Thứ Tư, 22 tháng 1, 2020

Thành tựu và những vấn đề đặt ra trong đời sống văn học nghệ thuật thời kỳ đổi mới

Thành tựu và những vấn đề đặt ra trong 
đời sống văn học nghệ thuật thời kỳ đổi mới
S
ự phát triển của đời sống văn học, nghệ thuật Việt Nam những năm qua vừa là sự vận động nội tại của chính nó, đồng thời còn chịu tác động của nhiều nhân tố khách quan. Đó là thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, sự biến đổi công chúng nghệ thuật, quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội; tác động đa chiều của cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quá trình hội nhập và giao lưu văn hóa quốc tế ngày càng sâu rộng. Những tác động đó cũng là bối cảnh, là hiện thực khách quan kích thích, gợi mở cảm hứng sáng tạo của văn nghệ sĩ.
1. Nhìn chung dòng mạch chính của đời sống văn học, nghệ thuật là chủ nghĩa yêu nước, sự gắn bó với dân tộc, nhân dân, phản ánh chân thật cuộc sống lao động, đấu tranh và xây dựng của nhân dân ta trong những năm vừa qua. Nhiều tác phẩm thuộc tất cả các loại hình nghệ thuật (văn học, âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, điện ảnh, múa, nhiếp ảnh, kiến trúc…) vừa tiếp tục truyền thống tốt đẹp của văn học, nghệ thuật trong thời kỳ chiến tranh cách mạng, đồng thời có nhiều tìm tòi về nội dung phản ánh, mở rộng phạm vi chiếm lĩnh hiện thực, phát hiện được những vấn đề nóng bỏng, bức xúc của đời sống trên nhiều bình diện, nhiều góc cạnh khách nhau. Sự đa dạng về nội dung và phương thức thể hiện là một dấu hiệu mới của văn học, nghệ thuật những năm qua.
Bên cạnh khuynh hướng tiếp tục phản ánh các đề tài lịch sử, chiến tranh cách mạng, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc với cảm hứng sử thi và tầm khái quát mới, là sự phát triển mạnh khuynh hướng quan tâm đến cuộc sống bình dị, nhiều góc cạnh đời thường của con người, làm phong phú hơn và làm sâu thêm chủ nghĩa nhân văn của văn học, nghệ thuật hôm nay. Văn học, nghệ thuật đã trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh hoàn thiện con người, làm lành mạnh các quan hệ xã hội, nhạy bén và mạnh dạn phơi trần, lên án, tố cáo cái xấu xa, độc ác, đến tối, các biểu hiện biến chất, thoái hóa về nhân cách, đạo đức, lối sống của con người. Tính chiến đấu của văn học, nghệ thuật có tác dụng cảnh báo, phản biện có hiệu quả, góp phần ngăn chặn xu hướng tiêu cực đang nảy sinh trong đời sống xã hội.
Đạo đức xã hội là một chủ đề lớn thu hút sự quan tâm của các ngành nghệ thuật, thể hiện trách nhiệm xã hội và vai trò công dân của văn nghệ sĩ. Ý thức về truyền thống và bản sắc dân tộc trong nhiều tác phẩm được thể hiện sâu sắc hơn. Sưu tầm, nghiên cứu được nhiều tác phẩm sử thi – di sản văn nghệ dân gian, có giá trị.
Một dấu hiệu mới của đời sống văn học, nghệ thuật những năm qua là khuynh hướng hiện đại hóa các phương thức biểu hiện, tích cực tìm tòi, thể nghiệm hình thức diễn đạt mới. Gắn liền với khuynh hướng đó là sự phát triển khá mạnh, có phần xô bồ của các thể loại, các sản phẩm nghệ thuật mang tính thể nghiệm được biểu hiện rõ nhất trong văn học, âm nhạc trẻ, trong hội họa, nghệ thuật trình diễn, sắp đặt, trong múa hiện đại và sân khấu thể nghiệm…
Sự xuất hiện và phát triển của lực lượng sáng tác trẻ với những dấu hiệu, đặc điểm mới trên hầu hết các loại hình nghệ thuật đem đến một sinh khí mới, triển vọng phát triển mới trong văn học, nghệ thuật thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc chấp nhận và thể hiện chức năng giải trí như là một nhu cầu của công chúng nghệ thuật bên cạnh các chức năng cơ bản khác là một dấu hiệu mới góp phần mở rộng ảnh hưởng của văn học, nghệ thuật và đáp ứng một nhu cầu chính đáng của công chúng.
Tự do, dân chủ trong sáng tác ngày càng được tôn trọng và mở rộng, dấu ấn cá nhân, cá tính sáng tạo ngày càng đậm nét trong các sản phẩm văn nghệ.
2. Do thực tiễn đời sống văn học, nghệ thuật đã thay đổi cơ bản, những năm qua, các nhà lý luận đã cố găng phát huy tính chủ động trong việc đổi mới quan niệm về văn học, nghệ thuật. Mối quan hệ giữa văn nghệ với chính trị, giữa hiện thực và nghệ thuật được hiểu rộng rãi và khoa học hơn, tính chủ thể của văn nghệ sĩ được coi trọng, phạm vi đời sống phản ánh vào văn học, nghệ thuật được mở rộng, đa dạng hóa. Tư tưởng văn nghệ truyền thống của ông cha xưa được nghiên cứu có hệ thống. Xu hướng tiếp thu lý luận phương Đông khá mạnh. Các thành tựu văn học, nghệ thuật thế kỷ XX được đánh giá lại thỏa đáng. Một sống phương pháp nghiên cứu, phê bình văn nghệ phi truyền thống như phong cách học, thi pháp học, phân tâm học được vận dụng, bước đầu đem lại những kết quả mới. Một số khái niệm lý luận cũ được điều chỉnh, nhiều khái niệm mới được sử dụng trong thực tiễn nghiên cứu lý luận. Một số giáo trình lý luận văn học, nghệ thuật ở đại học được bổ sung những kiến thức mới, viết lại phong phú và cập nhật hơn. Nhiều tác phẩm lý luận văn nghệ của nước ngoài được dịch, giới thiệu. Nhiều trường phái nghiên cứu văn học, nghệ thuật phương Tây trước đây không có điều kiện phổ biến ở Việt Nam như: chủ nghĩa cấu trúc, phân tâm học, chủ nghĩa hình thức, phê bình mới, ký hiệu học, giải thích học, cả tác phẩm của những tác giả từng bị coi là chủ nghĩa xét lại hiện đại như Lukas cũng được giới thiệu, dịch và xuất bản. Có thể nói, tuy mới là bước đầu, song lý luận văn nghệ của chúng ta đang trong quá trình đổi mới.
Trước khi công cuộc đổi mới được khởi xướng đã xuất hiện nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật và lý luận, phê bình như những dấu hiệu báo trước của thời kỳ đổi mới.
Trong hoàn cảnh đó, phê bình văn học, nghệ thuật thật sự đóng vai trò là bà đỡ cho nhiều tác giả, tác phẩm; phát hiện sớm những cái hay, cái đẹp về nội dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật; hướng dẫn thị hiếu của công chúng thưởng thức nghệ thuật; tạo diễn đàn giữa nhà văn với công chúng; khích lệ những tìm tòi, sáng tạo và củng cố niềm tin cũng như dũng khí đổi mới ở người sáng tác văn học, nghệ thuật. Phê bình văn nghệ đã góp phần khắc phục lối phê bình xã hội học dung tục, võ đoán, quy chụp chính trị hoặc trì trệ, bảo thủ không theo kịp sự phát triển. Thông qua sinh hoạt phê bình, một số vấn đề liên quan đến hệ thống chuẩn mực các giá trị văn học, nghệ thuật và hệ thống lý luận mỹ học đã bước đầu được phát triển và lý giải. Đó là các vấn đề về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa; văn nghệ phản ánh hiện thực; chức năng văn nghệ; đánh giá thành tựu văn học, nghệ thuật cách mạng và kháng chiến v.v… Với những phát hiện có nhiều tìm tòi, sáng tạo trong giai đoạn này, phê bình văn học, nghệ thuật đã tiếp cận được những  vấn đề lý luận thiết yếu, đề xuất và gợi mở hướng tư duy để tạo đà cho trào lưu đổi mới diễn ra từ năm 1986 đến nay.
Một thành tựu rất quan trọng của phê bình văn học, nghệ thuật thời gian qua là đấu tranh với những xu hướng cực đoan, đối lập văn nghệ với chính trị, phủ nhận thành tựu văn nghệ cách mạng, phủ nhận sự thật lịch sử, tuyệt đối hóa hình thức, góp phần định hướng sáng tác và lý luận công chúng của toàn xã hội.
Cống hiến rất quan trọng của công tác phê bình văn nghệ vừa qua là kiên định và thống nhất nhận thức khi đặt đổi mới văn nghệ là một bộ phận của đổi mới đất nước, văn nghệ phải góp phần vào ổn định và phát triển chung.
3. Dấu hiệu và đặc điểm nổi bật trong những năm qua là sự phát triển mạnh mẽ, ồ ạt của các phương thức sử dụng và truyền bá các sản phẩm văn học, nghệ thuật làm cho lượng tác phẩm đến với công chúng, đi vào đời sống xã hội tăng lên đáng kể, vào từng ngõ ngách của đời sống, của cộng đồng và vào từng gia đình. Hệ thống báo chí, phát thanh, truyền hình là phương thức chuyển tải nhanh nhậy, cập nhật và hiệu quả các sản phẩm văn học, nghệ thuật trong nước và nước ngoài.
Việc tổ chức các triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh, các gallery nghệ thuật của tập thể và cá nhân mở ra ở khắp nơi làm cho thị trường mỹ thuật phát triển mạnh và có biểu hiện tự phát, khó kiểm tra, đánh giá. Hàng năm, số lượng triểm lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh lên tới hơn 300 cuộc…
Hoạt động biểu diễn nghệ thuật (ca múa nhạc, sân khấu…) phát triển đa dạng, ồ ạt với nhiều phương thức mới. Ngoài hoạt động biểu diễn của các đoàn nghệ thuật của Nhà nước, địa phương, của các tổ chức chính trị, xã hội, bộ, ngành còn có các hoạt động biểu diễn của các công ty dịch vụ văn hóa tư nhân, sự liên kết, phối hợp của các đơn vị khác nhau tổ chức các chương trình biểu diễn tổng hợp, ca múa nhạc trẻ, kết hợp với thời trang, thi người mẫu, người đẹp… Công chúng trẻ là đối tượng trung tâm của các hoạt động nghệ thuật này.
Hoạt động xuất bản và phát hành xuất bản phẩm, văn hóa phẩm cũng phát triển mạnh, trong đó sách văn học, nghệ thuật (cả sáng tác, lý luận và phê bình) chiếm gần 20% tổng số bản sách xuất bản hàng năm.
Sôi động và có nhiều phương thức hoạt động mới là khâu phát hành với sự liên kết giữa các nhà xuất bản và một số công ty phát hành sách nhà nước và tư nhân đang chi phối mạnh hoạt động phát hành trong cả nước. Đã và đang phát triển một thị trường các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật ở nước ta, một đặc điểm mới chưa từng có trong những năm trước đây - thời kỳ bao cấp sản phẩm văn hóa, nghệ thuật. Tác phẩm văn học, nghệ thuật cùng với giá trị tinh thần của nó đã trở thành hàng hóa, tuân theo quy luật của thị trường, có tác động tích cực đối với người sáng tạo và công chúng đồng thời xuất hiện những tác động tiêu cực đối với đời sống văn nghệ. Đó là đặc điểm mà những năm qua chúng ta chưa lường hết và chưa dự báo đúng, có lúc, có nơi rơi vào thế bị động, chưa có những chính sách, giải pháp thích hợp với thực tiễn đời sống văn nghệ.
4. Nhìn tổng quát, tình hình đội ngũ hoạt động văn học, nghệ thuật Việt Nam trong những năm gần đây như sau: được hình thành và phát triển trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt của dân tộc từ đầu thế kỷ XX đến nay, được rèn luyện, thử thách trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, giải phóng vào bảo vệ Tổ quốc vô cùng gian khổ và hào hùng, đội ngũ này gắn bó sâu sắc với cuộc sống của nhân dân, được sự lãnh đạo, quan tâm, tin tưởng và quý trọng của Đảng, là lực lượng tin cậy, trung thành, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp chung, có tình yêu sâu sắc với dân tộc, đất nước và nhân dân, tâm huyết với nghề nghiệp, đã trực tiếp tạo nên một nền văn học, nghệ thuật cách mạng của dân tộc ta trong thời kỳ mới với nhiều công trình, tác phẩm có giá trị sâu sắc và bền vững. Khẳng định lại đặc điểm cơ bản này để tránh hai xu hướng, một là, muốn tách đội ngũ này ra khỏi sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, hai là thiếu sự tin tưởng, tin cậy đối với đội ngũ, khi nhận thấy một số dấu hiệu mới đáng lo ngại xuất hiện gần đây. Cả hai xu hướng đó đều trái với đường lối, quan điểm của Đảng về tập hợp, chăm sóc và phát triển đội ngũ văn học, nghệ thuật nước ta.
Hiện nay, đội ngũ văn học, nghệ thuật ở nước ta bao gồm 5 thế hệ cơ bản và đang có một quá trình “chuyển giao đặc biệt” giữa các thế hệ đó.
Thế hệ thứ nhất là các văn nghệ sĩ lão thành bắt đầu hoạt động sáng tạo từ trước Cách mạng tháng Tám, và trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Thế hệ thứ hai hình thành trong kháng chiến chống Pháp và phát triển mạnh mẽ trong kháng chiến chống Mỹ. Thế hệ thứ ba hình thành trong những năm xây dựng hòa bình ở miền Bắc và những năm đầu trong cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, là lực lượng chủ lực trong kháng chiến chống Mỹ và tiếp tục khẳng định vị trí của mình trong những năm cuối thế kỷ XX. Thế hệ thứ tư hình thành vào cuối những năm chống Mỹ và phát triển mạnh trong những năm sau chiến tranh, từ năm 1975 đến nay. Thế hệ thứ năm thường được gọi là 8X, thế hệ trẻ nhất, bắt đầu hình thành và để lại dấu ấn riêng trong khoảng 10 năm trở lại đây.
Có ba đặc điểm cần lưu ý khi nhìn nhận các thế hệ trên. Một là, sự phân chia trên chỉ là tương đối nhằm nhấn mạnh một số đặc điểm riêng của từng thế hệ, gắn bó với đặc điểm của từng giai đoạn lịch sử. Hai là, luôn luôn vừa có sự khác biệt, vừa có sự tác động và xuyên thấm lẫn nhau giữa các thế hệ. Và ba là, sự chuyển tiếp giữa các thế hệ là sự phát triển tất yếu. Mỗi thế hệ có thế mạnh riêng do những hoàn cảnh lịch sử, xã hội khác nhau vừa kích thích, kế thừa vừa bổ sung cho nhau. Tuyệt đối không thể đối lập thế hệ này với thế hệ khác, tạo nên những xung đột, mâu thuẫn giả tạo làm tổn thương đến sự gắn kết truyền thống của đại gia đình văn nghệ và ý nghĩa của một đoàn thể chính trị - xã hội - nghề nghiệp có truyền thống quý báu.
5. Nhìn khái quát, công tác đào tạo đội ngũ hoạt động và sáng tạo văn học, nghệ thuật thời gian qua đã có một bước phát triển về quy mô, mạng lưới, loại hình, trình độ và số lượng. Tính đến năm 2008, toàn quốc có 55 cơ sở đào tạo về văn hóa, nghệ thuật trong đó có 11 trường đại học, 16 trường cao đẳng và 28 trường trung cấp chuyên nghiệp. Ngoài các ngành thuộc lĩnh vực văn hóa, hầu hết các trường đại học và cao đẳng đều có đào tạo các ngành về sáng tác, đạo diễn, chỉ huy, biểu diễn, lý luận, phê bình thuộc các loại hình nghệ thuật: âm nhạc, múa, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh, văn học, nhiếp ảnh. Hiện nay, với tổng số 35 danh mục các ngành đào tạo đại học, cao đẳng thuộc các lĩnh vực trên chứng tỏ công tác đào tạo đã bao quát được hầu hết các ngành nghề cần thiết cho hoạt động sáng tạo và biểu diễn, lý luận và phê bình văn học, nghệ thuật.
Những năm qua, các trường đại học, cao đẳng nghệ thuật đã có nhiều cố gắng xây dựng chương trình đào tạo, bước đầu khắc phục việc giảng dạy theo kiểu truyền nghề; một số khoa, trường đã tập trung biên soạn giáo trình; công tác đào tạo sau đại học bước đầu thu được kết quả khả quan, giúp cho sự phát triển một số tài năng nghệ thuật.
Giáo viên lĩnh vực văn học, nghệ thuật cũng có bước phát triển nhất định, trình độ chuyện môn, nghiệp vụ được nâng cao. Tỷ lệ giảng viên có trình độ sau đại học tăng hơn trước, ở các trường Trung ương, có 40 giáo sư (kể cả giáo sư thỉnh giảng, 174 phó giáo sư, 7 tiến sĩ khoa học, và 225 tiến sĩ...).
Thời gian qua, một số trường được nâng cấp đào tạo, đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị. Các trường văn hóa, nghệ thuật được xếp vào loại trường chuyên biệt, giáo viên và một số ngành đào tạo được hưởng chế độ ưu tiên nhất định.
6. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn lãnh đạo và thực tiễn văn nghệ, nhạy cảm trước nhu cầu phải đổi mới tư duy trên lĩnh vực đặc thù này, những năm qua, trong các văn kiện Đại hội, Đảng đã khẳng định một loạt quan điểm mới về văn học, nghệ thuật, đặc biệt trong Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị (1987) và Nghị quyết 5 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII), 1998 về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Những quan điểm cơ bản cốt lõi và đổi mới, như “Văn hóa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội”, “nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”, “văn học, nghệ thuật là bộ phận đặc biệt tinh tế của văn hóa, thể hiện khát vọng của con người về chân, thiện, mỹ”, đã khẳng định vị trí, chức năng đặc biệt quan trọng của văn hóa trong toàn bộ sự phát triển của đất nước, có tác dụng định hướng sâu sắc và thúc đẩy sự phát triển của văn hóa, văn học, nghệ thuật.
Những định hướng về chính sách, chế độ đối với văn học, nghệ thuật trong các Nghị quyết trên góp phần cổ vũ, động viên lực lượng hoạt động và sáng tác văn học, nghệ thuật như: định hướng về đầu tư, tài trợ, về chế độ nhuận bút, về chính sách văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa… Kể từ năm 1999 đến nay, hàng năm Chính phủ đều dành một khoản ngân sách tài trợ cho các công trình nghiên cứu, sáng tạo văn học, nghệ thuật.
Từ đường lối và quan điểm cơ bản của Đảng đối với sự nghiệp phát triển văn học, nghệ thuật, trong từng thời điểm cụ thể, trước những vấn đề mới đặt ra cần sự định hướng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã kịp thời ra các văn bản, chỉ thị, kết luận để chỉ đạo xử lý, giải quyết. Phương thức chỉ đạo này có hiệu quả, thiết thực, đáp ứng kịp thời một số vấn đề mới và bức xúc đặt ra trong từng thời điểm cụ thể (ví dụ: Kết luận Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), Chỉ thị về Đại hội của các Hội văn học, nghệ thuật ở Trung ương (5/1999), Chỉ thị 18 của Ban Bí thư ngày 24/1/2003).
Các cấp ủy Đảng, cán bộ, ngành, đoàn thể, các tỉnh, thành có lực lượng hoạt động và sáng tạo văn học, nghệ thuật đã có nhiều cố gắng nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo văn hóa, văn nghệ, ra các Nghị quyết phù hợp, gắn kết một số nhiệm vụ và hoạt động văn hóa, văn nghệ với sự phát triển chung về kinh tế - chính trị - xã hội của bộ, ngành, địa phương. Có sự quan tâm thỏa đáng hơn trong việc đầu tư, hỗ trợ sáng tạo văn học, nghệ thuật và chăm lo phát triển, bồi dưỡng đội ngũ trên địa bàn và phạm vi quản lý.
Cơ quan tham mưu của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ từ Trung ương đến địa phương, trước hết là Ban Tuyên giáo các cấp đã cố gắng theo sát thực tiễn văn học, nghệ thuật, phối hợp tốt hơn với cơ quan quản lý nhà nước, nắm vững hoạt động của các Hội văn học, nghệ thuật, trực tiếp tham mưu, chỉ đạo định hướng chính trị trong hoạt động và sáng tác văn học, nghệ thuật.
7. Với chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã triển khai nhiều công việc nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý, chú trọng việc xây dựng các đề án quy hoạch và phát triển văn học, nghệ thuật; soạn thảo các Luật liên quan trực tiếp đến văn học, nghệ thuật trình Quốc hội phê duyệt như Luật Xuất bản, Luật Điện ảnh, Luật Bản quyền, Luật Báo chí… Những công việc trên đã tạo hành lang pháp lý cần thiết và thông thoáng cho hoạt động văn học, nghệ thuật theo đúng định hướng, quan điểm của Đảng. Ngành văn hóa quan tâm xây dựng một số chế độ, chính sách phù hợp với nhu cầu và tích đặc thù của văn học, nghệ thuật, phối hợp với các cơ quan liên quan soạn thảo một số chế độ cho ngành nghệ thuật biểu diễn, chế độ nhuận bút, chính sách đầu tư, tài trợ, đặt hàng đối với tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật.
Việc Nhà nước xét tặng các giải thưởng cao quý cho văn học, nghệ thuật như: giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước, Danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú đã góp phần động viên, cổ vũ đội ngũ văn nghệ sĩ và thể hiện sự trân trọng, đánh giá đúng mức của Đảng, Nhà nước đối với những người có tài, có công, có tác phẩm xuất sắc trong lĩnh vực này.
Thời gian qua, cơ quan quản lý nhà nước về văn học, nghệ thuật từ Trung ương đến địa phương đã cố gắng nâng nao năng lực quản lý và tầm nhìn phù hợp với đặc trưng của lĩnh vực này, bước đầu chú trọng đổi mới phương thức quản lý, do đó, đã góp phần đảm bảo tính định hướng và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động văn học, nghệ thuật, hạn chế một phần những xu hướng tiêu cực, độc hại đang có nhiều hướng gia tăng trên lĩnh vực sáng tác, biểu diễn, lý luận, phê bình, truyền bá… văn học, nghệ thuật.
8. Trong sự hợp tác, giao lưu văn hóa ngày càng được mở rộng những năm gần đây, phải ghi nhận thành công nổi bật là chúng ta đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật ở nước ngoài, chủ động lựa chọn, xây dựng, tạo được khá nhiều sản phẩm, công trình, chương trình nghệ thuật có chất lượng tốt được phát hành, biểu diễn, triển lãm ở nước ngoài.
Thông qua các cuộc thi, liên hoan, triển lãm, hội chợ, trao giải thưởng khu vực và quốc tế… về văn học, nghệ thuật, các giá trị văn hóa đặc sắc và độc đáo của Việt Nam được giới thiệu và truyền bá ở một số nước. Thời gian qua, chúng ta đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế về văn học, nghệ thuật qua các cuộc thi, triển lãm, liên hoan quốc tế (Nhiếp ảnh, mỹ thuật, kiến trúc, âm nhạc, điện ảnh…)
Để nước ta bước đầu trở thành một địa chỉ giao lưu văn hóa quốc tế, thời gian qua chúng ta đã có cố gắng vượt bậc tổ chức một số hoạt động văn hóa, nghệ thuật lớn mang tầm cỡ quốc tế ở Việt Nam, như: Liên hoan phim Châu Á Thái Bình Dương, tuần phim Châu Âu, Festival Huế, tuần văn hóa Nga ở Việt Nam, các trại điêu khắc quốc tế, giải thưởng văn học Mê Kông… Đây là dấu hiệu mới đáng mừng trong hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế về văn học, nghệ thuật ở nước ta.
Tuy nhiên, nhiệm vụ mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa vẫn còn một số bất cập, yếu kém. So với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, công tác này chưa đáp ứng đầy đủ và chưa phát huy mạnh mẽ tiềm năng văn học, nghệ thuật vốn có của dân tộc. Số công trình, tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị của ta được giới thiệu ra quốc tế còn quá ít, trong khi đó sản phẩm độc hại, phản động không phù hợp với văn hóa và đặc tính con người Việt Nam của nước ngoài lại xâm nhập vào nước ta khá lớn. Các cơ quan văn hóa của nước ta, kể cả các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài, chưa quan tâm đúng mức xây dựng và thực hiện kế hoạch triển khai các hoạt động giới thiệu, truyền bá văn học, nghệ thuật Việt Nam tại các nước.
Mặt khác, cùng với quá trình toàn cầu hóa, các thế lực thù địch đang thực hiện mưu đồ, thủ đoạn tấn công toàn diện vào chính trị, văn hóa, xã hội, đạo đức và tâm lý… của đất nước ta. Đã và đang xuất hiện sự áp đặt vô hình một số giá trị văn hóa ngoại lai vào đời sống văn hóa Việt Nam. Xuất hiện và len lỏi phát triển vào văn hóa dân tộc những giá trị văn hóa theo chủ nghĩa thực dụng, lối sống hưởng thụ, khát vọng tiền tài, tư tưởng kỹ trị và vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân cực đoan, sự sùng ngoại và đua đòi, những lối sống và thị hiếu xa lạ, thấp kém, không phù hợp với dân tộc, kèm theo đó là những tệ nạn xã hội… Chúng ta không thể xem thường những tác hại của “cuộc xâm lăng văn hóa”, đó là nguyên nhân dẫn tới sự đảo lộn các giá trị văn hóa tốt đẹp, truyền thống của dân tộc như trọng tình nghĩa, lòng vị tha, trung thực. Sự lộn xộn, không bình yên trong đời sống tinh thần của nhân dân cùng với những biến động phức tạp theo chiều hướng tiêu cực của các lĩnh vực tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo là điều rất đáng lo ngại.
II.
1. Những yếu kém, hạn chế và những vấn đề đặt ra trong sáng tác văn học, nghệ thuật thời gian qua là: Số lượng tác phẩm xuất hiện ngày một nhiều song còn ít tác phẩm có giá trị cao và bền vững trên cả hai bình diện, tư tưởng và nghệ thuật. Lý tưởng xã hội và khát vọng  thẩm mỹ chưa cao, do đó trong nhiều tác phẩm, ý nghĩa xã hội còn hạn hẹp, không ít tác phẩm sa vào những chuyện vụn vặt, quẩn quanh, ít ý nghĩa đối với đời sống. Trong khi cuộc sống đang vận động mãnh liệt, khẩn trương thì văn học, nghệ thuật còn thiếu vắng những tác phẩm có tính đột phá, mở đường sáng tạo mới mẻ, táo bạo, có giá trị cách tân đích thực, có ảnh hưởng mạnh tới công chúng. Văn học, nghệ thuật những năm gần đây tỏ ra chậm chạp, lúng túng trong tiếp cận và nhận thức những vấn đề mới của cuộc sống hiện đại, chưa cảm nhận được chiều sâu, ý nghĩa của quá trình chuyển biến mang tính lịch sử của thời kỳ mới của đất nước – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiếp tục xuất hiện và phát triển khuynh hướng cực đoan trong sáng tác là nghiêng về khai thác, tô đậm mặt đen tối, tiêu cực, thậm chí một số tác phẩm cố tình bôi đen hoặc phỉ báng, phủ nhận quá khứ và mặt tốt đẹp, tích cực của cuộc sống hiện tại. Có biểu hiện tuyệt đối hóa đời cá nhân với những nỗi đau, tâm sự u uất, luẩn quẩn, tầm thường, quay lưng lại với những vấn đề nóng bỏng, bức thiết của đời sống.
Xu hướng hạ thấp các giá trị truyền thống, lịch sử của dân tộc, của cách mạng, kháng chiến, xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử, hạ bệ thần tượng những năm gần đây xuất hiện trở lại với những biến tướng mới, tinh vi hơn.
Xu hướng thương mại hóa, hạ thấp chức năng giáo dục, nhấn mạnh một chiều chức năng giải trí và đề cao thái quá sự tự biểu hiện “cái tôi nghệ sĩ” có chiều hướng phát triển dưới nhiều biểu hiện phức tạp. Xuất hiện một bộ phận công chúng có tiền đang chi phối, “định hướng” cho sáng tác và truyền bá tác phẩm. Loại sản phẩm “ăn khách” chạy theo thị hiếu thấp kém xuấn hiện ngày một nhiều như: truyện sex, trinh thám, vụ án, thơ tình ủy mị, gào thét sướt mướt, phim truyện với những mối tình mùi mẫn, những cảnh hở hang, gợi dục, giật gân, tranh ảnh khỏa thân thẩm mỹ thấp kém, kiến trúc thị dân phô trương, lố lăng, bắt chước, nhại cổ, sân khấu hài gây cười “cơ giới”, thô tục, rẻ tiền… đang trở thành một vấn nạn, tác động xấu đến thị hiếu công chúng và làm ô nhiễm đời sống văn học, nghệ thuật, môi trường văn hóa - xã hội.
Sự thâm nhập mạnh mẽ của các tác phẩm, trào lưu, khuynh hướng sáng tác văn học, nghệ thuật của nước ngoài vào nước ta những năm gần đây qua nhiều kênh thông tin, một mặt, góp phần gợi mở những tìm tòi trong sáng tác, mặt khác, kích thích xu hướng sùng ngoại, tiếp thu thiếu chọn lọc các yếu tố bên ngoài. Xuất hiện một số tác phẩm bắt chước, mô phỏng, chạy theo hình thức và các thủ pháp xa lạ với bản sắc của văn nghệ dân tộc.
2. Hoạt động lý luận văn nghệ của chúng ta còn có những yếu kém khá nghiêm trọng, chưa phát huy được tác dụng tích cực đối với đời sống văn nghệ. Mặt bằng lý luận văn nghệ thay đổi nhưng sự hiểu biết lý luận nói chung chưa sâu sắc, thiếu các công trình nghiên cứu chuyên sâu có chất lượng về lý luận; có ngành nghệ thuật còn thiếu vắng lực lượng chuyên về lý luận.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X nêu rõ: “Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới”, “Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới”. Soi vào lĩnh vực văn học, nghệ thuật, có thể thấy lý luận văn nghệ chưa giải đáp được nhiều vấn đề của thực tiễn đổi mới văn học, nghệ thuật trong thời gian qua, còn tỏ ra già cỗi, xơ cứng, kém năng động, xa rời thực tiễn sáng tác. Các công trình tổng kết, đề xuất các vấn đề lý luận rất hiếm. Các vấn đề như phương pháp sáng tác, các khuynh hướng sáng tác đang xuất hiện và phát triển đều thiếu các công trình lý luận soi sáng. Điều này dẫn đến sự thiếu vắng tiêu chí khoa học trong phê bình, đánh giá các sáng tác văn học, nghệ thuật.
Việc biên dịch, giới thiệu lý luận văn học, nghệ thuật thế giới mới làm được rất ít chưa được tổ chức có quy hoạch, có hệ thống. Một số người có thái độ sùng bái, tiếp nhận thiếu tỉnh táo, khoa học đối với lý luận văn học, nghệ thuật phương Tây. Đáng chú ý là lý luận văn học, nghệ thuật mác xít chưa được nghiên cứu tương xứng với vai trò và giá trị đích thực của nó, còn thiếu những công trình lớn làm sáng tỏ những vấn đề quan trọng; cái đúng, cái cách mạng cần được tập trung vận dụng, phát triển và cái giáo điều, cái ngộ nhận đã bị thực tiễn vượt qua… chưa được minh định rạch ròi: Đối với di sản lý luận văn nghệ mác xít chúng ta chưa có kế hoạch nhìn lại, đánh giá thỏa đáng những thành công và những khiếm khuyết để có sự kế thừa và phát triển đúng đắn trong giai đoạn mới. Khá nhiều vấn đề lý luận văn nghệ còn bỏ ngỏ, dừng lại giữa chừng, không được lý giải, minh chứng xác đáng, khoa học.
Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều. Một là, lực lượng những người làm lý luận văn nghệ ở nước ta đã mỏng lại phân bố không đều ở các ngành nghệ thuật. Hai là, quán tính của thời bao cấp về lý luận còn nặng nề khiến cho nhiều người quen “nói theo” lý luận hơn là nghiên cứu lý luận. Thêm vào đó là tâm lý hoài nghi, coi thường lý luận vẫn còn ăn sâu trong một bộ phận những người sáng tác đã làm mờ nhạt ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận văn học, nghệ thuật. Đặc biệt có  tâm lý không xem lý luận văn nghệ là một ngành khoa học xã hội và nhân văn có tính độc lập, tự chủ, có thể có ý kiến khác nhau, có thể có nhiều trường phái, do các nhà chuyên môn đảm nhiệm mà lại coi là một công việc có tích chất chỉ đạo, quyền lực, gắn với quan điểm, đường lối do các nhà lãnh đạo chính trị đề xướng, cho nên nhiều người vẫn có tâm lý chờ đợi, không chủ động đề xuất. Ba là, thiếu tổ chức, buông lỏng lãnh đạo, thiếu cơ chế đầu tư tài trợ, khen thưởng đúng đắn đối với công tác lý luận văn nghệ. Đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho công tác lý luận văn nghệ của chúng ta phát triển chậm chạp, có dấu hiệu tụt hậu so với yêu cầu, không đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng một nền văn nghệ dân tộc trong giai đoạn mới.
3. Yếu kém, khuyết điểm trong phê bình văn học, nghệ thuật đang trở thành mối quan tâm lo lắng của cả giới nghiên cứu, sáng tác lẫn công chúng.
Những vấn đề cơ bản tưởng như đã được giải quyết về bản chất, như đối tượng, vị trí, chức năng và vai trò của phê bình… lại có nhu cầu được đặt ra và nhận thức lại. Qua những cuộc hội thảo, tranh luận trên các diễn đàn cho thấy nhận thức và quan niệm về các vấn đề trên còn thiếu thống nhất, thậm chí trái ngược nhau, dẫn tới tình trạng gán ghép những phạm vi, lĩnh vực không thuộc phê bình văn nghệ cho chính nó, làm sai lệch chức năng của phê bình văn nghệ. Lối phê bình cảm tính, bất chấp những hiểu biết về lý luận nghệ thuật đang có chiều hướng thịnh hành trong đời sống văn nghệ, vì cho rằng người phê bình chỉ cần dựa trên năng khiếu cảm thụ cá nhân sao cho tinh tế, chính xác. Quan niệm đó thực chất là hạ thấp hoặc xem nhẹ vai trò cảm thụ lý tính, triệt tiêu bản chất khoa học của phê bình văn nghệ.
Nhìn vào đội ngũ phê bình hiện nay có thể thấy một tình trạng đáng lo ngại. Những người làm phê bình thực thụ thưa và mỏng. Thay vào đó là những người phê bình không chuyên viết nhiều khi chỉ để tạo dư luận về tác phẩm hay là tác giả này, gây chú ý cho bản thân, gây sự ồn ào giả tạo, xét nét nhau trong bình phẩm văn chương chứ không phải với mục đích phê bình đích thực. Trên một số tờ báo, tạp chí chủ yếu chỉ còn thấy các bài giới thiệu, điểm sáng tác, thiếu sự đánh giá toàn diện, có chiều sâu về tác phẩm, tác giả. Tác hại của lối phê bình này là làm sai lệch diện mạo, giá trị của tác phẩm, làm biến dạng đời sống văn nghệ.
Trong khi thực trạng phê bình đang diễn ra như vậy thì phần đông các nhà phê bình có tên tuổi, có uy tín hoặc vì tuổi tác, hoặc vì ngại va chạm, đã tìm đến với công việc khác. Trận địa phê bình bị bỏ trống, thiếu những tác phẩm phê bình đích thực mà người sáng tác cũng như công  chúng văn nghệ chờ đợi.
Văn học, nghệ thuật nói chung, phê bình văn học, nghệ thuật nói riêng đều bị chi phối bởi mặt tích cực và đặc biệt là mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Thực tế cho thấy, không chỉ một số người sáng tác, mà còn cả một số người làm phê bình nhiều khi không giữ được động cơ thuần khiết và sự chuẩn mực trong đánh giá khiến cho đối tượng phê bình méo mó, biến dạng đến mức phi văn chương, hạ thấp nghệ thuật, không giữ trọn được thiên chức và đạo lý phê bình.
Một vấn đề khác dẫn đến những hạn chế của phê bình chính là đời sống văn nghệ còn thiếu những tác phẩm có sức chinh phục lớn, những phát kiến nghệ thuật mới mẻ, táo bạo tiêu biểu cho thời kỳ đổi mới.
Những năm qua, chúng ta đang thiếu một hệ thống chuẩn mực lý luận, một hệ thống tiêu chí đánh giá, một hệ giá trị tin cậy làm thước đo kiểm định tác phẩm văn nghệ. Do vậy, đã xuất hiện hiện tượng, một số cá nhân lấy mình làm chuẩn, “duy ngã độc tôn”, lộng ngôn trong phê bình, phán xét không có căn cứ, khiến cho văn đàn có vẻ ồn ào nhưng thực chất lại đang rơi vào những khoảng lặng đáng lo ngại.
Nhìn chung, hoạt động lý luận, phê bình văn nghệ chậm phát triển, thiếu tính học thuật, tính chiến đấu, ít tác dụng thúc đẩy sáng tác, không đủ sức tuyên truyền, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng và định hướng tư tưởng, thẩm mỹ cho công chúng.
4. Khuyết điểm và những vấn đề đặt ra trong việc sử dụng và truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật
Do sức ép của thị trường, nhu cầu của một bộ phận công chúng, mục tiêu chạy theo lợi nhuận đơn thuần của một số đơn vị, công ty kinh doanh dịch vụ văn hóa xuất hiện ngày càng nhiều sản phẩm “hàng chợ”, tầm thường, câu khách, rẻ tiền, nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí thuần túy, thị hiếu thấp kém. Số lượng các cuộc triển lãm, các hoạt động biểu diễn ngày càng tăng song còn có nhiều biểu hiện phát triển mang tính tự phát, thiếu tổ chức và buông lỏng quản lý, làm cho chất lượng các tác phẩm trưng bày và biểu diễn không cao. Đặc biệt, nhiều tác phẩm có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật lại không có điều kiện để phổ biến và giới thiệu cho công chúng, trong khi đó, có một số tác giả, tác phẩm, người biểu diễn, một số chương trình nghệ thuật lại được đề cao quá mức so với giá trị thực vốn có. Nhiều hoạt động văn học, nghệ thuật có giá trị, mang ý nghĩa tích cực đối với đời sống tinh thần của xã hội và đối với bản thân sự phát triển của các loại hình nghệ thuật lại không có vị trí đúng mức trên báo chí, trên truyền hình, vì sự phiến diện, thiếu hiểu biết đầy đủ và thiếu chuẩn mực để đánh giá khi sử dụng và truyền bá các tác phẩm. Một bộ phận đã bị chi phối bởi đối  tác, nặng về lợi ích kinh tế, tạo ra cảm nhận trong công chúng qua các phương tiện thông tin đại chúng cái nhìn có phần méo mó về diện mạo của văn học, nghệ thuật hiện nay. Một số bộ phim nước ngoài có nội dung bạo lực, chất lượng kém lấn át phim tốt trong nước.
Hiện tượng sách, băng đĩa lậu xuất bản và phát hành tràn lan trên thị trường văn hóa đến nay chưa có giải pháp và chế tài ngăn chặn. Phần lớn xuất bản phẩm được in lậu lại mang nội dung hoặc là có vấn đề về tư tưởng, chính trị hoặc là loại tác phẩm câu khách, hợp gu một bộ phận công chúng có thị hiếu thấp hoặc một số tác phẩm chạy theo mốt, thời thượng… Trong khi đó, một số tác phẩm có giá trị thực sự, là kết quả lao động nghiêm túc, công phu của người sáng tạo lại chỉ được xuất bản, phát hành, in ấn, trình diễn rất hạn chế (có đầu sách có giá trị chỉ in 500 cuốn, có những chương trình nghệ thuật được xây dựng công phu chỉ được trình diễn dăm ba buổi, có những bộ phim có chất lượng tốt chỉ chiếu được một số buổi ít ỏi ở các rạp). Chúng ta đã rơi vào thế bị động, lúng túng trước tác động tiêu cực của thị trường các sản phẩm văn hóa. Tác động đó còn ảnh hưởng rất phức tạp đến tư duy, suy nghĩ, tâm lý của một bộ phận văn nghệ sĩ. Một số chạy theo sức hút của thị trường, sản xuất ra loại tác phẩm chất lượng trung bình, không vi phạm luật pháp nhưng không giúp ích cho sự phát triển văn nghệ. Một số buổi biểu diễn ca múa nhạc còn để tự phát, xô bồ, đơn thuần vì mục đích lợi nhuận, với biểu hiện lố lăng, bắt chước, sao chép, lai căng, xa rời truyền thống dân tộc… Sự chênh lệch trong hưởng  thụ cũng ảnh hưởng mạnh đến tâm huyết, sự nỗ lực sáng tạo và sự an tâm nghề nghiệp trong một bộ phận văn nghệ sĩ hoạt động trong các đơn vị nghệ thuật nhà nước.
Sự hưởng thụ văn hóa, văn nghệ còn chênh lệch lớn đối với công chúng ở các thành phố lớn, thị xã với khu dân cư ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc, chưa có biện pháp để tháo gỡ.
5. Hiện nay đang xuất hiện những vấn đề mới, có biểu hiện đáng lo ngại, tác động trực tiếp đến sự ổn định và phát triển của đội ngũ cần được quan tâm.
Nói đến chất lượng đội ngũ trong văn nghệ thực chất là nói đến tài năng. Xử lý vấn đề tài năng là một khoa học, đồng thời là một nghệ thuật. Quan trọng nhất là thái độ trân trọng và chân thành. Trong lĩnh vực này, sự thành kiến, hẹp hòi cũng có hại như chiều nịnh, tâng bốc. Phải làm cho văn nghệ sĩ nhận rõ tài năng vừa là do bẩm sinh, vừa là do rèn luyện, vừa thuộc về bản thân, vừa thuộc về xã hội. Đối với tài năng, áp đặt hay buông lỏng đều không đúng, không thích hợp.
Tình trạng già hóa đội ngũ trong các Hội văn học, nghệ thuật chuyên ngành ở Trung ương và các Hội văn học, nghệ thuật địa phương, trong cả lực lượng sáng tác, lý luận, phê bình, biểu diễn và quản lý là dấu hiệu tạo ra nguy cơ thiếu sức sống, thiếu tính năng động trong các hoạt động của các Hội văn học, nghệ thuật.
Thế hệ trẻ phát triển khá mạnh trong thời gian gần đây đã góp phần tạo sinh khí mới cho đời sống văn nghệ, nhưng cũng có một bộ phận không gắn bó với hoạt động chung, coi nhẹ trách nhiệm công dân trước đất nước, tỏ ra lạnh nhạt, xa lạ với danh hiệu nghệ sĩ – chiến sĩ, vốn là những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn nghệ cách mạng.
Một bộ phận văn nghệ sĩ lúng túng trước những biến đổi, biến động nhanh chóng, phức tạp của đời sống chính trị - kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế làm đảo lộn một số giá trị truyền thống, phá vỡ cấu trúc xã hội vốn có, sự chưa định hình của các giá trị mới và cấu trúc xã hội mới. Sự lúng túng này cùng với sự suy giảm nhiệt tình, lý tưởng sáng tạo hướng tới những vấn đề của dân tộc, thời đại là nguyên nhân bên trong của hiện tượng những năm gần đây, vì sao văn nghệ chúng ta không có được những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
Tư tưởng ỷ lại như thời bao cấp và sự bị động trước đòi hỏi mới, tác động phức tạp của kinh tế thị trường làm cho một bộ phận văn nghệ sĩ, nhất là những người ở thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai đã không có được những tác phẩm đáp ứng nhu cầu đang biến đổi của công chúng nghệ thuât. Trong khi đó, một bộ phận những người thuộc thế hệ sau thích nghi với cơ chế thị trường, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi mới, song lại có khuynh hướng thực dụng với mục tiêu thương mại thuần túy, từng bước xa rời chức năng cao quý của văn nghệ, chạy theo đề tài, chủ đề nhỏ mọn, tầm thường, “ăn khách”,…
Trong công tác chỉ đạo quản lý, xuất hiện hiện tượng cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu, quản lý văn hóa, văn nghệ do Đảng và Nhà nước (cả ở Trung ương và địa phương) cử sang thường không được chuẩn bị đầy đủ về năng lực, về sự hiểu biết lĩnh vực đặc thù này, do đó không có điều kiện và trình độ để xây dựng và thực hiện các kế hoạch, chương trình cơ bản, dài hơi. Đáng chú ý là một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ít đọc, xem, nghe… các tác phẩm văn học, nghệ thuật, ngại tiếp xúc, không thấu hiểu, đồng cảm với đội ngũ hoạt động văn nghệ nên hạn chế lớn đến hiệu quả lãnh đạo, quản lý lĩnh vực này.
6. Đối chiếu với yêu cầu cơ bản, lâu dài và tính đặc thù của công tác đào tạo lĩnh vực văn học, nghệ thuật, thời gian qua, công tác này bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém, khuyết điểm, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển văn học, nghệ thuật.
Mạng lưới đào tạo phát triển nhanh, song sự phân bổ theo vùng miền và chất lượng đào tạo không đồng đều, chương trình đào tạo còn cũ, không đáp ứng được đòi hỏi mới và yêu cầu đào tạo tài năng. Rất nhiều trường hợp không có giáo trình chuẩn, vẫn tiếp tục giảng dạy theo kiểu truyền nghề, kinh nghiệm cá nhân.
Đội ngũ giáo viên đầu đàn, có trình độ chuyên môn cao và được đào tạo cơ bản ở nước ngoài trước đây đã lớn tuổi và nghỉ hưu nhiều. Giáo viên có trình độ cao thuộc các trường chiếm tỷ lệ rất thấp (giáo viên cơ hữu).
Chưa chú trọng đúng mức đến tính đặc thù, chuyên biệt của công tác đào tạo đội ngũ, thiếu những chính sách, chế độ đặc thù đối với giáo viên và học viên, sinh viên các ngành nghề cần ưu tiên đặc biệt đối với tài năng và năng khiếu nghệ thuật; ngân sách chi cho đào tạo còn hạn hẹp, không đáp ứng được đặc điểm đào tạo trên, do đó không thu hút được tài năng, năng khiếu nghệ thuật. Một thực tế cho thấy: sinh viên tốt nghiệp đại học các ngành âm nhạc, múa, xiếc… sau khoảng 7 đến 12 năm đào tạo, được hưởng lương như các đối tượng tốt nghiệp đại học các ngành nghề khác. Hàng chục năm nay, công tác gửi giảng viên và sinh viên đào tạo ở nước ngoài hầu như không được thực hiện theo một mục tiêu và kế hoạch dài hạn.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học, tuy có được cải thiện và nâng cấp một bước, song so với yêu cầu đặc thù của công tác đào tạo tài năng và năng khiếu nghệ thuật còn rất bất cập, thiếu thốn…
Công tác đào tạo toàn diện về chính trị, tư tưởng, chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức và thể chất còn nhiều bất cập. Việc giáo dục các bộ môn chính trị, khoa học xã hội không tạo được hứng thú và hiệu quả trong sinh viên, không có sự liện hệ, kết hợp với giáo dục, đào tạo nghề nghiệp, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo toàn diện các năng khiếu, tài năng nghệ thuật.
7. Khuyết điểm, yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo: Các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa, văn nghệ trên thực tế chưa được quán triệt đầy đủ và đúng tầm. Mặt khác, trước những biến đổi mau lẹ, phong phú, phức tạp của đời sống văn nghệ, xuất hiện nhiều vấn đề và dấu hiệu mới, tầm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng các cấp từ Trung ương đến địa phương còn bộc lộ sự bất cập, hạn chế. Nội dung và phương thức lãnh đạo còn chậm đổi mới, một số cấp ủy Đảng hầu như vẫn thực hiện sự chỉ đạo theo lối cũ như thời chiến tranh và bao cấp, chưa thực sự quan tâm nâng cao, bổ sung hiểu biết mới về vai trò, đặc trưng của văn học, nghệ thuật thời kỳ mới.
Trong các văn bản, nghị quyết của Đảng về văn học, nghệ thuật những năm gần đây chưa lường hết được tác động phức tạp, tinh vi của mặt trái kinh tế thị trường đối với đời sống tinh thần xã hội nói chung và đời sống văn nghệ nói riêng, chưa hình dung rõ sự phát triển mạnh mẽ, tự phát của thị trường các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật dẫn tới sự lúng túng trước các tác động tiêu cực, nhiều chiều phức tạp đó. Phương pháp xử lý thường rơi vào tình trạng giải quyết tình thế, chắp vá, thụ động.
Thiếu một chính sách lâu dài, cơ bản và cơ chế cần thiết trong việc đào tạo tài năng, năng khiếu văn nghệ là một khuyết điểm kéo dài, nhất là từ khi chúng ta tập trung xây dựng kinh tế và vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường.
8. Khuyết điểm, yếu kém trong công tác quản lý nhà nước. Sự thống nhất và quan hệ hợp lý, khoa học giữa lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là sức mạnh là nhân tố cực kỳ quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của văn học, nghệ thuật. Đây là một truyền thống tốt đẹp trong sự lãnh đạo, quản lý văn nghệ của Đảng và Nhà nước ta. Song những năm gần đây, xuất hiện một vài hiện tượng cần quan tâm giải quyết. Vấn đề này chủ yếu thể hiện ở khâu chỉ đạo, tổ chức thực hiện, song có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình văn học, nghệ thuật và tâm tư, tình cảm văn nghệ sĩ.
Nổi bật là một số quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng về văn hóa, văn học, nghệ thuật rất chậm được thể chế hóa, lại không đồng bộ, lạc hậu nhanh và đôi khi không được thể chế hóa. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) ban hành 1998 đã xác định một hệ thống chính sách cần xây dựng và thực hiện để phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật. Nếu hệ thống chính sách này được thực hiện đầy đủ và đưa vào vận hành trong đời sống văn nghệ thì chắc chắn sẽ là động lực, đòn bẩy mạnh mẽ cho sự phát triển. Gần 10 năm qua tuy chúng ta đã có nhiều cố gắng triển khai thực hiện, song vẫn còn một số chính sách chưa được xây dựng, đồng thời một số chính sách đã ban hành nhưng đã trở nên lạc hậu. Ví dụ như hệ thống “chính sách kinh tế trong văn hóa với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa” và “chính sách văn hóa trong kinh tế bảo đảm cho văn hóa thể hiện rõ vai trò, mục tiêu động lực trong các hoạt động kinh tế” Chính vì việc thể chế hóa chậm, lạc hậu, nhiều chính sách còn chắp vá, giải quyết tình thế, cho nên “cơ chế xin - cho” còn khá phổ biến đối với hoạt động văn học, nghệ thuật. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị (tháng 11/1987) đến nay đã hơn 20 năm, song một số chính sách vẫn chưa được thực hiện hoặc vừa triển khai thực hiện đã nhanh chóng lạc hầu như: “Tiến tới thành lập Quỹ văn hóa Việt Nam theo hướng huy động mọi lực lượng, mọi khả năng cả ở trong nước và ngoài nước” và “khẩn trương nghiên cứu để sớm ban hành các cơ chế thù lao nghệ thuật, đảm bảo cho nghệ sĩ chuyên nghiệp có thể sống và tiếp tục sáng tạo chủ yếu bằng nhuận bút” (trích Nghị quyết của Bộ Chính trị số 05-NQ/TW ngày 28/11/1987). Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII) ngày 14/1/1993 “về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt” lại khẳng định chính sách. “Tiếp tục tục bổ sung và hoàn thiện các chế độ lương, thù lao, mua bán tác phẩm, thuế, chính sách khuyến khích sáng tác… đảm bảo cho văn nghệ sĩ chuyên nghiệp có thể sống bằng nghề nghiệp chính của mình”. Định hướng các chính sách đó, tuy có được triển khai, song trên thực tế đã không thực hiện được như yêu cầu của Nghị quyết.
Hiện tượng thiếu thống nhất, không ăn khớp giữa một số nội dung trong định hướng, chủ trương của Đảng với một số đề xuất trong Đề án về văn học, nghệ thuật của một vài cơ quan quản lý Nhà nước gây bức xúc, không ổn định tư tưởng trong văn nghệ sĩ. Ngày 23/1/2003, Ban Bí thư ra chỉ thị số 18-CT/TW về “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về công tác văn học, nghệ thuật trong tình hình mới”, chỉ rõ “Chính phủ sớm ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ của các Hội văn học, nghệ thuật đúng với tính chất là các tổ chức chính trị - xã hội – nghề nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII)” thì có Đề án đưa ra trình các cơ quan Nhà nước về xóa bỏ tính chất chính trị - xã hội nghề nghiệp của các Hội văn học, nghệ thuật.
Việc tăng cường đầu tư, nâng cấp điều kiện hoạt động, cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động sáng tạo, sản xuất, công diễn, truyền bá… các sản phẩm văn học, nghệ thuật còn bộc lộ những bất cập rõ rệt. Hai mươi năm qua, trong cả nước hầu như chưa có một nhà hát mới, một công trình nghệ thuật lớn, một triển lãm dành cho văn học, nghệ thuật xứng đáng với vị thế của đất nước thời kỳ mới.
III.
1. Kết quả, thành tựu của hoạt động văn học, nghệ thuật thời gian qua bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ yếu sau:
Đại đa số lực lượng sáng tác và hoạt động văn học, nghệ thuật trung thành với lý tưởng, sự nghiệp cách mạng, yêu nước, gắn bó với dân tộc và đời sống của nhân dân trưởng thành trong thực tiễn phong phú của những năm chiến tranh và của gần 25 năm đổi mới; tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc và tương lai tốt đẹp của đất nước.
Dù còn nhiều vấn đề phải giải quyết và những khó khăn, thách thức, song thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của thời kỳ đổi mới đất nước, mặt tích cực, tốt đẹp của cuộc sống vẫn là cội nguồn tạo nên dòng chủ lưu tích cực, nhân văn của sự phát triển văn nghệ. Hiện thực của đất nước vẫn là thực tiễn có sức thuyết phục đối với cảm hứng và định hướng sáng tạo của văn nghệ sĩ.
Quan điểm đổi mới, đường lối và chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về văn học, nghệ thuật đã phát huy tác dụng tích cực, góp phần định hướng cho sự phát triển và tạo động lực cho đại đa số văn nghệ sĩ nỗ lực sáng tác những tác phẩm có giá trị về nội dung và nghệ thuật, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém, khuyết điểm
Những năm qua, sự chuyển động, biến đổi, biến động của hiện thực đất nước trên tất cả các lĩnh vực cơ bản (kinh tế, chính trị, xã hội, giai cấp, quan hệ quốc tế…) là rất lớn, mau lẹ, phức tạp và khó lường… là nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự lúng túng, nhiều lúc bối rối của lực lượng hoạt động văn học, nghệ thuật. Trong sự biến động trên, không ít vấn đề đang đặt ra ở phía trước phải tiếp tục tìm kiếm, giải đáp.
Cơ chế kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế bắt đầu diễn ra trên cả bề rộng và chiều sâu, cùng với những tác động tích cực đã bộc lộ rõ mặt trái của nó, tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần của nhân dân và trực tiếp đến đời sống văn nghệ và văn nghệ sĩ.
Các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị tiếp tục chống phá văn nghệ của chúng ta nhằm làm biến chất, đổi màu văn nghệ cách mạng.
Tư duy của Đảng trên lĩnh vực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn học, nghệ thuật còn chậm đổi mới. Nhận thức một số vấn đề cốt lõi trong văn học, nghệ thuật thời kỳ mới chưa được nghiên cứu, lý giải thấu đáo, chưa có sự thống nhất, công tác tổng kết thực tiễn văn nghệ chưa theo kịp sự phát triển và biến đổi của văn nghệ, dẫn tới sự lúng túng trước những vấn đề mới đặt ra, những khuynh hướng mới xuất hiện. Vì thế, thiếu những quyết sách cơ bản, chủ động để lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật. Việc đánh giá thực chất tình hình văn nghệ trong các cấp lãnh đạo chưa nhất quán, vừa có biểu hiện buông lỏng, hữu khuynh, vừa có biểu hiện áp đặt, chủ quan, thiếu tầm nhìn xa. Một số cấp ủy, chính quyền chưa thực sự coi trọng và quan tâm chỉ đạo, quản lý, giúp cho lĩnh vực văn học, nghệ thuật phát triển là nguyên nhân hạn chế hiệu quả và uy tín của sự lãnh đạo, quản lý.
Chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi liền với phát triển văn hóa, văn nghệ - nền tảng tinh thần của xã hội chưa được quán triệt với thực hiện tốt. Trên thực tế, chúng ta mới tập trung nhiều cho đổi mới và tăng trưởng kinh tế, chưa quan tâm thực sự và tương xứng việc phát triển văn hóa, văn nghệ, xây dựng con người, đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa của tình trạng nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc về văn hóa, đạo đức làm cho những người hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật cảm nhận không được coi trọng như trước, từ đó làm giảm sút niềm tin, tâm huyết, nhiệt tình và năng lực sáng tạo của họ. Chủ nghĩa thực dụng kinh tế đang có chiều hướng phát triển và là nguy cơ thực sự của sự phát triển không bền vững và của sự sa sút trên lĩnh vực tinh thần, đạo đức, sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật.
Nghị quyết, quan điểm, đường lối của Đảng về văn học, nghệ thuật rất đúng và hay, song chậm đi vào đời sống vì không được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đồng bộ, có giá trị lâu dài về mặt quản lý nhà nước, hoặc thể chế hóa theo tư duy chắp vá, thiếu tầm nhìn, làm cho các chính sách, chế độ trở nên lạc hậu nhanh và vô hình chung trở thành lực cản đối với sự phát triển.
Công tác đào tạo, củng cố, xây dựng và phát triển đội ngũ văn nghệ còn nhiều bất cập, chưa có kế hoạch, chính sách, chế độ, chế tài phù hợp với đặc trưng của lĩnh vực này. Những hạn chế đó kéo dài nhiều năm qua là nguyên nhân của sự hẫng hụt về đội ngũ những năm sắp tới. Công tác đào tạo còn lạc hâu, thiếu đào tạo toàn diện, vì thế không giúp cho sự phát triển tốt các năng khiếu, tài năng nghệ thuật và còn làm cho một bộ phận được đào tạo phát triển lệch lạc, xuất hiện những khiếm khuyết về chính trị, tư tưởng, nhân cách, đạo đức.
Xuất hiện trong một bộ phận đội ngũ văn nghệ sĩ sự sa sút về ý chí và niềm tin, dao động trước những biến động phức tạp của đời sống chính trị thế giới và trong nước, lúng túng trước những nhu cầu mới của công chúng về văn nghệ và sự biến động về chức năng, vai trò của văn nghệ trong cuộc sống đương đại, đồng thời, trong một bộ phận văn nghệ sĩ trẻ, biểu hiện và đòi hỏi của cái tôi cá nhân mạnh hơn, lấn át cái chung, cái cộng đồng, xa rời truyền thống văn nghệ cách mạng, tiếp nhận thiếu chọn lọc những xu hướng, hiện tượng văn nghệ hiện đại của các nước phương Tây.
 Đinh Xuân Dũng
Theo http://tapchicuaviet.com.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...