1. Anh Thơ chưa học hết Tiểu học nhưng ham văn chương, chịu khó
đọc sách. Anh Thơ xuất hiện trong phong trào Thơ mới với những bài thơ viết về
nông thôn Việt Nam. Thơ của bà thiên về tả cảnh. Đó là cảnh làng quê Việt Nam
êm đềm với những hình ảnh dung dị và thân thuộc. ẩn sau những bức tranh quê
trong sáng thường thoảng chút buồn thương vương vấn chung của nhân vật trữ
tình. Đó là nỗi buồn chung của thơ mới 1930 - 1945.
Anh Thơ tham gia cách mạng từ 1945, từng là ủy viên Ban Chấp
hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa I và II); từ 1971 đến 1975 công tác tại tạp
chí Tác phẩm mới; ủy viên Thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật.
2. Tác phẩm đã xuất bản: Bức tranh quê (thơ, 1941); Xưa (thơ, in chung, 1942); Răng đen (1944); Hương xuân (thơ,
in chung, 1944); Kể chuyện Vũ Lăng (truyện thơ, 1957); Theo
cánh chim câu (thơ, 1960); Đảo ngọc (thơ, 1963); Hoa dứa
trắng (thơ, 1967); Mùa xuân màu xanh (thơ, 1974); Quê chồng (thơ,
1977); Từ bến sông Thương (hồi ký, 1986); Tiếng chim tu hú (hồi
ký, 1995); Lệ sương (thơ, 1995).
Anh Thơ đã được nhận giải thưởng Tự lực văn đoàn năm
1939 với tập thơ Bức tranh quê.
3. Chiều xuân được in trong tập Bức tranh quê,
tập thơ gồm 41 bài viết về nông thôn Việt Nam. Với tập thơ này, Anh Thơ cùng với
Nguyễn Bính, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ đã mang đến cho thơ mới Việt Nam hơi thở
nồng nàn của quê hương Việt Nam.
Bài thơ gồm ba khổ là ba bức tranh vẽ bao cảnh khác nhau của
một vùng quê Việt Nam. Cả ba bức tranh đều đẹp, rất thanh bình nhưng vắng lặng
và gợi buồn.
4. Đọc chậm, để cảm nhận những nét chấm phá rất gợi của bức
tranh chiều xuân.
II- Kiến thức cơ bản
Anh Thơ là một gương mặt nữ của phong trào Thơ mới 1930 -
1945. Với chất nữ tính đậm đà trong sáng tác, bà đã góp phần làm đa dạng giọng
điệu của thơ mới. Tập thơ Bức tranh quê là tập thơ thành công nhất gắn
với tên tuổi của nhà thơ. Và Chiều xuân là bài thơ tiêu biểu cho
phong cách thơ Anh Thơ trước Cách mạng. Bài thơ là một bức tranh quê đẹp và thật
đáng yêu. Mỗi khổ thơ là một bức tranh với những hình ảnh vô cùng quen thuộc và
thân thương đối với người Việt Nam.
Anh Thơ xuất thân trong một gia đình viên chức nghèo nguồn gốc
Nho học ở một thị trấn nhỏ. Tuy học ít nhưng bà lại ham đọc sách và yêu văn
chương. Đứng trước hiện thực đen tối và cảnh mất tự do của cả dân tộc, nhiều
trí thức tiểu tư sản có tấm lòng với dân tộc đã rơi vào tâm trạng buồn chán và
bế tắc. Họ không thể tìm được cho mình con đường thực hiện lý tưởng. Và họ đành
lòng để mình chìm đắm trong nỗi sầu thảm của văn chương. Họ đến với văn chương
như tìm đến cõi mơ, cõi tự do của riêng mình, để quên sầu và quên đời. Vì vậy
mà đến với thơ mới, người ta thấy nỗi buồn nhiều hơn niềm vui. Mà có vui thì
cũng chỉ là vui gượng mà thôi. Vui và sôi nổi như Xuân Diệu cũng luôn ẩn chứa
những hoài nghi, lo lắng và thắc thỏm. Các nhà thơ mới, bằng cách riêng và con
đường riêng của mình đã luôn cố gắng để hoặc là trốn tránh hiện thực hoặc là đối
diện với hiện thực để buồn đau sầu não, hoặc là tự ru mình trong thế giới tưởng
tượng của những giấc mơ ngọt ngào để sống. Họ đã sống hết mình với thơ bằng
trái tim tuổi trẻ luôn căng đầy sự sống và tình yêu quê hương đất nước để mang
đến cho đời những thi phẩm hay.
Anh Thơ là nhà thơ nữ, nên niềm vui, nỗi buồn, tình yêu quê
hương trong thơ bà cũng nữ tính hơn. Thơ của Anh Thơ dịu dàng và đằm thắm. Nỗi
buồn trong thơ bà cũng nhẹ nhàng và sâu lắng hơn. Những nét phong cách ấy đã thể
hiện rõ trong Chiều xuân.
Bài thơ tả cảnh chiều xuân nơi đồng quê Bắc Bộ. Thời gian và
không gian nghệ thuật đều lãng mạn và nên thơ. Buổi chiều là khoảnh khắc dễ nảy
sinh cảm xúc, mà ở đây lại là buổi chiều xuân nơi thôn quê. Nhà thơ đã quan
sát, đã lựa chọn những hình ảnh, những chi tiết rất đặc trưng của cảnh vật để
phác hoạ nên bức tranh mùa xuân.
Bức tranh thứ nhất chọn điểm nhấn là bến đò. Bến đò là hình ảnh
vô cùng quen thuộc, có thể nói là hình ảnh tượng trưng cho những miền quê Bắc Bộ.
Nó đã đi vào thơ ca như là biểu tượng của quê hương. Bức tranh bến vắng được
thi sĩ miêu tả bằng bốn câu thơ:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Một khung cảnh vắng lặng và nên thơ. Mỗi câu thơ đặc tả một
hình ảnh. Và đó là bốn hình ảnh rất đặc trưng của nông thôn Việt Nam: một bến
đò vắng khách với con đò, quán nhỏ và cây xoan đầy hoa tím. Cảnh đẹp, bình yên
nhưng gợi buồn. Bức tranh quê này có thể làm cho tâm hồn con người yên ổn nhưng
không thể bớt buồn.
Bức tranh thứ hai, nhà thơ chọn điểm nhấn là con đê làng. Vẫn
là hình ảnh đặc trưng của những miền quê Bắc Bộ. Hình ảnh con đê đã từng đi vào
thơ ca nhạc hoạ như là biểu tượng của những miền quê. Chàng trai trong thơ Nguyễn
Bính từng “đợi em ở mãi con đê đầu làng” để “van em em hãy giữ nguyên quê mùa”.
Con đê trong buổi chiều xuân qua cảm nhận của nữ thi sĩ không buồn vắng như bến
đò:
Ngoài bờ đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Cảnh vật thân thương và bình yên quá đỗi. So với cảnh bến vắng,
cảnh trên đê vui hơn, sinh động và nhiều sức sống hơn. Một con đê trải dài màu
xanh biếc của cỏ non. Đám cỏ đẫm ướt mưa xuân ấy đã khiến nhà thơ có một liên
tưởng thật độc đáo: đàn trâu bò đang ăn cỏ mà như đang ăn mưa. Thật độc đáo và
nên thơ. Bức tranh gợi cảm giác thanh bình, vắng nhưng chỉ phảng phất buồn, dường
như nỗi cô đơn của bến vắng đã vơi đi phần nào.
Thế nhưng bức tranh quê dù đẹp đến đâu, thanh bình đến đâu
cũng sẽ trống trải nếu thiếu hình ảnh con người. Con người xuất hiện sẽ làm cho
bức tranh có sức sống hơn. Khi vẽ bức tranh mùa thu buồn trong Đây mùa thu
tới, Xuân Diệu đã không quên hình ảnh một người thiếu nữ “Tựa cửa nhìn xa nghĩ
ngợi gì”. Dù “buồn không nói” nhưng hình ảnh thiếu nữ đã mang đến hơi thở của sự
sống cho bức tranh thu. Và phải là thiếu nữ thì mới hợp với vẻ buồn nhưng rất đẹp
và lãng mạn của mùa thu. Hàn Mặc Tử khi vẽ một bức tranh thôn Vĩ đẹp và tràn đầy
sức sống ở Đây thôn Vĩ Dạ cũng điểm một “gương mặt chữ điền” thấp
thoáng sau vòm lá. Thiên nhiên và con người trong thơ mới luôn có sự giao hoà bởi
các nhà thơ mới tìm đến với thiên nhiên như tìm đến với cõi tâm linh, với thế
giới thanh bình để giải thoát mình khỏi sự phũ phàng của hiện thực.
Và tất nhiên, bức tranh quê của nữ thi sĩ Anh Thơ cũng không
có lí do gì lại thiếu vắng con người:
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Bức tranh cánh đồng là bức tranh nhiều sắc màu và sinh động
nhất. Đặc biệt sự xuất hiện của “cô nàng yếm thắm” đã làm cho cảnh vật đẹp và
nên thơ hơn. Hình ảnh thơ bộc lộ chất lãng mạn trong tâm hồn nữ thi sĩ hiếm hoi
của phong trào Thơ mới này. Nhà thơ đã khéo tạo nên tình huống cho sự xuất hiện
của cô nàng yếm thắm. Cái giật mình của cô gái được tạo nên bởi “Lũ cò con chốc
chốc vụt bay ra” là một điểm nhấn nghệ thuật của bài thơ. Nó diễn tả được vẻ
say sưa lao động của cô gái và quan trọng hơn nó đã làm nổi bật được vẻ tĩnh lặng
của chiều xuân. Nhà thơ đã vận dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh để làm nổi bật
hơn cái thanh bình đến vắng lặng chốn đồng quê.
Ba bức tranh vẽ ba cảnh khác nhau nơi đồng quê trong một thời
điểm và đều ẩn dưới làn mưa xuân bay nhè nhẹ. Đó là ba bức tranh đẹp, có sức sống
và gợi tả thành công sự tĩnh lặng và thanh bình của chốn thôn quê. Nhưng cũng
chính cái vẻ thanh bình ấy khiến cho bài thơ phảng phất nỗi buồn. Nhiều người vẫn
nói đó là nỗi buồn đặc trưng của thơ mới, nỗi sầu nhân thế của một lớp thanh
niên trí thức Việt Nam những năm ba mươi.
Chiều xuân là bức tranh đẹp về làng quê Việt Nam. Nó thể
hiện lòng yêu quê hương đất nước của thi sĩ. Vẻ đẹp của bài thơ có sức lay động
tâm hồn con người, khiến mỗi người có cơ hội để hồn mình lắng xuống sau những
sôi động xô bồ của cuộc sống đời thường để “thấy quê mình vẫn đẹp vẫn thân
thương”. Có thể Chiều xuân không được xếp vào hàng những thi phẩm xuất
sắc nhất của phong trào Thơ mới nhưng thi phẩm này sẽ có sức sống trong lòng những
bạn đọc yêu thơ vốn yêu cuộc sống thanh bình và vẻ đẹp truyền thống của những
làng quê Việt Nam.
III- Liên hệ
Chọn chiều mưa bụi, Anh Thơ có dịp nói được cái đặc sắc của
thời tiết xứ Bắc. Nông thôn ta hồi đó thưa vắng (cả nước hai mươi triệu dân), nền
kinh tế tiểu nông càng khép kín xóm làng, cuộc sống yên tĩnh, có phần ngưng đọng.
Trong chiều mưa lạnh này, nơi bến sông rìa làng càng tiêu điều vắng vẻ. Một
khung cảnh không âm thanh, không sắc màu tươi sáng: mưa rơi rất êm, bến rất vắng,
có được con đò thì cũng lười biếng bất động, một quán nước không người. Động đậy
một chút chỉ là những cánh hoa xoan tím rụng tơi bời. Nhưng những cánh hoa ấy lại
quá nhỏ và nhẹ, nó lẫn với màn mưa rồi cùng chìm vào cái vắng và lặng của trời
chiều.
Ba đoạn thơ là ba khung cảnh. Cảnh đầu tiên là bến vắng. Cảnh
hai là đường đê. Vẫn làn mưa bụi ấy bay dăng nhưng đã có sự hoạt động: có đàn
sáo khi bay khi đậu, có trâu bò gặm cỏ, và những cánh bướm rập rờn trôi
trước gió. Đoạn thơ có nhiều nét tươi mát và thơ mộng, chứng tỏ người viết biết
quan sát và lại có hồn thơ nên cảnh vừa thực lại vừa có cái kì ảo, như câu thơ
: Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa hay cái sắc cỏ non tràn biếc
cỏ và đàn sáo mổ vu vơ. Những ý thơ ấy điểm xuyết cho những câu thơ tả
thực, tạo nên cái lung linh sinh động của cảm giác, ảo giác. Có những cảnh bình
thường, quen thuộc, hàng ngày ai cũng thấy, qua mắt nhìn Anh Thơ bỗng nhiên mới
mẻ đầy kỳ thú. Nhìn, đã thành một phát hiện. Năng khiếu thơ chính ở chỗ này, nó
phải thấy được những gì mà người thường không thấy.
Nhắc đến nhà thơ Anh Thơ người độc giả lại nhớ về hình ảnh một
nữ thi sĩ tiêu biểu của phong trào thơ Việt Nam hiện đại. Tuổi thơ êm đềm đã từng
gắn liền với đồng ruộng cánh cò quê hương sớm chiều mưa hay nắng, chính điều
này là nền tảng khơi nguồn cho dòng suối cảm xúc thơ trong bà với phong cách
thơ bình dị mà sâu sắc qua từng câu chữ, qua bao hình ảnh của cảnh sắc nông
thôn quê hương nhẹ nhàng được gợi tả một cách khéo léo.Càng ấn tượng hơn khi bà
đến với thơ ca như con đường giải thoát khỏi cuộc đời tù túng, buồn tẻ và tự
khẳng định giá trị người phụ nữ trong xã hội đương thời.Tập thơ “bức tranh quê”
đầu tiên ra đời chan chứa những gì mộc mạc và dung dị, đặc biệt qua bài thơ
“chiều xuân”, một bức tranh về cảnh mây trời tắt nắng trong sắc xuân tươi đẹp.
Những cơn mưa xuân đặc trưng nơi miền Bắc là những
cơn mưa bụi li ti rơi nhẹ tắm mát cho chồi non ngọn cỏ thêm xanh tươi, mưa xuất
hiện trong dòng thơ đầu tiên rất đỗi lặng lẽ trên bến đò vắng, cảnh vật thoáng
buồn và chút tĩnh lặng, se thêm cái lạnh của tâm hồn bằng sự trống trải:
“Mưa bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi”
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi”
Từng giọt mưa mãi rơi hững hờ và “êm êm” trước mắt
nhà thơ. Từ láy gợi tả hình ảnh những giọt mưa rơi nhẹ điểm xuyết cho khung cảnh,
không ồn ào vồn vã hay nặng hạt mà có chút gì như chầm chậm theo từng khoảnh khắc
thời gian.Bến sông thì thưa khách đi đò chiều, vắng mênh mông, không gian rộng
hơn và sự trống trải lan tỏa vào tâm hồn.Con đò nhỏ sau một ngày làm việc chở
khách ngược xuôi trên dòng sông quê hương bây giờ nằm đấy và lắng vào phút giây
nghỉ ngơi, mạn đò lung lay theo sóng nhỏ, vô tình trôi bềnh bồng theo nước
sông. Như thế đấy ta có cảm giác nhịp mưa rơi nhịp sóng vỗ nhẹ nhịp đò trôi hòa
theo nhau tạo nên bức tranh giản dị nhưng sâu lắng bao cảm xúc. Ánh mắt nhà thơ
chuyển hướng và cũng bắt gặp sự yên tĩnh đang bao trùm:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
Quán tranh được nhà thơ nhân hóa qua động từ “đứng”.
Không chỉ là “đứng” mà là “đứng im lìm” và “trong vắng lặng”, từ láy nối tiếp động
từ như nhân thêm sự trống vắng không chỉ riêng bến sông gây hiệu ứng mạnh trong
khổ thơ. Nơi quán tranh này là trung tâm của hoang vắng và xơ xác khi ngày sắp
kết thúc. Hoa tím rụng “tơi bời” vào những phút cuối của ngày dài. Dường như
không chỉ con người mệt mỏi mà vạn vật cũng rã rời, trút bỏ tàn dư cuối cùng. Thời
gian thì cứ mỗi phút trôi qua mang theo sự rộn ràng hối hả của ban ngày và thay
thế là chiếc áo khá buồn tẻ vì cô đơn và vắng lặng khắp nơi. Khổ thơ thứ hai hiện
lên bằng những hình ảnh được thu gọn vào tầm mắt nhà thơ:
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ”
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ”
Đường đê rộng đôi bờ chạy dài và mơn mởn bao ngọn
cỏ xanh tươi, màu sắc của câu thơ chính là màu “biếc” của cỏ. Ngòi bút nhà thơ
tạo những nét chấm phá màu sắc khá đẹp, cảnh thoáng buồn của khổ một bây giờ
như được dung hòa lại bằng chính màu sắc của sự sống dù chỉ là ngọn cỏ. Đến đây
không gian bớt đi màu tàn phai nhường chỗ cho màu biếc rạng rỡ, cái tĩnh lặng
cũng tan dần theo tiếng vỗ cánh của đàn chim sáo đen đang sà xuống. Chúng vô tư
như những đứa trẻ nghịch trên đồng qua cách miêu tả tinh tế “mổ vu vơ”. Không
phải “mổ vu vơ” mà thực ra chúng đang mổ những con mồi bé nhỏ nhưng trong mắt
nhà thơ hình ảnh đó khá là dễ thương và mang cảm giác thanh bình hạnh phúc vì
cuộc sống tự do và khoáng đạt. Không dừng lại bấy nhiêu đó, hình ảnh tiếp theo
mang lại cho độc giả cái nhìn hơi ngỡ ngàng vì những điều bình dị mà không bao
nhiêu người cảm nhận được:
“Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”
Gió lướt qua thổi mát khung cảnh và không ít lần
làm nghiêng nghiêng cánh bướm, khả năng dùng từ láy khá là phong phú “rập rờn”, nhà
thơ miêu tả cái cách chú bướm nhỏ muốn bay nhưng không sao vựơt qua sức ép của
cơn gió nên đôi cánh kia cứ mãi chao đi chao lại theo làn gió thổi. Động từ
“trôi” càng tô đậm thêm hình ảnh cánh bướm nhỏ bị cơn gió kia hững hờ mang đi.
Từng đợt gió đến rồi đi và tiếp tục thổi cho cánh bướm mãi “rập rờn” chao
nghiêng. Thấp hơn cánh bướm là những chú trâu bò đang từ tốn nhai cỏ non một
cách “thong thả”, chậm rãi như tận hưởng hạnh phúc. Mưa vẫn còn rơi và vương hạt
mưa lên ngọn cỏ cho ta cảm giác trâu bò đang thưởng thức chính “mưa”. Nhịp thơ
không nhanh mà theo nhịp hoạt động của muôn vật. Đây là khoảng thời gian mọi thứ
trở nên lắng đọng và chầm chậm trôi xua đi mỏi mệt dần tan biến. Đến khổ thơ cuối
cùng của bài thơ, không gian mở rộng khắp phía và làm hoàn chỉnh bức tranh “chiều
xuân” thơ mộng của thi sĩ Anh thơ:
“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.”
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.”
Quê hương tươi đẹp bởi những cánh đồng xanh rì
ngọn lúa rung rinh xào xạc theo đợt gió thổi về, còn thấm đẫm những giọt mưa bụi
lất phất. Lũ cò con lông trắng là hình ảnh gắn liền với ruộng đồng, với bầu trời
thôn quê, với cơn gió mát chiều về, nghịch ngợm bay ra vội vàng hối hả làm xao
động cả góc trời, chúng tung cánh tự do phiêu lãng và vô tình làm giật mình một
cô gái nông thôn đang cần mẫn làm việc bởi âm thanh bay lên của những đôi cánh.
Cô gái trong câu thơ vẫn chăm chỉ làm nốt những công việc cuối cùng của ngày sắp
tàn và cũng là những gì hiện lên trước mắt nhà thơ sau chót. Khung cảnh thanh
bình tràn đầy sức sống, hoạt động của muôn vật đã xây dựng nên nhịp sống vui
tươi nơi đây dù thời gian trôi gần hết ngày.
Nghệ thuật sử dụng từ ngữ, khéo léo dùng ngòi
bút của mình vẽ nên những hình ảnh bình dị nhưng thật ấm áp và chan chứa vẻ đẹp
cuộc sống, bên cạnh đó theo dòng thơ mạch cảm xúc của người đọc được dâng lên
và nhờ đó ta cảm nhận sâu nhất tình cảm cảm xúc của nhà thơ, đây chính là thành
công khẳng định giá trị của bài thơ.
Đôi lúc nhịp thơ chầm chậm nhẹ nhàng sâu lắng
đôi lúc lại mang đến cảm giác rộn ràng và vui vẻ, cả bài thơ như bài nhạc muôn
giai điệu phong phú làm rung động trái tim suy nghĩ của người đọc bài thơ. Tấm
lòng yêu thơ ca và yêu những gì thân thuộc giản dị của quê hương cùng tài năng
là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên thành công của bài thơ “Chiều xuân”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét