những ánh nắng đầy chất chứa tâm trạng này đều là những ánh nắng chiều, là những khoảnh khắc nắng muốn bùng lên trước khi tàn lụi. Những ánh nắng của buổi sáng hơn một lần cũng được đặt trong một thế đối lập tương phản để rồi hoặc nhuốm màu đau thương, hoặc nhuốm sự trống vắng, bơ vơ, hao khuyết: Sáng nay sau một cơn mưa lớn/ Hà Nội bừng lên những nắng vàng/ Có những cô nàng trinh trắng lắm/ Buồn rầu theo vết bánh xe tang (Viếng hồn trinh nữ), Tôi đến thăm Nhi giữa nắng hồng/ Với bài thơ mới sắp làm xong/ Nỡ nào Nhi lại đi xa vắng/ Bình lạnh hoa tươi tôi nhớ nhung (Nuôi bướm)
Điều này là một sự khác biệt lớn nêu ta thử so sánh nắng trong thơ Nguyễn Bính với nắng trong thơ của một số nhà thơ lãng mạn khác cùng thời với ông: Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui/ Thiếu nữ nhìn xuân chói mặt trời/ Sao buổi đầu xuân êm ái thế/ Cánh hồng kết những nụ cười tươi (Xuân Diệu), Trong làn nắng ửng khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trêu tà áo biếc/ Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang (Hàn Mặc Tử), Nắng thơ dệt sáng trên tà áo/ Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài (Huy Cận).
3.2.1.3. Thời gian ban đêm
Nếu như thời gian ban ngày với ba khoảng sáng, trưa chiều xuất hiện trong 75 bài thơ thì thời gian ban đêm với hai khoảng tối và đêm xuất hiện trong 77 bài thơ. Nếu như ở nhóm thời gian ban ngày, buổi chiều là khoảng thời gian thuần nhất có số lượng tác phẩm lớn nhất với 37 bài thơ thì ở nhóm thời gian ban đêm, những bài thơ mang thời gian nghệ thuật đêm (thuần nhất) có số lượng lên tới 60 thi phẩm. 17 trường hợp khác là những bài thơ có các khoảng thời gian từ ban ngày diễn tiến về đêm tối.
Trong thế giới thơ Nguyễn Bính, nếu so với thời gian ban ngày thì thời gian ban đêm được lựa chọn và sử dụng như một khoảng thời gian mang nhiều sắc thái âm tính và tiêu cực. Trong khắp 77 bài thơ có dính dáng đến thời gian đêm tối thì chỉ có 3 bài thời gian đêm tối mang ý nghĩa dương tính. Đó là các bài: Thời trước (kỷ niệm và hạnh phúc), Thi vị (vui tươi, ấm cúng, trẻ trung), Nửa đêm nghe tiếng còi tàu (niềm hy vọng). Ở hết thảy những bài còn lại, thời gian đêm tối đều gắn với những tính chất u buồn.
Chẳng hạn ở Lỡ bước sang ngang, thời gian đêm tối là nỗi ám ảnh xót xa, ở Quán lạnh, thời gian đêm tối là nỗi thê lương lạnh lẽo. Ở Bước đi bước nữa, thời gian đêm tối là nỗi day dứt áy náy, ở Dòng dư lệ, thời gian đêm tối lại là nỗi đau đớn tiếc thương. Có nhiều sắc thái, cung bậc tâm trạng khác của con người gắn với thời gian đêm tối trong thơ Nguyễn Bính có thể kể ra tiếp như nỗi cay đắng bẽ bàng trong bài Lòng kỹ nữ, nỗi bi quan mịt mù vô vọng trong bài Chuyến tàu đêm, sự bế tắc tuyệt vọng trong bài Đêm mưa đất khách, nỗi dở dang buồn tủi trong bài Mưa xuân…Chúng ta cùng đọc vài câu thơ điển hình trong một số bài thơ có thời gian nghệ thuật chủ đạo là đêm tối: Năm xưa đêm ấy giường này/ Nghiến răng… nhắm mắt… cau mày… cực chưa (Lỡ bước sang ngang), Tàu biết bây giờ chạy đến đâu/ Đêm sâu hoàn trả lại đêm sâu/ Bỏ đây một chiếc tàu kiêng đỗ/ Chở một toa tim nặng oán sầu (Chuyến tàu đêm), Nàng từ lạc bước đến đây/ Lá bàng rụng đến chuyến này là ba/ Đêm rồi đêm lại đêm qua/ Bao nhiêu đêm lại hóa ra đêm tàn (Lòng kỹ nữ), Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh/ Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em (Mưa xuân)
Tổng kết tần số xuất hiện của đêm trong thi phẩm Nguyễn Bính, chúng tôi thu được con số 164 lần với các biến thể: đêm, đêm nay, đêm mai, đêm kia, đêm ấy, nửa đêm, đêm đêm. Tình hình cụ thể có thể thấy qua bảng sau:
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA THƠ NGUYỄN BÍNH
Trong chương này, chúng tôi đi vào phân tích một số trường từ vựng ngữ nghĩa đặc biệt trong thơ Nguyễn Bính, coi đây như những chìa khóa để mở ra cánh cửa thơ Nguyễn Bính, thấy được nhiều nhất những đóng góp, sáng tạo cũng như cả những hạn chế về mặt ngôn ngữ của ông. Chương này chia làm 6 phần, tương ứng với 6 vấn đề từ vựng ngữ nghĩa trong thơ Nguyễn Bính: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính, Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính, Một số tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc trong thơ Nguyễn Bính Các yếu tố ngôn ngữ chỉ con người trong thơ Nguyễn Bính, Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bính, Từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính.
3.1. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính
3.1.1. Vai trò của không gian trong nhan đề tác phẩm
Trong 272 thi phẩm của Nguyễn Bính, có tới 92 các nhan đề bài thơ thể hiện tính chất không gian, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, chiếm tỷ lệ 34% trong tổng số các nhan đề.
Trong 92 bài kể trên, có tới 70 bài thể hiện tính chất trực tiếp khi ngay trong nhan đề đã có những danh từ/ đại từ định vị không gian, chẳng hạn: Quán lạnh, Hà Nội ba mươi sáu phố phường, Lá thư về Bắc, Chuyến tàu đêm, Qua nhà, Rừng, Những bóng người trên sân ga, Chùa vắng, Xóm cũ, Bến nước, Sao chẳng về đây, Từ độ về đây... Ở 22 bài còn lại, tính chất không gian được thể hiện một cách gián tiếp nhờ vào sự hiện diện của các danh từ, động từ hoặc tính từ. Ở trường hợp các danh từ, có thể kể đến những bài như: Hoa cỏ may, Cây bàng cuối thu, Lá mùa thu, Trông sao... Ở trường hợp động từ, có thể kể đến các bài như: Em về, Người đi, Thôi nàng ở lại, Ngược xuôi, Phơi áo, Tiễn bạn, Lại đi... Ở trường hợp tính từ, có thể kể đến các bài như: Xa cách, Diệu vợi, Xa xôi...
Trong toàn thể các sáng tác của Nguyễn Bính trước cách mạng có sự xuất hiện của hơn 200 đơn vị ngôn ngữ chỉ các không gian khác nhau. Chúng tôi tạm quy các đơn vị nói trên về một số nhóm cơ bản và tiếp tục trình bày cụ thể dưới đây.
3.1.2. Những không gian chung
Có 11 không gian chung xuất hiện trong các thi phẩm của Nguyễn Bính, cụ thể như sau:
Bảng 3.1: Những không gian chung trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Đường
|
|||||
Trở lại với 11 đơn vị định danh ở trên, chúng tôi nhận thấy, có khá nhiều đơn vị mang hai dạng biểu hiện: dạng biểu hiện tả thực và dạng biểu hiện mang tính ẩn dụ - biểu trưng. Sau đây chúng tôi đi vào làm rõ một số đơn vị tiêu biểu:
3.1.2.1 Sông
Sông hiện lên với nghĩa tả thực trong các trường hợp như: Tôi lạnh đầu sông, giá ngọn nguồn/ Nhớ nhà thì ít nhớ em luôn (Một trời quan tái), Sao chẳng về đây múc nước sông/ Tưới cho những luống có hoa hồng (Sao chẳng về đây)
Ngoài định danh Sông, nhà thơ còn dùng một định danh khác là Giang trong những miêu tả theo nghĩa hiện thực: Chén sầu nghiêng giữa tràng giang/ Canh gà bên nớ giằng sang bên này… Chúng tôi người bến sông xa (...) Một con sông lạnh vài dây tơ tằm (Một con sông lạnh)
Trong trường hợp ẩn dụ - biểu trưng, sông (giang) trong thơ Nguyễn Bính có thể dùng để nói về chuyện tình duyên của người phụ nữ và những dự cảm về muôn vàn bi kịch đang đợi chờ phía trước: Rồi đây sóng gió ngang sông/ Đầy thuyền hận, chị lo không tới bờ...(...) Cách mấy mươi con sông sâu/ Và trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh/... Tuổi son sông nước đò giang chưa từng/... Trời giông bão giữa tràng giang lật thuyền/... Coi như chị đã ngang sông đắm đò (Lỡ bước sang ngang)
Sông có thể biểu trưng cho việc trút bỏ những tâm sự u uẩn trong lòng người nghệ sĩ: Uống say cười vỡ ba gian gác/ Ném cái chung tình xuống đáy sông (Xuân tha hương)
3.1.2.2. Đường
Đường hiện lên với nghĩa tả thực qua các trường hợp:
Hôm nay xác pháo đầy đường/ Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng (Lỡ bước sang ngang), Đem theo cát bụi đường xa lại/... Nằm tạm qua đêm quán dọc đường (Quán lạnh)
Đường hiện lên với nghĩa ẩn dụ biểu trưng: Mẹ già một nắng hai sương/ Chị đi một bước trăm đường xót xa/... Hồn trinh ôm chặt chân giường/ Đã cùng chị khóc đoạn đường thơ ngây (Lỡ bước sang ngang).
3.1.2.3. Nhà
Tín hiệu không gian Nhà trong thơ Nguyễn Bính có khá nhiều hình thức biểu hiện. Trước tiên, nó có thể tồn tại với tư cách độc lập - một từ đơn tiết: Cậy em em ở lại nhà/ Vườn dâu em đốn mẹ già em thương (Lỡ bước sang ngang)
Tiếp theo, Nhà có thể kết hợp với một số đơn vị khác để tạo thành những từ ghép, những đơn vị này chỉ ra rõ loại nhà được miêu tả: Anh với em sẽ sống/ Trong một mái nhà tranh (Hôn nhau lần cuối), Cất lên theo kiểu nhà sàn/ Chung quanh quấn quýt đôi giàn ti gôn (Nhà ga), Tay buông xuôi xuống thế gian: nhà mồ (Một chiều chết) Nhà có thể kết hợp với một số đơn vị đi sau (danh từ, đại từ) để nói về tính sở hữu: nhà tôi, nhà nàng, nhà em, nhà anh, nhà ấy, nhà ai. Đặc biệt, sự song hành của các cặp nhà anh - nhà em, nhà nàng - nhà tôi đã làm nên một phong vị dân gian rất đặc trưng trong những vần thơ lục bát của Nguyễn Bính, gợi nhớ về những cặp xưng hô mình - ta thường thấy trong ca dao người Việt: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn (Người hàng xóm), Nhà em có một giàn giầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng (Tương tư), Nhà ấy hình như có mặt trời (Hà Nội ba mươi sáu phố phường), Cô gái nhà ai ở xóm Đông (Nhặt nắng)
Cuối cùng, Nhà cũng có thể kết hợp với các động từ hoặc tính từ, làm thành những ngữ động từ, ngữ tính từ trong một câu thơ, mở rộng hơn những biên độ ngữ nghĩa và cảm xúc xoay quanh tín hiệu không gian này: Sáng giăng chia nửa vườn chè/ Một gian nhà nhỏ đi về có nhau (Thời trước), Lối này lắm bưởi nhiều hoa/ Đi vòng để được qua nhà... đấy thôi/... Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo (Qua nhà)
3.1.2.4. Trời (Giời)
Từ Trời (Giời) xuất hiện nhiều lần trong thơ Nguyễn Bính, nhưng trong bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ thu thập những lần Trời xuất hiện với tư cách một tín hiệu không gian.
Những đơn vị kiểu như: Cơ giời định rót cả mùa đông (Mùa đông nhớ cố nhân) hay Gió mưa là bệnh của giời (Tương tư) không được chúng tôi đưa vào bảng tổng kết tần số phía trên. Trời (giời) trong thơ Nguyễn Bính được tri nhận với những biên độ khác nhau, có lúc chỉ là những miêu tả thiên nhiên đơn thuần: Giời cao gió cả trăng như ban ngày (Đêm cuối cùng) nhưng xuất hiện nhiều hơn là những thể hiện tâm trạng của chủ thể trữ tình: Thu sang nhuốm cả sầu thương một trời (Dòng dư lệ), Anh ở bên này trời oán hận (Em về), Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh (Rượu xuân), Tôi tìm đâu thấy mảnh trời thần tiên (Tôi tìm đâu thấy mảnh trời thần tiên), Một trời quan tái mấy cho say (Một trời quan tái), Để anh thấu rõ tình mong nhớ/ Của đứa em anh ở cuối trời (Lá thư về Bắc)
3.1.2.5. Lầu
Lầu trong thơ Nguyễn Bính là không gian gắn liền với những người đẹp, cụ thể hơn nữa là những người con gái mà nhà thơ dành tình cảm cho họ, những người con gái khiến trái tim thi sĩ rung động. Lầu, theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, NXB Từ điển Bách khoa, 2010) định nghĩa là nhà có gác, có tầng hoặc tầng trên của ngôi nhà. Nhưng đứng từ góc độ văn chương và thi pháp, chúng ta có một hình dung về lầu không đơn giản như Từ điển tiếng Việt định nghĩa. Theo thi pháp trung đại, lầu thuộc về không gian lên cao, con người mỗi khi lựa chọn không gian lên cao là thường muốn bày tỏ tâm trạng, phóng chiếu cảm xúc hoặc hòa cái tiểu ngã của mình vào đại ngã của vũ trụ. Có thể dẫn ra nhiều câu thơ nổi tiếng gắn với lầu: Dục cùng thiên lý mục/ Cánh thướng nhất tằng lâu (Muốn nhìn xa muôn dặm/ Lên thêm một tầng lầu) (Đăng Quán Tước lâu - Vương Chi Hoán), Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu/ Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu (Thiếu phụ phòng khuê chửa biết sầu/ Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu) (Khuê oán - Vương Xương Linh)
Chữ lầu trong thơ Nguyễn Bính vì thế ngoài việc tạo một không khí cổ điển, nó còn mang một ý nghĩa khác là vẻ đẹp cao vời, ở ngoài tầm với, là một tình yêu không dễ dàng đến với nhau, không thể đạt được. Cảm giác này xuyên suốt một loạt các câu thơ có chứa hình ảnh lầu của Nguyễn Bính: Nằm đây mơ dáng lầu cao kinh thành.../... Hồn đơn xin gửi lại miền lầu cao (Thương nhớ kinh thành), Cửa nàng là cửa lầu hoa/ Nàng là tiên nữ tôi là thường nhân (Nàng là tiên nữ), Nàng ở lầu hoa ở đệm bông/ Có đêm nào nghĩ đến tôi không (Người con gái ở lầu hoa), Từ buổi lầu hoa khép cánh sương/ Hồn theo lá úa rụng ven tường (Khép cánh sương)
Ngoài định danh lầu hoa xuất hiện với tần số áp đảo, chữ lầu trong thơ Nguyễn Bính còn xuất hiện trong các định danh lầu thơ, lầu trang, lầu hồng, lầu ngọc: Tôi xin dựng một lầu thơ cho nàng (Tây Thi), Tháng mười nàng bỏ khăn tang/ Giờ đây cánh cửa lầu trang mở rồi (Lạy giời cấm cửa rừng mai), Lầu hồng lưu lại chút tình phân ly (Một đêm ly biệt)
3.1.3. Những không gian nông thôn
Trong các nhà thơ thuộc phong trào Thơ Mới, Nguyễn Bính từ trước đến nay vẫn được mệnh danh là Thi sĩ chân quê. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh gọi Nguyễn Bính là người lưu giữ được hồn xưa của đất nước. Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Phong vị thơ Nguyễn Bính thật gần gũi với ca dao. Có được những điều trên là do nhiều nguyên nhân, nhưng theo chúng tôi, một trong những hạt nhân quan trọng làm nên chất nhà quê trong thơ Nguyễn Bính chính là những tín hiệu ngôn ngữ chỉ các vùng không gian ở nông thôn, xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính như những điểm nhấn quan trọng.
Như ta đã biết, nếu như đơn vị dân cư mang tính văn hóa truyền thống ở nông thôn Bắc Bộ là làng thì đây cũng là không gian xuất hiện với tần số cao nhất trong thơ Nguyễn Bính. Không chỉ có làng, thơ Nguyễn Bính còn có cả thôn, xóm, ngõ. Các đơn vị làng, thôn, xóm ngoài việc đứng độc lập thì còn được kết hợp với các tên riêng để chỉ những làng/ thôn/ xóm cụ thể.
Với làng, ngoài cách diễn đạt mang tính chất danh từ chung, kiểu như: Hội làng mở giữa mùa thu (Đêm cuối cùng), Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng (Lỡ bước sang ngang) thì còn các diễn đạt gắn với danh từ riêng như: làng Ngang, làng Sậm, làng Thượng, làng Trung, làng Hạ...
Với thôn, ngoài cách diễn đạt mang tính chất danh từ chung, kiểu như: Hai thôn chung lại một làng (Tương tư), Cuối thôn gà lại gáy đầu thôn (Nhớ) thì còn các diễn đạt gắn với danh từ riêng như: thôn Đoài, thôn Đông, thôn Trữ La, thôn Vân...
Với xóm, ngoài cách diễn đạt mang tính chất danh từ chung, kiểu như: Có cô lối xóm hàng năm (Đàn tôi), Tôi về xóm cũ một chiều (Xóm cũ) thì còn các diễn đạt gắn với danh từ riêng như: xóm Tây, xóm Đông, xóm Trữ La, xóm Ngự Viên, xóm Dừa, xóm Thổ...
Ngoài ra, Nguyễn Bính còn dùng các diễn đạt khác để chỉ các không gian nông thôn như mái Đoài, tỉnh Bắc, phủ Lạng, phủ Từ, nhà Mường, xứ Thanh, thôn xóm, xóm thôn, xóm làng, làng xóm...
Tần số xuất hiện của các đơn vị không gian mang tính chất văn hóa truyền thống ở nông thôn có thể tổng kết lại trong bảng sau:
Bảng 3.2: Các đơn vị không gian nông thôn mang tính chất văn hóa truyền thống trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Không gian
|
|||||
Làng
|
34
|
19
|
|||
Thôn
|
27
|
10
|
|||
Tổng tần số
|
90
|
Có 8 không gian cụ thể trong thơ Nguyễn Bính mang đậm phong vị nông thôn, đó là: vườn, bến, hàng xóm/ láng giềng/ lối xóm, đồng, giếng, chùa, đê, (giậu) mùng tơi. Tần số xuất hiện của từng loại thể hiện cụ thể qua bảng sau:
Bảng 3.3: Những không gian nông thôn cụ thể trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Không gian
|
Tần số
|
||||
1
|
81
|
5
|
Giếng(thơi)
|
9
|
|
2
| Bến | 37 |
6
| Chùa | 6 |
3
|
10
|
7
|
5
|
||
4
|
13
|
8
|
(Giậu)
mùng tơi
|
4
|
|
165
|
Có thể nói, nhiều nhà thơ cùng thời với Nguyễn Bính như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân cũng đều đưa những không gian nông thôn vào tác phẩm nhưng điểm khác biệt cơ bản của Nguyễn Bính với các nhà thơ trên là mỗi không gian trong thơ Nguyễn Bính thường mang đầy tâm trạng, còn không gian trong thơ những nhà thơ kia lại chỉ đơn thuần là tả cảnh. Ta hãy thử đọc mấy câu thơ của Anh Thơ cũng có các tín hiệu không gian như đê, chùa, bến: Ngoài đê thẳm không người đi vắng vẻ/ Lũ chuồn chuồn giỡn nắng đuổi nhau bay (Trưa hè), Trong chùa, điện hương đèn nghi ngút sáng/ Tiếng mõ, chuông hòa nhịp trống bên đình (Rằm tháng bảy), Trên bến vắng đắm mình trong lạnh lẽo/ Vài quán hàng không khách đứng xo ro (Bến đò ngày mưa)
Vẫn là những tín hiệu không gian trên (đê, chùa, bến) nhưng trong thơ Nguyễn Bính không bao giờ chỉ là đơn thuần tả cảnh: Hôm qua em đi tỉnh về/ Đợi em ở mãi con đê đầu làng (Chân quê), Sư già quét lá sau chùa/ Để thiêu xác lá trước giờ lên chuông (Chùa vắng), Dừng chân trên bến sông buồn/ Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang (Lỡ bước sang ngang).
Trong câu thứ nhất, đê không đơn thuần tả cảnh mà còn gắn với cả tâm trạng chờ đợi với nhiều phấp phỏng, hồi hộp và dự cảm của chàng trai. Câu thứ hai, chùa còn gắn với cả sự trống vắng của con người và những kiếp lá mong manh. Câu thứ ba, bến gắn với tâm trạng u sầu phiền muộn của người chị bất hạnh trong chuyện tình duyên.
Điểm khác biệt tiếp theo của Nguyễn Bính là, ông phát hiện được ra vẻ đẹp tự nhiên của những không gian nông thôn ít ai ngờ tới, chẳng hạn giậu mồng tơi và giếng thơi (lưu ý: giếng thơi chứ không phải giếng đình). Có thể thấy, các nhà thơ nông thôn khác như vừa kể ở trên cũng đưa vào trong tác phẩm của mình nhiều không gian nông thôn nhưng không hề có giậu mồng tơi và giếng thơi (khảo sát các tập Bức tranh quê của Anh Thơ, Thôn ca của Đoàn Văn Cừ và Tiếng thông reo của Bàng Bá Lân đều không có giậu mồng tơi và giếng thơi). Và giậu mồng tơi cùng giếng thơi khi đi vào thơ Nguyễn Bính cũng chất chứa đầy tâm trạng, góp phần kiến tạo nên những câu thơ đặc sắc vào hàng bậc nhất của thi sĩ chân quê này: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn…/ Giá đừng có giậu mồng tơi/ Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng (Người hàng xóm), Giếng thơi mưa ngập nước tràn/ Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều (Qua nhà).
Điểm khác biệt cuối cùng trong việc xử lý các tín hiệu không gian trong thơ Nguyễn Bính là sự sáng tạo và biến hóa đa dạng phong phú trên cùng một đơn vị chất liệu.
Chúng tôi sẽ dành riêng một tiểu mục để bàn về tín hiệu “vườn” trong thơ Nguyễn Bính. Còn ở phần này, chúng tôi đơn cử một ví dụ về “bến” qua những sáng tạo đổi mới trong diễn đạt của ông. Vẫn là những tín hiệu không gian trên (đê, chùa, bến) nhưng trong thơ Nguyễn Bính không bao giờ chỉ là đơn thuần tả cảnh: Hôm qua em đi tỉnh về/ Đợi em ở mãi con đê đầu làng (Chân quê), Sư già quét lá sau chùa/ Để thiêu xác lá trước giờ lên chuông (Chùa vắng), Dừng chân trên bến sông buồn/ Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang (Lỡ bước sang ngang).
Trong câu thứ nhất, đê không đơn thuần tả cảnh mà còn gắn với cả tâm trạng chờ đợi với nhiều phấp phỏng, hồi hộp và dự cảm của chàng trai. Câu thứ hai, chùa còn gắn với cả sự trống vắng của con người và những kiếp lá mong manh. Câu thứ ba, bến gắn với tâm trạng u sầu phiền muộn của người chị bất hạnh trong chuyện tình duyên.
Điểm khác biệt tiếp theo của Nguyễn Bính là, ông phát hiện được ra vẻ đẹp tự nhiên của những không gian nông thôn ít ai ngờ tới, chẳng hạn giậu mồng tơi và giếng thơi (lưu ý: giếng thơi chứ không phải giếng đình). Có thể thấy, các nhà thơ nông thôn khác như vừa kể ở trên cũng đưa vào trong tác phẩm của mình nhiều không gian nông thôn nhưng không hề có giậu mồng tơi và giếng thơi (khảo sát các tập Bức tranh quê của Anh Thơ, Thôn ca của Đoàn Văn Cừ và Tiếng thông reo của Bàng Bá Lân đều không có giậu mồng tơi và giếng thơi). Và giậu mồng tơi cùng giếng thơi khi đi vào thơ Nguyễn Bính cũng chất chứa đầy tâm trạng, góp phần kiến tạo nên những câu thơ đặc sắc vào hàng bậc nhất của thi sĩ chân quê này: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn…/ Giá đừng có giậu mồng tơi/ Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng (Người hàng xóm), Giếng thơi mưa ngập nước tràn/ Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều (Qua nhà).
Điểm khác biệt cuối cùng trong việc xử lý các tín hiệu không gian trong thơ Nguyễn Bính là sự sáng tạo và biến hóa đa dạng phong phú trên cùng một đơn vị chất liệu.
Bến trong thơ Nguyễn Bính trước tiên tồn tại với tư cách một từ đơn: Bao giờ bến mới gặp đò (Tương tư). Tiếp theo, bến kết hợp với một loạt các danh từ để tạo chủng loại: bến sông, bến đò, bến gió, bến nước: Lòng cô lái ở bến sông kia (Cô lái đò), Ngồi trên bến gió chờ nàng (Thư lá vàng), Dừng trên bến nước mơ cô lái đò (Bến nước), Đưa anh ra bến đò ngang (Áo anh). Bến tiếp tục kết hợp với các đại từ chỉ địa điểm và danh từ chỉ người tạo thành các kết hợp: bến người, bến anh: Hồn thơ tôi cứ về theo bến người (Bến người), Bờ sông thấp, nước sông cao/ Lá thuyền này đã trôi vào bến anh (Thư lá vàng). Bến cũng kết hợp với những tính từ trong những cấu trúc tính ngữ, nhằm bổ nghĩa đầy đủ hơn cho tính từ trung tâm, chẳng hạn: Giấc bướm ngại sang đò bến lạnh (Mùa đông nhớ cố nhân), Sông Vân bến cũ nằm nghe chuông chùa (...) Bến vinh quang chửa tới nơi (Con nhà Nho cũ). Sau cùng, bến kết hợp với động từ để tạo ra những kết hợp mang tính lạ hóa, khẳng định sáng tạo ngôn từ mang dấu ấn riêng của tác giả: bến yêu, bến mơ: Cố đẩy đò yêu đến bến yêu (Đôi nhạn), Bến mơ thuyền đậu dưới thuyền mơ (Bến mơ).
3.1.4. Không gian thành thị
Nếu như nông thôn là không gian mang tính xuất phát, là hồn cốt của thơ Nguyễn Bính, thì thành thị lại là một thái cực khác cùng tồn tại song song và không ngừng mời gọi bước chân của thi nhân. Con người nông thôn trong thơ Nguyễn Bính, như ta biết, từng muốn chối bỏ sự xâm lăng của đô thị (bài Chân quê) để giữ nguyên những bản sắc cổ truyền. Thế nhưng, dường như đó là một điều vô cùng khó khăn. Và dù con người có bám chặt lấy nông thôn mà sống thì điều kiện ấy cũng chưa thể đủ để chống lại cuộc xâm lăng của văn minh đô thị, nhất là khi tâm thế con người còn đang khá bơ vơ, bất định trước thời cuộc bởi chưa nhìn thấy rõ một tiền đồ cho cả dân tộc. Vì thế, chúng tôi cho rằng, trong thơ Nguyễn Bính, việc con người cất bước ra thành thị là một quyết định dứt khoát phải xảy ra để hiểu hơn thời cuộc mà mình đang sống, để tìm một lối thoát nào đó, dù là trong tâm tưởng, và để tìm những đối chứng cho tình yêu quê hương của mình. Thành thị và nông thôn vì thế trở thành hai bờ giăng mắc qua lại, thường trực trong thơ Nguyễn Bính. Khi ở nông thôn, không lâu sau, con người muốn dứt áo ra đi (Lạy đôi mắt mẹ đừng buồn/ Ngày mai con lại lên đường ra đi, Sống là sống để mà đi/ Con tàu bạn hữu chuyến xe nhân tình). Ngược lại khi ở thành thị, con người lại mơ về quê nhà: Chao ôi Tết đến em không được/ Trông thấy quê hương thật não nùng (Xuân tha hương), Bao giờ em được về quê cũ/ Dâng chị bài thơ “Xuân cố hương” (Xuân vẫn tha hương).
Thơ Nguyễn Bính dùng tới bốn loại định danh khác nhau để chỉ về không gian đô thị.
Thứ nhất là gọi thẳng tên những thành phố nơi ông đã đến và đi như: Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Nam Định: Hà Nội cơ hồ loạn tiếng ve (Nhớ người trong nắng), Giời mưa ở Huế sao buồn thế (Giời mưa ở Huế), Một buổi sớm mai đến Sài Gòn (Lá thư về Bắc), Người Nam Định, kẻ Hưng Yên/ Thương đi gọi, nhớ đi tìm những ai (Chia tay).
Thứ hai là dùng những từ được coi là có nghĩa tương đương với thành thị, bao gồm: thành thị (5 lần), thị thành (3 lần), đô thị (1 lần), kinh đô (3 lần), đế kinh (1 lần), kinh (3 lần), kinh kỳ (4 lần), kinh thành (19 lần).
Thứ ba là những từ chỉ không gian đặc trưng của thành thị, bao gồm: phố (14 lần), phố phường (4 lần), ga (15 lần).
Thứ tư là những từ vốn không có nghĩa là thành thị nhưng lâm thời được nhà thơ sử dụng để tạo sự đối lập giữa thành thị với nông thôn như: phồn hoa đối với thanh đạm, xứ người/ quê người đối với xứ mình/ quê nhà/ quê cũ/ quê hương, ở đấy đối với ở đây: Nằm trong cô tịch nhớ người phồn hoa (Quê tôi), Bơ vơ trong xứ người xa lạ (Lá thư về Bắc), Ở đây cha khóc mà thương nhớ/ Đất Huế dầm mưa mấy tháng tròn (Giời mưa ở Huế), Quê người đắng khói, quê người cay men (Anh về quê cũ).
Nhìn chung, không gian thành thị trong thơ Nguyễn Bính thường gắn với những tính chất âm tính. Có khi là sự không bền vững, dễ đổi thay, không được coi là chính đáng (trong tương quan với nông thôn): Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh/ Tôi đi dan díu với kinh thành (Hoa với rượu). Có khi là cảm giác tang tóc: Kinh thành Hà Nội chít khăn xô (Viếng hồn trinh nữ). Có khi là cảm giác bất an: Hà Nội cơ hồ loạn tiếng ve/ Nắng dâng làm lút cả trưa hè (Nhớ người trong nắng). Có khi là cảm giác buồn bã tàn tạ: Lá úa kinh thành rơi ngập đất/ Lòng vàng hỏi vẫn nhớ thương nhau (Một trời quan tái). Có khi là cảm giác về sự tha hóa: Ở mãi kinh kỳ với bút nghiên/ Đêm đêm quán trọ thức thi đèn/ Xót xa một buổi soi gương cũ/ Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền (Sao chẳng về đây). Có khi là cảm giác xa vời, ngoài tầm với: Nằm đây mơ dáng lầu cao kinh thành (...) Tàu đi ánh sáng kinh thành bừng lên (Đêm mưa nhớ bạn).
Nhìn chung, thành thị trong thơ Nguyễn Bính là một không gian gây cảm giác không phải của mình, không thuộc về mình. Khi con người ở nông thôn thì hướng về thành thị như một háo hức, tò mò. Nhưng khi có mặt ở thành thị rồi thì chỉ toàn thấy những cảm giác bất ổn, không yên tâm, cô đơn và trống vắng. Cuộc sống thành thị kéo con người ra khỏi nông thôn, thậm chí lôi con người ra khỏi tổ ấm của họ và từ đó xuất hiện không gian nhà ga trong thơ Nguyễn Bính như một biểu tượng của sự chia lìa tan tác: Những cuộc chia lìa khởi tự đây/ Cây đàn sum họp đứt từng dây (...) Có lần tôi thấy một bà già/ Đưa tiễn con đi trấn ải xa/ Tàu chạy lâu rồi bà vẫn đứng/ Lưng còng đổ bóng xuống sân ga/ Có lần tôi thấy một người đi/ Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì/ Chân bước hững hờ theo bóng lẻ/ Một mình làm cả cuộc phân ly (Những bóng người trên sân ga). Một không gian khác gắn liền với không gian nhà ga là không gian của những chuyến tàu/ những toa tàu. Tàu trong thơ Nguyễn Bính gắn với cảm giác u ám và bất định, nhuốm màu thê lương: Tàu biết bây giờ chạy đến đâu/ Đêm sâu hoàn trả lại đêm sâu/ Bỏ đây một chiếc tàu kiêng đỗ/ Chở một toa tim nặng oán sầu (Chuyến tàu đêm). Không gian tàu trong thơ Nguyễn Bính gợi ta nhớ đến thuyền trong thơ Vũ Hoàng Chương với những cảm giác tương tự về sự vô định, mất niềm tin và phương hướng: Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng/ Xô về Đông hay dạt tới phương Đoài/ Giữa mặt biển vô cùng cao rộng/ Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi/ Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa/ Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh/ Bể vô tận xá gì phương hướng nữa/ Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh (Phương xa)
3.1.5. Không gian phiêu bạt
Một không gian cuối cùng chúng tôi muốn bàn đến trong thơ Nguyễn Bính là không gian phiêu bạt. Phiêu bạt xuất hiện khi con người rời bỏ nông thôn mà đi, vì thế, có thể xem phiêu bạt giống như một khoảng ở giữa nông thôn và thành thị, hoặc giả bản thân con người khi đang ở thành thị cũng cảm giác về bản thân như một sự phiêu bạt giang hồ. Những đơn vị không gian điển hình của loại này có thể kể tới là: giang hồ/ hồ hải/ hải hồ/ sông hồ/ giang san, nước non/ non nước/ sông núi/ núi sông/ non sông, quán trọ, quán rượu, quán cơm, quán, nhà trọ, gác trọ, biên cương, biên thùy, ải ngoài, ải quan, quan hà, quan san. Tần số xuất hiện của các đơn vị trên được tổng kết qua bảng dưới đây:
Bảng 3.4: Không gian phiêu bạt trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
STT
|
Không gian
|
Tần số
|
STT
|
Không gian
|
Tần số
|
1
|
Giang hồ
|
13
|
10
|
Nhà trọ
|
2
|
2
|
Hồ hải
|
1
|
11
|
Gác trọ
|
1
|
3
|
Hải hồ
|
1
|
12
|
Quán
|
7
|
4
|
Sông hồ
|
2
|
13
|
Biên cương
|
3
|
5
|
Giang san
|
2
|
14
|
Biên thùy
|
1
|
6
|
Nước non/non nước/sông núi/núi
sông/non sông
|
9
|
15
|
Ải
|
2
|
7
|
Quán trọ
|
8
|
16
|
Ải quan
|
1
|
8
|
Quán rượu
|
2
|
17
|
Quan hà
|
2
|
9
|
Quán cơm
|
1
|
18
|
Quan san
|
1
|
Tổng tần số 59
|
Tổng tần số 59
|
3.1.6. Những không gian gắn với địa danh
3.1.6.1. Những địa danh gắn với bút pháp tả thực
Theo thống kê của chúng tôi, trong các thi phẩm trước Cách mạng của Nguyễn Bính có tới 66 địa danh xuất hiện với tổng số tần số của các địa danh là 146 lần.
Vậy là cứ trung bình đọc 1,8 bài thơ của Nguyễn Bính, ta lại thấy một địa danh xuất hiện. Toàn bộ 66 địa danh nói trên hầu hết đều thuộc Việt Nam, chỉ có một địa danh nằm ngoài lãnh thổ Việt là Cao Miên (1 lần) Các địa danh chia thành một số loại chính như sau. Các địa danh có thể là tên các tỉnh thành như: Hà Nội (21 lần), Thanh Hóa (2 lần), Ninh Bình (2 lần), Nam Định (2 lần), Huế (5 lần), Hà Tiên (2 lần), Hƣng Yên (1 lần), Đồng Nai (1 lần). Các địa danh có thể thuộc cấp độ dưới tỉnh hoặc trên tỉnh, chẳng hạn: Bát Tràng (1 lần), Tam Đảo (1 lần), Đồ Sơn (1 lần), Đập Đá (1 lần), Tràng Tiền (1 lần), phủ Từ (1 lần), phủ Lạng (1 lần), Nam Kỳ (2 lần), Cầu Muối (1 lần), Đa Kao (1 lần), Hà Đông (4 lần), Gôi (1 lần). Các địa danh có thể là tên sông, núi, đường, hồ, chợ hoặc những không gian có tính chất tương đương, chẳng hạn: sông Vân (1 lần), núi Ngự (1 lần), bến Ngự (1 lần), sông Hương (3 lần), sông Thương (4 lần), sông Nhuệ (2 lần), chợ Hoàng (1 lần), chợ Quán (1 lần), chùa Hương (5 lần), bến Đục (1 lần), hồ Ba Bể (1 lần). Một loạt các địa danh khác là các tên thôn, xóm, làng. Những cái tên này mang đậm phong vị dân gian đồng bằng Bắc Bộ, góp phần tạo nên ấn tượng về chất chân quê trong thơ Nguyễn Bính: xóm Đông (1 lần), thôn Đoài (7 lần), thôn Đông (3 lần), làng Đặng (2 lần), làng Ngang (3 lần), làng Thượng (3 lần), làng Hạ (1 lần), làng Trung (1 lần), phường Mơ (2 lần), xóm Tây (1 lần), mái Đoài (1 lần), xóm Ngự viên (7 lần), xóm Dừa (1 lần), làng Sậm (1 lần), thôn Vân (9 lần). Tổng kết chi tiết về các địa danh và tần số xuất hiện có thể theo dõi qua bảng sau:
Bảng 3.5: Các địa danh cụ thể trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Thanh Hóa
|
2
|
Tỉnh Bắc
|
1
|
Hà Nội
|
21
|
Làng Sậm
|
1
|
Xóm Đông
|
1
|
Hưng Yên
|
1
|
Thôn Đoài
|
7
|
Kép
|
1
|
Thôn Đông
|
3
|
Xóm Tây
|
1
|
Làng Đặng
|
2
|
Mái Đoài
|
1
|
Động HươngSơn
|
1
|
Sông Hương
|
3
|
Nam
|
5
|
Phủ Lạng
|
2
|
Gôi
|
1
|
Sông Hương
|
4
|
Ninh Bình
|
2
|
Làng Ngang
|
3
|
Bắc
|
4
|
Kinh Bắc
|
1
|
Sài Gòn
|
1
|
Đoài
|
2
|
Chợ Quán
|
1
|
Chùa Hương
|
5
|
Đa Kao
|
1
|
Đền Hùng
|
1
|
Cầu Muối
|
1
|
Hồ Ba Bể
|
1
|
Hà Đông
|
4
|
Bến Đục
|
1
|
Nhà Mường
|
1
|
Ga Hàng Cỏ
|
2
|
Sông Nhuệ
|
2
|
Tam Đảo
|
1
|
Chợ Hoàng
|
1
|
Bến Ngự
|
1
|
Phường Mơ
|
2
|
Huế
|
5
|
Làng Trung
|
1
|
Tràng Tiền
|
1
|
Làng Hạ
|
1
|
Đập Đá
|
1
|
Đồng Nai
|
1
|
Xóm Dừa
|
1
|
2
|
Phương Bắc
|
||
1
|
|||
Núi Ngự
|
|||
2
|
Đường NamGiao
|
1
|
|
1
|
1
|
||
1
|
Bát Tràng
|
||
1
|
Những cụm từ: quê nhà, quê cũ, quê hương trở đi trở lại tới 14 lần trong các bài thơ trước Cách mạng của Nguyễn Bính, chưa kể đến sự tồn tại của các định danh quê người/ đất khách như một thế đối ứng để càng làm nổi bật cái tình sâu nặng với quê hương xứ sở: Đêm ba mươi Tết quê người cũng/ Tiếng pháo giao thừa dậy tứ phương/ Chị ạ! Em không người nước Sở/ Nhớ nhà đâu mượn địch Trương Lương/ Đất khách tình dâng nhòa mắt lệ/ Ôi nhà! Ôi chị! Ôi quê hương! (Xuân vẫn tha hương)
3.1.6.2. Những địa danh điển tích
Ngoài những địa danh tả thực như vừa trình bày, thơ Nguyễn Bính còn có sự xuất hiện của 20 địa danh mang tính chất điển tích, là những từ ngữ từng gặp nhiều trong văn chương cổ điển. Loại địa danh này tăng thêm chất cổ kính/ cổ điển trong thơ Nguyễn Bính. Nó cũng bộc lộ với ta một điều về tiểu sử tác giả: Nguyễn Bính không phải là trí thức Tây học như Xuân Diệu, Huy Cận mà vẫn thuộc lớp Hán học, được truyền lại một tinh thần cổ học nhờ những người trong gia đình (cha và cậu). Vậy nên ta có thể bắt gặp những điển tích của phương Tây trong thơ Xuân Diệu (Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine/ Hai chàng thi sĩ choáng hơi men) chứ ở thơ Nguyễn Bính thì tuyệt nhiên không có. Các địa danh mang tính chất điển tích cùng tần số xuất hiện của chúng được tổng kết qua bảng dưới đây:
Bảng 3.6: Địa danh điển tích trong thơ Nguyễn Bính trước 1945
Tần số
|
|||
6
|
1
|
||
1
|
1
|
||
2
|
1
|
||
1
|
2
|
||
1
|
Sông Tương
|
1
|
|
1
|
Hàm Đan
|
1
|
|
1
|
Ải Bắc
|
1
|
|
1
|
Tràng An
|
||
Trữ La |
4
|
||
1
|
|||
20
|
Trong những nghiên cứu trước đây của chúng tôi về các tín hiệu ngôn ngữ chỉ thời gian nghệ thuật [92] và từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính [94], chúng tôi đã chỉ ra những cách diễn đạt ước lệ là một trong những đặc thù của phong cách Nguyễn Bính. Và giờ đây khi khảo sát các tín hiệu ngôn ngữ chỉ không gian nghệ thuật, chúng tôi cũng bắt gặp những biểu hiện tương tự. Những từ ngữ ước lệ là những từ ngữ mà ý nghĩa biểu trưng của nó đã trở thành khuôn mẫu và mặc nhiên được thừa nhận trong văn chương truyền thống. Đứng về mặt sáng tạo, việc sử dụng các từ ngữ ước lệ là sự không tạo ra đóng góp cống hiến mới. Tuy nhiên, về mặt phong cách học và thẩm mỹ, từ ngữ ước lệ dùng ở mức độ vừa phải giống như thêm chút gia vị quen thuộc cho món ăn, tạo ra sự gần gũi và dễ cảm nhận. Sau đây là bảng tổng kết các đơn vị không gian mang tính ước lệ - tượng trưng cùng tần số xuất hiện của chúng: Bảng 3.7: Không gian ước lệ trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Không gian
|
Tần số
|
Không gian
|
Tần số
|
Hoang đảo
|
1
|
Chiến trường
|
1
|
Suối vàng
|
1
|
Ngục
|
2
|
Cấm địa
|
1
|
Xứ tiên
|
1
|
Sa trường
|
1
|
Thiên đường
|
1
|
Xứ mùa xuân
|
1
|
Góc bể chânmây
|
1
|
Cung trăng
| 1 | Sa mạc | 1 |
1
|
1
|
||
1
|
1
|
||
1
|
18
|
3.2. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính:
Trong quá trình khảo sát và thống kê tư liệu, chúng tôi nhận thấy việc phân nhóm các phạm vi thời gian sẽ là cách tốt nhất để tiếp cận thế giới thơ Nguyễn Bính từ góc nhìn thời gian nghệ thuật. Vì thế, chúng tôi chia hệ thống thời gian nghệ thuật trong các thi phẩm trước 1945 của Nguyễn Bính ra thành các nhóm như sau: thời gian của ngày, thời gian của năm, các biểu tượng chỉ thời gian và những biểu hiện khác. Trong 272 bài thơ của Nguyễn Bính, thực ra chỉ có 135 bài là xác định được thông số thời gian nghệ thuật, nói một cách khác là ở những bài đó, thời gian nghệ thuật là một nhân tố quan trọng giúp cho việc tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của thi phẩm. Còn ở 137 bài còn lại, vấn đề thời gian nghệ thuật không phải là yếu tố quan trọng cần được đặt ra, nói cách khác là thời gian nghệ thuật không phải là yếu tố có tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn đến giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Như vậy, vấn đề tìm hiều thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính thực chất chỉ xoay quanh 135 bài thơ.
3.2.1. Thời gian của ngày
Chúng tôi quan niệm NGÀY là một đơn vị mang tính cơ sở để chỉ thời gian, đo đếm thời gian, xuất hiện một cách thường trực, thông dụng trong tất cả 89 các tác phẩm văn học nghệ thuật. Thời gian của NGÀY có thể chia thành hai khoảng chính là khi còn ánh sáng mặt trời (ban ngày) và khi hết ánh sáng mặt trời (đêm tối). Thời gian BAN NGÀY sẽ có phạm vi trải rộng hơn thời gian BAN ĐÊM, liên quan đến các định danh sau xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính: sáng (sớm, sớm mai, ban mai, bình minh), trưa (ngọ), chiều (ánh chiều, ráng chiều, ánh trời hôm, hoàng hôn). Phần thời gian còn lại liên quan đến hai định danh chủ đạo là tối và đêm.
3.2.1.1.Thời gian ban ngày
Theo thống kê của chúng tôi trên tư liệu 272 bài thơ của Nguyễn Bính, thời gian ban ngày với các khoảng sáng, trưa, chiều xuất hiện trong 75 bài thơ, chiếm 27% trong tổng số các tác phẩm. 75 bài thơ này lại có thể chia về 10 tiểu nhóm như sau: ngày (sáng) sang đêm (tối), đêm (tối) sang ngày (sáng), sáng ngày (nói chung), sáng đến trưa, trưa, trưa đến chiều, sáng đến chiều, chiều, chiều đến tối, chiều đến đêm. Có thể quan sát tình hình phân bố thời gian ban ngày trong các bài thơ của Nguyễn Bính qua bảng dưới đây:
Bảng 3.8: Thời gian ban ngày trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Số lượng bài
|
|
Tổng kết số lần xuất hiện của từ chiều, chúng tôi thu được con số 105 lần xuất hiện, trong đó có các biến thể như chiều, chiều ấy, chiều nay, chiều mai, chiều qua, hoàng hôn. Tình hình cụ tể có thể xem qua bảng dưới đây:
Bảng 3.9: Biểu hiện của thời gian buổi chiều trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Hoàng hôn
|
|||||
5
|
2
|
3.2.1.2. Biểu tượng của thời gian ban ngày.
Hằng số nổi bật của thời gian ban ngày trong thơ Nguyễn Bính là nắng. Theo thống kê của chúng tôi, có tới 40 lần từ “nắng” xuất hiện một cách chính danh. Bên cạnh đó là các cách diễn đạt khác như ánh chiều (Chiều quê), ánh mặt trời, ánh ban mai (Trong vườn cúc), ánh trời hôm (Cô hái mơ), ráng chiều (Rừng). Ánh nắng xuất hiện với nhiều cấp độ ngữ nghĩa khác nhau. Có lúc chỉ là những miêu tả ngoại cảnh đơn thuần: Nắng lên mất thú ngồi bên lửa (Tháng ba), Biếc trong nắng sớm hồng trong vườn chiều (Anh về quê cũ), Trời vừa hửng nắng bên đông (Con bé Liên). Nhưng những miêu tả về nắng cũng không ít những lần mang tới sự ngỡ ngàng về những kết hợp ngôn từ lạ lẫm, bất ngờ, độc đáo của thi sĩ: Nắng thoai thoải nắng chiều lưng lửng chiều (Đường rừng chiều), Mưa nhè nhẹ, nắng thanh thanh (Xuân về nhớ cố hương), Nắng đỏ loang trên những ngọn đồi (Nắng đỏ). Tiếp đến, nắng có những lần được xuất hiện một cách gián tiếp, nằm ở vế thứ hai của một cấu trúc so sánh: Lại thấy đời tươi tựa nắng vàng (Tơ trắng), Mẹ em như bóng nắng về chiều (Lòng nào dám tưởng), Những ánh đèn phai tựa nắng tà (Chuyến tàu đêm), Em như cữ nắng bảy ngày chưa thôi (Vũng nước)
Tuy nhiên, những ánh nắng chất chứa tâm trạng là những ánh nắng gây được ấn tượng mạnh nhất đối với người đọc, đó là những ánh nắng có sức ám ảnh về mặt ngôn ngữ: Giếng thơi mưa ngập nước tràn/ Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều (Qua nhà), Nắng vàng rơi mãi bên bờ giếng/ Sao nắng vàng không hẹn một lời (Nhặt nắng), Chiều lại buồn rồi em vẫn xa/ Lá rừng thu đổ nắng sông tà (Một trời quan tái)
Và không phải ngẫu nhiên những ánh nắng đầy chất chứa tâm trạng này đều là những ánh nắng chiều, là những khoảnh khắc nắng muốn bùng lên trước khi tàn lụi. Những ánh nắng của buổi sáng hơn một lần cũng được đặt trong một thế đối lập tương phản để rồi hoặc nhuốm màu đau thương, hoặc nhuốm sự trống vắng, bơ vơ, hao khuyết: Sáng nay sau một cơn mưa lớn/ Hà Nội bừng lên những nắng vàng/ Có những cô nàng trinh trắng lắm/ Buồn rầu theo vết bánh xe tang (Viếng hồn trinh nữ), Tôi đến thăm Nhi giữa nắng hồng/ Với bài thơ mới sắp làm xong/ Nỡ nào Nhi lại đi xa vắng/ Bình lạnh hoa tươi tôi nhớ nhung (Nuôi bướm)
Điều này là một sự khác biệt lớn nêu ta thử so sánh nắng trong thơ Nguyễn Bính với nắng trong thơ của một số nhà thơ lãng mạn khác cùng thời với ông: Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui/ Thiếu nữ nhìn xuân chói mặt trời/ Sao buổi đầu xuân êm ái thế/ Cánh hồng kết những nụ cười tươi (Xuân Diệu), Trong làn nắng ửng khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trêu tà áo biếc/ Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang (Hàn Mặc Tử), Nắng thơ dệt sáng trên tà áo/ Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài (Huy Cận).
3.2.1.3. Thời gian ban đêm
Nếu như thời gian ban ngày với ba khoảng sáng, trưa chiều xuất hiện trong 75 bài thơ thì thời gian ban đêm với hai khoảng tối và đêm xuất hiện trong 77 bài thơ. Nếu như ở nhóm thời gian ban ngày, buổi chiều là khoảng thời gian thuần nhất có số lượng tác phẩm lớn nhất với 37 bài thơ thì ở nhóm thời gian ban đêm, những bài thơ mang thời gian nghệ thuật đêm (thuần nhất) có số lượng lên tới 60 thi phẩm. 17 trường hợp khác là những bài thơ có các khoảng thời gian từ ban ngày diễn tiến về đêm tối.
Trong thế giới thơ Nguyễn Bính, nếu so với thời gian ban ngày thì thời gian ban đêm được lựa chọn và sử dụng như một khoảng thời gian mang nhiều sắc thái âm tính và tiêu cực. Trong khắp 77 bài thơ có dính dáng đến thời gian đêm tối thì chỉ có 3 bài thời gian đêm tối mang ý nghĩa dương tính. Đó là các bài: Thời trước (kỷ niệm và hạnh phúc), Thi vị (vui tươi, ấm cúng, trẻ trung), Nửa đêm nghe tiếng còi tàu (niềm hy vọng). Ở hết thảy những bài còn lại, thời gian đêm tối đều gắn với những tính chất u buồn.
Chẳng hạn ở Lỡ bước sang ngang, thời gian đêm tối là nỗi ám ảnh xót xa, ở Quán lạnh, thời gian đêm tối là nỗi thê lương lạnh lẽo. Ở Bước đi bước nữa, thời gian đêm tối là nỗi day dứt áy náy, ở Dòng dư lệ, thời gian đêm tối lại là nỗi đau đớn tiếc thương. Có nhiều sắc thái, cung bậc tâm trạng khác của con người gắn với thời gian đêm tối trong thơ Nguyễn Bính có thể kể ra tiếp như nỗi cay đắng bẽ bàng trong bài Lòng kỹ nữ, nỗi bi quan mịt mù vô vọng trong bài Chuyến tàu đêm, sự bế tắc tuyệt vọng trong bài Đêm mưa đất khách, nỗi dở dang buồn tủi trong bài Mưa xuân…Chúng ta cùng đọc vài câu thơ điển hình trong một số bài thơ có thời gian nghệ thuật chủ đạo là đêm tối: Năm xưa đêm ấy giường này/ Nghiến răng… nhắm mắt… cau mày… cực chưa (Lỡ bước sang ngang), Tàu biết bây giờ chạy đến đâu/ Đêm sâu hoàn trả lại đêm sâu/ Bỏ đây một chiếc tàu kiêng đỗ/ Chở một toa tim nặng oán sầu (Chuyến tàu đêm), Nàng từ lạc bước đến đây/ Lá bàng rụng đến chuyến này là ba/ Đêm rồi đêm lại đêm qua/ Bao nhiêu đêm lại hóa ra đêm tàn (Lòng kỹ nữ), Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh/ Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em (Mưa xuân)
Tổng kết tần số xuất hiện của đêm trong thi phẩm Nguyễn Bính, chúng tôi thu được con số 164 lần với các biến thể: đêm, đêm nay, đêm mai, đêm kia, đêm ấy, nửa đêm, đêm đêm. Tình hình cụ thể có thể thấy qua bảng sau:
Bảng 3.10: Biểu hiện của thời gian “đêm” trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Sự áp đảo của thời gian ban đêm so với ban ngày phản ánh một cảm hứng bi đát, bi quan trong thơ Nguyễn Bính. Thơ Nguyễn Bính nhìn từ lăng kính thời gian cho ta thấy các câu chuyện chủ yếu nghiêng về tính chất bi kịch, thất vọng, dở dang, tan vỡ, lúc nào cũng hao khuyết, thiếu vắng, trống trải, hiếm bao giờ thấy sự tròn đầy viên mãn.
3.2.1.4. Biểu tượng của thời gian ban đêm
Nếu như thời gian ban ngày chỉ có một hằng số đáng được quan tâm là nắng thì thời gian ban đêm có tới 6 hằng số có thể kể đến là: trăng, sao, nến, đèn, than, lửa. Tần số xuất hiện của 6 đơn vị này như sau:
Bảng 3.11: Biểu tượng của thời gian ban đêm trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Tất cả 6 đơn vị đều giống nhau ở chỗ mang lại ánh sáng, cấp ánh sáng cho con người, trong đó trăng - sao là ánh sáng tự nhiên, còn nến - đèn - than - lửa là ánh sáng nhân tạo. Dù là ánh sáng tự nhiên hay nhân tạo thì trong những khoảnh khắc khác nhau, con người đều phải (hoặc muốn) nương tựa vào ánh sáng đó. Những ánh sáng đó trở thành một tiêu điểm/ tâm điểm hoặc thậm chí là một nhân vật cho mỗi thi phẩm. Lẽ dĩ nhiên, trăng vẫn là thứ ánh sáng được chuộng nhất, xuất hiện nhiều lần hơn cả, những câu thơ hay nhất về ánh sáng cũng dồn lại ở nơi trăng. Tuy nhiên, các hằng số ánh sáng khác cũng đã gửi lại cho người đọc những câu thơ tài hoa: Rung rung ánh nến hoen vàng/ Hơi men lắng xuống tiếng đàn cao lên… Rung rung ánh nến hoen vàng/ Đôi dây nức nở muôn ngàn nhớ thương (Một con sông lạnh), Đốt ngọn đèn lên bóng rợn tường (Xuân vẫn tha hương), Đêm tàn chẳng có chiêm bao/ Đêm tàn có mấy chòm sao cũng tàn (Một con sông lạnh)
Nhưng như đã nói ở trên, những câu hay nhất vẫn là viết về trăng. Trăng trong con mắt thi sĩ có thể là một chứng nhân cho hạnh phúc lứa đôi, từ thuở còn hàn vi cho đến khi công thành danh toại: Sáng trăng chia nửa vườn chè/ Một gian nhà nhỏ đi về có nhau/... Đêm nay mới thật là đêm/ Ai đem trăng sáng giãi lên vườn chè (Thời trước)
Trăng là biểu tượng của tình yêu và hạnh phúc. Mà tình yêu và hạnh phúc trong thơ Nguyễn Bính thường lúc nào cũng hao khuyết, dang dở: Đêm nay trăng rụng về bên ấy/ Gác trọ còn nguyên gió thất tình (Một mình), Vườn khuya sương lạnh vô vàn/ Lẻ loi một mảnh trăng tàn về đâu (Xin chớ hải đường), Nhớ người nhớ cả vầng trăng (Nghĩ làm gì nữa), Tôi về ngõ lạnh trăng lành lạnh (Khép cánh sương). Trong những ví dụ vừa dẫn, ngoài những nội dung, thông điệp được truyền tải qua hình tượng trăng, các kết hợp ngôn ngữ cũng chứng tỏ được năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ. Chẳng hạn “trăng lành lạnh” chính là nghệ thuật chuyển đổi cảm giác từ thị giác sang xúc giác, “trăng rụng” chính là một kết hợp lạ hóa mang tính ẩn dụ… Nhiều miêu tả khác về trăng của Nguyễn Bính cũng mang đến một cái nhìn mới mẻ, cách tân: Trăng chiều rụng xuống lòng sông/ Có nhà sư nữ đi trong chuông chiều (Hai buổi chiều), Nhà có trăng soi vàng nửa mái (Bài thơ vần Rẫy), Trăng nghiêng nửa mái gội mơ mòng (Bắt gặp mùa thu). Cũng có lần, trăng hiện lên với sự đắng cay chua chát của một người muốn rũ bỏ tình yêu và hạnh phúc: Tháng hẹn chờ rơi con lá úa/ Đêm tàn đợi khuyết cái trăng suông (Xuân vẫn tha hương).
3.2.1.5. Những vấn đề khác về thời gian của ngày
Ngoài những điểm như chúng tôi vừa trình bày về thời gian của ngày, chúng tôi còn nhận thấy có một đặc điểm rất đáng lưu ý trong cách biểu hiện thời gian của thi sĩ chân quê. Đó là thời gian của ngày trong thơ Nguyễn Bính bộc lộ tính chi tiết rất cao.
Ngoài những đơn vị chúng tôi đã có dịp kể ở trên như bên cạnh chiều còn có chiều nay, chiều qua, chiều mai; bên cạnh đêm còn có đêm nay, đêm qua, đêm kia, đêm ấy, nửa đêm; thời gian trong thơ Nguyễn Bính còn đƣợc đo đếm với các đơn vị nhỏ nhất như giờ, phút, giây: Nàng hãy vui đi dẫu một ngày/ Dẫu phần ba phút, góc tư giây (Cầu nguyện), Lạy Chúa con xin Chúa một giờ/ Mười hai giờ Ngọ của tình xưa (Chuông Ngọ), Lừng lững tàu đi mất nửa rồi/ Sao không dừng lại ở ga tôi/ Lấy mươi lăm phút cho tôi gửi/ Chút ít xuân xanh trả lại đời (Chuyến tàu đêm), Giờ Sửu tháng Ngâu ngày nguyệt tận (Oan nghiệt)
Thời gian trong ngày còn đưược đo đếm bằng các định lượng cụ thể như cách dùng số từ/ mấy + ngày/ buổi/ hôm. Những cách nói như thế này của Nguyễn Bính cho ta cái cảm giác rất gần gũi với lời ăn tiếng nói dân gian, có lẽ đây cũng là một trong những biểu hiện để nhiều độc giả của bao đời nay cùng công nhận chất chân quê, thôn quê thật đậm đặc trong thơ Nguyễn Bính: Đêm qua là trắng ba đêm/… Chị tôi khóc suốt một ngày một đêm (Lỡ bước sang ngang), Cách một ngày ngựa với ba ngày đò (Thư cho chị), Cơ giời định rót cả mùa đông/ Suốt chín mươi đêm xuống một lòng (Mùa đông nhớ cố nhân), Thôn tôi vào đám hai ngày chẵn (Cuối tháng ba), Tháng tháng mươi mười lăm buổi chợ (Hoa với rượu), Bốn tháng hình như kém mấy ngày (Trời mưa ở Huế), Nàng thành thiếu phụ đã hai hôm/… Nàng thành thiếu phụ đã năm hôm (Nàng thành thiếu phụ), Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm (Người hàng xóm).
Và đây là những cách diễn đạt khác nữa mang đậm màu sắc lời ăn tiếng nói của người dân đồng bằng Bắc Bộ: Chờ em… chừng giập miếng giầu em sang (Chờ nhau), Ngót một tháng nay rồi, có ít (Mong thư), Ông đồ gấp lịch: - Ngày kia tiểu hàn! (Trở rét), Em như cữ nắng bảy ngày chưa thôi (Vũng nước), Bốn tháng hình như kém mấy ngày (Trời mưa ở Huế). Cũng có khi các ngày tháng trong năm được gọi ra bằng cái tên cụ thể: Viết cho chị lá thư này/ Giữa đêm hăm bốn rạng ngày hăm nhăm (Xây hồ bán nguyệt), Năm mới tháng giêng mùng một Tết (Nhạc xuân), Nay là hai tám Tết rồi đây/ Tháng thiếu cho nên hụt một ngày (Tết của mẹ tôi), Trời đen như mực, tối ba mươi/ Diễm lén sang nhà để gặp tôi (Thi vị), Đêm ba mươi Tết trời mưa bụi/ ực nhớ quê nhà uống rượu suông (Mùa đông nhớ cố nhân), Đêm ba mươi Tết quê người cũng/ Tiếng pháo giao thừa dậy tứ phương (Xuân vẫn tha hương), Lênh đênh tóc rối cỏ bồng/ Chiều ba mươi Tết ai không nhớ nhà (Xuân về nhớ cố hương).
Việc định danh thời gian một cách cụ thể và chi tiết trong thơ Nguyễn Bính cho ta thấy một cảm quan riêng biệt của thi sĩ, một nỗi khắc khoải và ám ảnh về thời gian. Chính mức độ chi tiết hóa về thời gian đã làm Nguyễn Bính khác với văn học truyền thống cũng như cách thể hiện thời gian của những nhà thơ cùng thời. Thời gian trong văn học truyền thống là thời gian mang tính chất tuần hoàn và xoay vần của bốn mùa mưa nắng, của ngày đêm, dù có gọi tên thời gian theo cách nào thì nó cũng ít khi mang đến cảm giác trôi chảy một đi không trở lại. Chẳng hạn: Thu ăn măng trúc đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao (Nguyễn Bỉnh Khiêm), Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân (Nguyễn Du), Xuân du phương thảo địa/ Hạ thưởng lục hà trì/ Thu ẩm Hoàng Hoa tửu/ Đông ngâm bạch tuyết thi (Khuyết danh).
Trong nghiên cứu Thơ Mới từ trước đến nay, Xuân Diệu thường được coi là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian, nói về thời gian rất nhiều. Nhưng Xuân Diệu chỉ tập trung thể hiện cái tốc độ chóng mặt của thời gian, cái bi kịch thời gian làm tàn phai mọi thứ chứ cũng chưa đến độ cân đo đong đếm về thời gian như Nguyễn Bính. Kiểu như: Gấp đi em anh rất sợ ngày mai/ Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn/ Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến/ Dung nhan xê động sắc đẹp tan tành (Giục giã), Cái bay không đợi cái trôi/ Từ tôi phút ấy sang tôi phút này (Đi thuyền).
Nguyễn Bính có thể nói đã kết hợp được ý thức mạnh mẽ về cái tôi cá nhân cùng với chất thôn quê nhuần nhuyễn vốn có của mình để sáng tạo nên một bức tranh riêng biệt về thời gian nghệ thuật.
3.2.2 Thời gian của năm
Ở phần này, chúng tôi khảo sát, thống kê về tần số xuất hiện của các mùa trong năm trong thơ Nguyễn Bính cũng như có sự miêu tả cần thiết về các yếu tố từ vựng liên quan đến từng mùa như những đặc trưng mà nhà thơ đã tạo dựng không khí cho các thi phẩm của mình.
Trong 272 bài thơ của Nguyễn Bính, có 91 bài xác định được thời gian của mùa. Số lượng cụ thể của từng bài tương ứng với bốn mùa xuân hạ thu đông được tổng kết qua bảng sau:
Bảng 3.12: Bốn mùa trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Trong quá trình phân loại các thi phẩm theo bốn mùa, chúng tôi đã phải dựa vào sự xuất hiện của nhiều yếu tố từ vựng khác nhau được trải khắp trong toàn bài, từ tên chính danh của mùa đến các yếu tố từ vựng chỉ những sự vật hiện tượng đặc trưng trong mùa đó.
Sở dĩ nói như thế bởi nếu chỉ căn cứ vào những yếu tố ngôn ngữ qua nhan đề để xác định thời gian mùa cho mỗi thi phẩm, ta sẽ có một bức tranh hoàn toàn khác. Cụ thể như sau:
Bảng 3.13: Bốn mùa trong thơ Nguyễn Bính căn cứ qua nhan đề tác phẩm:
20 bài nhận diện được mùa xuân ngay từ nhan đề thi phẩm gồm có: Rượu xuân, Mưa xuân, Xuân về 1, Nhạc xuân, Xuân, Vườn xuân, Thơ xuân, Xuân về 2, Mùa xuân xanh, Xuân tha hương, Gái xuân, Xuân vẫn tha hương, Xuân thương nhớ, Xuân về nhớ cố hương, Hoa gạo, Cuối tháng 3, Tháng 3, Tết, Tết của mẹ tôi, Tết biên thùy. 2 bài nhận diện được mùa hạ ngay từ nhan đề thi phẩm gồm có: Trưa hè và Hạ. 7 bài có thể nhận diện được mùa thu ngay từ nhan đề gồm: Cây bàng cuối thu, Hoa cỏ may, Lá mùa thu, Trong vườn cúc, Thu rơi từng cánh, Bắt gặp mùa thu và Thu. 3 bài có thể nhận diện được ngay mùa đông ngay từ nhan đề gồm: Trở rét, Mùa đông nhớ cố nhân, Mùa đông gửi cố nhân.
Trong bốn tiểu nhóm gắn với các mùa nói trên, ở mỗi nhóm, có thể nói, nhà thơ đã xây dựng một số tín hiệu từ vựng mang tính đặc thù cho từng mùa. Ở mùa xuân, có thể thấy nổi lên tín hiệu từ vựng mưa xuân, rượu xuân và thiếu nữ. Những câu thơ tả mưa xuân của Nguyễn Bính luôn đầy ắp giá trị tạo hình, gợi tả đúng những cơn mưa phùn vào tháng giêng, tháng hai của đồng bằng Bắc Bộ:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày (Mưa xuân), Những hạt mưa chiều lấm tấm rơi (Vườn xuân), Mưa xuân rắc bụi quanh làng mạc (Xuân vẫn tha hương), Cửa sổ mưa bay lệ thiệp nhòa (Xuân thương nhớ), Ta đi khuất nẻo đường làng/ Mặc cho mưa bụi ướt tràng áo xanh (Xuân về)
Rượu xuân trong thơ Nguyễn Bính cũng mang những nét đặc thù rất riêng. Có những lúc đó là ly rượu hân hoan đón mùa xuân mới: Mẹ tôi uống hết một cốc rượu/ Mặt người đỏ tía vì hơi men (Tết của mẹ tôi), Có những ông già tóc bạc phơ/ Rượu đào nối chén bút đề thơ (Thơ xuân)
Nhưng đại đa số những ly rượu xuân của Nguyễn Bính gắn với nỗi buồn thương xót xa. Nỗi buồn ấy thường gắn với thân phận giang hồ trôi dạt, cảm thấy cô đơn buồn tủi nhiều hơn khi xuân đến: Chị ơi Tết đến em mua rượu/ Em uống cho say đến não nùng/ Uống say cười vỡ ba gian gác/ Ném cái chung tình xuống đáy sông (Xuân tha hương), Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ/ Son sắt say hoài rượu viễn phương (Xuân vẫn tha hương), Xuân đến khắp trời hoa rượu nở/ Mà ta với người buồn vậy thay/ Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu (Hành phương Nam), Rượu chẳng say cho đèn cũng lụi/ Ngày mai xuân nở khắp giang san (Tết biên thùy).
Đặc biệt, Tết và khoảnh khắc giao thừa (đêm ba mươi) trở đi trở lại trong nhiều bài thơ, câu thơ của Nguyễn Bính như một sự khắc khoải, day dứt. Bởi lẽ những khoảng thời gian đó đúng ra phải dành cho sự sum họp đoàn tụ thì đối với Nguyễn Bính, thi sĩ luôn ở trong một sự lênh đênh trôi dạt tha phương, hơn thế nữa là lênh đênh trôi dạt trong cảnh nghèo khó, cô đơn, thiếu vắng tình người.
Thiếu nữ có lẽ là hình ảnh gợi nhiều cảm giác tươi vui hơn cả trong những bài thơ xuân của Nguyễn Bính. Người thiếu nữ trong mùa xuân luôn rạo rực đầy sức sống, gắn liền với tình yêu, tuổi trẻ và nhưng mơ mộng lạc quan: Đã thấy xuân về với gió đông/ Với trên màu má gái chưa chồng/ Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm/ Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong (Xuân về), Xuân đến hoa mơ hoa mận nở/ Gái xuân giũ lụa trên sông Vân/ Lòng xuân lơ đãng má xuân hồng/ Cô gái xuân mơ chuyện vợ chồng (Gái xuân), Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh/ Tôi đợi người yêu đến tự tình/ Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy/ Bắt đầu là cái thắt lưng xanh (Mùa xuân xanh), Lòng thấy giăng tơ một mối tình/ Em ngừng tay lại giữa thoi xinh (Mưa xuân), Tơ trắng vương trên mái tóc nàng/ Đưa nàng sang trọn bến đò ngang/ Yêu đương sống lại con người ấy/ Lại thấy đời tươi tựa nắng vàng (Tơ trắng)
Một tín hiệu nữa không thể thiếu trong thơ xuân Nguyễn Bính là hoa gạo/ tơ gạo - một trong những loài hoa đặc trưng của mùa xuân: Tơ gạo phương xa tản mạn về/ Nắng vào đồng lúa chín vàng hoe (Tơ trắng), Những hoa gạo rụng tươi như máu/ Nhàu nát như người lính tử thương (Hoa gạo), Hoa gạo tàn đi cho sắc đỏ/ Nhập vào sắc đỏ của hoa xoan (Cuối tháng ba), Nóng lòng cây gạo lìa hoa đỏ/ Trở búp tơ xanh đón gió hè (Tháng ba). Điểm đặc biệt ở đây là nhà thơ thường có cảm xúc mạnh với hoa gạo vào trong những khoảnh khắc tàn úa, lìa cành. Đặc điểm này theo chúng tôi là phù hợp và thống nhất với cảm hứng buồn thương như một thứ mỹ học xuyên suốt thơ Nguyễn Bính.
Nếu như hoa gạo là là loài hoa đặc trưng trong những bài thơ xuân của Nguyễn Bính thì ở khu vực những bài thơ mùa hạ, hoa sen lại là loài hoa được ưu ái nổi trội nhất: Cả một mùa sen đang độ nở/ Bốn mùa trơ lại một thân tôi (Nàng Tú Uyên), Xa trên mặt nước mông mênh/ Buông thuyền, cô gái nghiêng mình hái sen (Bên hồ), Những buổi học về không có nón/ Đội đầu chung một lá sen tơ/ Lá sen vương vấn hương sen ngát/ Ấp ủ đôi ta chút nhụy hờ (Trường huyện)
Ở khu vực những bài thơ mùa thu, các tín hiệu từ vựng xuất hiện nhiều nhất là: lá, gió, ngựa, sương, mưa, được tổng kết qua bảng dưới đây:
Bảng 3.14: Các tín hiệu từ vựng đặc trưng chỉ mùa thu trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Như vậy, trong các tín hiệu từ vựng thuộc nhóm mùa thu, lá là yếu tố từ vựng được dành nhiều ưu ái hơn cả. Hầu hết trong tất cả những lần xuất hiện của lá ở các bài thơ mùa thu, chiếc lá được miêu tả trong một hiện thân của nó là sự lìa cành, rơi rụng: Lá vội rơi theo gió vội vàng/ (Quán lạnh), Lá úa dần mòn rơi rụng hết (Đôi nhạn), Gió đưa xác lá về đường/… Cúc bao lần nở, lá vàng bao rơi?/… Lá rơi lả tả trên đầu như mưa (Dòng dư lệ), Sáng nay vô số lá vàng rơi (Viếng hồn trinh nữ), Lá rụng hoa buồn không nở nữa (Bướm đi tu), Sư già quét lá sau chùa (Chùa vắng). Và ngay cả khi lá còn ở trên cành thì cũng báo hiệu một sự tàn úa, cô đơn cùng dự cảm chia lìa: Thu đi trên những cành bàng/ Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi (Cây bàng cuối thu).
Còn ở những bài thơ mùa đông, tín hiệu từ vựng nổi bật nhất là “may áo”, “đan áo”: Mơ có vài năm đã vội tàn/ Có nàng đan mãi áo len đan (Vẩn vơ), Năm xưa chị chửa lấy chồng/ Chị đan tấm áo len hồng cho tôi/ Năm nay chị lấy chồng rồi/ Mỗi kỳ gió lạnh không người đan len (Gió lạnh), Cô Thơ gái đẹp nhất làng/ Nghe trời đổ gió may quàng áo bông (Trở rét), Mưa phùn gió bấc cố nhân ơi/ Áo rét nàng đan lỡ hẹn rồi (Mùa đông gửi cố nhân), Đến mùa gió bấc sang năm/ Bao nhiêu lụa, bấy nhiêu làm áo anh (Áo anh), Hẹn cho một hẹn anh chờ/ Em may áo nái bao giờ cho xong (Đợi áo)
Qua tín hiệu này có thể thấy, tâm hồn thi nhân luôn cháy bỏng một khát khao được giao cảm, được chia sẻ. Cái lạnh giá của thời tiết chỉ là một phần, cái lạnh giá trong tâm hồn mới là thứ cần được sưởi ấm nhất bằng đôi bàn tay đan áo, bằng tình cảm của một người phụ nữ, bất luận người nào, dù là chị, là em gái hay một người tình xa xôi…
Tóm lại trong bốn mùa xuân hạ thu đông, có thể thấy mùa xuân là khoảng thời gian được Nguyễn Bính dành nhiều ưu ái nhất, nặng tình nhất. Các bài thơ về mùa xuân không chỉ áp đảo về mặt số lượng mà nó còn là những bài thơ, câu thơ hiếm hoi gợi chút không khí vui tươi, lạc quan, ấm áp trong thơ Nguyễn Bính, khác hẳn không khí chung của đại đa số các thi phẩm thưởng gợi không khí buồn thương.
3.2.3. Các biểu hiện khác của thời gian
3.2.3.1. Thời gian sự kiện
Ngoài việc định danh thời gian bằng các đơn vị như đã trình bày ở phía trên, chúng tôi còn nhận thấy Nguyễn Bính có một cách định danh thời gian rất đặc biệt theo cách gắn với một sự kiện qua các cấu trúc: hồi + X, kỳ + X, lúc + X, khi + X và nhiều hơn cả là cấu trúc Từ + X: Chị từ lỡ bước sang ngang/… Chị từ dan díu với tình (Lỡ bước sang ngang), Từ buổi nhìn qua song cửa sổ (Nhặt nắng), Từ dạo mồng tơi thôi trổ lá (Vườn hoang), Không! Từ ân ái nhỡ nhàng (Người hàng xóm), Từ ngày cô đi lấy chồng (Qua nhà), Từ buổi lầu hoa khép cánh sương (Khép cánh sương), Từ độ về đây sống rất nghèo (Từ độ về đây).
Như vậy, cái ám ảnh về mặt thời gian đối với người nghệ sĩ trong những trường hợp này không phải là những cảm giác về mặt sáng/ tối, ấm/ lạnh hay những tín hiệu thẩm mỹ có sức biểu cảm cao mà cái ám ảnh về mặt thời gian ở đây chính là CÁI SỰ KIỆN được đánh dấu, mang tính thời điểm - bước ngoặt và trở thành một dấu mốc khó phai mờ trong thế giới tâm trạng - cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Nếu nhìn rộng ra toàn bộ các sáng tác của Nguyễn Bính trước 1945, ta sẽ thấy có rất nhiều bài thơ được tạo dựng với kết cấu - cấu trúc của một câu chuyện với nhiều tình tiết, sự kiện, nhiều khoảng thời gian khác nhau trong ngày được miêu tả, tái hiện. Và những câu chuyện chủ yếu được kể dựa theo trục thời gian tuyến tính. Chúng tôi cho rằng cách kể chuyện theo trật tự tuyến tính thời gian cũng là một đặc điểm quan trọng nữa khiến thơ Nguyễn Bính có sự gần gũi với ca dao. Các bài thơ điển hình nhất theo mô hình cấu trúc câu chuyện gồm: Lỡ bước sang ngang, Viếng hồn trinh nữ, Qua nhà, Mưa xuân, Hoa với rượu, Thời trước, Nuôi bướm, Giấc mơ anh lái đò. Trong những bài thơ như kể trên, nhiều khoảng thời gian khác nhau trong ngày đều xuất hiện, các hằng số biểu hiện thời gian tương phản nhau cũng có khả năng cùng xuất hiện. Chẳng hạn ở bài Viếng hồn trinh nữ, có sự tồn tại của cả ba thời điểm trong ngày là sáng - chiều - đêm: Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh/… Sáng nay vô số lá vàng rơi/… Nàng đã qua đời để tối nay/ Có chàng đi hứng gió heo may.
Hoa với rượu là bài thơ dài nhất của Nguyễn Bính viết trước 1945, bài thơ là một sự kết nối vừa liền mạch vừa đứt quãng của rất nhiều sự việc, sự kiện, đan xen giữa hiện tại và quá khứ, sự thực và tưởng tượng, mộng ảo. Đây cũng là bài thơ có nhiều nhân vật nhất: tôi, Nhi, mẹ tôi, chị Nhi, chồng chị Nhi. Vì thế, có thể xem đây là bài thơ vô cùng phong phú về biểu đạt thời gian nghệ thuật: Thấy rét u tôi bọc lại mền… Một tối nhà Nhi có giỗ thầy… Bất đồ ngủ đến sáng ngày mai… Ba bốn năm rồi năm sáu năm… Ngày xưa còn bé Nhi còn đẹp… Huống nữa giờ Nhi đã đến thì… Một buổi chiều nào lạnh gió mưa… Trăng vàng đầy ngõ gió mênh mông… Chiều chiều hai đứa sang thăm chị… Chiều nay tôi chắp tay tôi lạy.
Motip bài thơ gắn với câu chuyện cho ta sự biểu hiện về thời gian hồi tưởng. Người kể chuyện đứng từ điểm nhìn của hiện tại để nói về quá khứ: Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay (Mưa xuân), Sáng trăng chia nửa vườn chè/ Một gian nhà nhỏ đi về có nhau (Thời trước), Cái ngày cô chưa lấy chồng/ Đường gần tôi cứ đi vòng cho xa (Qua nhà), Từ ngày cô chửa thành hôn/ Từ ngày anh khóa hãy còn hàn vi (Quan Trạng)
Ở nhóm những bài thơ kể trên, những yếu tố mới mẻ trong việc biểu hiện thời gian cũng đã đôi chỗ xuất hiện khi nhà thơ phá vỡ trật tự tuyến tính muôn thuở, đem cái xảy ra sau nói trước và cái xảy ra trước nói sau. Điển hình là trong ba khổ thơ đầu bài Viếng hồn trinh nữ, khoảng thời gian buổi chiều xuất hiện trước thời gian buổi sáng: Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh/ Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ…/ Sáng nay vô số lá vàng rơi/ Người gái trinh kia đã chết rồi… 3.2.3.2. Thời gian giả định
Thời gian giả định là khoảng thời gian không xảy ra hoặc chưa xảy ra trong hiện thực nhưng vẫn được tác giả đặt ra một cách giả định, nhằm nhấn mạnh một nét cảm xúc tâm trạng nào đó. Trong 272 bài thơ của Nguyễn Bính trước 1945, có 15 bài thể hiện kiểu thời gian giả định nói trên, gắn với những sắc thái tình cảm khác nhau ở mỗi trường hợp. Có khi thời gian giả định gắn với một sự hy vọng: Bao giờ… vui hỷ! Về ăn cưới/ Chắc chả như khi chị lấy chồng (Khăn hồng), Rồi một, hai, ba năm/ Danh thành anh trở lại (Hôn nhau lần cuối). Có khi thời gian giả định gắn với một sự dự đoán: Liệu tôi không sống đến ngày mai/… Trước khi nhắm mắt tôi thừa biết/ Đời nó sau này hẳn đắng cay (Trối trăng), Chiều mai em có nhớ anh thì/ Đừng nên buồn bã khóc than chi (Một người phóng đãng). Có khi thời gian giả định gắn với một kế hoạch hay một dự định: Em trồng được một cây lê/ Hẹn bốn năm nữa thì về nhặt hoa/… Sáng mai có lẽ em xuôi/ Nếu không đãng trí và trời không mưa (Thư cho chị), Sang năm ra ở riêng rồi/ Vợ tôi dệt lụa, tôi ngồi làm thơ (Nhà cô thôn nữ). Có khi thời gian giả định gắn với tâm trạng u buồn thất vọng hoặc mơ hồ vô định: Có lẽ ngày mai đò ngược sớm/ Thôi nàng ở lại để… quên tôi (Thôi nàng ở lại), Sáng mai xuôi ngược về đâu nhỉ?/ Nào biết về đâu kẻ ngược xuôi! (Ngược xuôi). Thời gian giả định cũng có khi gắn với tâm trạng đợi chờ, kêu gọi, khuyến khích: Sao chẳng về đây bắt bướm vàng/ Nhốt vào tay áo đợi xuân sang/ Thả ra cho bướm xem hoa nở (Sao chẳng về đây)
Các khoảng thời gian giả định trong thơ Nguyễn Bính hầu hết đều thuộc về tương lai nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, thời gian giả định lại thuộc về quá khứ: Chắc hẳn những đêm như đêm qua/ Nàng còn xây mộng giữa chăn hoa/… Chắc hẳn những đêm như đêm kia/ Nửa đêm lành lạnh gió thu về (Viếng hồn trinh nữ). Trong một trường hợp khác, thời gian giả định bao phủ toàn bộ bài thơ bởi cấu trúc nghệ thuật đặc biệt của thi phẩm. Bút pháp ngoa ngôn cường điệu đã dẫn tới mọi hành động, thời gian, không gian trong tác phẩm đều mang tính giả định: Cô nhân tình bé của tôi ơi/ Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười/ Những lúc có tôi và mắt chỉ/ Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi/ Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai/ Đừng hôn dù thấy đóa hoa tươi/ Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ/ Đừng tắm chiều nay biển lắm người… Tôi muốn những đêm đông giá lạnh/ Chiêm bao đừng lẩn khuất bên cô/ Bằng không, tôi muốn cô đừng gặp/ Một trẻ trai nào trong giấc mơ (Ghen)
Có một sự gần gũi giữa thời gian giả định và thời gian thuộc tương lai gần trong những bài thơ của Nguyễn Bính. Chúng giống nhau ở chỗ cùng hướng về những điều chưa xảy ra trong hiện thực nhưng có thể xảy ra trong tương lai. Chúng khác nhau ở chỗ đối với thời gian tương lai gần, sự kiện đó chắc chắn diễn ra theo một logic khách quan còn đối với thời gian giả định, sự kiện đó hoàn toàn phụ thuộc vào cảm xúc, đánh giá chủ quan của người nói. Ta thử so sánh hai loại hình thời gian này bằng hai ví dụ:
Thời gian giả định:
Sáng mai xuôi ngược về đâu nhỉ
Nào biết về đâu kẻ ngược xuôi
(Ngược xuôi)
Thời gian tương lai gần:
Cao tay nâng chén rượu hồng
Mừng em em sắp lấy chồng xuân nay
(Rượu xuân)
Ở câu thơ thuộc thời gian giả định trong bài Ngược xuôi, sự kiện trong khoảng thời gian này được phân tích theo hướng: chắc chắn có sự di chuyển nhưng chưa rõ cụ thể sẽ như thế nào. Còn ở câu thơ thuộc thời gian tương lai gần trong bài Rượu xuân, sự kiện “em lấy chồng” tuy chưa diễn ra trong thời điểm hiện tại nhưng chắc chắn nó sẽ diễn ra trong “xuân nay”, đấy là điều không thể thay đổi.
3.2.3.3. Thời gian ước lệ
Ngoài những cách thể hiện về thời gian như trên đã trình bày, Nguyễn Bính cũng sử dụng các biểu thức mang nặng tính ước lệ (25 biểu thức khi nói về thời gian. Các biểu thức này có thể là những từ ngữ mang tính ước lệ cao như: trăm năm, nghìn thu, ngàn thu, muôn vạn kiếp, có thể là những ẩn dụ đã trở thành quen thuộc như: thời xuân, buổi xế chiều, mùa xuân trong lòng, chưa xế sang chiều, xuân hãy còn dài, chết cả mùa xuân, xuân xanh, tuổi xuân, những ngày xuân qua, có thể là những cụm từ bốn âm tiết mang dáng dấp của những thành ngữ như: sầu sớm thương chiều, thâu ngày thâu đêm, mưa chiều nắng sớm, ngày nắng đêm sương, sương chiều gió sớm, thương đêm nhớ ngày, nay sớm mai chiều. Sau đây là một số ví dụ ở mỗi loại.
Nhóm 1: Nhưng hồn nàng tựa con thuyền bé/ Đã đắm nghìn thu ở suối vàng (Viếng hồn trinh nữ), Trăm năm đầu bạc duyên còn thắm/ Tôi có ngờ đâu đến thế đâu (Trối trăng), Đuổi cả mối sầu muôn vạn kiếp/ Bẽ bàng tất cả những màu tươi (Bao nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã dành riêng để tặng nàng).
Nhóm 2: Mà nay lại khóc thêm lần nữa/ Nước mắt còn đâu buổi xế chiều (Viếng hồn trinh nữ), Uống đi…! Em uống cho say!/ Để trong mơ sống những ngày xuân qua (Rượu xuân), Chết dần tầng nấc rồi mai mốt/ Chết cả mùa xuân, chết cả đời? (Sao chẳng về đây).
Nhóm 3: Mưa chiều nắng sớm người ta bảo/ Cả đến ông trời cũng đổi thay (Trời mưa ở Huế), Sương chiều gió sớm bao đơn chiếc/ Bướm lại ong qua mấy ngậm ngùi (Oan nghiệt), Thiếp đi từ độ hoa sen nở/ Ngày nắng đêm sương cúc lại tàn (Tạ từ)
Những diễn đạt mang tính ước lệ nhìn chung sẽ dễ tạo ra sự mòn sáo và không còn mấy phù hợp với thi ca hiện đại. Nhưng với một số lượng vừa phải như những gì Nguyễn Bính đã trình bày, chúng tôi lại cho rằng đây là một thứ “gia vị” góp phần mang lại cho thơ Nguyễn Bính phong cách cổ điển, gần gũi với lời ăn tiếng nói của đông đảo quần chúng nhân dân, được độc giả của mọi lứa tuổi, trình độ dễ dàng tri nhận, nắm bắt, thấu hiều.
3.3. Một số tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc trong thơ Nguyễn Bính
Trong quá trình khảo sát và thống kê tư liệu, chúng tôi nhận thấy các sáng tác của Nguyễn Bính giai đoạn trước 1945 có thể quy về 3 chủ đề chính: những bài thơ về nông thôn và mối quan hệ nông thôn - thành thị, những bài thơ tình yêu và những bài thơ giang hồ phiêu lãng. Trong 3 khu vực sáng tác này, ở những bài thơ về nông thôn và mối quan hệ nông thôn thành thị nổi lên tín hiệu “vườn” - tín hiệu được trở đi trở lại một cách dày đặc trong các tác phẩm. Ở khu vực những bài thơ tình nổi lên tín hiệu thẩm mỹ “bướm” còn ở khu vực những bài thơ giang hồ phiêu lãng nổi lên tín hiệu thẩm mỹ “rượu”. Chúng tôi xem 3 tín hiệu này như những từ hạt nhân trong thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng, 3 tín hiệu này sẽ có vai trò như những từ chìa khóa (key words) để đi vào giải mã thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bính, đồng thời cũng cho ta thấy vẻ đẹp tài hoa của một bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ.
3.3.1. Tín hiệu thẩm mỹ “vườn”
Trong 272 bài thơ trước Cách mạng của Nguyễn Bính đã được chúng tôi khảo sát và thống kê, tín hiệu “vườn” xuất hiện tất cả 81 lần trong 35 bài thơ, tức là cứ đọc trung bình khoảng 3,3 bài thơ của Nguyễn Bính, ta lại một lần bắt gặp tín hiệu “vườn”. 81 lần xuất hiện khác nhau của “vườn” có thể được tổng kết và đưa về 4 loại cơ bản như sau:
Nhóm 1 là những trường hợp loại đi trước chủng đi sau, bao gồm: vườn hoa, vườn cải, vườn chè, vườn dâu, vườn cam, vườn đào, vườn cúc, vườn lê, vườn hồng, vườn mía, vườn mai, vườn cây. Trong nhóm này, vườn dâu có tần số cao nhất, xuất hiện trong 4 bài thơ: Cậy em em ở lại nhà/ Vườn dâu em đốn mẹ già em thương (Lỡ bước sang ngang), Nhà tôi có một vườn dâu/ Có giàn đỗ ván có ao cấy cần (Nhầm), Đem thân về ở vườn dâu cũ/ Buồn cũng như khi chị lấy chồng (Khăn hồng), Sao em đơn chiếc thế này?/ Sao em lại khóc như ngày chị đi…?/ Ở đây còn có vui gì!/ Vườn dâu xa vắng lối về chị xa (Thư cho chị). Tiếp đến là “vườn cam” và “vườn hồng” xuất hiện trong hai bài thơ: Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh/ Tôi đi dan díu với kinh thành (Hoa với rượu), Mưa cứ dằng dai thì đến sáng/ Vườn cam lại rụng ít hoa cam (Mưa), Thuyền thơ cập bến thơ rồi/ Rước con bướm trắng sang chơi vườn hồng (Đám cưới bướm), Vườn hồng cài nửa then trinh/ Tóc tơ nửa mối chung tình nửa đêm (Lòng kỹ nữ).
Các trường hợp còn lại mỗi loại xuất hiện trong một bài thơ, có khi xuất hiện một lần trong bài, có khi xuất hiện nhiều lần trong bài: Đời em là một vườn hoa nở/ Bướm hẹn về rồi bướm nói điêu (Bướm nói điêu), Hôm nay vườn cải hoa tàn hết/ Em hỡi từ nay hết bướm vàng (Hết bướm vàng), Sáng trăng chia nửa vườn chè/ Một gian nhà nhỏ đi về có nhau (Thời trước), Tôi say mơ thấy trăm vườn cúc/ Một sớm mùa thu nở cánh vàng (Cho tôi ly nữa).
Nhóm 2 là những trường hợp “vườn” kết hợp với một tính từ đi sau bổ nghĩa cho danh từ đi trước, bao gồm: vườn xác xơ, vườn hoang, vườn cũ, vườn vắng, vườn khuya: Ở nhà em nhớ mẹ thương/ Ba gian trống một mảnh vườn xác xơ (Lỡ bước sang ngang), Một thửa vườn hoang bên cạnh am/ Xương rồng, bãi cỏ lẫn rau sam/ Vườn này ngày nhỏ anh còn nhớ/ Đã nhảy qua tường trảy trộm cam (Vườn xưa), Xa rồi vườn cũ hoa cam rụng/ Gặp lại nhau chi muộn mất rồi (Hoa với rượu), Một bông cúc nở trong vườn vắng (Đôi nhạn), Vườn khuya sương lạnh vô vàn/ Lẻ loi, một mảnh trăng tàn về đâu? (Xin chớ hải đường)
Nhóm 3 là những trường hợp “vườn” đi với một danh từ, cụm danh từ hoặc đại từ ở phía sau, bao gồm: vườn trần, vườn xuân, vườn Thượng uyển, vườn ai, vườn nhà, vườn đất, vườn ngự, vườn Ngự uyển, vườn tiên, vườn Thanh, vườn tôi, vườn này, vườn Nam, vườn chiều: Rượu ái tình kia thành thuốc độc/ Vườn trần theo bướm phấn hương bay (Hoa với rượu), Vườn xuân trắng xóa hoa cam rụng/ Tôi với em Nhi kết vợ chồng (Hoa với rượu), Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển/ Là đây hoa cỏ giống vườn tiên (Xóm Ngự viên), Thiếp về Ải Bắc giăng đơn chiếc/ Chàng ở vườn Nam gió bạt ngàn (Tạ từ), Trọ bao nhiêu quán bên đường/ Nhưng không lần nữa qua vườn Thanh xưa (Dòng dư lệ)
Đêm qua
|
Nửa đêm
|
Đêm đêm
|
|||
15
|
6
|
6
|
3.2.1.4. Biểu tượng của thời gian ban đêm
Nếu như thời gian ban ngày chỉ có một hằng số đáng được quan tâm là nắng thì thời gian ban đêm có tới 6 hằng số có thể kể đến là: trăng, sao, nến, đèn, than, lửa. Tần số xuất hiện của 6 đơn vị này như sau:
Bảng 3.11: Biểu tượng của thời gian ban đêm trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Đèn
|
Than
|
||||
4 lần
|
8 lần
|
1 lần
|
2 lần
|
Nhưng như đã nói ở trên, những câu hay nhất vẫn là viết về trăng. Trăng trong con mắt thi sĩ có thể là một chứng nhân cho hạnh phúc lứa đôi, từ thuở còn hàn vi cho đến khi công thành danh toại: Sáng trăng chia nửa vườn chè/ Một gian nhà nhỏ đi về có nhau/... Đêm nay mới thật là đêm/ Ai đem trăng sáng giãi lên vườn chè (Thời trước)
Trăng là biểu tượng của tình yêu và hạnh phúc. Mà tình yêu và hạnh phúc trong thơ Nguyễn Bính thường lúc nào cũng hao khuyết, dang dở: Đêm nay trăng rụng về bên ấy/ Gác trọ còn nguyên gió thất tình (Một mình), Vườn khuya sương lạnh vô vàn/ Lẻ loi một mảnh trăng tàn về đâu (Xin chớ hải đường), Nhớ người nhớ cả vầng trăng (Nghĩ làm gì nữa), Tôi về ngõ lạnh trăng lành lạnh (Khép cánh sương). Trong những ví dụ vừa dẫn, ngoài những nội dung, thông điệp được truyền tải qua hình tượng trăng, các kết hợp ngôn ngữ cũng chứng tỏ được năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ. Chẳng hạn “trăng lành lạnh” chính là nghệ thuật chuyển đổi cảm giác từ thị giác sang xúc giác, “trăng rụng” chính là một kết hợp lạ hóa mang tính ẩn dụ… Nhiều miêu tả khác về trăng của Nguyễn Bính cũng mang đến một cái nhìn mới mẻ, cách tân: Trăng chiều rụng xuống lòng sông/ Có nhà sư nữ đi trong chuông chiều (Hai buổi chiều), Nhà có trăng soi vàng nửa mái (Bài thơ vần Rẫy), Trăng nghiêng nửa mái gội mơ mòng (Bắt gặp mùa thu). Cũng có lần, trăng hiện lên với sự đắng cay chua chát của một người muốn rũ bỏ tình yêu và hạnh phúc: Tháng hẹn chờ rơi con lá úa/ Đêm tàn đợi khuyết cái trăng suông (Xuân vẫn tha hương).
3.2.1.5. Những vấn đề khác về thời gian của ngày
Ngoài những điểm như chúng tôi vừa trình bày về thời gian của ngày, chúng tôi còn nhận thấy có một đặc điểm rất đáng lưu ý trong cách biểu hiện thời gian của thi sĩ chân quê. Đó là thời gian của ngày trong thơ Nguyễn Bính bộc lộ tính chi tiết rất cao.
Ngoài những đơn vị chúng tôi đã có dịp kể ở trên như bên cạnh chiều còn có chiều nay, chiều qua, chiều mai; bên cạnh đêm còn có đêm nay, đêm qua, đêm kia, đêm ấy, nửa đêm; thời gian trong thơ Nguyễn Bính còn đƣợc đo đếm với các đơn vị nhỏ nhất như giờ, phút, giây: Nàng hãy vui đi dẫu một ngày/ Dẫu phần ba phút, góc tư giây (Cầu nguyện), Lạy Chúa con xin Chúa một giờ/ Mười hai giờ Ngọ của tình xưa (Chuông Ngọ), Lừng lững tàu đi mất nửa rồi/ Sao không dừng lại ở ga tôi/ Lấy mươi lăm phút cho tôi gửi/ Chút ít xuân xanh trả lại đời (Chuyến tàu đêm), Giờ Sửu tháng Ngâu ngày nguyệt tận (Oan nghiệt)
Thời gian trong ngày còn đưược đo đếm bằng các định lượng cụ thể như cách dùng số từ/ mấy + ngày/ buổi/ hôm. Những cách nói như thế này của Nguyễn Bính cho ta cái cảm giác rất gần gũi với lời ăn tiếng nói dân gian, có lẽ đây cũng là một trong những biểu hiện để nhiều độc giả của bao đời nay cùng công nhận chất chân quê, thôn quê thật đậm đặc trong thơ Nguyễn Bính: Đêm qua là trắng ba đêm/… Chị tôi khóc suốt một ngày một đêm (Lỡ bước sang ngang), Cách một ngày ngựa với ba ngày đò (Thư cho chị), Cơ giời định rót cả mùa đông/ Suốt chín mươi đêm xuống một lòng (Mùa đông nhớ cố nhân), Thôn tôi vào đám hai ngày chẵn (Cuối tháng ba), Tháng tháng mươi mười lăm buổi chợ (Hoa với rượu), Bốn tháng hình như kém mấy ngày (Trời mưa ở Huế), Nàng thành thiếu phụ đã hai hôm/… Nàng thành thiếu phụ đã năm hôm (Nàng thành thiếu phụ), Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm (Người hàng xóm).
Và đây là những cách diễn đạt khác nữa mang đậm màu sắc lời ăn tiếng nói của người dân đồng bằng Bắc Bộ: Chờ em… chừng giập miếng giầu em sang (Chờ nhau), Ngót một tháng nay rồi, có ít (Mong thư), Ông đồ gấp lịch: - Ngày kia tiểu hàn! (Trở rét), Em như cữ nắng bảy ngày chưa thôi (Vũng nước), Bốn tháng hình như kém mấy ngày (Trời mưa ở Huế). Cũng có khi các ngày tháng trong năm được gọi ra bằng cái tên cụ thể: Viết cho chị lá thư này/ Giữa đêm hăm bốn rạng ngày hăm nhăm (Xây hồ bán nguyệt), Năm mới tháng giêng mùng một Tết (Nhạc xuân), Nay là hai tám Tết rồi đây/ Tháng thiếu cho nên hụt một ngày (Tết của mẹ tôi), Trời đen như mực, tối ba mươi/ Diễm lén sang nhà để gặp tôi (Thi vị), Đêm ba mươi Tết trời mưa bụi/ ực nhớ quê nhà uống rượu suông (Mùa đông nhớ cố nhân), Đêm ba mươi Tết quê người cũng/ Tiếng pháo giao thừa dậy tứ phương (Xuân vẫn tha hương), Lênh đênh tóc rối cỏ bồng/ Chiều ba mươi Tết ai không nhớ nhà (Xuân về nhớ cố hương).
Việc định danh thời gian một cách cụ thể và chi tiết trong thơ Nguyễn Bính cho ta thấy một cảm quan riêng biệt của thi sĩ, một nỗi khắc khoải và ám ảnh về thời gian. Chính mức độ chi tiết hóa về thời gian đã làm Nguyễn Bính khác với văn học truyền thống cũng như cách thể hiện thời gian của những nhà thơ cùng thời. Thời gian trong văn học truyền thống là thời gian mang tính chất tuần hoàn và xoay vần của bốn mùa mưa nắng, của ngày đêm, dù có gọi tên thời gian theo cách nào thì nó cũng ít khi mang đến cảm giác trôi chảy một đi không trở lại. Chẳng hạn: Thu ăn măng trúc đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao (Nguyễn Bỉnh Khiêm), Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân (Nguyễn Du), Xuân du phương thảo địa/ Hạ thưởng lục hà trì/ Thu ẩm Hoàng Hoa tửu/ Đông ngâm bạch tuyết thi (Khuyết danh).
Trong nghiên cứu Thơ Mới từ trước đến nay, Xuân Diệu thường được coi là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian, nói về thời gian rất nhiều. Nhưng Xuân Diệu chỉ tập trung thể hiện cái tốc độ chóng mặt của thời gian, cái bi kịch thời gian làm tàn phai mọi thứ chứ cũng chưa đến độ cân đo đong đếm về thời gian như Nguyễn Bính. Kiểu như: Gấp đi em anh rất sợ ngày mai/ Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn/ Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến/ Dung nhan xê động sắc đẹp tan tành (Giục giã), Cái bay không đợi cái trôi/ Từ tôi phút ấy sang tôi phút này (Đi thuyền).
Nguyễn Bính có thể nói đã kết hợp được ý thức mạnh mẽ về cái tôi cá nhân cùng với chất thôn quê nhuần nhuyễn vốn có của mình để sáng tạo nên một bức tranh riêng biệt về thời gian nghệ thuật.
3.2.2 Thời gian của năm
Ở phần này, chúng tôi khảo sát, thống kê về tần số xuất hiện của các mùa trong năm trong thơ Nguyễn Bính cũng như có sự miêu tả cần thiết về các yếu tố từ vựng liên quan đến từng mùa như những đặc trưng mà nhà thơ đã tạo dựng không khí cho các thi phẩm của mình.
Trong 272 bài thơ của Nguyễn Bính, có 91 bài xác định được thời gian của mùa. Số lượng cụ thể của từng bài tương ứng với bốn mùa xuân hạ thu đông được tổng kết qua bảng sau:
Bảng 3.12: Bốn mùa trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Thu
| ||||
8 bài
|
31 bài
|
Sở dĩ nói như thế bởi nếu chỉ căn cứ vào những yếu tố ngôn ngữ qua nhan đề để xác định thời gian mùa cho mỗi thi phẩm, ta sẽ có một bức tranh hoàn toàn khác. Cụ thể như sau:
Bảng 3.13: Bốn mùa trong thơ Nguyễn Bính căn cứ qua nhan đề tác phẩm:
Hạ
|
Thu
|
||
Trong bốn tiểu nhóm gắn với các mùa nói trên, ở mỗi nhóm, có thể nói, nhà thơ đã xây dựng một số tín hiệu từ vựng mang tính đặc thù cho từng mùa. Ở mùa xuân, có thể thấy nổi lên tín hiệu từ vựng mưa xuân, rượu xuân và thiếu nữ. Những câu thơ tả mưa xuân của Nguyễn Bính luôn đầy ắp giá trị tạo hình, gợi tả đúng những cơn mưa phùn vào tháng giêng, tháng hai của đồng bằng Bắc Bộ:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày (Mưa xuân), Những hạt mưa chiều lấm tấm rơi (Vườn xuân), Mưa xuân rắc bụi quanh làng mạc (Xuân vẫn tha hương), Cửa sổ mưa bay lệ thiệp nhòa (Xuân thương nhớ), Ta đi khuất nẻo đường làng/ Mặc cho mưa bụi ướt tràng áo xanh (Xuân về)
Rượu xuân trong thơ Nguyễn Bính cũng mang những nét đặc thù rất riêng. Có những lúc đó là ly rượu hân hoan đón mùa xuân mới: Mẹ tôi uống hết một cốc rượu/ Mặt người đỏ tía vì hơi men (Tết của mẹ tôi), Có những ông già tóc bạc phơ/ Rượu đào nối chén bút đề thơ (Thơ xuân)
Nhưng đại đa số những ly rượu xuân của Nguyễn Bính gắn với nỗi buồn thương xót xa. Nỗi buồn ấy thường gắn với thân phận giang hồ trôi dạt, cảm thấy cô đơn buồn tủi nhiều hơn khi xuân đến: Chị ơi Tết đến em mua rượu/ Em uống cho say đến não nùng/ Uống say cười vỡ ba gian gác/ Ném cái chung tình xuống đáy sông (Xuân tha hương), Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ/ Son sắt say hoài rượu viễn phương (Xuân vẫn tha hương), Xuân đến khắp trời hoa rượu nở/ Mà ta với người buồn vậy thay/ Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu (Hành phương Nam), Rượu chẳng say cho đèn cũng lụi/ Ngày mai xuân nở khắp giang san (Tết biên thùy).
Đặc biệt, Tết và khoảnh khắc giao thừa (đêm ba mươi) trở đi trở lại trong nhiều bài thơ, câu thơ của Nguyễn Bính như một sự khắc khoải, day dứt. Bởi lẽ những khoảng thời gian đó đúng ra phải dành cho sự sum họp đoàn tụ thì đối với Nguyễn Bính, thi sĩ luôn ở trong một sự lênh đênh trôi dạt tha phương, hơn thế nữa là lênh đênh trôi dạt trong cảnh nghèo khó, cô đơn, thiếu vắng tình người.
Thiếu nữ có lẽ là hình ảnh gợi nhiều cảm giác tươi vui hơn cả trong những bài thơ xuân của Nguyễn Bính. Người thiếu nữ trong mùa xuân luôn rạo rực đầy sức sống, gắn liền với tình yêu, tuổi trẻ và nhưng mơ mộng lạc quan: Đã thấy xuân về với gió đông/ Với trên màu má gái chưa chồng/ Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm/ Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong (Xuân về), Xuân đến hoa mơ hoa mận nở/ Gái xuân giũ lụa trên sông Vân/ Lòng xuân lơ đãng má xuân hồng/ Cô gái xuân mơ chuyện vợ chồng (Gái xuân), Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh/ Tôi đợi người yêu đến tự tình/ Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy/ Bắt đầu là cái thắt lưng xanh (Mùa xuân xanh), Lòng thấy giăng tơ một mối tình/ Em ngừng tay lại giữa thoi xinh (Mưa xuân), Tơ trắng vương trên mái tóc nàng/ Đưa nàng sang trọn bến đò ngang/ Yêu đương sống lại con người ấy/ Lại thấy đời tươi tựa nắng vàng (Tơ trắng)
Một tín hiệu nữa không thể thiếu trong thơ xuân Nguyễn Bính là hoa gạo/ tơ gạo - một trong những loài hoa đặc trưng của mùa xuân: Tơ gạo phương xa tản mạn về/ Nắng vào đồng lúa chín vàng hoe (Tơ trắng), Những hoa gạo rụng tươi như máu/ Nhàu nát như người lính tử thương (Hoa gạo), Hoa gạo tàn đi cho sắc đỏ/ Nhập vào sắc đỏ của hoa xoan (Cuối tháng ba), Nóng lòng cây gạo lìa hoa đỏ/ Trở búp tơ xanh đón gió hè (Tháng ba). Điểm đặc biệt ở đây là nhà thơ thường có cảm xúc mạnh với hoa gạo vào trong những khoảnh khắc tàn úa, lìa cành. Đặc điểm này theo chúng tôi là phù hợp và thống nhất với cảm hứng buồn thương như một thứ mỹ học xuyên suốt thơ Nguyễn Bính.
Nếu như hoa gạo là là loài hoa đặc trưng trong những bài thơ xuân của Nguyễn Bính thì ở khu vực những bài thơ mùa hạ, hoa sen lại là loài hoa được ưu ái nổi trội nhất: Cả một mùa sen đang độ nở/ Bốn mùa trơ lại một thân tôi (Nàng Tú Uyên), Xa trên mặt nước mông mênh/ Buông thuyền, cô gái nghiêng mình hái sen (Bên hồ), Những buổi học về không có nón/ Đội đầu chung một lá sen tơ/ Lá sen vương vấn hương sen ngát/ Ấp ủ đôi ta chút nhụy hờ (Trường huyện)
Ở khu vực những bài thơ mùa thu, các tín hiệu từ vựng xuất hiện nhiều nhất là: lá, gió, ngựa, sương, mưa, được tổng kết qua bảng dưới đây:
Bảng 3.14: Các tín hiệu từ vựng đặc trưng chỉ mùa thu trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Gió
|
Mưa
|
|||
31 lần
|
Còn ở những bài thơ mùa đông, tín hiệu từ vựng nổi bật nhất là “may áo”, “đan áo”: Mơ có vài năm đã vội tàn/ Có nàng đan mãi áo len đan (Vẩn vơ), Năm xưa chị chửa lấy chồng/ Chị đan tấm áo len hồng cho tôi/ Năm nay chị lấy chồng rồi/ Mỗi kỳ gió lạnh không người đan len (Gió lạnh), Cô Thơ gái đẹp nhất làng/ Nghe trời đổ gió may quàng áo bông (Trở rét), Mưa phùn gió bấc cố nhân ơi/ Áo rét nàng đan lỡ hẹn rồi (Mùa đông gửi cố nhân), Đến mùa gió bấc sang năm/ Bao nhiêu lụa, bấy nhiêu làm áo anh (Áo anh), Hẹn cho một hẹn anh chờ/ Em may áo nái bao giờ cho xong (Đợi áo)
Qua tín hiệu này có thể thấy, tâm hồn thi nhân luôn cháy bỏng một khát khao được giao cảm, được chia sẻ. Cái lạnh giá của thời tiết chỉ là một phần, cái lạnh giá trong tâm hồn mới là thứ cần được sưởi ấm nhất bằng đôi bàn tay đan áo, bằng tình cảm của một người phụ nữ, bất luận người nào, dù là chị, là em gái hay một người tình xa xôi…
Tóm lại trong bốn mùa xuân hạ thu đông, có thể thấy mùa xuân là khoảng thời gian được Nguyễn Bính dành nhiều ưu ái nhất, nặng tình nhất. Các bài thơ về mùa xuân không chỉ áp đảo về mặt số lượng mà nó còn là những bài thơ, câu thơ hiếm hoi gợi chút không khí vui tươi, lạc quan, ấm áp trong thơ Nguyễn Bính, khác hẳn không khí chung của đại đa số các thi phẩm thưởng gợi không khí buồn thương.
3.2.3. Các biểu hiện khác của thời gian
3.2.3.1. Thời gian sự kiện
Ngoài việc định danh thời gian bằng các đơn vị như đã trình bày ở phía trên, chúng tôi còn nhận thấy Nguyễn Bính có một cách định danh thời gian rất đặc biệt theo cách gắn với một sự kiện qua các cấu trúc: hồi + X, kỳ + X, lúc + X, khi + X và nhiều hơn cả là cấu trúc Từ + X: Chị từ lỡ bước sang ngang/… Chị từ dan díu với tình (Lỡ bước sang ngang), Từ buổi nhìn qua song cửa sổ (Nhặt nắng), Từ dạo mồng tơi thôi trổ lá (Vườn hoang), Không! Từ ân ái nhỡ nhàng (Người hàng xóm), Từ ngày cô đi lấy chồng (Qua nhà), Từ buổi lầu hoa khép cánh sương (Khép cánh sương), Từ độ về đây sống rất nghèo (Từ độ về đây).
Như vậy, cái ám ảnh về mặt thời gian đối với người nghệ sĩ trong những trường hợp này không phải là những cảm giác về mặt sáng/ tối, ấm/ lạnh hay những tín hiệu thẩm mỹ có sức biểu cảm cao mà cái ám ảnh về mặt thời gian ở đây chính là CÁI SỰ KIỆN được đánh dấu, mang tính thời điểm - bước ngoặt và trở thành một dấu mốc khó phai mờ trong thế giới tâm trạng - cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Nếu nhìn rộng ra toàn bộ các sáng tác của Nguyễn Bính trước 1945, ta sẽ thấy có rất nhiều bài thơ được tạo dựng với kết cấu - cấu trúc của một câu chuyện với nhiều tình tiết, sự kiện, nhiều khoảng thời gian khác nhau trong ngày được miêu tả, tái hiện. Và những câu chuyện chủ yếu được kể dựa theo trục thời gian tuyến tính. Chúng tôi cho rằng cách kể chuyện theo trật tự tuyến tính thời gian cũng là một đặc điểm quan trọng nữa khiến thơ Nguyễn Bính có sự gần gũi với ca dao. Các bài thơ điển hình nhất theo mô hình cấu trúc câu chuyện gồm: Lỡ bước sang ngang, Viếng hồn trinh nữ, Qua nhà, Mưa xuân, Hoa với rượu, Thời trước, Nuôi bướm, Giấc mơ anh lái đò. Trong những bài thơ như kể trên, nhiều khoảng thời gian khác nhau trong ngày đều xuất hiện, các hằng số biểu hiện thời gian tương phản nhau cũng có khả năng cùng xuất hiện. Chẳng hạn ở bài Viếng hồn trinh nữ, có sự tồn tại của cả ba thời điểm trong ngày là sáng - chiều - đêm: Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh/… Sáng nay vô số lá vàng rơi/… Nàng đã qua đời để tối nay/ Có chàng đi hứng gió heo may.
Hoa với rượu là bài thơ dài nhất của Nguyễn Bính viết trước 1945, bài thơ là một sự kết nối vừa liền mạch vừa đứt quãng của rất nhiều sự việc, sự kiện, đan xen giữa hiện tại và quá khứ, sự thực và tưởng tượng, mộng ảo. Đây cũng là bài thơ có nhiều nhân vật nhất: tôi, Nhi, mẹ tôi, chị Nhi, chồng chị Nhi. Vì thế, có thể xem đây là bài thơ vô cùng phong phú về biểu đạt thời gian nghệ thuật: Thấy rét u tôi bọc lại mền… Một tối nhà Nhi có giỗ thầy… Bất đồ ngủ đến sáng ngày mai… Ba bốn năm rồi năm sáu năm… Ngày xưa còn bé Nhi còn đẹp… Huống nữa giờ Nhi đã đến thì… Một buổi chiều nào lạnh gió mưa… Trăng vàng đầy ngõ gió mênh mông… Chiều chiều hai đứa sang thăm chị… Chiều nay tôi chắp tay tôi lạy.
Motip bài thơ gắn với câu chuyện cho ta sự biểu hiện về thời gian hồi tưởng. Người kể chuyện đứng từ điểm nhìn của hiện tại để nói về quá khứ: Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay (Mưa xuân), Sáng trăng chia nửa vườn chè/ Một gian nhà nhỏ đi về có nhau (Thời trước), Cái ngày cô chưa lấy chồng/ Đường gần tôi cứ đi vòng cho xa (Qua nhà), Từ ngày cô chửa thành hôn/ Từ ngày anh khóa hãy còn hàn vi (Quan Trạng)
Ở nhóm những bài thơ kể trên, những yếu tố mới mẻ trong việc biểu hiện thời gian cũng đã đôi chỗ xuất hiện khi nhà thơ phá vỡ trật tự tuyến tính muôn thuở, đem cái xảy ra sau nói trước và cái xảy ra trước nói sau. Điển hình là trong ba khổ thơ đầu bài Viếng hồn trinh nữ, khoảng thời gian buổi chiều xuất hiện trước thời gian buổi sáng: Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh/ Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ…/ Sáng nay vô số lá vàng rơi/ Người gái trinh kia đã chết rồi… 3.2.3.2. Thời gian giả định
Thời gian giả định là khoảng thời gian không xảy ra hoặc chưa xảy ra trong hiện thực nhưng vẫn được tác giả đặt ra một cách giả định, nhằm nhấn mạnh một nét cảm xúc tâm trạng nào đó. Trong 272 bài thơ của Nguyễn Bính trước 1945, có 15 bài thể hiện kiểu thời gian giả định nói trên, gắn với những sắc thái tình cảm khác nhau ở mỗi trường hợp. Có khi thời gian giả định gắn với một sự hy vọng: Bao giờ… vui hỷ! Về ăn cưới/ Chắc chả như khi chị lấy chồng (Khăn hồng), Rồi một, hai, ba năm/ Danh thành anh trở lại (Hôn nhau lần cuối). Có khi thời gian giả định gắn với một sự dự đoán: Liệu tôi không sống đến ngày mai/… Trước khi nhắm mắt tôi thừa biết/ Đời nó sau này hẳn đắng cay (Trối trăng), Chiều mai em có nhớ anh thì/ Đừng nên buồn bã khóc than chi (Một người phóng đãng). Có khi thời gian giả định gắn với một kế hoạch hay một dự định: Em trồng được một cây lê/ Hẹn bốn năm nữa thì về nhặt hoa/… Sáng mai có lẽ em xuôi/ Nếu không đãng trí và trời không mưa (Thư cho chị), Sang năm ra ở riêng rồi/ Vợ tôi dệt lụa, tôi ngồi làm thơ (Nhà cô thôn nữ). Có khi thời gian giả định gắn với tâm trạng u buồn thất vọng hoặc mơ hồ vô định: Có lẽ ngày mai đò ngược sớm/ Thôi nàng ở lại để… quên tôi (Thôi nàng ở lại), Sáng mai xuôi ngược về đâu nhỉ?/ Nào biết về đâu kẻ ngược xuôi! (Ngược xuôi). Thời gian giả định cũng có khi gắn với tâm trạng đợi chờ, kêu gọi, khuyến khích: Sao chẳng về đây bắt bướm vàng/ Nhốt vào tay áo đợi xuân sang/ Thả ra cho bướm xem hoa nở (Sao chẳng về đây)
Các khoảng thời gian giả định trong thơ Nguyễn Bính hầu hết đều thuộc về tương lai nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, thời gian giả định lại thuộc về quá khứ: Chắc hẳn những đêm như đêm qua/ Nàng còn xây mộng giữa chăn hoa/… Chắc hẳn những đêm như đêm kia/ Nửa đêm lành lạnh gió thu về (Viếng hồn trinh nữ). Trong một trường hợp khác, thời gian giả định bao phủ toàn bộ bài thơ bởi cấu trúc nghệ thuật đặc biệt của thi phẩm. Bút pháp ngoa ngôn cường điệu đã dẫn tới mọi hành động, thời gian, không gian trong tác phẩm đều mang tính giả định: Cô nhân tình bé của tôi ơi/ Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười/ Những lúc có tôi và mắt chỉ/ Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi/ Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai/ Đừng hôn dù thấy đóa hoa tươi/ Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ/ Đừng tắm chiều nay biển lắm người… Tôi muốn những đêm đông giá lạnh/ Chiêm bao đừng lẩn khuất bên cô/ Bằng không, tôi muốn cô đừng gặp/ Một trẻ trai nào trong giấc mơ (Ghen)
Có một sự gần gũi giữa thời gian giả định và thời gian thuộc tương lai gần trong những bài thơ của Nguyễn Bính. Chúng giống nhau ở chỗ cùng hướng về những điều chưa xảy ra trong hiện thực nhưng có thể xảy ra trong tương lai. Chúng khác nhau ở chỗ đối với thời gian tương lai gần, sự kiện đó chắc chắn diễn ra theo một logic khách quan còn đối với thời gian giả định, sự kiện đó hoàn toàn phụ thuộc vào cảm xúc, đánh giá chủ quan của người nói. Ta thử so sánh hai loại hình thời gian này bằng hai ví dụ:
Thời gian giả định:
Sáng mai xuôi ngược về đâu nhỉ
Nào biết về đâu kẻ ngược xuôi
(Ngược xuôi)
Thời gian tương lai gần:
Cao tay nâng chén rượu hồng
Mừng em em sắp lấy chồng xuân nay
(Rượu xuân)
Ở câu thơ thuộc thời gian giả định trong bài Ngược xuôi, sự kiện trong khoảng thời gian này được phân tích theo hướng: chắc chắn có sự di chuyển nhưng chưa rõ cụ thể sẽ như thế nào. Còn ở câu thơ thuộc thời gian tương lai gần trong bài Rượu xuân, sự kiện “em lấy chồng” tuy chưa diễn ra trong thời điểm hiện tại nhưng chắc chắn nó sẽ diễn ra trong “xuân nay”, đấy là điều không thể thay đổi.
3.2.3.3. Thời gian ước lệ
Ngoài những cách thể hiện về thời gian như trên đã trình bày, Nguyễn Bính cũng sử dụng các biểu thức mang nặng tính ước lệ (25 biểu thức khi nói về thời gian. Các biểu thức này có thể là những từ ngữ mang tính ước lệ cao như: trăm năm, nghìn thu, ngàn thu, muôn vạn kiếp, có thể là những ẩn dụ đã trở thành quen thuộc như: thời xuân, buổi xế chiều, mùa xuân trong lòng, chưa xế sang chiều, xuân hãy còn dài, chết cả mùa xuân, xuân xanh, tuổi xuân, những ngày xuân qua, có thể là những cụm từ bốn âm tiết mang dáng dấp của những thành ngữ như: sầu sớm thương chiều, thâu ngày thâu đêm, mưa chiều nắng sớm, ngày nắng đêm sương, sương chiều gió sớm, thương đêm nhớ ngày, nay sớm mai chiều. Sau đây là một số ví dụ ở mỗi loại.
Nhóm 1: Nhưng hồn nàng tựa con thuyền bé/ Đã đắm nghìn thu ở suối vàng (Viếng hồn trinh nữ), Trăm năm đầu bạc duyên còn thắm/ Tôi có ngờ đâu đến thế đâu (Trối trăng), Đuổi cả mối sầu muôn vạn kiếp/ Bẽ bàng tất cả những màu tươi (Bao nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã dành riêng để tặng nàng).
Nhóm 2: Mà nay lại khóc thêm lần nữa/ Nước mắt còn đâu buổi xế chiều (Viếng hồn trinh nữ), Uống đi…! Em uống cho say!/ Để trong mơ sống những ngày xuân qua (Rượu xuân), Chết dần tầng nấc rồi mai mốt/ Chết cả mùa xuân, chết cả đời? (Sao chẳng về đây).
Nhóm 3: Mưa chiều nắng sớm người ta bảo/ Cả đến ông trời cũng đổi thay (Trời mưa ở Huế), Sương chiều gió sớm bao đơn chiếc/ Bướm lại ong qua mấy ngậm ngùi (Oan nghiệt), Thiếp đi từ độ hoa sen nở/ Ngày nắng đêm sương cúc lại tàn (Tạ từ)
Những diễn đạt mang tính ước lệ nhìn chung sẽ dễ tạo ra sự mòn sáo và không còn mấy phù hợp với thi ca hiện đại. Nhưng với một số lượng vừa phải như những gì Nguyễn Bính đã trình bày, chúng tôi lại cho rằng đây là một thứ “gia vị” góp phần mang lại cho thơ Nguyễn Bính phong cách cổ điển, gần gũi với lời ăn tiếng nói của đông đảo quần chúng nhân dân, được độc giả của mọi lứa tuổi, trình độ dễ dàng tri nhận, nắm bắt, thấu hiều.
3.3. Một số tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc trong thơ Nguyễn Bính
Trong quá trình khảo sát và thống kê tư liệu, chúng tôi nhận thấy các sáng tác của Nguyễn Bính giai đoạn trước 1945 có thể quy về 3 chủ đề chính: những bài thơ về nông thôn và mối quan hệ nông thôn - thành thị, những bài thơ tình yêu và những bài thơ giang hồ phiêu lãng. Trong 3 khu vực sáng tác này, ở những bài thơ về nông thôn và mối quan hệ nông thôn thành thị nổi lên tín hiệu “vườn” - tín hiệu được trở đi trở lại một cách dày đặc trong các tác phẩm. Ở khu vực những bài thơ tình nổi lên tín hiệu thẩm mỹ “bướm” còn ở khu vực những bài thơ giang hồ phiêu lãng nổi lên tín hiệu thẩm mỹ “rượu”. Chúng tôi xem 3 tín hiệu này như những từ hạt nhân trong thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng, 3 tín hiệu này sẽ có vai trò như những từ chìa khóa (key words) để đi vào giải mã thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bính, đồng thời cũng cho ta thấy vẻ đẹp tài hoa của một bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ.
3.3.1. Tín hiệu thẩm mỹ “vườn”
Trong 272 bài thơ trước Cách mạng của Nguyễn Bính đã được chúng tôi khảo sát và thống kê, tín hiệu “vườn” xuất hiện tất cả 81 lần trong 35 bài thơ, tức là cứ đọc trung bình khoảng 3,3 bài thơ của Nguyễn Bính, ta lại một lần bắt gặp tín hiệu “vườn”. 81 lần xuất hiện khác nhau của “vườn” có thể được tổng kết và đưa về 4 loại cơ bản như sau:
Nhóm 1 là những trường hợp loại đi trước chủng đi sau, bao gồm: vườn hoa, vườn cải, vườn chè, vườn dâu, vườn cam, vườn đào, vườn cúc, vườn lê, vườn hồng, vườn mía, vườn mai, vườn cây. Trong nhóm này, vườn dâu có tần số cao nhất, xuất hiện trong 4 bài thơ: Cậy em em ở lại nhà/ Vườn dâu em đốn mẹ già em thương (Lỡ bước sang ngang), Nhà tôi có một vườn dâu/ Có giàn đỗ ván có ao cấy cần (Nhầm), Đem thân về ở vườn dâu cũ/ Buồn cũng như khi chị lấy chồng (Khăn hồng), Sao em đơn chiếc thế này?/ Sao em lại khóc như ngày chị đi…?/ Ở đây còn có vui gì!/ Vườn dâu xa vắng lối về chị xa (Thư cho chị). Tiếp đến là “vườn cam” và “vườn hồng” xuất hiện trong hai bài thơ: Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh/ Tôi đi dan díu với kinh thành (Hoa với rượu), Mưa cứ dằng dai thì đến sáng/ Vườn cam lại rụng ít hoa cam (Mưa), Thuyền thơ cập bến thơ rồi/ Rước con bướm trắng sang chơi vườn hồng (Đám cưới bướm), Vườn hồng cài nửa then trinh/ Tóc tơ nửa mối chung tình nửa đêm (Lòng kỹ nữ).
Các trường hợp còn lại mỗi loại xuất hiện trong một bài thơ, có khi xuất hiện một lần trong bài, có khi xuất hiện nhiều lần trong bài: Đời em là một vườn hoa nở/ Bướm hẹn về rồi bướm nói điêu (Bướm nói điêu), Hôm nay vườn cải hoa tàn hết/ Em hỡi từ nay hết bướm vàng (Hết bướm vàng), Sáng trăng chia nửa vườn chè/ Một gian nhà nhỏ đi về có nhau (Thời trước), Tôi say mơ thấy trăm vườn cúc/ Một sớm mùa thu nở cánh vàng (Cho tôi ly nữa).
Nhóm 2 là những trường hợp “vườn” kết hợp với một tính từ đi sau bổ nghĩa cho danh từ đi trước, bao gồm: vườn xác xơ, vườn hoang, vườn cũ, vườn vắng, vườn khuya: Ở nhà em nhớ mẹ thương/ Ba gian trống một mảnh vườn xác xơ (Lỡ bước sang ngang), Một thửa vườn hoang bên cạnh am/ Xương rồng, bãi cỏ lẫn rau sam/ Vườn này ngày nhỏ anh còn nhớ/ Đã nhảy qua tường trảy trộm cam (Vườn xưa), Xa rồi vườn cũ hoa cam rụng/ Gặp lại nhau chi muộn mất rồi (Hoa với rượu), Một bông cúc nở trong vườn vắng (Đôi nhạn), Vườn khuya sương lạnh vô vàn/ Lẻ loi, một mảnh trăng tàn về đâu? (Xin chớ hải đường)
Nhóm 3 là những trường hợp “vườn” đi với một danh từ, cụm danh từ hoặc đại từ ở phía sau, bao gồm: vườn trần, vườn xuân, vườn Thượng uyển, vườn ai, vườn nhà, vườn đất, vườn ngự, vườn Ngự uyển, vườn tiên, vườn Thanh, vườn tôi, vườn này, vườn Nam, vườn chiều: Rượu ái tình kia thành thuốc độc/ Vườn trần theo bướm phấn hương bay (Hoa với rượu), Vườn xuân trắng xóa hoa cam rụng/ Tôi với em Nhi kết vợ chồng (Hoa với rượu), Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển/ Là đây hoa cỏ giống vườn tiên (Xóm Ngự viên), Thiếp về Ải Bắc giăng đơn chiếc/ Chàng ở vườn Nam gió bạt ngàn (Tạ từ), Trọ bao nhiêu quán bên đường/ Nhưng không lần nữa qua vườn Thanh xưa (Dòng dư lệ)
Nhóm 4 là những trường hợp “vườn” hoạt động một cách tương đối độc lập. Có thể ghi nhận các mô hình ở khu vực này như: động từ + vườn (ra vườn, có vườn), tính từ + vườn (ngập vườn, đầy vườn), giới từ + vườn (trong vườn), danh từ + vườn (cây vườn) hoặc các trường hợp “vườn” hoạt động tự do khác: Nhà Nhi thuê có vườn không nhỉ?/ Vườn có giồng cam có nở hoa (Hoa với rượu), Vườn đầy hoa trắng như em ấy/ Bỗng một bà tiên hiển hiện ra (Truyện cổ tích), Em sang bắt bướm vườn anh mãi/ Quên cả làng Ngang động trống chèo (Hết bướm vàng)
Có thể nói, vườn trong thơ Nguyễn Bính như một thực thể có tính đại diện nhất của không gian nông thôn, không gian làng quê. Nhà thơ xuất thân từ nông thôn, ra đi cũng từ nông thôn, vườn vì thế vừa là hiện tại, vừa là quá khứ, vừa là điểm ra đi, vừa là chốn khát khao trở về. Tất cả những ký ức của thi nhân đều không tách rời khỏi vườn. Vườn gắn với tất cả những người yêu thương trong cuộc đời tác giả: người mẹ, người chị, người bạn gái thuở thiếu thời, những người yêu đã đi qua trong cuộc đời. Và khi phải đặt mình trong mối quan hệ giằng xé, hút đẩy giữa nông thôn - thành thị thì vườn luôn là không gian đầy ám ảnh, đầy day dứt như một tiếng vọng luôn réo gọi con người. Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao biểu tượng “vườn” lại được ưu ái như vậy và tác giả liệu muốn gửi gắm điều gì sâu xa dưới biểu tượng “vườn” ấy.
Như ta đã biết, thơ Nguyễn Bính là một đại diện của tiếng nói nông thôn mà vườn - ruộng là những không gian sản xuất điển hình đặc trƣng của nông thôn, nơi gắn bó sâu sắc với đời sống con người. Nhưng tại sao lại là vườn mà không phải là ruộng? Đứng ở góc độ thuần ngôn ngữ và mẫn cảm thi ca, dễ thấy từ vườn mang thanh huyền (thuộc nhóm thanh bằng) dễ gợi thi hứng và dễ xử lý về mặt ngữ âm (hài thanh, gieo vần) hơn từ ruộng mang thanh nặng (thuộc nhóm thanh trắc). Nhưng cái chính vẫn là nguyên nhân tư duy - văn hóa sâu xa nằm ở bên trong.
Ai cũng biết ẩn sâu trong cõi tâm linh của người Việt, hiện lên hình ảnh một dân tộc mang căn tính nông dân. Trước khi làm ruộng, tộc người này đã từng làm rẫy, làm nương. Khi họ tiến xuống chinh phục đồng bằng để làm lúa nước, ruộng trở thành không gian sản xuất chính, thì nương rẫy lùi lại phía sau, mang chức năng hoài niệm tín ngưỡng và được bảo lưu trong biến thể của nó là vườn. Ruộng vườn đi đôi với nông tang. Dễ thấy trong các biến thể vườn của thơ Nguyễn Bính thì vườn dâu có số lần xuất hiện cao nhất. Nhiều nhân vật nữ trong các bài thơ cũng hiện lên là những cô gái lao động chuyên nghề trồng dâu nuôi tằm (Đàn tôi, Thời trước, Nhầm, Áo anh). Như vậy, theo nguyên tắc của đời sống tâm linh, cái gì cổ sơ hơn thì thiêng liêng hơn. Mảnh vườn, nương dâu, Chức Nữ đương nhiên sẽ gần kề cội nguồn hơn thửa ruộng, Ngưu Lang. Với biểu tượng của nông thôn là vườn, thi nhân chẳng những đã quay về với nguồn cội như một nhu cầu giải thoát và bù đắp mà còn lồng được dân gian vào dân tộc, tạo ra hình ảnh một chân quê, tinh hoa chân truyền của nền văn minh thôn dã.
Tóm lại, vườn là một biểu tượng mà ẩn chứa sau nó không chỉ một tình yêu da diết với làng quê mà còn có cả một tình cảm dân tộc kín đáo trong cảnh nước nhà đang bị nô lệ. Cũng từ biểu tượng vườn, kéo theo một loạt các vấn đề mang tính trọng điểm trong thơ Nguyễn Bính, chẳng hạn mối giăng mắc giữa hai bờ nông thôn và thành thị, nông thôn Việt Nam có giữ được bản sắc của mình trước cuộc xâm lăng của văn minh đô thị hay không? Đó là những câu hỏi nhức nhối mà Nguyễn Bính đã đặt ra cho chúng ta cách đây hơn 70 năm mà cho đến lúc này vẫn còn nguyên giá trị.
3.3.2. Tín hiệu thẩm mỹ “bướm”
Trong 272 bài thơ trước Cách mạng của Nguyễn Bính đã đƣợc chúng tôi khảo sát và thống kê, tín hiệu “bướm” xuất hiện tất cả 75 lần trong 37 bài thơ, tức là cứ đọc trung bình 3,6 bài thơ của Nguyễn Bính, ta lại bắt gặp một lần tín hiệu “bướm” xuất hiện
Nếu như “vườn” là thực thể có tính chất “tĩnh” thì “bướm” là thực thể có tính chất “động” như một sự song hành tất yếu cùng “vườn”. Nhà thơ dùng 3 cách khác nhau để gọi tên cho “bướm” là: bướm, bươm bướm, điệp. Về định danh theo màu sắc có hai loại bướm cơ bản là bướm vàng (10 lần xuất hiện) và bướm trắng (cũng 10 lần xuất hiện).
Về định danh theo tính chất, có các loại bướm như: bướm xưa, bướm yêu, bướm lười, bướm xuân xanh, bướm già, bướm láng giềng, bướm giang hồ, bướm tiên, bướm non, bướm dại.
Tiếp theo là những lần “bướm” xuất hiện sau động từ với tư cách là đối thể chịu tác động hoặc cùng hoạt động, bao gồm: nuôi bướm, bắt bướm, nhập vào bướm, yêu dấu bướm, rước bướm, đón rước bướm, rắc bướm lên hoa, vườn trần theo bướm, thấy bướm, mơ đuổi bướm, chim nhắc bướm, bùa mê bướm. Bướm cũng một lần xuất hiện sau động từ tồn tại: Có hai chị bướm đi chơi chợ (Bướm đi chợ)
Trong những kết hợp danh từ + bướm, chúng tôi thấy có sự góp mặt của giấc bướm, lời bướm và chuyện bướm ong. Trong đó, chuyện bướm ong không phải là cách dùng mới song giấc bướm và lời bướm đích thực là những sáng tạo của Nguyễn Bính: Giấc bướm ngại sang đò bến lạnh (Mùa đông nhớ cố nhân), Gió chuyền lời bướm xuống nhân gian (Bao nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã dành riêng dể tặng nàng).
Cuối cùng là những trường hợp bướm xuất hiện với tư cách của chủ thể hành động. Cánh bướm ở đây thêm một lần nữa được hiện lên với các sắc màu vô cùng sinh động, thể hiện sự nhân cách hóa cao độ của nhà thơ trong việc tri nhận bướm với những hành động và cảm xúc của con người: lũ bướm tưởng hoa, bướm lại sang, bướm khép cánh, bướm hãy vào đây, bướm quả quyết yêu hoa, bướm vẽ vòng, bướm hẹn về, bướm nói điêu, bướm lại ong qua, bướm cánh nghiêng nghiêng, bướm vờn hoa, bướm rũ trăm năm, bướm tha phương, bướm cưới hoa hồng, bướm có bằng lòng, bướm dậy thì, bướm đi tu, bướm chê hoa vàng, bướm chẳng chung tình, bướm dạy nàng thêu, bướm lại đưa tin, bướm ra công vẽ bùa, bướm ủ hoa…
Ngoài ra, nhà thơ còn có những tưởng tượng kỳ ảo về thế giới của loài bướm để dựng nên một nước bướm, cũng còn gọi là một xứ bướm: Bao nhiêu xứ bướm qua lầu/ Nàng toan gieo quả kim cầu cho ai? (Lạy giời cấm cửa rừng mai)
Nước bướm của Nguyễn Bính dựng lên có Vua, có quan Thám hoa, có việc tổ chức khoa thi nên có những danh xưng như: Điệp lang khoa, vua nước bướm: Em ạ ngày xưa vua nước bướm/ Kén nhân tài mở Điệp lang khoa/ Vua không lấy Trạng vua thề thế/ Con bướm vàng tuyền đậu thám hoa (Truyện cổ tích)
Cánh bướm vốn là một sự vật rất tự nhiên, đời thường, dễ dàng bắt gặp ở nông thôn Việt Nam và được tri nhận như một nét đặc thù của làng quê, thậm chí của mỗi tuổi thơ chăn trâu bắt bướm: Những ngày trốn học/ Đuổi bướm cầu ao/ Mẹ bắt được/ Chưa đánh roi nào đã khóc (Quê hương - Giang Nam)
Thế nhưng, khi cánh bướm đi vào thơ Nguyễn Bính, nó đã được thổi thêm biết bao hồn vía để diễn tả vô vàn các sắc thái, cung bậc, tâm trạng, những đan xen giữa thực và mộng ảo, những hạnh phúc đợi chờ và mong nhớ nuối tiếc xót xa. Cánh bướm đã diễn tả muôn vàn khát khao của tâm hồn thi nhân, được phát triển và mở rộng biên độ ngữ nghĩa từ nghĩa đen cho đến những ý nghĩa ẩn dụ.
Đầu tiên, cánh bướm trong thơ Nguyễn Bính hiện lên như một vẻ đẹp của tự nhiên, của làng quê: Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng/ Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng (Xuân về), Mặt hồ vua đúc khối tiền sen/ Bươm bướm đông như đám rước đèn (Cuối tháng ba), Qua dậu tầm xuân thấy bướm nhiều/ Bướm vàng vàng quá bướm yêu yêu/ Em sang bắt bướm vườn anh mãi/ Quên cả làng Ngang động trống chèo (Hết bướm vàng). Con bướm gắn với những kỷ niệm ấu thơ của tác giả: Lá sen vương vấn hương sen ngát/ Ấp ủ đôi ta chút nhụy hờ/ Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc/ Theo về tận cửa mới tan mơ (Trường huyện)
Con bướm có thể là nhịp cầu, là phương tiện để nhà thơ gửi gắm những tình cảm của mình dành cho một người: Đường sang xứ ấy nhiều hoa lắm/ Nhi bắt cho tôi chiếc bướm vàng Nuôi bướm), Bướm ơi! bướm hãy vào đây/ Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi (Người hàng xóm)
Đến những biểu hiện về mặt ẩn dụ, con bướm trước hết là biểu tượng cho người con gái: Chị bây giờ nói thế nào/ Bướm tiên khi đã lọt vào vườn hoang (Lỡ bước sang ngang), Cành dâu cao lá dâu cao/ Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em/ Anh đi đèn sách mười niên/ Biết rằng bóng bướm có lên kinh thành (Bóng bướm).
Theo một logic hình tượng và mẫn cảm ngôn ngữ của tiếng Việt, có thể thấy việc dùng hình ảnh bướm để biểu thị cho người phụ nữ là điều hết sức bình thường. Thế nhưng, cái mới của Nguyễn Bính là dùng bướm để biểu thị cho chính người đàn ông mà trước hết là biểu thị cho chính mình: Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau (Tương tư), Thuở trước loài hoa chửa biết cười/ Vô tình con bướm trắng sang chơi/ “Khác nào tôi đã sang chơi đấy”/ Rước bướm dừng chân. Hoa hé môi (Hương cố nhân), Ai đem rắc bướm lên hoa/ Rắc bèo xuống giếng rắc ta vào nàng (Rắc bướm lên hoa)
Tiếp đến, bướm biểu thị cho đàn ông nói chung. Và trong mối quan hệ bướm - hoa, hoa thường chịu một kết cục chẳng ra gì hoặc hoa bị đánh giá là bội bạc: Đời em là một vườn hoa nở/ Bướm hẹn về rồi bướm nói điêu (Bướm nói điêu), Ai dạy nàng yêu? Có phải là…/ Nào ngờ hư đến thế là hoa/ Hoa đi đón rước bao nhiêu bướm/ Từ bướm xuân xanh đến bướm già (Hương cố nhân)
Khi con bướm đã không còn phân biệt về mặt biểu tượng là nam hay nữ thì lúc đó, có một sự hòa hợp để con bướm trở thành biểu tượng cho tình yêu lứa đôi. Tình yêu ấy có thể là một sự đơn phương: Có ai điên dại như tôi nhỉ/ Nuôi bướm làm con để nhớ người (Nuôi bướm). Tình yêu ấy có thể là một ước mơ, khát khao hạnh phúc đã trôi qua tầm tay, không bao giờ có được: Đêm qua mơ thấy hai con bướm/ Khép cánh tình chung ở giữa trời (Hết bướm vàng). Tình yêu ấy cũng có thể là một sự nuối tiếc và ân hận: Hồn trinh còn ở trần gian/ Nhập vào bướm trắng mà sang bên này (Người hàng xóm). Sau cùng, con bướm là biểu tượng của những gì tàn phai, không lấy lại được: Rượu ái tình kia thành thuốc độc/ Vườn trần theo bướm phấn hương bay (Hoa với rượu), Lâu nay có một người du khách/ Gió bụi mang về xóm Ngự viên/ Giậu đổ dây leo suồng sã quá/ Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng (Xóm Ngự viên)
Trong một cảm quan truyền thống, Nguyễn Bính cũng dùng bướm cho những ẩn dụ quen thuộc chỉ về chuyện quan hệ nam nữ như “chuyện bướm ong”, hay “bướm lại ong qua”: Cố nhân chẳng biết làm sao ấy/ Rặt những tin đồn chuyện bướm ong (Xuân tha hương), Bướm lại ong qua mấy ngậm ngùi (Oan nghiệt)
Nhìn chung, cánh bướm trong thơ Nguyễn Bính luôn được đặt trong mối quan hệ với tình yêu, trở thành biểu tượng của tình yêu và thể hiện một nhân sinh quan về tình yêu. Trong hầu hết các lần xuất hiện, cánh bướm trong các thi phẩm của Nguyễn Bính đều mang tính bi kịch. Nếu không phải là những thân phận tàn tạ (Bướm tiên khi đã lọt vào vườn hoang, Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng) thì cũng là những tình yêu dở dang, thiếu vắng, không trọn vẹn. Trong một hồi tưởng về tình yêu thuở học trò, ta có một chuyện bướm xưa (bài Trường huyện), trong nỗi nhớ quắt quay, ta có hành động nuôi bướm làm con để nhớ người (bài Nuôi bướm), trong giấc mơ về một tình yêu, thi nhân mơ thấy hai con bướm, khép cánh tình chung ở giữa trời, trong bi kịch của một chuyện tình, nhà thơ lại nguyện cầu: Hồn trinh còn ở trần gian/ Nhập vào bướm trắng mà sang bên này. Ngay chính bản thân mình, Nguyễn Bính cũng tự cho là một cánh bướm giang hồ (bài Tương tư). Và những cánh bướm cũng là sự gian dối (bướm nói điêu), sự đổi thay (Vườn trần theo bướm phấn hương bay). Tóm lại, trong thơ Nguyễn Bính, cánh bướm đồng nghĩa với sự mong manh, không vĩnh viễn.
Không chỉ đối với Việt Nam mà trong tâm thức của các quốc gia thuộc văn hóa phương Đông, cánh bướm cũng là biểu tượng cho sự mong manh, sự nhẹ dạ và sự không chung thủy. Kinh Bhagavad Gitâ của Ấn Độ viết: “Giống như những con bướm vội vã lao vào cái chết trong ngọn lửa sáng chói, loài người cũng chạy lao tới sự tiêu vong”.
Trong văn hóa Nhật Bản, cánh bướm là những vong linh phiêu lãng, chúng báo hiệu có người đến thăm hoặc có người thân thuộc chết. Trong triết học Trung Hoa, hẳn chúng ta không thể quên chuyện Trang Tử nằm mơ hóa bướm, lúc tỉnh dậy không biết mình là bướm hay bướm là mình. Còn đối với Việt Nam, cánh bướm dễ liên tưởng tới người phụ nữ với xuân sắc chỉ có một thời: Bướm vàng đậu trái mù u/ Lấy chồng càng sớm lời ru càng buồn (Ca dao)
Tóm lại, giống như nhiều thi nhân khác của thời kỳ Thơ mới, Nguyễn Bính tìm đến tình yêu như một cứu cánh nhưng ngay từ đầu đã biết trước được về tương lai của nó. Điều này khác với các nhà Thơ Mới khác, ngập sâu vào tình yêu rồi mới biết tình yêu cũng không thể cứu vớt được mình: Trăng sáng trăng xa trăng lạnh quá/ Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ (Xuân Diệu), Giật mình ta thấy bồ hôi lạnh/ Mộng đẹp bên chăn đã biến rồi (Lưu Trọng Lư), Trời hỡi làm sao cho khỏi đói/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn/ Làm sao giết được người trong mộng/ Để trả thù duyên kiếp phũ phàng (Hàn Mặc Tử)
Nằm chung trong bi kịch mất niềm tin của tầng lớp tri thức tiểu tư sản đương thời và tìm đến tình yêu như một ốc đảo để trú mình, chỉ Nguyễn Bính ngay từ đầu sớm nhận ra rằng, bản chất của tình yêu là mong manh, không vĩnh viễn, cái đẹp nhất thì đã trôi qua và không sao lấy lại được, còn lại chỉ là những dối trá, lọc lừa, ảo mộng, cái chết và cô đơn.
3.3.3. Tín hiệu thẩm mỹ “rượu”
Con người thi ca của Nguyễn Bính vốn có hai sự gắn bó, đó là làng quê và tình yêu đôi lứa. Nhưng với tình yêu, ngay từ sớm thi nhân đã nhận ra bản chất mong manh. Làng quê thì đầy biến động trước sự chuyển mình của thời cuộc, luôn đứng trước nguy cơ bị mất đi bản sắc văn hóa. Con người vì thế xuất hiện sự lựa chọn thứ ba là Ra Đi như để tìm thêm những đối chứng với quê hương và tình yêu. Và trong sự Ra Đi ấy, Rượu được tìm đến như mốt sự tất yếu. Sự tất yếu ấy nằm trong hai quan niệm: Rượu là tinh hoa của trời đất và uống rượu có thể giúp quên sầu. Thấm đẫm một văn hóa Đông phương trong mình, Nguyễn Bính hẳn đã từng đọc Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Hàn, Lý Hạ để in dấu trong hồn những áng tửu thi: Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch/ Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh (Anh hùng nằm dưói cỏ xanh/ Những người uống rượu lưu danh muôn đời) (Lý Bạch), Khuyến quân chung nhật minh đính túy/ Tửu bất đáo Lưu Linh phần thượng thổ (Xin anh say tít đất trời/ Rượu đâu tới được mộ người Lưu Linh) (Lý Hạ), Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi/ Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi/ Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu/ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi (Vương Hàn).
Và như thế, rượu đã trở thành tín hiệu thẩm mỹ quan trọng thứ ba trong những sáng tác trước Cách mạng của Nguyễn Bính. Trong 272 bài thơ được khảo sát, thống kê, có đến 51 lần tín hiệu “rượu” xuất hiện trên tổng số 25 bài thơ. Như vậy, cứ đọc trung bình 5,2 bài thơ của Nguyễn Bính, tín hiệu rượu lại xuất hiện. Rượu có thể nói như một cái gì gắn bó với thi nhân từ thuở ấu thơ và càng về sau, trên bước đường giang hồ gió bụi, khi đã cách xa vườn và bướm, rượu càng là nơi để con người trút những nỗi niềm tâm sự, những nỗi sầu cô đơn, những nỗi nhớ nhung quay quắt về một bóng hình. Nếu coi “rượu” là một hằng thể trong cấu trúc của tín hiệu thẩm mỹ thì “say” chính là biến thể tiêu biểu nhất của hằng thể ấy. Tương ứng với 51 lần xuất hiện từ “rượu” trong các thi phẩm trước Cách mạng của Nguyễn Bính, chúng tôi thống kê được có tới 45 lần từ “say” xuất hiện. Có thể nói, “say” biểu thị một “nhân sinh quan” về rượu của Nguyễn Bính. Không phải vô cớ mà con người tìm đến rượu nên trong tất cả những lần phải dùng rượu như một phương tiện, thi sĩ dường như đều muốn đạt tới điểm tận cùng trong một sự nâng ly: Cho tôi ly nữa thêm ly nữa/ Uống thật say rồi nhớ cố nhân (Cho tôi ly nữa), Thà cứ về đây ngồi giữa chợ/ Uống say rồi gọi thế nhân ơi (Hành phương Nam), Hôm qua còn sót hơn đồng bạc/ Hai đứa bàn nhau uống rượu say (Giời mưa ở Huế), Em sẽ uống say hơn mọi bận/ Để hồn về mãi xứ Hà Đông (Xuân tha hương).
Cái say của Nguyễn Bính có thể nói là cái say đi từ vô tình đến hữu tình, từ vô thức đến hữu thức. Sở dĩ có thể nói như thế vì tất cả những cơn say trên bước đường giang hồ sau này, dường như đã đƣợc bắt đầu từ chén rượu uống cùng cô bạn gái thuở ấu thơ: Một tối nhà Nhi có giỗ thầy/ Chị Nhi cho uống rượu cay cay/ Chừng đâu chén nhỏ làm hai đứa/ Mặt đỏ lên rồi chếnh choáng say (Hoa với rượu).
Trong những cơn say hữu thức sau này, thi nhân đã có lần mơ về rượu như một niềm hạnh phúc, mong sống lại những tháng ngày đã đi qua. Thế nên trong nửa sau của bài Hoa với rượu, người đã tưởng tượng ra cái cảnh uống rượu cùng cố nhân, tội nghiệp hơn nữa là phải tưởng tượng ra cả cái say - cơn say trong niềm hạnh phúc: Ngồi bên lò rượu đêm hôm đó/ Nhi rót đưa tôi chén rượu đầu/ Nhắc lại thời xưa mà thẹn lại/ Ngậm ngùi hai đứa uống chung nhau…/ Rượu cất kỳ ngon men ủ khéo/ Say người thiên hạ lại say nhau/ Chiều chiều hai đứa sang thăm chị/ Chồng hái hoa cho vợ dắt đầu.
Rõ ràng hai chữ say trong đoạn thơ vừa trích khác hẳn với tất cả những chữ say còn lại trong các bài thơ rượu của Nguyễn Bính. Nhưng rồi thoát khỏi giấc mơ, trở về với thực tại, thi nhân nhận ra rằng chén rượu bay giờ chỉ là: Hoa hết thơm rồi rượu hết cay. Trong những lần nào uống rượu mà không thể đạt đến cõi say, chắc chắn lần đó đang có một bi kịch xảy đển trong tâm hồn con người: Rượu chẳng say cho đèn cũng lụi (Tết biên thùy), Đời chưa thành đạt say gì rượu ngon (Nửa đêm)
Trong những lần nhắc đến “rượu” và “say”, hình ảnh “rượu hồng” đã lặp đi lặp lại trong thơ Nguyễn Bính như một ám ảnh. Phải chăng, “rượu hồng” như sự phản ánh thầm kín về một ước mơ hạnh phúc, ước mơ của lứa đôi mà con người cưa bao giờ đạt được. Và trong tất cả những lần nhắc đến rượu hồng, đều thấp thoáng bóng hình của một người con gái. Chúng tôi thống kê có tới 6 lần “rượu hồng” xuất hiện, chiếm tỷ lệ tới 12% những lần nhắc đến rượu trong thơ Nguyễn Bính: Người ta pháo đỏ rượu hồng/ Mà trên hồn chị một vòng hoa tang…/ Rượu hồng em uống cho say/ Vui cùng chị một vài giây cuối cùng (Lỡ bước sang ngang), Rượu hồng đẫm những màu ân ái…/ Rượu hồng pha lệ pha chua chát (Bao nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã dành riêng để tặng nàng), Tết này ồ thế mà vui chán/ Những một mình em uống rượu hồng (Xuân tha hương), Cao tay nâng chén rượu hồng/ Mừng em: em sắp lấy chồng xuân nay (Rượu xuân)
Trong những nhà Thơ Mới, lẽ dĩ nhiên Nguyễn Bính không phải người duy nhất có thơ về rượu. Trần Huyền Trân, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Vỹ và đặc biệt Vũ Hoàng Chương có cả một tập Thơ say: Cụ hâm rượu nữa đi thôi/ Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu/ Rồi lên ta uống với nhau/ Rót đau lòng ấy vào đau lòng này (Uống rượu với Tản Đà - Trần Huyền Trân), Chén lại chén kề môi thủ thỉ/ Chén càng vơi túy lúy càng đầy (Giang hồ - Lưu Trọng Lư), Say đi em! Say đi em!/ Say cho lơi lả ánh đèn/ Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt/ Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết!/ Ta quá say rồi/ Sắc ngã màu trôi (Say đi em - Vũ Hoàng Chương), Cho nên tôi buồn không biết mấy/ Đời còn nhố nhăng ta chịu vậy/ Ngồi buồn lấy rượu uống say sưa/ Bậc chí thành say mấy cũng vừa (Gửi Trương Tửu - Nguyễn Vỹ)
Thế nhưng, chỉ có ở Nguyễn Bính, chén rượu mới hiện lên với phong vị giang hồ đậm nét nhất: Giang hồ sót lại mình tôi/ Quê người đắng khói quê người cay men (Anh về quê cũ), Son sắt say hoài rượu viễn phương (Xuân vẫn tha hương), Một đêm lữ thứ em say rượu cần (Thư cho chị)
Tất cả những cơn say trong thơ Nguyễn Bính hầu như đều diễn ra trên bước đường giang hồ của nhà thơ. Lúc thì say trong cuộc hành phương Nam, lúc thì say trên bước đường dừng chân ở Huế, lúc thì say trong một mùa xuân tha hương, lúc thì say chén quan hà bên một trời quan tái, lúc thì say với cái Tết ở biên thùy… Một điểm nổi lên trong những vần thơ say của Nguyễn Bính là nhà thơ thường “trình bày” một điệu thở than, yếu đuối. Hơn một lần rượu trong thơ Nguyễn Bính gắn với lệ, với nước mắt: Rượu hồng pha lệ pha chua chát (Bao nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã dành riêng để tặng nàng), Chân trời rượu uống môi chàng ướt/ Cửa sổ mưa bay lệ thiếp nhòa (Bốn mùa thương nhớ), Em không khóc nữa không than nữa/ Đây một bài thơ hận cuối cùng/ Không than chắc hẳn hồn tươi lại/ Không khóc tha hồ đôi mắt trong/ Chị ơi em cưới mùa xuân nhé/ Đốt pháo cho thơm với rượu hồng (Xuân tha hương), Nhiều lần còn lại là sự ủ ê chán chường:
Nhưng mộng mà thôi mộng mất thôi/ Hoa thừa rượu ế ấy tình tôi (Hoa với rượu), Chén rượu tha hương. Giời! đắng lắm/ Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông (Xuân tha hương). Như thế, trong những vần thơ viết về rượu, Nguyễn Bính có sự gặp gỡ nhiều nhất với Vũ Hoàng Chương ở chỗ thể hiện một thái độ chán chường và bất bình với thực tại. Nhưng Vũ Hoàng Chương mạnh mẽ hơn vì còn có một chất “cuồng”, Nguyễn Bính yếu đuối hơn, không còn giữ được chất giang hồ ngạo nghễ khí phách của Tản Đà xưa kia: Tài cao phận thấp chí khí uất/ Giang hồ mê chơi quên quê hương (Thăm mả cũ bên đường - Tản Đà)
Một điểm thú vị khác trong những vần thơ rượu của Nguyễn Bính là nhà thơ đã nhiều lần tả rượu rất thành công qua một lăng kính khác. Trong những nhà Thơ mới đương thời cùng có những vần thơ về rượu và say, có thể thấy đây là chỗ nổi bật của Nguyễn Bính. Chẳng hạn, Nguyễn Bính từng một lần tả rượu qua mưa và để lại một câu tuyệt bút: Sầu nghiêng mái lá mưa tong tả/ Chén ứa men lành lạnh ngón tay (Giời mưa ở Huế). Lần khác, nhà thơ tả rượu và cơn say qua tiếng cười: Uống say cười vỡ ba gian gác/ Quẳng cái chung tình xuống đáy sông (Xuân tha hương). Một bài thơ đặc biệt của Nguyễn Bính là bài Một con sông lạnh. Thi phẩm gây ấn tượng cho người đọc ở chỗ viết về một cơn say hòa trong âm thanh của tiếng đàn mà không hề phải dùng đến một chữ “rượu” nào: Rung rung ánh nến hoen vàng/ Hơi men lắng xuống, tiếng đàn cao lên/ Ô, nàng chẳng phải là em/ Tôi nghe vó ngựa hòa Phiên rộn ràng/ Đừng em, - quên đấy - thôi nàng/ Đất Hồ xa quá nàng sang sao đành/ Trời ơi, Hán đế vô tình/ Tôi xin đốt cả kinh thành ấy đi.
Vườn, bướm và rượu rõ ràng không phải là những đặc quyền thuộc về riêng thế giới thơ Nguyễn Bính, nhưng bằng sự tài hoa ngôn từ của người nghệ sĩ và được nung nóng bởi một dòng cảm xúc tuôn trào, vườn - bướm - rượu đã trở thành một bộ ba để giải mã những thi phẩm của Nguyễn Bính trước Cách mạng. Vườn - bướm - rượu đã không chỉ còn là nó mà chúng đã được thổi vào đấy những mạch ngần của tư duy, của văn hóa, của một thế giới quan và nhân sinh quan. Nằm chung trong một tâm thế của những thi nhân tiền chiến rơi vào bi kịch mất niềm tin, Nguyễn Bính đã gửi gắm một tình cảm chan chứa với đất nước qua tín hiệu thẩm mỹ “vườn”, thể hiện một cái nhìn bi quan và yếm thế về tình yêu qua tín hiệu “bướm” và thể hiện một sự yếu đuối - bế tắc qua tín hiệu thẩm mỹ rượu. Chúng ta có thể đi đến một bức tranh chung như sau về hệ thống các tác phẩm trước Cách mạng của Nguyễn Bính thông qua lăng kính 3 tín hiệu thẩm mỹ vườn - bướm - rượu:
Bảng 3.15: Thế giới nghệ thuật Nguyễn Bính qua ba tín hiếu thẩm mỹ đặc sắc:
Tóm lại, vườn - bướm - rượu là 3 tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc trong những thi phẩm trước Cách mạng của nhà thơ tiền chiến Nguyễn Bính. Qua đây, ta không chỉ thấy được sự tài hoa của ông đứng từ phương diện ngôn từ mà còn thấy được những đặc điểm - xu thế chung của nền văn học dân tộc trong một bức tranh toàn cảnh nửa đầu thế kỷ XX.
3.4. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ con người trong thơ Nguyễn Bính Trong 272 thi phẩm của Nguyễn Bính có một số lượng lớn các yếu tố ngôn ngữ chỉ con người/ nhân vật mà theo chúng tôi có một giá trị không nhỏ trong việc tạo dựng một bức tranh toàn cảnh về thế giới thơ của thi sĩ chân quê. Các nhân vật được chúng tôi chia thành hai tuyến chính là nam và nữ, ở đó, ta sẽ thấy hiện lên không khí vừa cổ điển, vừa hiện đại, vừa quê mùa rất đặc trưng của Nguyễn Bính.
Ở tuyến nhân vật nam giới, các yếu tố ngôn ngữ chiếm tần số cao nhất là: tôi (486 lần), anh (164 lần), em (trong tương quan với chị: 113 lần), chàng (43 lần). Bên cạnh đó còn có các đơn vị khác với tần số ít hơn, nhưng góp phần quan trọng để gợi nên không khí vừa cổ kính, vừa quê mùa trong thơ Nguyễn Bính. Đó là các đơn vị: quan Trạng/ Trạng Nguyên (14 lần), Thám hoa (2 lần), anh khóa (1 lần), anh lái đò (1 lần), lão bộc (2 lần), tráng sĩ (2 lần), cha/ bố (23 lần), chồng (17 lần)
Ở tuyến các nhân vật nữ giới, chiếm tần số cao nhất là các đơn vị: nàng (186 lần), em (169 lần), chị (151 lần), cô/ cô gái/ cô trinh nữ/ cô nữ/ cô mình/ cô tình nhân/ cô con gái (64 lần). Tiếp đó là vô số các đơn vị chỉ nhân vật nữ với những tần số thấp hơn nhưng góp phần làm nên một bức tranh nhiều màu sắc, sống động trong thơ Nguyễn Bính: cô thợ nhuộm (1 lần), cô lái đò (8 lần), cô hái mơ (6 lần), cô lối xóm (4 lần), cô hàng xóm (4 lần), cô bán rƣợu (1 lần), thiếu nữ (1 lần), thôn nữ (1 lần), thục nữ (2 lần), mỹ nhân (3 lần), giai nhân (5 lần), thiếu phụ (3 lần), thiếp (8 lần), mỹ nữ (1 lần), công chúa (6 lần), cung nữ (4 lần). Ngoài ra phải kể đến các nhân vật nữ được xuất hiện qua tên riêng với tổng tần số 77 lần, gồm các tên: Oanh (24 lần), Thơ (2 lần), Nhi (29 lần), Diễm (3 lần), Mai Thơ (1 lần), chị Trúc (3 lần) Yến (1 lần), Tú Uyên (6 lần), Dung (3 lần), Uyển (1 lần), Uyên (1 lần), Nhâm (3 lần).
Ngoài 2 tuyến nhân vật chính là nam và nữ, còn có các đơn vị ngôn ngữ chỉ nhân vật mang tính song giới: thầy mẹ (8 lần), mẹ cha (3 lần), thầy u (1 lần).
Hệ thống các yếu tố ngôn ngữ chỉ người/ nhân vật được sơ kết qua bảng dưới đây:
Bảng 3.16: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ người trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Qua bảng trên, có thể thấy khá nhiều điều thú vị về hệ thống các đơn vị chỉ người/ nhân vật trong thơ Nguyễn Bính. Nếu như các định danh chỉ các nhân vật nam giới chỉ có 12 đơn vị thì số định danh chỉ nữ giới áp đảo gần như gấp đôi với 23 định danh. Trong mối tương quan giữa cha/ bố (23) và mẹ/u (50) cũng có sự chênh lệch rất lớn. Điều đó chứng tỏ một thiên hướng về “tính nữ” trong thơ Nguyễn Bính. Đối chiều với tiểu sử nhà thơ, ta biết được thi sĩ mồ côi mẹ từ lúc 3 tháng tuổi, nên khát khao tình mẹ, khát khao sự yêu thương của một “tính nữ” luôn là điều cháy bỏng. Dễ hiểu vì sao từ ngôi mẹ đã có sự chuyển vị sang chị để từ đó, Nguyễn Bính có tới 7 bài thơ gắn với hình ảnh người chị, mà chị Trúc đã trở thành một biểu tượng tinh thần trong thơ Nguyễn Bính, gắn với những vỗ về, an ủi, sẻ chia, làm dịu đi khát khao một bóng hình người nữ mà không phải là tình trai gái. Bên cạnh đó, các định danh chỉ nhân vật nữ vô cùng phong phú cũng ít nhiều phản ánh chất đa tình đa cảm trong con người thi sĩ. Những cô gái quê hiện lên gắn với nhiều công việc của nông thôn như: lái đò, nhuộm vải, trồng dâu nuôi tằm, chạy chợ, bán rượu, hái mơ, may áo… đã góp phần tạo ra một đặc trưng đậm chất nông thôn Bắc Bộ không thể trộn lẫn trong thơ Nguyễn Bính. Sự xuất hiện của cặp xưng hô anh - em trong những bài thơ tình như một điều tất yếu, nằm trong xu thế chung, không khí chung của thơ lãng mạn đương thời. Nhưng điểm đặc biệt ở Nguyễn Bính là định danh “nàng” (186 lần) lại có tần số vượt trội hơn hẳn định danh “em” (169 lần). Điều này tạo nên một phong vị cổ điển riêng trong thơ Nguyễn Bính. Chất cổ điển càng trở nên đậm nét khi vây quanh định danh “nàng” là một loạt các định danh khác cùng “gam” như: mỹ nhân, giai nhân, thiếu phụ, thiếp, mỹ nữ, công chúa, cung nữ.
So sánh với thơ Xuân Diệu trước Cách mạng, ta sẽ thấy tình hình khác hẳn nhau. Trong 96 bài thơ thuộc hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió, định danh “em” chiếm tần số cao nhất với 123 lần, trong khi đó định danh “nàng” chỉ 8 lần xuất hiện. Ngược lại, Xuân Diệu lại có một định danh mà ta không bắt gặp ở thơ Nguyễn Bính, đó là “người yêu” với tần số 4 lần. “Thiếu nữ” trong thơ Xuân Diệu cũng xuất hiện nhiều hơn Nguyễn Bính với tần số 6 lần. Bảng tổng kết các định danh chỉ nhân vật nữ trong thơ Xuân Diệu trước Cách mạng như sau:
Bảng 3.17: Các định danh chỉ nhân vật nữ trong thơ Xuân Diệu trước 1945:
Cũng qua việc khảo sát các định danh xưng gọi, chỉ người trong thơ Nguyễn Bính, ta thấy được sự linh hoạt mềm dẻo sáng tạo của nhà thơ khi thiết lập các cặp từ chỉ người nam - người nữ trong mối quan hệ luyến ái. Có tới 10 cặp định danh theo nội dung này, cụ thể như sau: anh - em, chàng - nàng, tôi - nàng, tôi - cô, tôi - vợ, chàng - em, nàng - chồng, chồng - tôi (vợ), vợ - chồng, mợ - tôi.
Mỗi cặp trên xin được dẫn một ví dụ tiêu biểu: Chiều qua lạnh quá, anh buồn quá/ Anh đến phòng em lặng như tờ (Một người phóng đãng), Nàng đã qua đời để tối nay/ Có chàng đi hứng gió heo may (Viếng hồn trinh nữ), Nàng đến thăm tôi một buổi chiều/ Những mong chắp nối lại thương yêu (Thôi nàng ở lại), Tôi muốn mùi thơm của nước hoa/ Mà cô thường xức đừng bay xa (Ghen), Tôi về dạm vợ là xong/ Vợ người làng, vợ xóm Đông, quê mùa (Cưới vợ), Tội nghiệp cho chàng quá mất thôi!/ Bao nhiêu đêm khóc bởi em rồi! (Nhớ thương ai…), Nàng cùng chồng mới nàng về/ Rồi cùng chồng mới nàng đi theo chồng (Cưới vợ), Vì tằm tôi phải chạy dâu/ Vì chồng, tôi phải dầu hao bấc gầy (Thời trước), Ta sẽ là vợ chồng/ Sẽ yêu nhau mãi mãi (Hôn nhau lần cuối), Sum họp đôi ta chốc bấy lâu/ Tình tôi với mợ tưởng cùng nhau (Trối trăng)
3.5. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bính Trong những phần trước, chúng tôi cũng đã bàn tới khá nhiều yếu tố thuộc về thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bính, chẳng hạn các tín hiệu thẩm mỹ vườn, bướm, các biểu tượng thể hiện thời gian ban ngày, ban đêm, các biểu tượng gắn với thời gian của năm, một số biểu tượng thuộc không gian nghệ thuật. Ở phần này, chúng tôi tập trung khảo sát các yếu tố ngôn ngữ chỉ thiên nhiên khác, góp phần tạo nên những nét riêng biệt trong thơ Nguyễn Bính, làm nên phong cách không trộn lẫn của ông. Các yếu tố chỉ thiên nhiên được chia thành hai khu vực là các yếu tố chỉ thực vật và các yếu tố chỉ động vật.
3.5.1. Các yếu tố chỉ thực vật
Có tất cả 32 yếu tố chỉ thực vật được tổng kết trong phần này và hiển thị qua bảng dưới đây:
Bảng 3.18: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thực vật trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Qua bảng tổng kết trên, có thể nhận thấy, tuy không có yếu tố thực vật nào xuất hiện với tần số quá lớn, nhưng tựu trung lại, vẫn cho ta một bức tranh thật phong phú, sống động về hình ảnh nông thôn Việt Nam. Có tới 15 loại hoa khác nhau đã đi vào thơ Nguyễn Bính, trong đó những loài hoa xuất hiện với tần số cao nhất là: hoa cam, hoa xoan, hoa gạo, hoa cau. Trong số này, những câu thơ về hoa xoan của Nguyễn Bính thành công một cách kỳ lạ, dường như đã vượt thoát khỏi tác phẩm để tự hình thành cho mình một đời sống riêng. Nhiều người không thuộc hết bài Mưa xuân nhưng những câu thơ về hoa xoan lại không bao giờ quên: Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy (…) Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày. So sánh với một nhà thơ cũng đậm chất nông thôn, cùng thời với Nguyễn Bính là Đoàn Văn Cừ, chúng ta hẳn sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng, trong tất cả 12 bài thơ sáng tác trước Cách mạng (Chợ tết, Nắng xuân, Bình minh, Hè, Thu, Đường về quê mẹ, Những nỗi lo sợ phập phồng, Cháy nhà, Đám chết nghèo, Đám cưới mùa xuân, Đám hội, Trăng hè), không hề có một loài hoa nào đi vào thơ của thi sĩ họ Đoàn dù thơ ông rất chuộng màu sắc. Khảo sát thêm 19 bài thơ viết sau Cách mạng trong tập Thôn ca của Đoàn Văn Cừ, chúng tôi cũng chỉ bắt gặp 3 loài hoa, mỗi loại xuất hiện đúng một lần là: hoa đào, hoa mận và hoa hồng.
Trở lại với bảng các yếu tố chỉ thực vật trong thơ Nguyễn Bính, tre và cam là hai loại xuất hiện với tần số cao nhất (7 lần), trong đó, tre từ xưa tới nay vẫn được coi là một loại cây đặc thù của nông thôn Bắc Bộ, thậm chí có khả năng trở thành biểu tượng cho người Việt Nam. Thế nên việc tre là loại thực vật chiếm tần số ở hàng cao nhất trong thơ Nguyễn Bính cũng là điều có thể hiểu được: Có hai cô bé học trò/ Xem con kiến gió đi đò lá tre (Bên sông), Hôm nay nắng đã về đây/ Hôm nay nắng đã về cây tre vàng/ Lá tre rơi xuống đường làng/ Lá tre rơi xuống vai nàng đi qua (Đường làng). Bên cạnh đó, phải kể đến “mùng tơi” cũng xuất hiện như một “đặc sản” trong thơ Nguyễn Bính, không hề gặp trong thơ của những nhà thơ đậm chất nông thôn cùng thời như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân. Cũng giống như hoa xoan, chất điển hình của “mùng tơi” trong thơ Nguyễn Bính mạnh đến nỗi có thể thoát ly tác phẩm để trở thành một biểu tượng về hàng xóm láng giềng, những người cùng “chung giậu mồng tơi”: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn (…) Giá đừng có giậu mùng tơi/ Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng (Người hàng xóm), Từ dạo mùng tơi thôi trổ lá/ Thì cô hàng xóm cũng thôi sang (Vườn hoang)
Có thể nói, vườn trong thơ Nguyễn Bính như một thực thể có tính đại diện nhất của không gian nông thôn, không gian làng quê. Nhà thơ xuất thân từ nông thôn, ra đi cũng từ nông thôn, vườn vì thế vừa là hiện tại, vừa là quá khứ, vừa là điểm ra đi, vừa là chốn khát khao trở về. Tất cả những ký ức của thi nhân đều không tách rời khỏi vườn. Vườn gắn với tất cả những người yêu thương trong cuộc đời tác giả: người mẹ, người chị, người bạn gái thuở thiếu thời, những người yêu đã đi qua trong cuộc đời. Và khi phải đặt mình trong mối quan hệ giằng xé, hút đẩy giữa nông thôn - thành thị thì vườn luôn là không gian đầy ám ảnh, đầy day dứt như một tiếng vọng luôn réo gọi con người. Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao biểu tượng “vườn” lại được ưu ái như vậy và tác giả liệu muốn gửi gắm điều gì sâu xa dưới biểu tượng “vườn” ấy.
Như ta đã biết, thơ Nguyễn Bính là một đại diện của tiếng nói nông thôn mà vườn - ruộng là những không gian sản xuất điển hình đặc trƣng của nông thôn, nơi gắn bó sâu sắc với đời sống con người. Nhưng tại sao lại là vườn mà không phải là ruộng? Đứng ở góc độ thuần ngôn ngữ và mẫn cảm thi ca, dễ thấy từ vườn mang thanh huyền (thuộc nhóm thanh bằng) dễ gợi thi hứng và dễ xử lý về mặt ngữ âm (hài thanh, gieo vần) hơn từ ruộng mang thanh nặng (thuộc nhóm thanh trắc). Nhưng cái chính vẫn là nguyên nhân tư duy - văn hóa sâu xa nằm ở bên trong.
Ai cũng biết ẩn sâu trong cõi tâm linh của người Việt, hiện lên hình ảnh một dân tộc mang căn tính nông dân. Trước khi làm ruộng, tộc người này đã từng làm rẫy, làm nương. Khi họ tiến xuống chinh phục đồng bằng để làm lúa nước, ruộng trở thành không gian sản xuất chính, thì nương rẫy lùi lại phía sau, mang chức năng hoài niệm tín ngưỡng và được bảo lưu trong biến thể của nó là vườn. Ruộng vườn đi đôi với nông tang. Dễ thấy trong các biến thể vườn của thơ Nguyễn Bính thì vườn dâu có số lần xuất hiện cao nhất. Nhiều nhân vật nữ trong các bài thơ cũng hiện lên là những cô gái lao động chuyên nghề trồng dâu nuôi tằm (Đàn tôi, Thời trước, Nhầm, Áo anh). Như vậy, theo nguyên tắc của đời sống tâm linh, cái gì cổ sơ hơn thì thiêng liêng hơn. Mảnh vườn, nương dâu, Chức Nữ đương nhiên sẽ gần kề cội nguồn hơn thửa ruộng, Ngưu Lang. Với biểu tượng của nông thôn là vườn, thi nhân chẳng những đã quay về với nguồn cội như một nhu cầu giải thoát và bù đắp mà còn lồng được dân gian vào dân tộc, tạo ra hình ảnh một chân quê, tinh hoa chân truyền của nền văn minh thôn dã.
Tóm lại, vườn là một biểu tượng mà ẩn chứa sau nó không chỉ một tình yêu da diết với làng quê mà còn có cả một tình cảm dân tộc kín đáo trong cảnh nước nhà đang bị nô lệ. Cũng từ biểu tượng vườn, kéo theo một loạt các vấn đề mang tính trọng điểm trong thơ Nguyễn Bính, chẳng hạn mối giăng mắc giữa hai bờ nông thôn và thành thị, nông thôn Việt Nam có giữ được bản sắc của mình trước cuộc xâm lăng của văn minh đô thị hay không? Đó là những câu hỏi nhức nhối mà Nguyễn Bính đã đặt ra cho chúng ta cách đây hơn 70 năm mà cho đến lúc này vẫn còn nguyên giá trị.
3.3.2. Tín hiệu thẩm mỹ “bướm”
Trong 272 bài thơ trước Cách mạng của Nguyễn Bính đã đƣợc chúng tôi khảo sát và thống kê, tín hiệu “bướm” xuất hiện tất cả 75 lần trong 37 bài thơ, tức là cứ đọc trung bình 3,6 bài thơ của Nguyễn Bính, ta lại bắt gặp một lần tín hiệu “bướm” xuất hiện
Nếu như “vườn” là thực thể có tính chất “tĩnh” thì “bướm” là thực thể có tính chất “động” như một sự song hành tất yếu cùng “vườn”. Nhà thơ dùng 3 cách khác nhau để gọi tên cho “bướm” là: bướm, bươm bướm, điệp. Về định danh theo màu sắc có hai loại bướm cơ bản là bướm vàng (10 lần xuất hiện) và bướm trắng (cũng 10 lần xuất hiện).
Về định danh theo tính chất, có các loại bướm như: bướm xưa, bướm yêu, bướm lười, bướm xuân xanh, bướm già, bướm láng giềng, bướm giang hồ, bướm tiên, bướm non, bướm dại.
Tiếp theo là những lần “bướm” xuất hiện sau động từ với tư cách là đối thể chịu tác động hoặc cùng hoạt động, bao gồm: nuôi bướm, bắt bướm, nhập vào bướm, yêu dấu bướm, rước bướm, đón rước bướm, rắc bướm lên hoa, vườn trần theo bướm, thấy bướm, mơ đuổi bướm, chim nhắc bướm, bùa mê bướm. Bướm cũng một lần xuất hiện sau động từ tồn tại: Có hai chị bướm đi chơi chợ (Bướm đi chợ)
Trong những kết hợp danh từ + bướm, chúng tôi thấy có sự góp mặt của giấc bướm, lời bướm và chuyện bướm ong. Trong đó, chuyện bướm ong không phải là cách dùng mới song giấc bướm và lời bướm đích thực là những sáng tạo của Nguyễn Bính: Giấc bướm ngại sang đò bến lạnh (Mùa đông nhớ cố nhân), Gió chuyền lời bướm xuống nhân gian (Bao nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã dành riêng dể tặng nàng).
Cuối cùng là những trường hợp bướm xuất hiện với tư cách của chủ thể hành động. Cánh bướm ở đây thêm một lần nữa được hiện lên với các sắc màu vô cùng sinh động, thể hiện sự nhân cách hóa cao độ của nhà thơ trong việc tri nhận bướm với những hành động và cảm xúc của con người: lũ bướm tưởng hoa, bướm lại sang, bướm khép cánh, bướm hãy vào đây, bướm quả quyết yêu hoa, bướm vẽ vòng, bướm hẹn về, bướm nói điêu, bướm lại ong qua, bướm cánh nghiêng nghiêng, bướm vờn hoa, bướm rũ trăm năm, bướm tha phương, bướm cưới hoa hồng, bướm có bằng lòng, bướm dậy thì, bướm đi tu, bướm chê hoa vàng, bướm chẳng chung tình, bướm dạy nàng thêu, bướm lại đưa tin, bướm ra công vẽ bùa, bướm ủ hoa…
Ngoài ra, nhà thơ còn có những tưởng tượng kỳ ảo về thế giới của loài bướm để dựng nên một nước bướm, cũng còn gọi là một xứ bướm: Bao nhiêu xứ bướm qua lầu/ Nàng toan gieo quả kim cầu cho ai? (Lạy giời cấm cửa rừng mai)
Nước bướm của Nguyễn Bính dựng lên có Vua, có quan Thám hoa, có việc tổ chức khoa thi nên có những danh xưng như: Điệp lang khoa, vua nước bướm: Em ạ ngày xưa vua nước bướm/ Kén nhân tài mở Điệp lang khoa/ Vua không lấy Trạng vua thề thế/ Con bướm vàng tuyền đậu thám hoa (Truyện cổ tích)
Cánh bướm vốn là một sự vật rất tự nhiên, đời thường, dễ dàng bắt gặp ở nông thôn Việt Nam và được tri nhận như một nét đặc thù của làng quê, thậm chí của mỗi tuổi thơ chăn trâu bắt bướm: Những ngày trốn học/ Đuổi bướm cầu ao/ Mẹ bắt được/ Chưa đánh roi nào đã khóc (Quê hương - Giang Nam)
Thế nhưng, khi cánh bướm đi vào thơ Nguyễn Bính, nó đã được thổi thêm biết bao hồn vía để diễn tả vô vàn các sắc thái, cung bậc, tâm trạng, những đan xen giữa thực và mộng ảo, những hạnh phúc đợi chờ và mong nhớ nuối tiếc xót xa. Cánh bướm đã diễn tả muôn vàn khát khao của tâm hồn thi nhân, được phát triển và mở rộng biên độ ngữ nghĩa từ nghĩa đen cho đến những ý nghĩa ẩn dụ.
Đầu tiên, cánh bướm trong thơ Nguyễn Bính hiện lên như một vẻ đẹp của tự nhiên, của làng quê: Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng/ Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng (Xuân về), Mặt hồ vua đúc khối tiền sen/ Bươm bướm đông như đám rước đèn (Cuối tháng ba), Qua dậu tầm xuân thấy bướm nhiều/ Bướm vàng vàng quá bướm yêu yêu/ Em sang bắt bướm vườn anh mãi/ Quên cả làng Ngang động trống chèo (Hết bướm vàng). Con bướm gắn với những kỷ niệm ấu thơ của tác giả: Lá sen vương vấn hương sen ngát/ Ấp ủ đôi ta chút nhụy hờ/ Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc/ Theo về tận cửa mới tan mơ (Trường huyện)
Con bướm có thể là nhịp cầu, là phương tiện để nhà thơ gửi gắm những tình cảm của mình dành cho một người: Đường sang xứ ấy nhiều hoa lắm/ Nhi bắt cho tôi chiếc bướm vàng Nuôi bướm), Bướm ơi! bướm hãy vào đây/ Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi (Người hàng xóm)
Đến những biểu hiện về mặt ẩn dụ, con bướm trước hết là biểu tượng cho người con gái: Chị bây giờ nói thế nào/ Bướm tiên khi đã lọt vào vườn hoang (Lỡ bước sang ngang), Cành dâu cao lá dâu cao/ Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em/ Anh đi đèn sách mười niên/ Biết rằng bóng bướm có lên kinh thành (Bóng bướm).
Theo một logic hình tượng và mẫn cảm ngôn ngữ của tiếng Việt, có thể thấy việc dùng hình ảnh bướm để biểu thị cho người phụ nữ là điều hết sức bình thường. Thế nhưng, cái mới của Nguyễn Bính là dùng bướm để biểu thị cho chính người đàn ông mà trước hết là biểu thị cho chính mình: Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau (Tương tư), Thuở trước loài hoa chửa biết cười/ Vô tình con bướm trắng sang chơi/ “Khác nào tôi đã sang chơi đấy”/ Rước bướm dừng chân. Hoa hé môi (Hương cố nhân), Ai đem rắc bướm lên hoa/ Rắc bèo xuống giếng rắc ta vào nàng (Rắc bướm lên hoa)
Tiếp đến, bướm biểu thị cho đàn ông nói chung. Và trong mối quan hệ bướm - hoa, hoa thường chịu một kết cục chẳng ra gì hoặc hoa bị đánh giá là bội bạc: Đời em là một vườn hoa nở/ Bướm hẹn về rồi bướm nói điêu (Bướm nói điêu), Ai dạy nàng yêu? Có phải là…/ Nào ngờ hư đến thế là hoa/ Hoa đi đón rước bao nhiêu bướm/ Từ bướm xuân xanh đến bướm già (Hương cố nhân)
Khi con bướm đã không còn phân biệt về mặt biểu tượng là nam hay nữ thì lúc đó, có một sự hòa hợp để con bướm trở thành biểu tượng cho tình yêu lứa đôi. Tình yêu ấy có thể là một sự đơn phương: Có ai điên dại như tôi nhỉ/ Nuôi bướm làm con để nhớ người (Nuôi bướm). Tình yêu ấy có thể là một ước mơ, khát khao hạnh phúc đã trôi qua tầm tay, không bao giờ có được: Đêm qua mơ thấy hai con bướm/ Khép cánh tình chung ở giữa trời (Hết bướm vàng). Tình yêu ấy cũng có thể là một sự nuối tiếc và ân hận: Hồn trinh còn ở trần gian/ Nhập vào bướm trắng mà sang bên này (Người hàng xóm). Sau cùng, con bướm là biểu tượng của những gì tàn phai, không lấy lại được: Rượu ái tình kia thành thuốc độc/ Vườn trần theo bướm phấn hương bay (Hoa với rượu), Lâu nay có một người du khách/ Gió bụi mang về xóm Ngự viên/ Giậu đổ dây leo suồng sã quá/ Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng (Xóm Ngự viên)
Trong một cảm quan truyền thống, Nguyễn Bính cũng dùng bướm cho những ẩn dụ quen thuộc chỉ về chuyện quan hệ nam nữ như “chuyện bướm ong”, hay “bướm lại ong qua”: Cố nhân chẳng biết làm sao ấy/ Rặt những tin đồn chuyện bướm ong (Xuân tha hương), Bướm lại ong qua mấy ngậm ngùi (Oan nghiệt)
Nhìn chung, cánh bướm trong thơ Nguyễn Bính luôn được đặt trong mối quan hệ với tình yêu, trở thành biểu tượng của tình yêu và thể hiện một nhân sinh quan về tình yêu. Trong hầu hết các lần xuất hiện, cánh bướm trong các thi phẩm của Nguyễn Bính đều mang tính bi kịch. Nếu không phải là những thân phận tàn tạ (Bướm tiên khi đã lọt vào vườn hoang, Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng) thì cũng là những tình yêu dở dang, thiếu vắng, không trọn vẹn. Trong một hồi tưởng về tình yêu thuở học trò, ta có một chuyện bướm xưa (bài Trường huyện), trong nỗi nhớ quắt quay, ta có hành động nuôi bướm làm con để nhớ người (bài Nuôi bướm), trong giấc mơ về một tình yêu, thi nhân mơ thấy hai con bướm, khép cánh tình chung ở giữa trời, trong bi kịch của một chuyện tình, nhà thơ lại nguyện cầu: Hồn trinh còn ở trần gian/ Nhập vào bướm trắng mà sang bên này. Ngay chính bản thân mình, Nguyễn Bính cũng tự cho là một cánh bướm giang hồ (bài Tương tư). Và những cánh bướm cũng là sự gian dối (bướm nói điêu), sự đổi thay (Vườn trần theo bướm phấn hương bay). Tóm lại, trong thơ Nguyễn Bính, cánh bướm đồng nghĩa với sự mong manh, không vĩnh viễn.
Không chỉ đối với Việt Nam mà trong tâm thức của các quốc gia thuộc văn hóa phương Đông, cánh bướm cũng là biểu tượng cho sự mong manh, sự nhẹ dạ và sự không chung thủy. Kinh Bhagavad Gitâ của Ấn Độ viết: “Giống như những con bướm vội vã lao vào cái chết trong ngọn lửa sáng chói, loài người cũng chạy lao tới sự tiêu vong”.
Trong văn hóa Nhật Bản, cánh bướm là những vong linh phiêu lãng, chúng báo hiệu có người đến thăm hoặc có người thân thuộc chết. Trong triết học Trung Hoa, hẳn chúng ta không thể quên chuyện Trang Tử nằm mơ hóa bướm, lúc tỉnh dậy không biết mình là bướm hay bướm là mình. Còn đối với Việt Nam, cánh bướm dễ liên tưởng tới người phụ nữ với xuân sắc chỉ có một thời: Bướm vàng đậu trái mù u/ Lấy chồng càng sớm lời ru càng buồn (Ca dao)
Tóm lại, giống như nhiều thi nhân khác của thời kỳ Thơ mới, Nguyễn Bính tìm đến tình yêu như một cứu cánh nhưng ngay từ đầu đã biết trước được về tương lai của nó. Điều này khác với các nhà Thơ Mới khác, ngập sâu vào tình yêu rồi mới biết tình yêu cũng không thể cứu vớt được mình: Trăng sáng trăng xa trăng lạnh quá/ Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ (Xuân Diệu), Giật mình ta thấy bồ hôi lạnh/ Mộng đẹp bên chăn đã biến rồi (Lưu Trọng Lư), Trời hỡi làm sao cho khỏi đói/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn/ Làm sao giết được người trong mộng/ Để trả thù duyên kiếp phũ phàng (Hàn Mặc Tử)
Nằm chung trong bi kịch mất niềm tin của tầng lớp tri thức tiểu tư sản đương thời và tìm đến tình yêu như một ốc đảo để trú mình, chỉ Nguyễn Bính ngay từ đầu sớm nhận ra rằng, bản chất của tình yêu là mong manh, không vĩnh viễn, cái đẹp nhất thì đã trôi qua và không sao lấy lại được, còn lại chỉ là những dối trá, lọc lừa, ảo mộng, cái chết và cô đơn.
3.3.3. Tín hiệu thẩm mỹ “rượu”
Con người thi ca của Nguyễn Bính vốn có hai sự gắn bó, đó là làng quê và tình yêu đôi lứa. Nhưng với tình yêu, ngay từ sớm thi nhân đã nhận ra bản chất mong manh. Làng quê thì đầy biến động trước sự chuyển mình của thời cuộc, luôn đứng trước nguy cơ bị mất đi bản sắc văn hóa. Con người vì thế xuất hiện sự lựa chọn thứ ba là Ra Đi như để tìm thêm những đối chứng với quê hương và tình yêu. Và trong sự Ra Đi ấy, Rượu được tìm đến như mốt sự tất yếu. Sự tất yếu ấy nằm trong hai quan niệm: Rượu là tinh hoa của trời đất và uống rượu có thể giúp quên sầu. Thấm đẫm một văn hóa Đông phương trong mình, Nguyễn Bính hẳn đã từng đọc Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Hàn, Lý Hạ để in dấu trong hồn những áng tửu thi: Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch/ Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh (Anh hùng nằm dưói cỏ xanh/ Những người uống rượu lưu danh muôn đời) (Lý Bạch), Khuyến quân chung nhật minh đính túy/ Tửu bất đáo Lưu Linh phần thượng thổ (Xin anh say tít đất trời/ Rượu đâu tới được mộ người Lưu Linh) (Lý Hạ), Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi/ Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi/ Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu/ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi (Vương Hàn).
Và như thế, rượu đã trở thành tín hiệu thẩm mỹ quan trọng thứ ba trong những sáng tác trước Cách mạng của Nguyễn Bính. Trong 272 bài thơ được khảo sát, thống kê, có đến 51 lần tín hiệu “rượu” xuất hiện trên tổng số 25 bài thơ. Như vậy, cứ đọc trung bình 5,2 bài thơ của Nguyễn Bính, tín hiệu rượu lại xuất hiện. Rượu có thể nói như một cái gì gắn bó với thi nhân từ thuở ấu thơ và càng về sau, trên bước đường giang hồ gió bụi, khi đã cách xa vườn và bướm, rượu càng là nơi để con người trút những nỗi niềm tâm sự, những nỗi sầu cô đơn, những nỗi nhớ nhung quay quắt về một bóng hình. Nếu coi “rượu” là một hằng thể trong cấu trúc của tín hiệu thẩm mỹ thì “say” chính là biến thể tiêu biểu nhất của hằng thể ấy. Tương ứng với 51 lần xuất hiện từ “rượu” trong các thi phẩm trước Cách mạng của Nguyễn Bính, chúng tôi thống kê được có tới 45 lần từ “say” xuất hiện. Có thể nói, “say” biểu thị một “nhân sinh quan” về rượu của Nguyễn Bính. Không phải vô cớ mà con người tìm đến rượu nên trong tất cả những lần phải dùng rượu như một phương tiện, thi sĩ dường như đều muốn đạt tới điểm tận cùng trong một sự nâng ly: Cho tôi ly nữa thêm ly nữa/ Uống thật say rồi nhớ cố nhân (Cho tôi ly nữa), Thà cứ về đây ngồi giữa chợ/ Uống say rồi gọi thế nhân ơi (Hành phương Nam), Hôm qua còn sót hơn đồng bạc/ Hai đứa bàn nhau uống rượu say (Giời mưa ở Huế), Em sẽ uống say hơn mọi bận/ Để hồn về mãi xứ Hà Đông (Xuân tha hương).
Cái say của Nguyễn Bính có thể nói là cái say đi từ vô tình đến hữu tình, từ vô thức đến hữu thức. Sở dĩ có thể nói như thế vì tất cả những cơn say trên bước đường giang hồ sau này, dường như đã đƣợc bắt đầu từ chén rượu uống cùng cô bạn gái thuở ấu thơ: Một tối nhà Nhi có giỗ thầy/ Chị Nhi cho uống rượu cay cay/ Chừng đâu chén nhỏ làm hai đứa/ Mặt đỏ lên rồi chếnh choáng say (Hoa với rượu).
Trong những cơn say hữu thức sau này, thi nhân đã có lần mơ về rượu như một niềm hạnh phúc, mong sống lại những tháng ngày đã đi qua. Thế nên trong nửa sau của bài Hoa với rượu, người đã tưởng tượng ra cái cảnh uống rượu cùng cố nhân, tội nghiệp hơn nữa là phải tưởng tượng ra cả cái say - cơn say trong niềm hạnh phúc: Ngồi bên lò rượu đêm hôm đó/ Nhi rót đưa tôi chén rượu đầu/ Nhắc lại thời xưa mà thẹn lại/ Ngậm ngùi hai đứa uống chung nhau…/ Rượu cất kỳ ngon men ủ khéo/ Say người thiên hạ lại say nhau/ Chiều chiều hai đứa sang thăm chị/ Chồng hái hoa cho vợ dắt đầu.
Rõ ràng hai chữ say trong đoạn thơ vừa trích khác hẳn với tất cả những chữ say còn lại trong các bài thơ rượu của Nguyễn Bính. Nhưng rồi thoát khỏi giấc mơ, trở về với thực tại, thi nhân nhận ra rằng chén rượu bay giờ chỉ là: Hoa hết thơm rồi rượu hết cay. Trong những lần nào uống rượu mà không thể đạt đến cõi say, chắc chắn lần đó đang có một bi kịch xảy đển trong tâm hồn con người: Rượu chẳng say cho đèn cũng lụi (Tết biên thùy), Đời chưa thành đạt say gì rượu ngon (Nửa đêm)
Trong những lần nhắc đến “rượu” và “say”, hình ảnh “rượu hồng” đã lặp đi lặp lại trong thơ Nguyễn Bính như một ám ảnh. Phải chăng, “rượu hồng” như sự phản ánh thầm kín về một ước mơ hạnh phúc, ước mơ của lứa đôi mà con người cưa bao giờ đạt được. Và trong tất cả những lần nhắc đến rượu hồng, đều thấp thoáng bóng hình của một người con gái. Chúng tôi thống kê có tới 6 lần “rượu hồng” xuất hiện, chiếm tỷ lệ tới 12% những lần nhắc đến rượu trong thơ Nguyễn Bính: Người ta pháo đỏ rượu hồng/ Mà trên hồn chị một vòng hoa tang…/ Rượu hồng em uống cho say/ Vui cùng chị một vài giây cuối cùng (Lỡ bước sang ngang), Rượu hồng đẫm những màu ân ái…/ Rượu hồng pha lệ pha chua chát (Bao nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã dành riêng để tặng nàng), Tết này ồ thế mà vui chán/ Những một mình em uống rượu hồng (Xuân tha hương), Cao tay nâng chén rượu hồng/ Mừng em: em sắp lấy chồng xuân nay (Rượu xuân)
Trong những nhà Thơ Mới, lẽ dĩ nhiên Nguyễn Bính không phải người duy nhất có thơ về rượu. Trần Huyền Trân, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Vỹ và đặc biệt Vũ Hoàng Chương có cả một tập Thơ say: Cụ hâm rượu nữa đi thôi/ Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu/ Rồi lên ta uống với nhau/ Rót đau lòng ấy vào đau lòng này (Uống rượu với Tản Đà - Trần Huyền Trân), Chén lại chén kề môi thủ thỉ/ Chén càng vơi túy lúy càng đầy (Giang hồ - Lưu Trọng Lư), Say đi em! Say đi em!/ Say cho lơi lả ánh đèn/ Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt/ Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết!/ Ta quá say rồi/ Sắc ngã màu trôi (Say đi em - Vũ Hoàng Chương), Cho nên tôi buồn không biết mấy/ Đời còn nhố nhăng ta chịu vậy/ Ngồi buồn lấy rượu uống say sưa/ Bậc chí thành say mấy cũng vừa (Gửi Trương Tửu - Nguyễn Vỹ)
Thế nhưng, chỉ có ở Nguyễn Bính, chén rượu mới hiện lên với phong vị giang hồ đậm nét nhất: Giang hồ sót lại mình tôi/ Quê người đắng khói quê người cay men (Anh về quê cũ), Son sắt say hoài rượu viễn phương (Xuân vẫn tha hương), Một đêm lữ thứ em say rượu cần (Thư cho chị)
Tất cả những cơn say trong thơ Nguyễn Bính hầu như đều diễn ra trên bước đường giang hồ của nhà thơ. Lúc thì say trong cuộc hành phương Nam, lúc thì say trên bước đường dừng chân ở Huế, lúc thì say trong một mùa xuân tha hương, lúc thì say chén quan hà bên một trời quan tái, lúc thì say với cái Tết ở biên thùy… Một điểm nổi lên trong những vần thơ say của Nguyễn Bính là nhà thơ thường “trình bày” một điệu thở than, yếu đuối. Hơn một lần rượu trong thơ Nguyễn Bính gắn với lệ, với nước mắt: Rượu hồng pha lệ pha chua chát (Bao nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã dành riêng để tặng nàng), Chân trời rượu uống môi chàng ướt/ Cửa sổ mưa bay lệ thiếp nhòa (Bốn mùa thương nhớ), Em không khóc nữa không than nữa/ Đây một bài thơ hận cuối cùng/ Không than chắc hẳn hồn tươi lại/ Không khóc tha hồ đôi mắt trong/ Chị ơi em cưới mùa xuân nhé/ Đốt pháo cho thơm với rượu hồng (Xuân tha hương), Nhiều lần còn lại là sự ủ ê chán chường:
Nhưng mộng mà thôi mộng mất thôi/ Hoa thừa rượu ế ấy tình tôi (Hoa với rượu), Chén rượu tha hương. Giời! đắng lắm/ Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông (Xuân tha hương). Như thế, trong những vần thơ viết về rượu, Nguyễn Bính có sự gặp gỡ nhiều nhất với Vũ Hoàng Chương ở chỗ thể hiện một thái độ chán chường và bất bình với thực tại. Nhưng Vũ Hoàng Chương mạnh mẽ hơn vì còn có một chất “cuồng”, Nguyễn Bính yếu đuối hơn, không còn giữ được chất giang hồ ngạo nghễ khí phách của Tản Đà xưa kia: Tài cao phận thấp chí khí uất/ Giang hồ mê chơi quên quê hương (Thăm mả cũ bên đường - Tản Đà)
Một điểm thú vị khác trong những vần thơ rượu của Nguyễn Bính là nhà thơ đã nhiều lần tả rượu rất thành công qua một lăng kính khác. Trong những nhà Thơ mới đương thời cùng có những vần thơ về rượu và say, có thể thấy đây là chỗ nổi bật của Nguyễn Bính. Chẳng hạn, Nguyễn Bính từng một lần tả rượu qua mưa và để lại một câu tuyệt bút: Sầu nghiêng mái lá mưa tong tả/ Chén ứa men lành lạnh ngón tay (Giời mưa ở Huế). Lần khác, nhà thơ tả rượu và cơn say qua tiếng cười: Uống say cười vỡ ba gian gác/ Quẳng cái chung tình xuống đáy sông (Xuân tha hương). Một bài thơ đặc biệt của Nguyễn Bính là bài Một con sông lạnh. Thi phẩm gây ấn tượng cho người đọc ở chỗ viết về một cơn say hòa trong âm thanh của tiếng đàn mà không hề phải dùng đến một chữ “rượu” nào: Rung rung ánh nến hoen vàng/ Hơi men lắng xuống, tiếng đàn cao lên/ Ô, nàng chẳng phải là em/ Tôi nghe vó ngựa hòa Phiên rộn ràng/ Đừng em, - quên đấy - thôi nàng/ Đất Hồ xa quá nàng sang sao đành/ Trời ơi, Hán đế vô tình/ Tôi xin đốt cả kinh thành ấy đi.
Vườn, bướm và rượu rõ ràng không phải là những đặc quyền thuộc về riêng thế giới thơ Nguyễn Bính, nhưng bằng sự tài hoa ngôn từ của người nghệ sĩ và được nung nóng bởi một dòng cảm xúc tuôn trào, vườn - bướm - rượu đã trở thành một bộ ba để giải mã những thi phẩm của Nguyễn Bính trước Cách mạng. Vườn - bướm - rượu đã không chỉ còn là nó mà chúng đã được thổi vào đấy những mạch ngần của tư duy, của văn hóa, của một thế giới quan và nhân sinh quan. Nằm chung trong một tâm thế của những thi nhân tiền chiến rơi vào bi kịch mất niềm tin, Nguyễn Bính đã gửi gắm một tình cảm chan chứa với đất nước qua tín hiệu thẩm mỹ “vườn”, thể hiện một cái nhìn bi quan và yếm thế về tình yêu qua tín hiệu “bướm” và thể hiện một sự yếu đuối - bế tắc qua tín hiệu thẩm mỹ rượu. Chúng ta có thể đi đến một bức tranh chung như sau về hệ thống các tác phẩm trước Cách mạng của Nguyễn Bính thông qua lăng kính 3 tín hiệu thẩm mỹ vườn - bướm - rượu:
Bảng 3.15: Thế giới nghệ thuật Nguyễn Bính qua ba tín hiếu thẩm mỹ đặc sắc:
Thôn quê
|
Tình yêu
|
Giang hồ
|
|
Rượu
|
|||
3.4. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ con người trong thơ Nguyễn Bính Trong 272 thi phẩm của Nguyễn Bính có một số lượng lớn các yếu tố ngôn ngữ chỉ con người/ nhân vật mà theo chúng tôi có một giá trị không nhỏ trong việc tạo dựng một bức tranh toàn cảnh về thế giới thơ của thi sĩ chân quê. Các nhân vật được chúng tôi chia thành hai tuyến chính là nam và nữ, ở đó, ta sẽ thấy hiện lên không khí vừa cổ điển, vừa hiện đại, vừa quê mùa rất đặc trưng của Nguyễn Bính.
Ở tuyến nhân vật nam giới, các yếu tố ngôn ngữ chiếm tần số cao nhất là: tôi (486 lần), anh (164 lần), em (trong tương quan với chị: 113 lần), chàng (43 lần). Bên cạnh đó còn có các đơn vị khác với tần số ít hơn, nhưng góp phần quan trọng để gợi nên không khí vừa cổ kính, vừa quê mùa trong thơ Nguyễn Bính. Đó là các đơn vị: quan Trạng/ Trạng Nguyên (14 lần), Thám hoa (2 lần), anh khóa (1 lần), anh lái đò (1 lần), lão bộc (2 lần), tráng sĩ (2 lần), cha/ bố (23 lần), chồng (17 lần)
Ở tuyến các nhân vật nữ giới, chiếm tần số cao nhất là các đơn vị: nàng (186 lần), em (169 lần), chị (151 lần), cô/ cô gái/ cô trinh nữ/ cô nữ/ cô mình/ cô tình nhân/ cô con gái (64 lần). Tiếp đó là vô số các đơn vị chỉ nhân vật nữ với những tần số thấp hơn nhưng góp phần làm nên một bức tranh nhiều màu sắc, sống động trong thơ Nguyễn Bính: cô thợ nhuộm (1 lần), cô lái đò (8 lần), cô hái mơ (6 lần), cô lối xóm (4 lần), cô hàng xóm (4 lần), cô bán rƣợu (1 lần), thiếu nữ (1 lần), thôn nữ (1 lần), thục nữ (2 lần), mỹ nhân (3 lần), giai nhân (5 lần), thiếu phụ (3 lần), thiếp (8 lần), mỹ nữ (1 lần), công chúa (6 lần), cung nữ (4 lần). Ngoài ra phải kể đến các nhân vật nữ được xuất hiện qua tên riêng với tổng tần số 77 lần, gồm các tên: Oanh (24 lần), Thơ (2 lần), Nhi (29 lần), Diễm (3 lần), Mai Thơ (1 lần), chị Trúc (3 lần) Yến (1 lần), Tú Uyên (6 lần), Dung (3 lần), Uyển (1 lần), Uyên (1 lần), Nhâm (3 lần).
Ngoài 2 tuyến nhân vật chính là nam và nữ, còn có các đơn vị ngôn ngữ chỉ nhân vật mang tính song giới: thầy mẹ (8 lần), mẹ cha (3 lần), thầy u (1 lần).
Hệ thống các yếu tố ngôn ngữ chỉ người/ nhân vật được sơ kết qua bảng dưới đây:
Bảng 3.16: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ người trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Nhân vật nữ
|
|||
Tôi
|
468
|
Nàng
|
186
|
Anh
|
164
|
Em
|
169
|
Em
|
113
|
Chị
|
151
|
Chàng
|
43
|
Cô
|
64
|
Trạng Nguyên
|
14
|
Cô thợ nhuộm
|
1
|
Thám hoa
|
2
|
Cô lái đò
|
8
|
Anh khóa
|
1
|
Cô hái mơ
|
6
|
Anh lái đò
|
1
|
Cô lối xóm
|
4
|
Lão bộc
|
2
|
Cô hàng xóm
|
4
|
Tráng sĩ
|
2
|
Cô bán rượu
|
1
|
Cha/ Bố
|
23
|
Thiếu nữ
|
1
|
Chồng
|
17
|
Thôn nữ
|
|
Anh (trong tương quan em trai)
|
11
|
Thục nữ
|
2
|
Mỹ nhân
|
3
|
||
Giai nhân
|
5
|
||
Thiếu phụ
|
3
|
||
Thiếp
|
8
|
||
Mỹ nữ
|
1
|
||
Công chúa
|
6
|
||
Cung nữ
|
4
|
||
Vợ
|
17
|
||
Mẹ/ u
|
50
|
So sánh với thơ Xuân Diệu trước Cách mạng, ta sẽ thấy tình hình khác hẳn nhau. Trong 96 bài thơ thuộc hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió, định danh “em” chiếm tần số cao nhất với 123 lần, trong khi đó định danh “nàng” chỉ 8 lần xuất hiện. Ngược lại, Xuân Diệu lại có một định danh mà ta không bắt gặp ở thơ Nguyễn Bính, đó là “người yêu” với tần số 4 lần. “Thiếu nữ” trong thơ Xuân Diệu cũng xuất hiện nhiều hơn Nguyễn Bính với tần số 6 lần. Bảng tổng kết các định danh chỉ nhân vật nữ trong thơ Xuân Diệu trước Cách mạng như sau:
Bảng 3.17: Các định danh chỉ nhân vật nữ trong thơ Xuân Diệu trước 1945:
Tần số
|
|
Mỗi cặp trên xin được dẫn một ví dụ tiêu biểu: Chiều qua lạnh quá, anh buồn quá/ Anh đến phòng em lặng như tờ (Một người phóng đãng), Nàng đã qua đời để tối nay/ Có chàng đi hứng gió heo may (Viếng hồn trinh nữ), Nàng đến thăm tôi một buổi chiều/ Những mong chắp nối lại thương yêu (Thôi nàng ở lại), Tôi muốn mùi thơm của nước hoa/ Mà cô thường xức đừng bay xa (Ghen), Tôi về dạm vợ là xong/ Vợ người làng, vợ xóm Đông, quê mùa (Cưới vợ), Tội nghiệp cho chàng quá mất thôi!/ Bao nhiêu đêm khóc bởi em rồi! (Nhớ thương ai…), Nàng cùng chồng mới nàng về/ Rồi cùng chồng mới nàng đi theo chồng (Cưới vợ), Vì tằm tôi phải chạy dâu/ Vì chồng, tôi phải dầu hao bấc gầy (Thời trước), Ta sẽ là vợ chồng/ Sẽ yêu nhau mãi mãi (Hôn nhau lần cuối), Sum họp đôi ta chốc bấy lâu/ Tình tôi với mợ tưởng cùng nhau (Trối trăng)
3.5. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bính Trong những phần trước, chúng tôi cũng đã bàn tới khá nhiều yếu tố thuộc về thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bính, chẳng hạn các tín hiệu thẩm mỹ vườn, bướm, các biểu tượng thể hiện thời gian ban ngày, ban đêm, các biểu tượng gắn với thời gian của năm, một số biểu tượng thuộc không gian nghệ thuật. Ở phần này, chúng tôi tập trung khảo sát các yếu tố ngôn ngữ chỉ thiên nhiên khác, góp phần tạo nên những nét riêng biệt trong thơ Nguyễn Bính, làm nên phong cách không trộn lẫn của ông. Các yếu tố chỉ thiên nhiên được chia thành hai khu vực là các yếu tố chỉ thực vật và các yếu tố chỉ động vật.
3.5.1. Các yếu tố chỉ thực vật
Có tất cả 32 yếu tố chỉ thực vật được tổng kết trong phần này và hiển thị qua bảng dưới đây:
Bảng 3.18: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thực vật trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
Tên gọi
|
Tần số
|
Tên gọi
|
Tần số
|
Hoa gạo/ Tơ gạo
|
4
|
Đay
|
1
|
Đồng lúa/
hương lúa
|
2
|
Dâu
|
2
|
Đồng
|
2
|
Mùng tơi
|
4
|
Cà
|
1
|
Hoa xoan
|
4
|
Tre/ lũy tre/ lá tre
|
7
|
Hoa bưởi/ bưởi
|
3
|
Vải
|
2
|
Hoa cam/ cam
|
7
|
Liễu
|
1
|
Cải/ hoa cải
|
2
|
Cau/ hoa cau
|
4
|
Đỗ ván
|
4
|
Trầu không
|
3
|
Hương nhu
|
1
|
Hoa sen
|
1
|
Cần
|
1
|
Hoa mai/ mai
|
5
|
Hoa hồng
|
3
|
Hoa nhài
|
2
|
Hoa mơ
|
2
|
Hoa đào
|
4
|
Bãi sậy
|
1
|
Hoa lan
|
1
|
Hoa súng
|
1
|
Chuối
|
1
|
Hoa cúc
|
2
|
Xương rồng
|
1
|
Rau sam
|
1
|
Tổng tần số
|
78
|
Trở lại với bảng các yếu tố chỉ thực vật trong thơ Nguyễn Bính, tre và cam là hai loại xuất hiện với tần số cao nhất (7 lần), trong đó, tre từ xưa tới nay vẫn được coi là một loại cây đặc thù của nông thôn Bắc Bộ, thậm chí có khả năng trở thành biểu tượng cho người Việt Nam. Thế nên việc tre là loại thực vật chiếm tần số ở hàng cao nhất trong thơ Nguyễn Bính cũng là điều có thể hiểu được: Có hai cô bé học trò/ Xem con kiến gió đi đò lá tre (Bên sông), Hôm nay nắng đã về đây/ Hôm nay nắng đã về cây tre vàng/ Lá tre rơi xuống đường làng/ Lá tre rơi xuống vai nàng đi qua (Đường làng). Bên cạnh đó, phải kể đến “mùng tơi” cũng xuất hiện như một “đặc sản” trong thơ Nguyễn Bính, không hề gặp trong thơ của những nhà thơ đậm chất nông thôn cùng thời như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân. Cũng giống như hoa xoan, chất điển hình của “mùng tơi” trong thơ Nguyễn Bính mạnh đến nỗi có thể thoát ly tác phẩm để trở thành một biểu tượng về hàng xóm láng giềng, những người cùng “chung giậu mồng tơi”: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn (…) Giá đừng có giậu mùng tơi/ Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng (Người hàng xóm), Từ dạo mùng tơi thôi trổ lá/ Thì cô hàng xóm cũng thôi sang (Vườn hoang)
3.5.2. Các yếu tố chỉ động vật
Có 8 yếu tố chỉ động vật đi vào trong thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng, được tổng kết qua bảng dưới đây:
Có 8 yếu tố chỉ động vật đi vào trong thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng, được tổng kết qua bảng dưới đây:
Bảng 3.19: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ động vật trong thơ Nguyễn Bính trước 1945:
So với thực vật, chủng loại của các yếu tố động vật không phong phú bằng, tuy thế, cũng góp một phần đắc lực để tạo dựng nên không khí nông thôn, chất quê mùa trong thơ Nguyễn Bính, nhất là qua những đơn vị như: tằm (gắn với nghề trồng dâu nuôi tằm), gà và lợn. Bên cạnh đó, có thể thấy một điều đặc biệt là, ngựa tuy không phải con vật đăc trưng của nông thôn nhưng lại chiếm tần số cao nhất trong bảng các yếu tố chỉ động vật trong thơ Nguyễn Bính. Lý giải điều này, chúng tôi cho rằng, rất có thể việc nhà thơ sinh năm 1918 (tuổi Mậu Ngọ) cầm tinh con ngựa đã khiến cho loài vật này được ưu ái hơn, trở thành một mẫn cảm đặc biệt hơn trong thơ ông. Ngựa đi vào hết những vui buồn trong thơ Nguyễn Bính, và bản thân ông cũng có lần tự nhận mình là ngựa: Một chiếc xe tang màu trắng đục/ Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi (Viếng hồn trinh nữ), Áo bào nguyệt bạch ngựa kim ô (Một trời quan tái), Em vốn đường dài thân ngựa lẻ/ Chị thì sông cái chiếc đò nan (Xuân lại tha hương). So sánh với các yếu tố chỉ động vật trong thơ Đoàn Văn Cừ, ta lại thấy điều thú vị khi chỉ có 12 bài thơ trước Cách mạng mà xuất hiện tới 14 loại động vật khác nhau với tổng tần số lên tới 24 lần. Bảng tổng kết cụ thể như sau:
Tằm
|
6 lần
|
Ngựa
|
|
Chim
|
|
Tu hú
|
|
Cuốc
|
|
Trâu
|
|
Ong
|
|
Gà
|
|
Lợn
|
|
Bảng 3.20: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ động vật trong thơ Đoàn Văn Cừ trước 1945:
Như vậy, trong hệ lương phân động/ thực vật, nếu như Nguyễn Bính có cảm quan mạnh hơn ở các loài thực vật, đặc biệt là những loài hoa; thì về phía động vật lại có sự thể hiện ít hơn. Ngược lại, với Đoàn Văn Cừ, cảm quan về hệ thực vật, đặc biệt là những loài hoa rất mờ nhạt, nhưng lại tạo ra những ấn tượng đậm nét ở mảng động vật, đặc biệt những loài chim xuất hiện rất nhiều trong thơ thi sĩ họ Đoàn. Có tới 6 loài chim được nhắc đến bao gồm: sẻ, bồ câu, cu, chích chòe, nhạn, cò. Bên cạnh đó, định danh “chim” (nói chung) cũng xuất hiện tới 3 lần.
Bò (vàng)
|
|
Trâu
|
|
Chim
|
3.6. Từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính
3.6.1.Tổng quan về từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính
Với nguồn tư liệu gồm 272 bài thơ viết trước Cách mạng của Nguyễn Bính, chúng tôi đã thu thập được 112 đơn vị điển tích điển cố, rải rác trong 50 bài thơ. Vậy là có tới 18% thi phẩm của Nguyễn Bính có sử dụng các điển tích điển cố. Nói cách khác, cứ trung bình đọc 2 bài thơ của Nguyễn Bính sẽ thấy một điển tích điển cố xuất hiện. So sánh với hai nhà thơ cùng thời khác là Huy Cận và Xuân Diệu, ta sẽ thấy mức độ sử dụng điển tích điển cố của Nguyễn Bính là rất lớn.
Với trường hợp Huy Cận, tập thơ duy nhất xuất bản trước cách mạng mang tên Lửa thiêng (1940) gồm 50 bài thơ thì chỉ có 6 điển tích điển cố xuất hiện, rải rác trong 3 bài thơ. Còn với Xuân Diệu, hai tập thơ trước Cách mạng của ông là Thơ thơ (46 bài) và Gửi hương cho gió (51 bài) tổng cộng có 97 bài thơ với 20 lần điển tích điển cố xuất hiện, rải rác trong khoảng 10 bài thơ.
Như vậy, có thể thấy, mức độ sử dụng điển tích điển cố ở thơ Nguyễn Bính là khá đậm đặc, trội hơn hẳn so với những nhà thơ cùng thời. Nếu như với các nhà thơ cùng thời, điển tích điển cố chỉ là phương tiện, sử dụng điểm xuyết làm thi phẩm có thêm không khí cổ điển, thì đối với Nguyễn Bính, điển tích điển cố nhiều lần đã trở thành cảm hứng cho sự sáng tạo.
Cụ thể, Nguyễn Bính có tới 4 bài thơ mượn cảm hứng từ điển tích. Nói cách khác, toàn bộ những thi phẩm đó đƣợc nhuốm trong bầu không khí của điển tích điển cố. Đó là các bài: Nhạc xuân, Tây Thi, Ngưu Lang Chức Nữ và Mỵ Nương.
Ở bài Nhạc xuân, Nguyễn Bính đã mượn cảm hứng từ điển tích công chúa Huyền Trân bị gả về Chiêm quốc để bày tỏ tình cảm của mình với một người con gái mà thi sĩ gọi là “cố nhân”. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn gồm 8 khổ thơ trong đó từ Huyền Trân được lặp đi lặp lại trong tất cả các khổ, kết hợp cùng phép lặp cấu trúc của câu thơ cuối. Cụ thể các câu thơ có từ Huyền Trân xuất hiện như sau: Người ở bên kia sông cách trở/ Có về Chiêm quốc như Huyền Trân?/…/ Phận gái ví theo lề ép uổng/ Đã về Chiêm quốc như Huyền Trân?/…/ Hay đã vội quên tình nghĩa cũ/ Mà về Chiêm quốc như Huyền Trân?/… Cung nữ như hoa vườn Thượng uyển/ Ai về Chiêm quốc với Huyền Trân?…/ Cung nữ môi tô rừng rực điệp/ Ai về Chiêm quốc hộ Huyền Trân?…/ Đã có yêu nhau là đến thế/ Đừng về Chiêm quốc nhé Huyền Trân/ Đừng về Chiêm quốc nhé Huyền Trân/ Ta viết thơ này gửi cố nhân/ Năm mới tháng Giêng mồng một Tết/ Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân/ Huyền Trân ơi!/ Mùa xuân mùa xuân mùa xuân rồi/ Giờ đây chín vạn bông trời nở/ Riêng có tình ta khép lại thôi!
Mượn điển tích Huyền Trân, nhà thơ đã bày tỏ được tâm tình da diết, quyến luyến, khắc khoải, níu kéo và đầy tuyệt vọng khi đứng trước viễn cảnh không còn được gặp người mình yêu nữa. Có thể nói, Nhạc xuân là bài thơ chiếm vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác trước Cách mạng của Nguyễn Bính, là một trong những bài thơ hay nhất của tập Hương cố nhân. (Hai bài thơ mượn cảm hứng từ điển tích là Tây Thi và Ngưu Lang Chức Nữ cũng đều nằm trong tập này). Chính ở thi phẩm này, những câu thơ cuối cùng là những câu thơ tiên tri, dự báo trước về cái chết của Nguyễn Bính sẽ diễn ra vào ngày mùng một Tết năm Bính Ngọ 1966: Năm mới tháng giêng mồng một Tết/ Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân/ Huyền Trân ơi!/ Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân rồi/ Giờ đây chín vạn bông trời nở/ Riêng có tình ta khép lại thôi!.
Ở bài thơ Tây Thi, Nguyễn Bính lại mượn điển tích Tây Thi để giãi bày hai dòng suy tư cảm xúc của mình. Ở cảm xúc thứ nhất, ông thể hiện sự xót thương ai oán cho một người đẹp vốn trong trắng vô tội, bỗng dưng phải trở thành một phương tiện để thực hiện nhiệm vụ chính trị, rồi sau đó nhiệm vụ thành công mà nàng bị quên lãng, phụ bạc, thậm chí rất có thể nàng đã phải tìm đến một cái chết đầy đau xót tức tưởi nơi xứ người. Ngay từ những dòng lục bát đầu tiên, hình ảnh Tây Thi đã xuất hiện: Câu Tiễn ngự trên ngai vàng/ Có bao giờ nhớ đến nàng Tây Thi/ Tứ bề rủ kín màn che/ Nàng sang bên ấy có về nữa đâu/ Non sông từ ấy thêm sầu/ Bao nhiêu hoa nở quay đầu về Ngô.
Ở dòng cảm xúc thứ hai, thi sĩ mượn Tây Thi để giãi bày lòng mình với một người đẹp tên là Mai Thơ. Chàng ví nàng với Tây Thi và thể hiện tình cảm chân thành tha thiết của mình với nàng: Mai Thơ rằng phụ Mai Thơ/ Chính chuyên bướm có bao giờ phụ hoa/ Bao giờ rời được nhau ra/ Bởi tôi là sắt nàng là nam châm/ Đến cùng sông cạn cát lầm/ Cũng xin giữ mãi nàng làm Tây Thi/ Lòng tôi không có đường xe/ Lòng tôi không có lối về nước Ngô/ Nàng đừng mơ đến Cô Tô/ Tôi xin dựng một lầu thơ cho nàng.
Hai câu kết của tác phẩm, hình ảnh Tây Thi xuất hiện trở lại với một câu hỏi tu từ không lời giải đáp, là niềm đau đáu khôn nguôi của thi sĩ về một kiếp hồng nhan bạc phận: Trăm năm là một ngai vàng/ Bao nhiêu năm nữa có nàng Tây Thi?
Ở bài Ngưu Lang Chức Nữ, Nguyễn Bính lại mượn điển tích tình yêu bị ngăn trở giữa Ngưu Lang và Chức Nữ để nói về những ngăn cách khó vượt qua trong chuyện tình cảm của mình. Bài thơ gồm 46 câu lục bát với 4 lần xuất hiện từ Chức Nữ, 1 lần xuất hiện từ Ngưu Lang và 2 lần xuất hiện sông Ngân (Ngân hà).
Với nguồn tư liệu gồm 272 bài thơ viết trước Cách mạng của Nguyễn Bính, chúng tôi đã thu thập được 112 đơn vị điển tích điển cố, rải rác trong 50 bài thơ. Vậy là có tới 18% thi phẩm của Nguyễn Bính có sử dụng các điển tích điển cố. Nói cách khác, cứ trung bình đọc 2 bài thơ của Nguyễn Bính sẽ thấy một điển tích điển cố xuất hiện. So sánh với hai nhà thơ cùng thời khác là Huy Cận và Xuân Diệu, ta sẽ thấy mức độ sử dụng điển tích điển cố của Nguyễn Bính là rất lớn.
Với trường hợp Huy Cận, tập thơ duy nhất xuất bản trước cách mạng mang tên Lửa thiêng (1940) gồm 50 bài thơ thì chỉ có 6 điển tích điển cố xuất hiện, rải rác trong 3 bài thơ. Còn với Xuân Diệu, hai tập thơ trước Cách mạng của ông là Thơ thơ (46 bài) và Gửi hương cho gió (51 bài) tổng cộng có 97 bài thơ với 20 lần điển tích điển cố xuất hiện, rải rác trong khoảng 10 bài thơ.
Như vậy, có thể thấy, mức độ sử dụng điển tích điển cố ở thơ Nguyễn Bính là khá đậm đặc, trội hơn hẳn so với những nhà thơ cùng thời. Nếu như với các nhà thơ cùng thời, điển tích điển cố chỉ là phương tiện, sử dụng điểm xuyết làm thi phẩm có thêm không khí cổ điển, thì đối với Nguyễn Bính, điển tích điển cố nhiều lần đã trở thành cảm hứng cho sự sáng tạo.
Cụ thể, Nguyễn Bính có tới 4 bài thơ mượn cảm hứng từ điển tích. Nói cách khác, toàn bộ những thi phẩm đó đƣợc nhuốm trong bầu không khí của điển tích điển cố. Đó là các bài: Nhạc xuân, Tây Thi, Ngưu Lang Chức Nữ và Mỵ Nương.
Ở bài Nhạc xuân, Nguyễn Bính đã mượn cảm hứng từ điển tích công chúa Huyền Trân bị gả về Chiêm quốc để bày tỏ tình cảm của mình với một người con gái mà thi sĩ gọi là “cố nhân”. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn gồm 8 khổ thơ trong đó từ Huyền Trân được lặp đi lặp lại trong tất cả các khổ, kết hợp cùng phép lặp cấu trúc của câu thơ cuối. Cụ thể các câu thơ có từ Huyền Trân xuất hiện như sau: Người ở bên kia sông cách trở/ Có về Chiêm quốc như Huyền Trân?/…/ Phận gái ví theo lề ép uổng/ Đã về Chiêm quốc như Huyền Trân?/…/ Hay đã vội quên tình nghĩa cũ/ Mà về Chiêm quốc như Huyền Trân?/… Cung nữ như hoa vườn Thượng uyển/ Ai về Chiêm quốc với Huyền Trân?…/ Cung nữ môi tô rừng rực điệp/ Ai về Chiêm quốc hộ Huyền Trân?…/ Đã có yêu nhau là đến thế/ Đừng về Chiêm quốc nhé Huyền Trân/ Đừng về Chiêm quốc nhé Huyền Trân/ Ta viết thơ này gửi cố nhân/ Năm mới tháng Giêng mồng một Tết/ Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân/ Huyền Trân ơi!/ Mùa xuân mùa xuân mùa xuân rồi/ Giờ đây chín vạn bông trời nở/ Riêng có tình ta khép lại thôi!
Mượn điển tích Huyền Trân, nhà thơ đã bày tỏ được tâm tình da diết, quyến luyến, khắc khoải, níu kéo và đầy tuyệt vọng khi đứng trước viễn cảnh không còn được gặp người mình yêu nữa. Có thể nói, Nhạc xuân là bài thơ chiếm vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác trước Cách mạng của Nguyễn Bính, là một trong những bài thơ hay nhất của tập Hương cố nhân. (Hai bài thơ mượn cảm hứng từ điển tích là Tây Thi và Ngưu Lang Chức Nữ cũng đều nằm trong tập này). Chính ở thi phẩm này, những câu thơ cuối cùng là những câu thơ tiên tri, dự báo trước về cái chết của Nguyễn Bính sẽ diễn ra vào ngày mùng một Tết năm Bính Ngọ 1966: Năm mới tháng giêng mồng một Tết/ Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân/ Huyền Trân ơi!/ Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân rồi/ Giờ đây chín vạn bông trời nở/ Riêng có tình ta khép lại thôi!.
Ở bài thơ Tây Thi, Nguyễn Bính lại mượn điển tích Tây Thi để giãi bày hai dòng suy tư cảm xúc của mình. Ở cảm xúc thứ nhất, ông thể hiện sự xót thương ai oán cho một người đẹp vốn trong trắng vô tội, bỗng dưng phải trở thành một phương tiện để thực hiện nhiệm vụ chính trị, rồi sau đó nhiệm vụ thành công mà nàng bị quên lãng, phụ bạc, thậm chí rất có thể nàng đã phải tìm đến một cái chết đầy đau xót tức tưởi nơi xứ người. Ngay từ những dòng lục bát đầu tiên, hình ảnh Tây Thi đã xuất hiện: Câu Tiễn ngự trên ngai vàng/ Có bao giờ nhớ đến nàng Tây Thi/ Tứ bề rủ kín màn che/ Nàng sang bên ấy có về nữa đâu/ Non sông từ ấy thêm sầu/ Bao nhiêu hoa nở quay đầu về Ngô.
Ở dòng cảm xúc thứ hai, thi sĩ mượn Tây Thi để giãi bày lòng mình với một người đẹp tên là Mai Thơ. Chàng ví nàng với Tây Thi và thể hiện tình cảm chân thành tha thiết của mình với nàng: Mai Thơ rằng phụ Mai Thơ/ Chính chuyên bướm có bao giờ phụ hoa/ Bao giờ rời được nhau ra/ Bởi tôi là sắt nàng là nam châm/ Đến cùng sông cạn cát lầm/ Cũng xin giữ mãi nàng làm Tây Thi/ Lòng tôi không có đường xe/ Lòng tôi không có lối về nước Ngô/ Nàng đừng mơ đến Cô Tô/ Tôi xin dựng một lầu thơ cho nàng.
Hai câu kết của tác phẩm, hình ảnh Tây Thi xuất hiện trở lại với một câu hỏi tu từ không lời giải đáp, là niềm đau đáu khôn nguôi của thi sĩ về một kiếp hồng nhan bạc phận: Trăm năm là một ngai vàng/ Bao nhiêu năm nữa có nàng Tây Thi?
Ở bài Ngưu Lang Chức Nữ, Nguyễn Bính lại mượn điển tích tình yêu bị ngăn trở giữa Ngưu Lang và Chức Nữ để nói về những ngăn cách khó vượt qua trong chuyện tình cảm của mình. Bài thơ gồm 46 câu lục bát với 4 lần xuất hiện từ Chức Nữ, 1 lần xuất hiện từ Ngưu Lang và 2 lần xuất hiện sông Ngân (Ngân hà).
Ở bài Mỵ Nương, Nguyễn Bính mượn rất nhiều điển tích, nhắc đến tên rất nhiều người đẹp như một thủ pháp đòn bẩy để thể hiện tình cảm của mình với người con gái mang tên Mỵ Nương. Hình tượng Mỵ Nương trong bài thơ này bỗng mang tính chất kỳ ảo, có thể nàng là Mỵ Nương trong truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh, lại cũng có thể là một hình bóng yêu kiều nào đó: Tôi nhớ Tây Thi/ Trong lòng Ngô Vương/ Hay Dương Quý Phi/ Trong đỉnh trầm hương?/ Hay là tôi nhớ/ Cô bé Hằng Nga/ Nằm trong cung Quảng/ Vợ chàng Ngưu Lang/ Bên bờ Ngân hà?/ Không, không tôi nhớ/ Một người rất xa/ Một người con gái/ Nhan sắc như… là…/ Toan ví mà thôi/ Vì bao nhan sắc/ Xây dựng trên đời/ Sánh sao nàng được/ Nàng hơn Tây Thi/ Hơn Dương Quý Phi/ Hằng Nga, Chức Nữ/ Có ăn thua gì…
Vậy là ở bốn bài thơ hoàn toàn mượn cảm hứng từ các điển tích, Nguyễn Bính đã sử dụng hầu hết các thể thơ tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của ông, trong đó có hai thể thơ được đánh giá là sở trường của Nguyễn Bính là lục bát và thất ngôn. Ở 46 bài thơ còn lại, các điển tích điển cố được phân bố không đều nhau. Có bài thơ chỉ có một điển tích, như bài Viếng hồn trinh nữ: Mới hay tự cổ bao người đẹp/ Chẳng hẹn trần gian đến bạc đầu. Hai câu thơ trên nằm ờ vị trí kết thúc trong bài thơ Viếng hồn trinh nữ được mượn từ ý của hai câu thơ cổ nổi tiếng, tương truyền là của Diễm Tuyết (đời Thanh, Trung Quốc): Mỹ nhân tự cổ như danh tướng/ Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.
Lại cũng có bài thơ mật độ điển tích dày đặc như bài Bài thơ vần Rẫy với gần chục điển tích liên tiếp xuất hiện: Khương Duy mật to như trứng gà/ Mã Siêu mặt đẹp như con gái/ Mê gái cửa thành giết bố nuôi/ Vì nước qua thuyền dành Chúa dại/ Xót anh, may áo tang ba ngày/ Nhớ nghĩa, cùng đường thả giặc chạy/ Vận trời thế đất đang chông chênh/ Chia ba chân vạc cho vững chãi/ Ai ngờ ông trời làm trò đùa/ Cả ba chân vạc đua nhau gẫy.
Chúng tôi sẽ lần lượt phân tích các biểu hiện của hệ thống từ ngữ điển tích điển cố thơ Nguyễn Bính trong các phần tiếp theo sau đây.
3.6.2. Phân loại và miêu tả từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính
3.6.2.1. Phân loại tổng thể
Trong 112 đơn vị từ ngữ điển tích điển cố có 86 điển tích điển cố có nguồn gốc là những tích truyện xưa, liên quan đến các nhân vật trong lịch sử hoặc văn chương, liên quan đến các địa danh hoặc sự vật sự việc sự kiện. Còn lại 26 đơn vị có nguồn gốc là những câu chữ trong các tác phẩm của thời trước, hoặc được tác giả dùng nguyên văn, hoặc được tác giả mượn ý hay thay đổi đôi chút về diễn đạt. Ở trường hợp dùng nguyên văn, có thể dẫn ra những bài thơ như Xuân tha hương, Tết biên thùy, Bài thơ vần Rẫy là những tác phẩm có dùng nguyên văn một số câu thơ Đường: Thiên hạ “Chi nghinh Nam Bắc điểu”/ Tình đời “Diệp tống vãng lai phong” (Xuân tha hương), “Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu” (Tết biên thùy), “Hoa lưu động khẩu ưng trường tại” (Bài thơ vần Rẫy). Cũng có khi Nguyễn Bính dùng nguyên văn một câu thơ Việt: “Bảy nổi ba chìm với nước non” (Oan nghiệt), “Trời cao sông rộng một màu bao la” (Con nhà Nho cũ)
Ngoài ra, còn có thể kể đến các trường hợp mượn ý, như một thể hiện gần gũi của phong cách sử dụng điển tích. Có thể kể tới các bài: Định mệnh, Không hẹn ngày về, Nàng Ba, v.v…
Câu thơ sau trong bài Định mệnh mượn ý từ những câu tả con cuốc trong Qua đèo ngang của Bà huyện Thanh Quan (Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc) và Cuốc kêu cảm hứng của Nguyễn Khuyến (Năm canh máu chảy đêm hè vắng/ Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ): Hồn con cuốc đã rạc xa cõi bèo (Định mệnh)
Hay các câu thơ sau đây trong bài Không hẹn ngày về và Nàng Ba mượn ý từ các câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Hôn hoàng nay lại hoàng hôn mai ngày (Không hẹn ngày về), Xa mờ núi biếc non phơi bóng vàng (Nàng Ba). Nguyên thủy của những câu thơ trên là các câu thơ sau đây trong Truyện Kiều: Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng và Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
Ở trường hợp thay đổi về cách diễn đạt, có thể kể đến các trường hợp điển hình như trong các bài Thương nhớ kinh thành, Một đêm ly biệt: Câu thơ “Chả cho nến khóc hộ người nữa đâu” trong bài Thương nhớ kinh thành thực chất là một cách diễn đạt khác đi câu thơ cổ trong bài Tặng biệt của Đỗ Mục đời Đường: Lạp chúc hữu tâm hoàn cách biệt/ Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh.
Hay câu thơ sau trong bài Một đêm ly biệt: Lệ Giang châu thấm cho đầy áo xanh, là một cách diễn đạt khác câu thơ trong bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị qua bản dịch Phan Huy Ích: Lệ ai chan chứa hơn người/ Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.
3.6.2.2. Phân loại về mặt nguồn gốc
Trong 112 từ ngữ điển tích điển cố thu thập được, có 89 từ ngữ điển tích điển cố có nguồn gốc Trung Quốc và 23 điển tích điển cố có nguồn gốc Việt Nam.
Trong 89 điển tích điển cố có nguồn gốc Trung Quốc, nhiều tích truyện liên quan đến các nhân vật trong lịch sử và văn học được nhắc đến như: Tây Thi, Chức Nữ, Hằng Nga, Chiêu Quân, Lý Bạch, Mạnh Thường Quân, Ngũ Tử Tư, Kinh Kha, Hàn Tín… những địa danh được nhắc đến như: Sạn Đạo, nước Ngô, Cô Tô, Đào Nguyên, bến Tầm Dương, bến Sở sông Tần, các sự việc sự kiện được nhắc đến như: khúc Hậu Đình Hoa, khúc Tỳ bà, chưa chín nồi kê…
Trong 23 điển tích có nguồn gốc Việt Nam cũng có đủ các loại từ tên người, tên địa danh cũng như các câu thơ ý thơ của các tác giả Việt Nam. Các tích truyện gắn với tên các nhân vật có nguồn gốc Việt Nam được nhắc đến như: Mai Sinh, Hạnh Nguyên, Kim Kiều, Huyền Trân, Mỵ Nương, Mỵ Châu, Nguyễn Hiền, Tô Thị, Dã Tràng. Địa danh Việt Nam được nhắc đến như Hồ Ba Bể.
So sánh với các tác giả cùng thời, có thể thấy tính dân tộc trong việc sử dụng điển tích điển cố của Nguyễn Bính là khá đậm nét. Trong khi những nhà thơ khác như Huy Cận, Xuân Diệu khi sử dụng điển tích thì chủ yếu dùng những điển tích có nguồn gốc Trung Quốc, thậm chí Xuân Diệu còn dùng điển tích xuất phát từ phương Tây trong bài Tình trai: Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine/ Hai chàng thi sĩ choáng hơi men.
Còn Nguyễn Bính, ông đã dùng đến 23 điển tích có nguồn gốc bản địa trong đó có những điển tích xuất phát từ lịch sử (Huyền Trân, Nguyễn Hiền), điển tích xuất phát từ các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết (Dã Tràng, Tô Thị, Sơn Tinh Thủy Tinh, Mỵ Châu Trọng Thủy), điển tích xuất phát từ các tác phẩm nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam (Truyện Kiều, Nhị Độ Mai). Nhiều câu thơ, ý thơ của những tên tuổi lẫy lừng trong văn chương Việt Nam cũng được Nguyễn Bính sử dụng để làm nên những điển tích điển cố như Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Đặng Dung, Hồ Xuân Hương và thậm chí Nguyễn Bính còn mượn ý của ca dao trong một số trường hợp. 3.6.2.3. Phân loại và miêu tả theo nội dung
Toàn bộ 112 đơn vị từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính có thể chia ra thành 3 nhóm chính: nhóm liên quan đến nhân danh, nhóm liên quan đến địa danh và nhóm các sự vật sự kiện.
Nhóm liên quan đến nhân danh
Nhóm liên quan đến nhân danh gồm 84 đơn vị, gắn với tên của 48 nhân vật. 48 nhân vật này lại có thể chia thành 4 nhóm: nhóm các nhân vật là nữ, nhóm các nhân vật là nam, nhóm cặp nhân vật nữ - nam, nhóm cặp nhân vật nam - nam.
Ở nhóm nhân vật nữ có 14 cái tên đƣợc gợi nhắc đến như sau: Huyền Trân (8 lần), Tây Thi (8 lần), Chức Nữ (6 lần), Hằng Nga (4 lần), Chiêu Quân (3 lần), Tô Thị (2 lần), Dương Quý Phi (2 lần), còn lại 4 nhân vật sau nhắc đến 1 lần: Nhị Kiều, cung nữ họ Vương, Lâm Đại Ngọc, Mỵ Châu.
Ở nhóm nhân vật nam có 25 cái tên được nhắc đến như sau: Nguyễn Tịch (3 lần); Mạnh Thường Quân, Ngũ Tử Tư, Kinh Kha (4 lần), Lý Bạch, Tương Như, Đào Uyên Minh, Khương Duy, Hàn Tín: 2 lần; Nguyệt lão, Phan An, chàng Lưu, Tống Trân, Nguyễn Hiền, Nhiếp Chính, Chúa Chổm, chàng trẻ đất Hàm Đan, Dã Tràng, Vỹ Sinh, Mã Siêu, Lã Bố, Triệu Vân, Trương Phi, Quan Vũ, Hạng Vũ.
Ở nhóm cặp nhân vật nam - nữ có các điển tích của: Tương Như - Trác Thị (2 lần), Kim Trọng - Thúy Kiều (1 lần), Mai Sinh - Hạnh Nguyên (1 lần)
Ở nhóm cặp nhân vật nam - nam có điển tích duy nhất của: Bá Nha - Chung Tử (1 lần)
Việc thể hiện điển tích điển cố liên quan đến các nhân vật kể trên tương đối đa dạng sinh động chứ không cứng nhắc đơn điệu. Cụ thể, nhà thơ không chỉ dùng một cách đơn giản trực tiếp là gọi tên chính danh của nhân vật đó mà có nhiều cách gián tiếp để gọi tên nhân vật, gợi nhớ lại tích truyện của nhân vật ấy. Chẳng hạn với nhân vật Tây Thi, bên cạnh 5 lần gọi tên chính danh nhân vật, thi sĩ còn gợi nhớ về tích truyện của nàng qua địa danh Trữ La, hiện lên với ba dạng thức: xóm Trữ La, bến Trữ La, thôn Trữ La: Con đường sang xóm Trữ La/ Cách một ngày ngựa với ba ngày đò (Thư cho chị), Để nhớ một hôm vàng những nắng/ Đưa nàng trở lại Trữ La thôn (Mùa đông gửi cố nhân), Hồn này lãng đãng trôi trong nắng/ Cho được trôi về bến Trữ La (Nhớ người trong nắng)
Nhắc đến Bao Tự, nhà thơ không chỉ gọi chính danh nàng mà còn gợi nhắc nàng qua các tích truyện có một không hai gắn liền với tên tuổi nàng: Xé bao nhiêu lụa rồi/ Em không cười nửa miệng/ Đốt bao nhiêu lửa rồi/ Em không lên một tiếng/ Lòng anh như lụa đây/ Tình anh như lửa đấy/ Bao Tự ngày xưa em/ Nàng dễ chiều biết mấy (Dối lòng). Nguyễn Bính 2 lần nhắc đến Lý Bạch mà không cần phải gọi tên ông: Tôi say mơ thấy vì Tiên trích/ Vua gọi mà không chạy xuống thuyền (Cho tôi ly nữa), Mẫu đơn nở đỏ nhà vua nhớ/ Câu chuyện “hô lai bất thượng thuyền” (Xóm Ngự viên)
Kinh Kha là nhân vật nam được nhắc đến nhiều lần nhất (4 lần) và chỉ một lần duy nhất dùng đến chính danh bởi dũng sĩ họ Kinh nổi tiếng với câu chuyện đƣợc tặng đôi tay mỹ nữ và lời thề đi qua sông Dịch: Có tài kẻ chuốc người mua/ Chặt tay mỹ nữ ném rùa vàng thoi (Con nhà Nho cũ), Cờ chưa tàn, pháo chưa hoàn/ Còn sông Dịch đó còn sang tốt đầu (Con nhà Nho cũ), Sông lạnh thấy đâu người gọi gió/ Trăng tà tìm mãi kẻ mài gươm (Xuân vẫn tha hương), Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén/ Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay (Hành phương Nam)
Tóm lại, có thể thấy Nguyễn Bính có sự am hiểu rất tường tận về các điển tích điển cố, trong nhiều trường hợp, ông không cần phải nhắc chính danh tên nhân vật trong tích truyện xưa mà chỉ cần lẩy lại một vài đặc điểm mang tính chất điển hình, tức thì toàn bộ hình tượng cũng như điển tích đã hiện ra rõ nét. Chỉ cần một địa danh Ô Giang là đủ nhớ đến điển tích Hạng Vũ: Phải đâu Ba Thục hay bờ Ô Giang (Nam Kỳ cũng gió cùng mưa), chỉ cần một hành động “chôn hoa” là đủ nhớ đến điển tích bất hủ Lâm Đại Ngọc: Chẳng thèm chôn khóc hoa lê (Xây hồ bán nguyệt), một chi tiết “ông chài thác oan” đủ để nghĩ ngay đến Ngũ Tử Tư: Qua sông đâu có như người trước/ Đến nỗi ông chài phải thác oan (Tạ Từ), một chi tiết “mắt xanh” quá đủ là điển hình cho nhân vật Nguyễn Tịch: Mắt xanh may được chàng thương tiếc (Tạ từ), một chi tiết “lông ngỗng” khiến người đọc không thể quên được Mỵ Châu: Chao ôi lông ngỗng mà bay hết (Một lần)
Xét về tương quan nam - nữ trong hệ thống các nhân vật thuộc từ ngữ điển tích điển cố thơ Nguyễn Bính, có thể thấy tuy các nhân vật nam nổi trội hẳn về số lượng: 25 nam/ 14 nữ nhưng mật độ sử dụng, tần số xuất hiện của nữ lại chiếm ưu thế hơn hẳn. Ở nhóm nhân vật nam, Kinh Kha là ngƣời đứng đầu bảng với 4 lần xuất hiện và cũng là người duy nhất có tần số xuất hiện là 4. Trong khi đó bên nhóm nữ, ngoài Hằng Nga với 4 lần xuất hiện, các tần số cao nhất thuộc về Huyền Trân (8 lần), Tây Thi (8 lần) và Chức Nữ (6 lần). Chúng tôi cho rằng qua hệ thống các nhân vật kể trên gắn với những điển tích điển cố được thiết lập trong thơ Nguyễn Bính, có thể thấy được phần nào quan điểm sống, lý tưởng, tình cảm, chí hướng của nhà thơ. Chúng tôi cho rằng, Nguyễn Bính là một tâm hồn đa tình, đa cảm, luôn khát khao say đắm thiết tha đến mê mị với các giai nhân. Bên cạnh đó, ông cũng thích những gì mạnh mẽ, dứt khoát, thích những tráng chí ra đi vì nghĩa lớn, thích giang hồ gió bụi, nhưng sau hết Nguyễn Bính chắc chắn là người duy tình chứ không phải duy lý, ông đề cao chữ tình, chữ nghĩa, sống nặng tình và thậm chí là lụy tình chứ ít khi để lý trí lên ngôi. Điều này không chỉ được rút ra qua việc nghiên cứu hệ thống từ ngữ điển tích điển cố trong thơ ông mà chúng còn được khẳng định qua nhiều góc nhìn khác nữa trong những nghiên cứu của chúng tôi về Nguyễn Bính.
Nhóm liên quan đến địa danh
Có tất cả 19 địa danh được nhắc đến trong hệ thống từ ngữ điển tích điển cố của Nguyễn Bính. Hầu hết các địa danh đều gắn với một nhân vật nào đó đi kèm, chẳng hạn đất Lâm Cùng gắn với câu chuyện Tương Như - Trác Thị, đất Hồ gắn với nàng Chiêu Quân, Trữ La gắn với Tây Thi, sông Dịch gắn với Kinh Kha, sông Ngân gắn với Ngưu Lang Chức Nữ… Nói cách khác, đa số các địa danh trong số này đều biểu hiện những điển tích điển cố đã được kể đến ở mục nhóm từ ngữ điển tích điển cố liên quan đến nhân danh. Tuy nhiên có một số địa danh đặc biệt, tính chất của nó không nhất thiết phải gắn với một nhân vật cụ thể nào.
Nói cách khác, nó có một giá trị tự thân để làm thành một biểu tượng, đó là các đơn vị: đường Sạn Đạo, Hồ Ba Bể, Bát Tràng, mây Tần, sông Tương.
Câu thơ có điển tích đƣờng Sạn Đạo nằm trong bài Mùa đông gửi cố nhân: Buồn đến lòng tôi rồi hạ trại/ Đốt đường Sạn Đạo ở luôn đây.
Trước hết cần cắt nghĩa “sạn đạo”. Sạn đạo là con đường xây bằng cầu treo hoặc ván gỗ xếp hai bên sườn núi đá, dùng để đi qua các khu vực núi non hiểm trở. Điển tích Sạn Đạo liên quan đến câu chuyện Trương Lương chỉ đạo đốt đường sạn đạo để quân sĩ của Lưu Bang một lòng một dạ với chủ nhân, không còn nghĩ về ngày trở về nữa. Trong câu thơ của Nguyễn Bính, điển tích trên được dùng với ý nghĩa: nỗi buồn sẽ ở lại mãi trong lòng người, không có đường ra nữa. Như vậy, với điển tích này, chúng ta chỉ cần tri nhận thuần túy về địa danh chứ không nhất thiết phải nhớ đến Trương Lương, Sạn Đạo không trở thành biểu tượng cho Trương Lương. Điều này khác với mối quan hệ của các trường hợp như Trữ La thôn và Tây Thi, sông Dịch và Kinh Kha. Các địa danh Hồ Ba Bể, Bát Tràng là những cái tên quen thuộc với người Việt.
Các địa danh này nằm trong các câu thơ thuộc hai bài Chị đã ghen và Xây hồ bán nguyệt: Sóng hồ Ba Bể dâng cao quá/ Con trạch Ngân hà vỡ tứ tung (Chị đã ghen), Em đi kiếm gạch Bát Tràng/ Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân (Xây hồ bán nguyệt)
Địa danh Hồ Ba Bể gắn với điển tích một câu chuyện cổ của Việt Nam. Người đàn bà ăn mày thực chất là một con giao long bị dân làng ruồng bỏ đã nhấn chím cả ngôi làng trong một trận đại hồng thủy, chỉ riêng hai mẹ con bà góa đã giúp đỡ người ăn mày thì được cứu. Dùng điển tích này, Nguyễn Bính muốn diễn tả cơn ghen của người phụ nữ. Địa danh Bát Tràng thì đã quá rõ ràng, đó được xem là làng nghề bậc nhất về các sản phẩm gạch, gốm. Câu thơ của Nguyễn Bính cũng mượn ý từ câu ca dao có từ lâu đời: Bao giờ anh lấy được nàng/ Để anh mua gạch Bát Tràng về xây. Địa danh Mây Tần có ý nghĩa chỉ nỗi nhớ quê hương, nó xuất phát từ câu thơ của Hàn Dũ đời Đường: Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại/ (Mây che ngang núi Tần biết rằng quê nhà ở đâu). Mây Tần đã xuất hiện đến ba lần trong thơ Nguyễn Bính: Thôn Vân ơi hỡi thôn Vân/ Phương nao kết giải mây Tần cho ta/ Từ nay khi nhớ quê nhà/ Thấy mây Tần đó ngỡ là thôn Vân (Anh về quê cũ), Mây Tần lạc nẻo cố hương mất rồi (Nửa đêm nghe tiếng còi tàu)
Địa danh cuối cùng, sông Tương gắn với bài thơ cổ khuyết danh, gợi ý nghĩa về nỗi nhớ giữa hai người với nhau: Quân tại Tương giang đầu/ Thiếp tại Tương giang vĩ/ Tương tư bất tương kiến/ Đồng ẩm Tương giang thủy. Câu thơ có điển tích sông Tương của Nguyễn Bính nằm trong bài thơ Xuân vẫn tha hương: Đầu sông ai nhớ cuối sông Tương.
Nhóm liên quan đến sự vật sự việc
Nhóm này có 3 đơn vị điển tích điển cố: khúc tỳ bà, khúc Hậu đình hoa và chưa chín nồi kê: Một lứa bên trời chung lận đận/ Thương nhau cha soạn khúc tỳ bà (Oan nghiệt), Đổi thay tình nghĩa như cơm bữa/ Khúc “Hậu đình hoa” hát tự nhiên (Xóm Ngự viên), Chẳng thèm chôn khóc hoa lê/ Đã làm chưa chín nồi kê cũng làm (Xây hồ bán nguyệt)
Điển tích khúc tỳ bà nhắc về câu chuyện Tư Mã Giang Châu Bạch Cư Dị và người kỹ nữ cô đơn trên bến Tầm Dương. Hình tượng khúc tỳ bà trở thanh điển tích trong thơ Nguyễn Bính mang ý nghĩa về sự đồng cảm chia sẻ của những tâm hồn đồng điệu, gặp nhau trong những hoàn cảnh lỡ bước long đong.
Khúc Hậu đình hoa vốn là tên một tập thơ rồi được phổ thành những khúc hát, là sáng tác của Trần hậu chủ, một ông vua thời Nam Bắc triều (420 - 587). Ông vua này mải mê tửu sắc đàn ca mà mất nước nên người đời sau cho rằng Hậu đình hoa là khúc ca không nên hát lại. Dùng điển tích này, Nguyễn Bính muốn bày tỏ ý nuối tiếc quá khứ, tiếc một thời đã qua.
Chưa chín nồi kê là điển tích xuất phát từ một câu chuyện có tên Hoàng lương (giấc kê vàng) được chép trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh (1640 - 1715). Truyện kể về một thư sinh họ Lữ ngủ một giấc mà nằm mộng thấy cả một kiếp người của mình, khi tỉnh giấc nồi kê vẫn chưa chín. Điển tích này từ đó mang ý nghĩa chỉ về đời người vụt qua như một giấc mộng, những thăng trầm hay phú quý vinh hoa chỉ là thoáng chốc. Nguyễn Bính sử dụng điển tích này với ý phản ngữ, có chút cường điệu trong diễn đạt với ý dù đời người có như một giấc kê vàng thì cũng vẫn phải làm điều mình đang mong muốn ước ao.
3.6.3. Giá trị của việc sử dụng từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính
Việc sử dụng từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính như những gì chúng tôi vừa trình bày đã thể hiện những nét riêng biệt độc đáo trong thơ Nguyễn Bính, góp phần làm nên phong cách của ông đồng thời cũng bộc lộ nhiều điều về chính nhân thân của ông. Việc dùng nhiều các điển tích có nguồn gốc Trung Quốc trước hết chứng tỏ sự uyên bác, dày dặn trong tri thức của người cầm bút và cũng đồng thời nói với ta rằng, Nguyễn Bính chính là nhà thơ của thời kỳ hiện đại nhưng lại cũng thuộc lớp nhà Nho cuối cùng của giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, được học nhiều chữ Hán, tích truyện Hán và nuôi dưỡng trong hồn một bầu không khí văn hóa cổ truyền không bao giờ xóa nhòa được. Nguyễn Bính, về mặt xuất thân sẽ rất khác với những lớp người như Xuân Diệu - đại diện cho một lớp tri thức Tây học mới. Dễ hiểu vì sao trong thơ Xuân Diệu có những điển tích xuất phát từ phương Tây trong khi thơ Nguyễn Bính tuyệt nhiên không hề có.
Bên cạnh việc dùng những điển tích có nguồn gốc Trung Quốc, Nguyễn Bính cũng dành một số lượng không nhỏ các điển tích của Việt Nam, trong đó có việc sử dụng nhiều câu thơ, ý thơ của các thi tài lẫy lừng như Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương, Đặng Dung cũng như sử dụng cả ý tứ của ca dao. Điều này cho thấy một tình cảm dân tộc đậm nét, tự hào về truyền thống thi ca, về lớp tiền bối đã đi trước. Độc giả khi đọc những điển tích điển cố mang những dấu ấn trên sẽ có cảm giác ấm lòng, gần gũi, quen thuộc như gặp lại người thân. Âu đó cũng là một cánh cửa khiến thơ Nguyễn Bính được nhiều tầng lớp độc giả đón nhận và chia sẻ một cách hết sức dễ dàng.
Việc sử dụng điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính dĩ nhiên góp phần tạo ra một phong vị cổ điển, cổ kính trong thơ ông, pha trộn giữa chất cổ điển mang đậm hồn dân tộc và chất cổ điển kinh viện gắn với nền văn liệu sử liệu của Trung Hoa. Nếu như những điển tích mang nguồn gốc Việt Nam có thể giúp thơ Nguyễn Bính gần hơn với độc giả thì những điển tích có nguồn gốc Trung Hoa lại yêu cầu độc giả phải có một trình độ nhất định, một phông văn hóa nhất định mới có thể hiểu và cảm thụ một cách dễ dàng. Đây có lẽ lại là một lý do khác nữa góp phần khiến thơ Nguyễn Bính có nhiều tầng lớp độc giả ở các trình độ khác nhau.
Trong nhiều trường hợp, việc sử dụng điển tích điển cố rõ ràng được trình bày như một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt trong thơ Nguyễn Bính, góp phần làm nổi bật chủ đề của bài thơ, nhúng bài thơ vào một không khí xưa cũ, thậm chí tạo nên một sự đa thanh trong giọng điệu, vừa cổ kính lại vừa hiện đại, vừa trầm mặc suy tư vừa lãng tử giang hồ. Các bài điển hình nhất thể hiện sự thành công nổi bật của nghệ thuật sử dụng điển tích điển cố là các bài: Hành phương Nam, Tạ từ, Xuân vẫn tha hương. Các câu thơ chứa điển tích điển cố trong những bài thơ trên xuất hiện với mật độ dày đặc và nối nhau liên tiếp, tạo ra một nhịp thơ rất đặc biệt, xen lẫn chất bi với chất hùng: Hỡi ơi Nhiếp Chính mà băm mặt/ Giữa chợ ai người khóc nhận thây/ Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén/ Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay/ Mơ gì Ấp Tiết thiêu văn tự/ Giày cỏ gươm cùn, ta đi đây (Hành phương Nam), Chị ạ em không người nước Sở/ Nhớ nhà đâu mượn địch Trương Lương/… Cửa quan chưa mở đầu Viên bạc/ Tri kỷ không ai mắt Tịch cuồng/… Đã coi đồng bạc to hơn núi/ Lại học đòi theo thói Mạnh Thường/… Sông lạnh thấy đâu người gọi gió/ Trăng tà tìm mãi kẻ mài gươm (Xuân vẫn tha hương)
Việc dùng điển tích điển cố một cách tinh tế khéo léo của Nguyễn Bính có lần còn bày tỏ được tình cảm dân tộc trong bối cảnh mất độc lập. Xét trong phong trào Thơ Mới, không phải ai cũng thể hiện được ngụ ý này một cách có chủ đích. Nói thế nghĩa là, cái buồn vu vơ lay lắt, lúc bàng bạc lúc mênh mang là thứ có thể tìm thấy dễ dàng trong Thơ Mới mà các nhà nghiên cứu từng gọi nó là nỗi buồn thời đại.
Nhưng để xây dựng được một hình tượng nghệ thuật rõ ràng, kín đáo bày tỏ lòng yêu nước thì thi ca thời kỳ Thơ Mới cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nếu như Thế Lữ thành công với hình tượng con hổ trong Nhớ rừng, Chế Lan Viên thành công với nỗi nhớ tiếc tháp Chàm và giống dân Hời thì tôi cho rằng Nguyễn Bính đã thành công với thi phẩm Xóm Ngự viên trong sự góp mặt đắc lực của điển tích “khúc Hậu đình hoa”. Như đã có dịp nói ở phần trên, khúc Hậu đình hoa được coi là khúc nhạc mất nước, nó gắn liền với sự sụp đổ của một triều đại. Hát khúc ca đó là nhớ về hồn nƣớc của một thời đã xa. Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ Xóm Ngự Viên lại chọn không gian là kinh đô cuối cùng của triều Nguyễn, là thủ phủ cuối cùng của nhà nước phong kiến Việt Nam. Đặt điển tích khúc Hậu đình hoa vào mạch liên kết chung của toàn bài thơ, ta sẽ dễ dàng đọc ra cái ngầm ý của người cầm bút. Và chìa khóa quan trọng của bài thơ, nỗi niềm thời thế được ẩn giấu đã bật ra rõ nhất qua hai câu kết của thi phẩm: Hôm nay có một người du khách/ Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên. Tóm lại, việc sử dụng từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính trước 1945 là một đặc điểm thú vị. Nó không chỉ góp phần làm nên một diện mạo, một phong cách thơ Nguyễn Bính mà nó còn bảy tỏ với ta nhiều điều về nhân sinh quan, thế giới quan, con đường xuất thân thi ca của tác giả. Việc sử dụng từ ngữ điển tích điển cố vừa bộc lộ kiến văn dày dặn uyên bác, vừa bộc lộ khả năng thể hiện một cách đa dạng và sinh động các điển tích, để tránh rơi vào sự lặp lại nhàm chán và khuôn sáo. Những câu thơ có sự góp mặt của điển tích điển cố trong các sáng tác của Nguyễn Bính luôn tạo được một giọng điệu âm hưởng riêng, vừa cổ kính vừa hiện đại, gây được những hiệu ứng mỹ cảm và rất ấn tượng đối với người đọc. Sau cùng, điển tích điển cố còn được vận dụng như một phương tiện đắc lực nhằm kín đáo bày tỏ được nỗi niềm thời thế, tình cảm sâu nặng với dân tộc trong hoàn cảnh còn mất độc lập tự chủ, âm thầm đợi chờ và hy vọng khôn nguôi về một ngày mai tươi sáng cho tương lai của dân tộc.
3.7. Tiểu kết
Như vậy, chương 3 đã đi vào khảo sát và miêu tả 6 khu vực ngữ nghĩa mà chúng tôi cho rằng quan trọng và nổi trội: thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, một số tín hiệu thẩm mỹ, các yếu tố ngôn ngữ chỉ con người, các yếu tố ngôn ngữ chỉ thiên nhiên và từ ngữ điển tích điển cố. Có thể nói, phong cách Nguyễn Bính qua những khảo tả nói trên hiện ra đậm nét và riêng biệt, không thể trộn lẫn với các thi sĩ cùng thời. Ở khu vực không gian, ngoài chất nông thôn, quê mùa in đậm dấu ấn đồng bằng Bắc Bộ là chất giang hồ phiêu lãng của một con người ưa xê dịch. Ở khu vực thời gian, buổi chiều áp đảo buổi sáng, ban đêm áp đảo ban ngày đã thể hiện phần nào thế giới quan của Nguyễn Bính với nhiều buồn thương, dở dang tan vỡ. Ngoài những cách thể hiện mang tính ước lệ, Nguyễn Bính cũng có nhiều đổi mới, sáng tạo trong những biểu hiện về thời gian như thời gian sự kiện, thời gian giả định, thời gian phi tuyến tính… Bên cạnh đó, sự chi tiết hóa, tỉ mỉ các đơn vị và những biểu hiện của thời gian thực sự mang lại một bức tranh sống động nhiều màu sắc. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ con người và thiên nhiên góp phần cho ta thấy một chất chân quê hiện lên đầy đủ, toàn diện, vừa đương đại lại vừa cổ kính xa xăm; trong đó thiên hướng về “tính nữ” có thể xem là một điều rất đặc biệt trong các thi phẩm của Nguyễn Bính. Những biểu hiện của các tín hiệu thẩm mỹ nổi bật và cách sử dụng từ ngữ điển tích điển cố cho ta thấy sự linh hoạt, sáng tạo, trau chuốt, công phu với nhiều tìm tòi đổi mới về hình thức cũng như những giá trị nội dung tư tưởng mà nhà thơ đã gửi gắm.
Dù những hạn chế của lịch sử, thời đại đã không khỏi khiến Nguyễn Bính ít nhiều rơi vào sự bế tắc, yếm thế, bi quan nhưng thơ ông vẫn kín đáo bày tỏ được tình cảm dân tộc, tinh thần của một nhân sĩ yêu nước, nặng lòng với quê hương, luôn ngóng chờ một ngày mai tươi sáng hơn, luôn trông mong một thay đổi sẽ đến với cuộc đời của chính mình cũng như tất cả mọi người.
KẾT LUẬN
Nguyễn Bính là một tác giả lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam nói chung, phong trào Thơ Mới lãng mạn 1932 - 1945 nói riêng. Nếu như có những tác giả được giới phê bình nghiên cứu xếp vào hàng “nhà thơ của một thời”, thì Nguyễn Bính, ngược lại, được coi là “nhà thơ của mọi thời”. Nói theo cách của Hoài Thanh, thơ Nguyễn Bính đã gọi về trong mỗi chúng ta “hồn xưa của đất nước”. Cái hồn cốt quê mùa mà chân thật ấy khiến mỗi người đọc đều bắt gặp mình ở trong ông, và lòng ta ngân rung lên, đồng cảm với bao nỗi niềm trong thơ ông. Một bức tranh toàn cảnh về thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng qua góc nhìn ngôn ngữ học được chúng tôi cố gắng phác họa qua cả hai bình diện hình thức và ngữ nghĩa với một số đặc điểm nổi bật về cả ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng đã được trình bày qua hai chương chính của luận án. Và sau đây là những tóm gọn then chốt về những giá trị nội dung cũng như nghệ thuật mà thơ Nguyễn Bính đã mang tới cho người đọc khiến tác phẩm của ông neo mãi cùng hậu thế:
1. Về mặt vần thơ, vần chính luôn là lối hòa âm chiếm ưu thế, vần thông chiếm số lượng thứ nhì và hầu hết đều xuất hiện ở dạng lý tưởng, đặc biệt không bao giờ có vần ép. Ở khu vực các bài thất ngôn, tỷ lệ vần chính là 57% (652 cặp) và vần thông là 43% (485 cặp).
Ở khu vực các bài lục bát, tỷ lệ vần chính là 58% (1094 cặp) và vần thông là 42% (805 cặp). Đây là cơ sở quan trọng để thơ Nguyễn Bính trở nên dễ nhớ, dễ thuộc, đi vào lòng đông đảo quần chúng nhân dân, nhanh chóng được chuyển thành những bài hát ru, hát ngâm, đồng thời nhạc tính của tác phẩm cũng trở nên dồi dào, tạo điều kiện thuận lợi để các nhạc sĩ phổ nhạc. Nguyễn Bính là thi sĩ lãng mạn có số lượng bài thơ được phổ nhạc nhiều nhất (11 bài thơ với 14 bản phổ). Phân bố vần trong thơ thất ngôn với mô hình AABA chiếm số lượng chủ đạo (72% với 441 khổ thơ) gợi về phong vị cổ điển của bài thất ngôn bát cú Đường luật. Phân bố vần trong thơ lục bát, ngoài cách hiệp vần truyền thống bằng chữ thứ 6 của câu bát với chữ thứ 6 của câu lục, Nguyễn Bính còn có nhiều linh hoạt khi hiệp vần chữ thứ 4 của câu bát với chữ thứ 6 của câu lục, nhằm thể hiện những dụng ý nghệ thuật riêng trong mỗi trường hợp khác nhau. Thi sĩ chân quê cũng thể hiện được những nét tài hoa về vần qua những bài thất ngôn trường thiên độc vận và những bài lục bát gieo vần chính tuyệt đối, tạo nên ấn tượng sâu đậm cho người đọc. Về nhịp điệu, Nguyễn Bính có nhiều sáng tạo, cách tân khi sử dụng những nhịp ngắt mới trong cả thơ thất ngôn cũng như lục bát, mang đến nhiều cảm xúc mới mẻ cho người đọc. Ở thể lục bát là sự hiện diện của hàng loạt nhịp lẻ như 1/1/4, 1/5, 2/1/3, 3/3/2, 3/5… thay thế cho cách thể hiện nhịp chẵn đều đặn vốn từng gặp nhiều trong lục bát truyền thống, của ca dao hay một số tác phẩm truyện thơ thời trung đại. Ở thể thất ngôn, các hình thức mới của ngắt nhịp, đặc biệt là nhịp 2/5 và 5/2 đã được sử dụng một cách biến hóa và linh hoạt, thay thế cho hai hình thức ngắt nhịp 4/3 và 2/2/3 vốn đã quá quen thuộc trong thơ Đường luật truyền thống. Những cách kết lửng bằng câu lục trong bài lục bát hoặc việc thay thế số lượng âm tiết trong dòng thơ thất ngôn cũng góp phần mang tới những cảm giác mới mẻ về nhịp điệu trong mỗi thi phẩm.
2. Những biểu hiện ở phần ngữ pháp của thơ cũng mang đến cho người đọc nhiều điểm thú vị.
Bên cạnh việc sử dụng những câu hỏi tu từ để tạo ra những truyền cảm riêng có về nghệ thuật, việc sử dụng dấu ba chấm một cách linh hoạt trong mỗi dòng thơ là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Bính, đặc biệt hơn nữa khi dấu ba chấm có khả năng tham gia vào việc xây dựng hình tượng thơ. Phép tu từ cú pháp điệp ngữ được sử dụng một cách dày đặc trong thơ Nguyễn Bính, gợi nhớ về sự tương đồng phong cách của ca dao, khiến thơ Nguyễn Bính tăng thêm chất gần gũi và dân dã. Việc sử dụng các hư từ với một tần số cực cao mang đến cho thơ Nguyễn Bính gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, mang đậm chất khẩu ngữ, chất quê mùa, những cách nói mang đúng dấu ấn nông thôn Bắc Bộ như: biết đâu, đời nào, ai đời, chẳng lẽ, những tưởng, mà lại, đã đành… đã làm nên một giọng điệu riêng của Nguyễn Bính.
3. Hệ thống từ vựng ngữ nghĩa mới thực sự là khu vực tạo ra chất nông thôn, quê mùa đậm đặc nhất trong thơ Nguyễn Bính.
Cũng qua đây, ta thấy được nhiều cá tính sáng tạo độc đáo của nhà thơ qua những biểu hiện về không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật.
Ở khu vực không gian nghệ thuật, các tín hiệu ngôn ngữ chỉ không gian nông thôn xuất hiện một cách đậm đặc như làng, thôn, xóm, ngõ, vườn, bến, đồng, bến, chùa, đê…đã thể hiện chất quê mùa rất riêng của Nguyễn Bính, gợi lên đúng không khí của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Và quan trọng hơn, những tín hiệu đó được thổi vào đầy những cung bậc tâm trạng của chủ thể trữ tình chứ không đơn thuần là tả cảnh. Nguyễn Bính còn sử dụng những chất liệu mà các nhà thơ nông thôn cùng thời không hề có như: giếng thơi, giậu mùng tơi…, tạo nên những dấu ấn đặc biệt với nhiều câu thơ lay động lòng người. Bên cạnh chất thôn quê được gợi lên từ những không gian nông thôn, 18 tín hiệu không gian lãng du phiêu bạt cùng 66 địa danh cụ thể đã thể hiện chất giang hồ đậm nét trong thơ Nguyễn Bính.
So với các thi sĩ lãng mạn cùng thời, chỉ có Nguyễn Bính mới tạo nên một bức tranh thời gian tới độ chi tiết tỉ mỉ bậc nhất bởi sự hiện diện đầy đủ các đơn vị: khắc, giây, phút, giờ, sáng, chiều, trưa, tối, ngày, tháng, năm, xuân, hạ, thu, đông, rồi một loạt các “khái niệm mùa” thật đặc biệt khác như: mùa vải, mùa cốm, mùa hồng, mùa hoa, mùa sen, mùa gió bấc, mùa mơ, mùa xanh, mùa mai trắng, mùa nắng… Không chỉ thế, trong cùng một khoảng thời gian là chiều hoặc đêm lại có nhiều cách diễn đạt, điều này vừa thể hiện sự linh hoạt sáng tạo, vừa nhất quán trong tinh thần khắc họa thời gian một cách cụ thể và chi tiết. Trong thơ Nguyễn Bính, có thể thấy buổi chiều áp đảo buổi sáng, ban đêm áp đảo ban ngày, điều này góp phần phản ánh một cảm hứng bi quan, buồn thương bao phủ hầu hết các sáng tác của thi sĩ chân quê. Các câu chuyện trong thơ Nguyễn Bính có xu hướng nghiêng về tính bi kịch, dở dang và tan vỡ.
Trong khu vực thời gian của năm, thi sĩ đặc biệt tỏ ra “nặng lòng” hơn cả với mùa xuân. Sự tương hợp giữa mùa xuân và tín hiệu thẩm mỹ “bướm” gián tiếp phản ánh với chúng ta nhiều điều về thế giới tâm hồn nhà thơ. Các cấu trúc thời gian sự kiện với những biểu hiện phi tuyến tính, thời gian giả định, thời gian ước lệ cũng là những nét đặc sắc khác trong biểu hiện thời gian nghệ thuật.
Những gửi gắm qua tín hiệu thẩm mỹ “vườn” cùng những nỗi niềm giăng mắc giữa nông thôn - thành thị khiến thơ Nguyễn Bính kín đáo thổ lộ một tấm tình chứa chan với quê hương đất nước. Bên cạnh tín hiệu thẩm mỹ chỉ không gian “vườn”, hai tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc khác là “bướm” và “rượu” cho ta hiểu một cách đầy đủ hơn về nhân sinh quan, thế giới quan của nhà thơ cũng như phản ánh tâm trạng chung của cả một tầng lớp trí thức tiểu tư sản nửa đầu thế kỷ XX. Hệ thống các từ ngữ điển tích điển cố chiếm một vị trí quan trọng trong các sáng tác trước 1945 làm hiện lên một Nguyễn Bính cổ kính, trầm lắng với chất thơ của Đường thi, in bóng nhiều kiệt tác trong nền thơ cổ điển của người Việt.
Hệ thống các từ ngữ điển tích điển cố cũng phản ánh con đường xuất thân thi ca của tác giả (học chữ Hán từ nhỏ), thể hiện một kiến văn dày dặn, uyên bác, đồng thời việc vận dụng điển tích điển cố cũng bày tỏ được nỗi niềm thời thế tình cảm sâu nặng với dân tộc trong hoàn cảnh còn mất độc lập tự chủ, âm thầm đợi chờ và hy vọng khôn nguôi về một ngày mai tươi sáng hơn.
4. Khu vực các yếu tố ngôn ngữ chỉ con người cũng nói với ta nhiều điểm thú vị về cuộc đời, tính cách cũng như phong cách thơ Nguyễn Bính. Mồ côi mẹ khí mới 3 tháng tuổi, hình ảnh người chị đã chiếm một vị trí quan trọng trong sự nghiệp thơ của ông, như một khát khao được an ủi, sẻ chia để bù đắp đi những thiếu hụt của tình mẫu tử. Có lẽ từ cảm hứng này mà một thiên hướng về “tính nữ” đã phát triển một cách đặc biệt trong thơ Nguyễn Bính, thể hiện qua việc tần số các từ ngữ chỉ phụ nữ nhiều hơn hẳn các từ ngữ chỉ nam giới (cả trong thơ tình cũng như khu vực điển tích điển cố), các từ chỉ mẹ nhiều hơn chỉ bố, đặc biệt là một loạt các đơn vị tên riêng nữ giới đã đi vào nhiều bài thơ tình của Nguyễn Bính, như những bóng hồng không thể phai mờ trong cuộc đời nhà thơ. Cái tôi phóng túng, đa tình, lãng tử của ông vì thế càng bộc lộ rõ nét. Những từ ngữ chỉ con người trong thơ Nguyễn Bính cũng góp phần tạo dựng một không khí nông thôn Bắc Bộ, đậm chất quê mùa, cổ kính với những anh khóa, cô bán rượu, cô hái mơ, thiếu nữ trồng dâu nuôi tằm, cô lái đò, cô thợ nhuộm… Tất cả khắc sâu trong ấn tượng mỗi người đọc và làm nên một chất thơ riêng của thi sĩ chân quê.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TIẾNG VIỆT
1. Aristote (1964), Nghệ thuật thi ca, NXB Văn học, HN.
2. Lại Nguyên Ân (1993), Cuộc cải cách thơ của phong trào Thơ Mới và tiến trình thơ tiếng Việt, Tạp chí Văn học, số 1.
3. Diệp Quang Ban (2003), Giao tiếp văn bản. Mạch lạc liên kết đoạn văn. NXB KHXH, HN.
4. Nguyễn Bính - Về tác gia và tác phẩm (2003), Hà Minh Đức - Đoàn Đức Phương tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo dục, HN.
5. Phan Kế Bính (1930), Việt Hán văn khảo, NXB Trung Bắc Tân văn.
6. Võ Bình (1975), Bàn thêm một số vấn đề về thơ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
7. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, HN.
8. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ), NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN.
9. Đỗ Hữu Châu (1998). Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng. NXB Giáo dục, HN.
10. Đỗ Hữu Châu (1986). Các bình diện của từ và từ tiếng Việt. NXB Khoa học Xã hội, HN.
11. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học (tập 1 và 2), NXB Giáo dục, HN.
12. Vũ Thị Sao Chi (2015). Nhịp điệu ngôn ngữ thơ văn Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, HN.
13. Huỳnh Ngọc Chiến (2001), Lý Hạ quỷ tài quỷ thi, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
14. Mai Ngọc Chừ (2005) Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học (Tái bản). NXB Văn hóa - Thông tin, HN.
15. Mai Ngọc Chừ (2009), Văn hóa và ngôn ngữ phương Đông, NXB Phƣơng Đông, HN.
16. Cao Hữu Công - Mai Tổ Lân (2000), Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường, NXB Văn học, HN.
17. Hoàng Cao Cương (2007), Cơ sở nối kết lời tiếng Việt, T/C Ngôn ngữ số 8+9.
18. Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu thơ trữ tình nhìn từ góc độ loại hình, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
19. Phan Huy Dũng (2001), Nhận diện nhịp điệu thơ trữ tình, Tạp chí Ngôn ngữ, số 16.
20. Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB KHXH, HN.
21. Hữu Đạt (1999), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB KHXH, HN, 1999.
22. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, NXB Văn học, HN.
23. Hà Minh Đức - Bùi Văn Nguyên (1968), Thơ ca Việt Nam: Hình thức và thể loại, NXB KHXH, HN.
24. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vẫn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB KHXH, HN.
25. Bùi Giáng trong cõi người ta (2008), NXB Lao động, Trung tâm Ngôn ngữ văn hoá Đông Tây, HN.
26. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Từ vựng học tiếng Việt (tái bản), NXB Giáo dục, HN.
27. Hồ Thế Hà (2004), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, NXB Văn học, HN.
28. Nguyễn Thị Thanh Hà (2002), Hiện tượng láy với việc tạo tính nhạc trong thơ ca, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
29. Nguyễn Thị Thanh Hà (2002), Giá trị nghệ thuật và các phương thức sử dụng hiện tượng láy trong thơ ca Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học.
Đỗ Anh Vũ
Lại cũng có bài thơ mật độ điển tích dày đặc như bài Bài thơ vần Rẫy với gần chục điển tích liên tiếp xuất hiện: Khương Duy mật to như trứng gà/ Mã Siêu mặt đẹp như con gái/ Mê gái cửa thành giết bố nuôi/ Vì nước qua thuyền dành Chúa dại/ Xót anh, may áo tang ba ngày/ Nhớ nghĩa, cùng đường thả giặc chạy/ Vận trời thế đất đang chông chênh/ Chia ba chân vạc cho vững chãi/ Ai ngờ ông trời làm trò đùa/ Cả ba chân vạc đua nhau gẫy.
Chúng tôi sẽ lần lượt phân tích các biểu hiện của hệ thống từ ngữ điển tích điển cố thơ Nguyễn Bính trong các phần tiếp theo sau đây.
3.6.2. Phân loại và miêu tả từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính
3.6.2.1. Phân loại tổng thể
Trong 112 đơn vị từ ngữ điển tích điển cố có 86 điển tích điển cố có nguồn gốc là những tích truyện xưa, liên quan đến các nhân vật trong lịch sử hoặc văn chương, liên quan đến các địa danh hoặc sự vật sự việc sự kiện. Còn lại 26 đơn vị có nguồn gốc là những câu chữ trong các tác phẩm của thời trước, hoặc được tác giả dùng nguyên văn, hoặc được tác giả mượn ý hay thay đổi đôi chút về diễn đạt. Ở trường hợp dùng nguyên văn, có thể dẫn ra những bài thơ như Xuân tha hương, Tết biên thùy, Bài thơ vần Rẫy là những tác phẩm có dùng nguyên văn một số câu thơ Đường: Thiên hạ “Chi nghinh Nam Bắc điểu”/ Tình đời “Diệp tống vãng lai phong” (Xuân tha hương), “Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu” (Tết biên thùy), “Hoa lưu động khẩu ưng trường tại” (Bài thơ vần Rẫy). Cũng có khi Nguyễn Bính dùng nguyên văn một câu thơ Việt: “Bảy nổi ba chìm với nước non” (Oan nghiệt), “Trời cao sông rộng một màu bao la” (Con nhà Nho cũ)
Ngoài ra, còn có thể kể đến các trường hợp mượn ý, như một thể hiện gần gũi của phong cách sử dụng điển tích. Có thể kể tới các bài: Định mệnh, Không hẹn ngày về, Nàng Ba, v.v…
Câu thơ sau trong bài Định mệnh mượn ý từ những câu tả con cuốc trong Qua đèo ngang của Bà huyện Thanh Quan (Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc) và Cuốc kêu cảm hứng của Nguyễn Khuyến (Năm canh máu chảy đêm hè vắng/ Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ): Hồn con cuốc đã rạc xa cõi bèo (Định mệnh)
Hay các câu thơ sau đây trong bài Không hẹn ngày về và Nàng Ba mượn ý từ các câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Hôn hoàng nay lại hoàng hôn mai ngày (Không hẹn ngày về), Xa mờ núi biếc non phơi bóng vàng (Nàng Ba). Nguyên thủy của những câu thơ trên là các câu thơ sau đây trong Truyện Kiều: Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng và Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
Ở trường hợp thay đổi về cách diễn đạt, có thể kể đến các trường hợp điển hình như trong các bài Thương nhớ kinh thành, Một đêm ly biệt: Câu thơ “Chả cho nến khóc hộ người nữa đâu” trong bài Thương nhớ kinh thành thực chất là một cách diễn đạt khác đi câu thơ cổ trong bài Tặng biệt của Đỗ Mục đời Đường: Lạp chúc hữu tâm hoàn cách biệt/ Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh.
Hay câu thơ sau trong bài Một đêm ly biệt: Lệ Giang châu thấm cho đầy áo xanh, là một cách diễn đạt khác câu thơ trong bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị qua bản dịch Phan Huy Ích: Lệ ai chan chứa hơn người/ Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.
3.6.2.2. Phân loại về mặt nguồn gốc
Trong 112 từ ngữ điển tích điển cố thu thập được, có 89 từ ngữ điển tích điển cố có nguồn gốc Trung Quốc và 23 điển tích điển cố có nguồn gốc Việt Nam.
Trong 89 điển tích điển cố có nguồn gốc Trung Quốc, nhiều tích truyện liên quan đến các nhân vật trong lịch sử và văn học được nhắc đến như: Tây Thi, Chức Nữ, Hằng Nga, Chiêu Quân, Lý Bạch, Mạnh Thường Quân, Ngũ Tử Tư, Kinh Kha, Hàn Tín… những địa danh được nhắc đến như: Sạn Đạo, nước Ngô, Cô Tô, Đào Nguyên, bến Tầm Dương, bến Sở sông Tần, các sự việc sự kiện được nhắc đến như: khúc Hậu Đình Hoa, khúc Tỳ bà, chưa chín nồi kê…
Trong 23 điển tích có nguồn gốc Việt Nam cũng có đủ các loại từ tên người, tên địa danh cũng như các câu thơ ý thơ của các tác giả Việt Nam. Các tích truyện gắn với tên các nhân vật có nguồn gốc Việt Nam được nhắc đến như: Mai Sinh, Hạnh Nguyên, Kim Kiều, Huyền Trân, Mỵ Nương, Mỵ Châu, Nguyễn Hiền, Tô Thị, Dã Tràng. Địa danh Việt Nam được nhắc đến như Hồ Ba Bể.
So sánh với các tác giả cùng thời, có thể thấy tính dân tộc trong việc sử dụng điển tích điển cố của Nguyễn Bính là khá đậm nét. Trong khi những nhà thơ khác như Huy Cận, Xuân Diệu khi sử dụng điển tích thì chủ yếu dùng những điển tích có nguồn gốc Trung Quốc, thậm chí Xuân Diệu còn dùng điển tích xuất phát từ phương Tây trong bài Tình trai: Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine/ Hai chàng thi sĩ choáng hơi men.
Còn Nguyễn Bính, ông đã dùng đến 23 điển tích có nguồn gốc bản địa trong đó có những điển tích xuất phát từ lịch sử (Huyền Trân, Nguyễn Hiền), điển tích xuất phát từ các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết (Dã Tràng, Tô Thị, Sơn Tinh Thủy Tinh, Mỵ Châu Trọng Thủy), điển tích xuất phát từ các tác phẩm nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam (Truyện Kiều, Nhị Độ Mai). Nhiều câu thơ, ý thơ của những tên tuổi lẫy lừng trong văn chương Việt Nam cũng được Nguyễn Bính sử dụng để làm nên những điển tích điển cố như Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Đặng Dung, Hồ Xuân Hương và thậm chí Nguyễn Bính còn mượn ý của ca dao trong một số trường hợp. 3.6.2.3. Phân loại và miêu tả theo nội dung
Toàn bộ 112 đơn vị từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính có thể chia ra thành 3 nhóm chính: nhóm liên quan đến nhân danh, nhóm liên quan đến địa danh và nhóm các sự vật sự kiện.
Nhóm liên quan đến nhân danh
Nhóm liên quan đến nhân danh gồm 84 đơn vị, gắn với tên của 48 nhân vật. 48 nhân vật này lại có thể chia thành 4 nhóm: nhóm các nhân vật là nữ, nhóm các nhân vật là nam, nhóm cặp nhân vật nữ - nam, nhóm cặp nhân vật nam - nam.
Ở nhóm nhân vật nữ có 14 cái tên đƣợc gợi nhắc đến như sau: Huyền Trân (8 lần), Tây Thi (8 lần), Chức Nữ (6 lần), Hằng Nga (4 lần), Chiêu Quân (3 lần), Tô Thị (2 lần), Dương Quý Phi (2 lần), còn lại 4 nhân vật sau nhắc đến 1 lần: Nhị Kiều, cung nữ họ Vương, Lâm Đại Ngọc, Mỵ Châu.
Ở nhóm nhân vật nam có 25 cái tên được nhắc đến như sau: Nguyễn Tịch (3 lần); Mạnh Thường Quân, Ngũ Tử Tư, Kinh Kha (4 lần), Lý Bạch, Tương Như, Đào Uyên Minh, Khương Duy, Hàn Tín: 2 lần; Nguyệt lão, Phan An, chàng Lưu, Tống Trân, Nguyễn Hiền, Nhiếp Chính, Chúa Chổm, chàng trẻ đất Hàm Đan, Dã Tràng, Vỹ Sinh, Mã Siêu, Lã Bố, Triệu Vân, Trương Phi, Quan Vũ, Hạng Vũ.
Ở nhóm cặp nhân vật nam - nữ có các điển tích của: Tương Như - Trác Thị (2 lần), Kim Trọng - Thúy Kiều (1 lần), Mai Sinh - Hạnh Nguyên (1 lần)
Ở nhóm cặp nhân vật nam - nam có điển tích duy nhất của: Bá Nha - Chung Tử (1 lần)
Việc thể hiện điển tích điển cố liên quan đến các nhân vật kể trên tương đối đa dạng sinh động chứ không cứng nhắc đơn điệu. Cụ thể, nhà thơ không chỉ dùng một cách đơn giản trực tiếp là gọi tên chính danh của nhân vật đó mà có nhiều cách gián tiếp để gọi tên nhân vật, gợi nhớ lại tích truyện của nhân vật ấy. Chẳng hạn với nhân vật Tây Thi, bên cạnh 5 lần gọi tên chính danh nhân vật, thi sĩ còn gợi nhớ về tích truyện của nàng qua địa danh Trữ La, hiện lên với ba dạng thức: xóm Trữ La, bến Trữ La, thôn Trữ La: Con đường sang xóm Trữ La/ Cách một ngày ngựa với ba ngày đò (Thư cho chị), Để nhớ một hôm vàng những nắng/ Đưa nàng trở lại Trữ La thôn (Mùa đông gửi cố nhân), Hồn này lãng đãng trôi trong nắng/ Cho được trôi về bến Trữ La (Nhớ người trong nắng)
Nhắc đến Bao Tự, nhà thơ không chỉ gọi chính danh nàng mà còn gợi nhắc nàng qua các tích truyện có một không hai gắn liền với tên tuổi nàng: Xé bao nhiêu lụa rồi/ Em không cười nửa miệng/ Đốt bao nhiêu lửa rồi/ Em không lên một tiếng/ Lòng anh như lụa đây/ Tình anh như lửa đấy/ Bao Tự ngày xưa em/ Nàng dễ chiều biết mấy (Dối lòng). Nguyễn Bính 2 lần nhắc đến Lý Bạch mà không cần phải gọi tên ông: Tôi say mơ thấy vì Tiên trích/ Vua gọi mà không chạy xuống thuyền (Cho tôi ly nữa), Mẫu đơn nở đỏ nhà vua nhớ/ Câu chuyện “hô lai bất thượng thuyền” (Xóm Ngự viên)
Kinh Kha là nhân vật nam được nhắc đến nhiều lần nhất (4 lần) và chỉ một lần duy nhất dùng đến chính danh bởi dũng sĩ họ Kinh nổi tiếng với câu chuyện đƣợc tặng đôi tay mỹ nữ và lời thề đi qua sông Dịch: Có tài kẻ chuốc người mua/ Chặt tay mỹ nữ ném rùa vàng thoi (Con nhà Nho cũ), Cờ chưa tàn, pháo chưa hoàn/ Còn sông Dịch đó còn sang tốt đầu (Con nhà Nho cũ), Sông lạnh thấy đâu người gọi gió/ Trăng tà tìm mãi kẻ mài gươm (Xuân vẫn tha hương), Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén/ Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay (Hành phương Nam)
Tóm lại, có thể thấy Nguyễn Bính có sự am hiểu rất tường tận về các điển tích điển cố, trong nhiều trường hợp, ông không cần phải nhắc chính danh tên nhân vật trong tích truyện xưa mà chỉ cần lẩy lại một vài đặc điểm mang tính chất điển hình, tức thì toàn bộ hình tượng cũng như điển tích đã hiện ra rõ nét. Chỉ cần một địa danh Ô Giang là đủ nhớ đến điển tích Hạng Vũ: Phải đâu Ba Thục hay bờ Ô Giang (Nam Kỳ cũng gió cùng mưa), chỉ cần một hành động “chôn hoa” là đủ nhớ đến điển tích bất hủ Lâm Đại Ngọc: Chẳng thèm chôn khóc hoa lê (Xây hồ bán nguyệt), một chi tiết “ông chài thác oan” đủ để nghĩ ngay đến Ngũ Tử Tư: Qua sông đâu có như người trước/ Đến nỗi ông chài phải thác oan (Tạ Từ), một chi tiết “mắt xanh” quá đủ là điển hình cho nhân vật Nguyễn Tịch: Mắt xanh may được chàng thương tiếc (Tạ từ), một chi tiết “lông ngỗng” khiến người đọc không thể quên được Mỵ Châu: Chao ôi lông ngỗng mà bay hết (Một lần)
Xét về tương quan nam - nữ trong hệ thống các nhân vật thuộc từ ngữ điển tích điển cố thơ Nguyễn Bính, có thể thấy tuy các nhân vật nam nổi trội hẳn về số lượng: 25 nam/ 14 nữ nhưng mật độ sử dụng, tần số xuất hiện của nữ lại chiếm ưu thế hơn hẳn. Ở nhóm nhân vật nam, Kinh Kha là ngƣời đứng đầu bảng với 4 lần xuất hiện và cũng là người duy nhất có tần số xuất hiện là 4. Trong khi đó bên nhóm nữ, ngoài Hằng Nga với 4 lần xuất hiện, các tần số cao nhất thuộc về Huyền Trân (8 lần), Tây Thi (8 lần) và Chức Nữ (6 lần). Chúng tôi cho rằng qua hệ thống các nhân vật kể trên gắn với những điển tích điển cố được thiết lập trong thơ Nguyễn Bính, có thể thấy được phần nào quan điểm sống, lý tưởng, tình cảm, chí hướng của nhà thơ. Chúng tôi cho rằng, Nguyễn Bính là một tâm hồn đa tình, đa cảm, luôn khát khao say đắm thiết tha đến mê mị với các giai nhân. Bên cạnh đó, ông cũng thích những gì mạnh mẽ, dứt khoát, thích những tráng chí ra đi vì nghĩa lớn, thích giang hồ gió bụi, nhưng sau hết Nguyễn Bính chắc chắn là người duy tình chứ không phải duy lý, ông đề cao chữ tình, chữ nghĩa, sống nặng tình và thậm chí là lụy tình chứ ít khi để lý trí lên ngôi. Điều này không chỉ được rút ra qua việc nghiên cứu hệ thống từ ngữ điển tích điển cố trong thơ ông mà chúng còn được khẳng định qua nhiều góc nhìn khác nữa trong những nghiên cứu của chúng tôi về Nguyễn Bính.
Nhóm liên quan đến địa danh
Có tất cả 19 địa danh được nhắc đến trong hệ thống từ ngữ điển tích điển cố của Nguyễn Bính. Hầu hết các địa danh đều gắn với một nhân vật nào đó đi kèm, chẳng hạn đất Lâm Cùng gắn với câu chuyện Tương Như - Trác Thị, đất Hồ gắn với nàng Chiêu Quân, Trữ La gắn với Tây Thi, sông Dịch gắn với Kinh Kha, sông Ngân gắn với Ngưu Lang Chức Nữ… Nói cách khác, đa số các địa danh trong số này đều biểu hiện những điển tích điển cố đã được kể đến ở mục nhóm từ ngữ điển tích điển cố liên quan đến nhân danh. Tuy nhiên có một số địa danh đặc biệt, tính chất của nó không nhất thiết phải gắn với một nhân vật cụ thể nào.
Nói cách khác, nó có một giá trị tự thân để làm thành một biểu tượng, đó là các đơn vị: đường Sạn Đạo, Hồ Ba Bể, Bát Tràng, mây Tần, sông Tương.
Câu thơ có điển tích đƣờng Sạn Đạo nằm trong bài Mùa đông gửi cố nhân: Buồn đến lòng tôi rồi hạ trại/ Đốt đường Sạn Đạo ở luôn đây.
Trước hết cần cắt nghĩa “sạn đạo”. Sạn đạo là con đường xây bằng cầu treo hoặc ván gỗ xếp hai bên sườn núi đá, dùng để đi qua các khu vực núi non hiểm trở. Điển tích Sạn Đạo liên quan đến câu chuyện Trương Lương chỉ đạo đốt đường sạn đạo để quân sĩ của Lưu Bang một lòng một dạ với chủ nhân, không còn nghĩ về ngày trở về nữa. Trong câu thơ của Nguyễn Bính, điển tích trên được dùng với ý nghĩa: nỗi buồn sẽ ở lại mãi trong lòng người, không có đường ra nữa. Như vậy, với điển tích này, chúng ta chỉ cần tri nhận thuần túy về địa danh chứ không nhất thiết phải nhớ đến Trương Lương, Sạn Đạo không trở thành biểu tượng cho Trương Lương. Điều này khác với mối quan hệ của các trường hợp như Trữ La thôn và Tây Thi, sông Dịch và Kinh Kha. Các địa danh Hồ Ba Bể, Bát Tràng là những cái tên quen thuộc với người Việt.
Các địa danh này nằm trong các câu thơ thuộc hai bài Chị đã ghen và Xây hồ bán nguyệt: Sóng hồ Ba Bể dâng cao quá/ Con trạch Ngân hà vỡ tứ tung (Chị đã ghen), Em đi kiếm gạch Bát Tràng/ Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân (Xây hồ bán nguyệt)
Địa danh Hồ Ba Bể gắn với điển tích một câu chuyện cổ của Việt Nam. Người đàn bà ăn mày thực chất là một con giao long bị dân làng ruồng bỏ đã nhấn chím cả ngôi làng trong một trận đại hồng thủy, chỉ riêng hai mẹ con bà góa đã giúp đỡ người ăn mày thì được cứu. Dùng điển tích này, Nguyễn Bính muốn diễn tả cơn ghen của người phụ nữ. Địa danh Bát Tràng thì đã quá rõ ràng, đó được xem là làng nghề bậc nhất về các sản phẩm gạch, gốm. Câu thơ của Nguyễn Bính cũng mượn ý từ câu ca dao có từ lâu đời: Bao giờ anh lấy được nàng/ Để anh mua gạch Bát Tràng về xây. Địa danh Mây Tần có ý nghĩa chỉ nỗi nhớ quê hương, nó xuất phát từ câu thơ của Hàn Dũ đời Đường: Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại/ (Mây che ngang núi Tần biết rằng quê nhà ở đâu). Mây Tần đã xuất hiện đến ba lần trong thơ Nguyễn Bính: Thôn Vân ơi hỡi thôn Vân/ Phương nao kết giải mây Tần cho ta/ Từ nay khi nhớ quê nhà/ Thấy mây Tần đó ngỡ là thôn Vân (Anh về quê cũ), Mây Tần lạc nẻo cố hương mất rồi (Nửa đêm nghe tiếng còi tàu)
Địa danh cuối cùng, sông Tương gắn với bài thơ cổ khuyết danh, gợi ý nghĩa về nỗi nhớ giữa hai người với nhau: Quân tại Tương giang đầu/ Thiếp tại Tương giang vĩ/ Tương tư bất tương kiến/ Đồng ẩm Tương giang thủy. Câu thơ có điển tích sông Tương của Nguyễn Bính nằm trong bài thơ Xuân vẫn tha hương: Đầu sông ai nhớ cuối sông Tương.
Nhóm liên quan đến sự vật sự việc
Nhóm này có 3 đơn vị điển tích điển cố: khúc tỳ bà, khúc Hậu đình hoa và chưa chín nồi kê: Một lứa bên trời chung lận đận/ Thương nhau cha soạn khúc tỳ bà (Oan nghiệt), Đổi thay tình nghĩa như cơm bữa/ Khúc “Hậu đình hoa” hát tự nhiên (Xóm Ngự viên), Chẳng thèm chôn khóc hoa lê/ Đã làm chưa chín nồi kê cũng làm (Xây hồ bán nguyệt)
Điển tích khúc tỳ bà nhắc về câu chuyện Tư Mã Giang Châu Bạch Cư Dị và người kỹ nữ cô đơn trên bến Tầm Dương. Hình tượng khúc tỳ bà trở thanh điển tích trong thơ Nguyễn Bính mang ý nghĩa về sự đồng cảm chia sẻ của những tâm hồn đồng điệu, gặp nhau trong những hoàn cảnh lỡ bước long đong.
Khúc Hậu đình hoa vốn là tên một tập thơ rồi được phổ thành những khúc hát, là sáng tác của Trần hậu chủ, một ông vua thời Nam Bắc triều (420 - 587). Ông vua này mải mê tửu sắc đàn ca mà mất nước nên người đời sau cho rằng Hậu đình hoa là khúc ca không nên hát lại. Dùng điển tích này, Nguyễn Bính muốn bày tỏ ý nuối tiếc quá khứ, tiếc một thời đã qua.
Chưa chín nồi kê là điển tích xuất phát từ một câu chuyện có tên Hoàng lương (giấc kê vàng) được chép trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh (1640 - 1715). Truyện kể về một thư sinh họ Lữ ngủ một giấc mà nằm mộng thấy cả một kiếp người của mình, khi tỉnh giấc nồi kê vẫn chưa chín. Điển tích này từ đó mang ý nghĩa chỉ về đời người vụt qua như một giấc mộng, những thăng trầm hay phú quý vinh hoa chỉ là thoáng chốc. Nguyễn Bính sử dụng điển tích này với ý phản ngữ, có chút cường điệu trong diễn đạt với ý dù đời người có như một giấc kê vàng thì cũng vẫn phải làm điều mình đang mong muốn ước ao.
3.6.3. Giá trị của việc sử dụng từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính
Việc sử dụng từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính như những gì chúng tôi vừa trình bày đã thể hiện những nét riêng biệt độc đáo trong thơ Nguyễn Bính, góp phần làm nên phong cách của ông đồng thời cũng bộc lộ nhiều điều về chính nhân thân của ông. Việc dùng nhiều các điển tích có nguồn gốc Trung Quốc trước hết chứng tỏ sự uyên bác, dày dặn trong tri thức của người cầm bút và cũng đồng thời nói với ta rằng, Nguyễn Bính chính là nhà thơ của thời kỳ hiện đại nhưng lại cũng thuộc lớp nhà Nho cuối cùng của giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, được học nhiều chữ Hán, tích truyện Hán và nuôi dưỡng trong hồn một bầu không khí văn hóa cổ truyền không bao giờ xóa nhòa được. Nguyễn Bính, về mặt xuất thân sẽ rất khác với những lớp người như Xuân Diệu - đại diện cho một lớp tri thức Tây học mới. Dễ hiểu vì sao trong thơ Xuân Diệu có những điển tích xuất phát từ phương Tây trong khi thơ Nguyễn Bính tuyệt nhiên không hề có.
Bên cạnh việc dùng những điển tích có nguồn gốc Trung Quốc, Nguyễn Bính cũng dành một số lượng không nhỏ các điển tích của Việt Nam, trong đó có việc sử dụng nhiều câu thơ, ý thơ của các thi tài lẫy lừng như Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương, Đặng Dung cũng như sử dụng cả ý tứ của ca dao. Điều này cho thấy một tình cảm dân tộc đậm nét, tự hào về truyền thống thi ca, về lớp tiền bối đã đi trước. Độc giả khi đọc những điển tích điển cố mang những dấu ấn trên sẽ có cảm giác ấm lòng, gần gũi, quen thuộc như gặp lại người thân. Âu đó cũng là một cánh cửa khiến thơ Nguyễn Bính được nhiều tầng lớp độc giả đón nhận và chia sẻ một cách hết sức dễ dàng.
Việc sử dụng điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính dĩ nhiên góp phần tạo ra một phong vị cổ điển, cổ kính trong thơ ông, pha trộn giữa chất cổ điển mang đậm hồn dân tộc và chất cổ điển kinh viện gắn với nền văn liệu sử liệu của Trung Hoa. Nếu như những điển tích mang nguồn gốc Việt Nam có thể giúp thơ Nguyễn Bính gần hơn với độc giả thì những điển tích có nguồn gốc Trung Hoa lại yêu cầu độc giả phải có một trình độ nhất định, một phông văn hóa nhất định mới có thể hiểu và cảm thụ một cách dễ dàng. Đây có lẽ lại là một lý do khác nữa góp phần khiến thơ Nguyễn Bính có nhiều tầng lớp độc giả ở các trình độ khác nhau.
Trong nhiều trường hợp, việc sử dụng điển tích điển cố rõ ràng được trình bày như một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt trong thơ Nguyễn Bính, góp phần làm nổi bật chủ đề của bài thơ, nhúng bài thơ vào một không khí xưa cũ, thậm chí tạo nên một sự đa thanh trong giọng điệu, vừa cổ kính lại vừa hiện đại, vừa trầm mặc suy tư vừa lãng tử giang hồ. Các bài điển hình nhất thể hiện sự thành công nổi bật của nghệ thuật sử dụng điển tích điển cố là các bài: Hành phương Nam, Tạ từ, Xuân vẫn tha hương. Các câu thơ chứa điển tích điển cố trong những bài thơ trên xuất hiện với mật độ dày đặc và nối nhau liên tiếp, tạo ra một nhịp thơ rất đặc biệt, xen lẫn chất bi với chất hùng: Hỡi ơi Nhiếp Chính mà băm mặt/ Giữa chợ ai người khóc nhận thây/ Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén/ Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay/ Mơ gì Ấp Tiết thiêu văn tự/ Giày cỏ gươm cùn, ta đi đây (Hành phương Nam), Chị ạ em không người nước Sở/ Nhớ nhà đâu mượn địch Trương Lương/… Cửa quan chưa mở đầu Viên bạc/ Tri kỷ không ai mắt Tịch cuồng/… Đã coi đồng bạc to hơn núi/ Lại học đòi theo thói Mạnh Thường/… Sông lạnh thấy đâu người gọi gió/ Trăng tà tìm mãi kẻ mài gươm (Xuân vẫn tha hương)
Việc dùng điển tích điển cố một cách tinh tế khéo léo của Nguyễn Bính có lần còn bày tỏ được tình cảm dân tộc trong bối cảnh mất độc lập. Xét trong phong trào Thơ Mới, không phải ai cũng thể hiện được ngụ ý này một cách có chủ đích. Nói thế nghĩa là, cái buồn vu vơ lay lắt, lúc bàng bạc lúc mênh mang là thứ có thể tìm thấy dễ dàng trong Thơ Mới mà các nhà nghiên cứu từng gọi nó là nỗi buồn thời đại.
Nhưng để xây dựng được một hình tượng nghệ thuật rõ ràng, kín đáo bày tỏ lòng yêu nước thì thi ca thời kỳ Thơ Mới cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nếu như Thế Lữ thành công với hình tượng con hổ trong Nhớ rừng, Chế Lan Viên thành công với nỗi nhớ tiếc tháp Chàm và giống dân Hời thì tôi cho rằng Nguyễn Bính đã thành công với thi phẩm Xóm Ngự viên trong sự góp mặt đắc lực của điển tích “khúc Hậu đình hoa”. Như đã có dịp nói ở phần trên, khúc Hậu đình hoa được coi là khúc nhạc mất nước, nó gắn liền với sự sụp đổ của một triều đại. Hát khúc ca đó là nhớ về hồn nƣớc của một thời đã xa. Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ Xóm Ngự Viên lại chọn không gian là kinh đô cuối cùng của triều Nguyễn, là thủ phủ cuối cùng của nhà nước phong kiến Việt Nam. Đặt điển tích khúc Hậu đình hoa vào mạch liên kết chung của toàn bài thơ, ta sẽ dễ dàng đọc ra cái ngầm ý của người cầm bút. Và chìa khóa quan trọng của bài thơ, nỗi niềm thời thế được ẩn giấu đã bật ra rõ nhất qua hai câu kết của thi phẩm: Hôm nay có một người du khách/ Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên. Tóm lại, việc sử dụng từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính trước 1945 là một đặc điểm thú vị. Nó không chỉ góp phần làm nên một diện mạo, một phong cách thơ Nguyễn Bính mà nó còn bảy tỏ với ta nhiều điều về nhân sinh quan, thế giới quan, con đường xuất thân thi ca của tác giả. Việc sử dụng từ ngữ điển tích điển cố vừa bộc lộ kiến văn dày dặn uyên bác, vừa bộc lộ khả năng thể hiện một cách đa dạng và sinh động các điển tích, để tránh rơi vào sự lặp lại nhàm chán và khuôn sáo. Những câu thơ có sự góp mặt của điển tích điển cố trong các sáng tác của Nguyễn Bính luôn tạo được một giọng điệu âm hưởng riêng, vừa cổ kính vừa hiện đại, gây được những hiệu ứng mỹ cảm và rất ấn tượng đối với người đọc. Sau cùng, điển tích điển cố còn được vận dụng như một phương tiện đắc lực nhằm kín đáo bày tỏ được nỗi niềm thời thế, tình cảm sâu nặng với dân tộc trong hoàn cảnh còn mất độc lập tự chủ, âm thầm đợi chờ và hy vọng khôn nguôi về một ngày mai tươi sáng cho tương lai của dân tộc.
3.7. Tiểu kết
Như vậy, chương 3 đã đi vào khảo sát và miêu tả 6 khu vực ngữ nghĩa mà chúng tôi cho rằng quan trọng và nổi trội: thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, một số tín hiệu thẩm mỹ, các yếu tố ngôn ngữ chỉ con người, các yếu tố ngôn ngữ chỉ thiên nhiên và từ ngữ điển tích điển cố. Có thể nói, phong cách Nguyễn Bính qua những khảo tả nói trên hiện ra đậm nét và riêng biệt, không thể trộn lẫn với các thi sĩ cùng thời. Ở khu vực không gian, ngoài chất nông thôn, quê mùa in đậm dấu ấn đồng bằng Bắc Bộ là chất giang hồ phiêu lãng của một con người ưa xê dịch. Ở khu vực thời gian, buổi chiều áp đảo buổi sáng, ban đêm áp đảo ban ngày đã thể hiện phần nào thế giới quan của Nguyễn Bính với nhiều buồn thương, dở dang tan vỡ. Ngoài những cách thể hiện mang tính ước lệ, Nguyễn Bính cũng có nhiều đổi mới, sáng tạo trong những biểu hiện về thời gian như thời gian sự kiện, thời gian giả định, thời gian phi tuyến tính… Bên cạnh đó, sự chi tiết hóa, tỉ mỉ các đơn vị và những biểu hiện của thời gian thực sự mang lại một bức tranh sống động nhiều màu sắc. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ con người và thiên nhiên góp phần cho ta thấy một chất chân quê hiện lên đầy đủ, toàn diện, vừa đương đại lại vừa cổ kính xa xăm; trong đó thiên hướng về “tính nữ” có thể xem là một điều rất đặc biệt trong các thi phẩm của Nguyễn Bính. Những biểu hiện của các tín hiệu thẩm mỹ nổi bật và cách sử dụng từ ngữ điển tích điển cố cho ta thấy sự linh hoạt, sáng tạo, trau chuốt, công phu với nhiều tìm tòi đổi mới về hình thức cũng như những giá trị nội dung tư tưởng mà nhà thơ đã gửi gắm.
Dù những hạn chế của lịch sử, thời đại đã không khỏi khiến Nguyễn Bính ít nhiều rơi vào sự bế tắc, yếm thế, bi quan nhưng thơ ông vẫn kín đáo bày tỏ được tình cảm dân tộc, tinh thần của một nhân sĩ yêu nước, nặng lòng với quê hương, luôn ngóng chờ một ngày mai tươi sáng hơn, luôn trông mong một thay đổi sẽ đến với cuộc đời của chính mình cũng như tất cả mọi người.
KẾT LUẬN
Nguyễn Bính là một tác giả lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam nói chung, phong trào Thơ Mới lãng mạn 1932 - 1945 nói riêng. Nếu như có những tác giả được giới phê bình nghiên cứu xếp vào hàng “nhà thơ của một thời”, thì Nguyễn Bính, ngược lại, được coi là “nhà thơ của mọi thời”. Nói theo cách của Hoài Thanh, thơ Nguyễn Bính đã gọi về trong mỗi chúng ta “hồn xưa của đất nước”. Cái hồn cốt quê mùa mà chân thật ấy khiến mỗi người đọc đều bắt gặp mình ở trong ông, và lòng ta ngân rung lên, đồng cảm với bao nỗi niềm trong thơ ông. Một bức tranh toàn cảnh về thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng qua góc nhìn ngôn ngữ học được chúng tôi cố gắng phác họa qua cả hai bình diện hình thức và ngữ nghĩa với một số đặc điểm nổi bật về cả ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng đã được trình bày qua hai chương chính của luận án. Và sau đây là những tóm gọn then chốt về những giá trị nội dung cũng như nghệ thuật mà thơ Nguyễn Bính đã mang tới cho người đọc khiến tác phẩm của ông neo mãi cùng hậu thế:
1. Về mặt vần thơ, vần chính luôn là lối hòa âm chiếm ưu thế, vần thông chiếm số lượng thứ nhì và hầu hết đều xuất hiện ở dạng lý tưởng, đặc biệt không bao giờ có vần ép. Ở khu vực các bài thất ngôn, tỷ lệ vần chính là 57% (652 cặp) và vần thông là 43% (485 cặp).
Ở khu vực các bài lục bát, tỷ lệ vần chính là 58% (1094 cặp) và vần thông là 42% (805 cặp). Đây là cơ sở quan trọng để thơ Nguyễn Bính trở nên dễ nhớ, dễ thuộc, đi vào lòng đông đảo quần chúng nhân dân, nhanh chóng được chuyển thành những bài hát ru, hát ngâm, đồng thời nhạc tính của tác phẩm cũng trở nên dồi dào, tạo điều kiện thuận lợi để các nhạc sĩ phổ nhạc. Nguyễn Bính là thi sĩ lãng mạn có số lượng bài thơ được phổ nhạc nhiều nhất (11 bài thơ với 14 bản phổ). Phân bố vần trong thơ thất ngôn với mô hình AABA chiếm số lượng chủ đạo (72% với 441 khổ thơ) gợi về phong vị cổ điển của bài thất ngôn bát cú Đường luật. Phân bố vần trong thơ lục bát, ngoài cách hiệp vần truyền thống bằng chữ thứ 6 của câu bát với chữ thứ 6 của câu lục, Nguyễn Bính còn có nhiều linh hoạt khi hiệp vần chữ thứ 4 của câu bát với chữ thứ 6 của câu lục, nhằm thể hiện những dụng ý nghệ thuật riêng trong mỗi trường hợp khác nhau. Thi sĩ chân quê cũng thể hiện được những nét tài hoa về vần qua những bài thất ngôn trường thiên độc vận và những bài lục bát gieo vần chính tuyệt đối, tạo nên ấn tượng sâu đậm cho người đọc. Về nhịp điệu, Nguyễn Bính có nhiều sáng tạo, cách tân khi sử dụng những nhịp ngắt mới trong cả thơ thất ngôn cũng như lục bát, mang đến nhiều cảm xúc mới mẻ cho người đọc. Ở thể lục bát là sự hiện diện của hàng loạt nhịp lẻ như 1/1/4, 1/5, 2/1/3, 3/3/2, 3/5… thay thế cho cách thể hiện nhịp chẵn đều đặn vốn từng gặp nhiều trong lục bát truyền thống, của ca dao hay một số tác phẩm truyện thơ thời trung đại. Ở thể thất ngôn, các hình thức mới của ngắt nhịp, đặc biệt là nhịp 2/5 và 5/2 đã được sử dụng một cách biến hóa và linh hoạt, thay thế cho hai hình thức ngắt nhịp 4/3 và 2/2/3 vốn đã quá quen thuộc trong thơ Đường luật truyền thống. Những cách kết lửng bằng câu lục trong bài lục bát hoặc việc thay thế số lượng âm tiết trong dòng thơ thất ngôn cũng góp phần mang tới những cảm giác mới mẻ về nhịp điệu trong mỗi thi phẩm.
2. Những biểu hiện ở phần ngữ pháp của thơ cũng mang đến cho người đọc nhiều điểm thú vị.
Bên cạnh việc sử dụng những câu hỏi tu từ để tạo ra những truyền cảm riêng có về nghệ thuật, việc sử dụng dấu ba chấm một cách linh hoạt trong mỗi dòng thơ là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Bính, đặc biệt hơn nữa khi dấu ba chấm có khả năng tham gia vào việc xây dựng hình tượng thơ. Phép tu từ cú pháp điệp ngữ được sử dụng một cách dày đặc trong thơ Nguyễn Bính, gợi nhớ về sự tương đồng phong cách của ca dao, khiến thơ Nguyễn Bính tăng thêm chất gần gũi và dân dã. Việc sử dụng các hư từ với một tần số cực cao mang đến cho thơ Nguyễn Bính gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, mang đậm chất khẩu ngữ, chất quê mùa, những cách nói mang đúng dấu ấn nông thôn Bắc Bộ như: biết đâu, đời nào, ai đời, chẳng lẽ, những tưởng, mà lại, đã đành… đã làm nên một giọng điệu riêng của Nguyễn Bính.
3. Hệ thống từ vựng ngữ nghĩa mới thực sự là khu vực tạo ra chất nông thôn, quê mùa đậm đặc nhất trong thơ Nguyễn Bính.
Cũng qua đây, ta thấy được nhiều cá tính sáng tạo độc đáo của nhà thơ qua những biểu hiện về không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật.
Ở khu vực không gian nghệ thuật, các tín hiệu ngôn ngữ chỉ không gian nông thôn xuất hiện một cách đậm đặc như làng, thôn, xóm, ngõ, vườn, bến, đồng, bến, chùa, đê…đã thể hiện chất quê mùa rất riêng của Nguyễn Bính, gợi lên đúng không khí của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Và quan trọng hơn, những tín hiệu đó được thổi vào đầy những cung bậc tâm trạng của chủ thể trữ tình chứ không đơn thuần là tả cảnh. Nguyễn Bính còn sử dụng những chất liệu mà các nhà thơ nông thôn cùng thời không hề có như: giếng thơi, giậu mùng tơi…, tạo nên những dấu ấn đặc biệt với nhiều câu thơ lay động lòng người. Bên cạnh chất thôn quê được gợi lên từ những không gian nông thôn, 18 tín hiệu không gian lãng du phiêu bạt cùng 66 địa danh cụ thể đã thể hiện chất giang hồ đậm nét trong thơ Nguyễn Bính.
So với các thi sĩ lãng mạn cùng thời, chỉ có Nguyễn Bính mới tạo nên một bức tranh thời gian tới độ chi tiết tỉ mỉ bậc nhất bởi sự hiện diện đầy đủ các đơn vị: khắc, giây, phút, giờ, sáng, chiều, trưa, tối, ngày, tháng, năm, xuân, hạ, thu, đông, rồi một loạt các “khái niệm mùa” thật đặc biệt khác như: mùa vải, mùa cốm, mùa hồng, mùa hoa, mùa sen, mùa gió bấc, mùa mơ, mùa xanh, mùa mai trắng, mùa nắng… Không chỉ thế, trong cùng một khoảng thời gian là chiều hoặc đêm lại có nhiều cách diễn đạt, điều này vừa thể hiện sự linh hoạt sáng tạo, vừa nhất quán trong tinh thần khắc họa thời gian một cách cụ thể và chi tiết. Trong thơ Nguyễn Bính, có thể thấy buổi chiều áp đảo buổi sáng, ban đêm áp đảo ban ngày, điều này góp phần phản ánh một cảm hứng bi quan, buồn thương bao phủ hầu hết các sáng tác của thi sĩ chân quê. Các câu chuyện trong thơ Nguyễn Bính có xu hướng nghiêng về tính bi kịch, dở dang và tan vỡ.
Trong khu vực thời gian của năm, thi sĩ đặc biệt tỏ ra “nặng lòng” hơn cả với mùa xuân. Sự tương hợp giữa mùa xuân và tín hiệu thẩm mỹ “bướm” gián tiếp phản ánh với chúng ta nhiều điều về thế giới tâm hồn nhà thơ. Các cấu trúc thời gian sự kiện với những biểu hiện phi tuyến tính, thời gian giả định, thời gian ước lệ cũng là những nét đặc sắc khác trong biểu hiện thời gian nghệ thuật.
Những gửi gắm qua tín hiệu thẩm mỹ “vườn” cùng những nỗi niềm giăng mắc giữa nông thôn - thành thị khiến thơ Nguyễn Bính kín đáo thổ lộ một tấm tình chứa chan với quê hương đất nước. Bên cạnh tín hiệu thẩm mỹ chỉ không gian “vườn”, hai tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc khác là “bướm” và “rượu” cho ta hiểu một cách đầy đủ hơn về nhân sinh quan, thế giới quan của nhà thơ cũng như phản ánh tâm trạng chung của cả một tầng lớp trí thức tiểu tư sản nửa đầu thế kỷ XX. Hệ thống các từ ngữ điển tích điển cố chiếm một vị trí quan trọng trong các sáng tác trước 1945 làm hiện lên một Nguyễn Bính cổ kính, trầm lắng với chất thơ của Đường thi, in bóng nhiều kiệt tác trong nền thơ cổ điển của người Việt.
Hệ thống các từ ngữ điển tích điển cố cũng phản ánh con đường xuất thân thi ca của tác giả (học chữ Hán từ nhỏ), thể hiện một kiến văn dày dặn, uyên bác, đồng thời việc vận dụng điển tích điển cố cũng bày tỏ được nỗi niềm thời thế tình cảm sâu nặng với dân tộc trong hoàn cảnh còn mất độc lập tự chủ, âm thầm đợi chờ và hy vọng khôn nguôi về một ngày mai tươi sáng hơn.
4. Khu vực các yếu tố ngôn ngữ chỉ con người cũng nói với ta nhiều điểm thú vị về cuộc đời, tính cách cũng như phong cách thơ Nguyễn Bính. Mồ côi mẹ khí mới 3 tháng tuổi, hình ảnh người chị đã chiếm một vị trí quan trọng trong sự nghiệp thơ của ông, như một khát khao được an ủi, sẻ chia để bù đắp đi những thiếu hụt của tình mẫu tử. Có lẽ từ cảm hứng này mà một thiên hướng về “tính nữ” đã phát triển một cách đặc biệt trong thơ Nguyễn Bính, thể hiện qua việc tần số các từ ngữ chỉ phụ nữ nhiều hơn hẳn các từ ngữ chỉ nam giới (cả trong thơ tình cũng như khu vực điển tích điển cố), các từ chỉ mẹ nhiều hơn chỉ bố, đặc biệt là một loạt các đơn vị tên riêng nữ giới đã đi vào nhiều bài thơ tình của Nguyễn Bính, như những bóng hồng không thể phai mờ trong cuộc đời nhà thơ. Cái tôi phóng túng, đa tình, lãng tử của ông vì thế càng bộc lộ rõ nét. Những từ ngữ chỉ con người trong thơ Nguyễn Bính cũng góp phần tạo dựng một không khí nông thôn Bắc Bộ, đậm chất quê mùa, cổ kính với những anh khóa, cô bán rượu, cô hái mơ, thiếu nữ trồng dâu nuôi tằm, cô lái đò, cô thợ nhuộm… Tất cả khắc sâu trong ấn tượng mỗi người đọc và làm nên một chất thơ riêng của thi sĩ chân quê.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TIẾNG VIỆT
1. Aristote (1964), Nghệ thuật thi ca, NXB Văn học, HN.
2. Lại Nguyên Ân (1993), Cuộc cải cách thơ của phong trào Thơ Mới và tiến trình thơ tiếng Việt, Tạp chí Văn học, số 1.
3. Diệp Quang Ban (2003), Giao tiếp văn bản. Mạch lạc liên kết đoạn văn. NXB KHXH, HN.
4. Nguyễn Bính - Về tác gia và tác phẩm (2003), Hà Minh Đức - Đoàn Đức Phương tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo dục, HN.
5. Phan Kế Bính (1930), Việt Hán văn khảo, NXB Trung Bắc Tân văn.
6. Võ Bình (1975), Bàn thêm một số vấn đề về thơ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
7. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, HN.
8. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ), NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN.
9. Đỗ Hữu Châu (1998). Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng. NXB Giáo dục, HN.
10. Đỗ Hữu Châu (1986). Các bình diện của từ và từ tiếng Việt. NXB Khoa học Xã hội, HN.
11. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học (tập 1 và 2), NXB Giáo dục, HN.
12. Vũ Thị Sao Chi (2015). Nhịp điệu ngôn ngữ thơ văn Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, HN.
13. Huỳnh Ngọc Chiến (2001), Lý Hạ quỷ tài quỷ thi, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
14. Mai Ngọc Chừ (2005) Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học (Tái bản). NXB Văn hóa - Thông tin, HN.
15. Mai Ngọc Chừ (2009), Văn hóa và ngôn ngữ phương Đông, NXB Phƣơng Đông, HN.
16. Cao Hữu Công - Mai Tổ Lân (2000), Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường, NXB Văn học, HN.
17. Hoàng Cao Cương (2007), Cơ sở nối kết lời tiếng Việt, T/C Ngôn ngữ số 8+9.
18. Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu thơ trữ tình nhìn từ góc độ loại hình, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
19. Phan Huy Dũng (2001), Nhận diện nhịp điệu thơ trữ tình, Tạp chí Ngôn ngữ, số 16.
20. Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB KHXH, HN.
21. Hữu Đạt (1999), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB KHXH, HN, 1999.
22. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, NXB Văn học, HN.
23. Hà Minh Đức - Bùi Văn Nguyên (1968), Thơ ca Việt Nam: Hình thức và thể loại, NXB KHXH, HN.
24. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vẫn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB KHXH, HN.
25. Bùi Giáng trong cõi người ta (2008), NXB Lao động, Trung tâm Ngôn ngữ văn hoá Đông Tây, HN.
26. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Từ vựng học tiếng Việt (tái bản), NXB Giáo dục, HN.
27. Hồ Thế Hà (2004), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, NXB Văn học, HN.
28. Nguyễn Thị Thanh Hà (2002), Hiện tượng láy với việc tạo tính nhạc trong thơ ca, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
29. Nguyễn Thị Thanh Hà (2002), Giá trị nghệ thuật và các phương thức sử dụng hiện tượng láy trong thơ ca Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học.
30. Hồ Văn Hải (2004), Khảo sát một số đặc trưng ngôn ngữ thơ lục bát hiện đại (trên tác phẩm của một số nhà thơ), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, ĐHKHXH&NV, ĐHQG HN.
31. Dương Quảng Hàm (2002), Việt Nam văn học sử yếu (tái bản), NXB Hội nhà văn, HN.
32. Hoàng Văn Hành (1991). Từ ngữ tiếng Việt trên đường hiểu biết và khám phá. NXB KHXH, HN.
33. Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long. NXB Lao động, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, HN.
34. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, HN. 35. Nguyễn Quang Hồng - Phan Diễm Phương (2017), Âm tiết tiếng Việt và ngôn từ thi ca. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
36. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, NXB Văn hóa Thông tin, HN.
37. Bùi Công Hùng (2001), Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại, NXB Văn hóa Thông tin, HN.
38. Jakobson (2008), Thi học và ngữ học - Lý luận văn học phương Tây hiện đại, Trần Duy Châu biên khảo, NXB Văn học - Trung tâm nghiên cứu Quốc học.
39. Jean Chevalier - Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, NXB Đà Nẵng - Trường viết văn Nguyễn Du.
40. Đinh Trọng Lạc (1993), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB Giáo dục, HN.
41. Đinh Trọng Lạc (1996), 99 biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục, HN.
42. Đinh Trọng Lạc - Nguyễn Thái Hòa (1998), Phong cách học tiếng Việt, NXB Giáo dục, HN.
43. Nguyễn Lai (1991), Ngôn ngữ và sáng tạo văn học, NXB Khoa học Xã hội.
44. Mã Giang Lân (2000), Tìm hiểu thơ. NXB VHTT, HN.
45. Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo dục, HN.
46. Nguyễn Thế Lịch (2001), Ngữ pháp của thơ, Tạp chí Ngôn ngữ.
47. Thanh Lãng (1967), Bản lược đồ văn học Việt Nam, NXB Trình Bày, SG.
48. Nguyễn Hiến Lê (2005) Hương sắc trong vườn văn (Tái bản). NXB Văn hóa Thông tin, HN.
49. Nguyễn Hiến Lê (1964), Đại cương văn học sử Trung Quốc (3 quyển), NXB Nguyễn Hiến Lê, Sài Gòn.
50. Hồ Lê (1976). Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
51. Nguyễn Văn Ngọc (1967), Tục ngữ phong dao. NXB Mặc Lâm.
52. Hoàng Kim Ngọc - Hoàng Trọng Phiến (2011), Ngôn ngữ văn chương, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
53. Phan Ngọc (1991), Thơ là gì?, Tạp chí Văn học, số 1.
54. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Khoa học Xã hội, HN.
55. Phan Ngọc (2002), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, NXB Trẻ, TP, HCM.
56. Tôn Nữ Mỹ Nhật (2006). Cấu trúc và cấu trúc chức năng của diễn ngôn, Tạp chí Ngôn ngữ, số 8.
57. Đái Xuân Ninh (1978). Hoạt động của từ tiếng Việt. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
58. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, NXB KHXH, HN.
59. Hoàng Phê (2002) (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, HN.
60. Hoàng Phê (2003), Logic ngôn ngữ học, Hà Nội - Đà Nẵng.
61. Nguyễn Anh Quế (1988), Hư từ trong tiếng Việt hiện đại, NXB Khoa học Xã hội, HN.
62. Robert Lado (2003). Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa (Hoàng Văn Vân dịch). NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
63. Trịnh Thanh Sơn (2001), Bàn về ngôn ngữ thơ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 6.
64. Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Giáo dục, HN. 65. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, HN. 66. Nguyễn Thanh Tâm (2015), Loại hình Thơ mới Việt Nam (1932 - 1945), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
67. Trần Khánh Thành (2001), Thi pháp thơ Huy Cận, NXB Văn học, HN.
68. Hoài Thanh - Hoài Chân (2002). Thi nhân Việt Nam (Tái bản), NXB Văn học, HN.
69. Nguyễn Thị Việt Thanh (1999), Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt, NXB Giáo dục, HN.
70. Nguyễn Bá Thành (2015), Toàn cảnh thơ Việt Nam 1945- 975, NXB Đại học Quốc gia HN.
71. Trần Khánh Thành (2016) (chủ biên), Nguyễn Thanh Tâm, Vũ Thị Lan Anh, Khuynh hướng tượng trưng và siêu thực trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia HN.
72. Nguyễn Kim Thản - Nguyễn Trọng Báu - Nguyễn Văn Tu (2002). Tiếng Việt trên đường phát triển. NXB KHXH, Hà Nội.
73. Lý Toàn Thắng (2005), Thử đo đếm thơ, Tạp chí Thơ, số 1
74. Lý Toàn Thắng (2011), Đường vào Thi học: Khái niệm và phương pháp, Tạp chí Thơ, số 6.
75. Lý Toàn Thắng (2011), Đường vào Thi học: Các hệ thống thi luật, Tạp chí Thơ, số 7.
76. Lý Toàn Thắng (2015), Thi luật thơ lục bát trong Truyền Kiều, NXB Giáo dục, HN.
77. Nguyễn Văn Tu (1968). Từ vựng học tiếng Việt hiện đại. NXB Giáo dục, Hà Nội.
78. Cù Đình Tú (2001). Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục, HN.
79. Hoàng Tuệ (1996). Ngôn ngữ và đời sống xã hội văn hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội.
80. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. NXB KHXH, HN.
81. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, NXB Gdục, HN, 2008.
82. Đỗ Lai Thúy (1992), Con mắt thơ, NXB Lao Động, HN.
83. Nguyễn Thị Phương Thùy (2008). Nghiên cứu sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt hiện đại thế kỷ XX (trên tư liệu các tập thơ của một số tác giả). Luận án tiến sĩ ngôn ngữ học, Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
84. Phạm Văn Tình (2002), Phép tỉnh lược và ngữ trực thuộc trong văn bản tiếng Việt, NXB KHXH, HN, 2002.
85. Bùi Minh Toán (2016), Ngôn ngữ với văn chương. NXB Đại học Sư phạm, HN.
86. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, NXB Từ điển bách khoa, HN.
87. Nghiêm Thần Tùng (1999). Khái quát về tính phỏng hình, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
88. Văn Nghệ, 2006 - 2008.
89. Văn nghệ trẻ, 2006 - 2008.
90. Vũ Thanh Việt. Thơ tình Nguyễn Bính (biên khảo), NXB Văn hóa thông tin, HN, 2000.
TIẾNG ANH
91. Anderson J. B., Language, Memory and Thought, Hillsdaile, N.Y, 1976.
92. Chomsky N., Language and Mind, N.Y, 1968.
93. Douglas and Mary, Natural Symbols, Pantheon, New York, 1970. 152
94. Lakoff G. and Mark Johnson, Metaphor we live by, University of Chicago Press, 1980.
95. Wellek T., A History of Mordern criticism, Yale University Press, New York, 1965.
INTERNET
96. Thụy Khuê, Thi pháp Nguyễn Bính. Dactrung.com
97. Thụy Khuê, Nguyễn Bính mười hai bến nước. Dactrung.com
98. Thụy Khuê, Nguyễn Bính, đời và thơ bạc mệnh www1.rfi.fr
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Một số tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc trong thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945), Tạp chí Ngôn ngữ, số 2/2009.
2. Đặc điểm vần thơ thất ngôn Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945), Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 7/2013.
3. Đặc điểm vần thơ lục bát Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945), Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, số 2/2015.
4. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945), Tạp chí Ngôn ngữ, số 5/2016
5. Từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945), Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và Giáo dục ngôn ngữ trong nhà trường, Kỷ yếu Hội thảo khoa học 2016, tập 1, tr 541 - 553, NXB Dân Trí.
6. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945), Tạp chí Ngôn ngữ, số 7/2017
7. Nhịp điệu trong thơ Nguyễn Bính (trên cứ liệu thơ trước 1945), Ngôn ngữ và đời sống, số 12/2017
8. Thơ Nguyễn Bính trước 1945 dưới góc nhìn phân tâm học. Kỷ yếu Trăm năm Nguyễn Bính, truyền thống và hiện đại, Viện Văn học - Đại học Văn Lang, NXB Hội nhà văn, tháng 7/2018.
31. Dương Quảng Hàm (2002), Việt Nam văn học sử yếu (tái bản), NXB Hội nhà văn, HN.
32. Hoàng Văn Hành (1991). Từ ngữ tiếng Việt trên đường hiểu biết và khám phá. NXB KHXH, HN.
33. Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long. NXB Lao động, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, HN.
34. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, HN. 35. Nguyễn Quang Hồng - Phan Diễm Phương (2017), Âm tiết tiếng Việt và ngôn từ thi ca. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
36. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, NXB Văn hóa Thông tin, HN.
37. Bùi Công Hùng (2001), Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại, NXB Văn hóa Thông tin, HN.
38. Jakobson (2008), Thi học và ngữ học - Lý luận văn học phương Tây hiện đại, Trần Duy Châu biên khảo, NXB Văn học - Trung tâm nghiên cứu Quốc học.
39. Jean Chevalier - Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, NXB Đà Nẵng - Trường viết văn Nguyễn Du.
40. Đinh Trọng Lạc (1993), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB Giáo dục, HN.
41. Đinh Trọng Lạc (1996), 99 biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục, HN.
42. Đinh Trọng Lạc - Nguyễn Thái Hòa (1998), Phong cách học tiếng Việt, NXB Giáo dục, HN.
43. Nguyễn Lai (1991), Ngôn ngữ và sáng tạo văn học, NXB Khoa học Xã hội.
44. Mã Giang Lân (2000), Tìm hiểu thơ. NXB VHTT, HN.
45. Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo dục, HN.
46. Nguyễn Thế Lịch (2001), Ngữ pháp của thơ, Tạp chí Ngôn ngữ.
47. Thanh Lãng (1967), Bản lược đồ văn học Việt Nam, NXB Trình Bày, SG.
48. Nguyễn Hiến Lê (2005) Hương sắc trong vườn văn (Tái bản). NXB Văn hóa Thông tin, HN.
49. Nguyễn Hiến Lê (1964), Đại cương văn học sử Trung Quốc (3 quyển), NXB Nguyễn Hiến Lê, Sài Gòn.
50. Hồ Lê (1976). Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
51. Nguyễn Văn Ngọc (1967), Tục ngữ phong dao. NXB Mặc Lâm.
52. Hoàng Kim Ngọc - Hoàng Trọng Phiến (2011), Ngôn ngữ văn chương, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
53. Phan Ngọc (1991), Thơ là gì?, Tạp chí Văn học, số 1.
54. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Khoa học Xã hội, HN.
55. Phan Ngọc (2002), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, NXB Trẻ, TP, HCM.
56. Tôn Nữ Mỹ Nhật (2006). Cấu trúc và cấu trúc chức năng của diễn ngôn, Tạp chí Ngôn ngữ, số 8.
57. Đái Xuân Ninh (1978). Hoạt động của từ tiếng Việt. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
58. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, NXB KHXH, HN.
59. Hoàng Phê (2002) (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, HN.
60. Hoàng Phê (2003), Logic ngôn ngữ học, Hà Nội - Đà Nẵng.
61. Nguyễn Anh Quế (1988), Hư từ trong tiếng Việt hiện đại, NXB Khoa học Xã hội, HN.
62. Robert Lado (2003). Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa (Hoàng Văn Vân dịch). NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
63. Trịnh Thanh Sơn (2001), Bàn về ngôn ngữ thơ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 6.
64. Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Giáo dục, HN. 65. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, HN. 66. Nguyễn Thanh Tâm (2015), Loại hình Thơ mới Việt Nam (1932 - 1945), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
67. Trần Khánh Thành (2001), Thi pháp thơ Huy Cận, NXB Văn học, HN.
68. Hoài Thanh - Hoài Chân (2002). Thi nhân Việt Nam (Tái bản), NXB Văn học, HN.
69. Nguyễn Thị Việt Thanh (1999), Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt, NXB Giáo dục, HN.
70. Nguyễn Bá Thành (2015), Toàn cảnh thơ Việt Nam 1945- 975, NXB Đại học Quốc gia HN.
71. Trần Khánh Thành (2016) (chủ biên), Nguyễn Thanh Tâm, Vũ Thị Lan Anh, Khuynh hướng tượng trưng và siêu thực trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia HN.
72. Nguyễn Kim Thản - Nguyễn Trọng Báu - Nguyễn Văn Tu (2002). Tiếng Việt trên đường phát triển. NXB KHXH, Hà Nội.
73. Lý Toàn Thắng (2005), Thử đo đếm thơ, Tạp chí Thơ, số 1
74. Lý Toàn Thắng (2011), Đường vào Thi học: Khái niệm và phương pháp, Tạp chí Thơ, số 6.
75. Lý Toàn Thắng (2011), Đường vào Thi học: Các hệ thống thi luật, Tạp chí Thơ, số 7.
76. Lý Toàn Thắng (2015), Thi luật thơ lục bát trong Truyền Kiều, NXB Giáo dục, HN.
77. Nguyễn Văn Tu (1968). Từ vựng học tiếng Việt hiện đại. NXB Giáo dục, Hà Nội.
78. Cù Đình Tú (2001). Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục, HN.
79. Hoàng Tuệ (1996). Ngôn ngữ và đời sống xã hội văn hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội.
80. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. NXB KHXH, HN.
81. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, NXB Gdục, HN, 2008.
82. Đỗ Lai Thúy (1992), Con mắt thơ, NXB Lao Động, HN.
83. Nguyễn Thị Phương Thùy (2008). Nghiên cứu sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt hiện đại thế kỷ XX (trên tư liệu các tập thơ của một số tác giả). Luận án tiến sĩ ngôn ngữ học, Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
84. Phạm Văn Tình (2002), Phép tỉnh lược và ngữ trực thuộc trong văn bản tiếng Việt, NXB KHXH, HN, 2002.
85. Bùi Minh Toán (2016), Ngôn ngữ với văn chương. NXB Đại học Sư phạm, HN.
86. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, NXB Từ điển bách khoa, HN.
87. Nghiêm Thần Tùng (1999). Khái quát về tính phỏng hình, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
88. Văn Nghệ, 2006 - 2008.
89. Văn nghệ trẻ, 2006 - 2008.
90. Vũ Thanh Việt. Thơ tình Nguyễn Bính (biên khảo), NXB Văn hóa thông tin, HN, 2000.
TIẾNG ANH
91. Anderson J. B., Language, Memory and Thought, Hillsdaile, N.Y, 1976.
92. Chomsky N., Language and Mind, N.Y, 1968.
93. Douglas and Mary, Natural Symbols, Pantheon, New York, 1970. 152
94. Lakoff G. and Mark Johnson, Metaphor we live by, University of Chicago Press, 1980.
95. Wellek T., A History of Mordern criticism, Yale University Press, New York, 1965.
INTERNET
96. Thụy Khuê, Thi pháp Nguyễn Bính. Dactrung.com
97. Thụy Khuê, Nguyễn Bính mười hai bến nước. Dactrung.com
98. Thụy Khuê, Nguyễn Bính, đời và thơ bạc mệnh www1.rfi.fr
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Một số tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc trong thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945), Tạp chí Ngôn ngữ, số 2/2009.
2. Đặc điểm vần thơ thất ngôn Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945), Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 7/2013.
3. Đặc điểm vần thơ lục bát Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945), Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, số 2/2015.
4. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945), Tạp chí Ngôn ngữ, số 5/2016
5. Từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945), Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và Giáo dục ngôn ngữ trong nhà trường, Kỷ yếu Hội thảo khoa học 2016, tập 1, tr 541 - 553, NXB Dân Trí.
6. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945), Tạp chí Ngôn ngữ, số 7/2017
7. Nhịp điệu trong thơ Nguyễn Bính (trên cứ liệu thơ trước 1945), Ngôn ngữ và đời sống, số 12/2017
8. Thơ Nguyễn Bính trước 1945 dưới góc nhìn phân tâm học. Kỷ yếu Trăm năm Nguyễn Bính, truyền thống và hiện đại, Viện Văn học - Đại học Văn Lang, NXB Hội nhà văn, tháng 7/2018.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét