Bài thơ "Tổ quốc" của nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ:
"Xương máu tiền
nhân không gì đo được"
Với dân tộc Việt Nam, Tổ quốc được hình thành qua hằng ngàn
năm lịch sử dựng nước và giữ nước, được xây bằng biết bao xương máu cha ông.
Bài thơ “Tổ quốc” của nhà báo, nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ, Ủy viên
Trung ương đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận và phê bình văn học nghệ thuật Trung
ương, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam đã khơi dậy niềm tự hào dân tộc,
lòng biết ơn công lao dựng nước và giữ nước của các bậc tiền nhân. Đó là kết
tinh của một nỗi niềm đau đáu, một tình cảm sâu nặng của nhà thơ với Tổ quốc,
dân tộc vẫn còn chưa thực sự bình yên. Nhạc sĩ Lê Quang đã dựng bài thơ này
thành Hợp xướng “Tổ quốc”. Sự giao thoa giữa thơ và nhạc đã nhân lên nhiều cảm
xúc đến cho công chúng.
Lời tri ân
Bài thơ “Tổ quốc” được nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ sáng tác vào buổi
tối ngày 1/9/2015, sau khi dự lễ kỷ niệm 70 năm Quốc khánh. Nhà thơ chia sẻ:
“Sau lễ kỷ niệm, tôi có nghĩ sâu hơn rằng, để có 70 năm độc lập, Tổ quốc Việt
Nam ta đã có hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Lịch sử của dân tộc
Việt Nam đầy những trang anh hùng nhưng cũng đầy bi tráng. Do địa chính trị, địa
chiến lược nên đất nước ta luôn phải chịu những cuộc chiến tàn khốc từ các thế
lực bên ngoài. Với những nỗi niềm, tâm tư ấy, tôi đã viết bài thơ “Tổ quốc” như
một lời tri ân đối với các bậc tiền nhân, các thế hệ cha anh đã hy sinh xương
máu cho quê hương. Ngay ngày hôm sau, báo Nhân dân đã đăng bài thơ, và không
lâu sau nhạc sĩ Lê Quang đã đề nghị phổ nhạc bài thơ này”.
Nguyễn Thế Kỷ và đoàn cán bộ Đài TNVN dâng hoa,
dâng hương viếng các anh hùng, liệt sĩ tại Khu du tích lịch sử quốc gia
Truông Bồn, Nghệ An (tháng 6/2017).
|
Bài thơ “Tổ quốc”, ngay từ những lời thơ đầu tiên, nhà thơ
Nguyễn Thế Kỷ đã sử dụng nhiều hình tượng để so sánh sự hy sinh mất mát của tiền
nhân, nhưng không núi xương, sông máu nào so được. Người Việt dù ở miền ngược,
miền xuôi, miền Nam, miền Bắc đều là con Lạc cháu Hồng. Chỉ có tấm lòng hướng về
Tổ quốc, tri ân các bậc tiền nhân, đoàn kết một lòng như trăm người con dù đi
muôn ngả nhưng vẫn cùng bọc trứng, như quả dưa hấu được trồng nơi đảo xa của
người con xa xứ, trôi dạt lênh đênh vẫn đỏ lòng. Chỉ có như nỗi niềm đau đáu của
các thế hệ cháu con hướng về đất mẹ mới làm nên dáng hình Tổ quốc. Những hình
tượng đáng tự hào ấy có lẽ chẳng thể thấy ở một quốc gia nào khác được.
Nếu có thể đo xương máu tiền nhân
Trường Sơn ngút ngàn dễ gì so được
Bao người mẹ, người vợ, người em - nước mắt
Hồng Hà, Cửu Long đâu thể sánh cùng
Bão trường chinh ào ạt mấy ngàn năm...
Ào ạt mấy ngàn năm châu thổ
Những bờ đê chắn lũ, ngăn thù
Cùng bọc trứng trăm con đi muôn ngả
Vẫn thắm lòng dưa hấu chốn biển xa…
“Trong lịch sử vệ quốc hàng nghìn năm, trước là thế lực
phương Bắc, rồi gần đây là Pháp, Mỹ đã có biết bao sự hy sinh của các thế hệ
nghĩa sĩ, liệt sĩ mà không thể nào đong đếm được. Cùng với sự hy sinh xương máu
ấy là biết bao nước mắt của những người mẹ, người vợ, người chị, người em khóc
cho người thân của mình đã ngã xuống trên các chiến trường”, nhà thơ Nguyễn Thế
Kỷ chia sẻ nỗi niềm trước những mất mát của biết bao thế hệ ông cha.
Ào ạt mấy ngàn năm... Thánh Gióng
Mới lên ba đã giáp sắt, tre ngà
Câu thơ thần nhuộm đỏ sông Như Nguyệt
Đỏ Bạch Đằng cuồn cuộn sóng bể xa
Mấy ngàn năm... Vọng Phu xứ Bắc
Phụ Tử bùi ngùi doi đất trời Nam...
Trong bài thơ “Trước nàng Tô Thị” nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ từng
viết về hình ảnh người vợ ngóng chồng trên núi Vọng Phu:
Sau ngàn năm, sau vạn năm
Tôi theo câu hát xa xăm tìm về
Nẻo đường hun hút sơn khê
Vọng canh gió núi vỗ về lời ru
Chiều nao khói lửa mịt mù
Ôm con nàng ngóng chinh phu cuối trời.
“Không phải ngẫu nhiên mà lại có truyền thuyết Thánh Gióng, một
cậu bé lên 3 nhưng khi nghe sứ giả triều đình thông báo giặc Ân cướp nước ta
thì đã đứng dậy, cưỡi ngựa, mặc giáp, nhổ tre quật vào đầu quân xâm lược. Cũng
không phải ngẫu nhiên mà ở hai đầu đất nước lại có núi Vọng Phu, có hòn Phụ Tử.
Phải chăng truyền thuyết hòn Vọng Phu là nỗi niềm của người chinh phụ ngóng chồng,
ngóng người chinh phu nơi biên ải chưa trở về. Đất nước đã đi qua hàng nghìn
năm lịch sử, qua bao nhiêu cuộc chiến tranh vệ quốc, mỗi cuộc chiến tranh lại
như một cơn “giông lốc” dày xéo xóm làng. Nhưng bao “giông lốc” ấy không đè bẹp
được dân tộc ta, mà chính những mất mát chia ly trong “giông lốc” ấy dân tộc ta
lại viết nên những trang sử hào hùng, để mỗi thế hệ tiếp sau luôn tự hào về lớp
lớp cha anh mà noi theo gương sáng.”, nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ chia sẻ những suy
nghĩ của mình về hình ảnh trong các truyền thuyết dân gian, những truyền thuyết
đã làm nên cốt cách, bản lĩnh của một dân tộc anh hùng.
Những cuộc chia ly, những vành khăn trắng
Chẳng nguôi ngoai dù xác giặc chất chồng
Chẳng thể dịu nỗi Rạch Gầm, Xoài Mút
Hiền Lương, Khâm Thiên, Sơn Mỹ, Thổ Chu
Máu Vị Xuyên, Gạc Ma bầm chát
Mạch thơ dẫn từ những truyền thuyết, những dấu ấn lịch sử hào
hùng của hơn 4.000 năm cho tới cuộc chiến tranh chống thực dân, đế quốc và những
ngày hòa bình của hôm nay. Có thể nói khắp nơi trên thế giới, không đất nước
nào như Việt Nam, nơi mỗi làng xã đều có một nghĩa trang liệt sĩ. Hình tượng
người lính bảo vệ đất nước trong hơn 4.000 năm lịch sử luôn có cả sự hào hùng
và bi tráng, chiến thắng luôn gắn liền mất mát, chia ly.
Những câu thơ ẩn chứa lời nhắc nhở thế hệ cháu con về giá trị
của hòa bình. “Sâu trong những câu thơ bi tráng là niềm tự hào về những trang sử
hào hùng, về lịch sử vẻ vang của cha ông hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước,
là một nỗi niềm Tổ quốc chưa thực sự bình yên khi vẫn còn đó những cơn “giông
bão” ở biển Đông, Hoàng Sa vẫn chưa về với đất mẹ”. Nhà thơ chia sẻ về tiếng gọi
được cất lên ở những câu cuối của bài thơ, tiếng gọi “Ôi Tổ quốc” thiêng liêng
trọn vẹn, là nỗi niềm của tác giả, của các thế hệ cháu con với Tổ quốc, biển đảo
quê hương.
"Ôi Tổ quốc, biên cương chưa yên giấc
Đêm quặn lòng máu thịt Hoàng Sa
Ngày đỏ mắt Trường Sa giông bão
Lại bút, gươm giữ cõi, xây nhà”.
Tin tưởng vào thế hệ trẻ.
Những nỗi niềm đau đáu về Trường Sa, Hoàng Sa và một nền hòa
bình chưa trọn vẹn của Tổ quốc đã được nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ thể hiện trong nhiều
bài thơ trước đó. Trong bài thơ “Bâng khuâng Trường Sa” tác giả cũng viết về nỗi
niềm ấy.
Đêm không ngủ, Trường Sa đêm trở gió
Gió hồng hoang ào ạt phía làng xa
Bao xương máu đắp hình hài Tổ quốc
Sự tri ân đối với các thế hệ cha anh cũng chính là lời nhắc
nhở thế hệ hôm nay và mai sau về tình yêu quê hương đất nước, về Tổ quốc thiêng
liêng. Bên cạnh những nỗi niềm, nhà thơ luôn bày tỏ niềm tin vào thế hệ trẻ.
Trong suốt hàng ngàn năm lịch sử dân tộc, dựng nước và giữ nước là hai việc
luôn song hành để tạo nên sức mạnh đương đầu với những cuộc chiến tranh xâm lược.
Câu thơ cuối “Lại bút, gươm giữ cõi, xây nhà” cũng như hình ảnh
“câu thơ yên ngựa” xưa, đó là sự thể hiện khát vọng hòa bình. Cùng với binh đao
để bảo vệ đất nước, cây bút là hình ảnh thể hiện nền văn hiến, là truyền thống
văn hóa, tinh thần, tình đoàn kết dân tộc, bản lĩnh văn hóa làm nên cốt cách của
một dân tộc để xây dựng đất nước.
“Những lớp người đi trước luôn có những lo lắng đối với thế hệ
trẻ, không biết tương lai liệu họ có làm được sứ mệnh như lớp cha ông, xây dựng
và bảo vệ đất nước. Nhưng tôi thì luôn có niềm tin vào thế hệ trẻ ngày nay, họ
sẽ tiếp nối một cách xứng đáng những truyền thống vẻ vang của cha ông, dân tộc”,
nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ chia sẻ về niềm tin của mình đối với thế hệ trẻ, với
tương lai của đất nước.
28/7/2017
Thành Công
Nguồn: vov.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét