Hồi 11:
Xuống Âm Ti, Thái Tôn huởn sanh
Ði dâng dưa, Lưu Toàn gặp vợ
Nói về vua Thái Tôn thấy vía đi dạo, ra khỏi lầu Ngũ Phụng.
Thấy vua ngự thỉnh vua đi săn; Thái Tôn theo dõi một hồi binh gia đâu mất, còn
một mình giữa đồng nội, không biết ngõ mà đi, sợ hết hồn hết vía.
Xảy nghe tiếng kêu lớn hét rằng:
- Tâu Hoàng đế đi lại ngỏ nầy.
Vua Thái Tôn ngó ngoái, thấy người ấy đội mão thẻ ngang, buộc
đai da tây tay cầm hốt ngà, mặc áo địa rộng, quì bên đường mà nói rằng:
- Tôi rước trễ, xin Bệ Hạ tha tội tôi.
Vua Thái Tôn hỏi:
- Vậy chớ khanh là ai đó?
Người ấy tâu rằng:
- Khi tôi sống phò vua trước, làm Tri huyện Từ châu; sau lên
chức Thị Lang bộ Lễ, tôi họ Thôi tên Giác, nay thác xuống Âm Phủ làm chức Phán
quan. Nguyên hôm trước tôi có thấy việc rồng ma đi cáo, nên biết bữa nay có Bệ
Hạ xuống đây, tôi mới tiếp giá.
Vua Thái Tôn đở dậy mà nói rằng:
- Cám ơn thầy có công rước Trẫm, mà Ngụy Trưng lại có gởi
phong thơ cho thầy đây, may gặp tình cờ.
Nói rồi đưa phong thơ cho Thôi Giác.
Thôi Phán quan tiếp thơ mà đọc, trong thơ nói như vầy:
Thơ gởi cho:
Quan Ðại Ðô Án là anh họ Thôi xem rõ,
Nhớ xưa làm bạn, hình dạng như thường,
Sau cách âm dương, vắng lời dạy dỗ,
Cảm tình chẳng rõ, cho thấy chiêm bao,
Mới hay anh chức trọng quyền cao,
Hiềm vì nổi kẻ u người hiển,
Nay Thánh Hoàng hầu kiện,
Nhờ huynh trưởng nghĩ tình,
Có phương chi cho đặng huờn sinh,
Nhờ ơn ấy cầm bằng tái tạo.
Em bạn là Ngụy Trưng cúi dâng.
Thôi Phán quan xem thơ mừng mà nói rằng:
- Quân nhân Tào họ Ngụy thiếp chém Rồng Bạch tôi cũng hay rồi,
lại nhờ ơn đỡ đầu con cháu tôi trên dương thế, nay gởi thơ cậy tôi như vậy, mà
Bệ Hạ còn lo làm chi? Sao sao tôi cũng lo cho Bệ Hạ huờn sinh mà trị nước.
Vua Thái Tôn nói cám ơn, xảy thấy cặp Ðồng tử áo xanh, kẻ cầm
phướn, người cầm lộng kêu rằng:
- Vua Diêm vương cho thỉnh Hoàng Ðế.
Vua Thái Tôn đi theo Thôi Phán quan và hai tên Ðồng tử, ngó
thấy trước cửa thành, treo một tấm bảng dài đề bảy chữ vàng rằng:
U Minh địa giới quỷ môn quan,
Nghĩa là: Tối mờ cõi đất cửa hồn ma.
Ðồng tử áo xanh rung cây phướn mà dắt vua.
Thái Tôn vào khỏi cửa thành, ngó thấy hồn anh là Kiến Thành,
hồn em là Nguơn Kiết đồng ré lên rằng:
- Thế Dân xuống đó, Thế Dân xuống đó.
Bên thì Nguơn Kiết, bên thì Kiến Thành áp lại níu hồn Thái
Tôn mà đòi thường mạng, hồn Thái Tôn đánh không khỏi, bị hai quỷ kéo lôi.
Thôi Phán quan kêu quỷ sứ nanh bạc mặt xanh nạt Nguơn Kiết,
Kiến Thành chạy hết.
Hồn Thái Tôn đi khỏi ước vài dặm đường, thấy đền đài lợp ngói
xanh, lầu đài rực rỡ, hồn Thái Tôn đang ngó, xảy nghe tiếng ngọc len ken, mùi
hương bát ngát, hai cặp xách lồng đèn đi trước, mười vua Minh chúa ra tiếp rước
Thái Tôn.
Hồn Thái Tôn khiêm nhường quá chừng không dám đi trước, mười
vua nói:
- Bệ Hạ là vua mười cõi Dương thế, còn chúng tôi là vua cõi
Âm ti, nên anh em tôi cung kính Bệ Hạ là thiệt tình, xin đừng ké né.
Hồn Thái Tôn nói:
- Trẫm có tội vào hầu dưới bệ, đâu dám luận người qủy âm
dương.
Ðồng vào tới đền Sum La, ngồi như chủ khách nói chuyện một
lát, rồi vua Nhứt Ðiện là Tần Quảng vòng tay mà hỏi rằng:
- Ma Rồng ở sông Kinh đi cáo rằng: "Bệ Hạ hứa cứu rồi lại
giết đi, là vì cớ nào vậy? Hồn Thái Tôn nói rằng:
- Trẫm chiêm bao thấy rồng cầu cứu thiệt có hứa lời, chẳng ngờ
tội đáng hành hình về phần Ngụy Trưng xử trãm. Trẫm đòi Ngụy Trưng vào đánh cờ
với trẫm, Ngụy Trưng xuất vía mà chém Long Vương; ấy là Ngụy Trưng có phép hay
mà cũng tại Long vương đáng tội chết, chớ trẫm có sai giết ở đâu, sao vu oan mà
kiện trẫm? Mười vua trả lời rằng:
- Con rồng ấy hồi mới đầu thai, chúng tôi cũng rõ định số của
nó là sau chết về tay Ngụy Trưng, chúng tôi có hay trước, ngặt nó cáo mãi, nên
phải vời Bệ Hạ xuống đối nại cho ba cõi công đồng, chớ chúng đã cho nó đi đầu
thai hồi sớm, nay nhọc công Bệ Hạ ngự đến xin tha tội trước hồn.
Nói rồi sai Thôi Phán quan đem bộ tử ra tra coi Bệ Hạ còn trị
vì mấy kỷ.
Thôi Phán quan vâng lệnh vào soạn bộ mấy vua các nước mà coi
lén trước đi, thấy đề rằng:
- Vua Thái Tôn nước Ðại Ðường ngồi ngôi mười ba năm mãn số.
Thôi Phán quan xem thấy thất kinh, lấy viết chấm mực thêm hai
ngang vô chữ nhứt, khi trước nhứt thập tam niên (mười ba năm). Bây giờ thành
tam thập tam niên (ba mươi ba năm). Rồi ôm bộ ấy ra trình, mười vua xem thấy số
ba mươi ba năm thì thất kinh mới hỏi rằng:
- Chẳng hay Bệ Hạ lên ngôi nay đã mấy mươi năm rồi?
Hồn Thái Tôn nói:
- Trẫm lên ngôi mới đặng mười ba năm.
Mười vua mừng mà nói rằng:
- Bệ Hạ yên lòng chẳng can chi mà ngại. Số còn sống đặng hai
mươi năm nữa mới già, nay đối nại đã rồi, cho đưa hồn về nhập xác.
Hồn Thái Tôn nói:
- Tôi đội ơn.
Mười vua sai Thôi Phán quan và Châu Thái úy đua về.
Hồn Thái Tôn đứng dậy, bái tạ mười vua và hỏi thăm rằng:
- Chẳng hay nội trong cung trẫm, có ai tới số chăng?
Mười vua nói:
- Hết thảy đều bình an, song e em gái Bệ Hạ vắn số.
Hồn Thái Tôn nói:
- Trẫm về Dương thế không biết lấy chi mà tạ ơn vua, xin dâng
dưa hấu lấy thảo. Mười vua nói:
- Dưới nầy các thứ dưa đủ hết, còn thiếu một thứ dưa hấu mà
thôi.
Hồn Thái Tôn nói:
- Trẫm về tới sai người dâng xuống tức thì.
Nói rồi giã từ dời gót.
Châu Thái úy cầm cây phướn dẫn hồn đi trước, Thôi Phán quan hộ
giá theo sau, hồn Thái Tôn ra khỏi đền, rồi coi không phải đường cũ, nói với
Phán quan rằng:
- Ngõ nầy có khi sái thì phải?
Thôi Phán quan nói:
- Không sái đâu, đường xuống Âm phủ khi xưa trở về không đặng,
nay đưa Bệ Hạ đi về ngỏ nầy một là cho thấy việc Âm phủ; hai là dễ đi hơn.
Hồn Thái Tôn đi theo được ít dặm đường, ngó thấy một hòn núi
cao, mây đen mù mịt, hồn Thái Tôn hỏi:
- Núi chi đó?.
Thôi phán quan nói:
- Ấy là núi Bố Âm.
Hồn Thái Tôn thất kinh nói rằng:
- Núi như vậy trẫm đi sao được.
Thôi phán quan nói:
- Xin Bệ Hạ đừng ngại, chúng tôi bảo hộ, không có hề chi.
Hồn Thái Tôn vừa đi vừa run lặp cặp, qua khỏi núi ấy, rồi đi
ngang qua mười mấy dãy nhà, đi tới đâu cũng nghe tiếng khóc vang tai, quỷ ma
ghê gớm.
Hồn Thái Tôn lấy làm lạ mà hỏi rằng:
- Chẳng hay các cửa nầy là sở chi đó?
Thôi Phán quan nói:
- Ấy là mười tám tầng địa ngục (cửa rạc).
Hồn Thái Tôn hỏi:
- 18 cửa ngục ấy ấy hành những tội gì?
Thôi Phán quán nói rằng:
Xin Bệ Hạ nghe tôi nói:
- Ngục rút gân, ngục u tù, ngục hang lửa, bởi vì khi còn sống
làm dữ dư ngàn tội, thác xuống vào trong mấy ngục nầy. Ngục cưa hai, ngục kéo
lưỡi, ngục lột da, bởi vì chẳng thảo, chẳng ngay, không tiết hạnh, miệng hiền
lòng độc, đọa vào đây, ngục cối xay, ngục cối đá, ngục xe cán, bởi vì mất lẽ
công bình làm khuất lấp, nói gian nói dối, hại người ngay. Ngục nước đá, ngục mổ
xẻ, ngục rút ruột bởi vì lường thăng trào đấu hay làm thiếu, mua cân già bán
cân non, mắc tội vào ngục nầy. Ngục vạt dầu, ngục tăm tối, ngục ngục núi đao, bởi
vì dữ tợn hung hăng hay hiếp đáp, co đầu rút cổ thảm như vây. Ngục ao máu, ngục
mãn đời, ngục máu cân, bởi vì giết người lấy của làm mưu độc, hại vật làm hàng
tội nặng thay, mắc đọa ngàn năm không thoát khỏi, chìm sâu trong kiếp khổ đời đời,
ngày kêu trời đất không ai cứu, héo ruột khô gan ủ mặt mày.
Người đời chớ khá ở tà tây
Thần qủy công bình tự thuở nay
Làm dữ đến sau đều trả quả
Kẻ thời gặp sớm kẻ thời chầy.
Hồn Thái Tôn nghe nói, lòng sợ hãi hùng, đi một hồi lâu gặp
quỷ cầm phuớn quỳ dựa lộ mà nói rằng:
- Tôi là kẻ giữ cầu đến rước.
Phán quan biểu quỳ chờ dậy, cẫn hồn vua đi trên cầu vàng, hồn
Thái Tôn lên cầu rồi, thấy bên kia có một cái cầu bằng bạc, bèn hỏi Phán quan rằng:
- Những người gì được đi cầu?
Thôi Phán quan nói:
- Những người hiền lành trung hiếu, ngay thẳng công bình, thì
có quỷ phướn dẫn qua cầu.
Hồn Thái Tôn ngó thấy bên nọ có một cái cầu, dưới sông sóng
máu lao xao, trên mang gió lung vùn vụt, nghe tiếng người khóc kể, ghê gớm dùng
mình.
Hồn Thái Tôn hỏi:
Cầu ấy tên chi?
Thôi Phán quan nói:
- Tên là cầu Nại Hà (không biết làm sao) như Bệ Hạ về Dương
gian, phải thuật chuyện cái cầu này cho rõ.
Bề mặt hơn ba ngón, bề dài mấy trăm tầm, cầu cao trăm thước
có dư, sông thảm ngàn trùng không xiết, trên không tay vịn, dưới có quỷ hờ, bên
cầu thần tướng dữ dằn, dưới nước tội nhân lặn hụp, trên mé treo nguyên đồ áo
tím quần hồng, dưới sông chững gái xằng chửi cha mắng mẹ, chó bằng đồng rắn bằng
sắt giành ăn thây, nước là máu, sóng là dòi, dợn xao lấp mặt.
Hồn Thái Tôn thấy càng thảm thiết, theo Phán quan qua khỏi cầu
vàng, đi một hồi lâu đến thành Uổng Tử (thác oan) nghe tiếng nói sạo sự rằng:
- Lý Thế Dân tới đó, Lý Thế Dân tới đó.
Và nghe tiếng kêu oan hỡi oan.
Hồn Thái Tôn nghe kêu run lên rét rét, xảy thấy bầy quỷ cụt đầu,
cụt tay, xốc tới đón đường níu hồn Thái Tôn mà đòi thường mạng.
Hồn Thái Tô hoảng, quên xưng trẫm, cứ nói xin thầy cứu tôi,
xin thầy cứu tôi, miệng thì nói, tay thì níu Phán quan mà núp.
Thôi phán quan nói:
- Tôi không quyền cai trị những ma vô chủ, biết cứu làm sao? Ấy
là hồn oan sáu mươi bốn cõi xưng hùng, bảy mươi hai đảng ăn cướp chết chưa tới
số, không ai bắt hồn cho đầu thai nên họ vô thành Uổng Tử mà ở làm ma thương ma
đói, không gạo không tiền, Bệ Hạ phải bố thí ít nhiều, tôi nói giùm mới được.
Hồn Thái Tôn nói:
- Trẫm đi mình không xuống đây, tiền đâu cho có.
Thôi phán quan nói:
- Trên Dương gian có một người hay gởi tiền bạc xuống đây, Bệ
Hạ viết giấy mượn đở một kho, có tôi bảo lãnh, đặng phân phát cho lũ ma đói thì
mới êm.
Hồn Thái Tôn hỏi:
- Người ấy tên chi?
Thôi Phán quan nói:
- Người ấy họ Tướng tên Lương ở Khai Phong, tại đất Hà Nam.
Tướng Lương có gởi mười ba kho bạc tại đây, Bệ Hạ tạm mà thí cho cô hồn, rồi về
Dương gian trả cho Tướng Lương cũng được.
Hồn Thái Tôn mừng lắm, viết giấy xong rồi, đưa cho Phán quan
mượn tạm một kho, cậy Thái úy chia cho oan hồn Uổng Tử.
Thôi Phán quan nói lớn rằng:
- Chúng bây lãnh vàng mà chi dụng, để cho Hoàng đế đi về, bởi
số Ngài còn sống lâu lắm. Ta vâng lệnh mười vua mà đưa hồn ngài nhập xác, đặng
ngài làm chay lớn chi siêu độ chúng bây, bây không được cản ngăn mà sanh sự nữa.
Các quỷ Dạ Xoa lãnh bạc mà lui.
Phán quan biểu Thái úy rung cây phướn dẫn hồn dắt Thái Tôn ra
khỏi thành Uổng Tử.
Ra tới đường bằng phẳng đi qua một đỗi xa, đi tới 6 đường
luân hồi thấy đông đảo lắm, những là bục thàn tiên đấu chiếu hào quang; vì quan
tước lưng mang đai ngọc, thầy tu, kẻ thế, thú chạy, chim bay, người nghèo, kẻ
giàu, bầy yêu, lũ quỷ, tốp nào theo đàng ấy, cứ theo 6 ngã mà đi.
Hồn Thái Tôn hỏi rằng:
- Giống gì đó vậy?
Thôi Phán quan nói:
- Bệ Hạ thông minh nghe nói qua thì nhớ, sau về Dương thế thuật
lại mà răn đời. Chỗ nầy gọi là 6 đàng đi đầu thai. Người tu hành công quả thì về
đàng Tiên. Người ngay vua thì về đàng Sang. Người có hiếu thì về đàng Phước. Kẻ
công bình thì về đàng Người, kẻ có đức thì về đàng Giàu. Ðứa hung dữ thì về
đàng Quỷ, hay là đàng Vật. Vậy thì 6 đàng ấy là đàng Tiên, đàng Sang, đàng Phước,
đàng Giàu, đàng Người, đàng Vật. Mà Bệ Hạ đi về đàng Sang.
Hồn Thái Tôn gật đầu bước tới, Thôi Phán quan đưa đến cửa
đàng Sang, lạy vua mà nói rằng:
- Chỗ nầy là chỗ đầu thai. Tôi xin đi về, để Châu thái úy đưa
một đổi nữa.
Hồn Thái Tôn rằng:
- Nhọc công thầy đưa xa lắm.
Thôi Phán quan nói:
- Bệ Hạ về Dương thế phải làm chay lớn cho siêu những hồn
oan, sao sao cũng nhớ, nếu dưới Âm phủ không tiếng vang siết, thời trên Dương
thế có phước thái bình, như có việc chi chẳng lành, phải chừa cải, đời nầy người
ở hiền hậu, thời đời sau cơ nghiệp lâu dài.
Hồn Thái Tôn từ giã Phán quan đi theo Thái úy bước vô cửa,
thì Thái úy thấy một con ngựa thắng rồi mời Thái Tôn lên ngựa, còn Thái úy dìu
đở hai bên.
Ngựa chạy như tên bắn, đến mé sông, thấy cặp cá chày vàng giở
trên mặt nước.
Hồn Thái Tôn ngó thấy dừng ngựa coi mê.
Thái úy nói:
- Bệ Hạ đi chút nữa, vô thành cho kịp giờ.
Hồn Thái Tôn cứ làm thinh coi mãi, Thái úy nắm hai giò mà nói
lớn:
- Không chịu đi, đợi chừng nào nữa.
Nói rồi xô xuống ngựa, nhào dưới sông một cái đùng, ấy là xô
nhập vào xác đó.
Còn nội trào văn võ và Hoàng Hậu, Ðông cung Thái Tử đồng nhóm
tại đền Bạch Hổ mà khóc than bên linh cửu vua Thái Tôn, nhiều ông luận bàn tôn
Ðông cung tức vị. Ngụy Trưng nói:
- Khoan đã các ông, đợi nội ngày nay thì vua sống lại.
Hứa Kĩnh Tôn cải rằng:
- Thừa Tướng nói sai lắm, từ xưa rằng: "Nước đổ khó hốt
đầy, người thác đâu sống lại, ông nói chi lời huyễn như vầy".
Ngụy trưng nói:
- Chẳng dấu chi thầy, tôi hồi nhỏ có học phép tiên, bói khoa
linh lắm, làm sao Bệ Hạ cũng sống lại mà thôi.
Ðương cải lẩy với nhau, xảy nghe tiếng la lớn trong quan tài
rằng:
- Ngộp nước chết đi, ngộp nước chết đi.
Làm các quan văn võ hết hồn, Hoàng Hậu, Cung phi vỡ mật lánh
xa linh cửu, chẳng dám lại gần.
Nhờ có Từ Mậu Công ngay thẳng, Ngụy thừa tướng anh hùng, Huất
trì Cung dạng gan, Tần Thúc Bảo lớn mật, áp lại bên linh cửu đứng vây.
Tần Thúc Bảo và Huất Trì Cung kêu lớn mà nói rằng:
- Bệ Hạ còn nói chuyện chi xin nói chúng tôi biết, đừng có
làm ma quàng mà nhát bá quan.
Ngụy Trưng nói:
- Chẳng phải hồn ma đâu, ấy là Bệ Hạ sống lại đó, mau mau lấy
búa bứt néo, cạy nắp săng lên.
Dở ra rồi thấy vua ngồi nhắm mắt, mà miệng còn nói:
- Ngộp nước chết đi, ai vớt Trẫm đó.
Từ Mậu Công và Ngụy Trưng đở dậy mà nói rằng:
- Bệ Hạ sống lại rồi, không hề gì đâu, có chúng tôi hộ giá.
Vua Thái Tôn mở con mắt mà nói rằng:
- Trẫm khốn nạn quá, mới chạy khỏi hồn ma dưới Âm phủ, lại bị
té sông chết trôi. Các quan nói:
- Bệ Hạ có té sông ở đâu.
Vua Thái Tôn phán rằng:
- Trẫm nói dối hay sao, trẫm đương cưỡi ngựa tới mé sông, mãi
coi cặp cá chày vàng giở dưới sông, bị Châu Thái úy bất nhân xô Trẫm xuống nước,
may chớ không chết đi còn gì.
Ngụy Trưng nói:
- Bệ Hạ chưa tỉnh. Mau đòi ngự y vào hốt thuốc cho định tâm
thần. Uống vài hớp nước thuốc rồi lần lần ăn cháo ăn cơm biết đủ việc.
Từ hồi băng hà đến khi sống lại, đã trọn ba ngày đêm.
Bữa đó tối rồi, các quan xin vua ngủ sớm cho khỏe, bá quan ai
nấy về dinh.
Rạng mai văn võ bỏ hết đồ tang, mặc điều đỏ vào đền chầu chực.
Vua Thái Tôn cũng khỏe, vội vả lâm triều.
Các quan văn võ quỳ tâu rằng:
- Chẳng hay Bệ Hạ chiêm bao thấy những điều chi, mà bèn lâu mới
tỉnh?
Vua Thái Tôn đọc hết việc đi hầu tra dưới Âm phủ, cho các
quan nghe, lại nói:
- Khi trẫm từ giả mười vua Thập điện, có hứa sự dâng dưa hấu
mà tạ ơn, từ ra khỏi đền Sum La, thấy những tội nhân dưới Âm phủ, là loài chẳng
thảo chẳng hay, không lễ không nghĩa, hoài huởn lúa gạo, lường gạt người ta, giạ
già giạ non, cân cao ân thấp, tham dâm ở dối, làm dữ hại người, các tội ấy đều
bị xay giả nấu dầu, xẻ cưa đốt xác, cả muôn cả triệu, xem thấy cũng thương. Ði
ngang qua thành Uổng Tử là thành chứa quỷ thác oan, bị lũ cô hồn đón Trẫm, nhờ
Thôi Phán quan bảo lãnh, mượn một kho vàng bạc của Tướng Lương mà phân phác cho
lũ oan hồn đặng chúng nó tránh đường Trẫm đi về mới đặng. Thôi Phán quan dặn Trẫm,
về Dương thế làm chay lớn, cho siêu rỗi cô hồn.
Các quan nghe rõ đầu đuôi, ai cũng mừng rỡ, vội chạy công văn
cho các quan tỉnh biết, đặng dâng sớ mà mừng, vua lại xuống chiếu chỉ những tù
tội nhẹ đều tha. Có hơn 400 tù xử tử, tha về xứ một năm, đặng thăm viếng cha mẹ
anh em chồng vợ, và gởi gấm nhà cửa xong rồi, đúng một năm phải tựu mà chịu tội.
Lại xuất tiền bạc bố thí cho kẻ đói và con nít mồ côi.
Lại thả 3 ngàn 6 trăm cung nga ra ngoài cho kiếm đôi bạn.
Từ ấy trong ngoài đều mến đức.
Lại ngự chế lời khuyên dỗ, treo bảng khắp xứ mà dạy dân, lời
ngự chế trong bảng như vầy:
Âm dương rộng rãi, nhật nguyệt hằng chiếu mọi nơi,
Bờ cõi lộng khơi, trời đất không dung đảng vạy
Ðộc lòng bày kế, mang tai cũng nội đời này,
Hay thí ít cầu, đặng phước hóa chờ kiếp khác
Ngàn lời dối trá, chi bằng giữ phận thiệt thà,
Muôn mối tham lam, khó sánh theo bể cần kiệm
Lòng lo làm phước, lựa là rán sức xem kinh?
Ý muốn hại người, có phải hoài công đọc sách.
Cả và thiên hạ ai thấy lời ngự chế cũng cảm động mà làm lành.
Vua Thái Tôn lại treo bảng rao khắp mọi nơi, ai chịu xuống Âm
phủ mà dâng dưa thì lãnh bảng.
Vua lại xuất một kho vàng bạc, sai Ngạc Quốc công là Huất Trì
Kỉnh Ðức (Cung) đến khai phong phủ mà trả cho Tướng Lương.
Bây giờ nói qua Lưu Toàn là người nhà giàu ở Quảng Châu, vợ
là Lý Túy Liên, tính người khẳng khái, Lý Túy Liên lấy trâm vàng mà bố thí cho
thầy sãi.
Lưu Toàn bắt lỗi vợ, nói cũng nhiều điều:
- Sao không giữ phận đàn bà bêu đòi ra cửa, lại đem vật trang
sức (nữ trang) mà cho người.
Lý Túy Liên tức mình thắt cổ mà chết, bỏ lại một trai, một
gái khóc chèo chẹo tối ngày.
Lưu Toàn tức mình mới lãnh bảng đi dâng dưa cho khuất con mắt.
Khi vua Thái Tôn ngự, thấy Lưu Toàn lãnh bảng vào chầu, tình
nguyện dâng dưa dưới Âm phủ.
Vua Thái Tôn truyền cho Lưu Toàn ra quán Kim Ðình, đầu đội cặp
dưa hấu, trong tay áo đựng giấy tiền vàng bạc, rồi uống thuốc độc mà chết.
Hồn Lưu Toàn đội dưa xuống Âm phủ, nói cùng quỷ xứ rằng:
- Vâng lệnh Hoàøng đế đi xuống dâng dưa.
Quỷ xứ dắt vào đền Sum La mà ra mắt Diêm chúa.
Hồn Lưu Toàn nói:
- Hoàng đế dạy tôi dâng cặp dưa cho Bệ Hạ mà tạ ơn.
Mười vua khen rằng:
Khen rồi hỏi tên họ người dâng dưa, Lưu Toàn tâu rằng:
- Tôi họ Lưu tên Hoàng, dân ở Quảng Châu, bởi vợ tôi là Lý
Túy Liên thắt cổ mà chết, bỏ hai đứa con dại kêu khóc ngày đêm nên tôi tức mình
bỏ của bỏ con, mà đi dâng dưa cho gặp vợ.
Vua Diêm vương truyền lệnh dẫn hồn Túy Liên ra mắt, cho gặp mặt
chồng.
Lại truyền Phán quan đem bộ ra xem, thấy số vợ chồng Lưu Toàn
sau thành Tiên hết thảy, mới sai quỷ sứ quờn hồn cả hai.
Quỷ sứ tâu rằng:
- Lý Túy Liên chết đã ba tháng, thây đã rả rời, huờn hồn sao
đặng.
Vua Diêm vương nói:
- Ðường ngự muội Lý Ngọc Anh nay đã mãn số. Vậy thì mượn xác
thế vào.
Quỷ sứ vâng lới dẫn hai hồn đem về Dương thế.
Quỷ sứ vâng lệnh Diêm vương dẫn hai hồn đi khỏi Âm phủ lên đến
Trường An, đem hồn Lưu Toàn xô vào quán Kim Ðình là chỗ xác, rồi đem hồn Lý Túy
Liên vào thành vua.
Ngó thấy em gái vua Thái Tôn là Lý Ngọc Anh té xuống, liền bắt
hồn đi, rồi xô hồn Lý Túy Liên vào xác.
Hồi 12:
Trần Huyền Trang làm chay thỉnh Phật
Quan Thế Âm dạy sãi cầu kinh
Những thế nữ tấy ngự muội đang ngoạn kiểng vùng té xuống chết
tươi, thất kinh chạy vào mà báo cùng Hoàng Hậu.
Hoàng Hậu kinh hải vào thuật cho vua nghe.
Vua Thái Tôn gật đầu mà than rằng:
- Chết thiệt rồi đó chớ không phải gió máy chi đâu, trong khi
trẫm kiếu mười vua mà về, có hỏi thăm gia quyến thể nào?
Mười vua rằng:
- Ai nấy bình yên hết, sợ một mình ngự muội số chẳng bao lâu,
thiệt quả như vậy.
Nói rồi cùng nhau than khóc kéo đến mà xem, thấy Ngọc Anh còn
hơi thở như sợi chỉ, Thái Tôn bảo Hoàng Hậu và cung nga đừng khóc, e Ngự muội
giựt mình, liền bước lại đỡ đầu Ngọc Anh mà kêu rằng:
- Ngự muội ơi! Ngự muội ơi! Tỉnh dậy, tỉnh dậy.
Ngọc Anh cựa mình mà kêu rằng:
- Mình khoan đi đợi tôi với! Ðợi tôi với!
Vua Thái Tôn nói:
- Ngự muội, trẫm đợi nãy giờ đây.
Ngọc Anh mở mắt mà cự rằng:
- Ai níu tôi vậy?
Vua Thái Tôn nói:
- Hoàng huynh, Hoàng tẩu chớ ai.
Ngọc Anh nói:
- Tôi phải là em vua ở đâu mà có Hoàng huynh, Hoàng tẩu?
Tôi họ Lý tên Túy Liên, vợ Lưu Toàn là dân ở Quảng Châu. Bởi
vì tôi bố thí cho thầy sãi một cây trâm, chồng tôi mắng hoài, tôi tức mình mà tự
ái. Nay Hoàng Ðế sai chồng tôi dâng dưa dưới Âm phủ. Vua Diêm vương thương hại,
cho vợ chồng tôi trở về, chồng tôi đi mau tôi chạy theo không kịp, tôi rủi chân
vấp té, sao các ngươi không biết phép, dám lại kêu tôi kia?
Vua Thái Tôn nói với cung nga rằng:
- Thấy ngự muội bị té hết hồn, nên mới nói sảng.
Truyền thế nữ đỡ vào cung điện, ngự y điều trị thuốc than.
Rồi vua vào lâm triều có quan vào cửa tâu rằng:
- Người dâng dưa là Lưu Toàn đà sống dậy rồi, còn đứng hầu
ngoài nhõ.
Vua Thái Tôn thất kinh, truyền đòi vào ra mắt, hỏi thăm công
việc dâng dưa.
Lưu Toàn tâu rằng:
- Tôi đội dưa xuống Âm phủ, gặp qủy sứ dẫn tôi đến Diêm
vương, mười vua có gởi lời cám ơn, và khen Bệ Hạ không thất tín; lại hỏi tên họ,
tôi tâu thiệt và thuật chuyện vợ tôi thác oan, nên tôi tình nguyện dâng vua xuống
Âm phủ họa may gặp vợ.
Vua Diêm vương sai qủy dắt hồn vợ tôi vào, lại tra bộ mà nói
rằng:
- Số vợ chồng tôi sau đặng theo tiên nên cho quỷ đưa hai đưa
tôi về dương thế, tôi đi trước vợ tôi đi sau, tôi sống lại đây, còn vợ tôi nhập
vào đâu không biết.
Vua Thái Tôn phán hỏi:
- Vua Diêm vương có nói vợ ngươi làm sao không?
Lưu Toàn nói rằng:
- Vua Diêm vương không nói vợ tôi làm sao, đều tôi nghe quỷ sứ
nói Lý Túy Liên chết đã lâu, thây thì rã hết. Vua Diêm vương nói Ðường ngự muội
là người gì? Cũng không biết nhà cửa ở đâu mà kiếm!
Vua Thái Tôn nghe tâu thiệt thà, trong lòng mừng lắm, phán với
các quan rằng:
- Khi trẫm huờn hồn, vua Diêm vương có nói với trẫm: " Số
ngự muội chẳng dài. Khi ngự muội té chết giấc tại vườn hoa, Trẫm lại đỡ đầu mà
kêu, ngự muội tỉnh lần cũng nói như Lưu Toàn một cách".
Ngụy Trưng nói:
- Sự thay hồn đổi xác nghe cũng có người, xin mời Quốc muội
ra đây coi thử nói chi cho biết.
Vua Thái Tôn phán rằng:
- Trẫm mới sai Ngư y đem thuốc, bây giờ không biết ra thể
nào?
Nói rồi sai hoạn quan vào cung, mời ngự muội ra mắt.
Bây giờ nói về Ngọc Anh, thấy Ngự y đem thuốc mời uống.
Ngọc Anh nói:
- Ai đâu mà uống thuốc kia?
Day lại cự với Cung nga thể nữ rằng:
- Nhà người ta khoản khoát mát mẻ có đâu mà phòng vàng ngoách
như huỳnh đảng. Cửa có rằn như sắc chồn bông, tôi biểu buông ra, đừng có níu nữa
đa!
Xảy thấy cung nga và thái giám (hoạn) hơn bốn, năm người áp lại
dắt vào bệ ngọc. Vua Thái Tôn hỏi rằng:
- Ngươi biết mặt chồng không?
Nói:
- Hỏi cái gì lạ vậy? Vợ chồng tôi hồi con trai con gái ở với
nhau mấy mặt con, làm sao mà không biết mặt kìa.
Vua Thái Tôn truyền hoạn quan, dắt xuống sân chầu.
Ngọc Anh thấy Lưu Toàn, chạy lại níu chồng mà trách rằng:
- Tía nó đi ngõ nào vậy, mà chẳng đợi tôi. Báo hại tôi chạy
theo, vấp té nhào đầu nhào óc, bị mấy người làm ngang bắt lại, không thả tôi
ra. Không biết họ làm cái gì vậy hả?
Lưu Toàn nghe tiếng nói giống vợ. Ngặt lạ mặt nên chẳng dám
nhìn.
Vua Thái Tôn cười mà rằng:
Chác đất lỡ non người có thấy,
Thay hồn đổi xác thể không nghe.
Như vậy, thì chắc là vợ ngươi mà xác em Trẫm. Tuy ngự muội
thác mà thân thể hỡi còn. Bởi nguời có công khó dâng dưa, mới đặng duyên lành
đó! Thôi, những gia tài của ngự muội, Trẫm cho người chở về nhà, cũng như Trẫm
gả em cho đó, và nhiêu sưu thuế, hai vợ chồng về xứ cùng nhau.
Lưu toàn và Ngọc Anh đồng lạy tạ, cùng nhau mừng rỡ ra về.
Ðến thành Quảng Châu, thấy nhà cửa như xưa, hai con mạnh giỏi.
Từ ấy vợ chồng giàu có lớn, bố thí cho kẻ nghèo. Hưởng phước
thanh nhàn, muôn dân đều mến đức.
Bây giờ nói về Tướng Lương ở phủ Khai Phong, vợ là Trương Thị
chuyên nghề đổi nước và bán chậu bán lu. Liệu bề đủ ăn xài, dư tiền bạc bao
nhiêu cũng bố thí. Và hay mua giấy tiền vàng bạc để đốt hoài. Nên có tiếng đồn
nghèo thứ nhứt và hiền lành cũng thứ nhất. Dè sau là ông bá hộ chứa bạc chứa
vàng.
Khi Uất Trì Cung đến phủ Khai Phong hỏi ra tên họ, mới chở
chuyên vàng bạc tới nhà. Lại thêm ngựa xe quan sở tại tới nữa. Tuy lều trah trại
lá mà đông quá dinh quan.
Hai ông bà thất kinh như câm như dại, quỳ dưới đất mà lạy
ngay.
Uất Trì Cung nói:
- Hai ông bà chờ dậy, ta tuy là Khâm Sai mặc lòng, chớ ông có
tội chi mà sợ. Tôi vâng lệnh Thiên tử, đem bạc trả cho ông đây.
Tướng Lương run lập cập đáp rằng:
- Tôi có cho vay cho mượn ở đâu mà dám lãnh tiền bạc vàng
vòng vô cớ?
Uất Trì Cung nói:
- Ta có hỏi thăm rõ là hai ông bà khó. Song có lòng lành bố
thí, nên dưới Âm phủ có cất thế bạc vàng cho. Bởi Thiên tử sống dậy nói:
"Có mượn kho vàng bạc của Tướng Lương dưới Âm phủ, có Thôi Phán quan bảo cử
rõ ràng. Nên nay tính đủ mà trả cho, sao so cũng phải lãnh đi đặng ta về tâu lại".
Hai vợ chồng lạy mãi mà nói rằng:
- Nếu tôi lãnh của này thì tôi mau chết. Tuy tôi có đốt giấy
tiền vàng bạc, ấy là U Minh, Bệ Hạ nói mượn duới Âm phủ thì sự quả quyết rồi,
ngặt tôi không lấy tích chi làm cớ, giết thì tôi chịu chết, chớ tôi dám lãnh ở
đâu.
Uất Trì Cung không biết làm sao, phải về cụ sớ cho vua rõ.
Vua Thái Tô xem sớ khen rằng:
- Thiệt là kẻ hiền lành.
Nói rồi tuyền cho Uất Trì Cung đem bạc ấy mà lập một kiểng
chùa cho hai ông bà nhờ phước, trong chùa dọn hai bàn thờ sống, cũng như trả bạc
kia.
Uất Trì Cung vâng lệnh, mua năm mươi mẫu đất mướn thợ cất
chùa, gọi là chùa Tướng quốc. Bên tả lên cốt Tướng công (Tướng Lương) mày đậm mắt
to như tạc. Bên hữu lên cốt Trương Thị, da đen áo rách, như thường. Chùa cao
không biết mấy tầng li vòng lên trên khu ốc. Có dựng bia đá có khắc chữ là Uất
Trì Cung coi làm, hoàn thành về tấu cho vua hay.
Vua Thái Tôn mừng phán rằng:
- Các quan vâng lệnh Trẫm, treo bản thỉnh thầy chùa đặng làm
chay cho cô hồn siêu rỗi.
Các nơi lựa thầy chùa dâng tới đông lắm.
Vua Thái Tôn truyền cho quan Thái Sư Phó Duyệt (Duợt) chọn một
thầy xứng đáng làm thầy cả mà đứng đàng chay.
Phó Duyệt dâng sớ can rằng:
- Phép của nước Tây vức không biết tôi chúa cha con. Bầy ra
sáu đàng luân hồi, ba điều hành tội là: Ðao nuớc lửa đặng hoài dụ người ngu nhắc
tội kiếp xưa, hưởng phước đời khác. Miệng đọc lảnh liếu, cho khỏi thế khỏi xâu.
Huống chi sống lâu thác yểu là lẽ tự nhiên, nhân đức hành hình tại nơi vua
chúa. Nay kẻ tục nói rằng: Phật định, lầm biết chừng nào? Huống chi đời tam
hoàng ngũ đế, đạo Phật chưa truyền, thì vua sáng tôi ngay trị nước lâu dài lắm.
Kể từ vua Minh đế nhà Hán mới có Phật ra đời, vua Minh đế lạp chùa mà không thấy
phước. Bệ Hạ còn noi dấu làm chi?
Vua Thái Tôn xem sớ rồi, đưa cho các quan coi mà thưa nghị.
- Ðạo Phật bày từ nhà Hớn, khuên lành răn dữ cũng là có ít
cho triều đình lẽ nào dám bỏ, Phật cũng là thánh. Người chê thánh, là người vô
phép, xin làm tọi mà răn đời.
Phó Duyệt cải lẽ rằng:
- Lễ là thờ cha mẹ và thờ vua. Ðạo Phật bỏ cha mẹ mà đi tu,
không biết tới vua chúa. Trọng người dân hơn cha mẹ. Ông không phải là thầy
sãi, sao lại trọng cái đạo không chúa không cha, ấy là ông bất trung bất hiếu
đó.
Tiêu Võ chắp tay mà nói:
- Mấy cửa ngục để dành cho những kẻ như vầy.
Vua Thái Tôn đòi quan Thái Bộc là Trương Ðào Nguyên, và quan
Trung Thơ là Trương sĩ Hoàn mà hỏi:
- Trẫm lập chùa bố thí có đáng hay không?
Hai ông ấy tâu rằng:
- Ðạo Phật là thanh tịnh hiền lành cho nên vua Võ Ðế nhà Châu
chia ba đạo trượng trong đời là: đạo Nho, đạo Phật, đạo Tiên gọi là tam giáo. Ðại
Huệ thiền sư linh hiễn, Ngũ Tổ và Ðạt Ma hiện hình. Từ xưa đến nay tam giáo là
trọng hơn hết, lẽ nào dám bỏ đi!
Vua Thái Tôn mừng rằng:
- Hai khanh tâu hiệp ý trẫm! Ai còn nói nữa thì làm tội chẳng
tha.
Mới sai Ngụy Trưng, Tiêu Võ, Trương Ðào Nguyên, đi chọn một
thầy cả, ba ông quan vâng lệnh về.
Ðến bữa sau ba ông chọn lựa trong các sãi, có một Hòa Thượng
tài đức song toàn, Hòa Thượng ấy là ai? Là ông Phật Kim Thiền bởi đi chầu trễ
mà phải đọa. Quan Âm cho xuống đầu thai. Mới lọt lòng mẹ bị thả trôi sông, gặp
Pháp Minh vớt lên mướn vú nuôi tại chùa, ăn chay hồi dứt sữa. Ðến mười tám tuổi
thế độ (cạo đầu) quy y. Ông bà cha mẹ ăn lộc Triều đình, mà Hòa Thượng Huyền
Trang chẳng mến công danh, vui theo Phật pháp. Tài cao đức trọng kinh sách gồm
thông.
Bữa sau vua lâm triều, ba ông dắt Huyền Trang vào đền đồng lạy,
ba ông tâu rằng: - Tôi vâng lệnh chọn các sãi, có một hòa thượng nầy tài đức
hơn hết là Trần Huyền Trang.
Vua Thái Tôn ngẫm nghĩ hồi lâu, phán hỏi rằng:
- Phải là con quan học sĩ Trần Quang Nhụy hay không?
Huyền Trang lạy vua mà tâu rằng:
- Tôi đó.
Vua Thái Tôn khen rằng:
- Lựa thiệt chẳng lầm.
Liền phong Huyền Trang làm chức:
- Thiên hạ Ðại xiển Ðô tăng Cang. Nghĩa là: Thầy cả các sãi
trong thiên hạ.
Huyền Trang lạy tạ ơn.
Vua ban cho cái áo Cà sa dệt ngũ sắc và mũ tì lư. Truyền đến
chùa Hóa sanh chọn ngày tốt mà giảng kinh chứng đám.
Huyền Trang lạy tạ nữa, vua cho đưa đến chùa Hóa sanh. Ðếm đặng
một ngàn hai trăm thầy chùa, chia ra ba nhà mà ở. Sửa sang xong xả, chọn ngày
vào đám là ngày Quý Mão nhằm mồng ba tháng chín năm Kỉ Tỵ, niên hiệu Trinh
Quang thứ mười ba ra hạn từ ngày vào đám đến ngày rồi là bảy cái thất, bốn mươi
chín bữa, tụng kinh và thí thực cho siêu độ cô hồn.
Ngày mồng ba vua Thái Tôn và các quan tựu đến chùa Hóa sanh
thắp hương lạy Phật.
Thầy Huyền Trang dắt các sãi ra lạy mừng vua. Rồi dâng văn tế
cô hồn.
Vua Thái Tôn xem rõ văn tế như vầy:
Ðức thánh minh mông,
Cửa thiền lặng lẽ
Sống trên đời tánh qủy hung hăng,
Thác xuống đất hồn ma quạnh quẽ
Nhớ các linh xưa
Mãng tham danh tham lợi,
Không lo lợi phước đôi đàng
Cứ xưng bá xưng vương
Bao quản mất còn hai lẽ
Thương ôi! Xông pha chiến trận
Liều thân mũi đạn đường tên,
Vùng vẫy giang hồ,
Bỏ mạng chân trời góc bể,
Nay chúa ta,
Xem thành Uổng tử,
Khá thương ma đói một đoàn,
Về cõi Dương trần,
Còn nhớ hồn oan nhiều kẻ
Lập một trường Thủy Lục,
Ðãi đằng chúng qủy xa gần,
Nhóm ngàn sãi trì kinh,
Siêu rỗi vong hồn già trẻ
Nhờ ơn tiếp dẫn
Vãng sanh cõi Phật thảnh thơi,
Bỏ thói hành hung,
Phò hộ dân trời sức khỏe,
Có linh xin hưởng.
Vua xem qua vui lòng lắm, nói với các sãi rằng:
- Mấy thầy đừng bê trễ, xong việc rồi trẫm công đức. Không bỏ
qua đâu.
Các sãi lạy tạ ơn.
Vua quan ra về, còn mấy thầy lo cúng.
Bây giờ nhắc việc Quan Âm ở miễu Thổ Ðịa bấy lâu, mà tìm kẻ
thỉnh kinh chưa đặng. Nay nghe vua chọn Huyền Trang làm thầy cả mà chứng đám
chay, lấy làm mừng rỡ, thầy trò giả thầy chùa ghẻ lát, đem gậy, áo đi bán tại
Trường An, mấy thầy chùa có tiền, thấy hai sãi đầu trần đi bộ ghẻ lát đầy mình,
mà cầm quần áo Cà sa rực rỡ. Liền hỏi thăm giá mấy.
Quan Âm nói:
- Áo năm ngàn lượng còn gậy hai ngàn.
Sãi ác tăng giận mắng rằng:
- Hai sãi lát nói khùng, áo với gậy tới bảy ngàn lượng bạc! Dầu
bận mà sống đòi hay là thánh Phật, cũng không tới giá nầy! Ði bán đâu thì đi
bán cho rảnh.
Quan Âm không nói lại, cứ đi với Mộc Tra, hèn lâu tới cửa
Ðông Huê, gặp Tể Tướng Tiêu Võ chầu về, quân nạt đường inh ỏi, Quan Âm không
tránh mang áo đi ngang.
Tiêu Võ thấy áo có ngời, liền sai quân hỏi giá, Quan Âm cũng
nói giá đó.
Tiêu Võ hỏi:
- Có cái chi quý lắm, mà thách giá cao?
Quan Âm nói:
- Áo Cà sa nầy, có chỗ quý, có chỗ không quý, khi đòi tiền,
khi chẳng đòi tiền.
Tiêu Võ hỏi sao là quý? Sao lại không quý?
Quan Âm nói:
- Mặc áo nầy chẳng đọa luân hồi, chẳng sa địa nhục, chẳng bị
độc hại, chẳng bị hùm beo, ấy là quý đó; nếu kẻ phàm phu tham dâm gây họa không
ăn chay lại ngạo Phật chê kinh, thì chẳng hề thấy đặng áo này, ấy là không quý.
Tiêu Võ hỏi:
- Sao có tiền? Sao lại không tiền?
Quan Âm nói:
- Không giữ phép Phật. ở chẳng hiền lành, mà muốn mua áo và gậy
thì đủ 7000 lượng bạc mới bán, ấy là có tiền. Như người đức hạnh chân tu thì
tôi cho hết tích trượng Cà sa, ấy là không tiền đó.
Tiêu Võ nghe nói thông, mừng lắm, biết không phải kẻ tầm thường,
liền xuống ngựa bái mà nói rằng:
- Tôi thất lễ xin thầy miễn chấp, Bệ Hạ tôi lòng lành trọng
Phật đương lập đàng Thủy Lục (Thủy là nước, Lục là bộ, làm việc vớt vong trên bờ
và dưới sông) nhóm hơn ngàn sãi mà thầy cả là Trần Huyền Trang, đáng mặc Cà sa
nầy, và cầm tích trượng ấy, xin thầy theo tôi đến Bệ Hạ coi thể nào?
Quan Âm chịu đi, Tiêu Võ dắt vào Thiên tử tâu rành công việc
tích trượng Cà sa, vua mừng lắm hỏi giá bao nhiêu, hai sãi đứng dưới thềm không
lạy, trả lời rằng: "Tích trượng hai ngàn lượng, Cà sa năm ngàn lượng".
Vua hỏi:
- Cà sa có chi báu, mà giá mắc như vậy?
Quan Âm nói:
- Áo Ca sa nầy của tiên nữ dệt, lại thêu bông sen và đính những
hột châu; bốn góc bốn hột châu chiếu ban đêm sáng như ban ngày, chính giữa có
châu như ý, và châu ngăn gió, viền bằng vàng, nút bằng ngọc, mặc vào khỏi đọa
luân hồi, lại thêm sáng láng, bụi chẳng đóng vào, của Phật chế ra, muôn đời
truyền để.
Vua nghe nói mừng lắm, hỏi:
- Còn cây gậy báu thể nào?
Quan âm nói:
- Gậy này bằng cây mây của tiên, gậy dài chín lóng, Mục Liên
tìm mẹ, cũng nhờ nó mà phá ngục môn, ai cầm gậy này thì đi Tây Phương được.
Vua nghe nói rồi, dở áo ra xem quả là vật báu, mới phán rằng:
- Chẳng giấu chi thầy, nay trẫm làm Thủy Lục tại chùa Hóa
sanh có thầy cả giảng kinh là Trần Huyền Trang người đức hạnh lắm, nên mua hai
vật này cho thầy cả, xin thầy nói thiệt giá bao nhiêu?
Hai thầy chắp tay:
- Mô Phật! Như người có đức hạnh, tôi cho không chẳng lấy tiền.
Nói rồi dời gót, vua truyền Tiêu Võ kéo lại mà phán rằng:
- Thầy nói giá bảy ngàn lượng bạc, Trẫm mua hết, thầy chẳng
ăn tiền, té ra Trẫm ỷ làm vua mà đoạt của nầy sao phải. Trẫm xin trả y giá, thầy
không đặng chối từ.
Hai thầy bái mà nói rằng:
- Chúng tôi có lời nguyền cho người đức hạnh, nay Bệ Hạ hiền
lành nhân đức, kính Phật chuộng Tăng, chúng tôi xin dâng cho thầy cả giảng
kinh, quyết không dùng tiền bạc.
Vua nghe nói hết lời như vậy, truyền dọn tiệc chay mà đãi đằng.
Quan Âm chẳng chịu dùng. Giã từ lui gót, đi về miễu Thổ Thần.
Vua Thái Tôn lâm triều, sai Ngụy Trưng mời Huyền Trang vào điện
mà phán rằng: - Trẫm chẳng biết lấy gì mà tạ ơn pháp sư, hồi sớm mai Tiêu Võ dắt
hai sãi vào cúng áo Ca sa và tích trượng. Thiệt à vật báu, nên mời pháp sư đến
đặng Trẫm ban cho. Huyền Trang lạy tạ ơn, vua phán rằng:
- Pháp sư mặc áo này vào cho Trẫm nhắm thử.
Huyền Trang mặc Cà sa, cầm tích trượng oai nghi rực rỡ, châu
ngọc làu làu, xem hình như Phật tử, nội trào văn võ khen vang.
Vua Thái Tôn mừng quá, truyền hai đội ngự lâm quân theo Huyền
Trang, dạo chợ dường như quốc trạng khoe quan, già trẻ gái trai coi như coi hội,
kẻ khen rằng:
- Như Lai giáng thế, người gọi là La Hán xuống phàm, Huyền
Trang về chùa Hóa Sanh, các sãi ra rước mới ngó thấy, ngỡ là Ðịa Tạng đến am,
Huyền Trang vào chùa, thắp hương lạy Phật, ít ngày đến đầu cái thất nữa.
Vua và Hoàng Hậu với các quan văn võ đồng tới nghe kinh,
thiên hạ đồn vang đi coi như kiến cỏ.
Còn Quan Âm nói với Huệ Ngạn rằng:
- Thầy trò ta giả dạng đi coi, một là xem hội lớn thế nào,
hai là coi Kim Thiền có phước mặc áo Cà sa, ba là nghe giảng kinh chi cho biết.
Ba thầy trò vào chùa xem thấy nghi tiết không nhượng cảnh Tây
Phương.
Huyền Trang tụng kinh độ vong. Rồi giảng kinh an bang, rồi lại
nghe giảng nhân quả, khuuên lành răn dữ.
Quan Âm bước lại vỗ bàn hỏi lớn rằng:
- Hòa Thượng nầy, biết giảng kinh thấp mà giảng nỗi kinh cao
không?
Huyền Trang nghe nói mừng rỡ, bước xuống bái mà nói rằng:
- Kẻ đệ tử cam thất lễ, xin sư phụ từ bi thương, chúng tôi giảng
kinh thấp mà thôi, cớ kinh cao chưa từng thấy.
Quan Âm nói:
- Mấy cuốn kinh thấp độ không đặng vong hồn, ấy là làm việc
qua tang lề mà dối thế ta có ba tạng kinh cao của phật Tổ, cứu người khổ nạn,
đã siêu độ vong linh, lại còn thành chánh quả.
Hai đàng đương nói chuyện, quan thắp hương thấy vậy vào tâu rằng:
- Pháp sư đương giảng kinh, bị hai thầy chùa lát ở đâu, vô
kéo xuống giàn cãi lẫy. Vua dạy bắt vào, hai sãi đứng trơ trơ không bái, ngước
mặt mà nói rằng:
- Bệ Hạ hỏi tôi chuyện chi đó?
Vua hỏi:
- Phải hai thầy bán áo hôm trước không?
Hai thầy nói:
- Phải.
Vua phán rằng:
- Thầy đi coi giảng kinh, thì vào mà dùng đồ lợt, sao lại cãi
lẽ với Pháp sư?
Quan Âm nói:
- Pháp sư của Bệ Hạ tụng kinh thấp quá chừng, siêu độ hồn sao
nỗi, tôi có ba tạng kinh cao của Phật Tổ, độ mới nỗi vong.
Vua mừng hỏi:
- Kinh cao ấy ở đâu?
Quan Âm nói:
- Ở tại chùa Lôi Âm, bên Tây Phương nước Thiên Trúc, là kinh
của Phật Tổ, hay trừ tai nạn, lại độ vong hồn.
Vua nói lên giàn ngồi giảng, Quan Âm và Huệ Ngạn đồng bước
lên giàn, rồi đằng vân lên nửa lừng, hiện hình Quan Âm Bồ Tát, tay cầm bình
dương liễu còn Huệ Ngạn cầm gậy sắt đứng hầu, vua tôi và các sãi đều thất kinh,
rùng rùng quỳ lạy đồng niệm: Nam mô Quan Thế Âm bồ tát vang trời, vua truyền thợ
vẽ họa hình, họa vừa rồi Quan Âm và Mộc Tra biến mất, sa xuống một lá thiệp,
trên đề chữ như vầy:
Tỏ cùng chúa Ðại Ðàng,
Kinh tại cảng Tây Phang
Dặm đã xa mười vạn,
Ðường thêm lẻ tám ngàn
Kinh cao về nước cả,
Hồn qủy khỏi thành can
Ai có công đi thỉnh,
Ngày sau hóa Phật vàng.
Vua xem lá thiệp rồi, truyền các thầy chùa dẹp đám, đợi thỉnh
cao tăng về tới, rồi sẽ làm chay.
Lại phán hỏi các sãi rằng:
- Ai chịu đi qua Tây phuơng mà thỉnh kinh cao cho trẫm?
Hỏi vừa dứt tiếng, Pháp sư quỳ tâu rằng:
- Tôi tuy dở, xin tình nguyện đi thỉnh kinh cao, đặng cầu khẩn
cho giang san bền bỉ. Vua nghe mừng lắm, đỡ Huyền Trang dậy mà phán rằng:
- Pháp sư có lòng trung nghĩa,, Trẫm xin gá tiếng anh em.
Nói rồi lạy Huyền Trang bốn lạy mà kêu bằng Ngự đệ là thầy thánh.
Huyền Trang cũng lạy đáp, mà nói rằng:
- Tôi có tài đức chi, mà Bệ Hạ đãi tôi quá lẽ, tôi hết lòng hết
sức, đi cho tới Tây Phương mà thỉnh, nếu thỉnh không đặng kinh, chết thì chịu
chớ không hề trở lại, bằng tôi nói dối, phải đọa địa ngục chung thân.
Lại thắp hương thề trước bàn, xin Phật làm chứng, vua Thái
Tôn mừng rỡ phán rằng: - Ðể Trẫm về cung viết điệp (giấy) cấp cho Ngự đệ, tới
nước nào trình điệp ấy, thì nước đó cũng phải cho đi, đợi chọn ngày lành, Trẫm
sẽ đưa Ngự đệ.
Nói rồi từ giã về cung.
Còn Huyền Trang trở về chùa Hồng Phước, các sãi hay tin ấy
can rằng:
- Thầy ôi! Nghe người đồn đường qua Tây Phương nhiều hùm beo
yêu quỷ, sợ đi đặng chớ về không đặng đó thầy à.
Huyền Trang nói:
- Tôi đã thề rồi, không thỉnh kinh về, thì đọa địa ngục; đường
đi tăm tăm mù mù, khong biết chừng lành dữ; cách đôi ba năm, hoặc năm bảy năm
chi đó, coi chừng mấy cây tòng trước cửa núi, trở ngọn qua đông thì ta về đó, nếu
không vậy thì các ngươi đừng trông đợi làm chi, các trò nên nhớ.
Bữa sau vua lâm triều, đủ mặt văn võ. Truyền viết điệp thông
hành, đóng ấn xong xả. Quan Khâm thiên giám tâu rằng:
- Nay nhằm ngày nhân chuyên, xuất hành tốt lắm.
Kế quan coi cửa vào tâu rằng:
- Có Ngự đệ Pháp sư vào ra mắt.
Vua vời vào điện mà phán rằng:
- Ngự đệ ôi. Ngày nay xuất hành tốt lắm, Trẫm cấp điệp thông
hành và cho cái bình bát vàng, đem theo mà dùng, lại cấp theo hai tên tùng giả,
và một con ngựa kim mà đỡ chân.
Huyền Trang lạy tạ ơn, vua và các quan đưa tới ải, còn các
sãi ở chùa Hồng Phước, đem quần áo theo đưa.
Vua Thái Tôn hỏi:
- Ngự đệ hiệu chi?
Huyền Trang tâu rằng:
- Tôi là nguời tu hành, không dám xưng hiệu.
Thái Tôn nói:
- Trẫm nghe Quan Âm nói bên Tây Phương có kinh Tam Tạng (3 tạng)
đặt hiệu cho Ngự đệ là Tam Tạng đành không.
Nói rồi đưa chén rượu, Huyền Trang lạy tạ, rồi bưng chén rượu
mà tâu rằng:
- Bệ Hạ cho hiệu hay lắm, còn rượu này luật chùa cấm nhặt thuở
nay, tôi chẳng dám dùng.
Vua phán rằng:
- Ngày nay chẳng phải như ngày thường, vả lại là rượu nước dừa
nữa. Ngự đệ uống một chén là nhậm lễ Trẫm đưa.
Nói rồi cúi xuống hốt bụi cát mà búng vô chén rượu.
Tam Tạng không hiểu ý gì cúi đầu ngẫm nghĩ.
Vua cười mà hỏi rằng:
- Ngự đệ đi chừng nào về?
Tam Tạng nói:
- Chừng lối ba năm thì tôi về tới.
Vua phán rằng:
- Lâu năm chày tháng, dặm hẳn đường xa, ngự đệ uống chén rượu
nầy là:
Thà mến đất xứ mình một nắm,
Chớ tham vàng nước khác ngàn cân.
Tam Tạng nghe rồi, mới nghĩ ra sự búng cát vô rượu, uống cạn
chén tức thì.
Vua Thái Tôn từ giả về cung; còn Tam Tạng lên yên giục ngựa.
Hồi 13:
Nơi Hổ huyệt, Kim Tinh cứu nạn
Lưu Gia Trang, Tam Tạng tụng kinh
Nói về Tam Tạng từ ngày mười hai tháng chín, niên hiệu Trinh
Quang năm thứ mười ba.
Vua Ðường Thái Tôn và các quan văn võ đồng đưa thầy Tam Tạng
ra khỏi ải Trường An, rồi vua quan giả từ trở về.
Còn thầy Tam Tạng lên yên thẳng tới, hai tên tùng giả đi
theo; người chẳng cho nghỉ chân, ngựa không dừng vó, mặt trời chen lặn, ghé vào
chùa Pháp Vân.
Năm trăm sãi trong chùa Pháp Vân đồng ra nghinh tiếp vào đãi
đằng trà nước, lại mời dùng cơm chay, ăn uống xong rồi, các sãi hỏi thăm sau
trước.
Tam Tạng thuật chuyện:
- Vâng lệnh Hoàng đế, qua Tây Phương mà thỉnh kinh cao.
Mấy trăm sãi đều lắc đầu, kẻ nói:
- Ðường xa biển rộng khó đi, người rằng: Sợ yêu núi cọp rừng
hay đón.
Tam Tạng làm thinh không nói, cứ gật đầu mà chỉ cái tim mình,
các sãi lấy làm lạ mà hỏi rằng:
- Chẳng hay thầy ra dấu chi đó?
Tam Tạng nói:
- Lòng tưởng Phật thì có Phật, tánh sợ ma thì gặp ma, tôi thề
tại chùa Hóa Sanh, làm sao cũng hết lòng mới đặng, quyết đến Tây Phương lạy Phật,
xin đem kinh kệ về chùa, trước cầu hoàng đế vững bền, sau độ oan hồn siêu rỗi.
Các sãi nghe nói đều khen ngợi.
Qua ngày sau cơm nước xong rồi, Tam Tạng mặc áo Cà sa mà lạy
Phật, vái rằng: - Tôi là Trần Huyền Trang, đi thỉnh kinh Tây độ, bởi xác phàm mắt
thịt, nên không biết Phật sống ra thể nào! Ðệ tử nguyện lời này; từ rày sắp
sau, thấy cốt Phật thì lạy hoài, gặp tháp chùa thì quét mãi, xin Phật từ bi hỉ
xả cho tôi nạn khỏi tai qua, nhẹ gót tới Tây Phương thỉnh kinh về Ðông độ.
Lạy rồi bước xuống, giã từ các sãi mà đi.
Một thầy giục ngựa thẳng xông, hai tới mau chân dong ruỗi.
Tháng chín trời thu lạnh lẻo, đi ít ngày tới xứ Cũng châu.
Quan trong thành Cũng châu, ra rước vào thiết đãi.
Sáng dậy giả từ đi nữa, đói thì ăn, khát thì uống, tối thì
nghỉ, sáng thì đi, hèn lâu mới tới ải chót, gọi là Hà châu vệ.
Quan Tổng binh trấn ải ấy, cùng các sãi tiếp nghinh, rước về
ngủ tại chùa Phước Nguyên.
Tam Tạng nghe gà gáy canh tư, tưởng đâu gần sáng. Có một thầy
nóng việc, làm hai tớ cực thân, thầy trò kiếu các sãi ra đi, thấy trăng rạng
làu làu, sương sa phay pháy. Ði chừng vài mươi dặm, đà bặt mối đường mòn, núi
cao trước mặt chần vần, phải vạch cỏ lần hồi đi tới, đêm hôm tăm tối đường xá gập
ghềnh, không có ai mà hỏi thăm đàng, cứ nhắm hướng Tây đi mãi.
Thầy trò đi tầm quấn, cùng nhau sụp xuống một cái hầm!
Nghe tiếng kêu lớn rằng:
- Bắt nó đem đây cho mau.
Ba thầy trò nghe qua mất vía, xảy đâu gió tới ào ào, có năm
sáu chục yêu con, xách cổ thầy trò đem nạp.
Tam Tạng sợ run lên phát rét, lén xem chúa động ra thể nào,
thấy một mình ma vương ngồi trên, hình thù dữ tợn, tiếng vang như sấm, mắt sáng
tợ sao, cặp nanh cong vòng, hàmrăng chom chỏm, râu hai chia như chuột, tay năm
vấu tợ hùm, không phải người ta rừng, ấy là ông chúa núi.
Tam Tạng thấy ối tăm mày mặt, hai người theo bủn rủn tay
chân, Ma Vương truyền trói hết cả ba, rồi xúm nhau làm thịt.
Xảy thấy có Tiểu qủy vào báo với Ma Vương rằng:
- Có Hùng Sơn Quân và Ðặc xử Sĩ hai ông đến viếng Ðại vương.
Ma Vương gật đầu bước ra nghinh tiếp.
Tam Tạng liếc thấy người đi trước đen thui như mọi, cậu vô
sau mập ú như voi.
Ma Vương rước vào ngồi, cùng nhau nói chuyện.
Hùng Sơn Quân khen rằng:
- Dần tướng quân mần ăn khá lắm.
Ma Vương hỏi rằng:
- Còn hai anh xưa rày khá không?
Hùng Sơn Quân và Ðặc xư û Sĩ đồng nói rằng:
- Cũng thường, đủ đấp đổi.
Còn hai người tùng giả bị trói khóc vang.
Hùng Sơn Quân thấy hỏi rằng:
- Ba thằng nầy ở đâu mà bị bắt vậy?
Ma Vương nói:
- Chúng nó đi nạp thịt cho tôi.
Ðặc Xử Sĩ cười rằng:
- Tính đãi khách không vậy?
Ma Vương nói:
- Ðể biểu làm thịt hết, dùng một bữa cho vui.
Hùng Sơn Quân cản rằng:
- Làm hai thằng dùng đỡ bây giờ, mộ để dành mai sáng.
Ma Vương truyền tiểu quỷ rằng:
- Ðem hai thằng xấu tướng, mổ bụng lấy đồ lòng, và dâng thủ cấp
tức thì với hai tay hai cẳng, còn bao nhiêu xương thịt, bây chia tam chia tứ với
nhau".
Tiểu quỷ cứ y lời, tợ làm hàng một thứ.
Tam tạng thấy ăn mà ngán, như cọp ăn dê, chưa từng thấy kẻ ăn
thịt người, nên Tam Tạng sợ run chết điếng.
Ðến chừng rạng đông nhứt, mấy con yêu quái đi tản rồi, còn
Tam Tạng nằm mê như chết giấc.
Có ông già chống gậy đi tới, đầu bạc tợ thúng hong, lấy tay
phủi mấy sợi dây, dạy liền đứt hết, thổi một hơi trên mặt, Tam Tạng liền tỉnh dậy
tức thì.
Chắc ông già mở trói cho mình, liền quỳ tạ ơn cứu nạn.
Ông già nói:
- Thôi nhà ngươi chờ dậy, xem đi xét lại, coi có mất vật gì
chăng?
Tam Tạng nói:
- Hai người đi theo tôi đều bị yêu ăn hết, hai gói đồ với con
ngựa không biết ở đâu!. Ông già chỉ mà nói rằng:
- Một con ngựa kia kìa, hai gói đồ ở đó.
Tam Tạng thấy đồ không mất, mừng rỡ quá chừng, mới hỏi ông
già rằng:
- Chẳng hay chỗ này kêu xứ chi? Ba người ấy là vật gì thành
quái?
Ông già nói:
- Ðây thiệt núi Song Xoa, chỗ này là hang cọp (Hổ huyệt) con
yêu đen là gấu ngựa, còn quỷ mập là trâu rừng, còn Ma Vương, Dần tướng quân thiệt
là Tinh cọp, mấy con quỷ nhỏ, đều là thú dữ trong rừng, người tu hành dạ thẳng
lòng ngay, nên trời khiến nó không ăn thịt. Thôi đi theo ta ra đường lộ, cho khỏi
chốn hang hùm.
Tam Tạng buộc hai gói lên yên dắt ngựa đi theo lập tức, một hồi
tới đường lộ, Tam Tạng liền lạy tạ ông già, vừa cúi đầu nghe trận gió thoảng
qua, chờ dậy kiếm ông già đâu mất! Thấy cởi hạc bay cao vòi vọi, trên mây bỗng
rớt xuống một tấm giấy, có bốn câu thơ rằng:
Ta sao Thái Bạch ở trên trời,
Thương xót người lành xuống cứu ngươi
Ðường trước hỡi còn nhiều nguy hiểm,
Cũng đừng thấy khó nhọc mà lơi.
Tam Tạng xem rõ, lạy thinh không mà tạ ơn, lúc trước ngựa
cõng thầy, bây giờ thầy dắt ngựa, đi có một mình, non cao rừng rậm, trèo đèo
trèo ải, vịn đá vịn cây, đi hất thơ thất nghiệp, đã lâu không thấy xóm thấy
làng chi hết, trong lòng đã đói khát, lại thêm thì đường xá gập ghình.
Ðương khi nghèo ngặt, chi xiết thở than, xảy gặp hai hùm cũng
sẳn đói, cọp ngồi trước mặt, rắn rượt sau lưng, bên kia chó sói nhăn răng, phía
nọ heo rừng hả miệng, thương hại cho thầy Tam Tạng, khác nào mắc nợ tứ giăng,
không biết tránh ngõ nào, sợ quá trèo lên lưng ngựa, bởi nó đà lỡ móng, ngựa chở
thầy không nỗi liền quỵ, phải bước xuống dắt đi, nó đà nằm vạ, kéo hoài không dậy,
nghĩ lại mình có một người một ngựa, tư bề vật dữ rất đông, tính cònmột phép
công bình, ngồi xếp bằng giữa lộ, mình đói nó cũng đói, con nào tới trước thì đặng
phần, chết thành sống khó thành, danh ấy để sau còn có tiếng. Ai ngờ rắn sau
lưng phóng trái, cọp trước mặt nhảy ngang, heo rừng vừa hộc vừa lăn, chó sói vừa
la vừa chạy.
Xảy thấy một người vạm vỡ, tay cầm chỉa sắt, lưng dắt cung
tên, ở bên kia núi đi qua, thiệt là tay cản dõng, người ấy đi cầm tới.
Tam Tạng thất kinh quỳ xuống, chắp tay mà nói rằng:
- Xin Ðại vương cứu tôi với.
Người ấy quăng cây chỉa xuống đất, đỡ Tam Tạng dậy mà nói rằng:
- Xin thầy chớ hãi kinh, tôi là người săn bắn, hiệu Trấn Sơn
thái bảo, họ Lưu tên chữ Bá Khâm, quyết đi săn cọp về ăn, nay lại gặp thầy vừa
tới.
Tam Tạng nói:
- Tôi vâng lệnh Ðại Ðường Hoàng đế, qua Tây Phương lạy Phật
thỉnh kinh, đi mới tới đây, bị thú dữ phủ vây bốn phía, nhờ Thái Bảo lướt tới,
nên thú dữ chạy đi, thiệt là ơn cứu tử huờn sanh không biết ngày nào đáp nghĩa.
Lưu Bá Khâm nói:
- Tôi là người săn bắn, bắt rắn về uống rượu, thường ngày săn
cọp lấy da, thú dữ đã sợ tôi, thấy mặt thời chạy hết, thầy ở trong trào đi tới,
tôi là người ngụ cõi ngoài, cũng là một nước với nhau, không hề chi mà sợ, xin
thầy ghé lều tranh ngơi nghỉ, ngày mai tôi đưa khỏi núi nầy.
Tam Tạng mừng biết là dường nào, liền đứng dậy tạ ơn, rồi dắt
ngựa đi theo bén gót.
Ði qua vừa khỏi núi, nghe gió thổi vo vo.
Lưu Bá Khâm nói:
- Chỗ gió thổi đằng kia, chắc mèo rừng ở đó, thầy ngồi đây mà
đợi, tôi bắt nó kẻo sẩy đi.
Tam Tạng nghe nói sợ run, không dám đi tới nữa.
Lưu Bá Khâm xách chỉa chạy đến như giông; cọp thấy mặt thất
kinh, chạy dong đuôi một nước.
Lưu Bá Khâm hét lớn như sấm vang trời:
- Ðồ chó chết nà, chạy đi đâu cho khỏi!
Vừa nói vừa rượt như gió như giông, cọp một nước ngoái lại vớ
liền, Bá Khâm đưa chỉa đỡ ngang, đánh tung hoành một trận.
Tam Tạng chưa thấy điều ấy, nay xem qua xuất hạn dầm mình.
Còn Bá Khâm đánh với cọp mọt giờ, cọp chụp thì người tràng,
người đâm thì cọp bắt, một hồi cọp mệt.
Bá Khâm đâm chết tức thì lông lá xồm xàm, máu me lai láng.
Lưu Bá Khâm nắm tai cọp lôi ra tới lộ, mặt không sắc mệt,
mình chẳng đổ mồ hôi, nói với Tam Tạng rằng:
- May quá đổi may! Săn một con mèo rừng, đãi khách mấy ngày
cũng không hết, ấy là thầy có phước đức nên có lộc ăn.
Tam Tạng khen rằng:
- Thái Bảo thiệt ông thần núi! Mạnh là cọp còn thua!
Lưu Bá Khâm nói:
- Hay ho gì mà thầy khen, tôi săn cọp như muôn bắt thỏ.
Nói rồi tay trái cầm cây chỉa, tay mặt nắn tai cọp mà lôi,
Tam Tạng dắt ngựa đi theo mộ hồi lâu mới tới cửa.
Lưu Bá Khâm buông cọp xuống đó, kêu bầy trẻ mà dặn rằng:
- Chúng bây hãy lọt lấy da, còn thịt xào đem uống rượu.
Nói rồi mời Tam Tạng vào ngồi trong nhà khách, liền thưa cho
mẹ hay rằng:
- Hòa Thượng nầy ở với vua, đi thỉnh kinh nơi cảnh Phật, con
mới về nghỉ mát rồi mai đưa Hòa Thượng lên đường.
Bà mẹ nghe nói mừng rằng:
- Mai là ngày giáp năm của cha mầy, thỉnh Hòa Thượng tụng
kinh siêu độ. Cầm thầy ở một bữa, sáng mốt sẽ đưa đi.
Lưu Bá Khâm là kẻ ngang tàng, mà có hiếu với mẹ lắm. Nghe lời
mẹ nói, liền cầm thầy ở lại tụng kinh. Coi trời đã xế chiều, trẻ nhỏ lau bàn dọn
tiệc, bưng mấy tộ lên hơi nghi ngút, nguyên là thịt cọp mới xào.
Lưu Bá Khâm đứng dạy mời rằng:
- Xin thầy dùng ba miếng lót lòng, đợi cơm chín sẽ ăn luôn miệng.
Tam Tạng chắp tay nói:
- Tôi giữ gìn ngũ giới không hề nói dối bao giờ, ăn chay hồ mẹ
mới sanh, chẳng dám dùng đồ mặn.
Lư Bá Khâm nghe nói ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thưa rằng:
- Tôi tự bé tới lớn, không từng việc ăn chay, nói vậy tôi mời
lỡ thầy, chẳng không nên lắm! Xin nói vạt chay cho rõ, đặng tôi dọn cho thầy
dùng.
Tam Tạng nói:
- Muối với cơm cũng đặng, đừng có kiếm vật chi.
Lưu Bá Khâm hỏi:
- Muối không phải đồ mặn sao thầy?
Mẹ Bá Khâm nghe hỏi, kêu con mà biểu rằng:
- Con ôi! Mẹ có sắm đồ chay, biểu vợ con ra mà nấu.
Vợ Bá Khâm bước lại, bà mẹ dặn đành rành. Liền luột rau dọn
cơm, sắp dọn trên bàn tử tế. Mời thầy dùng đở dạ, Tam Tạng ngồi lại, niệm kinh
cúng cơm rồi mới cầm đũa mà ăm.
Bá Khâm múc thịt hầm đem lại, kẻ ăn chay người ăn mặn; chủ
dùng thịt khách dùng rau, ăn uống đàng hoàn, nước nôi xong xả.
Ðêm ấy Tam Tạng nằm như chết, ngủ trừ bì tới sáng không hay.
Bữa sau dọn cơm chay kêu thầy dậy đãi đặng tử tế, rồi cầu thầy
tụng kinh siêu độ cho cha mình.
Tam Tạng rửa tay rửa mặt rồi, đứng thắp hương bái Phật, nội
nhà đồng quì lạy, thầy đốt sớ tụng kinh, công việc xong rồi, mặt trời chen lặn,
ngủ một đêm thức dậy, vợ Bá Khâm nói với chồng rằng:
- Hồi hôm tôi thấy cha về, nói bấy lâu mắc tội, ở dưới địa ngục
không đặng đầu thai, nay nhờ Hòa Thượng tụng kinh nên tiêu hết tội, vua Diêm
vương cho đầu thai tử tế, làm con cháu nhà giàu, chúng bây phải tạ ơn thầy, chẳng
nên làm dối trá, tôi giựt mình thức dậy mới hay giấc chiêm bao.
Lưu Bá Khâm nói:
- Vía ta hồi khuya cũng thấy như vậy, không phải mộng mị, hãy
thưa lại cho mẹ rõ mà mừng."
Bà mẹ Bá Khâm đang ngồi, thấy dâu con thuật chuyện, mẹ Bá
Khâm nói rằng:
- Hồi khuya ta cũng thấy điềm ấy.
Mẹ con mừng rỡ cười vang, kêu trẻ dậy tức thì. Hối dọn cơm
cho sớm, bà mẹ nói với Tam Tạng rằng:
- Bạch Hòa Thượng! Nhờ tụng kinh siêu độ, vong hồn mới đặng đầu
thai, chúng tôi xin lạy tạ ơn, không biết lấy chi đáp nghĩa.
Tam Tạng nói:
- Tôi cứ theo phép Phật, tụng kinh siêu độ mà thôi, đừng lạy
tạ mà chi, linh tại chủ chứ tôi không giỏi.
Lư Bá Khâm nói:
- Ba mẹ con tôi thấy chiêm bao như một, nhờ kinh thầy nên
vong đặng đầu thai. Tam Tạng nghe rõ mừng rằng:
- Ấy là phước chủ chớ tôi không có tài chi, cũng nhờ kinh Phật
hiển linh, lại với lòng người thành kính.
Lưu Bá Khâm để bạc, rằng tôi công đức cho thầy. Tam Tạng từ rằng:
- Tôi là thầy sãi, không lãnh bạc làm chi, như tưởng tình đưa
ít dặm đường, hơn làm lễ tạ ngàn lượng bạc.
Lưu Bá Khâm hối vợ dọn cơm nước đãi thầy, rồi sửa soạn gói
cơm khô, lại dắt ngựa cho ăn cho uống, kêu ba bốn đứa đầy tớ vác mác thông cầm
chỉa theo mình. Tam Tạng giã từ, lên yên giục ngựa.
Bá Khâm với gia tướng theo đưa đón trước sau, đi trọn nữa
ngày, ngó thấy núi cao chớn chở.
Ði một đỗi nữa, Bá Khâm nói với Tam Tạng rằng:
- Bạch Hòa Thượng, cứ đường này đi tới, chúng tôi xin kiếu trở
về.
Tam Tạng nghe nói thất kinh hồn vía, xuống ngựa năn nỉ với Bá
Khâm rằng:
- Xin Thái Bảo làm ơn rán đưa tôi một đỗi nữa.
Bá Khâm nói:
- Bởi Hòa Thượng chưa rõ, tôi xin bạch lại cho rành, núi nầy
cao lớn hơn ác núi, gọi là Lưỡng Giới Sơn. Nửa bên Ðông nầy, về ranh đất Ðại Ðường,
phía bên Tây thuộc về nước Ðác Ðác. Cọp phía bển dữ quá, nó không kể đến tôi.
Phải chi dám đi ngang, tôi cũng đưa thầy ít bữa.
Tam Tạng nghe nói sửng sốt, nắm tay níu áo Bá Khâm, giọt lụy
chứa chan, khó liệu bề lui tới.
Hai người đang dục dặc, xảy nghe tiếng kêu dưới chân núi vang
trời:
- Cha chả là may! Thầy tôi đà đi tới.
Tam Tạng nghe tiến kêu như sấm, bắt mọc óc cùng mình.
Lưu Bá Khâm không biết ai kêu, đứng lóng tai nghe thử.
Hồi 14:
Núi Lưỡng giới, thần hầu thoát nạn
Ðường Tây Phương, thầy tớ băng ngàn
Khi ấy Tam Tạng và Lưu Bá Khâm đương đứng ngẩn ngơ, lại nghe
kêu nữa rằng: - Thầy ta đà tới đó.
Mấy đứa đầu tớ nói:
- Tiếng kêu lớn đó chắc là con vượn già trong hộp đá dưới
chân núi.
Lưu Bá Khâm nói:
- Phải đó, phải đó.
Tam Tạng hỏi:
- Sự tích con Vượn già làm sao mà ở trong hộp đá?
Lưu Bá Khâm nói:
- Hòn núi nầy khi trước gọi là núi Ngũ Hành Sơn. Bởi vua Ðường
đánh Tây liêu rồi cải tên lại là núi Lưỡng giới, ông già bà cả nói lại lúc
Vương Mãng soán nhà Hớn, thì hòn núi nầy ở trên trời rơi xuống đây, đè một con
vượn thần dưới chân non, nằm trong hộp đá. Nghe đồn có thánh thần ở giữ, cho nó
ăn sắt cục, và uống nước đồng, chịu đựng năm trăm năm, đến giờ còn sống, cho
nên tiếng kêu dưới chân nó, chắc là con Vượn già. Không hệ gì đâu, thầy đi với
tôi mà coi thử.
Tam Tạng nghe lời đi tới chân núi, chừng ba bốn dặm đuờng. Thấy
con khỉ đột nằm trong hộp đá ló cổ ra thò tay ngoắt mà hỏi rằng:
- Sao thầy trễ bây giờ mới đến? Thầy tới đây xong lắm, xin
làm phước cứu tôi ra, tôi theo thây tới tây phương thỉnh kinh về Ðông Ðộ.
Tam Tạng ngó thấy con khỉ ấy mỏ dài mặt trơn, mắt lửa tròng
vàng. Cây mọc trong tai, mốc đơm trên trán.
Ấy là:
Ðầu xem hết tóc um sùm cỏ,
Mép thấy không râu xụ xộp rêu.
Lưu Bá Khâm dạn lắm, nhổ dùm cây cỏ rong rêu.
Khỉ ấy nói rằng:
- Xin chú làm ơn mời hòa thượng lại tôi nói chuyện.
Tam Tạng nghe nói, bước tới hỏi rằng:
- Ngươi kêu ta làm chi đó?
Khỉ ấy hỏi:
- Thầy phải Hòa Thượng đi thỉnh kinh chăng?
Tam Tạng nói:
- Ta vâng lệnh vua Ðường, đi thỉnh kinh Tây độ, mà người hỏi
làm chi?
Khỉ ấy nói rằng:
- Tôi là Tề Thiên Ðại Thánh, năm trăm năm trước đánh trời, bị
Như Lai đè cổ xuống đây, nghỉ tội mình cũng đáng, khi ấy Quan Âm Bồ Tát đi tìm
kẻ thỉnh kinh, ngài ghé thăm tôi hồi lâu, tôi cầu khẩn ngài cứu giúp, Quan Âm dặn
tôi rằng: "Ðợi thầy thỉnh kinh tới cứu tôi rồi theo làm đệ tử đến Tây
Phương. Tôi bấy lâu hằng trông, thầy bây giờ mới đến!
Tam Tạng nghe qua mừng lắm, nói rằng:
- Ngươi đã chịu hồi tâm, ta cũng muốn làm phước. Ngặt không
riều búa, biết cứu làm sao?
Ðại Thánh nói:
- Không cần rìu búa làm chi. Có sáu chữ bùa dán tại trân chóp
núi, xin thầy gỡ lá bùa ấy, thì tôi chờ dậy mà thôi.
Tam Tạng day lại nói với Bá Khâm rằng:
- Vậy thời Thái Bảo đi lên chót núi với tôi.
Lưu Bá Khâm nói:
- Biết thiệt hay không mà đi cho mệt.
Ðại Thánh nghe nổi nóng nói lớn rằng:
- Tôi nói thiệt tình, không phải dối trá.
Lưu Bá Khâm dắt Tam Tạng vịn đá trèo non đi một hồi lâu, mới
tới trên chót núi.
Ngó thấy hào quang muôn ngọn, hơi ấm ngàn trùng, có một tấm
đá vuông, trên dán bùa Lục tự, là câu: Án, ma, ni, bác, di, hồng, sáu chữ bạc bằng
vàng.
Tam Tạng quỳ lạy vái rằng:
- Ðệ tử là Trần Huyền Trang, vâng lệnh chúa đi cầu kinh về
Ðông Ðộ, phải phần tôi gỡ bùa Lục tự mà cứu thần hầu, thì xin cho như lời, đặng
dùng người bảo hộ. Nếu nó quen thói dữ mà gạt kẻ tu hành, xin Phật Tổ hiển
linh, cho gỡ lá bùa không đặng. Vái lạy rồi đưa tay nhẹ nhẹ, mà gỡ lá bùa, xảy
có trận gió thơm, thổi lá bùa vàng lên mây bạc, nghe tiếng nói thinh không rằng:
- Ta là thần giữ gìn Ðại Thánh, nay đà mãn hạn, ta đem bùa
dâng lại Như Lai.
Tam Tạng và Lưu Bá Khâm nghe nói thất kinh liền dạy, rồi leo
xuống nói, lại gần hộp đá dựa chân non.
Tam Tạng nói với Ðại Thánh rằng:
- Ta gỡ lá bùa rồi, ngươi tính thế làm sao mà ra đó?
Ðại Thánh mừng rỡ nói rằng:
- Xin thầy chạy cho xa, kẻo tôi dậy, đá đè mà chết.
Lưu Bá Khâm nghe nói, dắt Tam Tạng chạy dài, chừng bảy tám dặm
đường mệt quá đứng dừng lại mà nghỉ.
Ðại Thánh kêu lớn rằng:
- Chạy cho xa nữa.
Hai thầy trò chạy riết một hồi xảy nghe tiếng ầm ầm, dường thể
đổ trời lỡ núi.
Tam Tạng đương kinh hãi thấy Ðại Thánh đến trước mặt.
Quỳ lạy mà nói rằng:
- Bạch cho thầy rõ, tôi đã ra đây lạy thầy bốn lạy.
Rồi bái Bá Khâm mà nói rằng:
- Cám ơn anh đưa thầy đến đây, lại nhổ giùm rong rêu trên mặt..
Nói rồi liền mang gói, đi dắt ngựa cho thầy, chẳng ngờ con ngựa
ấy thấy Ðại Thánh trần truồng mặt mày dữ tợn, ngựa sợ quá chân run cầm cập, đứng
chẳng vững vàng.
Nguyên là Ðại Thánh khi trước làm Bật Mã Ôn, giữ ngựa rồng
cho Thượng Ðế. Nay ngựa phàm thấy mặt, sao cho khỏi giựt mình.
Tam Tạng thấy Ðại Thánh thiệt tình, không làm kiêu cách, liền
kêu mà hỏi rằng:
- Trò ôi, nói thử tên họ cho biết?
Ðại Thánh nói:
- Bạch Hòa Thượng, tôi thiệt họ Tôn.
Tam Tạng nói:
- để thầy đặt tên thánh cho, mới liệu bề kêu gọi.
Ðại Thánh nói:
- Tôi đã có tên thánh, gọi là Ngộ Không.
Tam Tạng mừng rằng:
- Tên ấy tốt lắm, ta thấy tướng nhà gả giống bộ thầy rùa, lấy
chữ ấy làm tên ngoài, gọi là Tôn Hành Giả.
Ðại Thánh nói:
- Tốt lắm, tốt lắm! Hành giả tên mới, xin cứ đó mà kêu.
Lưu Bá Khâm thấy Tôn Hành Giả mang gói muốn đi chẳng phải nói
gạt.
Bá Khâm nói với Tam Tạng rằng:
- Bạch Hòa Thượng, kiếm học trò tốt lắm, tôi hết sức vui mừng,
đã có người tùy tùng, tôi xin trở lại.
Tam Tạng cũng từ giã kẻ tới người lui.
Hành Giả mời Tam Tạng lên yên, mình mang gói đi theo sau ngựa;
một hồi lâu qua khỏi núi Lưỡng Giới có một con cọp đói, nhảy ra há miệng đập
đuôi, hà hà xốc tới. Tam Tạng nhớ lời Bá Khâm nói, ngồi trên yên ngựa mà run.
Tôn Hành Giả cười rằng:
- Thầy sợ nó hay sao? Ấy là nó nạp quần áo cho tôi đó.
Liền để gói đồ xuống, móc cây kim trong lỗ tai ra, cầm trong
tay dồi lên lớn gần bằng miệng chén, cầm thiết bảng mà cười rằng:
- Vật báu này hơn nửa ngàn năm, chẳng hề xài đến, nay đem ra
đánh thử mà kiếm áo quần.
Rồi chỉ cọp mà nói rằng:
- Tao đố mầy chạy khỏi.
Cọp thất kinh mọp xuống Hành Giả đập bể đầu.
Tam Tạng thấy thất kinh nhào xuống ngựa, cắn móng tay mà than
rằng:
- Trời ơi! Hôm qua Lưu Thái Bảo hơn nửa ngày mới đánh đặng một
hùm, bữa nay Tôn Hành Giả mới đập một heo mà chết tươi con cọp! Ấy là kẻ mạnh hởi
còn kẻ mạnh hơn, anh hùng cũng có anh hùng nữa.
Tôn Hành Giả kéo cọp lại nói rằng:
- Xin thầy ngồi nghỉ chân đợi tôi may quần áo.
Nói rồi nhổ một cái lông, thổi mà làm phép, miệng hô:
"Biến biến!" Hóa ra một con dao phay, lấy dao lột da hùm, cắt làm hai
tấm, cuốn một tấm cất, rồi còn một tấm làm chăng mà bậu, bức dây cổ rùa làm sợi
dây lưng.
Rồi thưa với Tam Tạng rằng:
- Thôi thầy lên ngựa mà đi, đặng kiếm xóm mượn kim may áo.
Nói rồi thâu thiết bảng, còn nhỏ tợ cây kim cút, liền để
trong lỗ tay mang gói đi theo sau ngựa, Tam Tạng hỏi:
- Cây thiết bảng đánh cọp, nhà ngươi bỏ đi đâu.
Hành Giả cười rằng:
- Nguyên thầy không rõ, để tôi bạch lại cho rành: Cây thiết bảng
này ở dưới Long vương gọi là Như ý kim cô bổng. Cũng nhờ có nó, nên tôi mới dám
đánh trời. Nó biến hóa vô cùng. Muốn to thì nó to, muốn nhỏ thì nó nhỏ, tôi mói
thâu lại mà cất trong lỗ tai, tới chừng nào có việc mới lấy ra. Dù mình muốn lớn
chừng nào, thì nó lớn theo chừng nấy.
Tam Tạng nghe nói mừng thầm mà hỏi rằng:
- Hồi nãy cọp thấy nhà ngươi sao không dám cự?
Tôn Hành Giả nói:
- Tôi là đệ tử không dám dấu thầy, chẳng kì cọp sợ mà thôi, dầu
rồng gặp tôi cũng không dám cục kịch, tôi có phép đánh rồng thâu cọp, lại có
tài tát biển xô non, tôi biến hóa đủ điều, cộng bảy mươi hai phép, độn thổ đằng
vân còn được, sá gì đánh cọp mà khen.
Tam Tạng nghe nói lòng mừng, không sợ yêu tinh bắt nữa. Liền
lên yên giục ngựa, đi một hồi lâu, vừng ô lặng khuất non Ðoài, bóng thỏ mọc lên
hướng Chấn, thấy xa xa có vườn rậm chắc chỗ ấy có nhà người.
Tôn Hành Giả nói:
- Thầy vào đó ngủ nhờ đợi sáng sẽ đi cho thẳng buổi.
Tam Tạng nói phải, giục ngựa đi theo Tôn Hành Giả bước vào
kêu chủ nhà mở cửa. Ông già nghe kêu cửa, chống gậy đi ra, mở cửa dòm thấy tướng
dị kì, tợ Thiên Lôi mới xuống.
Ông già ấy tay chân bủn rủn, mặt mũi điếng xanh, miệng la bài
hải rằng:
- Có quỷ tới, có quỷ tới!
TamTạng thấy vậy nói rằng:
- Xin chủ nhà đừng sợ, nó không phải yêu quỷ, ấy là học trò
tôi.
Ông già ấy thấy thầy Tam Tạng mặt mày vui vẻ, lời nói hiền
lành, liền hỏi rằng:
- Thầy là người nhân đức sao đem ăn cướp đến nhà tôi.
Tam Tạng nói:
- Tôi là sãi nước Ðường, đi thỉnh kinh bên Tây Ðộ, lỡ đường
trời tối, ngủ đậu nhà lành, xin ông chủ làm ơn giúp kẻ lỡ chân trái bước.
Ông chủ nhà nói:
- Thầy thiệt người nước Ðường, tôi đành cho ngủ đậu. Còn bột
Thần trùng đó, chắc không phải ở nước Ðường.
Tôn Hành Giả hét lớn rằng:
- Thằng già này quáng nhản, nên coi chẳng thấy người, thầy ta
ở nước Ðường, còn ta là đệ tử, không nước phải nước đường nước mật chi hết. Ta
là Tề Thiên Ðại Thánh, nằm trong hộp đá bấy lâu, nhà ngươi cũng từng xem, nhìn
thử phải hay không phải? Ông già ấy nhớ trực nói rằng:
- Tôi coi thì cũng giống vượn già, vì cớ nào mà ra đặng?
Tôn Hành Giả thuật chuyện lại, ông già nghe rõ, liền mời Tam
Tạng vào trong, đãi trà đãi nước, rồi hỏi thăm Hành Giả rằng:
- Ðại Thánh nè, ông đặng bao nhiêu tuổi?
Tôn Hành Giả hỏi lại rằng:
- Mà mày mấy tuổi đó?
Ông già nói:
- Nhờ trời nhờ phật, tôi sống đặng một trăm ba.
Tôn Hành Giả nói:
- Coi bộ mày già còm, mà tuổi không bằng thằng cháu nội ta
đó! Tuổi ta sắp trước không tính làm chi, kể từ nằm trong hộp đá đến nay, năm
trăm năm có lẻ.
Ông già nói:
- Tôi có nghe ông nội tôi nói lại rằng, hòn núi này trên trời
rớt xuống, đè một vị thần hầu nằm cho tới đời này mới xuất thân ra đặng!
Ai nấy nghe nói đều cất tiếng cười vang, ông già ấy cũng hiền
lành, hối trẻ dọn cơm chay mà đãi.
Tôn Hành Giả hỏi:
- Cháu họ chi đó vậy?
Ông già nói:
- Tôi là họ Trần.
Tam Tạng nghe nói mừng rằng:
- Nếu vậy tôi cũng đồng tông với ông đó.
Ông già nghe nói đồng tánh, lại mừng rỡ hơn xưa, Tôn Hành Giả
nói:
- Lão Trần quái gì đó, xin làm ơn một phen, ta nằm vạ năm
trăm năm nay, không có tắm gội gì hết, xin hâm giùm vài bồn nước, thầy trò ta tắm
một hồi, đến chừng gần đi sẽ tạ ơn luôn thể.
Ông già hối cháu hâm nước đem ra chỗ vắng, thầy trò tắm rửa
xong rồi.
Tôn Hành Giả lại nói với ông già rằng:
- Thế nầy phải làm ơn luôn thể, cho mượn chỉ và kim.
Ông già lấy kim, chỉ đem ra trao cho Hành Giả.
Hành Giả ngó thấy cái áo lá của Tam Tạng mới cởi ra đó lấy mà
mặc vào mình, rồi mở cái chăn da cọp ra, ngồi chồm hổm mà làm thợ khéo, may cái
quần dài lắm, bận tới nách mặc vào tử tế, lại trước mặt Tam Tạng mà thưa rằng:
- Thầy nhắm tôi bữa nay với hôm qua ra thể nào?
Tam Tạng khen rằng:
- Thiệt phải người Hành Giả nên ăn mặc như vầy, thôi, cái áo
lá nầy, cho nhà ngươi luôn thể.
Tôn Hành Giả mừng rằng:
- Tôi đội ơn thầy lắm.
Nói rồi cho ngựa ăn cỏ, đến khuya mới nghỉ ngơi.
Vừa rạng ngày sau, thầy trò thức dậy, ông già dọn cơm nữa, thầy
trò ăn uống xong rồi, đồng tỏ việc cám ơn.
Tôn Hành Giả dắt đường đi trước, Trần Huyền Trang cởi ngựa
theo sau, đi mãn thu qua đông, đà hết mưa tới nắng.
Thầy trò đương đi dựa núi, gặp sáu thằng ăn cướp đón đường thẳng
vác giáo, đứa cầm gươm, kẻ cấp cung ba tên xách búa, đồng hét lớn rằng:
- Lão Hòa Thượng đi đâu? Hãy để gói đồ lại đó, và dâng con ngựa
mà thế mạng hai người.
Tam Tạng nghe nói thất kinh, té nhào xuống ngựa.
Tôn Hành Giả hai tay đở dậy, mà nói với thầy rằng:
- Không hề gì đâu, chúng nó nạp áo quần cho thầy trò mình đó.
Tam Tạng hỏi:
- Nhà ngươi lãng tai sao vậy? Nó bảo mình nạp gói đồ cho nó,
chớ phải nó đem quần áo cho mình đâu!
Tôn Hành Giả cười rằng:
- Ấy là thầy thiệt thà, không phải tôi điếc lác, xin thầy coi
đồ giữ ngựa, để tôi ra sức chống ngăn.
Nói rồi Tôn Hành Giả bước tới, xá sáu thằng ăn cướp mà hỏi rằng:
- Chẳng hay các cha cầm gươm vác giáo mà đón đường thầy sãi
làm chi?
Thằng cầm gươm nói rằng:
- Ta là vua núi, thâu thuế đường rừng, nhà ngươi muốn đi qua
phải nạp tiền mãi lộ. Tôn Hành Giả nói:
- Ta cũng là vua núi lâu lắm, sao không nghe tiếng các cha?
Thằng cầm gươm nói rằng:
- Nhà ngươi đầu không thấy mặt, song cũng nghe danh, đã một tụi
với nhau, chẳng giấu chi tên họ. Ta hiện là Nhản Khán Hỉ còn năm người kia hiệu
là Nhỉ Thính Nộ, Bỉ Xú Ái, Thiệt Thường Tư, Ý Kiến Dục, Hân Bổn Ưu.
Tôn Hành Giả nghe nói cười rằng:
- Vậy thì bây là giặc cỏ chưa đáng vua rừng, đã gặp Tôn thần
còn xưng tiểu quỷ, cái tội đón đường đó, chúng bây phải tính cho xong, thôi hãy
đem đồ tang vật đó đặng ta tính êm cho. Ðây chia ra làm bảy phần ta dung toàn
sáu mạng.
Lũ ăn cướp đồng ó lớn rằng:
- Hòa Thượng nầy vô duyên quá! Mình chưa chia của nó, nó muốn
chia của mình.
Ðồng hê một tiếng với nhau, áp lại chém đâm Hành Giả.
Tôn Hành Giả không thèm nói lại, đứng chống nạnh làm thinh để
ăn cướp áp đập đầu, như thầy chùa gõ mỏ. S
áu thằng ấy nói rằng:
- Hòa Thượng nầy đầu nhỏ, cớ sao sọ cúng quá chừng! Gươm chém
không trầy, búa bửa không bể, cây đập sang sảng, không hề hấm chút nào!
Tôn Hành Giả cười rằng:
- Bây đánh đả mỏ, để ta lấy kim cho chúng bây coi thử.
Sáu thằng ăn cướp nói rằng:
- Bộ thầy chùa nầy biết lể đạn, nên mới sắm kim, chúng ta
không mắc ban cua, hòa thượng đừng quen lể ốc.
Tôn Hành Giả móc trong lỗ tai lấy cây kim nhỏ, dồi lên một
cái hóa ra thiết bảng tức thì, cầm giơ lên mà nói rằng:
- Chúng bây đừng chạy, để ta đánh thử một hèo.
Mấy thằng ăn cướp thất kinh, chạy quên tên quên tuổi.
Tôn Hành Giả rượt theo như ngựa, đập chết hết sáu thằng, liền
lột áo quần, và lấy tiền bạc cười ha hả, trở lại thưa với thầy rằng:
- Tôi giết hết ăn cướp rồi, xin thầy lên ngựa.
Tam Tạng nói:
- Chúng nó tuy là ăn cướp, giải tới quan có giết có tha,
ngươi có tài cao, đánh đuổi đi mới phải, lẽ đâu giết sáu mạng, sao gọi là Hòa
Thượng?
Tôn Hành Giả nói:
- Nếu tôi không giết nó, thì nó lại giết thầy.
Tam Tạng nói:
- Ta là người tu niệm, phải giữ việc hiền lành, thà chịu chết
cũng ưng, chớ không dám sát nhân hại vật.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
- Tôi là đệ tử không dám giấu thầy, năm trăm năm trước, tôi
xưng vua xưng chúa, giết người chẳng biết bao nhiêu, nếu nói như thầy, tôi chẳng
làm không đặng Tề Thiên đại thánh.
Tam Tạng nói:
- Bởi vì ngươi không kể trời đất, nên Phật đày nằm dưới chân
núi hơn mấy trăm năm; nay đã tu hành, phải cải ác tùng thiện. Nếu không chừa
thói dữ, thì không đặng là Hòa Thượng, đi sao cho thấu tây phương.
Tam Tạng cằn rằng hoài, cả canh cả buổi.
Nguyên Hành Giả là cốt khỉ, tánh không chịu ai ngầy, thấy Tam
Tạng nói nhỏ nói to, cà riềng cà tỏi, nín hoài không đặng, trợn con mắt giộc mà
nói rằng:
- Thầy nói tôi làm không đặng Hòa Thượng, đi không tới Tây
Phương, thôi thầy chẳng nói cằn rằn làm chi, để tôi trở về cho rảnh.
Tam Tạng chưa kịp nói lại, Tôn Hành Giả nói lớn rằng:
- Tôi đi đó.
Vùng nhảy lên một cái, bay thẳng về hướng Ðông.
Còn Tam Tạng bơ vơ quạnh quẻ, gật đầu mà than rằng:
- Cái người làm sao, chẳng biết nghe lời dạy dổ, mình mới nói
ít lời ít tiếng, nó liền đi mất dạng mất hình. Tại số mình không có học trò, mặc
ý ở đi cũng phải.
Liền ngâm hai câu rằng:
Ðã đành liều mạng tìm kinh Phật,
Lựa phải cầu người dẹp lũ ma.
Tam Tạng lấy gói đồ gác lên lưng ngựa, một tay thì chống gậy,
một tay cầm cương ngựa dắt đi. Nghỉ vừa khóc vừa than, đi thất thơ thất nghiệp,
ước chừng một lát, thấy bà già bên núi bước ra, tay cầm cái áo gấm vải của thầy
chùa và một cái mão, Tam Tạng ngó thấy, dắt ngựa tránh bên đường.
Bà già ấy nói rằng:
- Phật ở tại Tây Phương, chùa Ðại Lôi Âm, về nước thiên trước,
đường xa mười muôn tám ngàn dặm, không phải là gần, không kẻ tùy tùng, đi một
ngựa một mình sao tới.
Tam Tạng nói:
- Tôi có một người đệ tử mà tánh dữ như yêu, tôi khuyên dạy
vài lời, mà nó không chịu phép, bỏ đi mất, tôi không biết tính làm sao!
Bà già nói:
- Ta có một cái áo vải gấm, và một cái mão vàng, ấy là của
con ta lên chức Hòa Thượng ba ngày mà tịch, ta mới qua chùa nó mà khóc một hồi,
rồi đem áo mão nầy về, để làm dấu tích, như thầy có đệ tử, ta xin cúng hết vật
nầy.
Tam Tạng nói:
- Tôi cũng cám ơn bà, ngặt vì học trò tôi đã trốn rồi, nên
không dám lãnh.
Bà già nói:
- Nó đi về phía nào đó?
Tam Tạng nói:
- Nghe nó hú một tiếng, rồi bay về hướng đông.
Bà già nói:
- Ta cũng ở phía đông, chắc là nó ghé nhà ta đó, ta có một ít
câu thần chú, gọi là Ðịnh tâm chơn ngôn. Thầy phải học thuộc lòng đừng nói cho
ai hay hết, để ta đi kêu nó, làm sao nó cũng trở về, thầy cho nó mặc áo ấy, đội
mão nầy, sao cũng phải gạt cho nó đội, như nó nghe lời thì tốt, bằng cãi lời
thì niệm chú định tâm, niền vàng trên mão bóp riết vô màng tang, nó sợ nhức đầu
thì phải chịu phép.
Tam Tạng nghe nói liền lạy tạ ơn.
Bà già truyền thần chú rồi liền hóa ra hào quang bay về phía
mặt trời.
Tam Tạng biết là Quan Âm hiện xuống truyền thần chú, liền lạy
thinh không mà tạ ơn, rồi lấy áo mão cất vào trong gói, ngồi xếp bằng bên lộ, tập
mấy câu thần chú cho nhuần.
Còn Tôn Hành Giả từ khi giận thầy, bay về Ðông hải, nhảy đùng
xuống biển, vào viếng Long vương.
Ngao Quảng hỏi rằng:
- Nghe Ðại Thánh đã mãn hạn rồi, có khi về động Thủy Liêm mà
sửa sang núi Hoa Quả?
Tôn Hành Giả nói:
- Tôi cũng có ý đó, ngặt vì làm Hòa Thượng lở rồi.
Ngao Quảng hỏi rằng:
- Vì cớ nào làm Hòa Thượng?
Tôn Hành Giả nói:
- Tôi cũng nhờ Quan Âm bồ tát, biểu theo thầy Tam Tạng thỉnh
kinh, nên đã làm Hòa Thượng rồi, đặt tên là Hành Giả.
Ngao Quảng nói:
- Tôi mừng cho Ðại Thánh, đã bỏ tà theo chánh, thì thành Phật
về tiên, sao chẳng tới Tây Phương, lại trở về Ðông hải?
Tôn Hành Giả cười rằng:
- Tại thầy Tam Tạng lạ lắm, tôi giết mấy thằng ăn cướp, thẩy
nhiếc tôi không biết bao nhiêu. Tánh tôi không chịu ngầy ngà, nên tính về quê
cũ, tiện đường vào uống nước, và thăm viếng người xưa.
Ngao Quảng nghe nói, truyền đem trà nước đãi đằng.
Tôn Hành Giả thấy bức tượng treo phía bên kia, liền hỏi rằng:
- Bức họa đồ chi đó?
Ngao Quảng nói:
- Tích nầy Ðại Thành chưa rõ, để tôi cắt nghĩa cho rành: Ông
tiên nầy là Huỳnh Thạch Công. Người nhỏ nầy là Trương Lương đời Hán, Huỳnh Thạch
Công đi trên cầu Hạ bị làm rớt dép, biểu Trương Lương lượm lên. Trương Lương lấy
dép trao liền, Huỳnh Thạch Công đưa chân ra biểu mang luôn thể. Rồi đi vài bước,
cũng làm rớt xuống cầu. Huỳnh Thạch Công biểu Trương Lương lượm nữa, làm ba lần
như vậy, Trương Lương trao đủ vừa ba. Sau Huỳnh Thạch Công cho Trương Lương ba
cuốn binh thơ, đến lớn làm quân sư phò vua Hán Cao Tổ gom thiên hạ về một mối,
vua phong đến chức Lưu hầu Ðến sau Trương Lương từ chức theo Tiên, là ông Xích
Tòng Tử. Nên người vẽ tượng Tị kiều tam tấn lý. Nghĩa là: Tại sông Tị, Trương
Lương dâng dép ba lần. Nếu Ðại Thánh chẳng nghe lời thầy, ví như Trương Lương
không chịu dâng dép, thì làm quỷ khó thành Phật thành Tiên.
Tôn Hành Giả nghe nói, ngồi ngẩm nghĩ một hồi.
Ngao Quảng thấy vậy thì nói rằng:
- Ðại Thánh chớ vùng vằng, phải tính cho sấn sướt, nếu vui
đâu chúc đó, thì uổng công tu.
Tôn Hành Giả nói rằng:
- Ông đừng nói nhiều lời, tôi xin kiếu đi lập tức.
Nói rồi nhảy lên mặt biển, xảy gặp Quan Âm.
Quan Âm hỏi rằng:
- Ngộ Không! Sao ngươi chẳng theo Tam Tạng, qua cảnh Phật thỉnh
kinh? Hãy còn xuống biển lên mây làm công việc chi đó?
Tôn Hành Giả liền cúi lạy mà nói rằng:
- Tôi đội ơn Bồ Tát, thiệt có thầy Tam Tạng, tới gở lá bùa.
Tôi ra khỏi núi rồi, cũng làm đệ tử. Tôi đánh chết sáu thằng ăn cướp, bị ngầy
ngà cũng nhức xương. Nên tôi đi rảo một hồi, rồi cũng trở lại bảo hộ.
Quan Âm nói rằng:
- Ngươi hãy đi cho kiếp, kẻo thú dữ hại người.
Tôn Hành Giả từ tạ, đằng vân đi theo Tam Tạng.
Nói qua Tôn Hành Giả, về thấy thầy ngồi buồn bực, bước ra trước
mặt hỏi rằng:
- Sao thầy không đi Tây Phương, ngồi làm cho đó vậy?
Tam Tạng ngó thấy liền nói rằng:
- Không biết ngươi đi đâu? Nên phải ngồi đây mà đợi.
Tôn Hành Giả nói:
- Tôi khát nước quá, nên xuống Long vương Ðông hải mà xin vài
chén nước trà. Tam Tạng nói:
- Mình là kẻ tu hành, chẳng nên nói dối, nãy giờ có một lát,
lẽ nào qua Ðông hải mà về?
Tôn Hành Giả cười rằng:
- Tôi có phép đằng vân mau lắm, nhảy một cái tới mười muôn
tám ngàn dặm, gọi là Cân đẩu vân. Giá biểu đông có bao xa, mà đi không tới.
Tam Tạng dỗ rằng:
- Ta mới nói đặng một chút, mà ngươi bỏ đi. Ngươi có tài kiếm
đặng nước trà, ta chịu phép ngồi đây nhịn đói.
Tôn Hành Giả nói:
- Như thầy đói bụng thì ngồi đó, đợi tôi vào xóm xin cơm.
Tam Tạng nói:
- Chẳng đi xin làm chi, sẳn cơm khô trong gói, lấy cái bình
bát, đi múc nước, về ăn uống đỡ lòng.
Tôn Hành Giả mở gói ra, thấy bánh in nhiều lắm. Soạn chưa tới
cái bình bát, thấy áo mão để trên, xem qua lạnh lùng, coi lòa con mắt.
Tôn Hành Giả hỏi:
- Thưa thầy áo mão nào tốt dữ vậy, hay là đồ ở bên chùa?
Tam Tạng nói xuôi rằng:
- Ðồ ta mặc và đội hồi mới làm thầy, đội mão nầy không học
kinh cũng thuộc kinh, mặc áo nầy không biết lễ, cũng thông lễ.
Tôn Hành Giả nói:
- Ðường Tây Phương xa lắm, đầu đuôi có hai thầy trò, còn để
dành làm chi, xin cho bận thử.
Tam Tạng nói:
- Ngươi mặc vừa thì mặc, ta không để làm chi.
Tôn Hành Giả đội mão mặc áo vào.
Tam Tạng mừng hết sức, không ăn cơm ăn bánh, cứ ngồi miệm chú
Ðịnh tâm.
Tôn Hành Giả la lớn rằng:
- Cha chả! Nhức đầu lắm, nhức đầu lắm, chắc là bể sọ đi mà
thôi.
Tam Tạng thấy vậy niệm hoài.
Tôn Hành Giả nhào lăn dưới đất, cái niền vàng bóp riết, gần lủng
màng tang, Tôn Hành Giả tằn mằn gở hoài không đặng.
Tam Tạng sợ gỡ hư mão, thôi niệmchú Ðịnh tâm.
Tôn Hành Giả hết nhức đầu, lấy tay rờ trên trán, cái niền
vàng bằng sợi chỉ, mà bức không ra, đụng tới thì đau đứt ruột, Tôn Hành Giả hết
phương phép, lấy cây kim trong lỗ tai ra, cầm mà cạy cái niền vàng, nhưng cạy
hoài không đặng, Tam Tạng sợ xeo đứt, liền niệm chú Ðịnh tâm, Tôn Hành Giả liền
nhức đầu, đứng khòm xuống như xe chổng gọng, đỏ tai đỏ mặt, sưng mắt sưng đầu.
Tam Tạng thấy vậy động lòng thôi niệm thần chú Tôn Hành Giả hết
nhức đầu tức thì, Hành Giả nói:
- Nếu vậy thời tôi nhức đầu đây, là tại thầy rủa đó.
Tam Tạng nói:
- Ta niệm thần chú Ðịnh tâm, ai rủa xả nhà ngươi mà làm dữ.
Tôn Hành Giả nói:
- Ðâu thầy niệm lại thử coi?
Tam Tạng niệm vài câu, Hành Giả nhức đầu quay quắt, liền la lớn
lên rằng:
- Nhức quá chừng, nhức quá chừng, đừng niệm nữa, đừng niệm nữa!
Ðó, dù vậy thầy nói không phải rủa làm sao? Hễ niệm chú thì
nhức đầu, thôi niệm thì hết, tôi đã rõ biết, thầy còn giấu làm chi?
Tam Tạng hỏi rằng:
- Từ rày sắp lên, ngươi nghe lời hay không thì nói?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
- Tôi nghe lời không dám cãi.
Tam Tạng hỏi:
- Ngươi còn vô phép nửa thôi?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
- Không dám, không dám!
Tuy ngoài miệng thì nói vậy, mà trong lòng giận biết chừng
nào, liền lấy thiết bảng ra muốn đập Tam Tạng.
Tam Tạng thất kinh niệm thẳng, Hành Giả nhức đầu quá té nhào,
buông cây thiết bảng tức thì ôm đầu la mãi, liền nói với Tam Tạng rằng:
- Tôi đã biết rồi, xin thầy đừng niệm nữa.
Tam Tạng hỏi:
- Ai cứu nhà ngươi khỏi nạn, bây giờ lại muốn giết ta?
Tôn Hành Giả nói:
- Tôi không phải dám đánh thầy, lấy thiết bảng ra có chuyện.
Tôi xin hỏi thiệt, ai truyền phép ấy cho thầy?
Tam Tạng nói:
- Bà già hồi nãy truyền phép ấy cho ta.
Tôn Hành Giả giận rằng:
- Thôi thầy đừng nói nữa làm chi, tôi biết Quan Âm giả bà già
ấy. Bả giỏi bực nào đó? Ðể tôi lên Nam Hải mà đánh báo thù.
Tam Tạng nói:
- Ngươi là con khỉ ngày, nói nghe không lắm, ngài đã truyền
thần chú, lẽ nào ngài không biết hay sao?
Nếu ngươi mang mặt tới nói, ngài niệm chú nhức đầu mà chết!
Tôn Hành Giả gật đầu nói rằng:
- Phải phải.
Liền quỳ xuống khóc mà năn nỉ rằng:
- Thầy ôi, ấy là ngài truyền thần chú, mà bó buộc tôi, đặng bảo
hộ thầy, đi tới Tây Phương Phật. Thôi tôi không cố oán, còn thầy đừng niệm chú
làm chi, tôi tình nguyện theo hoài không dám cãi lời dạy dỗ.
Tam Tạng nói:
- Ngươi có lòng thành như vậy, ta còn niệm chú làm chi. Thôi,
sửa soạn mà đi, không nên trễ nãi.
Hồi 15:
Núi Xà Bàn, các thần giúp sức
Suối Ưng Sầu, con ngựa gò cương
Bây giờ nói về Tôn Hành Giả, thiệt tình phò Tam Tạng đi thỉnh
kinh, đi lần lần thu mãn đông sang, lẩn bẩn qua đầu tháng chạp.
Khi trời đông ghê gớm, hơi gió bấc lạnh lùng. Phần thì lội suối
trèo non, thêm nổi qua truông xuống dốc.
Tam Tạng ngồi trên lưng ngựa, nghe nước chảy ồ ồ, ngó ngoái lại
hỏi Tôn Hành Giả rằng:
- Nước suối nào chảy hung vậy?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
- Tôi có nhớ chỗ này là hòn núi Xà Bàn. Có suối Ưng Sầu dựa
núi, cho nên nước chảy ồ ồ".
Nói chưa dứt lời, ngựa đi gần tới suối.
Tam Tạng gò cương coi nước chảy, thấy giữa suối vung một cái
đùng, liền nổi sóng tư bề, dường như biển cả, hiện lên một con rồng nhỏ, bộ tướng
dữ dằn, chờn vờn lên bờ mà chụp Tam Tạng.
Tôn Hành Giả quăng gói xuống ẳm thầy mà chạy như giông, con rồng
đắc thế rượt theo, nhắm bề không kiệp, trở lại bắt ngựa kim mà nuốt, làm luôn
và lạc và yên, ăn đã no nê, mới trầm mình xuống suối.
Tôn Hành Giả chạy xa một đổi, kiếm bàn thạch cho thầy ngồi.
Trở lại dắt ngựa lấy đồ, mới thấy đồ còn, ngựa mất, liền gánh đồ trở lại thưa với
thầy rằng:
- Con rồng đã biến mất rồi, nó dọa ngựa mình chạy mất. Xin thầy
ngồi đó đặng tôi kiếm ngựa đem về.
Nói rồi nhảy lên mây, ở nửa lừng dòm xuống, nheo con mắt giộc,
coi không sót chỗ nào. Thấy những là nai gấu hùm beo, kiếm không đặng ngựa liền
nhảy xuống thưa với thầy rằng:
- Thầy ôi, con ngựa của mình chắc bị rồng yêu nuốt sống, coi
khắp rừng khắp núi không thấy dạng thấy hình.
Tam Tạng nói:
- Miệng con rồng bao lớn, nuốt luôn và ngựa và yên? Thế nó trốn
trong kẹt đá chân non, ngươi gắng công kiếm lại.
Tôn Hành Giả nói:
- Thầy chưa rõ, để tôi thưa lại cho rành, cặp con mắt của
tôi, coi xa ngàn dặm. Cánh chuồng chuồng là mỏng, tôi cũng thấy rõ ràng. Huống
chi con ngựa sầm sầm, chẳng phải quáng manh mà không thấy?
Tam Tạng nghe nói than rằng:
- Nếu nó nuốt con ngựa rồi, ta đi bộ làm sao cho thấu. Tội
nghiệp quá! Con ngựa công lao mà bị chết, dặm trường diệu vợi thiệt khôn đi.
Nói rồi thở vắn thở dài, khóc hoài khóc hũy.
Tôn Hành Giả thấy thầy than khóc nổi xung mà nói rằng:
- Thầy hãy nín ngồi đây, để tôi xuống kiếm rồng đòi ngựa.
Tam Tạng níu lại nói rằng:
- Trò đừng có đi, sợ nó lén bòø lên mà ăn thịt thầy nữa, nếu
ngựa người đồng bộ vô bụng nó, thì làm sao mà đi đến Tây Phương.
Tôn Hành Giả nổi nóng hét lớn rằng:
- Thầy thiệt bất nhân quá! Ngựa thời cũng muốn cởi, mà không
nới tôi ra, nếu vậy thì thầy trò cứ ngồi kỳ, giữ gánh đồ cho tới chết.
Hai thầy trò đương dục dặc xảy nghe tiếng nói thinh không rằng:
- Tôn Hành Giả chớ ngầy, Ðường ngự đệ đừng khóc, Phật Quan Âm
sai chúng tôi xuống, mà phò hộ kẻ thỉnh kinh.
Tam Tạng nghe nói lau nước mắt mà lạy khang, Tôn Hành Giả hỏi
rằng:
- Các ngươi là thần gì, xưng tên cho ta rõ.
Các thần nói:
- Ta là thần Lục đinh Lục giáp, năm phương Yết Ðế, bốn vị
Công Tào, chúng tôi thay phiên đi theo bảo hộ.
Tôn Hành Giả nói:
- Vậy thời sáu thần Lục đinh, và Công Tào Yết Ðế, ở đây bảo hộ
thầy ta. Ðặng Lão Tôn đi kiếm con rồng đòi con ngựa.
Các thần nói:
- Có chúng tôi bảo hộ không hề gì đâu.
Tam Tạng nghe nói hết lo, ngồi một mình trên bàn thạch.
Còn Tôn Hành Giả xách thiết bảng đi tới mé suối, mà kêu lớn rằng:
- Bớ con rồng ăn trộm, trả con ngựa cho tao.
Cứ đứng kêu hoài, vang trời vang đất.
Còn con rồng, đói bắt đặng ngựa ăn no, xuống đáy suối nằm
khoanh không thèm lên nữa. Xảy nghe tiếng kêu réo, tức thời nổi sóng trèo lên hỏi
rằng:
- Mầy là thằng nào đó, ở đâu dám tới đây? Không ai mắc nợ mắc
nần, cứ réo hoài réo hũy?
Tôn Hành Giả ngó thấy, hét lớn rằng:
- Tao ở đâu thì tao ở, mầy tra hỏi làm chi? Phải trả ngựa cho
tao.
Nói rồi đập một cây thiết bảng.
Rồng chờn vờn đỡ ra, hả miệng nhăn nanh, hai đàng đánh dựa suối
hồi lâu, rồng ráng đà hết sức, tính bề không cự lại, lặn xuống suối trốn đi.
Tôn Hành Giả giận quá, chưởi mắng nát tan, rồng giả đò lãng
tai không dám ló đầu lên nữa.
Tôn Hành Giả mắng mỏi miệng, về thưa lại cho thầy hay. Tam Tạng
nói:
- Ngày trước ngươi đánh cọp, khoe tài bắt đặng rồng, thế con
rồng nầy là chúa đoàn, nên ngươi bắt không đặng?
Tôn Hành Giả nghe thầy nói khích, nổi gan mà hét lớn rằng:
- Ðừng nói nữa, đừng nói nữa, để phen nầy tôi giết nó cho thầy
coi.
Nói rồi xách thiết bảng tới nơi khuất đục ngầu cả suối.
Con rồng nằm không đặng, nổi gan nhảy lên suối mà mắng rằng:
- Bộ mặt lọ nồi không biết xấu, tới đây làm khỉ với ai?
Tôn Hành Giả nói:
- Mầy trả ngựa cho tao, thì mầy mới còn sống.
Rồng nói:
- Tao ăn con ngựa mầy đà tiêu mất, làm sao mà trả bây giờ? Mầy
làm sao thì làm đi, muốn nói gì thì nói thử?
Tôn Hành Giả nói:
- Tao nói cho con cá chạch biết, nếu mầy không trả ngựa, thì
tao đập chết mà trừ.
Nói rồi giơ thiết bảng đánh liền, rồng cũng nổi xung chụp đại;
đánh hơn một chập mới hay khỉ mạnh hơn rồng. Rồng hóa ra rắn nước, lủi vô bụi cỏ
tức thì, Tôn Hành Giả vạch cỏ kiếm hoài, kiếm không đặng rắn, Tôn Hành Giả tức
mình hết sức, đọc thần chú vội vàng, đòi Sơn thần, Thổ Ðịa, hai người tới đồng
quì trước mặt.
Tôn Hành Giả nói:
- Thôi, hai ngươi cúi xuống đây, đánh năm hèo dằn mặt.
Sơn thần, Thổ Ðịa đồng năn nỉ rằng:
- Bấy lâu tưởng Ðại Thánh còn nằm tại Ngũ Hành sơn, không dè
ngài đến đây nên chẳng ra nghinh tiếp, xin ngài rộng lượng dung thứ một phen.
Tôn Hành Giả nói:
- Ngươi biết lỗi thì ta tha, cũng vị tình nhất thứ. Ngươi nói
cho ta nghe thử, con rồng nào đến ở suối nầy? Nó ăn con ngựa của thầy ta, hóa rắn
nước trốn chui trốn nhũi. Thổ Ðịa, Sơn thần đồng hỏi rằng:
- Như Ðại Thánh là: Chẳng phục trời, không sợ đất, đốt không
cháy, chém không trầy. Sao nay lại có thầy, xin nói ra cho rõ?
Tôn Hành Giả nói:
- Thiệt các ngươi không biết, để ta thuật lại cho mà nghe: Bởi
vâng lệnh Quan Âm làm học trò Tam Tạng. Ði thỉnh kinh bên Tây độ, bị con rồng
ác nghiệp ăn tươi con ngựa của thầy ta.
Sơn thần Thổ Ðịa nói rằng:
- Cái suối nầy, thuở nay không có yêu ở. Suối sâu và rộng, nước
trong như thể mắt mèo. Ó và quạ bay qua, thấy hình dưới mặt nước. Ngỡ một bầy với
nó, bay xuống suối mà chết hoài. Nên gọi rằng suối Ưng Sầu nghĩa là chim ưng
(ó) thường sầu thảm. Năm trước Quan Âm bồ tát, đi tìm kẻ thỉnh kinh, có cứu một
con rồng, biểu ở mà tu dưới suối, không cho làm dữ, chờ người thỉnh kinh sẽ đi
theo, không dè làm nhăn mà nuốt con ngựa của Ðại Thánh.
Tôn Hành Giả nói:
- Nó mới hóa ra rắn nước, trốn vô đám cỏ nầy, không biết vì cớ
nào, tôi kiếm hoài chẳng thấy?
Thổ Ðịa nói:
- Cái suối nầy cả muôn lỗ mội, thiếu chi chỗ nó ẩn mình, thôi
Ðại Thánh đừng nóng giận làm chi, phải thỉnh Quan Âm bắt nó.
Tôn Hành Giả nghe nói biểu Sơn thần, Thổ Ðịa đi theo.
Tôn Hành Giả về thưa các việc cho thầy hay, xin thỉnh Quan Âm
mới đặng.
Tam Tạng nói:
- Nếu đi thỉnh Quan Âm bên Ðông hải, biết chừng nào ngươi trở
về đây? Ta đợi lâu ngày, ắt là chết đói.
Nói chưa dứt tiếng, nghe thinh không có kẻ kêu rằng:
- Ta là thần Yết Ðế đầu vàng nói cho Ðại Thánh rõ, hãy ở giữ
thầy Tam Tạng, để ta đi thỉnh Quan Âm.
Tôn Hành Giả nghe nói mừng rằng:
- Tôi cám ơn lắm.
Bây giờ nói về ông thần Yết Ðế, đến núi Lạc Ðà vào trong rừng
Tử Trước mà ra mắt Quan Âm, rồi thuật hết công việc.
Quan Âm nghe nói, bước xuống tòa sen, đằng vân cùng Yết Ðế,
bay qua khỏi Nam Hải, liền tới núi Xà Bàn, thấy Hành Giả đương kêu réo con rồng,
dựa bên mé suối, Quan Âm sai Yết Ðế kêu Hành Giả tức thì.
Tôn Hành Giả nghe kêu tới liền nhảy lên mây mà nói lớn rằng:
- Ngài là Phật từ bi, hay cứu người tai nạn, sao còn truyền
phép độc mà hại tôi là kẻ tu hành.
- Ngươi là con khỉ lớn mật, không biết ơn ai, ta hết lòng tìm
kẻ thỉnh kinh, mà cứu ngươi khỏi nạn, chẳng biết tạ ơn thì chớ, lại còn cả tiếng
nặng lời.
Tôn Hành Giả nói:
- Bà báo hại tôi hết sức! Ðã cứu tôi khỏi nạn, cũng vâng lời
theo kẻ thỉnh kinh. Sao bà lại bất nhân, để cái kim cô trên mão, gạt tôi đội
mão ấy, truyền niệm chú nhức đầu. Phải là bà hại sanh cầu, sao gọi là từ bi cứu
khổ?
Quan Âm nghe nói cười rằng:
- Ngươi là con khỉ nghịch mạng; nói không chịu phép, dạy chẳng
nghe lời. Nếu chẳng niền đầu, thì làm hung như trước, chẳng nghe lời thầy dạy
biểu, nói động thì đi. Phải cho đội kim cô mới biết kiên thần chú.
Tôn Hành Giả nói:
- Bà đã niền đầu con khỉ sao không niệt cổ con rồng, nuôi nó ở
suối nầy, rượt thầy tôi chạy chết, lại ăn tươi con ngựa, bà không nói động chút
nào? Còn riêng dạ ghét thương, sao gọi công bình chánh trực.
Quan Âm nói:
- Con rồng ấy có tội, ta xin mới còn hồn, biểu ở đây mà chờ,
sau làm ngựa cho thầy ngươi cởi. Nếu con ngựa phàm tục đi sao tới Tây Phương,
làm sao mà mất lẻ công bình, mà gọi rằng thương ghét?
Tôn Hành Giả nói:
- Nó sợ tôi đà trốn mất, bây giờ biết tính làm sao?
Quan Âm bảo Yết đế rằng:
- Ngươi xuống mé suối mà kêu lớn như vầy: Bớ rồng ngọc, là
thái tử thứ ba, có phật Quan Âm đòi, phải lên lập tức.
Yết Ðế vâng lời, xuống kêu như vậy.
Con rồng ngọc nổi sóng, lên khỏi suối, hóa hình người, lên
mây lạy Quan Âm mà bạch rằng:
- Tôi nhờ ơn thầy cứu nạn, vâng lời ở lại suối nầy, hằng ngày
mắt ngó lom lom, không thấy kẻ thỉnh kinh đi đến.
Quan Âm chỉ Tôn Hành Giả mà nói rằng:
- Ấy là học trò thầy thỉnh kinh đó.
Tiểu long nói:
- Bạch Bồ Tát, người ấy dữ tợn lắm, hôm qua tôi đói quá, ăn
con ngựa của y, bị đánh chưởi cả ngày, không nghe nói thỉnh kinh một tiếng.
Tôn Hành Giả trợn con mắt giộc mà nói rằng:
- Tại mầy không hỏi tên họ, tao chẳng lẻ khi không mà nói.
Tiểu long nói:
- Tao có hỏi: Mầy là thằng nào đó? Ở đâu dám tới đây? Mầy
nói: Tao ở đâu thì tao ở, mầy tra hỏi làm chi, phải trả ngựa cho tao. Nói rồi
liền đánh bổ, tại mầy không thèm nói, phải tại tao không hỏi hay sao?
Quan Âm nói:
- Cũng tại con khỉ già làm phách, đời nào chịu mượn tiếng ai.
Ta dặn cho: Từ nầy sắp sau hãy còn người theo nữa. Nếu gặp ai hỏi tới, thì phải
nói đi thỉnh kinh, hoặc khi gặp người của ta, thì khỏi mất công đánh đập.
Tôn Hành Giả dạ luôn ba bốn tiếng.
Quan Âm lấy trái châu dưới cổ Tiểu Long, rồi lấy cành dương
nhúng nước cam lồ rảy trên mình nó, thổi một hơi, hét một tiếng biểu biến, liền
biến ra con ngựa kim, Quan Âm dặn rằng:
- Ngươi phải hết lòng đi cho tới Tây Phương Phật thì hóa đặng
mình vàng.
Ngựa ấy ngậm hàm thiết gật đầu.
Quan Âm truyền Hành Giả dắt về cho Tam Tạng.
Quan Âm giả từ về Nam Hải. Tôn Hành Giả níu áo lại mà nói rằng:
- Tôi không chịu đi đâu! Ðường gay khổ quá, dắt ông thầy phàm
tục đi chừng nào cho tới Tây Phương? Hết nạn nầy tới tai kia, sợ tôi không sống
đặng. Thế nầy khó thành Phật, tôi không chịu đi đâu!
Quan Âm nói:
- Khi trước ngươi còn cốt thú cũng bền chí tu hành, ngày nay
khỏi nạn trời, sao lại sanh biếng nhác? Việc tu hành thì chịu cực, dày công quả
mới thành. Thôi để ta cho phép nhà ngươi, đến lúc nghiêng nghèo, kêu trời thì
trời thương, kêu đất thì đất cứu. Thôi, ngươi day lưng lại đây, đặng ta làm
phép cho.
Quan Âm rứt ra ba lá dương, để dưới ót Hành Giả hét lên một
tiếng, biến ra ba sợi lông dài, gọi là lông cứu mạng.
Quan Âm dặn rằng:
- Như lúc nào khốn nạn, có lông tài không đế nổi bỏ mình.
Hành Giả nghe nhiều tiếng nói êm, liền lạy tạ ơn Bồ Tát, Quan
Âm về Nam Hải, Tôn Hành Giả dắt ngựa về thưa với thầy rằng:
- Bạch thầy, con ngựa đó.
Tam Tạng mừng rằng:
- Con ngựa bây giờ, sao phát phì dữ vậy? Kiếm đặng ở đâu đó,
nói lại ta nghe?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
- Thầy nói chuyện chiêm bao sao vậy? Nhờ ông Yết Ðế mời phật
Quan Âm, bắt rồng bạch lấy châu, hóa ngựa kim thế mạng, bữa trước rượt thầy chạy
chết, bây giờ làm bộ hiền lành, nếu sau sanh chứng điều chi, thầy nói cho tôi
đánh nó.
Tam Tạng nghe nói, lượm đất làm hương, để trên bàn thạch, lạy
về Nam Hải tạ ơn. Tôn Hành Giả nói:
- Chư thầy giúp việc đã xong, nay ở đâu về đó.
Nói rồi mời thầy lên ngựa, cất gánh đi theo, đi tới suối Ưng
Sầu vừa muốn cõng thầy mà lội.
Xảy thấy ông câu chống bè thả tới.
Tôn Hành Giả ngoắt mà nói rằng:
- Ông làm ơn một phen, đưa thầy trò tôi qua suối.
Ông câu chống bè lại, Tôn Hành Giả dắt thầy bước xuống bè, rồi
quảy gánh lên vai, dắt ngựa xuống bè xong xả.
Ông câu chống bè mau tợ gió bay, lẹ như tên bắn, tức thì khỏi
suối, tới mé bên Tây. Thầy trò đồng lên bờ, Tam Tạng biểu lấy tiền mà trả.
Ông câu không chịu lãnh chống bè ra giữa suối mù mù.
Tam Tạng chấp tay bái hoài, rằng nhờ ơn đưa đón.
Tôn Hành Giả nói:
- Thầy không biết nên nói ơn nghĩa, nó là thần ở suối nầy, cứ
phép phải đưa qua, đâu dám thâu tiền bạc.
Tam Tạng gật đầu nói phải, liền lên ngựa thẳng xông.
Thầy trò đi hồi lâu, mặt trời chen lặn.
Tam Tạng thấy bên đường có một cái miễu lớn, liền xuống ngựa
ghé vào, thấy trên cửa có treo một tấm biển ba chữa rằng: "Lý Xả từ".
Xảy thấy ông già mang chổi bồ đề ra rước, chắp tay mà nói rằng:
- Xin Hòa Thượng vào trong ngồi nghỉ.
Tam Tạng bái lạy mà hỏi rằng:
- Miễu nầy sao gọi là Lý Xả.
Ông già nói:
- Ðây là nước Hấp Mật, cái đình nầy của xóm làng đứng lập, để
thờ phượng Thổ thần. Chẳng hay thầy ở chùa nào? Mà đi đâu đó?.
Tam Tạng nói:
- Tôi ở Ðông Ðộ, về nước Ðại Ðường, vâng lệnh vua thỉnh kinh,
nay lỡ đường xin ngủ đỡ.
Ông già thấy con ngựa không yên, liền hỏi vì cớ nào vậy?
Tôn Hành Giả thuật chuyện lại, ông già ấy nói rằng:
- Xong lắm, xong lắm! Tôi có bộ yên tốt quá, xin cúng cho thầy.
Sáng ngày đem bộ yên ra đưa cho thầy Tam Tạng.
Tam Tạng mừng rỡ tỏ sự tạ ơn.
Tôn Hành Giả đi thắng yên vừa vặn không sai một thí, Tam Tạng
giả từ ra cửa, ông già lại cho thêm một cây roi ngựa bằng gân cọp làm ra.
Tam Tạng đi một hồi, ngó lại miễu đình đâu mất, nghe tiếng
nói văng vẳng rằng:
- Ta là Sơn thần, Thổ Ðịa, vâng lệnh Quan Âm bồ tát, đem cho
yên ngựa và roi, thầy rán sức mà đi, chẳng nên trễ nãi.
Tam Tạng nghe nói xuống ngựa lạy rằng:
- Tôi là mắt thịt xác phàm, xin cam thất lễ.
Tôn Hành Giả đứng coi cười ngất, Tam Tạng quở rằng:
- Nghĩa gì nhà ngươi không lạy, đứng chống nạnh mà cười?
Tôn Hành Giả nói:
- Chúng nó giấu đầu bày đuôi, đáng lẻ bắt đánh chơi vài chục,
bởi vị lòng Bồ Tát, nên tha chúng nó một phen, không đánh thời thôi, tội gì mà
lạy nữa?
Tam Tạng giận chờ dậy, lên ngựa mà đi, những là voi, gấu,
hùm, beo, biết mặt Tề Thiên đều tránh hết.
Mùa Ðông nầy đã mãn, tiết Xuân tới đà sang, cây cỏ nảy chồi
xanh, núi rừng bày sắc lục, lá mai đã úa, nhành liễu vừa xanh, thầy trò đi một
hồi lâu, xem thấy mặt trời chen lặn, Tam Tạng ngó quanh ngó quất, đặng kiếm xóm
nghỉ ngơi, xảy thấy một tòa nhà cao lớn, liền hỏi Hành Giả rằng:
- Ngươi coi có phải là nhà giàu trước mặt đó chăng?
Tôn Hành Giả xem lại thưa rằng:
- Chắc không phải nhà ai, một là chùa chiền, hai là đình miễu;
vậy thì thầy trò vào đó mà nghỉ, rồi mai sáng sẽ đi.
Tam Tạng nghe nói lòng mừng giục Long Cu riết tới.
Ngô Thừa Ân
Dịch giả: Thụy Đình
Hiệu đính: Chu Thiên
Hiệu đính: Chu Thiên
Theo https://www.sachhayonline.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét