Hồi 6:
Quan Âm phó hội hỏi căn do
Tiểu Thánh ra oai trừ Ðại Thánh
Nói về Quan Âm Bồ Tát ở núi Phổ Ðà tại Nam Hải. Khi Vương Mẫu
mời phó hội, thì Quan Âm đi với đệ tử là Lý Mộc Tra pháp danh Huệ Ngạn, đồng đến
cung Diêu Trì, thấy cổ bàn đã lỡ hết! Tuy có mấy vị Thiên tiên, mà không ai ngồi
tiệc, cứ bàn luận chuyện Tề Thiên...
Quan Âm ra mắt các tiên, các tiên đáp lễ, rồi thuật chuyện lại...
Quan Âm nói:
- Nếu không dự tiệc thì các vị theo bần tăng vào chầu Thượng
Ðế coi thể nào!
Các tiên y lời, theo đến Thông Minh điện, có bốn vị Tiên sư
và Xích Cước đại tiên nghinh tiếp.
Quan Âm và các tiên bước vào, thì có Thái Thượng lão quân và
Vương Mẫu còn ở đó.
Chào hỏi với nhau rồi, Quan Âm quì tâu rằng:
- Bây giờ tính hội này làm sao?
Thượng Ðế phán rằng:
- Kỳ hội nào cũng vui, kỳ nầy bị yêu hầu quấy rối? Nên trẫm
giận sai mười muôn thiên binh đi bắt nó, chưa thấy trở về, không biết thắng hay
là bại.
Quan Âm nói rằng:
- Vậy thì Huệ Ngạn xuống núi Hoa Quả thăm coi thắng phụ thế
nào! Nếu gặp đánh thì trợ chiến, rồi về báo tin.
Huệ Ngạn vâng lời xách thiết côn giáng hạ. Tới núi Hoa Quả thấy
Thiên la Ðịa võng bủa giăng, liền kêu lớn rằng:
- Ta là Nhị Thái Tử Lý Mộc Tra xin vào thám thính.
Lý Thiên Vương mở cửa dinh.
Huệ Ngạn vào lạy cha và ra mắt bốn vị Thiên vương.
Lý Thiên Vương hỏi:
- Con ở đâu tới đây?
Huệ Ngạn thưa rằng:
- Con theo Bồ Tát phó hội Bàn đào, thấy hư hết cổ bàn, nên Bồ
Tát vào chầu Thượng Ðế. Thượng Ðế thuật chuyện..., nên Bồ Tát sai con đi thám
thính.
Ðang nói nửa chừng, kế có quân vào báo rằng:
- Tề Thiên dẫn hầu tinh đến khiêu chiến.
Huệ Ngạn thưa rằng:
- Bồ Tát dạy con đi thám và trợ chiến, con xin ra trận coi
yêu quái thế nào?
Lý Thiên Vương nói:
- Con đi thì phải cho cẩn thận.
Huệ Ngạn huơi thiết côn ra khỏi cửa, rồi hỏi rằng:
- Tề Thiên là ai?
Tề Thiên nói:
- Lão Tôn đây! Còn ngươi là ai đó?
Huệ Ngạn nói:
- Ta là học trò Quan Âm bồ tát, con thứ hai của Lý Thiên
Vương tên là Mộc Tra tự Huệ Ngạn đây.
Tề Thiên nói:
- Sao ngươi không ở Nam Hải mà tu, đến đây làm gì?
Huệ Ngạn nói:
- Ta vâng lệnh thầy đi thám thính, thấy ngươi khiêu chiến,
nên ta ra mà bắt ngươi.
Tề Thiên nói:
- Mi chớ khoe tài, ta đập mi một cái cho biết.
Huệ Ngạn giơ côn ra đỡ, đánh đặng sáu mươi hiệp Huệ Ngạn chạy
dài.
Tề Thiên thâu quân về động.
Còn Huệ Ngạn chạy về thở dốc mà rằng:
- Tề Thiên thiệt có tài, con cự đà không lại.
Lý Thiên Vương hoảng kinh truyền viết biểu cầu cứu, sai Ðại Lực
quỷ vương theo Huệ Ngạn về trời dâng biểu.
Khi ấy Huệ Ngạn về thuật chuyện cho Quan Âm nghe, Quan Âm còn
suy nghĩ.
Còn Ðại Lực quỷ vương dâng sớ Thượng Ðế coi rồi phán rằng:
- Sá gì một con quỷ mà mười muôn Thiên binh làm không lại, mà
phải xin tiếp cứu! Bây giờ tính sai đạo binh nào?
Quan Âm chắp tay tâu rằng:
- Bệ Hạ chớ lo! Bần tăng dâng một vị thần, bắt yêu hầu nháy mắt.
Thượng Ðế phán hỏi:
- Bồ Tát cử ai?
Quan Âm tâu rằng:
- Người ấy kêu Bệ Hạ bằng cậu ruột. Nhị Lang hiền thánh tên
Dương Tiễn, khi trước giết sáu con yêu, lại có sáu người anh em bạn tại Mai
Sơn, sẳn có 1200 thần thảo đầu, thần thông quảng đại, bây giờ ở tại vàm Quán
Châu, va có tánh kiêu, như sai đi đánh thì đi, nếu đòi về trào mà sai thì chắc
không chịu! Xin Bệ Hạ xuống chiếu sai va, thì chắc va phụng mạng.
Thượng Ðế y lời truyền viết chiếu điều binh rồi sai Ðại Lực
quỷ vương đi.
Khi Ðại Lực quỷ vương tới vàm Quán Châu, đến trước dinh, Nhị
Lang hiển thánh tiếp sứ, rồi thiết hương án quì đọc chiếu như vầy:
"Tề Thiên Ðại Thánh là Tôn Ngộ Không ở tại động Thủy
Liêm núi Hoa Quả, hội Bàn đào nó phá rã rời, Thiên Binh Thiên Tướng bị đà xững
vững. Xin hiền khanh ra sức cùng nghĩa đệ giúp công Trị bình, trẫm sẽ phong, chỉnh
đốn rồi ta ban thưởng."
Nhị Lang hiển thánh vâng lời tạ ơn; rồi nói rằng:
- Vậy Thiên sứ về trước tâu lại, rằng tôi phụng chỉ đề binh.
Nói rồi kêu sáu anh em: Khượng thái úy, Trương thái úy, Giao
thái úy, Lý thái úy, Quách Thân tướng quân, Trực Kiện tướng quân, bảo đem 1200
thần thảo đầu cho sẳn, đem cung tên khí giới theo, đồng nổi gió, bay qua núi
Hoa Quả, thấy Thiên la Ðịa võng bủa giăng.
Nhị Lang hiển thánh kêu lớn rằng:
- Ta là Nhị Lang hiển thánh chân quân, vâng chỉ đem quân trợ
chiến.
Lý Thiên Vương nghe báo truyền mở cửa dinh nghinh tiếp.
Nhị Lang hiển thánh vào hỏi việc chinh chiến thể nào?
Lý Thiên Vương thuật chuyện lại, Nhị Lang hiển thánh cười rằng:
- Ðể nó giỏi nó thần thông với tôi. Các ông hãy mở Thiên la Ðịa
võng ra, hễ đánh đâu vây đó mà thôi, xin Thác Tháp thiên vương hay là Tam Thái
Tử cầm kiếng chiếu yêu đứng trên mây soi xuống, đặng tôi coi mà theo nó, dẫu nó
biến ra vật chi cũng biết, đừng cho nó sẫy khó lòng.
Nhị Lang hiển thánh dặn các thần thảo đầu cột chó, cầm ó lại,
chờ khi hổn chiến sẽ thả ra.
Dặn rồi dẫn sáu tướng tới động Thủy Liêm khiêu chiến. Thấy bầy
khỉ đóng binh như rồng uống khúc, trước cửa động dựng cờ đề chữ Tề Thiên Ðại
Thánh, Nhị Lang hiển thánh nói:
- Loài yêu hầu vô lễ, muốn địch thể với trời!
Khi ấy tiểu hầu vào báo, Tề Thiên nai nịch cầm thiết bảng
xông ra hỏi rằng:
- Người là tiểu tướng ở đâu, dám cả gan đến đây khiêu chiến?
Nhị Lang hiển thánh nạt rằng:
- Mi có mắt mà không ngươi, ta là cháu kêu Thượng Ðế bằng cậu,
chức Chiêu Huệ Tịnh hiển vương, là Nhị Lang hiển thánh chân quân, vâng chỉ đến
bắt ngươi đây.
Tề Thiên nói:
- Ờ ta có nghe em Thượng Ðế muốn chồng, xuống phàm trần kết
đôi với Dương quân, sinh đặng một trai tên là Dương Tiễn sức mạnh nhổ núi Giao
Sơn, có phải là mi đó chăng? Mi là con nít nhảy mũi ta không nỡ xuống tay, ta
tha cho mi về kêu Lý Thiên Vương ra đây cự chiến.
Nhị Lang nổi giận mắng rằng:
- Yêu hầu cà xốc, ta chém một đao.
Hai đàng đánh nhau, ba trăm hiệp sức cũng cầm đồng.
Nhị Lang hiển thánh hóa mình cao muôn trượng, tóc đỏ, mặt
xanh, nanh dài, mũi lớn, cầm đao lớn bằng hòn núi chém bổ Tề Thiên.
Tề Thiên cũng biến hình cao muôn trượng, cầm thiết bảng lớn
như núi Thái Sơn cự với Nhị Lang hiển thánh.
Lúc nầy binh yêu hoảng vía hết chờn vờn, tướng khỉ run en
thôi cà thọt!
Chừng ấy sáu tướng của Nhị Lang hiển thánh mới thả chó và ó
ra, trên nhành ó liện, dưới gốc chó râm, binh tướng săn nà, làm cho bầy khỉ
quăng gươm ném giáo, con vọt vô rừng, con nhảy vào động.
Tề Thiên thật không sút chi Nhị Lang hiển thánh, song thấy quần
hầu vỡ tan, phải hiện nguyên hình chạy về tiếp cứu!
Nhị Lang hiển thánh đuổi theo.
Tề Thiên không muốn cự bởi nóng bầy khỉ nên riết về, ai dè về
gần cửa động, bị sáu tướng của Nhị Lang đón lại mà rằng:
- Con khỉ khốn chạy đâu?
Phần chó với ó nó vải theo, Tề Thiên túng thế, thâu thiết bảng
giắt vào mép tai, rồi biến ra con se sẻ bay lên ngọn cây mà đậu! Sáu tướng kiếm
không đặng.
Kế Nhị Lang hiển thánh chạy đến hỏi rằng:
- Các em rượt tới đâu mà mất nó.
Sáu người nói:
- Chúng tôi vây nó tại đây, không biết nó biến đi đâu mất!.
Nhị Lang hiển thánh trợn mắt ngó lên, thấy trên ngọn cây có yêu
khí, biết là Tề Thiên biến ra se sẻ ấy, liền hiện nguyên hình lại, rồi dùn mình
biến ra con bù cắt, bay lên mổ se sẻ, se sẻ sợ bay bỗng hóa ra con cò ngà bay
lên mây.
Bù cắt biến ra hạc biển bay theo. Cò ngà hoảng kinh xẹt xuống
suối hóa ra con cá. Hạc biển bay theo xuống suối không thấy con ngà, thì chắc
con ngà đã biến ra tôm cá, liền hóa ra con séo mà xom, con cá thấy con séo xom
lia xom lịa, thì nghi là Nhị Lang biến ra, liền lội thối lại.
Con séo thấy con cá chày mà đuôi không đỏ, biết là Tề Thiên liền
chạy theo mà mổ. Con cá thấy con séo sao chân không đỏ, biết chắc là Nhị Lang
theo mình liền lặn xuống biến ra con rắn nước, nhảy vọt lên bờ, lủi vô cỏ rậm.
Con cò séo mổ hụt, lại thấy rắn nước nhảy lên bờ, thì chắc là Tề Thiên hóa rắn
mà trốn, séo liền hóa ra hạc xám theo mổ rắn nước, rắn nước chạy vọt lên triền
núi hóa ra chim nắt nước, đậu theo mé khe, Nhị Lang hiển thánh thấy Tề Thiên biến
ra vật hèn mọn, thì không thèm hóa ra vật khác làm chi, liền hiện hình người lấy
cung mà bắn. Chim nắt nước lẹ mắt, liền nhào xuống chân núi, hóa ra một cái miểu
Thổ Ðịa, cái miệng làm cửa, hai hàm răng làm cánh cửa, cái lưỡi làm cốt Thổ Ðịa,
cặp mắt làm cửa sổ, còn cái đuôi không biết làm sao phải hóa làm cột cờ dựng
sau miễu!
Nhị Lang hiển thánh tới gặp miễu Thổ Ðịa sau miễu có dựng cờ.
Nhị Lang ngẫm nghĩ cười rằng:
- Con khỉ nó gạt ta đây! Ta khi nào mắc kế, thuở nay miễu Thổ
Ðịa đời nào dựng cờ sau lưng, Tề Thiên gạt ta chun vào để nó cắn. Ta không thèm
vô cửa, ta đánh phá cho hư gãy cánh, rồi ta sẽ vào.
Tề Thiên nghe nói nghĩ rằng:
- Nếu để nó đập phá cửa, thì gãy răng đui mắt mình còn gì.
Kế bốn Thái Úy, hai tướng quân chạy tới hỏi rằng:
- Anh bắt đặng Tề Thiên chưa vậy?
Nhị Lang hiển thánh cười mà thuật chuyện vậy vậy...
Sáu người đều sửng sờ!
Nhị Lang hiển thánh nói:
- Vậy các em ở đây coi chừng, để ta lên mây kiếm nó.
Nói rồi nhảy lên nửa chừng, thấy Lý Thiên Vương và Na Tra
đang ở trên mây soi kiếng.
Nhị Lang hiển thánh nói:
- Thiên Vương có thấy yêu hầu chăng?
Lý Thiên Vương nói:
- Nó không có lên đây, ta đang soi gương mà tìm nó.
Nhị Lang hiển thánh thuật chuyện lại, Lý Thiên Vương nghe
nói, thì cầm kiếng mà soi, rồi cười ngất mà rằng:
- Con khỉ nó qua vàm Quán châu là chỗ Chơn quân ở kia kìa,
Chơn quân trở về bắt nó cho mau.
Nhị Lang hiển thánh nghe nói xách đao đi riết.
Nói về Tề Thiên gần tới vàm Quán Châu, liền giả hình làm Nhị
Lang hiển thánh, đi thẳng vào cửa miếu, Quỷ sứ ngỡ là chủ về, kéo ra làm lễ rước
vào.
Tề Thiên ngồi giữa bảo đem sổ bộ ra xem, thấy đề Lý Hổ đem
tam sanh cúng trả lễ, Trương Long cầu gia đạo bình an, kẻ tới cầu con, người
xin cứu bệnh.
Ðương xem sổ bộ, kế báo gia gia về nữa! Quỷ sứ nghe báo chạy
ra sững sờ!
Nhị Lang hiển thánh hỏi:
- Có Tề Thiên tới đây không?
Quỷ sứ thưa rằng:
- Có một gia gia hình dung như vậy, đương xem bộ sổ ở trỏng.
Nhị Lang hiển thánh nghe nói xông vào.
Tề Thiên xem thấy hiện hình mà nói rằng:
- Nhà ngươi đừng láu táu, miễu này về Lão Tôn rồi!
Nhị Lang hiển thánh chém một đao, Tề Thiên đưa thiết bảng ra
đỡ.
Hai người đánh với nhau ra khỏi cửa, vừa đánh vừa chạy đến
chân núi Hoa Quả!
Ðã sức cầm đồng thì chớ, lại còn sáu người trợ chiến và thiên
binh thiên tướng phủ vây.
Lúc này Ðại Lực quỷ vương về tâu... Thượng Ðế với Quan Âm,
Thái Thượng, Vương Mẫu và các tiên còn ở lại đền bàn luận, Thượng Ðế nghe Ðại Lực
quỷ vương tâu chuyện thì hỏi rằng:
- Nhị Lang hiển thánh đánh cả ngày sao không nghe tin thắng bại?
Quan Âm chắp tay tâu rằng:
- Xin Bệ Hạ, ngự ra cửa Nam Thiên với Thái Thượng đạo tổ để
xem thắng phụ dường nào.
Thượng Ðế khen phải, liền ngự ra Nam Thiên Môn, mở cửa trời
xem xuống, thấy Lý Thiên Vương cầm kiếng đứng trên mây với Na Tra. Các thiên
binh thiên tướng thì vây phủ Tề Thiên, còn Nhị Lang hiển thánh với sáu người em
vậy đánh Tề Thiên, mà cũng trật vuột làm không xuể!
Quan âm nói với Thái Thượng rằng:
- Tôi tiến cử Nhị Lang là thần thông quảng đại, mà còn bắt
không đặng Tề Thiên. Thôi, để tôi giúp Nhị Lang một phép đặng bắt nó cho rồi.
Thái Thượng hỏi:
- Bồ tát làm sao mà giúp?
Quan Âm nói:
- Tôi quăng cái Tịnh bình xuống đập đầu con khỉ, dầu không chết
cũng té nhào thì Nhị Lang bắt đặng.
Thái Thượng nói:
- Cái tịnh bình của Bồ Tát bằng ngọc, như đánh nhằm thì tốt,
rủi có trật bể uổng! Thôi, để tôi giúp cho.
Quan Âm hỏi:
- Ðạo tổ dùng vật chi?
Thái Thượng cởi cái vòng trong tay tả mà rằng:
- Cái vật này bằng gang, tôi tẩm luyện đã linh lắm, nhờ đeo
trong mình, nên rất quý! Nước ngâm không ướt, lửa cháy không mềm, quăng đụng vật
chi thì nó quấn chặt cứng nên gọi là Kim Cang trát, một tên riêng là Kim Cang
sào. Năm trước, tôi qua khỏi cửa Hàm cốc cũng nhờ nó, mới độ nước Tây Vực thành
Phật nhiều lắm. Ðể tôi quăng xuống cho mà coi.
Nói rồi quăng xuống.
Khi Tề Thiên đương mê trận, chẳng dè Kim Cang sào rớt nhằm đầu,
Tề Thiên té nhào, bộ như chết hụt, lồm cồm chờ dậy, bầy chó nhảy vô cắn xé, trì
kéo lăng nhăng, nên Tề Thiên nằm dưới đất la chó, vừa la vừa chờ dậy, bị Nhị
Lang hiển thánh và sáu anh em xúm lại bắt Tề Thiên đè xuống lấy ngoéo sắt móc
eo ếch, xỏ tiên thằng trói lại hết thế vùng vẫy.
Khi ấy Thái Thượng thâu Kim Cang sào, rồi mời Thượng Ðế với
Vương Mẫu, Quan Âm về điện Linh Tiêu. Còn bốn Thái Úy và hai tướng quân dẫn Tề
Thiên vào trại. Các Thiên Vương và Thiên tướng đồng khen rằng:
- Thiệt là nhờ công lao Tiểu thánh, mới bắt đặng yêu hầu.
Nhị Lang hiển thánh nói:
- Nhờ hồng phước của Thượng Ðế và oai lực các ông, chớ tôi có
tài chi mà khen ngợi.
Sáu người em bạn thưa rằng:
- Xin anh để chúng tôi dẫn yêu hầu nạp cho Thương Ðế.
Nhị Lang hiển thánh nói:
- Các em chưa có sắc phong, không nên chầu Thượng Ðế, để sai
thần Lục đinh lục giáp giải nó lên Thiên Tào, còn các em vào núi này trừ cho hết
yêu quái. Còn ta theo các vị Thiên tướng lên Ðế đình lãnh thưởng, sẽ về phân
phát cho nhau.
Sáu người đều vâng lệnh, đi xuống Hoa Quả Sơn.
Còn Nhị Lang hiển thánh đi với Thiên Tướng Thiên Binh về tới
Thông Minh điện. Thiên sứ tâu rằng:
- Nhị Lang và Thiên Binh Thiên Tướng bắt đặng Tề Thiên giải về.
Thượng Ðế truyền Ðại Lực quỷ vương, Lục đinh, Lục giáp, với
các tướng trời, dẫn Tôn Ngộ Không tới đài trãm yêu mà phân thây muôn đoạn.
Hồi 7:
Ðại Thánh trốn khỏi lò Bát quái
Thích ca nhốt yêu núi Ngũ hành
Khi ấy chúng thần dẫn Tề Thiên tới đài trãm yêu, trói vào cột
hàng yêu, gươm chém mẻ gươm, giáo đâm mẻ giáo, hỏa tinh đốt không cháy, Thiên
Lôi đánh không sờn! Ðại Lực quỷ vương và các Thiên tướng tâu lại...
Thượng Ðế phán rằng:
- Không biết yêu hầu học phép hộ thân ở đâu mà đặng như vậy!
Bây giờ liệu làm sao?
Thái Thượng tâu rằng:
- Con khỉ ấy ăn bàn đào, uống ngự tửu, lại nuốt hết năm bầu
thuốc kim đơn của tôi, nên nó thành mình vàng rồi làm sao giết cho chết! Vậy
xin Bệ Hạ giao nó cho tôi bỏ vô lò bát quái, dùng lửa phép mà hầm nó, hễ chảy
thuốc kim đơn ra hết, thì nó phải ra tro.
Thượng Ðế phán rằng:
- Vậy thì giao Tề Thiên cho Lão quân khiển sát.
Thái Thượng vâng chỉ...
Rồi Thượng Ðế với Nhị Lang hiển thánh lên điện, thưởng một
trăm bông vàng, một trăm ve ngự tửu, một trăm hột hườn đơn và gấm thêu châu
báu...
Nhị Lang hiển thánh tạ ơn, rồi lãnh phần thưởng lui về miếu
cũ.
Còn Thái Thượng về cung Ðâu Suất mở trói cho Tề Thiên, bỏ vô
lò bát quái đậy nắp lại, truyền Lục đinh Lục giáp và một đạo sĩ coi chụm lửa
cho đủ bốn mươi chín ngày đêm.
Nguyên lò bát quái là tám cung: Cung Càn, cung Khảm, cung Cấn,
cung Chấn, cung Tốn, cung Ly, cung Khôn, cung Ðoài, mà cung Tốn ở trên gió.
Tề Thiên nép bên cung Tốn cho khỏi lửa, tuy không lửa thì mặc
lòng, chớ cũng bị khói un hai con mắt nâu hết, nên thành mắt lửa tròng vàng!.
Ðủ bốn mươi chín ngày đạo sĩ dỡ nắp ra coi, trong ý tưởng Tề
Thiên tiêu rồi, còn thuốc kim đơn chảy ra cả khối.
Ai dè Tề Thiên đương dụi con mắt, nghe tiếng dỡ nắp lản cản,
trên miệng lò trống lỗng! Tề Thiên vùng nhảy thót ra, đá ngã lò rớt xuống trung
giới, sau thành Hỏa Diệm sơn, làm đạo sĩ phải đọa.
Khi thình lình Ðạo sĩ đậy nắp không kịp. Còn Lục đinh Lục
giáp a lại nắm Tề Thiên mà kéo, Tề Thiên vụt lăn cù!
Lúc ấy Tề Thiên như cọp sút rọ.
Thái Thượng nóng mũi chạy theo níu lại, bị Tề Thiên xô ngã sấp!
Rồi lấy thiết bảng ra riết tới thiên cung loạn đả! Chín vì sao lo đóng cửa, bốn
Thiên Vương chạy tan.
Tề Thiên đánh đến chỗ nào thì tan chỗ nấy, không ai dám cự,
đánh tới Linh Tiêu bửu điện, nhờ có bộ hạ ông Hựu Thánh chơn quân là Vương Linh
Quan giữ điện, thấy Tề Thiên loạn đả.
Linh Quan rút roi vàng cản lại hỏi rằng:
- Con khỉ khốn đi đâu? Có ta đây không đặng ngang dọc.
Tề Thiên không thèm nói lại, hươi thiết bảng đập nhầu, Linh
Quan lấy sức chống cự, chưa biết hơn thua.
Khi ấy Hựu Thánh chơn quân cho đòi 36 vị lôi công tới ví Tề
Thiên hổn chiến.
Tề Thiên không nao núng hóa ra ba đầu sáu tay cầm thiết bảng
đánh như chong chóng.
Linh Quan và 36 vị lôi công vây ngoài xa không dám xáp lại.
Thượng Ðế kinh hãi, liền truyền chỉ sai Du Diệc linh quan và
Duật Hành chơn quân, đồng qua Tây Phương đặng thỉnh Phật Tổ Như Lai cứu giá.
Nói về hai vị thiên sứ đằng vân đến Lôi Âm tự, cậy bốn vị Kim
cang, và tám vị Bồ tát; dẫn tới trước tòa sen, hai vị đảnh lễ rồi, Thích Ca hỏi:
- Thượng Ðế sai nhị thánh đến đây có việc chi?
Hai vị thuật chuyện và bạch rằng:
- Bởi có sự gấp rút như vậy, nên phải cầu Phật Tổ từ bi cứu
giá.
Thích Ca nói:
- Các vị Bồ Tát ở đây, để ta đi cứu giá.
Dặn rồi kêu Ấ Nang tôn giả và Ca Diếp tôn giả đi theo, hóa
hào quang bay gần tới Linh Tiêu bửu điện, nghe khua khí giới điếc tai, ấy là 36
vị lôi công vây đánh Tề Thiên mà không đã ngứa!
Thích Ca dạy Lôi công bãi chiến, rồi kêu Tề Thiên ra hỏi.
Tề Thiên hiện nguyên hình, lướt tới hét lớn rằng:
- Ngươi là kẻ thật thà ở xứ nào tới đây khuyên giải?
Thích Ca cười rằng:
- Ta ở nước Cực lạc hiệu Thích Ca Như Lai, nghe đồn ngươi
ngang dọc làm phản cung trời, nên ta đến hỏi thăm cho biết, chẳng hay ngươi
sinh tại đâu, thành đạo năm nào, vì cớ chi mà sanh loạn như vậy?
Tề Thiên nói: - Ngươi muốn rõ cội rễ của ta, thì nghe ta ca
đây.
Thinh không trời đất nứt sanh ta,
Hoa Quả non tiên thiệt cửa nha
Ở động Thủy Liêm tài tót chúng
Học thầy Tây Thổ phép cao xa
Luyện chước sống đời tày nhực nguyệt,
Ra công giúp chúng khiếp yêu ma
Vì ở trung thần chê siển thổ,
Dốc lên thượng giới ngự chương tòa
Hơn thua cuộc thể lòng không chát,
Dời đổi ngôi trời chí đã sa
Có đức có tài thì có vị,
Ai thua gì nhượng nghiệp hoàng gia.
Thích Ca nghe rồi cười rằng:
- Ngươi bất quá một con khỉ thành tinh, sao dám cướp ngôi Thượng
Ðế? Vả Thượng Ðế tu tới 1550 kiếp, mỗi kiếp đều nhiều năm, ngươi công đức bao
nhiêu, phòng muốn tranh ngôi báu? Sao ngươi không sợ chết, phải lo việc tu
hành, nếu còn làm thói dọc ngang, gặp kẻ đạo cao thì uổng mạng?
Tề Thiên nói:
- Tu nhiều kiếp thì mặc dầu, không lẽ làm vua hoài hủy. Lời tục
nói: Ngồi lâu còn dời chỗ, ngôi báu cũng đổi thay. Ngươi hãy bảo Thượng Ðế dọn
đồ đi mà nhường ngôi cho ta, bằng không thì ta đánh mãi.
Thích Ca nói:
- Ngươi trừ phép trường sanh và biến hóa ra, còn phép chi hay
nửa chăng, mà dám nhường ngôi Thượng Ðế?
Tề Thiên nói:
- Ta có phép rất nhiều, 72 phép huyền công, luyện đặng trường
sanh bất tử, và cân đẩu vân cũng hay, nhảy một nhảy hơn 108000 dặm. Tài phép
như vậy làm vua trời không xứng hay sao?
Thích Ca nói:
- Vậy thì ta đánh cuộc với ngươi, nếu ngươi nhảy khỏi bàn tay
hữu của ta, thì ngươi hơn, ta bảo Thượng Ðế nhượng thiên cung cho ngươi, khỏi bề
chinh chiến, còn ngươi nhảy không khỏi bàn tay ta, thì ngươi trở về trung giới
tu ít kiếu nửa sẽ lên tranh đoạt.
Tề Thiên nghe nói cười thầm rằng:
- Thích Ca thiệt quê mùa quá! Lão Tôn nhảy một cái 108.000 dặm,
sá chi bàn tay, dầu bao lớn, lại nhảy không khỏi.
Nghĩ rồi hỏi lớn rằng:
- Ngươi làm chủ việc ấy chắc không?
Thích Ca nói:
- Chắc.
Nói rồi xòe bàn tay hữu ra, bằng lá sen.
Tề Thiên cất thiết bảng, rồi co giò nhảy qua! La lớn rằng:
- Ta qua khỏi rồi.
Ngó quanh quất thấy năm cây cột đỏ như thịt, trên ngọn có mây
xanh.
Tề Thiên nói:
- Mình nhảy xa quá, tới đây cùng đường rồi, thì Thích Ca bảo
Thượng Ðế nhường ngôi cho mình chắc lắm! Song mình phải làm dấu, phòng sau đối
nại với Thích Ca. Nghĩ rồi nhổ lông hóa viết mực, đề tại cây cột giữa, tám chữ
rằng: "Tề Thiên Ðại Thánh đáo thử nhứt du". Nghĩa là: Tề Thiên đi
chơi tới chỗ đó.
Ðề rồi lại đái xuống gốc cột thứ nhất một vũng, rồi cân đẩu
vân trở lại, té ra cũng còn đứng trong bàn tay Thích Ca mà nói rằng:
- Ngươi là con khỉ đái vất! Ra không khỏi bàn tay ta mà còn
múa mỏ!
Tề Thiên nói:
- Ngươi có theo ta đâu mà biết, ta đi tới chân trời, thấy năm
cây cột đỏ, trên ngọn có mây xanh, ta có làm dấu, ngươi không tin đi mà coi?
Thích Ca nói:
- Ta chẳng đi đâu hết, ngươi hãy cuối đầu xuống mà coi?
Tề Thiên trợn mắt dòm xuống, thấy ngón tay giữa của Thích Ca
có đề tám chữ: Tề Thiên Ðại Thánh đảo thử nhứt du, dưới cộng tay cái còn bọt,
nước đái!
Tề Thiên hoảng kinh nói rằng:
- Kỳ không kìa! Ta đề tám chữ đó nơi cây cột chống trời, sao
lại ở nơi tay nọ! Chắc họ có phép tiên tri, làm vậy đặng gạt mình, ta chẳng hề
tin, đi coi lại một nữa.
Nói rồi nhảy lên một cái bị Thích Ca lật bàn tay xuống đất,
năm ngón tay Thích Ca hóa ra năm hòn núi Ngũ Hành, chụp đè trên lưng Tề Thiên Ðại
Thánh!
Các vị lôi thần và Ấ Nang, Ca Diếp chắp tay khen rằng:
- Hay lắm!
Thích Ca bảo Ấ Nang, Ca Diếp từ giã ra về.
Xảy thấy Thiên Bồng Thiên Hựu chạy đến tâu rằng:
- Xin Phật Tổ nán chờ Thượng Ðế ra mắt.
Thích Ca ngó lại thấy xe rồng tán phụng hương báu nhạc trời.
Thượng Ðế ngự ra tạ ơn rằng:
- Nhờ Phật Tổ trừ đặng yêu hầu, xin nán lại dự tiệc, ngỏ dùng
lễ mọn tạ ơn.
Thích Ca chắp tay tâu rằng:
- Lão tăng vâng chỉ tới trợ lực với chư thần, có công lao bao
nhiêu mà phòng cảm tạ.
Thượng Ðế truyền mời các thần tiên đồng phó hội tạ ơn Phật Tổ,
lại truyền tiên nữ dọn yến, bàn đào, ngự tửu, cùng đồ trân tu quý báu không biết
bao nhiêu.
Giây phút các thần tiên đến trước Phật Tổ mà bạch rằng:
- Phật Tổ từ bi đại đức trừ đặng yêu hầu, chúng tôi cảm tạ.
Xin Phật Tổ đặt tên hội này là hội chi, theo dèo cuộc nầy.
Thích Ca nói:
- Nay trên trời đã an, thì đặt An thiên hội cũng đặng.
Các thần tiên đều khen hay!
Lúc ngự yến có tiên nữ ca vang, nhạc trời trỗi chặp.
Vương Mẫu dẫn các tiên nga đến dâng bàn đào, mà bạch rằng:
- Khi trước bị yêu hầu phá hội bàn đào. Nay nhờ Như Lai trừ
nó, lại làm hội An Thiên, tôi chẳng biết lấy chi tạ ơn, nên rửa tay hái ít trái
bàn đào đem dâng lấy thảo". Thích Ca chắp tay tạ ơn.
Vương Mẫu dạy tiên nga ca múa.
Giây lâu có Nam Cực tiên ông cỡi hươu đến ra mắt Thượng Ðế, rồi
đến trước mặt Phật Tổ mà bạch rằng:
- Khi trước tôi nghe Lão Quân dẫn yêu hầu về mà đốt, tưởng họa
tán đà tiêu rồi, không dè nó thoát ra được, đánh phá cung trời làm cho kinh động
Thượng Ðế, nay nhờ Phật Tổ trị an, lại thiết An Thiên hội, nên tôi đem cỏ thoạt
bông hương, kim đơn châu bích, xin Như Lai nhiệm lễ mọn.
Thích Ca thâu lãnh.
Kế Xích cước đại tiên đến ra mắt Thượng Ðế, rồi bạch với Phật
Tổ rằng:
- Nhờ ơn Phật Tổ trị đặng yêu hầu, tôi xin dâng hai ttrái
giao lê, ít trái lão táo gọi là chút tạ ơn.
Thích Ca cũng lãnh, rồi dạy Ấ Nang, Ca Diếp thâu lễ vật, đặng
từ tạ ra lui về.
Xảy thấy Linh Quan đi tuần về báo rằng:
- Tề Thiên ló đầu ra khỏi núi!
Thích Ca nói:
- Không hề chi.
Liền lấy một tờ giấy trong túi ra có đề sáu chữ vàng là: Án
ma ni bát di hồng.
Sai Ấ Nang tôn giả đi dán trên chót núi Ngũ Hành, năm hòn núi
tự nhiên chắc cứng, như trên có câu đầu, dưới có ràng cẳng rút vô vậy! Tuy ló đầu
ló tay ra, mà dậy không nổi.
Xong rồi Thích Ca giã từ Thượng Ðế và các thần tiên ra về,
tuy vậy mà lòng cũng từ bi, sai Thổ Ðịa và Ngũ Phương Yết Ðế canh giữ Tề Thiên,
dặn có đói thì cho ăn sắt cục! Khát thì nấu đồng tiêu ra cho uống! Chờ hết tội
sẽ cho người đến cứu.
Dặn xong rồi về chùa Lôi Âm, bên bước Cực Lạc.
Hồi 8:
Như Lai tạo kinh truyền Cực Lạc
Quan Âm vâng chỉ xuống Tràng An
Nói về Phật Tổ từ tạ Ngọc Ðế về đến Lôi Âm bửu sái, để các vị
Bồ Tát Kim Cang cầm tràng phan bửu sái ra tiếp giá.
Như Lai lên ngồi tòa sen, hào quang sáng lòa.
Các Bồ Tát Kim Cang chắp tay làm lễ hỏi:
- Phá cõi trời, làm rối bàn đào hội, là ai vậy?
Như Lai phán các việc đầu đuôi, hết thảy nghe nói đều mừng rỡ
lui chầu.
Ngày kia Phật Tổ kêu các vị Ấ La, Yết Ðế, Bồ Tát, Kim Cang mà
nói rằng:
- Từ thâu đặng yêu hầu tính lại đặng năm trăm năm dưới phàm.
Nay ta có một bửu bồn, kêu là Vu Lan bồn có đủ trái ngon bông lạ cho các ngươi
hưởng nhờ, ý các ngươi muốn chăng?
Hết thảy chắp tay tạ ơn.
Phật Tổ biểu Ấ Nang Ca Diếp phân phát cho đại chúng.
Hết thảy cảm tạ rồi, xin Như Lai giảng dạy.
Như Lai giảng tam thừa kinh phép chánh quả rồi nói với chúng
rằng:
- Ta xem trong bốn cõi đại bộ châu, con người lành dữ khác
nhau. Tại Ðông Thắng thần châu kính trời đất, có lòng hiền, Tây Ngưu hạ châu
không tham ái; Bắc Cư lư châu hay sát sanh vọng ngữ, còn Nam Thiện bộ châu tham
dâm dục, hay đâm chém, miệng lưỡi hung dữ độc ác. Nay ta có ba tạng chân kinh
khá khuyên người lành. Chư vị Bồ Tát chắp tay hỏi:
- Ba tạng kinh thế nào?
Như Lai nói:
- Một tạng nói về việc trời, một tạng nói về trời đất, môt tạng
nói về việc đất, còn một tạng thì cứu ma độ quỷ. Ba tạng cộng lại là 25 bộ cai
ra một muôn năm ngàn một trăm bốn mươi bốn cuốn (15.144) thiệt là phép chu nhân
thánh thiện. Ta muốn cho về Ðông Ðộ, e thiên hạ ngu dại chê bai phép Phật, chẳng
biết kinh du là chánh tông. Phải đặng một người tài phép giỏi qua Ðông Ðộ
khuyên dạy chúng sanh, sẽ đặng có công đức như non. Ai muốn lãnh đi?
Quan Âm Bồ Tát nói:
- Tôi tuy bất tài, xin qua Ðông Ðộ kiếm một người đi thỉnh
kinh.
Như Lai cả đẹp nói:
- Quan Âm thần thông biến hóa đi đặng. Như có đi thì đi trên
mây, mà chớ đi cao lắm, ngươi tuy có lòng mà cũng khó đi đặng, nay ta cho ngươi
năm phép báu.
Liền dạy Ấ Nang Ca Diếp lấy cà sa và Cữu huờn tích trượng đặng
cho người thỉnh kinh bền lòng đi, khi bận áo cà sa khỏi đọa luân hồi, cầm tích
trượng khỏi bị hại. Quan Âm lạy mà lãnh.
Như Lai lấy ba cái cô nhi là cái vòng, nói rằng:
- Ba cái cô nhi nầy như một, cái nầy đọc chú ba lần thì biến
hóa mà trừ yêu. Như gặp yêu thì nhờ phép nầy khuyên dạy nó phải đi theo người lấy
kinh làm học trò. Như nó không chịu thì cho nó đội cái nầy trên đầu tự nhiên
dính vào thịt gỡ ra không đặng. Nó không vâng phục thì đọc chú cho nó nhứt đầu
chịu không nỗi, thì nó mới đầu vào phép ta.
Quan Âm lãnh rồi làm lễ lui ra, kêu Huệ Ngạn đi theo.
Quan Âm gói áo cà sa lại, đưa Huệ Ngạn cầm, lại cất Kim Cô,
tay cầm Tích trượng, xuống khỏi Linh Sơn. Tới gần núi có Ngọc Chân Quân Kim
Ðãnh đại tiên rước vào pha trà hỏi:
- Chẳng hay Bồ Tát đi đâu?
Quan Âm nói:
- Tôi vâng chỉ Như Lai đến Ðông Ðộ tìm người lấy kinh.
Ðại tiên hỏi:
- Chừng nào người lấy kinh đi tới?
Quan Âm nói:
- Chưa biết chừng độ hai ba mươi năm thì tới.
Liền từ giã đại tiên đi nửa chừng mây, ngó xuống sông Lưu Sa
thấy ba người chết chìm.
Quan Âm nói với Huệ Ngạn rằng:
- Người phàm khó qua chỗ nầy đặng mà lấy kinh.
Xảy thấy nổi sóng gió, một con yêu rất xấu xa, hét lớn một tiếng
nhảy lên bờ cầm bửu trượng xốc lại đánh Quan Âm.
Huệ Ngạn cầm côn chận lại nạt rằng:
- Quái vật chớ chạy.
Hai người hổn chiến hơn mười hiệp chưa phân hơn thua.
Yêu ấy đỡ lại rồi hỏi rằng:
- Ngươi ở đâu mà dám đến cự với ta?
Huệ Ngạn nói:
- Ta là Nhị Thái Tử của Lý Thiên Vương là Mộc Tra đây, ngươi
sao dám đón đường?
Quái ấy nói:
- Ta nhớ ngươi theo Nam Hải Quan Âm tu hành, sao lại đến làm
chi?
Mộc Tra nói:
- Trên kia là thầy ta đó.
Quái ấy nghe nói liền chạy tới trước mặt Quan Âm cúi đầu lạy
thưa rằng:
- Xin tha tội cho tôi thú thiệt: Nguyên trước tôi hầu Ngọc Ðế
làm chức Quyện Liêm đại tướng, nhân hội bàn đào lỡ tay làm bể đèn lưu ly nên Ngọc
Ðế bắt tội đánh 800 roi, đày xuống hạ giới, biến ra xấu xa, còn bảy ngày có
gươm bay đến đâm hông tôi một lần, đau đớn quá chừng. Lại thêm đói lạnh chịu
không nỗi, nên làm sóng gió bắt người qua lại mà ăn thịt, nay rủi phạm nhằm Bồ
Tát.
Quan Âm nói:
- Ngươi đã có tội lại ăn thịt người ta, tội càng thêm nặng.
Nay ta lãnh sắc Phật Tổ qua Ðông Ðộ tìm người lấy kinh. Ta muốn ngươi đợi đây
theo người lên Tây Phương thỉnh kinh, ta kêu gươm bay đó không đâm ngươi nữa.
Sau này nên công hết tội, đặng phục chức cũ, ngươi nghĩ thế nào?
Quái ấy nói:
- Tôi xin quy y làm lành. Từ trước đến nay mấy người đi lấy
kinh qua đây đều bị tôi ăn hết, còn cái đầu bỏ chìm xuống sông, không dè mấy sọ
ấy không chìm cứ nổi trên mặt nước. Tôi lấy làm lạ, lấy dây xỏ lại treo chỗ trống
kia, tính ra chín người đi lấy kinh bị hại rồi.
Quan Âm nói:
- Ngươi khá đem mấy cái đó treo trên chót núi, đợi người lấy
kinh tới sẽ có việc dùng.
Quái vật vâng lời dạy dỗ, cải ác quy y.
Quan Âm thí phát cho con yêu ấy rồi. Lấy sông Lưu Aa làm họ,
nên đặt họ Sa, đặt tên thánh gọi là Ngộ Tịnh.
Khi ấy Ngộ Tịnh đưa Quan Âm và Huệ Ngạn khỏi sông rồi, răn
lòng không ăn ai nữa. Dùng trái cây đỡ dạ mà đợi kẻ thỉnh kinh.
Còn Quan Âm và Huệ Ngạn đi một hồi lâu xảy thấy núi cao chớn
chở, hơi dữ bay lên núi mịt mù, đi qua không được.
Quan Âm tính đằng vân mà qua núi.
Xảy đâu trận gió thổi tới, hiện ra một con yêu tinh đầu heo
tướng dữ tay cầm Cào cỏ (đinh ba) đập lại Quan Âm.
Mộc Tra cản lại hét một tiếng lớn rằng:
- Ðồ yêu quái đừng vô phép, coi gậy sắt đây nè.
Con tinh trả lời rằng:
- Hòa Thượng này không biết sợ chết, coi cào cỏ ta đây.
Hai người đánh dưới chân núi, chưa biết hơn thua.
Quan Âm ở nữa lừng bỏ bông sen xuống cản ngang, hai người
đánh không đặng nữa; con tinh thất kinh mới hỏi:
- Ngươi là Hòa Thượng ở đâu hóa bông sen mà dọa bợm?
Huệ Ngạn nói:
- Ngươi là thú thai phàm mắt thịt, nên không biết ta. Ta là học
trò Phật Quan Âm, thầy ta bỏ bông sen mà ta không biết.
Con tinh hỏi:
- Quan Âm ở Nam Hải là một vị Phật quét ba tai, trừ tám nạn
phải không?
Huệ Ngạn nói:
- Vậy chớ ai?
Con tinh nghe nói, bỏ cào cỏ lạy Huệ Ngạn mà hỏi thăm rằng:
- Chẳng hay Quan Âm ở đâu, xin anh làm ơn dắt tôi ra mắt!
Huệ Ngạn ngước mặt chỉ mà nói rằng:
- Ngươi coi có phải là Phật Bà không?
Con tinh ngó thấy cúi đầu lạy mà nói lớn rằng:
- Xin Phật Bồ Tát tha tội.
Quan Âm hiện xuống mà hỏi rằng:
- Ngươi là Ông Chãng thành tinh, hay là heo rừng sanh quát,
mà đón ta vậy?
Con tinh nói:
- Tôi không phải heo rừng, cũng không phải Ông Chãng (heo rừng
lâu năm quá, mọc nanh bó hàm, tục sợ như hùm, kêu tưng bằng Ông Chãng) tôi là
Thiên Bồng nguyên soái ở sông Ngân (Thiên Hà) bởi say rượu đi lạc vào cung Nguyệt
mà chọc Hằng Nga, bị ông Linh Quan bắt giải về Thượng Ðế, Thượng Ðế bắt tội
đánh tôi hai ngàn dùi, rồi đày xuống Trung Giai. Tôi đi đầu thai lạc đường nhằm
heo rừng nái, mới ra thân thể như vậy. Tôi tức giận cắn heo nái chết tươi, và
giết bầy heo rừng tuyệt tộc. Chiếm cứ hòn núi nầy, ăn thịt người đở đói, không
dè nay gặp Phật Bồ Tát, xin cứu độ làm ơn.
Quan Âm hỏi:
- Núi nầy gọi là gì?
Con tinh nói:
- Núi nầy gọi là núi Phước Lăng, có một cái động gọi là động
Vân San, chủ động ấy gọi là Mão Nhị Thơ thấy tôi có nghề võ, vời tôi tới làm
người lớn trong nhà. Ở coi giúp việc gần một năm, nàng ấy tới số gia tài về
tôi, ở không ăn mãi núi lở non mòn, túng cùng phải ăn người cho qua bữa, xin Bồ
Tát cứu độ mà làm ơn.
Quan Âm nói:
- Người xưa rằng: Muốn có đường đi tới, thì đừng làm mất đường
lui. Nếu mất đường đi tới, thì phải cùng đường. Khi ngươi ở cõi trên đà phạm
phép, thì nay phải đọa mà không bỏ lòng hung, lại giết người hại vật, thì một tội
sinh hai, ấy là muốn cùng đường đó.
Con tinh nói:
- Còn cùng chẳng còn cũng không cần. Nếu cử ăn thịt người thì
thấy ngáp gió, hèn chi người ta nói: Y theo phép quan thì đánh chết, y theo
phép Phật thì đói chết. Là phải lắm mà. Tính bề đi phức cho xong thê. Thà bắt
chúng đi đường, ăn mỡ tươi béo lắm, cần gì 2 tội, 3 tội, ngàn tội, muôn tội nà.
Quan Âm nói:
- Lòng người muốn phải, trời cũng thuận theo. Như ngươi tu
theo phép, ta cũng có món nuôi mình được, trái cây, rau, gạo, ăn cũng no lòng,
lựa phải ăn mỡ người ta mới sống?
Con tinh nghe nói như tỉnh giấc chiêm bao, lạy Quan Âm mà nói
rằng:
- Tôi muốn giải nghiệp mà đi tu, song mắc lấy tội trời, cầu
sao cho khỏi?
Quan Âm nói:
- Ta vâng sắc Phật Tổ, xuống cõi trần mà tìm kẻ thỉnh kinh. Nếu
ngươi chịu làm đệ tử người thỉnh kinh, mà tới Tây Phương thì phước đủ trừ tội,
ta cứu ngươi nạn khỏi tai qua.
Con tinh nói:
- Chịu theo, chịu theo" Quan Âm thí phát (thế phát) xong
rồi cứ theo dèo đặt họ, gọi là Trư, đặt tên thánh là Ngộ Năng, giữ theo phép Phật,
phải ăn chay cử mặn và cử ngũ uẩn (năm món như đồ mặn là: Hành, hẹ, tỏi, nén,
kiệu và ngò) ở đợi thầy thỉnh kinh đi tới.
Quan Âm dặn rồi liền đi với Huệ Ngạn.
Ði một hồi lâu thấy một con rồng Bạch bị treo tại cửa trời. Rồng
Bạch thấy Quan Âm, liền cả kêu xin cứu.
Quan Âm hỏi:
- Ngươi là rồng ở đâu mà bị treo ở đó?
Rồng Bạch nói: "Tôi là Thái Tử con Long vương Ngao Thận ở
biển Tây. Bởi tôi nổi lửa đốt trái châu trước đền, cha tôi giận tâu với vua Trời,
rằng tôi ngỗ nghịch. Nên Thượng Ðế treo tôi giửa thinh không đánh ba trăm roi,
và đợi ít ngày xử trãm. Xin Phật Bồ Tát cứu mạng làm nhơn.
Quan Âm nghe nói liền đằng vân ới Huệ Ngạn mà lên trời, cậy
Khưu Thiên Sư và Thượng thiên sư dắt ngài vào điện.
Quan Âm tâu rằng:
- Tôi vâng sắc Phật Tổ, xuống Ðông Ðộ tìm kẻ thỉnh kinh, gặp
rồng có tội bị treo, nên tôi vào tấu, xin Bệ Hạ tha tội rồng ấy mà cho theo
tôi, đặng đỡ gót kẻ thỉnh kinh ra công mà chuộc tội.
Thượng Ðế nghe tấu, ruyền tướng trời mở trói nghiệt long (rồng
dữ) giao cho Bồ Tát. Quan Âm từ tạ, rồng nhỏ cũng lạy tạ ơn.
Quan Âm dẫn rồng nhỏ xuống núi dặn rằng:
- Ngươi ở khe này, đợi thầy thỉnh kinh đi ngang qua, sẽ hóa
thành ngựa kim đỡ gót. Rồng con vâng lệnh ở đó mà chờ.
Còn Quan Âm đi với Mộc Tra, đi hèn lâu mới tới năm hòn núi.
Ngó thấy hào quang muôn trượng, hơi ấm ngàn trùng.
Huệ Ngạn hỏi:
- Núi Ngũ Hành mà có hào quang, có khi tại bùa của Phật Tổ.
Quan Âm nói:
- Phải, Tề Thiên Ðại Thánh phá hội Bàn Ðào, phản thiên cung
năm xưa, nên bị núi đè tại đó. Thầy trò lên núi, thấy lá bùa sáu chữ chân ngôn
là: Án, Ma, Ni, Bát, Di, Hồng.
Quan Âm xem rồi than thở chẳng xiết, liền ngâm một bài kệ.
Thơ rằng:
Thương hại yêu hầu bỏ phép công,
Năm xưa làm loạn cậy sức hùng
Kể từ Phật Tổ dằn năm núi,
Bao thuở ra ngoài lại cõi Ðông.
Ðại Thánh nằm sấp dưới chân núi cả kêu rằng:
- Ai ngâm thơ trên non mà ngạo ta đó?
Quan Âm nghe hỏi liền đi lần xuống mà xem, ngó thấy dưới chân
núi, có thần núi và Thổ Ðịa canh giữ.
Các thần đều nghinh tiếp Quan Âm và dắt đến trước mặt ÐạiThánh.
Quan Âm thấy Ðại Thánh nằm dưới núi ló đầu ra, miệng nhóp
nhép lia mà cục cựa không đặng.
Ngài mới hỏi rằng:
Ðại Thánh trợn cặp mắt lửa tròng vàng, gật đầu mà nói lớn:
- Làm sao mà không biết! Ngài ở Nam Hải núi Phổ Ðà, cả làn cả
thương, cứu khổ cứu nạn, là Quan Thế Âm Bồ Tát. Cám ơn lắm, cám ơn lắm! Tôi nằm
đây coi một bữa bằng một năm, không ai ngó ngàng tới. Chẳng hay Bồ Tát đi đâu
mà ghé đây? Quan Âm nói:
- Ta vâng sắc Phật, đi xuống Ðông Ðộ tìm kẻ thỉnh kinh, đi
ngang qua đây nên ghé mà thăm đó.
Ðại Thánh nói:
- Phật Như Lai nói gạt, đè tôi dưới núi nầy. Gần năm trăm
năm, cựa mình không đặng. Xin Bồ Tát làm phước, cứu lão Tôn một phen.
Quan Âm nói:
- Ngươi làm tội đầy trời, nếu cứu ngươi ra, quen thói yêu
càng không nên lắm.
Ðại Thánh nói:
- Tôi đã ăn năn chừa lỗi, xin ngài cứu độ, tôi chịu đi tu.
Quan Âm nghe nói quá đỗi mừng, mới nói với Ðại Thánh rằng:
- Ngươi muốn làm phải thì trời cũng độ cho, ngươi đã quyết tu
hành, đợi ta xuống Ðại Ðường tìm một thầy thỉnh kinh, dặn ghé mà cứu, thì ngươi
theo làm đệ tử, giữ phép Phật mà đi tới Tây Phương thỉnh kinh về, cũng thành
chánh quả.
Ðại Thánh nói:
- Tôi chịu, tôi chịu.
Quan Âm nói:
- Ngươi dốc lòng tu niệm, ta đặt tên thánh cho.
Ðại Thánh nói:
- Tôi tên là Ngộ Không khỏi mất công đặt nữa.
Quan Âm nghe nói mừng rằng:
- Khi trước ta có độ hai người tu, cũng lót chữ Ngộ. Nay
ngươi cũng lót chữ Ngộ nữa, trùng phái với nhau, tốt lắm, tốt lắm".
Nói rồi từ giã ra về.
Như Ðại Thánh là: Thấu tánh sáng lòng theo đạo Phật.
Còn Quan Âm thì: Ra công hết sức kiếm thầy Thần.
Quan Âm cùng Mộc Tra đi xuống Ðông Ðộ. Ngày kia đến đất Trường
An là nước Ðại Ðường, hai thầy trò hiện hình ra hai thầy chùa ghẻ lát mà đi lộn
với người và tới chợ Trường An, thì trời đã tối, mới đi ngay vào miễu Thổ Ðịa.
Ông Ðịa hết hồn, binh ma mất vía, biết là Phật Quan Âm giả dạng,
ra làm lễ rước vào.
Thổ Ðịa đi báo với Thành Hoàng và thần các miễu, đều vào ra mắt
mà rằng:
- Xin Phật Bồ Tát tha tội chúng tôi, vì sự rước trễ.
Quan Âm nói:
- Các ngươi đừng lậu tiếng, ta vâng sắc Phật Tổ, đi tìm kẻ thỉnh
kinh, ta ngụ nhờ trong miễu ít ngày, đợi tìm đặng kẻ thỉnh kinh, ta sẽ từ giã.
Các thần ở đâu về đó, còn ông Ðịa dọn ra ở đở ngoài Thành
Hoàng (Thành Hoàng bổn xứ là ông thần ở đình lớn trong tỉnh sở tại).
Còn hai thầy trò giả dạng, ở miễu Thổ Ðịa thường bữa đi dọ
tin.
Hồi 9:
Dinh Giang Châu, mẹ con gặp gỡ
Sông Hồng Giang, chồng vợ đoàn viên
Quan Âm tìm kẻ thỉnh kinh lại, bây giờ nghĩa cho rõ sự tích
Trường An:
Nguyên thành Trường An tại quận Hiệp Tây; các đời vương thường
lập kinh đô tại đó, là từ nhà Châu, nhà Tần, nhà Hớn cho đến nhà Ðường, vì sứ ấy
tới ba châu (tỉnh), đất đai tốt lắm, nên trên bờ huê kiểng như gấm thêu, còn dưới
sông thì giáp tám mối nước, nên thuyền bè đông đảo. Nơi ấy thị tứ không xứ nào
hơn, nhằm lúc vua Ðường Thái Tôn (Thế Dân) trị vì, xưng hiệu Trinh Nguơn năm thứ
mười ba là năm Ất tỵ. Lúc ấy thái bình lắm, tám phương cống sứ, bốn biển làm
tôi.
Ngày kia vua Thái Tôn lâm triều, văn võ trăm quan chầu chực.
Thừa tướng là Ngụy Trưng tâu rằng:
- Nay thiên hạ thái bình, tám phương lặng lẽ, xin Bệ Hạ ban
phép mở hội khoa thi, kén kẻ tài hiền mà giúp việc nước nhà.
Vua Thái Tôn phán rằng:
- Khanh tâu rất phải.
Khen rồi truyền tống bảng văn, rao trong các phủ, các châu,
các huyện, chẳng luận quân dân chi hết, ai văn chương thông thái, đặng vào thi
tại đất Trường An.
Khi ấy có một người ở gần biển (Hải Châu) họ Trần tên Ngọc,
tên chữ Quang Nhụy thấy bảng văn thì mừng lắm, về thưa với mẹ là Trương Thị rằng:
- Nay Triều chạy châu tri khắp sứ, mở hội thi tại Trường An.
Con có công ăn học ít nhiều, cũng muốn vào khoa ứng cử, may nhờ đức cha mẹ mà
thi đỗ làm quan thì vinh hiển Tông môn, nở mày đẹp mặt, nên con vào thưa cho mẹ
rõ mà lo việc lên đường. Trương Thị nói:
- Con mười năm đèn sách, đi ứng cử đã đành. Song đường xá xa
xôi, phải giữ gìn dè dặt. May tên đề bảng hổ, mau về kẻo mẹ đợi trông.
Trần Quang Nhụy hối tiểu đồng sửa sang rương trắp, rồi lạy mẹ
mà đi, hèn lâu mới tới Trường An, vào trường thi đỗ. Rồi vào thi trước điện, ba
bài văn sách đều hay. Vua Thái Tôn chấm đỗ lấy đậu Trạng nguyên, cởi ngựa khoe
quan ba bữa đi ngang cửa ngõ Thừa Tướng là Ân Khai Sơn. Xảy bị trái cầu thêu
(trái lăn) quăng nhằm trên mão.
Nguyên Ân Thừa Tướng có một người con gái tên gọi Ôn Kiều, hiệu
là Mãn Ðường Kiều, dung nhan đẹp đẽ, Ân Thừa Tướng cưng con lắm, cho ở trên lầu
quăng trái cầu duyên mà bói duyên (kén chồng) xảy thấy Trần Quang Nhụy cởi ngựa
đi ngang. Ôn Kiều biết là Trạng Nguyên khoa mới, đã có tài lại thêm lịch sự; Ôn
Kiều đẹp nên mới gieo cầu, thì có dàn nhạc nổi lên,mười mấy con đòi ra nắm dây
cương rước Trạng Nguyên vào phủ.
Vợ chồng Thừa Tướng khen đặng rễ đông ràng, truyền dọn đuốc
hoa gã tiểu thơ cho quốc trạng.
Vợ chồng làm lễ xong rồi, sắt cầm ăn nhịp.
Rạng ngày vua ngự văn võ vào chầu, vua Thái Tôn phán hỏi rằng:
- Trần Quang Nhụy đỗ Trạng tân khoa, nhắm bổ chức chi cho xứng
đáng?
Thừa Tướng Ngụy Trưng tâu rằng:
- Tôi tra các châu các phủ có khuyết một chức Tri châu tại
Giang châu, xin bổ Trạng nguyên vào chức đó.
Vua Thái Tôn phong Trần Quang Nhụy làm chức Tri châu, truyền
phó nhậm Giang Châu lập tức Trần Quang Nhụy tạ ơn, về dinh luận bàn việc đi phó
nhậm, vợ chồng lạy tạ cha mẹ sửa sang xe ngựa ra đi.
Nhằm tiết tháng ba cảnh tốt, gió hòa đưa liễu lục, mưa nhỏ rưới
hoa hồng, mảng xem phong cảnh tốt tươi, xảy thấy đã kề nhà cũ.
Hai vợ chồng vào nhà lạy mẹ, Trương thị rất mừng.
Trần Quang Nhụy thưa rằng:
- Con nhờ đức mẹ, thi đỗ Trạng nguyên. Ði ngang cửa Thừa Tướng
họ Ân, Tiểu thơ gieo cầu nhằm trẻ, nên định xong đôi lứa, vua lại phong chức
Tri châu. Con trở về nhà rước mẹ đi theo phó nhậm.
Trương thị mừng lắm sửa soạn lên đường; cùng nhau đi đặng vài
ngày ghé quán Lưu tiểu nhị mà nghỉ; Trương thị nhuốm bệnh, nói với con rằng:
- Trong mình mẹ không yên, ở nán vài ngày dưỡng bệnh.
Trần Quang Nhụy vâng lời ở đó.
Rạng ngày mai Trần Quang Nhụy thấy có người xách cá chài vảy
vàng đi bán, liền kêu vào quán mua cho mẹ ăn, mua rồi thì thấy con cá nháy mắt
thì thất kinh mới nói: "Nghe đồn rằng: Con cá, con rằn mà nháy con mắt, là
không phải vật tầm thường". Rồi hỏi người bán:
- Con cá nầy ông bắt tại đâu?
Ông chài nói:
- Tôi chài tại sông Hồng giang, cách phủ mười lăm dặm.
Trần Quang Nhụy liền đem cá ấy thả đi, rồi về thuật chuyện lại
cho mẹ rõ.
Trương thị nói:
- Phóng sanh là có phước, mẹ rất bằng lòng.
Ngày kia Trần Quang Nhụy vào thưa với mẹ rằng:
- Ở đây ba ngày, mà việc vua gấp lắm, con tính ngày mai dời
gót, song chẳng rõ mẹ khá hay chưa?
Trương thị nói:
- Trong mình mẹ chưa khỏe; trời nắng gắt, rán đi e phải bịnh
thêm, vậy thời con mướn phố, và để tiền chi phí lại đây, mẹ ở nán ít ngày, hai
vợ chồng đi phó nhậm trước đi kẻo trễ. Ðợi sang thu mát mẻ sang rước mẹ về cùng.
Trần Quang Nhụy luận bàn với vợ, mướn phố cho mẹ ở và để bạc
tiền.
Hai vợ chồng lạy mẹ ra đi phó nhậm, ngày đi đêm nghỉ hơn mấy
bữa mới tới bến đò Hồng giang, xảy thấy ghe đò của Lưu Hồng với Lý Bưu, hai người
đón rước, ấy cũng thời bỉ vận suy của Quang Nhụy biểu tiểu đồng đưa gánh đồ cho
chủ đò cất. Vợ chồng đồng bước xuống đò.
Lưu Hồng thấy Ân tiểu thơ mặt như trăng rằm, mắt như sao
nháy, miệng cười như búp bông ướm nở; lưng diệu như nhành liễu đương hoằng,
hình dung cá lặn nhạn sa, diện mạo huê nhường nguyệt thẹn.
Lưu Hồng liếc thấy, khó dập lửa lòng, mới tính kế với Lý Bưu,
chèo qua khúc vắng mà đậu; nửa đêm giết tiểu đồng, rồi đập chết Quang Nhụy,
quăng thây xuống sông. Tiểu thơ thấy chồng như vậy, cũng liều mạng nhảy theo.
Lưu Hồng níu lại mà nói rằng:
- Nàng thuận với ta thì thôi, bằng nghịch mạng ta chặt làm
hai khúc.
Tiểu thơ thất thế, phải chịu đỡ cho xuôi.
Lưu Hồng chèo tuốt qua sông, giao chiếc đò ấy cho Lý Bưu làm
chủ, còn nó đội mão mặc áo của Quang Nhụy, lấy bằng cấp dắt tiểu thơ đi phó nhậm
Giang Châu.
Thương hại thây tiểu đồng trôi theo dòng nước, còn thây Quang
Nhụy chìm xuống đáy sông.
Quỷ Dạ Xoa đi tìm ngó thấy, về đến báo lại với Long vương rằng:
- Tôi đi tuần tới vàm Hồng Giang, không biết ai đập chết người
học trò, bỏ thây chìm xuống đáy nước.
Vua Long Vương truyền khiêng thây đến, xem thấy than rằng:
- Người nầy có làm ơn cứu ta, không biết bị ai giết bỏ, lẻ
thường mang ơn thì phải trả, nay ta cứu lại mà đền bồi.
Tức thời viết thơ sai Dạ Xoa đến Hồng châu mà đưa cho Thành
hoàng, Thổ Ðịa, phải lấy hồn (lấy vía) tú tài ấy, mà giao lại cho ta.
Thành hoàng, Thổ Ðịa miễu Hồng châu sai Tiểu quỷ lấy vía Trần
Quang Nhụy mà giao cho Qủy dạ xoa.
Dạ Xoa đem về, vua Long Vương thấy hồn mừng lòng mới hỏi:
- Tú tài tên họ là chi đó, quê quán ở đâu, tới đây có sự gì,
mà bị người ta đánh giết? Hồn Quang Nhụy thưa rằng:
- Tôi là Trần Ngọc tên chữ Quang Nhụy, quê ở Hải châu, về huyện
Hoằng Nông. Thi đổ Quốc trạng, bổ chức Tri châu tại Giang châu, vợ chồng tôi đi
phó nhậm, tên lái đò là Lưu Hồng, thấy vợ tôi có nhan sắc, nên làm mưu độc,
đánh tôi chết bỏ thây, xin Ðại Vương cứu tôi làm phước.
Vua Long Vương nghe rõ nói rằng:
- Ngày trước ông phóng sanh con cá chài vàng, ấy là tôi đó,
nay ông mắc nạn, lẽ nào tôi chẳng cứu ông.
Truyền đem thây Quang Nhụy để trên giường, cạy miệng bỏ hột
châu định nhản vào, thây tươi hoài không rả, chờ mản hạn sẽ cho sống lại mà báo
cừu, lại nói với Quang Nhụy rằng:
- Hồn của ông sẽ ởø tại đền, mà làm chức việc.
Hồn Quang Nhụy tạ ơn.
Bây giờ nói Ân tiểu thơ cố oán Lưu Hồng muốn lột da ăn thịt
nó đi, mới là đã giận. Song ở với chồng mình đã có nghén không biết gái trai,
cùng chẳng đã làm thinh chịu đỡ, đi chừng một buổi đã đến Giang châu.
Nhà tơ thơ lại ra rước vào, các viên quan dọn yến mà đãi tân quan.
Lưu Hồng nói:
- Tôi đến đây nhờ sức các ông giúp đỡ.
Các viên quan nói:
- Quan lớn danh cao hơn thiên hạ chắc là coi dân như quan, ít
việc hành phạt kiện thưa, chúng tôi nhờ đức. Ngài nói khiêm làm chi.
Yến tiệc xong rồi ai về dinh ấy.
Tháng ngày thấm thoát đã mấy năm rồi, bữa kia Lưu Hồng có
công sự đi xa. Còn Tiểu thơ ở nhà một mình nhớ chồng hết sức, thương nổi mẹ chồng
bệnh hoạn không kẻ dưỡng nuôi. Buồn ra nhà mát sau vườn mà khóc lén. Giây lâu
đau bụng xây xẫm té nhào.
Xảy nghe tiếng nói bên tai rằng:
- Mãng Ðường Kiều nghe ta dặn. Ta là sao Nam Cực, vâng lệnh
Quan Âm Bồ Tát đem cho nàng một đứa con nầy, ngày sau phải tầm thường, danh tiếng
lớn lắm. Nếu Lưu Hồng về tới chắc giết đứa nhỏ đi, nàng phải hết lòng bảo hộ.
Chồng nàng gặp Long vương cứu sống, ngày sau mẹ con gặp gỡ, chồng vợ sum vầy,
trả thù báo oán. Thôi nhớ mấy lời ta dặn, tỉnh dậy cho mau.
Nói rồi đi thẳng.
Tiểu thơ tỉnh dậy, nhớ đủ mọi lời, thì đã sinh đặng một trai,
nàng ngồi bồng con mà khóc. Trong lòng lo sợ không biết tính làm sao.
Kế Lưu Hồng trở về thấy thằng nhỏ đòi đem đi giết.
Tiểu thơ nói:
- Bữa nay trời tối, để mai liệng xuống sông.
Thời may rạng đông Lưu Hồng đi việc quan khẩn cấp.
Tiểu thơ nghĩ rằng:
- Nếu để Lưu Hồng về nữa thì thằng nhỏ không còn, chi bằng thả
trôi sông chẳng may thì chết. Nếu Phật trời phò hộ thì xuôi người gặp mà nuôi.
Lại e sau chẳng biết mà nhìn mới cắn ngón tay, lấy máu viết một bức thơ. Viết
tên họ của cha mẹ căn cước mọi điều, rồi cắn đứt nửa ngón chân út bên tả con mà
làm dấu. Cởi áo lót mồ hôi mà bọc thằng nhỏ. Rồi bồng ra mé sông cái, than khóc
một hồi, muốn bỏ dựa mé mà bỏ về. Xảy thấy tấm ván trôi tới.
Tiểu thơ lòng mừng, lạy thinh không mà vái:
- Xin trời Phật cứu độ con tôi.
Rồi để con nằm trên tấm cây, lấy dây thẻo buộc phong thơ trước
bụng. Rồi xô êm ra dòng nước, than khóc mà về. Còn tấm ván ấy trôi xuôi theo nước
cách phủ đã xa, rồi mắc cạn dựa bực, ngay trước cửa chùa Kim Sơn, cũng thuộc về
châu ấy.
Nguyên ông chủ chùa Kim Sơn là Pháp Minh hòa thượng, tu lâu
năm cũng đã gần thành. Ngày kia ngồi trong liêu, nghe tiếng con nít khóc! Lấy
làm sự lạ tìm đến mà xem, tới mé sông thấy thằng con nít mới đẻ nằm trên tấm
cây, mà tấp vào bực.
Pháp Minh liền vớt, thấy trên bụng có phong thơ, xem hết đầu
đuôi, mới tường gốc ngọn, lấy tích trôi sông đó, đặt tên Giang Lưu, cất áo và
thơ, mướn vú nuôi bên tự.
Mặt nhật mặt nguyệt như thoi liệng, Giang Lưu 18 tuổi rồi,
Pháp Minh hòa thượng thi phát quy y cho Giang Lưu đặt tên thánh là Huyền Trang,
tu hành công quả, tánh trời đã phú, kinh luật đều thông.
Ngày kia nhằm tiết tháng ba, các sãi nhóm dưới cội tòng mà
hóng mát. Hỏi kinh hạch luật cùng nhau. Tụi thầy chùa rượu thịt khoe tài, bị
Huyền Trang vấn nạn (hỏi chuyện mắc, khó nói).
Mấy sãi ác tăng trả lời không đặng, giận mà rằng:
- Mầy là đồ súc sanh, không biết mẹ cha, chẳng thông tên họ,
lại còn làm phách gì nà!
Huyền Trang bị chúng mắng mấy lời, vào chùa quỳ bạch với thầy
mà rơi nước mắt: - Người sinh trong trời đất, nhờ khí âm dương. Lẽ nào có
thân thể mà không có cha mẹ! Xin thầy làm ơn cho tôi biết họ tên cha mẹ.
Cứ lạy hoài mà hỏi như vậy, Pháp Minh hòa thượng nói:
- Ngươi muốn tường sự tích cha mẹ, thì đi theo vô liêu.
Huyền Trang theo thầy bén gót.
Pháp Minh lên trên trinh, lấy hộp nhỏ giở ra lấy phong thơ mà
đọc, mới biết tên họ, tên cha mẹ, và sự tích oán cừu, đọc rồi ngã lăn mà khóc,
bạch với thầy rằng:
- Cừu cha mẹ không trả, sao phải làm người! Mười tám năm nay,
không biết cha mẹ, nay mới rõ là mẹ còn. Bấy lâu hỏi thăm người ta nói: Thế cha
mẹ chết hết nên thả trôi sông, nếu thầy không cứu vớt dưỡng nuôi, thì đệ tử
không còn tánh mạng, xin cho tôi đi tìm mẹ tôi đã, rồi tôi sẽ ngồi kỳ, và tu bổ
chùa chiền mà báo đáp ơn thầy nuôi dưỡng.
Pháp Minh hòa thượng nói:
- Ngươi muốn đi tìm mẹ, thì phải đem thơ và cái áo theo. Giả
đi phú quyến mà vào dinh tư Giang châu thì mới gặp mẹ.
Huyền Trang vâng lời thầy dạy, giả làm sãi đi phú quyến, thẳng
đến Giang châu, may nhằm dịp Lưu Hồng đi khỏi, cũng là trời khiến, mẹ con được
gặp nhau.
Còn Ân tiểu thơ đêm trước nằm chiêm bao thấy trăng khuyết lại
tròn, giật mình thức dậy, bàn rằng:
- Mẹ chồng tuy bặt tin tức, còn con thì thả trôi sông, nếu có
ai vớt mà nuôi, thời nay đã mười tám tuổi, có khi trời cho gặp gỡ, cũng không
biết chừng.
Ðương ngồi nghĩ một mình, nghe ngoài cửa có thầy đi phú quyến.
Tiểu thơ bước ra mà hỏi:
- Thầy ở đâu mà đến đây?
Huyền Trang nói:
- Tôi ở chùa Kim Sơn, đệ tử Pháp Minh hòa thượng.
Tiểu thơ nói:
- Như vậy thì bước vào đây, biểu dọn cơm chay mà đãi.
Nghe lời ăn tiếng nói, xem nết đứng tướng ngồi, giống chồng
mình như tạc, chẳng những giống hình dạng mà thôi.
Tiểu thơ sinh nghi, cố ý sai thế nữ gia đinh đi ra hết thảy,
mới hỏi sãi nhỏ rằng:
- Thầy tu hồi còn nhỏ, hay mới tu đây? Tên họ là chi, cha mẹ
còn hay mất?
Huyền Trang nói: - Tôi không phải mới đi tu, cũng không phải
tu hồi còn nhỏ, tôi nói ra thì cừu sâu như biển, oan lớn bằng trời, tôi bị
chúng giết cha mà cướp mẹ, nên thầy tôi biểu đi đến phủ mà kiếm mẹ tôi.
Tiểu thơ hỏi:
- Bà già thầy tên họ chi?
Huyền Trang nói:
- Mẹ tôi họ Ân tên Ôn Kiều, cha tôi là Trần Quang Nhụy, còn
tôi tên tộc là Giang Lưu, Huyền Trang tên thánh.
Tiểu thơ nói:
- Ta thiệt là Ôn Kiều, mà ngươi có vật chi làm tin?
Huyền Trang nghe xưng thiệt mẹ liền quỳ dưới đất mà khóc rằng:
- Nếu mẹ chẳng tin con, thì có áo và thơ làm chứng.
Nói rồi lấy áo và thơ dâng lên, Tiểu thơ xem quả thiệt, mẹ
con ôm nhau khóc ròng, rồi biểu con đi cho mau kẻo mà lâm hại.
Huyền Trang nói:
- Mười tám năm nay không biết mặt mẹ, nay mới gặp đặng, biểu
con đi vội sao cho đành?
Tiểu thơ nói:
- Con phải ngăn lụy mà về chùa, nếu để thằng quỷ về đây ắt là
nó giết con chết! Ðể mẹ giả bệnh, nói rằng hồi trước có vái một trăm đôi giày.
Xin đem đến chùa Kim Sơn mà huờn nguyện (cúng trả lễ) chừng ấy mẹ sẽ nói chuyện
kín với con.
Huyền Trang vâng lời ra về am tự.
Còn tiểu thơ nửa mừng nửa sợ, ngày kia giả bệnh, bỏ cơm bỏ nước,
nằm liệt trên giường.
Lưu Hồng về dinh hỏi làm sao vậy?
Tiểu thơ nói:
- Tôi hồi nhỏ có vái thí một trăm đôi giày vớ cho thầy chùa,
hồi canh ba chiêm bao thấy ông sãi cầm đao đến đòi giày; thức dậy liền sinh bệnh.
Lưu Hồng nói:
- Chuyện nhỏ mọn sao không nói sớm, để mà nằm liều.
Nói rồi truyền quân rao cho dân sự:
- Mỗi nhà phải nộp một đôi giày và một đôi vớ thầy chùa, hạn
năm ngày cho kịp.
Cách năm ngày dân sự nạp đủ số.
Tiểu thơ nói với Lưu Hồng rằng:
- Giày tuy đủ số rồi, không biết đây có chùa nào đặng đi huờn
nguyện?
Lưu Hồng nói:
- Ðây có hai kiểng chùa là chùa Kim Sơn, với chùa Tiêu Sơn,
muốn đi cúng chùa nào tự ý.
Tiểu thơ nói:
- Nghe đồn chùa Kim Sơn tử tế lắm để đi chùa Kim Sơn.
Lưu Hồng sai hai tên lính sắm sửa ghe thuyền.
Tiểu thơ dắt thế nữ xuống ghe mà đi trả lễ.
Còn Huyền Trang về chùa bạch hết sự tình cho thầy rõ.
Pháp Minh hòa thượng rất mừng, bữa sau thấy thế nữ vào chùa bạch
rằng:
- Có phu nhân đến cúng.
Các sãi ra ngoài nghinh tiếp.
Tiểu thơ vào lạy Phật biểu thế nữ bưng mâm giày để trước chùa
mới thắp nhang lạy vái, rồi giao cho Hòa Thượng phân phát giày vớ cho mấy thầy.
Huyền Trang thấy các sãi lãnh giày vớ đi tản, liền quỳ lạy mẹ.
Tiểu thơ bảo Huyền Trang cởi vớ mà coi chân, thấy chân trái mất
nửa ngón út, mẹ con níu nhau mà khóc, rồi lạy tạ ơn Hòa Thượng nuôi dưỡng con
mình.
Pháp Minh hòa thượng nói:
- Nay mẹ con gặp gỡ, mừng rồi về phủ cho mau, kẻo người dữ
hay tin mà mắc họa!
Tiểu thơ nói:
- Con ôi! Mẹ đưa cho con một chiếc vòng vàng con đi qua Hồng
châu phía Tây Bắc chừng một ngàn rưỡi dặm có tiệm Vạn Hoa vốn chỗ bà nội con là
Trương thị ngụ đó mà thăm bà; và đưa chiếc vòng rồi con cầm phong thơ nầy đi xuống
Trường An, phía bên tả thành vua có dinh quan thừa tướng Ân Khai Sơn là ông ngoại
con đó, con trao thơ nầy cho ông ngoại đặng ông ngoại tâu vua xin phép, đem
quân tới vây bắt Lưu Hồng, một là cứu mẹ, hai là báo cừu cha, mẹ không dám ở
lâu sợ nó nghi ngại". Nói rồi từ giã mà xuống ghe.
Lưu Tiểu Nhị là người chủ tiệm rằng:
- Năm trước quan Tri châu có mướn phố cho bà mẹ ở, bây giờ
còn sức khỏe hay không?
Lưu Tiểu Nhị nói:
- Năm trước ở phố tôi, sau tối hai con mắt, ba bốn năm không
trả tiền phố, nay ở trong lò gốm bể phía Nam; thường ngày xin ăn qua bữa. Ông
quan ấy đi lâu lắm, không biết cớ nào đó, biệt tin biệt tích đến nay.
Huyền Trang nghe nói, tìm vào lò gốm hỏi thăm.
Trương Thị nói:
- Tiếng mầy giống tiếng con tao là Trần Quang Nhụy!
Huyền Trang nói:
- Tôi không phải Trần Quang Nhụy, thiệt là cháu nội của bà;
Ôn Kiều tiểu thơ là mẹ.
Trương Thị hỏi:
- Sao cha mẹ cháu chẳng đến đây?
Huyền Trang thưa:
- Cha tôi bị quân dữ giết rồi, bắt mẹ tôi làm vợ. Mẹ tôi có gởi
lời thăm Bà nội, và gởi một chiếc vòng đây nè.
Trương Thị cầm chiếc vòng khóc lên mà nói:
- Con ta vì công danh mà ra thế ấy! Bấy lâu tưởng là bạch
ngãi vong ân. Hay đâu bị người ta giết. Nhờ trời phò hộ cháu sức khỏe mà tìm
bà.
Huyền Trang hỏi bà:
- Vì cớ nào mà bệnh con mắt?
Trương thị nói:
- Bà nhớ ông và cháu lắm, khóc hoài nên tối mắt đi!
Huyền Trang nghe nói, quỳ lạy trời mà vái rằng:
- Xin trời phật thương tôi, 18 năm chưa báo cừu cho cha mẹ,
nay mẹ tôi sai đi tìm bà nội; Phật trời thương đến xin cho bà tôi sáng mắt ra.
Vái rồi le lưỡi mà rà con mắt cho bà.
Trong một giây Trương Thị thấy đặng mà hỏi rằng:
- Quả thiệt là cháu bà, nên giống Trần Quang Nhụy lắm, Huyền
Trang mừng rỡ, dắt bà về tiệm Vạn Hoa, lấy tiền mướn phố cho bà ở.
Lại đưa tiền dụng cho bà mà nói rằng:
- Tôi đi ngoài một tháng rồi trở về đây.
Lạy tạ ơn rồi ra đi, lâu ngày mới tới dinh Thừa Tướng, nói với
quân rằng:
- Có sãi nhỏ đến phủ mà tìm bà con.
Quân hầu vào bẫm cùng Thừa Tướng.
Thừa tướng nói:
- Lạ nầy, mình không bà con với ai hết, sao có sãi đến thăm?
Phu nhân nói:
- Hồi hôm tôi chiêm bao, thấy con về viếng, có khi thơ rễ gởi
về chăng?
Thừa Tướng biểu vời hòa thượng vào, Huyền Trang bước vô, lạy
ông bà mà khóc, rồi mới trao thơ, Thừa Tướng coi thơ rồi khóc lớn.
Phu nhân hỏi:
- Thơ có chuyện chi mà ông khóc thất thanh đi vậy?
Thừa Tướng nói:
- Sãi nầy là cháu ngoại của mình, rễ mình bị thằng chèo đò giết,
rồi bắt con mình làm vợ.
Phu nhân nghe nói khóc róng lên, Thừa tướng khuyên rằng:
- Phu nhân phiền não làm chi, để mai vào tâu cho vua hay, đem
binh ra bắt nó rồi cứu con và báo cừu cho rễ.
Sáng ngày Thừa tướng vào tâu rằng:
- Rễ tôi là Trần Quang Nhụy, vâng lệnh đi phó nhậm Giang
châu, bị tên lái đò là Lưu Hồng đánh chết, cướp con tôi làm vợ, lấy bằng cấp giả
làm Quang Nhụy, làm quan 18 năm nay, rày có tin về, thiệt là loạn lắm, xin Bệ Hạ
cho tôi đem binh mà ra đánh báo cừu.
Vua Thái Tôn nghe tâu giận lắm, cấp quân ngự năm sáu muôn cho
Thừa Tướng đi đánh, Thừa Tướng vâng lệnh lãnh binh về phủ, rồi kéo ra Giang
châu, đi hèn lâu mới tới mé sông Hồng Giang đóng trại, cho mời lén quan Ðồng
Tri đến tỏ hết sự tình, sai đi êm mà bắt vây cánh nó.
Còn Thừa Tướng lén qua sông lớn hừng đông đem binh tới vây
dinh, Lưu Hồng còn đang ngủ. Xảy thấy nghe tiếng súng, chiêng trống gióng lên
quân trào áp tới nhà tư, Lưu Hồng trở tay không kịp, bị quân bắt trói mèo, Thừa
Tướng truyền bắt tụi nó dẫn ra pháp trường.
Thừa Tướng cho đòi Tiểu thơ ra mắt, Tiểu thơ hổ thẹn không
ra, lấy dây đi thắt cổ. Huyền Trang nghe quân nói lật đật chạy vào mở dây đem
xuống, lạy mẹ mà khóc và nói rằng:
- Nay ông ngoại đem binh đến, đã bắt đứa dữ mà trả oán cho
cha tôi, sao mẹ đi tự ái; nếu mẹ thác, tôi không sống làm chi?
Thừa Tướng nghe tin cũng bước vào khuyên giải.
Tiểu thơ nói:
- Phận đàn bà con gái thì một chồng đến thác mà thôi, chồng
tôi nó bị Lưu Hồng nó giết đi, lẽ nào tôi theo nó, vì có thai nghén, liều mình
e tuyệt tự của chồng, cùng chẳng đã phải thờ đứa oán, nay con tôi khôn lớn, cha
bắt đặng đứa thù mà báo cừu, tôi còn mặt mũi nào mà ra mắt cha, thà liều mình
mà đáp nghĩa họ Trần dưới chín suối!
Thừa Tướng nói:
- Con chẳng phải chê chồng mà bỏ tiết. Ấy là gặp biến, túng
phải tùng quyền, nào có lỗi chi mà hổ thẹn.
Nói rồi cha con khóc òa.
Huyền Trang cũng khóc, Thừa tướng khuyên dỗ rằng:
- Thôi, hai mẹ con bây chẳng khóc làm chi hoài, nay bắt đứa
thù rồi, để lo mà xử.
Xảy thấy quan Ðồng Tri bắt Lý Bưu giải tới; Thừa Tướng mừng lắm
truyền dẫn đến pháp trường, đem Lưu Hồng và Lý Bưu ra mà khảo một trăm, chúng
nó khai thiệt hết.
Thừa Tướng truyền lấy đinh đóng Lý Bưu trên lừa bằng cây mà lắt
thịt (xử bá đao) rồi chém bêu đầu mà răn kẻ gian hùng, rồi dẫn Lưu Hồng tới
khúc sông Trần Quang Nhụy năm trước, mổ lấy tim gan mà tế Quang Nhụy, đọc văn tế
rồi đốt, ba người cả tiếng khóc òa.
Quỷ Dạ Xoa đem văn tế về dâng cho Long Vương, Long Vương xem
rồi, sai Nguơn soái Trạnh mời hồn Quang Nhụy vào cung, Long Vương thấy mặt mừng
mà nói rằng: - Mừng cho ông lắm! Nay có Phu nhân và Công tử với ông nhạc của
ông, mổ gan tim Lưu Hồng tế ông tại mé sông cái, nay cho ông trái châu như ý và
trái châu tẩu bàn với mười cây hàng tốt, một sợi đai ngọc và đưa ông về sum hiệp
với vợ con. Hồn Quang Nhụy tạ ơn.
Long Vương sai Dạ Xoa đem thây Quang Nhụy lên mà huờn hồn lại.
Còn Tiểu thơ cúng rồi khóc than thảm thiết, vùng nhảy xuống
sông, Huyền Trang nhảy theo kéo lại, ai nấy xúm lại khuyên giải, xảy thấy thây
Quang Nhụy nổi lên tấp lại mé sông.
Tiểu thơ nhìn quả thây chồng, hối quân vớt lên ôm thây mà
khóc lớn, ai nấy lấy làm lạ, áp lại mà coi.
Trần Quang Nhụy tỉnh lần, lồm cồm ngồi dậy, ai nấy hãi kinh lấy
làm lạ!
Trần Quang Nhụy mở mắt thấy vợ và cha vợ, với sãi nhỏ đồng ngồi
khóc bên mình, mới hỏi rằng:
- Làm cái gì lạ vậy?
Tiểu thơ nói hết tự sự cho chồng nghe, rồi hỏi thăm rằng:
- Chẳng hay vì cớ nào mà mình sống lại?
Quang Nhụy nghe rõ, liền tạ ơn cha vợ, và thuật chuyện cho vợ
con nghe rằng:
- Nhờ thả cá vàng tại tiệm Vạn Hoa, chẳng ngờ là rồng sông ấy,
khi thằng ăn cướp đánh chết mà xô thây xuống nước, nhờ vua rồng (Long Vương) ấy
cứu ta, đến nay đưa lên và cho đai ngọc, hàng, châu, buộc vào lưng ta đó, không
dè sinh con đã bây lớn, nhờ ơn cha đến báo cừu, chi xiết nỗi vui mừng, thiệt hết
suy tới thạnh.
Ai nghe cũng mừng rỡ, Thừa Tướng truyền dọn tiệc mà đãi quan
quân.
Bữa sau đồng kéo binh về, đi ngang tiệm Vạn Hoa, Trần Quang
Nhụy truyền dừng binh, dắt con đi tìm mẹ.
Còn Trương Thị chiêm bao thấy cây khôn mà trổ bông, sáng ngày
nghe quạ kêu inh ỏi sau hè, bèn nói rằng:
- Có khi cháu đà về đó.
Giây lâu thấy cho con Quang Nhụy vào lạy mừng tỏ hết mọi điều,
níu nhau mà khóc, rồi tính nợ thượng niên trả tất, kẻ xe người ngựa về tới Trường
An.
Ðến dinh rồi, hai vợ chồng dắt mẹ và con vào ra mắt Phu nhân
trong phủ.
Phu nhân mừng rỡ dọn tiệc đãi đằng.
Thừa Tướng nói:
- Tiệc này là tiệc đoàn viên (sum hiệp) ăn uống cùng nhau hỉ
hạ.
Bữa sau Thừa Tướng vào chầu, tâu rõ các việc, và xin cho Trần
Quang Nhụy làm quan tại trào; vua Thái Tôn nhậm lời, phong Quang Nhụy làm Hàn
lâm học sĩ, coi việc trong trào, phán rồi bãi chầu, ai về dinh nấy.
Huyền Trang về nhà lại cha mẹ, đem bạc tiền làm chùa lại, và
đền ơn thầy xong, rồi về thăm không chịu ở thế, nên cha mẹ biểu vào chùa Hồng
Phước mà tu cho gần. Huyền Trang đi tu rồi, sau Tiểu thơ ở nhà uống thuốc độc
mà chết êm.
Chuyện ấy chẳng nói chi cho kỹ.
Hồi 10:
Long Vương phạm tội Thiên Tào
Ngụy Trưng gởi thơ Âm phủ
Bây giờ nói chuyện gần thành Trường An, có sông Kinh nước
trong lắm, dựa mé sông có nhà ông chài là Trương Lão, gần rừng có nhà Lý Ðịnh
là Ông Tiều, hai người ấy học giỏi mà không thi, cứ việc ngư tiều vui thú.
Ngày kia hai người uống rượu trong quán, rồi dắt nhau về; đi
dọc đường Trương Lão nói với Lý địng rằng:
- Anh Lý, tôi nghĩ như vầy, kẻ giành danh vì danh bỏ mạng,
người cướp lợi bỏ lợi liều mình, mang ơn vua như bọc rắn mà đi, ăn lộc chúa như
tôm hùm mà nhủ, tính lại thua chúng ta hết thảy, non xanh nước biếc, thong thả
thảnh thơi, lạc lẻo qua ngày, tuy không vinh mà khỏi nhục.
Lý Ðịnh nói:
- Anh Trương phân phải lắm, nhưng vậy mà nước biếc đó còn
thua núi xanh đây. Trương Lão nói:
- Tôi lại e non nhơn không bằng nước trí.
Lý Ðịnh nói:
- Thôi, anh với tôi làm thơ liên vịnh thử nào, (thơ liên vịnh
là mỗi người làm một câu nối nhau).
Trương Lão nói:
- Như vậy hay lắm.
Liền ngâm trước như vầy:
Trương Lão ngâm: Thuyền xông dòng bích trong sương sớm
Lý Ðịnh ngâm: Nhà ở non xanh dựa bá tòng
Trương: Riêng mến bên cầu chiều nước nhảy
Lý: Rất ưa trên đảnh sáng mây đông,
Trương: Thuyền còn nằm ngữa xem hàng nhạn
Lý: Nẻo tắt đi ngang lóng tiếng hồng
Trương: Gánh lợi danh kia ta chẳng có
Lý: Biển dòng sông nọ tớ đành không,
Trương: Bên thuyền thường máng chài như gấm,
Trương: Trăng rạng làu làu trăm cá ngóng.
Lý: Rừng sâu thăm thẳm một mình xông
Trương: Tôm nhiều đổ ruợu nàng say với
Lý: Củi thạnh thêm ve trẻ uống cùng
Trương: Ghe chở anh em nhiều thủy thủ
Lý: Tiệc vầy bậu bạn những sơn ông
Trương: Ðỗ thuyền đánh tữu kêu thêm chén
Lý: Dẹp búa làm banh hối họ chung
Trương: Sắc nước pha trà, trà đẹp miệng
Lý: Ðào non nấu cháo, cháo no lòng
Trương: Lánh đời lui bước làm câm điếc
Lý: Dấu nọ chôn tên giả dại khùng.
Trương Lão nói:
- Tôi nãy giờ làm hổn ngâm trước, nay nhường lại cho anh làm
đầu thử nào!
Lý Ðịnh nói:
- Lẽ thường trên núi dưới sông. Tôi làm đầu thuận lắm.
Lý Ðịnh ngâm: Non núi trăng gió dạo chơi đừng lẳn khứ
Trương Lão ngâm: Biển hồ qua lại nước trong xanh
Lý: Thảnh thơi có số đà vui vẻ
Trương: Phải quấy không nghe cũng thái bình
Lý: Xem nguyệt ta nằm lều cỏ rách,
Trương: Che mưa mình máng áo tơi lành,
Lý: Tánh ưa tòng trước nên danh tốt
Trương: Ý đẹp cò le kết bạn thanh
Lý: Trong dạ không mơ cầu lợi lộc
Trương: Ngoài tai chẳng hứng tiếng tranh hành
Lý: Xuân sang nhắm liễu theo đường lộ
Trương: Hè đến xem sen dựa mé kinh
Lý: Sương xuống gà sung dầu xáo luộc
Trương: Cúc đơm cua mập mặt nham canh
Lý: Bóng xây ngủ nướng nằm nhừ tử
Trương: Trời lặng lăn quay uốn ấp sanh
Lý: Tám tiết non cao như lão cụi
Trương: Bốn mùa sông rộng thể ông Hoành
Lý: Rầu người gánh cuổi ham thi khóa
Trương: Ưa kẻ gieo câu lánh thị thành
Lý: Ngoài ngỏ bông rừng thơm phưng phức
Trương: Trước thuyền nước biển nhảy minh minh
Lý: Ba công chẳng đổi lưỡi rìu nguyệt
Trương: Muôn lượng không buông miệng lưới kình.
Hai người vừa ngâm vừa đi. Tới ngỏ tẻ mới bái nhau mà từ giả.
Trương Lão nói chơi rằng:
- Anh Lý ôi! Ði lên rừng phải coi chừng hùm cọp cho lắm. Nếu
anh có lẽ nào đi nữa ắt là tôi. Ngày mai đầu chợ thiếu người quen, đó anh à!.
Lý Ðịnh nghe nói cả giận rằng:
- Chú thật độc ác lắm! Bậu bạn tử tế, người ta chịu chết thế
cho nhau. Sao chú lại rủa tôi như vậy? Tôi nói cho mà giữ hồn. Nếu hùm dữ ăn
tôi, thì sóng thần nhận chú.
Trương Lão nói:
- Ðời nào sóng thần nhận tôi đặng.
Lý Ðịnh nói:
- Biết chừng ở đâu. Trời khi gió khi mưa, người khi phước khi
họa, sao chú chắc là chìm xuồng kìa?
Trương Lão nói:
- Tuy anh nói như vậy, mà không chắc gì, chớ nghề làm ăn của
tôi vững lắm.
Lý Ðịnh nói:
- Chú làm ăn chân trời mặt nước, hiểm nghèo quá đổi, mạng có
ba phân, sao chú gọi là vững?
Trương Lão nói:
- Anh không hiểu, để tôi cắt nghĩa cho anh nghe, tại chợ Trường
An, phía bên Tây, có ông thầy bói linh lắm! Mỗi ngày đem cho thẩy một con cá
Chài Vàng, thì coi cho một quẻ. Chỉ hướng nào cá nhiều, vãi trăm chài không sai
một. Bữa nay tôi có đi coi quẻ, biểu tôi bủa lưới trên ngọn Sông Kinh phía Ðông
qua mé bên Tây, chài thì trúng, quả như lời nói, chở tôm cá khẩm ghe. Ðể mai ra
chợ gặp anh sẽ mua rượu uống chơi, bây giờ xin kiếu.
Thiệt lời xưa nói không sai: Trên đường nói chuyện trong bụi
có người. Nguyên có quỷ Dạ Xoa ở tại Sông Kinh đi tuần dưới nước. Nghe ông chài
nói rằng: Vãi trăm chài không sai một, thì lật đật về cung Thủy tinh mà báo rằng:
"Bệ Hạ ôi! Có họa, có họa!"
Long vương sông Kinh liền hỏi:
- Có họa gì?
Dạ Xoa nói:
- Ngoài chợ Trường An có ông thầy bói hay lắm! Mỗi bữa ông
chài đem cho thầy bói kia một con cá chài lớn, thì coi quẻ chỉ chỗ cho, vãi
trăm chài không sai một. Nếu thường thường như vầy, thì hết binh tướng lấy ai
mà giúp được vua?
Long Vương nghe nói giận lắm, rút gươm vía ra đi, quyết đến
Trường An đặng giết thầy bói giỏi.
Có Rồng con, Rồng cháu, tướng Trạnh, quan Cua, quân Sư Cháy,
Thừa Tướng Chài đồng hè ra tấu:
- Xin chúa công bớt giận, lời huyển bỏ qua chớ khá nghe. Nếu
chúa công đi xuống chợ, thì nổi giông tố mây mưa. Sợ dân ở Trường An khốn hại,
có khi trời bắt tội chẳng không? Thà biến ra Tú Tài đến chợ Trường An coi thử.
Quả như thời giết, bằng không thiệt thì thôi.
Long Vương nhận lời bỏ gươm và chẳng làm mưa gió, lên bờ giả
Tú Tài áo trắng đi xuống chợ Trường An, thấy thiên hạ đứng vậy mà coi quẻ.
Tú Tài hỏi thăm rõ, thầy bói ấy là Viên Thủ Thành, chú ông là
quan thiên văn Viên Thiên Cang, hình dung xinh tốt, thể thống oai nghi.
Tú Tài quyết vào Viên Thủ Thành chào hỏi.
Ðãi trà xông xã, mới hỏi thăm ông bói chuyện chi?
Tú tài nói:
- Tôi bói bữa nào mưa?
Viên Thủ Thành gieo quẻ đoán rằng "
Mây che đỉnh núi, mù tỏa non Ðoài,
Hỏi thăm mưa rưới, chắc tại ngày mai.
Tú tài hỏi:
- Mai giờ nào, nước dâng lên mấy thước mấy tấc?
Viên Thủ Thành nói:
- Giờ Thìn thì kéo mây, giờ Tỵ nổi sấm, giờ Ngọ mưa, cuối giờ
Mùi tạnh. Nước dâng ba thước ba tấc, có lẽ ra bốn mươi tám giọt bốn phân bốn
ly.
Tú tài cười rằng:
- Lời này không phải nói chơi, ngày mai quả có mưa, giờ khắc
và nước dâng y như lời đoán, thì ta thưởng bạc năm chục lượng chẳng sai. Nếu
không mưa, hay là mưa mà không y lời đoán, ta nói thiệt cho thầy hay, phá nát cửa
thầy, và xé tấm vải treo tức thì đuổi khỏi chợ Trường An, không cho ở đây gạt
chúng nữa.
Viên Thủ Thành mừng mà đáp rằng:
- Tôi dám cuộc, tôi dám cuộc.
Tú Tài liền kiếu ra về.
Các Thủy thần thấy Long Vương về đồng ra nghinh tiếp mà hỏi
thăm rằng:
- Chúa công đi kiếm thầy bói đặng không?
Long Vương nói:
- Có, có, thầy bói ấy khua mỏ kiếm tiền, ta hỏi thử chừng nào
trời mưa và nước dâng lên mấy thước, nó nói giờ Thìn kéo mây, giờ Mùi tạnh, nước
lên cao ba thước ba tấc có lẽ bốn phân tám ly, ta cuộc với nó rằng: "Hễ quả
như lời, ta thưởng năm mươi lượng bạc, nếu sai một chút thì ta phá nhà, xé bảng
đuổi ra khỏi chợ Trường An".
Các tướng cười mà rằng:
- Chúa công là vị thần coi tá cái sông mà hay việc mưa gió, nếu
có mưa không mưa thì Chúa công biết trước, thầy bói biết sao mà đặng mà nói bướng
kìa, mười phần nó phải thua hết cả mười.
Nói cười chưa dứt tiếng thì nghe tiếng kêu:
- Long Vương mau ra tiếp chiếu trời.
Long Vương thất kinh lật đật ra tiếp chiếu, ngó lên mây thấy
thần Lực Sĩ mặc áo vàng, tay cầm phong chiếu chỉ bay xuống cung Thủy tinh.
Long Vương đặt bàn mà lạy mà lãnh chiếu.
Lực Sĩ đi về lập tức, Long Vương mở chiếu chỉ ra xem, thấy
trong chiếu chỉ dạy như vầy:
Rồng tám sông vâng lệnh, y theo giờ khắc ban,
Ngày mai không đặng trễ, mưa tại sứ Trường An
"Hẹn giờ Thìn kéo mây, giờ Tỵ nổi sấm, giờ Ngọ mưa,
cuối giờ Mùi tạnh, nước dâng ba thước, ba tấc, bốn phân, tám
ly".
Long Vương thất kinh hồn vía, nói với các tướng rằng:
- Trên đời có người linh quá, thông trời thấu đất, chắc mình
phải chịu thua.
Quân sư Cháy tâu rằng:
- Xin chúa công đừng lo, muốn ăn nó cũng không khó, tôi dùng
một kế thì nó cứng họng đi.
Long Vương hỏi:
- Quân sư có kế chi?
Quân sư Cháy tâu rằng:
- Mưa sái giờ và bớt nước, thầy không y lời đoán, sao nó cũng
phải thua.
Long vương y kế.
Bữa sau kêu Thiên lôi, Thần gió,Bà chớp, Anh mây, đồng kéo tới
Trường An. Truyền giờ Tỵ mới kéo mây, giờ Ngọ mói nổi sấm, giờ Mùi mưa, giờ
Thân tạnh, nước có ba thước lẻ bốn phân, rồi truyền các thần về hết.
Long Vương hóa Tú Tài như trước, tới chỗ Viên Thủ Thành.
Tú Tài không hỏi gì hết, đập nghiêng quăng viết, xé tấm vải
treo.
Viên Thủ Thành ngồi trên ghế làm thinh, như không hề không biết.
Tú Tài giận phá cửa lấy ván xốc lại giá mà mắn rằng:
- Mày là đồ mị, nói gạt chúng mà ăn tiền, coi quẻ không linh,
đặt điều nói bậy. đoán sái giờ, dư nước, còn ngồi làm tỉnh kìa. Ði mau mau kẻo
ta đập chết.
Viên Thủ Thành cười hả hả rằng:
- Không sợ, không sợ, tôi không phạm tội chết, e cho ai chết
kìa, ông gạt ai chớ ông gạt tôi sao được, ông không phải Tú Tài áo trắng, ông
là Rồng Bạch sông Kinh, không dám cải lệnh trời, tráo giờ bớt nước, phạm tội gần
chết chém, lại còn mắng tôi sao?.
Tú Tài nghe nói nhởn tóc gáy, vỡ mật hết hồn, buông tấm ván cửa,
xốc áo quỳ lạy mà nói rằng:
- Xin thầy chớ trách, hồi nãy tôi giả ngộ nói chơi, tôi tưởng
làm chơi, chẳng ngờ sanh thiệt. Tôi đã phạm luật, lạy thầy xin cứu mạng tôi.
Viên Thủ Thành nói:
- Tôi cứu ông sao đặng, nhưng chỉ chỗ cho ông cầu khẩn họa
may.
Tú Tài nói:
- Xin thầy chỉ chỗ làm ơn.
Viên Thủ Thành nói:
- Giờ Ngọ mai ông sẽ bị Ngụy Trưng xử trảm, mà Ngụy Trưng làm
Thừa Tướng phò Hoàng Ðế bây giờ, ông cầu Hoàng Ðế nói giùm, có khi cũng được.
Tú Tài lau nước mắt từ tạ ra đây, mặt nhực đã chén, vầng
trăng ló mọc, Long Vương không về phủ, ở lững đửng nửa lừng, đợi tới canh ba hiện
vào cung cấm thấy vía vua Thái Tôn đi dạo.
- Xin Bệ Hạ cứu tôi làm phước.
Hồn Thái Tôn hỏi:
- Ngươi là ai đó? Nói cho ta rõ đặng ta cứu cho.
Long vương nói:
- Bệ Hạ thiệt Rồng, còn tôi là rồng có tội. Trời sai Ngụy
Trưng là tôi hiền của Bệ hạ, giờ Ngọ mai chém tôi.
Hồn Thái Tôn nói:
- Như về phần Ngụy Trưng chém ngươi, thời trẫm cứu được. Thôi
ngươi yên dạ mà về.
Long vương mừng rỡ quá chừng, lạy tạ mà đi về thẳng.
Vua Thái Tôn thức dậy, nhớ điềm chiêm bao ấy rõ ràng, đến
sáng lâm triều, các quan chầu chực.
Vua Thái Tôn xem rõ từ người, bên văn thì: Phòng Huyền Linh,
Ðỗ Như Hối, Từ Mậu Công, Hứa Kỉnh Tông và Vương Khuê, còn bên võ thì: Mã Tam Bửu,
Ðoàn Chí Hiền, Ân Khai Sơn, Trình Giảo Kiêm, Lưu Hồng Cơ, Huất Trì Cung, Tần Thức
Bảo.
Ai nấy đủ mặt, mà thiếu Thừa tướng Ngụy Trưng!
Vua Thái Tôn vời Từ Mậu Công lên điện mà phán rằng:
- Trẫm nằm chiêm bao lạ lắm! Thấy một người đón trẫm mà lạy
xưng rằng Long vương phạm tội thiên tào, trời sai Ngụy Trưng xử trẫm, lạy xin
trẫm cứu, trẫm hứa lở lời, bữa nay vì cớ nào Ngụy Trưng không đi chầu vậy?
Từ Mậu Công tâu rằng:
- Bệ hạ đã hứa lỡ, thì phải đòi Ngụy Trưng vào chầu, đừng cho
Ngụy Trưng đi đâu, mãn ngày nay thì cứu Long vương ắt được.
Vua Thái Tôn mừng lắm, mới sai hoạn quan đi mời Ngụy Trưng.
Còn Ngụy Trưng đi coi thiên văn (coi sao) hồi hôm, xảy nghe
tiếng hạc kêu, ngó thấy xứ trời hiện xuống, truyền chiếu chỉ rằng:
- Giờ Ngọ mai Ngụy Thừa Tướng phải thiếp mà chém Rồng Bạch tại
sông Kinh.
Ngụy Trưng lạy tạ ơn về dinh tắm gội. Lo mài gươm phép nên chẳng
đi chầu, xảy thấy sứ vào mời, trong lòng lo sợ, không dám cãi lệnh phải sửa
sang mão áo vào chầu, bước tới sân son, lạy vua mà chịu tội.
Thái Tôn phán rằng:
- Trẫm tha khanh khỏi tội.
Một lát bãi chầu rồi, bá quan đều về hết, vua Thái Tôn cầm một
mình Ngụy Trưng ở lại mà thôi, mời vào đền trong luận bàn việc nước, qua đầu giờ
Ngọ, vua truyền mỹ nữ lấy cờ sắp trên bàn xong xã, Ngụy Trưng lạy tạ, rồi ngồi
lại đánh cờ, dục dặc gần nửa giờ mà chưa thắng bại.
Ngụy Trưng gục đầu trên bàn mà ngáy pho pho.
Vua Thái Tôn không kêu, để cho Ngụy Trưng ngủ, chừng một lát
Ngụy Trưng thức dậy, quì dưới đất lạy vua mà tâu rằng:
- Tôi đáng tội thác, khi bần thần ngủ quên không biết có điều
chi thất lễ. Xin Bệ Hạ tha tội cho tôi.
Vua Thái Tôn cười rằng:
- Khanh có tội chi mà ngại, thôi, dậy mà đánh cờ.
Ngụy Trưng lạy tạ ơn rồi sắp cờ đánh nữa. Xảy nghe tiếng la lớn
ngoài cửa đền, thấy Tần Thúc Bảo xách đầu rồng Bạch chảy máu ròng ròng, quì tại
sân mà tâu rằng:
- Muôn tâu Bệ hạ! Có thấy sông khô cùng biển cạn, việc nầy lạ
lắm thiệt chưa từng. Vua Thái Tôn hỏi:
- Vật đó ở đâu?
Tần Thúc Bảo tâu rằng:
- Ðầu rồng trên trời rớt xuống tại ngã tư, nên tôi phải đem
dâng cho Bệ hạ.
Vua Thái Tôn thất sắc, phán hỏi Ngụy Trưng rằng:
- Thừa tướng bàn chuyện ấy đặng không?
Ngụy Trưng quỳ lạy tâu rằng:
- Tôi mới thiếp đi chém đó.
Vua Thái Tôn thất kinh mới hỏi:
- Khi khanh ngủ, tay không chuyển động, cũng không có gươm
đao, vậy làm sao mà chém đặng rồng ấy?
Ngụy Trưng tâu rằng:
- Tôi vâng chiếu thượng đế hồi hôm truyền giờ Ngọ này thiếp
xuống chém rồng có tội. Bệ Hạ đòi tôi hầu cờ nên đi không đặng, túng phải thiếp
xuống lấy gươm phép chém kịp giờ.
Vua Thái Tôn nghe nói:
- Nửa mừng nửa buồn, mừng là đặng tôi hiền có phép buồn là vì
lời hứa không xong, phải gượng gạo mà truyền cho Tần Phúc Bảo rằng:
- Ðem đầu rồng treo tại chợ Trường An mà răn lê thứ.
Lại ban thưởng Ngụy Trưng. Hai tướng tạ từ về hết.
Vua Thái Tôn vào cung trong lòng buồn bực, bần thần thao thức
nằm đến canh hai, xãy nghe tiếng khóc ngoài cửa cung, Thái Tôn càng kinh hãi,
mơ màng ngó thấy Long vương tay vịn đầu, máu chảy dầm dề, kêu Thái Tôn mà đòi đền
thường mạng, nói rằng:
- Ðêm hôm qua chịu cứu ta chắc chắn, sao lại sai Thừa tướng
chém ta?
Nói rồi lại níu Thái Tôn, biểu đi xuống âm ti cho Diêm vương
phân xử.
Vua Thái Tôn cứng họng đỗ mồi hôi hột dầm mình, Long vương
níu cứng không buông, xãy thấy bên phía Nam có người đàn bà đi tới, tay cầm
nhánh dương liễu mà quét thinh không, Long vương ngó thấy thất kinh, ôm đầu chạy
mất.
Nguyên là Quan Âm Bồ Tát ở tại miễu Thổ thần nghe tiếng quỷ
khóc thần rên nên tới đuổi ma rồng mà cứu Thái Tôn khỏi hại.
Còn hồn Long vương đi xuống kiện dưới Diêm la.
Khi Thái Tôn giựt mình thức dậy, la hoảng rằng: "Có quỷ,
có quỷ ".
Ba cung, sáu viện, Thái giám, cung nga ai nấy sợ mà thức luôn
đến sáng.
Rạng ngày trăm quan chầu chực, không thấy vua ngự ra, chờ tới
mặt nhựt 3 sào, mới có chiếu chỉ ra truyền lại:
- Nay mình Trẫm không khỏe, các quan khỏi đi chầu.
Như vậy, bảy ngày các quan đều lo sợ. Những quan lớn vào
thăm, xảy thấy Thái hậu đòi ngự y vào trị bệnh, các quan nhóm cửa đền, đợi ngự
y mà hỏi thăm nhẹ nặng, ngự y ra nói:
- Bệnh Bệ Hạ mạch đi không chánh, đi yếu mà mau, cho nên nói
cuồng và thấy quỷ mạch nhảy 9 cái rồi ngừng lại. Ngủ tạng đã tuyệt rồi, sợ chừng
trong 7 bữa.
Các quan nghe đều sửng sốt.
Lại nghe Thái hậu truyền rằng:
- Vua đòi Từ Mậu Công, Tần Thúc Bảo và Khuất Trì Cung.
Ba ông vâng chỉ vua vào cung mà lạy.
Vua Thái Tôn gượng nói rằng:
- Các khanh ôi! Trẫm thuở mười chín tuổi: Ðánh Nam, dẹp Bắc,
chinh Ðông, phạt Tây, không hề thấy tà ma chi hết, nay lại thấy quỷ, mới là lạ
cho.
Khuất Trì Cung nói:
- Bệ Hạ gầy dựng giang san, giết người cả vạn, mà còn sợ ma
sao?
Thái Tôn phán rằng:
- Khanh chẳng thấy nên không tin, chớ trời tối thì ma quỷ
khóc ngoài cửa cung, vác gạch ngói liệng vào nườm nượp. Ban ngày hởi còn phá,
ban đêm làm lộng quá chừng!
Tần Thúc bảo tâu rằng:
- Xin Bệ Hạ an lòng, đêm nay Khuất Trì Cung canh cửa với tôi,
coi ma quỷ thế nào cho biết.
Vua Thái Tôn mừng lắm! Các quan lạy tạ ra về.
Ðêm ấy Tần Thúc Bảo cầm búa, Khuất Trì Cung cầm giản, cùng
nhau nai nịt hẳn hòi giữ cửa cung không thấy tà ma, nên vua Thái Tôn ngủ đặng.
Rạng ngày vua đòi hai tướng vào thưởng phán rằng:
- Trẫm bệnh chẳng ngủ hơn mấy đêm, hồi hôm nhờ hao sức hai
khanh, nên trẫm ngủ thẳng giấc, thôi hai khanh lui về mà nghỉ cho khỏe, tối này
sẽ đến giúp dùm.
Hai tướng tạ ơn về phủ.
Từ ấy thường đêm tới canh cửa.
Vua thấy hai tướng khó nhọc như vậy thì cảm động nói rằng:
- Trẫm thấy hai khanh khó nhọc, trẫm chẳng an lòng. Trẫm muốn
đòi thợ khéo vào vẽ chân dung hai người dán tại cửa, cho khỏi nhọc công canh giữ.
Các quan vâng lệnh, đòi hai thợ khéo tức thời. Hai tướng nai
nịt như xưa. Hai thợ cứ theo mà vẽ, hình dung như sống. Tuy dán vào cửa mà ai nấy
cũng lầm, yên được hai ba đêm, rồi lại nghe gạch ngói quẳng vào cửa sau lộp độp.
Sáng ngày, vua đòi các tôi vào mà phán rằng:
- Cửa trước mới êm, ngõ sau nó lại liệng gạch, như vậy trẫm nằm
sao êm?
Từ Mậu Công tâu rằng:
- Không lẽ vẽ hình hai tướng nữa? Vậy xin cho Ngụy thừa tướng
canh giữ ngõ sau. Thái Tôn y lời truyền Ngụy Trưng canh giữ.
Ðêm ấy Ngụy Trưng nai nịt, cầm cây gươm chém Rồng Bạch ngày
trước mà giữ cửa sau, thiệt cũng oai linh, quỷ không dám liệng, tuy cửa trước cửa
sau lặng lẻ, mà bệnh vua càng thêm.
Ngày kia Thái Hậu đòi các quan vào mà lo thói!
Vua Thái Tôn giao việc nước cho Từ Mậu Công. Phán rồi tắm rửa
thay đồ chờ giờ băng hà.
Ngụy Trưng nắm áo mà tâu rằng:
- Xin Bệ Hạ an lòng, tôi có một điều bảo hộ mình rồng sức khỏe.
Thái Tôn gượng phán:
- Bệnh đã gần miền,mà cứu làm sao được?
Ngụy Trưng tâu rằng:
- Tôi có một phong thơ xin trao cho Bệ hạ, như đến Âm phủ thì
trao cho Thôi Giác là Phán quan.
Thái Tôn hỏi:
- Thôi Giác là ai?
Ngụy Trưng tâu rằng:
- Thôi Giáp là tôi vua trước, ban đầu ngồi Tri huyện Từ châu,
sau lên chức Thị Lang bộ lễ. Khi còn sống làm bạn hữu với tôi thiết lắm, nay
thác xuống làm Phán quan coi sổ dưới Minh vương. Tôi chiêm bao gặp hoài, yêu dấu
nhau như sống, nếu Bệ Hạ trao thơ ấy, sao Phán quan cũng nghĩ tình tôi mà kiếm
cách đưa hồn nhập xác.
Thái Tôn bỏ thơ vào tay áo, rồi nhắm mắt mà băng hà.
Ba cung, sáu viện, Thái Tử và các quan đều khóc than mà liệm
thây, để quan tài tại đền Bạch hổ, cả trào thọ chế cư tang.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét