Hồi 81:
Bốn chị câu cá chơi, xem ai tốt số;
Hai lần vào trường học, vâng theo lời cha.
Sau khi Nghênh Xuân về, Hình phu nhân vẫn hờ hững như không,
trái lại, Vương phu nhân là người nuôi nấng nàng bấy lâu nên rất thương cảm, cứ
ngồi trong phòng than thở một mình. Bảo Ngọc đến thăm sức khoẻ, thấy trên mặt
Vương phu nhân còn hoen nước mắt, liền đứng sững đấy không dám ngồi, vương phu
nhân bảo ngồi, Bảo Ngọc mới ghé ngồi lên giường, bên cạnh Vương phu nhân.
Vương phu nhân thấy Bảo Ngọc ngẩn người nhìn mình, dường như
muốn nói điều gì, liền hỏi:
- Con nghĩ gì mà ngẩn người ra thế?
Bảo Ngọc nói:
- Có gì đâu, chỉ vì hôm qua thấy tình cảnh chị Hai, con thật
không sao đành tâm, tuy chưa dám thưa với ba, nhưng hai đêm nay con trằn trọc
không sao ngủ được, con nghĩ: con gái nhà mình thế này, làm sao chịu được những
điều tủi nhục như vậy? Chị Hai lại là người nhút nhát nhất nhà, xưa nay chưa biết
cãi cọ với ai bao giờ, làm sao gặp phải hạng người vô lương không hề biết gì đến
nỗi khổ cực của người con gái.
Nói đến đó Bảo Ngọc rưng rưng nước mắt, vương phu nhân nói:
- Cũng chẳng còn cách gì nữa, tục ngữ nói: “Con gái lấy chồng
cũng như bát nước đã bị đổ”, ta còn biết làm thế nào bây giờ.
- Đêm qua con nghĩ ra một kế. Bọn con cứ nói thật với bà đón
chị Hai về, để chị ấy ở Tử Lăng Châu như trước, chị em chúng con lại cứ ăn
chung chơi chung với nhau, chị ấy khỏi phải chịu khổ với họ Tôn, quân bậy
bạ ấy, nếu nó đến đón chúng ta nhất định không cho về, nó có đến đón một trăm lần,
chúng con cứ giữ lại một trăm lần, nói rằng ý bà đã định, như thế lại không hơn
ư?
Vương phu nhân nghe nói, vừa buồn cười, vừa tức, bảo:
- Mày điên à! Nói nhảm cái gì thế? Đã là con gái ai chẳng phải
đi lấy chồng; đã về nhà người ta thì bên nhà gái còn nhìn ngó gì được, cái đó
chẳng qua là do số phận nó thế, được người chồng tốt thì hay, nhưng gặp phải đứa
xấu cũng đành chịu vậy, người ta hay nói: “Lấy gà phải theo gà, lấy chó phải
theo chó”, mày lại không nghe hay sao? Có phải ai cũng làm lệnh bà như chị cả
mày đâu? Vả lại chị Hai mày mới về nhà chồng, thằng Tôn cũng còn trẻ tuổi, mỗi
người một tính, mới ăn ở với nhau, thế nào mà chả có ít nhiều va chạm. Ít năm nữa,
đôi bên biết tính nhau, sinh con đẻ cái thì sẽ đâu vào đấy thôi, mày nhất thiết
không được nói nửa lời với bà, tao mà nghe thì liệu hồn đấy, thôi đi lo công việc
của mày đi, đừng ở đây nói nhảm nữa.
Bảo Ngọc không dám lên tiếng, ngồi một lúc, rồi buồn rầu lủi
thủi đi ra, trong bụng ấm ức, không biết hay tỏ với ai, khi vào vườn, Bảo Ngọc
đi một mạch đến quán Tiêu Tương, vừa vào đến cửa đã òa lên khóc.
Đại Ngọc vừa chải đầu rửa mặt xong, thấy quang cảnh ấy, giật
mình hỏi:
- Làm sao thế? Anh giận nhau với ai thế?
Đại Ngọc hỏi đi hỏi lại, nhưng Bảo Ngọc chỉ gục đầu xuống
bàn, khóc nức nở không nói ra lời, đại Ngọc ngồi trên ghế ngơ ngác nhìn Bảo Ngọc
một lúc rồi hỏi:
- Anh lại bực nhau với ai rồi chứ gì? Hay là em có lỗi với
anh?
Bảo Ngọc xua tay:
- Không phải, không phải!
- Tại sao anh lại buồn bã như vậy?
- Tôi nghĩ bọn chúng mình chết sớm càng hay, sống chẳng thú vị
gì hết!
Đại Ngọc nghe vậy kinh ngạc hỏi:
- Anh nói gì thế? Anh điên rồi sao?
- Không phải tôi điên đâu, điều tôi nói ra thế nào cũng làm
cô phải đau lòng, hôm trước chị Hai về đây, bộ dạng và nói năng như thế nào thì
cô cũng đã thấy rồi đấy, tôi nghĩ tại sao con gái cứ lớn lên là phải đi lấy chồng
để chịu khổ chịu sở làm gì? Tôi còn nhớ trước đây lúc lập thi xã Hải Đường, tất
cả chúng mình ngâm thơ, gánh trọ, vui vẻ biết chừng nào! Bây giờ chị Bảo về
nhà; Hương Lăng cũng không thấy sang; chị Hai lại đi lấy chồng, mấy người tâm đầu
ý hợp đều mỗi người mỗi ngả, cho nên mới vắng ngắt thế này. Tôi định thưa với cụ,
đón chị Hai về, ai ngờ mẹ tôi không nghe lại bảo tôi là ngu ngốc, nói nhảm, tôi
đành câm miệng không dám hé lời, cô xem chẳng mấy chốc, mà quang cảnh cái vườn
này thay đổi dữ thật! Cứ thế này thì vài năm nữa, chưa biết đến thế nào, càng
nghĩ tôi càng cảm thấy buồn bực trong lòng.
Đại Ngọc nghe xong từ từ cúi đầu, người chậm rãi ngã xuống
giường, thở dài một tiếng, không nói năng gì, nằm quay mặt vào phía trong.
Tử Quyên vừa bưng trà lên, thấy hai người như thế cũng buồn
theo; bỗng Tập Nhân đến, thấy Bảo Ngọc nói:
- Cậu ở đây à? Bên nhà cụ đang gọi đấy, tôi đoán là cậu ở
đây.
Đại Ngọc đứng dậy, cặp mắt vẫn đỏ hoe, mời Tập Nhân ngồi. Bảo
Ngọc thấy thế nói:
- Em ạ, những lời tôi vừa nói, chẳng qua là chuyện vớ vẩn rồ
dại, em đừng buồn bã làm gì. Em nên nhớ lời tôi dặn, cần phải giữ gìn sức khỏe
mới được. Em đi nghỉ thôi. Bên cụ gọi, tôi đến đó một lát, rồi sẽ trở lại ngay.
Nói đoạn, Bảo Ngọc đi ra.
Tập Nhân hỏi nhỏ Đại Ngọc:
- Hai người lại có việc gì thế?
- Anh ấy buồn vì việc chị Hai, còn tôi thì bị ngứa mắt,
nên dụi đấy thôi, chứ có việc gì đâu.
Tập Nhân cũng không nói gì, vội vàng theo Bảo Ngọc đi ra.
Khi Bảo Ngọc đến bên nhà Giả mẫu thì Giả mẫu đã nghỉ trưa,
nên lại quay về Viện Di Hồng.
Quá trưa Bảo Ngọc ngủ dậy, cảm thấy buồn bã vô cùng, tiện tay
cầm quyền sách lên xem.
Tập Nhân thấy Bảo Ngọc xem sách, vội đi pha trà hầu sẵn,
không ngờ quyển sách ấy lại là quyển “Cổ Nhạc Phủ”. Bảo Ngọc tiện tay mở ra xem
thì đúng là một bài thơ của Tào Mạnh Đức(1) trong có câu:
Rượu bày hãy cất lời ca,
Đời người thấm thoắt có là bao năm!
Cảm thấy lời thơ chạm đúng vào tim. Bảo Ngọc đặt quyển sách
xuống, vớ một quyển khác xem, thì đó là tập văn đời Tấn, đọc được mấy trang, Bảo
Ngọc liền gấp sách, đoạn chống tay lên mà cứ ngồi thừ ra đó, Tập Nhân bưng trả
lại, thấy vậy liền hỏi:
- Tại sao cậu lại không xem nữa?
Bảo Ngọc không đáp, đỡ lấy chén trà, uống một hớp, rồi đặt
chén xuống, Tập Nhân chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, cứ đứng, bên cạnh, ngẩn người
nhìn. Bỗng Bảo Ngọc đứng dậy, miệng nói lẩm bẩm “tinh thần phiêu diêu ra ngoài
hình hài...”
Tập Nhân nghe nói, muốn cười, nhưng không dám hỏi, đành phải
khuyên:
- Nếu cậu không thích xem sách thì hãy ra ngoài vườn chơi một
lát cho đỡ buồn, kẻo rồi sinh bệnh.
Bảo Ngọc trong miệng ậm ừ nhưng đầu óc vẫn để đâu đâu. Đi đến
đình Thấm Phương, thấy cảnh tượng tiêu điều, buồng không người vắng; quay sang
Hành Vu uyển, thấy cỏ thơm còn đó, song cửa đóng then cài; lần đến Ngẫu Hương tạ,
xa xa thấy có mấy người đang đứng tựa lan can trên bến Lục Tự, mấy đứa đầy tớ
gái nhỏ lom khom tìm kiếm vật gì dưới đất. Bảo Ngọc rón rén tới sau hòn núi giả
lặng nghe. Bỗng một người nói:
- Để xem nó có nổi lên không. - Dường như giọng của Lý Văn.
Một người khác cười nói:
- Thôi nó lặn mất rồi, tôi biết nó không nổi lên mà. – Đúng
là giọng của Thám Xuân.
Lại một người nói:
- Phải rồi, chị ơi, chị đừng đi đầu, thế nào nó cũng nổi lên
cho mà xem.
Một người khác lại nói:
- Nó nổi lên đây rồi. - Đúng là tiếng nói của Lý Ỷ và Hình Tụ
Yên.
Bảo Ngọc không nhịn được, nhặt một viên gạch nhỏ, ném xuống
nước, nghe bõm một tiếng, bốn cô đều giật mình nói:
- Người nào chơi ác thế? Làm chúng tôi giật mình.
Bảo Ngọc từ sau núi nhảy ra cười nói:
- Các cô chơi vui thật! Sao không gọi tôi một tiếng?
Thám Xuân nói:
- Tôi đã biết mà! Chỉ có anh Hai mới nghịch thế mà thôi.
Không nói gì cả, anh phải đền con cá cho chúng tôi đi, vừa rồi một con cá nổi
lên, tôi định câu thì anh làm nó sợ, nó lặn đi mất.
Bảo Ngọc cười, nói:
- Các cô chơi ở đây mà không tìm tôi, tôi còn muốn phạt các
cô nữa là.
Mọi người cười một lúc. Bảo Ngọc nói:
- Bây giờ chúng ta hãy lần lượt câu cá để bói xem may rủi
nhé, ai câu được thì năm nay gặp may, ai không câu được thì năm nay gặp rủi, ai
câu trước nào?
Thám Xuân liền nhường Lý Văn câu trước, lý Văn không nhận.
Thám Xuân cười, nói:
- Đã thế thì tôi xin câu trước.
Đoạn ngoảnh lại nói với Bảo Ngọc:
- Anh Hai này, anh mà còn đuổi con cá đi nữa thì tôi không
nghe đâu.
Bảo Ngọc nói:
- Khi nãy là tôi muốn dọa các cô đấy chứ, bây giờ cô cứ tha hồ
mà câu.
Thám Xuân bỏ dây câu xuống, chừng chưa nói xong câu chuyện
thì đã có một con cá con cắn câu làm cho cái phao chìm xuống, Thám Xuân giật một
cái, cần câu vút lên, con cá dãy đành đạch trên đất, Thị Thư chộp lấy chộp để,
hai tay nắm chặt, bỏ vào lọ sứ nhỏ, đổ nước trong vào nuôi, Thám Xuân đưa cần
câu cho Lý Văn, lý Văn thả câu xuống, thấy dây câu rung rinh, vội giật lên,
nhưng không có gì, cô ta lại thả xuống, một chốc dây câu lại rung rinh, giật
lên nhưng vẫn không có gì, lý Văn cầm câu lên xem, thì ra cái lưỡi câu cong vào
phía trong, lý Văn cười:
- Chả trách câu không được.
Cô ta vội vàng bảo Tố Vân sửa lại lưỡi câu tử tế, thay mồi mới,
lắp cái phao bằng mảnh sậy, rồi thả xuống, một chốc mảnh sậy chìm lỉm; Lý Văn vội
giật câu lên, được một con cá diếc dài hai tấc, lý Văn cười nói:
- Anh Bảo câu đi!
Bảo Ngọc nói:
- Để cô Ba và cô Hình câu trước đi rồi tôi sẽ câu.
Tụ Yên ngồi lặng im, lý Ỷ nói:
- Anh Bảo câu trước đã.
Đang nói thì mặt nước bỗng sủi tăm, Thám Xuân nói:
- Đừng có nhường nhau mãi, các chị xem, mấy con cá đều ở phía
cô Ba cả, cô Ba câu nhanh đi thôi.
Lý Ỷ cười, đỡ lấy cần câu, thả xuống được ngay một con, Sau
đó Tụ Yên cũng câu được một con, liền trả cần câu cho Thám Xuân để đưa cho Bảo
Ngọc. Bảo Ngọc nói:
- Tôi thì phải làm ông Khương Thái công (2) mới được.
Nói đoạn liền ra ngồi trên hòn đá bên bờ ao mà câu. Không ngờ
cá ở dưới nước, trông thấy bóng người, đều chạy hết. Bảo Ngọc cầm cần câu đợi
mãi vẫn không thấy sợi dây động đậy. Vừa mới thấy một con cá phun bọt lên mặt
nước, Bảo Ngọc đã cầm cần câu rung rung mấy cái, cá ta sợ biến mất.
Bảo Ngọc nóng tiết nói:
- Tính tôi rất nôn nóng, mà cá lại chậm chạp, biết làm sao
bây giờ? Cá ơi, lại đây mau lên! Mày cũng phải giúp ta chứ.
Bốn người nghe nói đều cười. Bỗng thấy dây câu rung rinh, Bảo
Ngọc mừng quá, ra sức giật mạnh một cái, cần câu đập vào hòn đá, gãy làm hai đoạn,
dây câu đứt, lưỡi câu văng đi đâu mất, mọi người càng cười ầm lên.
Thám Xuân nói:
- Chẳng có ai vụng về như anh!
Đang nói bỗng thấy Xạ Nguyệt hớt hơ hớt hải chạy đến nói:
- Cậu Hai ạ, cụ dậy rồi, gọi cậu về ngay, cậu về mau lên.
Cả năm người đều giật mình, Thám Xuân hỏi Xạ Nguyệt:
- Cụ gọi cậu Hai về có việc gì thế?
- Tôi cũng không biết. Nghe đâu chuyện gì kín, nên cụ sai tôi
gọi cậu Bảo về hỏi, lại còn cho đi gọi cả mợ Hai Liễn về để hỏi nữa đấy.
Bảo Ngọc sợ ngẩn người ra một lúc rồi nói:
- Không biết lại có con a hoàn nào gặp việc rủi ro gì đây.
Thám Xuân nói:
- Chẳng biết là việc gì, anh Hai về nhanh lên, có tin gì thì
bảo ngay Xạ Nguyệt tới nói cho chúng em biết nhé!
Nói đoạn, Thám Xuân cùng Lý Văn, Lý Ỷ và Tụ Yên đi về. Bảo Ngọc
về đến phòng Giả mẫu, thấy Vương phu nhân đang cùng Giả mẫu đánh bài, Bảo Ngọc
thấy không có việc gì mới hơi yên tâm. Giả mẫu thấy Bảo Ngọc đến, liền hỏi:
- Năm trước cháu ốm, nhờ một vị hòa thượng điên và một vị đạo
sĩ khiễng chân chửa khỏi, lúc đó cháu thấy trong người như thế nào?
Bảo Ngọc nghĩ một lúc rồi nói:
- Cháu nhớ lúc mắc bệnh, hình như đang đứng thì có người lẻn
đến nện một gậy vào đầu. Đau quá, cháu tối sầm mắt lại, rồi thấy khắp nhà đầy
những quỉ sứ, mặt xanh nanh vàng, cầm dao, cầm gậy đánh cháu, khi lên giường nằm
thì hình như có mấy cái đai thần chét lên đầu. Sau đó đau quá, không biết gì nữa,
đến lúc đỡ rồi, cháu nhớ có một luồng ánh sáng màu vàng từ nhà ngoài chiếu tướng
vào giường, lũ quỉ đều chạy trốn đâu mất không thấy nữa, thế là đầu cháu không
đau mà trong người cũng tỉnh táo ngay.
Giả mẫu nói với Vương phu nhân:
- Xem ra không khác tình hình này là bao.
Đang nói thì Phượng Thư đi vào, chào Giả mẫu, lại ngoảnh lại
chào Vương phu nhân, rồi nói:
- Bà định hỏi cháu gì thế?
- Năm nọ bị ma ám, cháu có nhớ được gì không?
- Cháu cũng không nhớ được rõ lắm, nhưng chỉ thấy mình không
sao tự chủ được, hình như có người nào lôi lôi kéo kéo, bắt phải giết người mới
được, thấy cái gì là vơ lấy cái ấy, thấy người nào là chỉ muốn giết người ấy,
người cháu mệt nhoài, nhưng không sao dừng tay được.
- Lúc khỏi thì sao?
- Lúc khỏi thì hình như trên lưng chừng trời có người nói những
câu gì, cháu không nhớ rõ.
- Thế thì đúng là nó rồi, cứ xem quang cảnh khi hai chị em
chúng nó ốm, thì giống hệt như câu chuyện vừa xảy ra, con mụ già ấy độc ác thực:
Bảo Ngọc nhận nó làm mẹ nuôi thật là uổng! A Di Đà Phật! May nhờ có vị hòa thượng
và đạo sĩ mới cứu sống được Bảo Ngọc, nhưng ta vẫn chưa đền ơn gì cả.
Phượng Thư nói:
- Tại sao bà lại nhắc đến bệnh chúng cháu?
- Cháu cứ hỏi bà Hai, ta lười chẳng muốn nói.
Vương phu nhân nói:
- Vừa rồi ông nhà có nói đến mẹ nuôi của Bảo Ngọc là đứa bậy
bạ, tà ma ngoại đạo. Bây giờ vỡ chuyện ra, bị phủ Cẩm Y bắt bỏ giam đưa sang bộ
Hình. Bộ Hình định xử tội chết, mấy hôm trước có người phát giác việc con mụ ấy.
Người này tên là Phan Tam Bảo gì đó, có một ngôi nhà bán cho tiệm cầm đồ ở trước
mặt nhà hắn, hiệu này đã trả tiền gấp mấy lần giá tiền nhà rồi, mà Phan Tam Bảo
vẫn cứ đòi, họ không chịu trả nữa. Phan Tam Bảo dấm dúi với con mụ ấy, vì mụ ta
thường qua lại hiệu cầm đồ, chơi thân với bọn đàn bà trong đó, mụ ta liền phù
phép bắt người vợ chủ hiệu mê sảng, làm cả nhà rối tung lên, mụ ta liền đến nói
với họ rằng mình chữa được bệnh ấy. Rồi mụ ta đốt ít vàng mã ngựa giấy cúng lễ.
Quả nhiên kiến hiệu, thế là mụ đòi bọn đàn bà nhà ấy phải đưa tạ mười mấy lạng
bạc, ai ngờ đức Phật có mắt, việc vỡ lở ra, ngay hôm ấy mụ ta vội vã về nhà, bỏ
rơi một cái bọc lụa, người trong hiệu nhặt lên xem, thấy trong có nhiều hình
nhân bằng giấy và bốn viên hương gì rất thơm, mọi người đang lấy, làm lạ thì
con mụ già ấy quay lại tìm bọc lụa. Người ở đó liền bắt giữ và xét trong người
thì thấy một cái hộp, trong có hai ma vương khắc bằng ngà voi; một trai một gái
mình trần không mặc quần áo, và bảy cái kim thêu bôi son đỏ. Lập tức, họ bắt mụ
giải đến phủ Cẩm Y. Ở đấy người ta xét hỏi thì biết được nhiều chuyện bí ẩn về
các bà các cô nhà quan sang, vì thế họ báo tin cho trong doanh biết, và đến
khám nhà mụ, tìm được nhiều tượng nặn bằng đất, và mấy hộp muộn hương(3). Trong
gian nhà trống sau giường nằm, mụ ta treo một địa đèn có bảy ông sao, dưới đèn
có mấy quân môi bằng rơm. Đứa thì đầu chét đai thần, đứa thì bụng đóng đinh, đứa
thì cổ mang xiềng, trong tủ có vô số là hình nhân bằng giấy. Phía dưới có mấy
cuốn sổ nhỏ, trong đó ghi đã làm phép cho nhà nào được linh nghiệm, cần đòi bao
nhiêu tiền. Số tiền hương đèn người ta gởi đến không biết bao nhiêu mà kể.
Phượng Thư nói:
- Bệnh của chúng cháu nhất định là nó làm, cháu nhớ khi chúng
cháu khỏi, con yêu già ấy qua bên nhà dì Triệu đòi tiền mấy lần; hễ gặp cháu là
mặt nó sa sầm lại, hai mắt nó cứ như con mắt gà chọi ấy, mấy lần cháu cứ nghi
hoặc, nhưng không tìm ra duyên cớ tại sao? Giờ nghe nói mới vỡ lẽ. Có điều cháu
đứng ra trông coi việc nhà, cố nhiên có thể làm người ta oán ghét, người ta muốn
tìm cách hại cháu, chứ chú Bảo thì có thù hằn gì với ai, mà họ cũng nỡ lòng độc
ác như thế?
Giả mẫu nói:
- Biết đâu lại không phải vì ta yêu cháu Bảo, không yêu thằng
Hoàn, mà để vạ cho các cháu như vậy.
Vương phu nhân nói:
- Con mụ khốn nạn ấy đã bị kết án nên không thể nào gọi nó đến
đây đối chứng. Không đối chứng thì dì Triệu đời nào chịu nhận. Việc này là việc
lớn, nếu để vỡ lở ra, tiếng tăm không hay lắm, chi bằng để nó làm nó chịu, thế
nào rồi cũng có ngày phải ra.
- Chị nói cũng phải, đã không có đối chứng thì không thể nào
làm ra lẽ, chỉ có đức Phật là nhìn thấy rõ thôi, chị em chúng nó giờ đây nào có
kém ai? Thôi việc đã qua rồi, cháu Phượng cũng đừng nhắc đến nữa, hôm nay mẹ
con cháu ăn cơm chiều ở đây rồi hãy về.
Giả mẫu bảo Uyên Ương và Hổ Phách đi gọi dọn cơm.
Phượng Thư vội vàng cười nói:
- Tại sao bà phải bận lòng thế?
Vương phu nhân cũng cười.
Thấy mấy người đàn bà đứng chực bên ngoài, Phượng Thư vội bảo
bọn a hoàn nhỏ đi gọi cơm, và nói:
- Ta và bà Hai đều ăn cơm với cụ ở đây.
Đang nói thì thấy Ngọc Xuyến chạy đến thưa với Vương phu
nhân:
- Ông lớn muốn tìm thứ gì, mời bà hầu cơm cụ xong rồi về tìm
hộ.
Giả mẫu nói:
- Chị đi về thôi, chắc anh ấy có việc gì cần đấy.
Vương phu nhân vâng lời, để Phượng Thư ở lại hầu, còn mình
lui về. Đến phòng, Vương phu nhân gặp Giả Chính, nói chuyện suông mấy câu và
tìm ra đồ vật. Giả Chính liền hỏi:
- Cháu Nghênh Xuân về rồi à? Nó ở nhà họ Tôn ra sao?
- Cháu Nghênh Xuân cứ khóc khóc mếu mếu, nói là chồng ngang
ngược quá.
Rồi bà ta kể lại những điều Nghênh Xuân đã nói cho Giả Chính
nghe. Giả Chính thở dài nới:
- Ta đã biết không phải là nơi xứng đáng, khốn nỗi ông Cả cứ
nhận lời, ta cũng không biết làm thế nào, thế là con Nghênh Xuân đành chịu khổ
mà thôi.
Nó mới về làm dâu, chỉ mong sau này vợ chồng nó ăn ở với nhau
khá hơn là được.
Nói đoạn, Vương phu nhân lại phì cười. Giả Chính nói:
- Cười gì?
- Tôi cười thằng Bảo sáng nay đến đây, nói toàn là chuyện trẻ
con.
- Nó nói gì?
Vương phu nhân vừa cười vừa kể lại những lời của Bảo Ngọc. Giả
Chính cũng không nhịn được cười liền nói:
- Nhắc đến thằng Bảo Ngọc, tôi lại nhớ ra một việc. Thằng này
cứ để mãi trong vườn, thực không nên, con gái hư thân, còn là người của nhà
khác, chứ con trai hư thân thì quan hệ không phải nhỏ, hôm trước có người đến
nói với tôi về một ông thầy học. Ông này học vấn và phẩm chất đều tốt, cũng là
người phương Nam, nhưng tôi nghĩ, thầy học người phương Nam tính tình lại quá ư
hiền lành, trẻ con nhà ta đang sống nơi đô thị, đứa nào đứa nấy, đều nghịch ngỗ
phá trời, mồm mép lém lỉnh, cái gì lấp liếm được là thế nào cũng lấp liếm cho kỳ
được, lại cứng đầu cứng cổ làm cho thầy học ngày ngày phải chiều như chiều
vong, không dám nói nặng lời, rút cục chẳng ăn thua gì, uổng công vô ích. Vì thế
các cụ trước không chịu mời thầy ở ngoài, chỉ chọn người trong họ vừa có tuổi vừa
có học vấn để dạy. Giờ đây cụ Nho học vấn tuy chỉ bình thường nhưng còn trị nổi
bọn chúng, không đến nỗi nuông chiều chúng quá. Tôi nghĩ cứ để thằng Bảo lêu lổng
mãi không nên, chi bằng lại bắt nó vào trường nhà học tập như cũ.
- Ông nói rất phải, từ khi ông nhậm chức ở ngoài, nó cứ ốm
luôn, thành ra bỏ bê trễ mất mấy năm; bây giờ lại vào trường nhà ôn tập thì rất
tốt.
Giả Chính gật đầu, lại nói thêm mấy câu chuyện phiếm nữa. Hôm
sau Bảo Ngọc thức dậy, chải đầu rửa mặt xong, bỗng có người hầu nhỏ vào nói:
- Ông lớn gọi cậu Hai đến nói chuyện.
Bảo Ngọc vội vàng sửa lại áo quần, đi đến thư phòng Giả
Chính, hỏi thăm sức khỏe của cha rồi đứng chờ.
Giả Chính nói:
- Dạo này mày học hành thế nào? Tuy mày viết tập được ít chữ,
nhưng cũng chẳng ăn thua vào đâu. Ta xem dạo này mày lại càng lười biếng hơn
nhiều so với mấy năm trước. Tao lại nghe nói mày luôn luôn viện cớ đau ốm không
chịu học hành, bây giờ thì đã khỏe thật rồi chứ? Ta còn nghe mày cả ngày cứ ở
trong vườn chơi đùa với bọn chị em, thậm chí với cả bọn a hoàn; còn công việc
chính của mình thì vứt hết. Dù mày có làm được mấy câu thơ, dăm ba bài từ, thì
cũng chẳng ăn thua vào đâu, quí hóa gì cái thứ ấy? Khi thi cử, người ta vẫn lấy
việc làm văn, làm bài là quan trọng hơn cả, thế mà mày lại không học gì về cách
làm văn làm bài hết. Mày nhớ lấy lời ta dặn: Bắt đầu từ hôm nay, mày không được
làm thơ câu đối gì hết, chỉ học làm văn bát cổ thôi. Ta hạn cho mày một năm, nếu
không tiến được tý gì, thì mày đừng học hành cho tốn công, mà ta cũng không muốn
có đứa con như thế nữa.
Giả Chính bèn gọi Lý Quí lại bảo:
- Ngày mai, sáng dậy, gọi thằng Bồi Dính đi theo cậu Bảo đem
tất cả sách vở nó học đưa lại đây ta xem, rồi ta sẽ thân hành đưa nó vào trường
nhà.
Nói đoạn ông ta quát Bảo Ngọc:
- Về đi thôi! Ngày mai đến sớm gặp ta.
Bảo Ngọc nghe nói, giờ lâu chẳng biết trả lời thế nào, lững
thững đi về viện Di Hồng. Tập Nhân đang nóng lòng chờ tin tức, nghe nói bảo đi
học, trong bụng cũng có ý mừng. Bảo Ngọc sai người đến kể đầu đuôi với Giả mẫu,
ý muốn nhờ Giả mẫu ngăn cản giúp. Giả mẫu nghe tin, sai người gọi Bảo Ngọc đến,
nói:
- Cháu cứ yên lòng đi học, đừng để cha cháu giận, có việc gì
cháu thấy bực bội thì cháu nói với bà.
Bảo Ngọc không còn cách gì, đành phải trở về, dặn bọn a hoàn:
- Ngày mai gọi ta dậy sớm, ông sẽ đưa ta đi học đấy.
Tập Nhân vâng lời, cùng với Xạ Nguyệt thay phiên nhau thức suốt
đêm.
Hôm sau tảng sáng, Tập Nhân gọi Bảo Ngọc dậy, chải đầu rửa mặt,
thay quần áo rồi sai a hoàn nhỏ truyền gọi Bồi Dính chực ở cửa ngoài để mang
sách vở và các đồ vật. Tập Nhân giục luôn mấy lần, Bảo Ngọc đành phải đi ra. Đến
thư phòng, trước hết Bảo Ngọc hỏi dò xem cha mình đã đến đó chưa, người hầu nhỏ
trả lời:
- Vừa rồi có một vị khách định vào gặp ông lớn để thưa chuyện
gì đó, trong nhà nói ông lớn đang rửa mặt chải đầu, bảo vị khách ấy hãy đợi ở
ngoài.
Bảo Ngọc nghe nói, trong bụng hơi yên, vội vàng đến chỗ Giả
Chính, vừa gặp lúc Giả Chính sai người đến gọi, Bảo Ngọc liền theo vào. Giả
Chính dặn dò mấy câu, rồi dẫn Bảo Ngọc lên xe. Bồi Dính mang theo sách vở đi thẳng
đến trường học, người nhà đến trước trình với Đại Nho:
- Ông lớn đã đến.
Đại Nho đứng dậy, thì Giả Chính bước tới và hỏi thăm sức khỏe.
Đại Nho cầm tay chào hỏi:
- Dạo này cụ có khỏe không?
Bảo Ngọc cũng tới hỏi thăm sức khỏe Đại Nho. Giả Chính mời Đại
Nho ngồi, rồi mới ngồi xuống. Giả Chính nói:
- Tôi hôm nay thân hành đưa cháu đến đây, nhờ cụ dạy bảo
giúp. Cháu cũng không còn bé hỏng gì nữa, cần phải học để thi cử mới mong trọn
đời lập thân, thành danh được. Hiện nay, nó ở nhà chỉ chơi đùa với bọn trẻ con,
tuy có hiểu được mấy câu thơ, dăm câu từ, cũng chỉ là nói nhảm viết nhảm. Dù có
hay chăng nữa cũng chẳng qua là những lời gió trăng mây móc, chẳng ích gì cho đời
nó cả.
Đại Nho nói:
- Tôi xem cháu mặt mũi cũng xinh đẹp, tư chất thông minh,
nhưng lại cứ ham chơi, không chịu học? Việc thơ từ không phải là không nên học,
nhưng sau khi đỗ đạc rồi sẽ học cũng chưa muộn.
- Đúng như thế. Giờ đây chỉ xin cụ bắt nó đọc sách, giảng
sách, làm văn làm bài, nếu nó không nghe lời dạy bảo thì xin cụ hết sức kèm cặp
nó, có thế mới không đến nỗi hữu danh vô thực, lỡ cả một đời.
Nói xong, Giả Chính đứng dậy vái một vái, nói vài câu chuyện
phiếm rồi cáo từ rút lui ra. Đại Nho tiễn đến ngoài cửa và nói:
- Xin gởi lời thăm sức khỏe của cụ.
Giả Chính vâng lời, lên xe ra về.
Đại Nho quay vào, thấy Bảo Ngọc ngồi bên cái bàn hoa lê nhỏ,
bày ở góc Tây nam, dựa vào cửa sổ, bên phải chồng hai bộ sách cũ và một tập văn
bát cổ mong mỏng, gọi Bồi Dính đem giấy mực bút nghiên cất vào trong ngăn kéo.
Đại Nho hỏi:
- Bảo Ngọc, ta nghe nói cháu hôm trước ốm, nay đã khỏe thật
chưa?
Bảo Ngọc đứng dậy thưa:
- Khỏe thật rồi ạ.
- Bây giờ cháu nên chăm chỉ học hành, cha cháu thật hết sức
tha thiết trông mong cháu nên người. Bây giờ cháu hãy đem những sách đã đọc trước
bắt đầu ôn lại một lần. Hằng ngày, sáng dậy ôn lại sách, cơm xong viết chữ,
trưa đến giảng sách và đọc mấy thiên bát cổ.
Bảo Ngọc “dạ” một tiếng rồi ngồi xuống, liếc nhìn xung quanh
thấy thiếu mất mấy đứa trong bọn Kim Vinh ngày xưa và thêm mấy đứa học trò nhỏ,
đều là bọn thô tục chẳng ra gì. Chợt nhớ đến Tần Chung, Bảo Ngọc thấy không có
ai làm bầu làm bạn, để giải tỏ câu chuyện tâm tình, trong lòng buồn rầu, nhưng
không dám nói ra, đành vùi đầu xem sách.
Đại Nho nói:
- Hôm nay là hôm đầu, cho cháu về sớm một chút, đến mai thì
phải giảng sách đấy, cháu không phải là người dốt nát, ngày mai sẽ cho cháu giảng
trước một vài chương sách cho ta nghe, xem gần đây cháu học hành ra sao, để biết
được sức học của cháu đã đến thế nào rồi.
Nghe vậy trong bụng Bảo Ngọc cứ rối cả lên.
Chú thích:
Chú thích:
(1). Tức Tào Tháo người đời Tam quốc.
(2). Khương Thái Công tức Lã Vọng, tên chữ là Tử Nha. Lúc hàn
vi thường ngồi câu cá ở sông Vị. Sau giúp vua Văn Vương nhà Chu, đánh được nhà
Ân, phong là thái sư.
(3). Thứ hương làm cho người ta ngửi thấy thì mê man bất tỉnh.
Hồi 82:
Lấy nghĩa sách giảng bày, cụ đồ già dạy răn chàng bướng;
Thấy ác mộng kinh khủng, gái Tiêu Tương hoảng sợ ngây hồn.
Bảo Ngọc ở trường học về, tới gặp Giả mẫu. Giả mẫu cười nói:
- Khá lắm, bây giờ ngựa rừng lên đã chịu lên cương rồi. Về gặp
cha cháu một tý, rồi đi dạo chơi cho khuây.
Bảo Ngọc vâng lời đến gặp Giả Chính. Giả Chính hỏi:
- Sao về sớm thế? Thầy có đề ra cách học tập cho mày không?
- Dạ, thời giờ quy định như sau: sáng dậy ôn lại sách; ăn cơm
xong tập viết; trưa đến giảng sách và đọc văn bát cổ.
Giả Chính gật đầu bảo:
- Con về hầu chuyện bà một lát, con trước hết phải lo học làm
sao cho thành đạt nên người, chứ không nên chỉ nghĩ đến việc chơi bời, tối đến
phải đi ngủ ngay để sáng mai dậy sớm đi học, con đã nghe chưa?
Bảo Ngọc vâng dạ tíu tít và lui ra ngoài, tới gặp Vương phu
nhân rồi lại đến chào qua Giả mẫu, sau đó vội vàng chạy ra, mong sao mau tới
quán Tiêu Tương. Vừa vào đến cửa, Bảo Ngọc vỗ tay reo nói:
- Tôi lại về đây rồi.
Đại Ngọc nghe tiếng giật mình, Tử Quyên vén màn lên, Bảo Ngọc
đi vào phòng ngồi xuống ghế, Đại Ngọc nói:
- Nghe nói anh đi học kia mà, sao về sớm thế?
- Ái chà! Nguy quá! Hôm nay cha tôi thân hành đưa tôi đi học,
trong bụng tôi tưởng chuyến này không gặp mặt cô nữa. Chật vật suốt một ngày.
Bây giờ nhìn thấy các cô, tôi giống như chết đi sống lại, người xưa nói: “Một
ngày dài ba thu”, câu ấy thật không ngoa.
- Anh đã về chào cậu mợ chưa?
- Chào rồi.
- Còn các chỗ khác nữa?
- Không.
- Anh cũng nên chịu khó đến thăm họ một tý.
- Giờ tôi không muốn đi đâu cả, chỉ ngồi đây nói chuyện với
cô thôi. Cha tôi bảo tôi ngủ sớm sáng mai dậy sớm, đến mai hãy gặp họ
cũng được.
- Anh ngồi một chút rồi cũng nên về đi nghỉ thôi.
- Tôi có mệt đâu, chỉ buồn thôi, có ngồi nói chuyện với mấy
cô thì mới khuây khỏa, thế mà cô lại đuổi tôi rồi đấy.
Đại Ngọc mỉm cười rồi gọi Tử Quyên:
- Đem thứ trà Long Tỉnh của ta pha cho cậu Hai một chén. Cậu
Hai giờ đi học, không phải như trước nữa đâu.
Tử Quyên mỉm cười, vâng lời đi lấy trà rồi bảo a hoàn nhỏ
pha.
Bảo Ngọc nói tiếp:
- Cô còn nhắc đến việc học làm gì? Tôi ngán cái trò đạo học ấy
rồi. Buồn cười nhất là thứ văn bát cổ, người ta mượn nó để lừa bịp, bòn chút
công danh, kiếm bát cơm ăn, nói thế còn được. Bây giờ lại còn bảo là nói thay lời
thánh hiền cơ! Nhiều lắm thì chẳng qua là đem kinh truyện ra nhồi nhét vào đầu
đấy thôi. Lại còn một điều buồn cười hơn nữa là những kẻ trong bụng rỗng tuếch
chỉ vơ chỗ nọ bỏ chỗ kia, làm lếu làm láo mà lại cho mình là học sâu rộng. Làm
thế đâu có phải là phát triển đạo lý của thánh hiền! Bây giờ cha tôi nhất thiết
bảo tôi học cái ấy, tôi không dám cãi lại, thế mà cô lại còn nhắc đến chuyện đi
học nữa à?
- Bọn con gái chúng em, tuy không cần thứ văn chương ấy,
nhưng lúc nhỏ khi học ông Giả Vũ Thôn, em có đọc qua. Trong đó cũng có những chỗ
sâu sắc, cao xa, sát với tình cảm và hợp lý. Lúc đó tuy em không hiểu lắm,
nhưng cũng thấy hay hay, không thể mạt sát hết thảy. Vả chăng anh cần lập công
danh thì học thứ văn ấy cũng có phần thanh nhã, cao quí chứ!
Bảo Ngọc nghe đến đó, thấy không tài nào lọt tai được, nghĩ bụng:
“Xưa nay, Đại Ngọc không phải hạng người mê thế lợi, giờ sao lại thế”, nhưng
cũng không dám cãi lại, đành chỉ khịt mũi cười thầm.
Hai người đang nói chuyện, chợt nghe tiếng Thu Văn và Tử
Quyên nói ở bên ngoài.
Thu Văn nói:
- Chị Tập Nhân bảo tôi sang đón cậu ở nhà cụ, ai ngờ cậu lại ở
đây!
Tử Quyên nói:
- Ở đây chúng tôi vừa pha trà, để cậu ấy uống xong hãy về.
Hai người cùng đi vào. Bảo Ngọc cười nói với Thu Văn:
- Tôi cũng sắp về, lại phiền chị phải đi tìm.
Thu Văn chưa kịp trả lời, thì Tử Quyên nói:
- Cậu uống mau mau mà về đi, người ta đã nhớ suốt ngày rồi.
Thu Văn nhổ toẹt một cái rồi nói:
- Khéo cái con ranh này!
Mọi người nghe nói đều cười, Bảo Ngọc đứng dậy, cáo từ ra về,
Đại Ngọc tiễn ra cửa, Tử Quyên đứng trên thềm chờ Bảo Ngọc ra về rồi mới trở
vào phòng.
Bảo Ngọc về đến Viện Di Hồng, thấy Tập Nhân từ trong nhà ra
đón, và hỏi:
- Cậu về đấy à?
Thu Văn nói:
- Cậu về từ sớm, nhưng ở bên nhà cô Lâm.
Bảo Ngọc nói:
- Hôm nay có việc gì không?
Tập Nhân nói:
- Chẳng có việc gì, vừa rồi bà Hai bảo chị Uyên Ương tới dặn
chúng tôi: “Ông nhà nổi nóng bảo cậu đi học, nếu có đứa a hoàn nào còn dám chơi
đùa với cậu, thì sẽ trị tội như trị Tình Văn và Tư Kỳ trước đây”. Tôi nghĩ hầu
hạ cậu lâu nay, mà được thưởng cho những lời ấy cũng thật đáng buồn!
Nói xong, chị ta sụt sùi khóc. Bảo Ngọc nói:
- Chị ạ! Chị cứ yên tâm, tôi chăm chỉ học tập thì bà sẽ không
nói gì các chị nữa đâu. Đêm nay tôi còn phải xem sách, ngày mai thầy học bảo
tôi giảng sách đấy. Nếu tôi có cần sai khiến gì thì đã có Xạ Nguyệt và Thu Văn.
Chị đi nghỉ thôi.
Tập Nhân nói:
Bảo Ngọc ăn cơm chiều xong, bảo thắp đèn đem sách tứ thư mà
mình học từ trước, giở ra xem. Nhưng biết xem từ chỗ nào đây? Đọc xong một quyển
thấy hình như trong chương nào mình cũng rõ rành, nhưng xét cho kỹ thì lại
không thật rõ lắm. Xem hết lời chú thích, lại đến lời giảng, lục đục mãi đến
canh khuya. Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Mình về mặt thơ từ thì thấy hiểu rất dễ dàng,
mà về mặt này thì đầu óc chẳng ra sao cả”. Rồi ngẩn người ngồi nghĩ.
Tập Nhân nói:
- Cậu đi nghỉ thôi, học không phải chỉ cố gắng trong một hôm
đâu mà phải làm thế?
Bảo Ngọc chỉ trả lời bâng quơ. Tập Nhân và Xạ Nguyệt hầu hạ
cho Bảo Ngọc nằm xuống, rồi hai người cùng nằm ngủ. Đến khi thức giấc, thấy Bảo
Ngọc vẫn trằn trọc trên giường. Tập Nhân nói:
- Cậu còn thức à? Đừng có nghĩ vơ nghĩ vẩn, phải giữ gìn sức
khỏe ngày mai mà học.
- Tôi cũng nghĩ như thế, nhưng vẫn không sao ngủ được. Chị lại
cất bớt cho tôi một cái chăn.
- Trời lạnh cậu đừng cất bớt chăn đi.
- Trong bụng tôi bực bội quá.
Rồi Bảo Ngọc hất chăn xuống. Tập Nhân vội vàng bò lại giữ lấy,
đặt tay lên đầu thấy hơi nóng liền nói:
- Cậu nằm cho yên, người hơi nóng rồi.
- Ừ đúng đấy!
- Thế là thế nào?
- Không sợ, đó là vì bụng tôi bực bội đấy thôi, chị đừng làm ầm
lên. Ông biết thế nào cũng nói tôi giả ốm để trốn học, nếu không, sao bệnh lại
khéo đến đúng lúc như vậy? Ngày mai khỏe tôi vẫn đi học, thế là xong chuyện.
Tập Nhân nghe cũng thương, liền nói:
- Để tôi ngủ gần cậu.
Liền đến đấm xương sống cho Bảo Ngọc một lát, rồi hai người
ngủ quên lúc nào không biết, đến khi mặt trời lên cao mới dậy. Bảo Ngọc nói:
- Chết rồi! Chậm mất rồi.
Anh ta vội vàng chải đầu rửa mặt xong, đi hỏi thăm sức khỏe mọi
người rồi qua trường học ngay. Đại Nho đổi sắc mặt nói:
- Chẳng trách gì cha cháu nổi giận nói cháu hư thân, mới hôm
thứ hai cháu đã lười biếng như thế. Giờ là mấy giờ rồi mới đến hả?
Bảo Ngọc kể lại việc tối hôm qua phát nóng như thế nào rồi lại
đọc sách như cũ.
Chiều đến, Đại Nho nói:
- Bảo Ngọc, có một chương sách cháu lại giảng xem.
Bảo Ngọc đến xem thì thấy là chương “Hậu sinh khả úy”(1) nghĩ
bụng: “Chương này còn khá! May không phải là Đại học và Trung dung”. Bảo Ngọc
liền hỏi:
- Giảng như thế nào?
- Cháu cứ theo từng ý từng câu giảng lại cho kỹ lưỡng.
Bảo Ngọc trước tiên đọc to lên một lần, rồi nói:
- Chương sách này là thánh nhân khuyên lớp trẻ, họ bảo phải kịp
thời cố gắng đừng để đến...
Nói đến đó Bảo Ngọc ngước đầu nhìn Đại Nho một cái, Đại
Nho biết ý, cười nói:
- Cháu cứ việc nói, giảng thì không cần phải kiêng nể gì cả.
Sách Lễ ký nói “Lâm văn bất húy”(2) cháu cứ nói tiếp, đừng để đến cái gì.
Bảo Ngọc nói tiếp:
- Đừng để đến già mà không nên làm gì. Trước hết thánh nhân
đem hai chữ “khả úy” để khích lệ chí khí của lớp trẻ, sau đem ba chữ “bất túc
úy” (không đáng sợ) để cảnh tỉnh tương lai của lớp trẻ.
Nói xong, đứng nhìn Đại Nho, Đại Nho nói:
- Cũng được đấy, cứ giảng suốt đi nào!
Bảo Ngọc nói tiếp:
- Thánh nhân nói: Người ta sinh ra, lúc còn nhỏ, tâm tư và
tài lực thông minh tài giỏi và có thể làm, thật là đáng sợ. Ai dám nói ngày sau
họ không được như ta ngày nay? Nhưng nếu họ cứ nay lần mai lữa không biết chăm
chỉ, đến khoảng bốn năm mươi tuổi mà không làm nên việc gì, thì hạng người đó,
tuy rằng lúc trẻ hình như hữu dụng, đến lúc ấy thì trọn đời chẳng làm ai sợ nữa.
Đại Nho cười nói:
- Vừa rồi về phần ý, cháu giảng cũng rõ ràng đấy, nhưng lời lẽ
có phần trẻ con, hai chữ “vô văn” không có nghĩa là không làm nên việc gì,
không ra làm quan. Chữ “văn” ở đây nghĩa là mình thông suốt đạo lý, dầu không
làm quan cũng là thành đạt; nếu không thế thì thánh hiền đời xưa cũng có người
trốn đời không ra làm quan. Không nhẽ cũng là người không thành đạt à? Ba chữ
“bất túc uý” cốt là để người ta xem xét cho cẩn thận, để đối chọi với chữ “tri
“ của “yên tri” chứ không phải có nghĩa là sợ. Phải nhận rõ điểm đó mới hiểu được
tinh vi, cháu có hiểu không?
- Hiểu rồi ạ.
- Còn một chương nữa cháu giảng xem.
Rồi ông ta giở qua một thiên khác, chỉ cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc
xem thì thấy là chương “Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả giã”.(3) Bảo Ngọc
cảm thấy chương ấy châm chọc mình, liền cười lấy lòng thầy và thưa:
- Câu này không có nghĩa gì mà giảng cả.
- Nói nhảm! Thế gặp lúc ra đề mục này, cháu cũng nói không có
gì mà làm hay sao?
Bảo Ngọc bất đắc dĩ phải giảng:
- Đấy là thánh nhân thấy người ta không chịu ham đạo đức, mà
thấy sắc đẹp thì rất là ham, không nghĩ rằng đạo đức là cái sẵn có ở trong bản
tính con người, thế mà người lại không chịu ham nó; trái lại sắc đẹp tuy cũng
đã có từ khi con người mới bẩm sinh ra, không ai là không ham, nhưng đức là
thiên lý, sắc là nhân dục, thế mà người ta không chịu xem thiên lý hơn nhân dục.
Đây tuy là lời than thở của Khổng Tử, mà lại có ý trông mong cho người ta trở lại
đường ngay và cũng để thấy rõ rằng người ta dù có ham đức vẫn là ham một cách
nông cạn, phải ham đức như ham sắc thì mới là thật ham.
- Cháu giảng thế cũng được, nhưng ta có điều này muốn hỏi:
cháu đã hiểu lời nói của Thánh nhân, vậy làm sao chính mình lại phạm lấy hai
cái lỗi ấy? Tuy rằng ta không ở trong nhà cháu, mà cha cháu cũng không nói với
ta, nhưng thật ra những tật xấu của cháu, ta điều biết hết. Làm một con người
sao lại không trông mong thành đạt? Giờ đây cháu đang ở cái thời “Hậu sinh khả
uý”, “Hữu văn” hay “bất túc úy”, hoàn toàn do mình làm lấy. Nay ta hẹn cho cháu
một tháng, đem những sách đã đọc, ôn lại một lượt. Rồi đọc thêm văn bát cổ
trong một tháng nữa, sau đó ta sẽ ra đầu bài cho mà làm. Nếu còn nhác nhớn, nhất
định ta không nghe đâu. Người xưa nói: “Muốn nên người không thể lười biếng, lười
biếng thì không thể nên người”. Cháu nên nhớ những lời ta dặn.
Bảo Ngọc vâng lời. Từ hôm ấy trở đi, ngày ngày đành phải học
tập theo lời thầy dạy.
Từ khi Bảo Ngọc đi học, trong viện Di Hồng rất là vắng vẻ
nhàn rỗi. Tập Nhân có thể làm ít nhiều công việc, chị ta cầm kim định thêu cái
bao đựng hạt cau, nghĩ bụng: “Bây giờ Bảo Ngọc đã đi học, bọn a hoàn không còn
lo phiền gì nữa, nếu việc này xảy ra sớm thì Tình Văn nào đến nỗi mà phải chết?”
“Máu chảy ruột mềm”, bất giác Tập Nhân chảy nước mắt, chợt nghĩ đến việc mai
sau, mình vốn không phải là vợ cả của Bảo Ngọc mà chỉ là vợ lẽ. Tính tình của Bảo
Ngọc mình còn nắm vững được, chỉ sợ anh ta lấy phải một người vợ cả ghê gớm thì
thân mình sẽ theo gót dì Vưu và Hương Lăng mà thôi. Cứ xem ý Giả mẫu và Vương
phu nhân cũng như nghe những lời Phượng Thư lộ ra, thì chắc chắn người ấy là Đại
Ngọc rồi. Đại Ngọc lại là một người hay ngờ vực”. Nghĩ đến đó chị ta nóng lòng
đỏ mặt, tay cầm kim không biết rơi vào chỗ nào mất. Tập Nhân liền bỏ việc chạy
sang nhà Đại Ngọc để dò la tình ý.
Đại Ngọc đang xem sách, thấy Tập Nhân đến liền vui vẻ mời ngồi.
Tập Nhân cũng vội vàng chạy lại hỏi:
- Mấy hôm nay người cô đã khá được nhiều rồi chứ?
- Làm gì có! Chẳng qua hơi đỡ một tý thôi, chị ở nhà làm gì
thế?
- Bây giờ cậu Hai đi học, trong nhà rỗi rãi, tôi tới thăm cô,
nói chuyện cho vui.
Nói xong, Tử Quyên bưng trà lại. Tập Nhân vội vàng đứng dậy
nói:
- Em ngồi chơi. Hôm trước nghe Thu Văn mách em nói trộm gì
chúng tôi phải không?
Tử Quyên cũng cười nói:
- Chị khéo tin lời nó à? Tôi chỉ nói cậu Hai thì đi học, cô Bảo
lại về nhà, đến cả Hương Lăng cũng không sang chơi, dĩ nhiên là phải buồn.
Tập Nhân nói:
- Em còn nhắc đến Hương Lăng nữa ư? Tội nghiệp chị ta gặp phải
cái mụ “hung thần” ấy, không biết chị ta chịu làm sao được. - Rồi Tập Nhân giơ
hai ngón tay lên và nói: Kể ra mụ ấy còn ghê gớm hơn “mợ” này nhiều, mụ ta chẳng
còn đếm xỉa gì đến thể diện nữa.
Đại Ngọc tiếp lời:
- Chị ấy chịu đựng kể cũng ghê đấy! Cô Hai Vưu tại sao mà chết?
Tập Nhân nói:
- Còn phải nói! Nghĩ lại cũng đều là người, danh phận có khác
nhau đôi chút, nhưng tội gì mà độc ác như thế? Đến nỗi mất cả tiếng tăm thể diện.
Đại Ngọc xưa nay không nghe Tập Nhân nói trộm như thế, nay
nghe câu ấy, chắc có dụng ý gì, liền động lòng, nói:
- Kể cũng khó nói, việc trong nhà nó như thế đấy, nếu không
phải gió đông thổi bạt gió lây, thì là gió tây thổi bạt gió đông.
Tập Nhân nói:
- Đã phải làm cái hạng vợ lẽ con hầu thì trong lòng đã sợ trước
rồi, còn dám khinh ai nữa.
Đang nói chuyện thì thấy một bà già từ ngoài sân hỏi vào:
- Đây có phải nhà cô Lâm không? Cô nào ở trong ấy thế?
Tuyết Nhạn ra xem, nhớ mang máng là người bên nhà Tiết phu
nhân, liền hỏi:
- Có việc gì thế?
- Cô chúng lôi sai đưa đồ vật biếu cô Lâm.
- Bà hãy chờ một chút.
Tuyết Nhạn vào trong thưa lại với Đại Ngọc. Đại Ngọc bảo dẫn
bà ta vào.
Bà già vào, hỏi thăm sức khỏe, chưa nói là đưa biếu cái gì, mắt
cứ nhìn chòng chọc vào Đại Ngọc. Đại Ngọc thấy bực mình liền hỏi:
- Cô Bảo sai bà đưa gì thế?
- Cô chúng tôi bảo đưa biếu cô một bình quả vải ướp mật ong.
Bà ta ngoảnh đầu lại thấy Tập Nhân, liền hỏi:
- Cô này có phải là cô Hoa bên nhà cậu Bảo không?
Tập Nhân cười nói:
- Tại sao bà biết tôi?
- Chúng tôi chỉ coi nhà cho bà tôi, không hay theo bà và cô
tôi ra ngoài, cho nên không biết rõ các cô. Nhưng thỉnh thoảng các cô qua bên
nhà chơi nên chúng tôi cũng còn hơi biết.
- Chả trách bà nhà chúng lôi thường nói: “Cô Lâm với cậu Bảo
thật là một đôi xinh đẹp chẳng khác tiên trên trời”.
Tập Nhân thấy bà ta ăn nói xốc nổi, vội vàng nói lảng:
- Bà mệt, ngồi uống nước trà đi.
Bà già cười hì hì nói:
- Bên chúng lôi bận lắm, còn phải sắp đặt việc cô Cầm. Cô tôi
còn có hai bình vải nữa, bảo đưa biếu cậu Bảo.
Nói xong, bà ta vội vã cáo từ rồi bước ra.
Đại Ngọc tuy giận bà ta vừa rồi ăn nói thô lỗ, nhưng vì là
người nhà Bảo Thoa, nên không tiện nói. Chờ cho bà ta ra khỏi cửa mới nói:
- Gởi lời cảm ơn cô Bảo nhé.
Bà già miệng vẫn lẩm bẩm: “Con người đẹp đẽ như thế, trừ cậu
Bảo Ngọc ra ai mà sánh nổi”.
Đại Ngọc cứ vờ như không nghe thấy. Tập Nhân cười nói:
- Tại sao người ta hễ già là hay nói lẩn thẩn, làm cho người
nghe vừa giận vừa buồn cười.
Một lúc sau, Tuyết Nhạn đưa bình vải cho Đại Ngọc xem. Đại Ngọc
nói:
- Tôi chẳng buồn ăn, chị đem cất đi.
Chuyện trò một lúc. Tập Nhân ra về.
Chiều đến, sắp sửa cởi đồ trang sức, Đại Ngọc vào phòng trong
ngước đầu trông thấy bình vải, không khỏi nhớ đến lời nói nhảm của bà già lúc
ban ngày, cảm thấy trong lòng lòng bức rứt. Giữa quãng hoàng hôn, người vắng, Đại
Ngọc nghìn sầu muôn mối, chứa chất bên lòng, nghĩ bụng: “Người mình thì yếu, tuổi
cũng đã lớn, xem ý Bảo Ngọc tuy một lòng nghĩ đến mình nhưng bà và mợ lại không
tỏ ý gì, rất giận là lúc cha mẹ còn sống, tại sao không sớm định việc hôn nhân
cho mình”. Rồi cô la lại nghĩ: “Nếu lúc cha mẹ còn sống, mà định việc hôn nhân ở
chỗ khác thì làm gì được con người tài giỏi và tốt như Bảo Ngọc? Chính lúc này
còn có thể liệu được”. Nghĩ đi nghĩ lại trằn trọc miên man, Đại Ngọc thổn thức
không yên, than thở một hồi, nhỏ vài giọt lệ, tình tứ thẫn thờ, để cả áo đi ngủ.
Đang khi mơ mơ màng màng, bỗng thấy một a hoàn nhỏ chạy đến nói:
- Ông Giả Vũ Thôn ở ngoài muốn gặp cô.
Đại Ngọc nghĩ bụng, ta tuy học ông ta, nhưng không thể so với
học trò con trai, ông ta muốn gặp ta làm gì? Vả lại ông ta đi lại với cậu ta,
chẳng hề nhắc nhở tới ta một lời, ta cũng bất tất gặp phải ông ta làm gì? Rồi
quay lại bảo a hoàn nhỏ:
- Trong người ta đang ốm, không thể ra tiếp ông ta được. Nhờ
em hỏi thăm sức khỏe và cám ơn hộ.
- Nghe đâu ông ta đến báo tin mừng cho cô, và ở Nam Kinh có
người đến đón cô nữa đấy.
Đang nói thì Phượng Thư, Hình phu nhân, Vương phu nhân, Bảo
Thoa đều đến, cười nói:
- Chúng tôi trước là đến mừng, sau là tiễn cô.
Đại Ngọc hoảng lên, nói:
- Các mợ và các chị nói gì vậy?
Phượng Thư nói:
- Cô còn giả vờ ngớ ngẩn nữa thôi? Chả lẽ cô lại không biết
chú Lâm thăng chức lương đạo tỉnh Hồ Bắc, lấy một bà kế mẫu rất tâm đầu ý hợp.
Bây giờ cha cô nghĩ bỏ cô ở đây không ra sao cả, cho nên nhờ ông Giả Vũ Thôn
làm mối, đưa cô gả cho người bà con nào đó của bà kế mẫu, nghe nói là làm vợ kế,
vì thế sai người đến đón cô về. Có lẽ cô về đến nhà là về nhà chồng ngay. Việc
này đều là do bà mẹ kế của cô làm chủ. Bà ta sợ dọc đường không ai trông nom
cô, nên lại bảo anh Hai Liễn đưa đi.
Đại Ngọc nghe nói lạnh toát cả người. Rồi cô ta lại mơ màng
nhớ, hình như cha mình quả thực đang làm quan ở đấy, trong lòng cuống lên, liền
hỏi liều:
- Làm gì có việc ấy. Chị Phượng nói bậy!
Bỗng thấy Hình phu nhân liếc mắt nhìn Vương phu nhân và nói:
- Nó còn chưa tin, chúng ta về thôi.
Đại Ngọc ứa nước mắt nói:
- Hai mợ ngồi một tý đã.
Mọi người không nói gì, đều cười nhạt rồi ra về. Đại Ngọc hoảng
quá nghẹn ngào khóc lóc không nói nên lời. Rồi lại mơ màng hình như mình ở
một chỗ với Giả mẫu, nghĩ bụng: “Việc này chỉ có xin với bà, hoặc giả còn có thể
cứu vãn được chăng?”
Đại Ngọc vội vàng qùy xuống, ôm lấy chân Giả mẫu mà nói:
- Bà cứu cháu với! Về Nam thì chết cháu cũng không về. Vả lại
đó là kế mẫu không phải mẹ đẻ cháu. Cháu xin ở đây với bà thôi.
Nhưng thấy Giả mẫu mặt mày lạnh lùng cười nói:
- Cái đó không can gì đến ta.
Đại Ngọc khóc nói:
- Bà ơi, sao lại thế?
- Làm vợ kế cũng tốt, lại được thêm một bộ đồ nữ trang.
- Cháu ở đây với bà, quyết không tiêu pha quá đáng đâu, chỉ
xin bà cứu cháu.
- Không ăn thua đâu! Làm con gái nhất định là phải đi lấy chồng,
cháu còn bé không biết đấy thôi, không thể ở đây mãi được đâu cháu ạ.
- Cháu ở đây tình nguyện làm người con hầu làm lấy mà ăn,
cũng cứ vui lòng, xin bà làm chủ cho.
Thấy Giả mẫu không nói gì cả. Đại Ngọc lại ôm lấy Giả mẫu mà
khóc:
- Bà ơi xưa nay bà rất từ bi, lại rất yêu cháu, sao đến khi
nguy cấp bà lại bỏ cháu đi như thế? Cháu tuy là cháu ngoại bà, đã cách một tầng,
nhưng mẹ cháu là con đẻ của bà, bà nghĩ đến mẹ cháu xin bà bênh vực cho cháu với.
Đại Ngọc vừa nói vừa đâm đầu vào lòng Giả mẫu, khóc lóc thảm
thiết. Nghe Giả mẫu gọi: “Uyên Ương, mày đưa cô đi nghỉ, nó quấy tao mệt quá”.
Đại Ngọc biết là không xong, kêu nài cũng vô ích, chi bằng tìm cách tự tử, liền
đứng dậy chạy ra ngoài, giận mình không còn mẹ đẻ, tuy bà ngoại, các mợ và chị
em ngày thường đối đãi với mình hết sức tử tế, nhưng chẳng qua cũng là giả dối
cả. Thế rồi nghĩ: “Tại sao hôm nay không thấy Bảo Ngọc, nếu được gặp anh ấy, hoặc
giả còn có cách gì chăng?” Liền thấy Bảo Ngọc đứng trước mặt, cười hì hì và
nói: “Mừng cho cô nhé!” Đại Ngọc nghe câu ấy, lại càng cuống lên, không kể gì nữa,
nắm chặt lấy Bảo Ngọc và nói:
- Gớm anh Bảo Ngọc! Hôm nay em mới biết anh là người vô tình
vô nghĩa!
- Anh làm sao mà vô tình vô nghĩa? Em đã có chồng, thì bọn
mình ai lo việc cho người nấy thôi.
Đại Ngọc càng nghe càng tức, càng bối rời, đành phải nắm lấy
Bảo Ngọc, khóc, nói:
- Anh ơi! Anh bảo em theo ai?
- Nếu không muốn đi thì ở lại đây. Em vốn đã hứa hôn với anh,
nên mới đến ở đây. Anh đối đãi với em như thế nào? Em nghĩ lại xem.
Đại Ngọc lại mơ màng nghĩ hình như mình đã gả cho Bảo Ngọc rồi,
trong lòng lại đổi buồn làm vui và hỏi Bảo Ngọc:
- Em đã nhất quyết sống chết cũng theo anh, anh bảo em đi hay
ở?
- Anh bảo em ở lại, nếu em không tin lời anh thì thử xem tim
anh đây.
Nói xong, Bảo Ngọc cầm một cây dao nhỏ, rạch bụng một cái,
máu tươi phọt ra. Đại Ngọc sợ quá, hồn xiêu phách lạc, vội vàng đưa tay nắm lấy
bụng Bảo Ngọc, khóc, nói:
- Sao anh lại làm như thế này, thì anh giết em đi đã!
- Không sợ đâu! Anh bày tim gan cho em xem.
Rồi Bảo Ngọc thò tay vào chỗ rạch, cào lấy cào để. Đại Ngọc vừa
run vừa khóc, lại sợ người trông thấy vỡ chuyện, cứ ôm lấy Bảo Ngọc khóc lóc thảm
thiết. Bảo Ngọc nói:
- Nguy to! Quả tim anh không còn nữa, chết mất!
Nói xong trợn ngược mắt lên ngã lăn đùng ra.
Đại Ngọc khóc òa lên. Bỗng nghe Tử Quyên gọi:
- Cô! Cô! Nằm mơ gì thế? Mau mau tỉnh dậy, cởi áo ra mà ngủ.
Đại Ngọc trở mình một cái, thì ra một cơn ác mộng. Trong cổ vẫn
còn nghẹn ngào, tim đập thình thịch, gối đầu đã ướt đầm, toàn thân lạnh ngắt:
“Cha mẹ mình chết đã lâu, mình với Bảo Ngọc, hôn nhân chưa định, việc này do
đâu mà ra?” Đại Ngọc nghĩ đến cảnh ngộ của mình trong giấc mộng, không nơi
nương tựa, nếu thật Bảo Ngọc mà chết đi, thì biết làm thế nào? Qua nỗi đau khổ,
cô ta suy nghĩ đau xót, tâm thần rối loạn, lại khóc một hồi, gối đầy nước mất,
cả người ướt đẫm mồ hôi, gắng gượng ngồi dậy, cởi áo khoác ngoài ra, bảo Tử
Quyên đắp chăn tử tế, rồi nằm xuống, cứ trằn trọc mãi không sao ngủ được. Nghe
bên ngoài rả rích, vi vu giống như tiếng gió, cũng giống như tiếng mưa, một chốc
lại nghe xa xa có tiếng khò khè, đó là tiếng ngáy của Tử Quyên. Đại Ngọc gắng
gượng bò dậy, khoác chăn ngồi một chốc, cảm thấy một luồng gió rét từ ngách cửa
sổ thổi vào, nổi gai sởn ốc, vội vàng nằm xuống. Đang mơ màng muốn ngủ thì nghe
trên cành trúc không biết bao nhiêu là chim sẻ, kêu ríu rít, mảnh giấy trên
khung cửa sổ sáng dần. Đại Ngọc đã tỉnh hẳn, hai mắt long lanh, ho rũ rượi một
hồi lâu, Tử Quyên cũng ho mấy tiếng rồi tỉnh dậy nói:
- Cô còn chưa ngủ à? Lại ho rồi, chắc là bị gió lạnh đấy. Bây
giờ trời sắp sáng rồi, nhìn ngoài cửa sổ đã rõ giấy dán. Cô hãy nằm nghỉ một
lát đi, phải giữ gìn tinh thần, đừng nghĩ ngợi miên man nữa.
- Tôi có phải không muốn ngủ đâu? Nhưng mà ngủ không được nữa,
chị cứ ngủ đi.
Nói đoạn Đại Ngọc ho. Tử Quyên thấy vậy, trong bụng cũng
thương cảm, ngủ không được nữa. Thấy Đại Ngọc ho, chị ta vội vàng đứng dậy,
bưng ống nhổ lại, lúc đó trời đã sáng thật. Đại Ngọc nói:
- Chị không ngủ nữa à?
- Trời đã sáng bạch rồi, ngủ làm gì nữa?
- Vậy thì chị thay cái ống nhổ đi.
Tử Quyên vâng lời, vội vàng cầm ống nhổ để lên bàn, mở cửa
phòng đi ra, rồi khép lại, buông màn hoa xuống, đi gọi Tuyết Nhạn dậy. Lúc đổ ống
nhổ thấy trong đờm có dính máu, Tử Quyên giật mình bất giác thất thanh gọi:
- Trời ơi, nguy to rồi!
Đại Ngọc ở trong nhà hỏi ra:
- Cái gì thế?
Tử Quyên biết mình lỡ lời, vội vàng nói chữa:
- Tôi buột tay một cái, suýt nữa quãng cái ống nhổ.
- Có phải đờm trong ống nhổ có gì phải không?
- Có gì đâu.
Tử Quyên nỗi lòng đau xót, ứa nước mắt ra, giọng nói đổi hẳn.
Đại Ngọc thấy trong họng mình hơi tanh tanh ngọt ngọt, bụng
đã hơi nghi, lại thấy Tử Quyên ở ngoài có vẻ nhớn nhác, giờ lại nghe tiếng nói
của cô ta có vẻ buồn thảm, trong lòng Đại Ngọc đã biết tám chín phần, liền gọi:
- Chị Tử Quyên! Vào đi thôi. Ở ngoài ấy khéo bị lạnh đấy.
Tử Quyên “dạ” một tiếng, tiếng nói so với trước lại càng đau
đớn hơn, rõ ràng là tiếng nức nở.
Đại Ngọc nghe vậy, lạnh buốt nửa người. Thấy Tử Quyên đẩy cửa
vào, còn cầm khăn lau nước mắt. Đại Ngọc nói:
- Sớm mai mới dậy làm gì mà chị khóc thế?
- Tôi có khóc đâu? Sáng nay dậy thấy con mắt hơi khó chịu. Cô
hình như đêm nay dậy sớm hơn mọi hôm, phải không? Tôi nghe cô ho đến nửa đêm.
- Phải đấy! Càng muốn ngủ nhưng không ngủ được.
- Người cô không được khỏe lắm, theo ý tôi cần nên tiêu khiển
cho đỡ buồn, phải giữ mình là chính. Tục ngữ hay nói: “Non xanh còn đấy, còn có
củi đun”. Cô ở đây, từ cụ và bà Hai trở xuống, ai lại không thương yêu cô?
Câu nói ấy nhớ gợi lại giấc mộng. Đại Ngọc cảm thấy trong
lòng nhức nhối, trước mắt tối sầm, thần sắc thay đổi hẳn. Tử Quyên vội vàng
bưng ống nhổ lại, Tuyết Nhạn vỗ xương sống, một chốc cô ta mới khạc ra một miếng
đờm, trong có tia máu đỏ.
Tử Quyên và Tuyết Nhạn sợ tái mặt, hai người ngồi bên cạnh
trông nom. Đại Ngọc mê mệt nằm xuống. Tử Quyên xem chừng nguy cấp vội vàng hất
hàm ra hiệu bảo Tuyết Nhạn đi gọi người.
Tuyết Nhạn vừa ra khỏi cửa thì thấy Thúy Lũ và Thúy Mặc cười
rúc rích chạy đến. Thúy Lũ hỏi:
- Tại sao cô Lâm bây giờ còn chưa đi ra? Cô chúng tôi và cô
Ba đều ở bên nhà cô Tư nói chuyện về bức tranh cái vườn của cô Tư vừa vẽ.
Tuyết Nhạn vội xua tay. Thúy Lũ và Thúy Mặc giật mình hỏi:
- Có việc gì thế?
Tuyết Nhạn đem việc vừa rồi nói rõ với hai người, hai người đều
lè lưỡi nói:
- Không phải chuyện chơi! Sao các chị không đến trình với cụ?
Nguy lắm đấy! Các chị sao lại vớ vẩn thế?
Tuyết Nhạn nói:
- Tôi đang định đi, thì các chị đến.
Đang nói chuyện thì nghe tiếng Tử Quyên gọi:
- Ai nói chuyện ở ngoài kia? Cô đang hỏi đấy.
Ba người vội vàng đi vào, Thúy Lũ và Thúy Mặc thấy Đại Ngọc đắp
chăn nằm trên giường. Đại Ngọc thấy hai người liền hỏi:
- Ai nói với các chị mà các chị nhớn nhác thế?
Thúy Mặc nói:
- Cô chúng tôi cùng cô Vân đều ở bên nhà cô Tư, bàn bạc về bức
tranh cái vườn của cô ấy, bảo chúng tôi đến mời cô, không ngờ cô lại mệt.
- Cũng không phải bệnh gì nặng, chẳng qua trong người hơi mệt,
nằm một lát sẽ dậy, các chị về thưa với cô Ba và cô Vân, ăn cơm xong nếu rỗi
rãi mời các cô đến đây chơi một chốc. Cậu Bảo có đến bên nhà các chị không?
Hai người trả lời: “Không”.
Thúy Mặc lại nói:
- Hai hôm nay cậu Bảo đi học, hôm nào ông lớn cũng xem xét
bài vở, đâu còn có thể đi chơi rông như lúc trước được nữa?
Đại Ngọc nghe nói im lặng, hai người đứng một lát rồi lén lén
đi ra.
Thám Xuân và Tương Vân đang ở bên nhà Tích Xuân bàn bạc về bức
tranh “Vườn Đại quan” của Tích Xuân:
- Chỗ này hơi thừa, chỗ kia hơi thiếu, chỗ này thưa quá, chỗ
kia nhặt quá.
Mọi người lại bàn việc đề thơ và sai hai người đi mời Đại Ngọc
đến bàn bạc.
Chợt thấy Thúy Lũ và Thúy Mặc trở về sắc mặt hoảng hốt.
Tương Vân hỏi trước:
- Sao cô Lâm không tới?
Thúy Lũ nói:
- Cô Lâm đêm hôm qua lại ốm, ho một đêm, chúng tôi nghe Tuyết
Nhạn nói cô ta ho ra máu.
Thám Xuân nghe nói ngạc nhiên hỏi:
- Thật không?
Thúy Lũ nói:
- Sao lại không thật!
Thúy Mặc nói:
- Vừa rồi chúng tôi đến thăm, thấy cô Lâm mặt mày xanh xao,
giọng nói rất là yếu ớt.
Tương Vân nói:
- Đã ốm như thế, sao lại còn nói được?
Thám Xuân nói:
- Sao cô lại vớ vẩn thế? Nếu không nói được thì tức là...
Cô ta đến đó bỗng nín bặt đi.
Tích Xuân nói:
- Cô Lâm thông minh như thế, nhưng tôi xem ra thì không hiểu
gì hết, bạ cái gì cũng cho là thật, nhưng việc thiên hạ nào có thật cả đâu.
Thám Xuân nói:
- Đã thế thì chúng ta qua thăm cô ta một lát, nếu thật bệnh
quá nặng thì chúng ta nói với chị Cả, thưa lại với cụ, mời thầy thuốc đến xem.
Tương Vân nói:
- Phải đấy!
Tích Xuân nói:
- Các chị đi trước, chốc nữa tôi sẽ sang.
Thám Xuân và Tương Vân vịn vào a hoàn nhỏ đi đến quán Tiêu
Tương. Thấy hai người bước vào phòng, Đại Ngọc lại đâm ra chạnh lòng. Rồi cô ta
lại nhớ câu chuyện trong mộng: “Ngay cả bà mình cũng còn như thế, huống nữa là
họ, nếu mình không mời thì họ cũng chẳng đến nào”. Trong bụng nghĩ thế, nhưng
ngoài mặt không thể bỏ qua, Đại Ngọc đành phải miễn cưỡng bảo Tử Quyên đỡ dậy,
mời hai người ngồi.
Thám Xuân và Tương Vân đều ngồi bên mép giường, mỗi bên một
người. Thấy quang cảnh Đại Ngọc như vậy họ đều thương cảm.
Thám Xuân hỏi:
- Cô lại ốm rồi sao?
- Không can gì đâu, chỉ thấy trong người mệt lắm.
Tử Quyên ở sau lưng Đại Ngọc, lấy tay chỉ trộm cái ống nhổ.
Tương Vân tuổi trẻ, tính lại bộc trực, liền giơ tay cầm ống đờm lên xem, sợ hãi
nói:
- Cô nhổ ra đấy à? Chết thật!
Đại Ngọc mê mệt, nhổ ra cũng không xem kỹ, giờ nghe Tương Vân
nói, ngoảnh lại xem, bất giác lạnh toát nửa người. Thám xuân thấy Tương Vân xốc
nổi, vội vàng nói chữa:
- Đó chẳng qua là phế hỏa bốc lên, vương ra một vài giọt chứ
có gì đâu. Cái cô Vân này thấy bất kỳ cái gì cũng cứ làm nhặng lên.
Tương Vân biết mình lỡ lời, đỏ bừng mặt. Thám Xuân thấy Đại
Ngọc tinh thần uể oải, có ý mỏi mệt, vội vàng đứng dậy nói:
- Cô hãy tĩnh dưỡng gìn giữ tinh thần, chốc nữa chúng tôi sẽ
lại.
- Cảm ơn hai cô nhớ đến tôi.
Thám Xuân lại dặn Tử Quyên:
- Chị phải chăm chỉ hầu hạ cô đấy.
Tử Quyên vâng lời.
Thám Xuân vừa định đi ra, thì nghe bên ngoài có người kêu gào
ầm lên.
Chú thích:
Chú thích:
(1). Chữ trong Luận ngữ: cả đoạn này “Hậu sinh khả úy yên tri
lai giả chi bất như kim dã. Tứ thập ngũ thập nhi vô văn yên, diệc bất túc úy
yên nhi hĩ”, nghĩa là lớp trẻ là đáng sợ, biết đâu sau này không như ngày nay.
Người bốn, năm mươi tuổi mà không có tiếng tăm gì, thì cũng không đáng sợ.
(2). Khi giảng tới câu này không phải kiêng kỵ.
(3). Cũng ở trong Luận ngữ: Ta chưa thấy ai ham đức như ham sắc
đẹp.
Hồi 83:
Vào cung Vị, thăm Nguyên phi bị ốm;
Nhộn nhà cửa, làm Bảo Thoa nghẹn lời.
Thám Xuân và Tương Vân đang định đi ra, chợt nghe bên ngoài
có người kêu ầm lên:
- Con ranh con kia! Cái thứ mày là hạng gì mà dám đến phá
phách vườn này?
Đại Ngọc nghe nói, kêu to lên một tiếng:
- Không thể ở đây được nữa!
Rồi giơ một tay chỉ ra ngoài cửa sổ, hai mắt cứ trợn ngược
lên. Đại Ngọc ở trong vườn Đại Quan, tuy được Giả mẫu thương yêu nhưng đối với
người khác, việc gì cũng để ý từng ly từng tí. Nghe bà già ở ngoài cửa sổ mắng
như thế, nếu như người khác thì không để ý làm gì, nhưng Đại Ngọc lại cho người
ta nói móc mình. Cô ta nghĩ bụng “Mình là một vị tiểu thư nghìn vàng, chỉ vì
cha mẹ mất cả, không biết người nào xui xiểm bà già ấy đến nhiếc mắng mình như
thế”. Trong lòng tức tối không sao chịu nổi, cô ta đau đớn quá ngất người đi.
Tử Quyên vừa khóc vừa gọi:
- Cô sao thế? Mau mau tỉnh lại.
Thám Xuân cũng gọi, một lát sau Đại Ngọc mới hồi tỉnh, nhưng
vẫn nói không ra lời, một tay vẫn chỉ ra ngoài cửa sổ.
Thám Xuân hiểu ý, mở cửa đi ra, thấy một bà già tay cầm cái gậy,
đuổi một con bé lem luốc và nói:
- Tao tới đây để trông nom hoa quả cây cối trong vườn, chứ
mày làm gì mà cũng đến đây? Về nhà tao sẽ đánh cho mày một trận.
Con bé kia quay đầu lại, miệng đang mút ngón tay chùn chụt mắt
nhìn bà già mà cười.
Thám Xuân mắng:
- Các bà dạo này càng không có phép tắc gì nữa! Ở đây là chỗ
các bà mắng người ta đấy à?
Bà già kia thấy Thám Xuân, vội vàng cười tươi nói:
- Con cháu ngoại tôi thấy tôi vào đây, nó cũng đi theo, tôi sợ
nó phá, nên quát nó về, đời nào tôi lại dám mắng người ta ở đây.
- Không cần nói nhiều, ở đây cô Lâm không được khỏe, bà ra
mau mau đi cho tôi.
Bà già “dạ” một tiếng, quay ra ngay, con bé cũng chạy mất.
Thám Xuân trở vào, thấy Tương Vân cứ nắm tay Đại Ngọc mà
khóc. Tử Quyên một tay ôm lấy người Đại Ngọc, một tay vuốt bụng cho cô ta. Bấy
giờ con mắt Đại Ngọc mới dần dần trở lại như cũ.
Thám Xuân cười nói:
- Chắc là cô nghe lời bà già kia nói mà ngờ vực phải không?
Đại Ngọc cứ lắc đầu. Thám Xuân nói:
- Bà già ấy mắng cháu ngoại, vừa rồi tôi cũng nghe thấy. Các
bà ấy ăn nói thật chả biết gì cả, các bà ấy có biết kiêng nể gì đâu?
Đại Ngọc nghe nói, thở dài nắm lấy tay Thám Xuân và nói:
- Em... - Rồi lại im bặt.
Thám Xuân lại nói:
- Cô đừng có phiền lòng, tôi đến thăm cô, đó là tình nghĩa chị
em. Cô lại ít người hầu hạ, chỉ cần cô yên tâm và chịu khó uống thuốc, trong bụng
nên nghĩ đến những việc vui mừng. Cô sớm mạnh khỏe được ngày nào thì ngày ấy
chúng ta lại lập thi xã làm thơ như cũ, thế chẳng vui sao?
Tương Vân nói:
- Như chị Ba nói đó vui biết chừng nào.
Đại Ngọc nghẹn ngào:
Thám Xuân nói:
- Cô nói bậy thôi, người nào không có bệnh tật kia chứ? Đã có
gì đâu mà nghĩ vơ vẩn thế? Cô hãy nghỉ thôi, chúng tôi đến bên cụ, rồi chốc nữa
sẽ quay trở lại. Cô cần gì cứ bảo Tử Quyên nói với tôi.
Đại Ngọc ứa nước mắt, nói:
- Em ạ! Em đến bên nhà cụ, nhờ chuyển lời tôi hỏi thăm sức khỏe,
trong người tôi hơi mệt, không có bệnh gì nặng, xin cụ chớ phiền lòng.
Thám Xuân vâng lời, nói:
- Tôi biết rồi, cô cứ nằm yên thôi.
Nói xong cùng Tương Vân đi ra.
Trong lúc đó Tử Quyên đỡ Đại Ngọc nằm xuống giường, mọi việc
đã có Tuyết Nhạn lo liệu, còn mình thì săn sóc cho Đại Ngọc. Nhìn Đại Ngọc, Tử
Quyên đau xót trong lòng, nhưng không dám khóc. Đại Ngọc nhắm mắt một lát,
nhưng không sao ngủ được. Trong vườn ngày thường tịnh mịch, nay nằm trên giường,
cô ta nghe tiếng gió thổi, tiếng sâu bọ kêu, tiếng chim hót, tiếng chân người
đi lại, hình như xa xa có tiếng trẻ con khóc. Tất cả những tiếng ấy, cứ xào xạc
bên tai, làm cho cô ta đâm ra bực bội, liền gọi Tử Quyên buông màn xuống.
Tuyết Nhạn bưng một bát yến sào đưa cho Tử Quyên. Tử Quyên đứng
ngoài màn hỏi khẽ:
- Cô húp một miếng nhé?
Đại Ngọc khẽ ừ một tiếng. Tử Quyên quay lại đưa bát yến sào
cho Tuyết Nhạn, rồi lên giường đỡ Đại Ngọc ngồi dậy. Tử Quyên cầm bát yến sào,
nếm thử một tý, rồi một tay ôm lấy vai Đại Ngọc; một tay bưng bát đưa lên môi Đại
Ngọc. Đại Ngọc hé mắt húp hai, ba miếng, rồi lắc đầu không ăn nữa. Tử Quyên lại
đưa bát cho Tuyết Nhạn, đỡ Đại Ngọc nhè nhẹ nằm xuống.
Nằm yên lặng một lát, Đại Ngọc hơi đỡ, chợt nghe ngoài cửa sổ
có tiếng hỏi nhỏ:
- Em Tử Quyên có ở nhà không?
Tuyết Nhạn vội vàng đi ra, thấy Tập Nhân, liền nói khẽ:
- Mời chị vào trong nhà ngồi.
Tập Nhân cũng hỏi khẽ:
- Cô làm sao thế?
Vừa đi, Tuyết Nhạn vừa kể lại mọi việc vừa xảy ra đêm qua. Tập
Nhân nghe vậy cũng kinh sợ ngơ ngác, liền nói:
- Chả trách vừa rồi Thúy Lũ đến bên chúng tôi nói cô ốm, cậu
Bảo sợ quá, vội sai tôi đến xem thế nào?
Đương nói thì thấy Tử Quyên vạch màng ló đầu ra nhìn.
Trông thấy Tập Nhân, Tử Quyên vẫy tay gọi. Tập Nhân nhẹ nhàng
đi tới, hỏi:
- Cô ngủ rồi à?
Tử Quyên gật đầu, hỏi lại:
- Chị cũng biết tin à?
Tập Nhân cũng gật đầu, rồi cau mày nói:
- Cứ thế này mãi thì làm thế nào? Cậu Bảo đêm hôm qua cũng
làm tôi sợ gần chết.
- Sao thế?
- Đêm hôm qua khi cậu ấy đi ngủ thì không có việc gì cả. Ai
ngờ nửa đêm cậu ấy kêu rầm lên là đau bụng, miệng nói lảm nhảm hình như bị dao
cắt ruột, mãi đến gần sáng mới hơi đỡ, chị bảo có dễ sợ không? Hôm nay cậu ấy
không đi học được, lại còn phải mời thầy uống thuốc nữa đấy.
Đang nói thì nghe Đại Ngọc lại ho ở trong màn. Tử Quyên vội
vàng lại gần, bưng ống nhổ để hứng đờm. Đại Ngọc hé mắt ra và hỏi:
- Chị nói chuyện với ai thế?
- Chị Tập Nhân đến thăm cô đấy.
Lúc này Tập Nhân đã đi tới bên giường. Đại Ngọc bảo Tử Quyên
đỡ dậy, một tay chỉ bên giường, mời Tập Nhân ngồi.
Tập Nhân ghé mình ngồi xuống, vội vàng tươi cười an ủi:
- Cô cứ nằm thôi.
- Tôi không hề gì đâu, các chị đừng có làm xôn xao lên thế, vừa
rồi, chị nói ai nửa đêm đau bụng?
- Cậu Bảo ngẫu nhiên bị mê nhưng không can gì.
Đại Ngọc hiểu ý, biết là Tập Nhân sợ mình lo lắng. Cô ta vừa
cảm kích, vừa đau thương, nhân tiện hỏi:
- Cậu ấy mê sảng thế chị không nghe cậu ấy nói gì à?
- Cũng không nói gì.
Đại Ngọc gật đầu, một hồi lâu thở phào một tiếng rồi nói:
- Các chị đừng nói với cậu Bảo là tôi ốm, coi chừng cậu ấy lại
nhỡ việc học, để ông lại giận.
Tập Nhân vâng lời và khuyên:
- Cô nên nằm nghỉ thôi.
Đại Ngọc giật đầu, bảo Tử Quyên đỡ mình nằm xuống.
Tập Nhân ngồi một bên, an ủi mấy câu rồi ra về. Đến viện Di Hồng,
chị ta chỉ nói Đại Ngọc hơi mệt, không phải bệnh gì nặng. Bảo Ngọc mới yên
lòng.
Thám Xuân và Tương Vân ra khỏi quán Tiêu Tương đi một mạch đến
nhà Giả mẫu. Thám Xuân dặn Tương Vân:
- Chốc nữa gặp cụ, em đừng có xốc nổi như thế nữa.
Tương Vân gật đầu cười, nói:
- Biết rồi, lúc nãy em khiếp quá nên mới vô ý như thế.
Lúc này hai người đã đến nhà Giả mẫu. Thám Xuân nhắc đến bệnh
Đại Ngọc. Giả mẫu nghe vậy, buồn bực nói:
- Chỉ có hai cháu Ngọc là lắm bệnh tật. Con Lâm giờ đã lớn rồi,
phải gìn giữ thân thể, ta thấy nó hay để ý từng ly từng tý quá.
Mọi người đều không dám nói gì. Giả mẫu liền bảo Uyên Ương:
- Mày nói với chúng nó: Ngày mai thầy thuốc đến xem cho Bảo
Ngọc thì bảo sang xem cho con Lâm luôn.
Uyên Ương vâng lời đi ra, nói với bọn bà già. Bọn bà già lại
truyền ra ngoài. Thám Xuân và Tương Vân ăn cơm chiều với Giả mẫu, rồi về trong
vườn.
Hôm sau, thầy thuốc đến xem bệnh cho Bảo Ngọc, chẳng qua cũng
nói là ăn uống không có điều độ, hơi cảm phong hàn, không quan hệ lắm, sơ tán một
chút là khỏi. Vương phu nhân và Phượng Thư một mặt sai người đem đơn thuốc đến
trình Giả mẫu; một mặt sai người đến nói với người ở quán Tiêu Tương:
- Thầy thuốc sắp đến rồi đấy.
Tử Quyên vâng lời, vội vàng đắp chăn cho Đại Ngọc tử tế và
buông màn xuống. Tuyết Nhạn thì vội vàng dọn dẹp trong phòng.
Một lát sau, Giả Liễn đưa thầy Lang vào và nói:
- Cụ lang thường đến đây luôn, các chị không cần phải tránh.
Bà già treo màn lên. Giả Liễn mời thầy Lang vào ngồi trong
phòng, rồi nói:
- Chị Tử Quyên, chị hãy kể bệnh tình của cô Lâm cho cụ Vương
rõ.
Thầy lang họ Vương bảo:
- Hãy khoan, để tôi bắt mạch, và nói xem có đúng hay không. Nếu
có chỗ nào sai các cô sẽ bảo tôi.
Tử Quyên liền đưa tay của Đại Ngọc từ trong màn ra, đặt trên
gối dựa, rồi nhẹ nhàng giơ cái ống áo và cái vòng lên để khỏi đè lấy mạch.
Thầy Lang họ Vương bắt mạch tay này một lúc, lại bắt sang tay
kia, rồi cùng Giả Liễn đi ra nhà ngoài ngồi và nói:
- Sáu mạch đều huyền(1) là do ngày thường hay tư lự mà ra.
Đang nói thì Tử Quyên cũng ra đứng phía trong cửa. Thầy lang
liền bảo Tử Quyên:
- Bệnh này thường chóng mặt kém ăn uống, hay chiêm bao; mỗi
lúc đến canh năm, thế nào cũng tỉnh dậy mấy lần; ban ngày dù nghe những việc
không liên quan đến mình cũng cứ tức giận và hay nghi hay sợ. Ai không biết thì
cho là tính tình quá gở, thực ra chỉ vì can âm bị suy kém, tâm trí hao mòn,
nguyên nhân cũng đều là do bệnh ấy gây nên cả. Có đúng thế không?
Tử Quyên gật đầu, nói với Giả Liễn:
- Thầy nói rất đúng.
Thầy Lang nói:
- Thế thì được.
Nói xong, ông ta cùng Giả Liễn đi ra thư phòng kê đơn.
Bọn hầu trai đã sắp sẵn một tờ thiếp mai hồng. Thầy lang uống
trà xong cầm bút viết:
“Sáu mạch huyền và chậm, vì ngày thường uất tích. Mạch “thốn”
bên phải vô lực; tâm khí đã suy. Riêng mạch “quan” lại mạnh là can tà vượng
hơn. Mộc khí không tiết ra được, thế nào cũng lấn tỳ thổ, vì thế mà ăn không biết
ngon, thậm chí thắng cái không thể thắng; phế kim nhất định bị thương. Khí
không lưu thông, ngưng tụ lại thành ra đờm; huyết theo khí mà trào lên, tất
sinh ho. Đúng thì phải “Sơ can bảo phế” nuôi dưỡng tâm tỳ. Tuy có thuốc bổ,
cũng không nên dùng ngay. Bây giờ hãy xin dùng bài “Hắc tiêu dao” để khai
thông trước đã, rồi sau dùng bài “Qui phế cố kim” để uống tiếp theo. Ý định
của tôi như thế, xin chờ bật cao minh xét lại mà dùng.
Viết xong, thầy lang lại kê thêm bảy vị thuốc và mấy vị thuốc
dẫn. Giả Liễn cầm lên xem, hỏi:
- Huyết đang xung mà dùng được sài hồ à?
- Cậu Hai chỉ huyết sài hồ là vị thuốc có tính chất bốc lên,
bệnh thổ huyết nên kiêng, không biết dùng miếng huyết(2) mà sao đi, nếu không
dùng sài hồ thì không thể khai thông được khí ở kinh thiếu dương. Dùng miết huyết
mà hạn chế bớt đi, làm cho nó không đến nỗi bốc lên quá, thì sài hồ có thể bồi
dưỡng được can âm và ức chế được tà hỏa. Vì thế sách nội kinh nói: “Nhân thông
mà dùng cách thông, nhân tắc mà dùng cách tắc”. Dùng sài hồ sao với miết huyết,
chính là cách “mượn Chu Bột để yên họ Lưu”(3) đấy
- Té ra như thế, rất là tốt.
- Xin uống trước hai thang, rồi hãy thêm bớt, hoặc là đổi
phương khác. Tôi còn có chút việc, không thể ngồi lâu, ngày khác sẽ tới hỏi thăm
sức khỏe.
Giả Liễn tiễn thầy lang ra, và hỏi:
- Thuốc chú em tôi thì như thế thôi à?
- Cậu Hai không có bệnh gì nặng, có lẽ chỉ uống thêm một
thang nữa là khỏe.
Nói xong lên xe ra về.
Giả Liễn một mặt sai người bốc thuốc, một mặt về phòng nói lại
bệnh tình của Đại Ngọc và việc dùng thuốc của thầy lang cho Phượng Thư nghe. Vừa
lúc đó, thấy vợ Chu Thụy chạy đến trình lại mấy việc lặt vặt. Giả Liễn nghe qua
mấy câu liền nói:
- Chị thưa lại với mợ Hai thôi, tôi còn chút việc.
Nói xong Giả Liễn đi ngay, vợ Chu Thụy quay vào nói với Phượng
Thư:
- Vừa rồi tôi đến bên nhà cô Lâm, xem bệnh cô ta có phần nguy
lắm. Mặt không còn một chút máu, sờ người chỉ thấy xương bọc lấy da! Hỏi thì cô
ta cứ chảy nước mắt, không nói gì. Sau đó cô Tử Quyên nói với tôi: cô Lâm hiện
đang ốm, muốn xin cái gì cũng không dám nói. Tôi định thưa với mợ Hai xin chi
trước cho hai tháng tiền lương.Vì bây giờ tiền uống thuốc tuy có quỹ chung
nhưng cũng phải có ít nhiều để tiêu vặt. Tôi nhận lời cô ta và xin thưa lại với
mợ.
Phượng Thư cúi đầu nghĩ một lát, rồi nói:
- Thế này nhé, tôi đưa cho cô Tử Quyên mấy lạng bạc để tiêu,
cũng không cần nói với cô Lâm nữa. Còn tiền tháng thì không thể chi trước, vì một
người bày trò, rồi ai cũng đòi chi trước thì làm sao được? Chị lại không nhớ việc
Dì Triệu và cô Ba cãi nhau hay sao? Chẳng qua cũng chỉ vì tiền tháng đấy thôi.
Gần đây chị cũng biết đấy, tiền tiêu ra thì nhiều, mà tiền thu vào thì ít,
thành ra cứ phải giật gấu vá vai, người không biết cứ bảo tôi tính toán không
khéo, có những kẻ đặt điều nói là tôi chuyền của về bên ngoại. Chị cũng là người
đã từng lo việc chi tiêu trong nhà, tất nhiên chị biết tôi làm như thế nào?
- Thật là oan uổng chết đi được! Đối với gia đình đồ sộ như
thế này, chỉ có người biết lo lắng tính toán như mợ mới làm được thôi. Đừng nói
là đàn bà làm không được, dầu cho hạng đàn ông ba đầu sáu tay cũng chưa chắc đã
chống đỡ nổi. Thế mà còn dám nói nhảm.
Nói đến đó chị ta lại phì cười và tiếp:
- Mợ không biết, chứ người bên ngoài lại còn nói nhảm hơn nữa
kia! Trước đây nhà tôi về nhà bảo, người ngoài tưởng rằng trong phủ mình không
biết bao nhiêu tiền mà kể. Có người nói: “Trong phủ Giả có cái kho mấy gian bạc,
mấy gian vàng, đồ đạc trong nhà đều bịt vàng, nạm bạc hết”. Có người nói: “Con
gái làm Vương phi, thế nào chả đem của cải trong cung chia một nửa cho bên ngoại.
Trước đây quý phi về thăm nhà, chính mắt chúng tôi trông thấy chở về mấy xe
vàng bạc, cho nên trong nhà trần thiết không khác gì cung Long Vương. Hôm nọ
làm lễ tạ thần ở miếu, tiêu hết mấy vạn lạng bạc, chẳng qua là nhổ một cái lông
ở trên mình con trâu mà thôi”. Có người lại còn nói: “Con sư tử ở trước cửa nhà
họ, có lẽ cũng là ngọc thạch đấy! Trong vườn thì có kỳ lân bằng vàng, bị mất trộm
một con rồi, chỉ còn một con thôi. Các mợ các cô trong nhà thì không cần phải
nói, ngay đến các cô gái hầu cũng không phải mó đến một việc gì, cứ mực uống rượu,
đánh cờ, gẩy đàn vẽ tranh, vì họ đã có người hầu hạ, chỉ việc mang là mặc lượt,
đồ ăn uống trang sức đều là những vật người thường không biết đến. Còn các cô
các cậu thì lại càng không phải nói, muốn đòi mặt trăng trên trời cũng có người
lấy xuống cho mà chơi.
Lại còn có một bài hát:
Phủ Vinh quốc, phủ Ninh quốc
Bạc vàng của báu như bùn đất
Ăn không cùng, mặc không cùng
Rồi ra...
Nguyên câu cuối là:
Rồi ra rút cục cũng là không.
Chị ta buột miệng nói đến đó, chợt nghĩ câu ấy không hay, nên
nín bặt đi.
Phượng Thư nghe xong, biết câu này chẳng tốt lành gì, nên
cũng không tiện hỏi vặn, chỉ nói:
- Những cái đó chẳng quan hệ gì, nhưng câu chuyện “kỳ lân vàng”
thì ở đâu mà ra?
- Tức là con kỳ lân vàng nhỏ mà đạo sĩ già trong miếu biếu cậu
Bảo đấy. Sau mất đi mấy hôm, may cô Sử nhặt được, trả lại cho cậu ấy. Thế mà
bên ngoài bịa ra như thế, mợ nói những người ấy có đáng buồn cười hay không?
- Những câu chuyện ấy không đáng buồn cười, mà là đáng sợ đấy!
Nhà mình càng ngày càng khó khăn, mà bên ngoài họ còn bàn tán như thế. Tục ngữ
nói: “Người sợ nổi danh, lợn lành sợ béo”, huống nữa đây lại là cái tiếng hão.
Sau này chẳng biết ra sao?
- Mợ lo cũng phải, nhưng trong kinh thành này, từ quán trà
hàng rượu đến các ngõ đường, đâu đâu cũng nói như thế, mà cũng không phải chỉ
quãng một năm nay, thì làm sao mà bịt miệng người ta được?
Phượng Thư gật đầu, bảo Bình Nhi cân mấy lạng bạc đưa cho vợ
Chu Thụy và nói:
- Chị cầm lấy đưa trước cho Tử Quyên, nói rằng tôi đưa cho chị
ta để mua thêm các thứ. Nếu muốn xin tiền công thì cứ việc xin chứ đừng nhắc đến
câu chuyện chi tiền tháng. Chị ta là người sáng dạ, thế nào cũng hiểu lời nói của
tôi. Có dịp rảnh tôi sẽ tới thăm cô Lâm.
Vợ Chu Thụy cầm lấy bạc, vâng lời đi ra.
Giả Liễn đi ra ngoài, thấy một tên hầu nhỏ đón lại thưa:
- Ông Cả gọi cậu đến hỏi chuyện.
Giả Liễn vội vàng đi sang gặp Giả Xá. Giả Xá nói:
- Vừa rồi nghe tin trong cung gọi một vị ngự y ở Thái y viện
và hai người lại mục vào xem bệnh, chắc không phải là bọn cung nữ ốm đâu. Mấy
hôm nay trong cung có tin tức gì về quý phi không?
- Không ạ.
- Con đi hỏi chú Hai và anh Trân xem; nếu không biết thì phải
sai người đến Thái y viện dò xem mới được.
Giả Liễn vâng lời, một mặt sai người tới Thái y viện, một mặt
vội vàng đi gặp Giả Chính và Giả Trân.
Giả Chính nghe nói, liền hỏi:
- Nghe tin ở đâu thế?
- Thưa vừa rồi nghe cha cháu nói.
- Cháu cùng anh Trân đi vào trong ấy dò xem.
- Cháu đã cho người đi hỏi ở Thái y viện rồi.
Giả Liễn nói xong, đi ra tìm Giả Trân, thấy Giả Trân đã từ đằng
kia đi tới. Giả Liễn vội vàng kể lại câu chuyện. Giả Trân nói:
- Tôi cũng nghe tin ấy, nên tới thưa lại cùng ông Cả và ông
Hai đây.
Hai người liền vào gặp Giả Chính.
Giả Chính nói:
- Nếu quả là Nguyên phi ốm thì thế nào cũng sẽ có tin.
Đang nói thì Giả Xá cũng vừa tới.
Đến trưa, người đi dò tin chưa về, người canh cửa đã vào
thưa:
- Có hai vị nội giám, muốn vào gặp hai cụ.
Giả Xá nói:
- Mời vào đây.
Người canh cửa dẫn hai vị nội giám vào.
Giả Xá và Giả Chính ra đón ở cửa thứ hai, trước hết hỏi thăm
sức khoẻ của quý phi, rồi cùng đi vào nhà khách mời ngồi.
Viên nội giám già nói:
- Hôm trước quý phi hơi mệt, hôm qua vâng chỉ vua cho triệu bốn
người bà con vào cung thăm hỏi, cho phép mỗi người đem một a hoàn đi theo,
ngoài ra không cần gì cả. Còn bà con đàn ông thì chỉ ở ngoài cửa cung đệ tên họ
và quan chức vào thôi, chứ không được tự tiện vào cung. Đúng giờ thìn, giờ tỵ
ngày mai thì vào, giờ thân, giờ dậu thì ra.
Giả Xá, Giả Chính đứng nghe chỉ của nhà vua, rồi lại ngồi xuống,
mời viên nội giám uống trà xong, họ cáo từ ra về.
Giả Xá và Giả Chính tiễn họ ra khỏi cửa ngoài, rồi trở vào
thưa với Giả mẫu. Giả mẫu nói:
Bốn người bà con, cố nhiên là ta và hai bà rồi, còn một người
nữa là ai?
Không ai dám trả lời. Giả mẫu nghĩ một lát rồi nói:
- Thế nào cũng phải cháu Phượng đi mới được, vì nó biết trông
nom mọi việc, cha con các anh thử ra bàn xem ai sẽ đi.
Giả Xá và Giả Chính vâng lời đi ra bàn để Giả Liễn và Giả
Dung ở lại coi nhà, còn thì tất cả những người có tên hàng chữ “văn”cho đến
hàng chữ “thảo” đều đi cả. Lại dặn người nhà sắp sẵn bốn cỗ kiệu lục, hơn mười
cỗ xe mui cánh trả, sáng sớm mai chờ sẵn ở cửa. Bọn người nhà vâng lời.
Giả Xá và Giả Chính lại vào trong thưa lại với Giả mẫu:
- Gờ thìn, giờ tỵ vào cung, giờ thân, giờ dậu ra về, vì thế
hôm nay nghỉ sớm, để mai dậy sớm, sắm sửa vào cung.
Giả mẫu nói:
- Ta biết rồi, các anh cứ về đi.
Bọn Giả Xá lui ra. Bọn Hình phu nhân, Vương phu nhân và Phượng
Thư đều bàn tán về cái ốm của Nguyên phi, lại nói chuyện một lúc rồi về.
Hôm sau tảng sáng, bọn a hoàn ở các nhà thắp đèn. Các bà chải
đầu rửa mặt xong, các ông cũng sắm sửa đâu vào đấy. Đến đầu giờ mão, Lâm Chi Hiếu
và Lại Đại đi vào, đến cửa thứ hai thưa:
- Xe và kiệu đã sửa soạn sẵn sàng, đang chờ ở ngoài cửa.
Một lát, Giả Xá và Hình phu nhân cùng đến. Mọi người cùng ăn
cơm sáng. Trước hết, Phượng Thư dìu Giả mẫu đi ra, bọn Vương phu nhân đi theo
chung quanh, mỗi người mang theo một người hầu gái. Lại sai bọn Lý Quý cưỡi ngựa
đi trước, chờ săn ở cửa cung để tiếp đón. Những người từ hàng chữ “văn” đến
hàng chữ “thảo” đều lên xe hoặc cưỡi ngựa. Bọn người nhà lũ lượt theo sau.
Giả Liễn và Giả Dung ở lại coi nhà.
Xe và ngựa của họ Giả đều đỗ ở phía Tây, ngoài cửa cung. Một
lát có hai người nội giám ra nói:
- Các bà các mợ ở phủ Giả tới thăm, xin mời vào cung, còn các
ông thì đều làm lễ vấn an ở ngoài cửa Nội cung chứ không được vào.
Rồi có người ở cửa cung gọi: “mời vào mau”. Bốn cỗ kiệu của
phủ Giả theo một nội giám nhỏ đi vào. Bọn đàn ông thì đi theo sau kiệu, còn người
nhà thì đứng chờ ở ngoài. Khi tới gần cửa cung, có mấy người nội giám già ngồi ở
đó. Thấy họ vào, bọn nội giám đứng dậy nói:
- Các ông ở phủ Giả chờ ở đây.
Bọn Giả Xá, Giả Chính liền theo thứ tự mà đứng. Mấy cỗ kiệu
khiêng đến cửa cung, những người ngồi trong kiệu điều bước ra, đã có sẵn sàng mấy
người nội giám nhỏ dẫn đường. Bọn Giả mẫu đều có a hoàn dìu và đi chân. Đến nhà
ngủ của Nguyên phi, thấy châu ngọc huy hoàng, lưu ly chói lọi. Có hai cung nữ
nhỏ truyền bảo:
- Chỉ hỏi thăm sức khỏe, còn các lễ nghi khác đều miễn.
Bọn Giả mẫu tạ ơn, đi đến trước giường hỏi thăm sức khỏe
xong. Nguyên phi cho ngồi. Bọn Giả mẫu xin phép ngồi xuống.
Nguyên phi hỏi Giả mẫu:
- Gần đây bà có khỏe không?
Giả mẫu vịn vào a hoàn nhỏ, lập cập đứng dậy trả lời:
- Nhờ phúc đức lớn của Quý phi, tôi vẫn mạnh.
Nguyên phi lại hỏi thăm Hình phu nhân và Vương phu nhân, hai
người đều đứng dậy trả lời. Nguyên Phi lại hỏi Phượng Thư:
- Việc ăn tiêu trong nhà ra sao?
Phượng Thư đứng dậy tâu:
- Còn có thể tùng tiệm được.
- Mấy năm nay, khen cho chị cũng chịu khó lo lắng đấy!
Phượng Thư đang định đứng dậy tâu bày, thì thấy một người
cung nữ chuyển vào một danh sách có nhiều chức tước tên tuổi, xin Quý phi xem
qua. Nguyên Phi cầm xem, thấy tên họ của bọn Giả Xá, Giả Chính, trong lòng chua
xót, nước mắt lưng tròng. Cung nữ đưa khăn lại, Nguyên Phi một mặt lau nước mắt,
một mặt truyền bảo:
- Hôm nay hơi đỡ, cho mọi người tạm nghỉ ở ngoài.
Bọn Giả mẫu lại đứng dậy tạ ơn.
Nguyên phi ứa nước mắt nói:
- Tôi không được gần gũi cha mẹ anh em, thật không bằng con
nhà thường dân.
Bọn Giả mẫu đều nín khóc và nói:
- Quý phi không nên thương cảm, trong nhà đã nhờ phúc trạch của
Quý phi nhiều lắm.
Quý phi lại hỏi:
- Bảo Ngọc gần đây ra sao?
Giả mẫu nói:
- Gần đây nó đã hơi chăm học, vì cha nó bắt buộc nghiêm ngặt
nên hiện nay nó đã làm được văn bài.
- Như thế mới được.
Rồi sai ban yến cho bọn Giả mẫu ở cung bên ngoài. Hai người
cung nữ và bọn thái giám nhỏ dẫn họ đến một cung khác. Cỗ bàn đã bày đặt chỉnh
tề, ai nấy theo thứ tự ngồi xuống.
Ăn cơm xong, Giả mẫu lại dẫn ba người vào cung tạ ơn. Bịn rịn
một lát, xem chừng đã đến đầu giờ dậu, không dám nán lại, họ cùng nhau cáo từ
lui ra. Nguyên phi truyền cung nữ đưa đường, tiễn đến cửa cung, ngoài cửa lại
có bốn thái giám nhỏ đưa ra. Giả mẫu vẫn ngồi kiệu đi ra như trước, bọn Giả Xá
đón chờ, tất cả đều đi về. Đến nhà lại phải sửa soạn để ngày sau vào cung, dặn
bảo mọi người đều phải đến đầy đủ.
Sau khi đuổi Tiết Bàn đi, Kim Quế ngày thường chẳng biết đấu
khẩu với ai, Thu Lăng lại ở bên nhà Bảo Thoa, chỉ còn trơ có một mình Bảo Thiềm
ở chung. Từ ngày làm vợ lẽ Tiết Bàn, điệu bộ của Bảo Thiềm không như trước nữa.
Kim Quế thấy nó đã trở thành một tay kình địch với mình nên cũng có ý hối hận.
Một hôm Kim Quế bực tức, uống mấy chén rượu, nằm ở trên giường muốn đem Bảo Thiềm
ra làm món canh “dã rượu”, liền hỏi:
- Cậu Cả hôm nọ đi đâu? Chắc mày biết chứ?
- Tôi biết sao được. Với mợ, cậu ấy còn chả nói, ai mà biết
được cậu ấy làm gì?
- Bây giờ còn mợ với bà gì nữa? Giang sơn này là của chúng
mày rồi. Đứa khác đã có người bênh vực chẳng ai dám đụng đến. Tao dại gì mà lại
đi “vuốt râu cọp” kia chứ? Nhưng mày là con hầu, tao vừa hỏi một câu, mày đã
vênh cái mặt lên, chặn lời tao. Mày đã có thân, có thế, sao không bóp cổ tao chết
đi, rồi cùng con Thu Lăng, đứa nào đó lên làm mợ, thế là yên chuyện. Tại sao
tao lại cứ sống ở đây, để ngăn trở công việc của chúng mày?
Bảo Thiềm nghe câu ấy, đời nào chịu nhịn, nó trừng mắt lên,
nhìn Kim Quế và nói:
- Chuyện vớ vẩn ấy, mợ chỉ nên nói cho người khác nghe! Tôi
có nói gì mợ đâu, mợ đã không dám trêu đến người ta, thì tại sao lại hành hạ
chúng tôi cho hả cơn giận? Mợ cứ giả vờ làm bộ không nghe những điều xảy ra, cứ
như là người “vô sự” ấy.
Nói đến đó, Bảo Thiềm khóc lóc kêu trời, kêu đất ầm ĩ. Kim Quế
càng nổi tam bành, liền bò xuống giường, định đánh Bảo Thiềm. Bảo Thiềm cũng có
tính khí như Kim Quế, mảy may không chịu nhịn. Kim Quế đạp đổ hết bàn ghế chén
bát. Bảo Thiềm cứ một mực kêu gào người ta ức hiếp mình, không thèm để ý đến.
Tiết phu nhân ở trong phòng Bảo Thoa thấy vậy liền bảo:
- Hương Lăng, mày sang xem và khuyên họ một chút.
Bảo Thoa nói:
- Không được đâu, mẹ đừng bảo chị ấy sang, không thể khuyên
được, chỉ thêm tưới dầu vào lửa đấy thôi.
- Đã thế thì để tao sang.
- Theo ý con thì mẹ cũng không nên sang, để mặc cho họ phá,
chẳng còn có cách gì nữa.
- Để như thế sao được.
Nói xong Tiết phu nhân vịn vào vai con hầu đi sang nhà Kim Quế.
Bảo Thoa đành phải theo sang và dặn Hương Lăng:
- Chị ở nhà đây nhé.
Mẹ con Tiết phu nhân đến cửa phòng Kim Quế, nghe ở trong còn
đang la khóc om sòm. Tiết phu nhân nói:
- Chúng mày làm cái gì kêu la ầm ĩ, đổ cửa đổ nhà, như thế
còn ra thể thống gì nữa. Lại không sợ bà con liền đố chạm vách người ta chê cười
sao?
Kim Quế trong nhà trả lời ngay:
- Tôi còn sợ ai chê cười nữa. Ở đây thật là ngược đời, chủ
nhà không ra chủ nhà; con ở không ra con ở; vợ cả không ra vợ cả; vợ lẽ không
ra vợ lẽ; thật là lộn xộn đảo điên. Ở nhà họ Hạ chúng tôi, không bao giờ có cái
nề nếp ấy. Tôi không thể chịu nổi cái cảnh oan ức ở nhà các người được nữa!
Bảo Thoa nói:
- Chị Cả, mẹ thấy ở đây cãi cọ om sòm nên mới sang, nếu mẹ hỏi
vội vàng không phân biệt “chị” và “Bảo Thiềm” thì chị cũng đừng lấy làm điều.
Bây giờ hãy nói rõ sự ra, để rồi mọi người ăn ở hòa thuận, đỡ cho mẹ phải ngày
nào cũng bận lòng vì chúng ta.
Tiết phu nhân nói:
- Phải đấy. Trước hết hãy kể lại đầu đuôi, rồi sau hãy xét đến
điều sai của ta cũng chưa chậm kia mà.
Kim Quế nói:
- Cô ơi! Cô là người hiền lành độ lượng, ngày sau nhất định
được nhà chồng tốt, ông chồng giỏi, quyết không như tôi, có chồng mà chịu kiếp
góa bụa, không kẻ đoái hoài, để người ta đè đầu cưỡi cổ. Tôi là con người ngu dại,
xin cô đừng có bắt bẻ những lời tôi nói. Tôi từ nhỏ đến giờ không có cha mẹ nào
dạy bảo. Vả lại những việc vợ chồng, vợ cả vợ lẽ trong nhà chúng tôi đây, không
liên quan gì đến cô cả.
Bảo Thoa nghe vậy vừa thẹn vừa tức, thấy tình cảnh mẹ như thế
thì lại càng thương, đành phải nuốt giận mà nói:
- Chị Cả, tôi khuyên chị nói ít chứ! Có ai bắt bẻ chị, có ai
khinh rẻ chị đâu? Không những đối với chị, ngay đối với Thu Lăng, tôi cũng chưa
bao giờ nặng lời nữa là
Kim Quế nghe vậy, lại đập tay xuống giường, khóc rống lên và
nói:
- Tôi bì sao được với Thu Lăng? Ngay đến vết bùn ở dưới chân
nó, tôi cũng không theo kịp nữa là! Nó đến đây đã lâu, biết tính nết cô, khéo
ton hót cô. Tôi mới đến, lại không quen ton hót, sao cô đem tôi ra ví với nó?
Rõ thật khổ! Thiên hạ được mấy người có số làm Quý phi? Tôi khuyên cô tu lấy
chút phúc đức, đừng giống như tôi, lấy phải đứa bậy bạ, chồng sống sờ sờ mà chịu
cảnh góa bụa, thế mới thực báo ứng ngay trước mắt đấy.
Tiết phu nhân nghe đến đó, giận quá, không chịu nổi liền đứng
dậy nói:
- Không phải là tao bênh con gái, nhưng nó thì một mực khuyên
mày, mà mày cứ trêu chọc nó. Mày có cái gì không chịu được thì đừng nên gây ra
với nó làm gì, cứ việc bóp cổ tao chết đi, thế còn nhẹ nhàng hơn nhiều.
Bảo Thoa vội khuyên:
- Mẹ đừng giận làm gì, chúng ta đã khuyên chị ấy, mà mình lại
nổi giận, chẳng hóa cứ giận chồng giận chất mãi sao? Mẹ hãy về để chị ấy nghĩ một
chút rồi sẽ nói sau.
Đoạn cô ta dặn Bảo Thiềm:
- Chị cũng đừng sinh chuyện nữa.
Nói xong Bảo Thoa theo Tiết phu nhân đi ra. Vừa qua sân, thấy
a hoàn bên nhà Giả mẫu và Thu Lăng từ đằng kia lại. Tiết phu nhân hỏi:
- Chị từ đâu tới đây? Cụ có khỏe không?
A hoàn nói:
- Cụ cháu vẫn khỏe, bảo cháu đến thăm sức khỏe bà dì, cảm ơn
bà dì cho món quả vải hôm trước và mừng cho cô Cầm.
Bảo Thoa hỏi a hoàn:
- Chị đến từ bao giờ?
- Cháu đến đã lâu rồi.
Tiết phu nhân biết chị ta đã nghe được câu chuyện vừa rồi, liền
đỏ mặt lên, nói:
- Bây giờ nhà chúng tôi cũng không ra cái thể thống gì nữa.
Bên các chị mà nghe thấy thì lại chê cười.
- Bà dì nói gì thế, nhà nào lại không có việc “va đĩa chạm
bát”. Chẳng qua bà dì hay nghĩ đó thôi.
Nói xong, a hoàn theo Tiết phu nhân về phòng, ngồi một lát rồi
về.
Bảo Thoa đang dặn dò Hương Lăng mấy câu, bỗng nghe Tiết phu
nhân kêu:
- Bên trái sườn đau lắm!
Liền lên giường nằm, Bảo Thoa và Hương Lăng lo sợ cuống quít.
Chú thích:
Chú thích:
(1). Một danh từ xem mạch của Đông y.
(2). Máu của thứ Ba Ba để sao với một số vị thuốc.
(3). Chu Bột là tướng nhà Tây Hán. Khi Lã hậu sắp cướp ngôi
nhà Hán, Trần Bình lập mưu để Chu Bột vào trong quân, kêu gọi quân lính giết
Lã. Ở đây ý nói dùng sài hồ chữa chứng thổ huyết là một mưu kế như là dùng Chu
Bột để yên ngôi nhà Hán.
Hồi 84:
Thử tài học, Bảo Ngọc được nhắc đến việc hôn nhân;
Thăm cháu ốm, Giả Hoàn càng gây thêm mối thù oán.
Tiết phu nhân bị Kim Quế trêu tức, can khí bốc lên, đâm ra
đau sườn bên trái. Bảo Thoa biết rõ nguyên do, nên không chờ thầy thuốc đến
xem, sai ngay người mua mấy đồng câu đằng, sắc một bát đặc, cho mẹ uống, rồi
cùng Hương Lăng đấm chân vuốt bụng cho mẹ. Một lúc lâu thì đỡ. Tiết phu nhân vừa
thương vừa bực: bực vì Kim Quế đểu giả mà thương Bảo Thoa biết bao dung người.
Bảo Thoa lại khuyên giải một hồi, rồi bà ta ngủ đi lúc nào
không biết. Chứng can khí cũng dần dần bình phục.
Bảo Thoa khuyên:
- Mẹ đừng nên để ý bực tức những chuyện vẩn vơ ấy. Vài hôm nữa
đi lại được, mẹ nên sang bên cụ và dì nói chuyện cho khuây, trong nhà đã có con
và Hương Lăng trông nom; chắc chị ấy cũng chẳng dám làm gì.
Tiết phu nhân gật đầu, nói:
- Để vài hôm nữa xem đã.
Sau khi Nguyên phi khỏi bệnh, trong nhà đều vui mừng. Qua mấy
hôm có mấy người nội giám già mang bạc và các thứ đồ vật đến. Họ truyền lệnh của
Quí phi, vì người nhà chịu khó thăm hỏi, nên đều có ban thưởng. Bọn Giả Xá và
Giá Chính thưa lại Giả mẫu. Mọi người tạ ơn xong, bọn thái giám uống trà rồi ra
về. Mọi người vào nhà Giả mẫu, cười nói một hồi, bỗng thấy một bà già ở ngoài
vào trình:
- Có người hầu nhỏ bên nhà ông Cả sang mời ông Cả về có việc
cần.
Giả mẫu liền gọi Giả Xá:
- Anh về đi thôi.
Giả Xá vâng lời ra về.
Giả mẫu chợt nhớ đến, rồi cười nói với Giả Chính:
- Trong lòng Quý phi rất nhớ đến Bảo Ngọc, hôm trước còn hỏi
riêng về nó đấy.
- Nhưng mà Bảo Ngọc không chịu chăm học, làm phụ lòng tốt của
Quý phi.
- Thế mà ta lại nói tốt cho nó, bảo là gần đây nó đã làm được
văn bài.
- Làm gì mà được như lời bà nói.
- Các anh thường hay gọi nó đi làm thơ, làm văn, chẳng nhẽ nó
không làm được à? Bọn trẻ con phải dạy bảo từ từ chứ. Người ta hay nói “Người
béo đâu phải tự một miếng ăn”.
Giả Chính nghe vậy, liền cười lấy lòng Giả mẫu nói:
- Bà nói rất phải.
- Nhắc đến Bảo Ngọc, ta còn có việc này bàn với anh: Bây giờ
nó đã lớn rồi, các anh cũng cần phải để ý xem con bé nào tốt hỏi sẵn cho nó. Đó
cũng là việc lớn trọn đời của nó. Đừng kể bà con xa gần, hay là giàu nghèo gì cả,
chỉ cần biết rõ người con gái ấy tính nết hiền lành, mặt mũi xinh đẹp là được.
- Bà dặn bảo rất phải, nhưng có một điều: Nó muốn có vợ cho tốt,
thì trước hết phải học hỏi cho nên người mới được; nếu không, cứ dở trăng dở
đèn, lại làm nhầm nhỡ con gái nhà người ta, chẳng đáng tiếc sao?
Giả mẫu nghe vậy, trong lòng không vui, liền nói:
- Kể ra thì cứ mặc các người là cha mẹ lo liệu cho nó, cần gì
đến ta phải bận lòng? Nhưng ta nghĩ, thằng Bảo từ nhỏ ở với ta, ta không khỏi
quá nuông chiều, làm nhỡ việc lập thân của nó, cái đó cũng có đấy; có điều ta
xem nó mặt mày cũng xinh đẹp, tính tình lại thật thà, vị tất đã phải là hạng
người vô dụng, đến nỗi làm hại con gái nhà người ta. Không rõ có phải là ta
thiên vị hay không, chứ xem ra thì nó có khá hơn thằng Hoàn. Chẳng biết các người
xem thì như thế nào?
Mấy câu nói ấy làm Giả Chính áy náy, vội vàng cười, nói:
- Bà xem người nhiều, đã nói nó khá, có phúc phận, chắc là
không sai. Nhưng vì con hơi nóng vội cho nó nên người, có thể trái câu nói của
người xưa hóa ra “không ai biết cái tốt của con mình”(1) chăng?
Giả mẫu nghe vậy phì cười, mọi người cùng cười theo.
Giả mẫu lại nói:
- Bây giờ anh cũng đã có tuổi, lại làm quan, cố nhiên là trải
đời nhiều, càng chín chắn hơn.
Nói đến đó, Giả mẫu nhìn Hình phu nhân và Vương phu nhân rồi cười:
- Khi con trẻ tuổi, tính tình anh ấy thật là kỳ quặc gấp mấy
Bảo Ngọc kia đấy. Mãi đến khi lấy vợ, mới hơi hiểu việc đời. Thế mà hây giờ cứ
trách cháu Bảo, ta xem cháu Bảo so với anh ấy thì còn biết người biết của hơn đấy.
Hình phu nhân, vương phu nhân đều cười, nói:
- Bà lại nhắc chuyện buồn cười đấy?
Chợt có a hoàn nhỏ đi vào bảo Uyên Ương:
- Cơm chiều đã sửa soạn xong rồi, xin cụ bà cho dọn ở đâu?
Giả mẫu nói:
- Thế thì tất cả về ăn cơm đi, chỉ để cháu Phượng và chị Trân
ở đây ăn với ta thôi.
Giả Chính, Hình phu nhân, Vương phu nhân đều vâng lời. Chờ dọn
cơm xong, Giả mẫu lại giục một lần nữa, họ mới ra về.
Hình phu nhân về nhà, Giả Chính và Vương phu nhân thì về
phòng mình. Nhắc lại lời nói vừa rồi của Giả mẫu, Giả Chính nói:
- Bà thương yêu Bảo Ngọc như thế, chúng ta phải làm cho nó
thành một người có thực học, mai sau có thể thành đạt nên người, mới không uổng
công bà thương yêu nó, và cũng không đến nỗi làm hại con gái nhà người ta.
- Ông nói rất phải.
Giả Chính liền sai a hoàn trong nhà chuyển lời ra bảo Lý Quý:
- Bảo Ngọc đi học về, để nó ăn cơm xong rồi qua đây, ta có việc
muốn hỏi.
Lý Quý vâng lời.
Bảo Ngọc đi học về, định qua hỏi thăm sức khoẻ, thấy Lý Quý
nói:
- Ông lớn dặn cậu Hai chưa cần sang bên nhà vội, hãy cứ ăn
cơm đã rồi hãy sang. Nghe nói còn có chuyện gì muốn hỏi cậu đấy.
Bảo Ngọc nghe vậy, trong bụng lại lo thầm, đành phải đến gặp
Giả mẫu, rồi về vườn ăn cơm ngay. Ăn uống qua quít cho xong, Bảo Ngọc vội vàng
súc miệng rồi sang ngay bên nhà Giả Chính.
Lúc này Giả Chính đang ngồi ở thư phòng. Bảo Ngọc vào hỏi
thăm sức khỏe, rồi đứng hầu một bên.
Giả Chính hỏi:
- Mấy hôm nay ta bận việc nên quên bẵng, không hỏi mày. Hôm nọ
mày nói thầy học bảo mày giảng sách một tháng rồi sau đó sẽ cho mày bắt đầu làm
bài; nay tính ra đã gần hai tháng. Thế thì mày đã làm bài hay chưa?
- Đã làm được ba bài. Thầy nói: Hãy khoan trình với cha, làm
cho khá rồi sẽ thưa lại. Vì thế, hai hôm nay, con không dám thưa.
- Đầu bài như thế nào?
- Một đầu bài là: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học”; một đầu
bài là: “Nhân bất tri nhi bất uẩn”; một đầu bài nữa là: “Tắc qui Mặc”(2)
- Mày có bản nháp không?
- Bài nào cũng viết sạch, thầy lại chữa lại.
- Mày đem về nhà hay để ở trường?
- Để cả ở trường ạ.
- Cho người lấy về đây ta xem.
Bảo Ngọc vội vàng sai người bảo Bồi Dính đến trường:
- Trong ngăn bàn của ta có một tập giấy mỏng, ngoài đề hai chữ
“bài làm” là đúng. Mày cầm về đây mau.
Đi một lát, Bồi Dính cầm tập giấy đưa cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc
trình với Giả Chính. Giở ra xem, thì bài thứ nhất là: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí
vu học”. Xem mở đầu: “Thánh nhân hữu chí vu học, ấu nhi dĩ nhiên hỹ”(3). Giả Đại
Nho gạch chữ “ấu” đi mà sửa chữ “thập ngũ” vào. Giả Chính nói:
- Bài của mày làm mà dùng chữ “ấu” là không nêu rõ được đầu
bài, vì từ lúc nhỏ cho đến trước khi mười sáu tuổi, đều gọi là “ấu” cả. Chương
sách này là thánh nhân nói công phu học vấn của người, cứ theo tuổi mà tiến dần,
cho nên mười lăm, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, bảy mươi, đều phải kể
rõ ra, thì mới thấy được lúc này như thế nào, đến lúc khác lại thế khác. Thầy học
đổi chữ “ấu” của mày ra chữ “thập ngũ” thì rõ hơn nhiều.
Giả Chính xem đến đoạn thừa đề thấy câu văn Bảo Ngọc làm
nhưng đã bị gạch đi: “Phù bất chí vu học, nhân chi thường giã”(4). Liền lắc đầu
nói:
- Câu này chẳng những chứng tỏ tính khí trẻ con, mà nêu rõ bản
tính của mày không phải là chí khí của người đi học.
Lại xem câu sau: “Thánh nhân thập ngũ nhi chí chi, bất diệc
nan hồ”(5). Giả Chính nói:
- Câu này thì lại không ra văn nữa!
Sau đó Giả Chính mới xem đến bài chữa của Đại Nho như thế
này: “Phù nhân thục bất học nhi chí vu học giả tốt tiền. Thử thánh nhân sở vi tự
tín ư thập ngũ thời dư?”(6)
- Mày có hiểu tại sao lại chữa như thế không?
- Có ạ.
Giả Chính lại xem đến bài thứ hai: “Nhân bất trí nhi bất uẩn”.
Trước hết ông ta xem câu chữa của Đại Nho: “Bất dĩ bất tri nhi uẩn giả, chung
vô cải kỳ duyệt lạc hỹ”(7), xong rồi mới xem bài làm của Bảo Ngọc đã bị gạch
đi: “Nắng vô uẩn nhân chi tâm, thuần hồ học giả dã”(8).
Giả Chính nói:
- Mày viết cái gì đây? Như vậy là câu trên chỉ làm cái đầu
bài cho chữ: “Nhi bất uẩn”, còn câu dưới thì lại phạm đến ranh giới chữ “quân tử”
ở đoạn dưới, nhất định phải như câu chữa mới hợp với đầu bài. Vả chăng câu dưới
phải làm rõ nghĩa câu trên, mới hợp với phép tắc làm văn. Mày phải để ý cẩn thận
mà nhớ cho sâu.
Bảo Ngọc vâng lời.
Giả Chính lại xem tiếp đoạn dưới thấy viết: “Phù bất tri, vị
hữu bất uẩn giả dã; nhi cánh bất nhiên, thị phi do duyệt nhi lạc giả, hạt khắc
trăn thử”(9). Câu cuối cùng trong bài là: “Thi thuần học giả hồ”(10). Liền nói:
- Câu này cũng sai lầm như câu mở đầu. Câu của thầy chữa cũng
được, tuy không lưu loát nhưng còn xuôi hơn.
Xem đến bài “Tắc qui Mặc” xong, Giả Chính ngẩng đầu lên, nghĩ
ngợi một lúc, rồi hỏi Bảo Ngọc:
- Mày đọc đến sách này rồi à?
- Thầy học nói sách Mạnh Tử dể hiểu hơn, nên giảng Mạnh Tử
trước. Hôm trước vừa giảng xong, bây giờ giảng sang Luận ngữ.
Giả Chính xem vế mở đầu và vế thừa đề đều không chữa mấy. Vế
mở đầu như thế này: “Ngôn ư xả Dương chi ngoại, nhược biệt vô sở qui giả
yên”(11). Liền nói:
- Câu thứ hai làm được như thế này là khó lắm đấy.
Rồi xem tiếp thấy viết: “Phù Mặc phi dục qui giả dã, nhi Mặc
chi ngôn dĩ bán thiên hạ hỹ, tắc xả Dương chi ngoại, dục bất qui vu Mặc đắc hồ”(12).
Ông ta hỏi:
- Đây là mày làm à?
Bảo Ngọc trả lời:
- Vâng ạ.
Giả Chính gật gật đầu và nói:
- Chưa có chỗ nào xuất sắc, nhưng mới tập làm mà được thế
này, cũng là khá đấy. Năm trước ta làm quan ngoài, có ra đầu bài: “Duy sĩ vi
năng”(13). Bọn học trò đã học qua bài ấy của người trước, nhưng không thêm được
gì, mà cứ bắt chước viết theo, đoạn ấy mày đã đọc chưa?
- Con đọc rồi ạ.
- Ta bắt mày phải có ý của mình, không được cứ lắp lại người
trước. Mày chỉ làm một câu phá đề thôi cũng được.
Bảo Ngọc đành phải vâng lời, cúi đầu vắt óc ra nghĩ. Giả
Chính thì chắp tay sau lưng, đứng dựa cửa ngẫm nghĩ. Bỗng thấy một tên hầu nhỏ
chạy như bay ra ngoài. Nó trông thấy Giả Chính, vội vàng khép nép buông tay đứng
im.
Giả Chính liền hỏi:
- Cái gì thế?
- Dì Tiết đến nhà cụ, mợ Hai truyền bảo làm cơm.
Giả Chính nghe nói, im lặng, người hầu nhỏ đi ra.
Từ khi Bảo Thoa dọn về nhà, Bảo Ngọc luôn luôn mong nhớ, nay
nghe nói dì Tiết đến, tưởng là Bảo Thoa cũng đến, trong bụng cuống quít liền
đánh bạo nói:
- Đã làm được câu phá đề, không biết có được không?
- Mày đọc ta nghe nào?
- “Thiên hạ bất giai sĩ giã, năng vô sản giả, diệc cận hỹ”(14)
Giả Chính nghe xong gật đầu nói:
- Cũng được đấy. Sau này làm bài, mày cần phải phân rõ giới hạn,
phải nắm cho vững ý nghĩa sâu sắc của nó, rồi hãy hạ bút làm. Khi mày đến đây,
bà có biết không?
- Có biết ạ.
- Thế thì mày trở về bên nhà đi.
Bảo Ngọc vâng lời, làm ra bộ chậm rãi, thong thả đi ra. Vừa
đi khỏi bức bình phong ngoài cửa hành lang, đã một mạch chạy vụt đến cửa nhà Giả
mẫu. Bồi Dính ở sau cuống lên, vừa chạy theo vừa gọi:
- Cậu coi chừng kẻo ngã, ông lớn đã đến đấy.
Bảo Ngọc hình như không nghe gì cả. Vừa vào đến cửa đã nghe
tiếng cười, tiếng nói của Vương phu nhân, Phượng Thư và Thám Xuân. Bọn a hoàn
trông thấy Bảo Ngọc vội vàng vén màn lên nói khẽ:
- Dì ở trong ấy.
Bảo Ngọc đi vào, hỏi thăm sức khỏe dì Tiết rồi tới hỏi thăm sức
khỏe Giả mẫu. Giả mẫu hỏi:
- Sao hôm nay đến bây giờ cháu mới đi học về?
Bảo Ngọc kể lại đầu đuôi câu chuyện Giả Chính xem bài và bảo
làm câu phá đề. Giả mẫu tỏ vẻ rất vui mừng.
Bảo Ngọc liền hỏi mọi người:
- Chị Bảo ngồi ở đâu?
Dì Tiết cười nói:
Bảo Ngọc nghe nói, trong lòng buồn bực, nhưng không tiện bỏ
đi ngay. Đang nói thì cơm đã dọn ra. Giả mẫu và dì Tiết ngồi trên, bọn Thám
Xuân ngồi tiếp.
Dì Tiết nói:
- Còn cháu Bảo nữa?
Giả mẫu cười và nói:
- Cháu Bảo ngồi bên này với ta.
Bảo Ngọc thưa:
- Lúc đi học về, Lý Quý chuyển lời của cha cháu bảo ăn cơm rồi
hãy qua, nên cháu vội vàng bảo đưa đến một đĩa đồ ăn, cháu chan nước chè vào ăn
hết một bát cơm rồi mới đi. Bây giờ mới bà, dì và các chị cứ ăn đi thôi.
Giả mẫu nói:
- Đã thế thì con Phượng ngồi bên này với ta. Mẹ cháu hôm nay
ăn chay, bảo mọi người cứ ăn đi thôi.
Vương phu nhân cũng nói:
- Chị cứ ăn với bà và dì thôi, đừng có chờ tôi, tôi ăn chay
kia.
Phượng Thư xin phép ngồi xuống, bọn a hoàn bày chén đĩa ra.
Phượng Thư cầm bình rượu rót một lượt, rồi mới về chỗ ngồi.
Mọi người uống rượu. Giả mẫu hỏi:
- Có phải vừa rồi dì nhắc đến Hương Lăng không? Trước đây tôi
nghe bọn a hoàn nói “Thu Lăng”, tôi không biết là ai, sau hỏi ra mới biết là
nó. Tại sao con bé ấy lại tự dưng đổi tên như thế?
Dì Tiết mặt mày đỏ bừng, thở dài một tiếng rồi nói:
- Cụ đừng nhắc đến chuyện đó làm gì! Từ khi thằng Bàn lấy phải
con vợ dở hơi ấy, cả ngày cứ to tiếng với nhau. Bây giờ trong nhà lục đục không
ra thể thống gì nữa. Tôi cũng bảo qua vài lần nhưng nó bướng bỉnh không chịu
nghe lời, nên chẳng còn hơi sức nào mà gào với chúng nó mãi, đành để mặc nó.
Chính nó chê tên con a hoàn ấy không hay mà đổi đi đấy.
- Tên thì có quan hệ gì?
- Nói ra tôi lại xấu hổ. Chẳng giấu gì cụ, có phải nó cho cái
tên không hay đâu? Nghe nói là tên ấy do con Bảo đặt, nên nó cố ý đổi đi.
- Vì sao thế?
Dì Tiết luôn luôn cầm khăn tay chùi nước mắt, chưa kể đã thở
dài, nói:
- Cụ còn chưa biết sao! Bây giờ con dâu nhà tôi cứ cố ý trêu
tức con Bảo. Hôm trước cụ sai người đến thăm hỏi, giữa lúc trong nhà tôi đang
cãi nhau ầm lên đấy.
Giả mẫu vội vàng hỏi:
- Hôm trước nghe nói dì đau tức, định sai người sang hỏi
thăm. Sau nghe nói dì khỏi rồi, nên thôi. Theo ý tôi thì dì đừng phiền lòng vì
chuyện của bọn chúng làm gì. Bọn chúng cũng là vợ chồng trẻ mới về với nhau, ít
lâu rồi sẽ tử tế thôi. Tôi xem con Bảo tính cách dịu dàng, hòa nhã, tuy tuổi
còn trẻ nhưng so với người lớn thì hơn nhiều. Hôm trước con a hoàn nhỏ về nói
chuyện, chúng tôi ở đây đều khen. Thật là trăm người không có một người bụng dạ
tính khí như nó! Không phải tôi nói quá khen chứ nó mà về làm dâu nhà người ta
thì bố mẹ chồng nào chẳng thương yêu, người trong nhà ai chẳng kính phục.
Bảo Ngọc ban đầu nghe đã chối tai, định tìm cách chuồn, nhưng
khi nghe đến câu chuyện ấy, lại ngồi xuống ngẩn người ra nghe mãi.
Dì Tiết nói:
- Không ăn thua. Cháu Bảo tuy khá, nhưng rút cục vẫn là con
gái. Sinh ra cái thằng Bàn ngu ngốc ấy, tôi thật không yên lòng, chỉ sợ nó ra
ngoài uống rượu, gây chuyện không hay. May được cậu Cả cậu Hai ở nhà cụ đây thường
thường chơi với nó, tôi cũng đỡ lo.
Bảo Ngọc nghe nói đến đó, đỡ lời ngay:
- Dì cũng đừng lo, những người anh Tiết quen biết, đều là hạng
buôn bán đứng đắn có thể diện, làm gì mà sợ sinh chuyện?
Dì Tiết cười nói:
- Nếu như cháu nói, có lẽ cũng không cần phải bận lòng nữa.
Mọi người ăn cơm xong. Bảo Ngọc cáo từ trước, nói là đêm còn
phải đọc sách, rồi ra về.
Trong này bọn a hoàn vừa bưng trà lên, thì thấy Hổ Phách ghé
vào tai Giả mẫu nói mấy câu. Giả mẫu liền nói với Phượng Thư:
- Cháu về mau xem con Xảo ra sao?
Phượng Thư nghe nói, còn chưa biết việc gì. Mọi người cũng đều
sửng sốt, Hổ Phách nói với Phượng Thư:
- Vừa rồi chị Bình sai a hoàn nhỏ đến thưa với mợ Hai: em Xảo
trong người không được khỏe, mời mợ về mau một chút mới được.
Giả mẫu nói:
- Cháu cứ về mau, dì cũng là người nhà thôi.
Phượng Thư vội vàng vâng lời, cáo từ dì Tiết ra về.
Vương phu nhân nói:
- Chị về trước đi, ta sẽ sang ngay. Con bé còn yếu bóng
vía, bảo bọn a hoàn đừng làm ầm ĩ lên. Phải giữ mèo chó trong nhà nữa, trẻ con
thường hay quặt quẹo thế đấy.
Phượng Thư vâng lời, cùng a hoàn nhỏ về phòng.
Dì Tiết lại hỏi đến bệnh tình của Đại Ngọc, Giả mẫu nói:
- Con Lâm vẫn thế thôi. Vì nó hay lo nghĩ, thành ra người nó
cứ yếu luôn. Về mặt thông minh thì nó cũng không thua kém gì con Bảo là mấy,
nhưng về mặt biết rộng rãi, bao dung đối với người khác thì không được như con
Bảo.
Dì Tiết lại kể vài câu chuyện suông, rồi nói:
- Mời cụ đi nghỉ, tôi cũng phải về, kẻo ở nhà chỉ còn con Bảo
và con Hương Lăng thôi. Nhân tiện tôi qua bên dì cháu cùng đến thăm cháu Xảo một
chút.
- Phải đấy, dì đã có tuổi đến thăm cháu một chút xem ốm đau
ra sao, nói cho chúng nó biết để khỏi lo.
Dì Tiết cáo từ, cùng Vương phu nhân đi sang nhà Phượng Thư.
Giả Chính thử tài Bảo Ngọc một lúc, trong lòng khoan khoái,
đi ra ngoài. Nhân câu chuyện phiếm với bọn môn khách, ông ta nhắc lại chuyện vừa
rồi. Trong đó có một người khách mới đến, rất cao cờ, tên là Vương Nhĩ Điều, tự
là Tác Mai, thưa:
- Cứ như chúng tôi xem thì học vấn của cậu Hai đã tiến lắm.
Giả Chính nói:
- Tiến gì đâu? Chẳng qua nó mới hiểu tý chút thôi. Nhắc đến
hai chữ “học vấn” e còn sớm quá!
Thiềm Quang nói:
- Đó là ông lớn nói khiêm tốn đó thôi. Chẳng những anh Vương
nói, mà theo ý chúng tôi thì cậu Bảo nhất định sau này sẽ đỗ cao.
Giả Chính cười, nói:
- Các vị quá yêu nó đấy thôi.
Vương Nhĩ Điều lại nói:
- Vãn sinh có một câu, không ngại nông nổi, muốn nói với ông
lớn.
- Việc gì thế?
- Nhà cụ Trương đã từng làm quan đạo Nam thiều, cũng là nơi
quen biết với tôi, có một cô gái đức hạnh, nhan sắc, nữ công đều khá và chưa nhận
lễ hỏi của ai. Ông ta không có con trai, gia tư có hàng mấy vạn, nhưng đòi hỏi
phải được con nhà phú quí song toàn, lại trội hơn người ta thì mới chịu gả. Tôi
đến đây đã hai tháng, xem phẩm cách và sức học của cậu Bảo thế nào cũng thành đạt
lớn. Còn gia thế của ông lớn đây thì chẳng phải nói gì nữa! Nếu tôi đến bên ấy,
chắc chắn nói một lời là xong việc ngay.
- Cháu Bảo cũng đến tuổi hỏi vợ rồi, và mẹ tôi cũng thường nhắc
đến, nhưng đối với cụ Trương thì xưa nay chúng tôi chưa biết rõ.
Thiềm Quang nói:
- Nhà họ Trương mà anh Vương nói đấy tôi cũng biết. Nhà này
là bà con với bên ông Cả. Ông lớn cứ hỏi là biết ngay.
Giả Chính nghĩ một lúc rồi nói:
- Tôi chưa hề nghe ông Cả nói là có bà con với nhà ấy.
- Ông lớn không biết, chứ nhà họ Trương là bà con với ông cậu
Cả Hình đấy.
Giả Chính nghe nói, mới biết. Mọi người nói chuyện một lúc nữa,
rồi Giả Chính vào nhà trong, định nói với Vương phu nhân để hỏi lại Hình phu
nhân, không ngờ Vương phu nhân đã cùng dì Tiết đi sang nhà Phượng Thư để thăm Xảo
Thư rồi.
Đến lúc lên đèn, Tiết phu nhân ra về, Vương phu nhân mới về
phòng. Giả Chính kể lại câu chuyện của Vương Nhĩ Điều và Thiềm Quang cho Vương
phu nhân nghe, rồi hỏi:
- Cháu Xảo ra sao?
- Xem như nó bị chứng kinh phong ấy.
- Không đến nỗi nguy lắm chứ?
- Xem chừng có vẻ phát sài, nhưng chưa lên cơn.
Giả Chính nghe xong “hừ” một tiếng, không nói gì cả, rồi ai nấy
đi ngủ.
Hôm sau Hình phu nhân sang nhà Giả mẫu, hỏi thăm sức khỏe,
Vương phu nhân liền nhắc đến việc nhà họ Trương, một mặt thưa lại với Giả mẫu,
một mặt hỏi Hình phu nhân.
Hình phu nhân nói:
- Nhà họ Trương tuy là bà con, nhưng mấy năm nay, tôi không
đi lại, không biết con gái nhà họ ra sao. Hôm trước bà thông gia họ Tôn sai một
bà già đến hỏi thăm, có nhắc đến việc nhà họ Trương. Bà ta bảo, nhà họ có cô
con gái, nhờ bà thông gia họ Tôn xem bên này có đám nào xứng đáng thì mách
giùm. Nghe nói nhà họ chỉ có một mình cô ấy, nên rất nâng niu chiều chuộng. Cô
ta cũng có biết ít nhiều chữ nghĩa, tính tình nhút nhát, thường ở trong nhà,
không dám đi đâu. Cụ Trương lại nói: Cụ chỉ có một mình cô ấy, không muốn gả về
nhà người ta, sợ bố mẹ chồng nghiêm ngặt, cô ta không chịu nổi. Vì thế đòi hỏi
ai lấy cô ta phải đến đấy ở rể, trông nom việc nhà cho họ.
Giả mẫu nói ngay:
- Thế thì nhất định không được. Bảo Ngọc nhà mình nhờ người
khác hầu hạ còn chưa xong, lại đi trông nom việc nhà cho người ta được à?
Hình phu nhân nói:
- Đúng như lời cụ nói đấy.
Giả mẫu nói với Vương phu nhân:
- Chốc nữa chị nói với anh ấy rằng, việc kết hôn với nhà họ
Trương không được đâu.
Vương phu nhân vâng lời. Giả mẫu lại hỏi:
- Hôm qua các chị xem bệnh chắt Xảo ra sao? Ban đầu con Bình
đến nói với ta, bảo là nó mệt lắm, ta cũng muốn qua thăm một tý.
Hình phu nhân và Vương phu nhân đều nói:
- Cụ thương yêu nó quá, nó đáng đâu được thế.
- Không riêng việc gì nó, ta cũng muốn đi lại một chút cho
dãn xương dãn cốt. Các người cứ về ăn cơm đi, chốc nữa cùng ta qua bên ấy.
Hình phu nhân và Vương phu nhân vâng lời, ai về nhà nấy. Một
lúc sau, ăn cơm xong, hai người đều trở lại cùng Giả mẫu đi sang nhà Phượng
Thư. Phượng Thư vội vàng chạy ra chào đón.
Giả mẫu hỏi:
- Chắt Xảo thế nào?
- Xem có vẻ muốn lên cơn sài.
- Thế mà không mau mau mời thầy xem gấp đi?
Giả mẫu cùng Hình phu nhân và Vương phu nhân vào phòng thì thấy
bà vú đang bồng Xảo Thư trong một cái chăn bông lụa màu hồng điều, sắc mặt con
bé nhợt nhạt, đầu mày và mũi hơi giật giật. Xem qua một tý rồi bọn Giả mẫu ra
ngoài ngồi nói chuyện. Bỗng một a hoàn nhỏ thưa với Phượng Thư:
- Ông lớn sai người đến hỏi em sao rồi?
Phượng Thư nói:
- Đang đi mời thầy, chốc nữa xem bệnh, kê đơn cho cháu xong sẽ
sang thưa lại với ông lớn.
Chợt nhớ đến việc nhà họ Trương, Giả mẫu nói với Vương phu
nhân:
- Chị nên nói với anh ấy, đừng để nói rồi lại bỏ.
Giả mẫu lại hỏi Hình phu nhân:
- Tại sao bây giờ nhà chị không đi lại với nhà họ Trương nữa?
- Kể ra thì họ Trương cũng không thể làm thông gia với nhà ta
được. Họ ăn ở khe khắt quá, không xứng đáng với Bảo Ngọc.
Phượng Thư nghe nói, biết tám chín phần, liền hỏi:
- Mẹ nói chuyện hôn nhân của chú Bảo phải không?
Hình phu nhân nói:
- Phải đấy!
Giả mẫu liền đem câu chuyện vừa rồi nói với Phượng Thư.
Phượng Thư cười, nói:
- Không phải trước mặt bà và hai mẹ mà cháu dám nói leo chứ
hiện có mối nhân duyên trời định đó, cần gì lại đi tìm nơi khác?
Giả mẫu cười, hỏi:
- Ở đâu?
Phượng Thư nói:
- Một bên “ngọc báu”, một bên “khóa vàng” mà sao bà lại quên
mất?
- Hôm qua, cô cháu ở đây, sao cháu không nhắc?
- Bà và hai mẹ ở đây, cháu là trẻ con làm gì dám nói. Vả lại
dì sang thăm bà, mà ta nhắc đến chuyện đó sao tiện? Hai mẹ phải qua hỏi bên đó
mới phải.
Giả mẫu cùng Hình phu nhân và Vương phu nhân đều cười.
Giả mẫu lại nói:
- Ta thật là lú lẫn hết.
Đang nói chuyện thì có người vào thưa:
- Thầy thuốc đã đến.
Giả mẫu cứ ngồi ở nhà ngoài. Hình phu nhân và Vương phu nhân
thì tránh sang một bên.
Thầy thuốc cùng Giả Liễn đi vào, hỏi thăm sức khỏe của Giả mẫu,
vào phòng thăm bệnh, đoạn ra đứng khom lưng thưa với Giả mẫu:
- Cháu nhỏ một phần là nóng ở trong, một phần là kinh phong.
Trước hết cần uống một thang phát tán phong đàm, rồi uống đến “tứ thần” mới được,
vì bệnh tình hơi nặng. Hiện nay ngưu hoàng đều giả cả, phải tìm cho ra ngưu
hoàng thật mới dùng được.
Giả mẫu ngỏ lời cảm ơn. Thầy thuốc theo Giả Liễn ra ngoài kê
đơn rồi về.
Phượng Thư nói:
- Nhân sâm thì trong nhà ta có sẵn, chứ ngưu hoàng sợ chưa chắc
đã có, phải ra mua ở ngoài, nhưng cần thứ thật mới được.
Vương phu nhân nói:
- Để ta sai người qua bên nhà dì tìm xem. Thằng Bàn lâu nay
hay buôn bán với bọn khách phương Tây, có thứ thật cũng chưa biết chừng. Ta sẽ
bảo người đi hỏi xem.
Đang nói chuyện thì bọn chị em đều đến thăm. Họ ngồi một chốc,
rồi cùng Giả mẫu về.
Thuốc sắc được, đổ cho Xảo Thư uống. Nghe nó khạc một tiếng,
nhổ ra cả đờm lẫn thuốc. Phượng Thư mới hơi yên lòng. Vừa lúc đó một a hoàn nhỏ
ở bên nhà Vương phu nhân cầm một gói giấy đỏ nhỏ đến, nói:
- Mợ Hai ạ, ngưu hoàng đây rồi. Bà hai dặn là mợ phải cân cho
đúng đồng cân đồng lạng.
Phượng Thư nghe lời, cầm lấy ngưu hoàng, bảo Bình Nhi pha chế
trân châu, băng phiến, châu sa, rồi sắc lên. Phượng Thư cân ngưu hoàng theo như
trong đơn, hòa vào thuốc, chờ Xảo thư ngủ dậy sẽ cho uống. Chợt thấy Giả Hoàn vạch
màn bước vào nói:
- Chị Hai, cháu Xảo nhà chị ra sao rồi? Đẻ tôi bảo tôi đến
thăm cháu một tý.
Phượng Thư hễ thấy mẹ con nhà nó là ghét, liền nói:
- Cháu đã đỡ rồi, em về nói là chị cảm ơn dì nhé.
Giả Hoàn miệng thì vâng dạ, nhưng mắt cứ nhìn khắp nơi. Hắn
nhìn một lát rồi hỏi Phượng Thư:
- Ở đây nghe nói có ngưu hoàng, không biết ngưu hoàng ra sao,
chị cho tôi xem một tý.
- Cháu mới hơi đỡ, em đừng quấy nữa. Ngưu hoàng đã sắc hết rồi.
Giả Hoàn nghe nói, cầm cái ấm lên xem, không ngờ lỡ tay, nghe
sầm một tiếng, cái ấm thuốc đổ nhào, thuốc chảy xuống, lửa tắt phụt. Giả Hoàn
thấy vậy, nghĩ khó coi, vội vàng chạy mất.
Phượng Thư nóng lên, con mắt nảy lửa, mắng:
- Thật là oan gia từ đời nào để lại! Tội tình gì mà mày đến
quấy rầy như thế. Trước đây mẹ mày đã định làm hại tao, giờ mày lại đến làm hại
tao. Tao với nhà mày là thù hằn từ mấy đời thế?
Rồi chị ta lại mắng Bình Nhi không lo trông nom.
Bỗng một a hoàn đến tìm Giả Hoàn. Phượng Thư nói:
- Mày về nói với dì Triệu, bảo dì ấy lo lắng đến nó quá chừng.
Con Xảo nhất định chết đấy, không cần dì ấy phải nghĩ đến nữa.
Bình Nhi vội vàng cân thuốc sắc lần khác. A hoàn kia chẳng rõ
đầu đuôi ra sao, liền hỏi nhỏ Bình Nhi:
- Tại sao mợ Hai nổi giận thế?
Bình Nhi đem chuyện Giả Hoàn làm đổ ấm thuốc nói cho nó nghe.
Nó nói:
- Chẳng trách hắn ta tránh đi nơi khác không dám về. Chẳng biết
sau này hắn sẽ ra thế nào. Chị Bình ạ, chị để tôi làm giúp cho.
- Không cần. May còn một chút ngưu hoàng, đã hòa vào thuốc tử
tế rồi. Em đi về thôi.
- Tôi nhất định về nói với dì Triệu, để dì ấy biết, hắn chỉ
hay nói láo.
Quả nhiên a hoàn kia về nói với dì Triệu. Dì Triệu giận quá,
bảo đi tìm thằng Hoàn về đây mau. Giả Hoàn trốn ở nhà ngoài, bị a hoàn tìm thấy.
Dì Triệu mắng:
- Cái đồ đốn mạt kia! Tại sao mày lại làm đổ thuốc người ta
đi, để cho họ chửi tao? Tao chỉ bảo mày đi hỏi thăm một tiếng, không cần phải
vào nhà, mà mày lại cứ vào, rồi không quay về ngay, còn định vuốt râu hùm à? Để
tao trình với cha mày, xem có đánh mày hay không?
Trong khi Dì Triệu đang mắng, thì Giả Hoàn ở nhà ngoài, thốt
ra những lời rùng rợn.
Chú thích:
Chú thích:
(1). Người xưa có câu “mạc tri kỳ tử chì ác” nghĩa là cha
không biết cái xấu của con mình. Ở đây Giả Chính nói ngược lại nên Giả mẫu cười.
(2). Hai câu trên là Luận ngữ: “Ta mười lăm tuổi đã chăm chỉ
việc học” và “Người ta không biết mình cũng không giận”, câu thứ ba là ở Mạnh tử:
“Thì về họ Mặc”.
(3). Thánh nhân có chí về việc học ngay từ lúc còn bé.
(4). Không chăm lo việc học là thường tình của con người.
(5). Thánh nhân mười lăm tuổi mà đã có chí về việc ấy, chẳng
cũng rất khó hay sao?
(6). Ai là không học, nhưng rất ít người có chí với việc học.
Vì thế thánh nhân tự tin vào lúc mười lăm tuổi.
(7). Không giận vì điều người ta không biết mình, sẽ không
bao giờ thay đổi điều vui thích của mình.
(8). Kẻ nào không có lòng giận người thì mới chuyên tâm về việc
học.
(9). Không ai không giận khi mình không được người ta biết đến;
vậy mà nay lại chẳng như thế. Nếu không phải do ưa thích mà vui, thì làm sao được
như thế.
(10). Chẳng phải là người chuyên tâm về việc học đó ư?
(11). Ngoài việc bỏ họ Dương ra hình như không về với ai nữa.
(12). Không phải là người ta muốn về với họ Mặc đâu, nhưng học
thuyết của họ Mặc đã lan nửa thiên hạ. Vậy thì một khi đã bỏ họ Dương, dù muốn
không theo họ Mặc có được đâu.
(13). Chỉ có kẻ sĩ mới làm được.
(14). Đại ý: trong thiên hạ không phải ai cũng là kẻ sĩ, chỉ
có người không có của mới có thể có được. (Theo chữ trong Mạnh tử: “Vô hằng sản
nhi hữu hằng tâm giả, duy sĩ vi năng”, nghĩa là: chỉ có kẻ sĩ thường không có của
nhưng vẫn luôn luôn hảo tâm).
Hồi 85:
Giả Chính được thăng chức lang trung;
Tiết Bàn lại gây nên tù tội.
Dì Triệu đang ở trong nhà mắng Giả Hoàn thì nghe Giả Hoàn ở
nhà ngoài phát cáu lên nói:
- Con chẳng qua làm đồ cái ấm mất một tý thuốc, con bé kia
cũng chưa phải chết ngay, thế mà nó đã mắng con rồi đẻ cũng lại mắng, vu vạ cho
con là có ác ý, định giày vò cho con chết đi hay sao? Rồi đây con còn lấy mạng
con bé ấy đi nữa kia! Xem các người làm cái gì! Cứ bảo bọn họ coi chừng đấy.
Dì Triệu vội vàng ở trong nhà chạy ra, bịt lấy miệng nó và
nói:
- Mày cứ quen miệng nói nhảm, người ta mà nghe thì sẽ lấy mạng
mày trước.
Hai mẹ con cãi cọ một hồi. Dì Triệu nghe những câu nói của
Phượng Thư, càng nghĩ càng tức, cũng không cho người đến an ủi gì cả. Qua vài
hôm bệnh của Xảo Thư cũng khỏi. Từ đó hai nhà càng thêm giận nhau.
Một hôm Lâm Chi Hiếu vào thưa:
- Hôm nay là sinh nhật của Bắc Tĩnh vương, xin ông lớn chỉ bảo.
Giả Chính dặn:
- Cứ theo lệ năm trước mà sắm, rồi trình với ông Cả biết, và
đưa lễ sang là được.
Lâm Chi Hiếu vâng lời, đi ra lo liệu.
Một chốc, Giả Xá sang bàn với Giả Chính dẫn bọn Giả Trân, Giả
Liễn, Bảo Ngọc đi mừng thọ Bắc Tĩnh vương. Người khác thì không cần bàn, duy có
Bảo Ngọc ngày thường rất mến dung mạo uy nguy của Bắc Tĩnh vương, chỉ mong sao
được gặp mặt luôn, bèn vội vàng thay quần áo theo sang phủ Bắc Tĩnh. Bọn Giả
Xá, Giả Chính gửi trình cái thiếp ghi chức tước, tên họ đưa vào phủ rồi đứng chờ
ở ngoài. Một lát sau, một người thái giám ở trong ra tay bấm mấy hạt châu. Thấy
bọn Giả Xá, Giả Chính, anh ta cười hì hì và nói:
- Hai vị lâu nay có khỏe mạnh không?
Giả Xá, Giả Chính và ba anh em Giả Trân cũng vội vàng chạy lại
chào hỏi.
Viên thái giám nói:
- Vương gia bảo mời vào.
Năm người theo viên thái giám vào trong phủ. Qua hai lần cửa,
vòng quanh một dãy điện, mới đến cửa nội cung. Đến trước cửa, mọi người dừng lại,
viên thái giám vào trước trình với vương gia. Bọn thái giám nhỏ ở cửa đều đến
đón chào.
Một chốc, viên thái giám kia ra nói:
Năm người kính cẩn theo vào. Bắc Tĩnh vương mặc đồ lễ phục,
đã đứng đón ở hành lang ngoài cửa điện. Trước tiên là Giả Xá, Giả Chính đến
chào rồi lần lượt đến Giả Trân, Giả Liễn, Bảo Ngọc đều lại chào và hỏi thăm sức
khoẻ.
Bắc Tĩnh vương chỉ nắm lấy tay Bảo Ngọc và nói:
- Ta lâu nay không thấy anh, rất là nhớ. - Rồi ông ta lại cười
và hỏi: - Viên ngọc của anh vẫn tốt đấy chứ?
Bảo Ngọc khom lưng thi lễ và thưa:
- Nhờ phúc vương gia, viên ngọc vẫn còn tốt.
- Hôm nay anh tới, chẳng có gì quý mời anh xơi. Chúng ta nói
chuyện thôi.
Nói đến đó, mấy người thái giám già vén màn lên. Bắc
Tĩnh vương nói: “Xin mời” rồi tự mình đi trước. Bọn Giả Xá đều khép nép theo
vào. Trước hết Giả Xá xin Bắc Tĩnh vương nhận lễ. Bắc Tĩnh vương nói vài câu
khiêm tốn. Giả Xá quỳ xuống rồi bọn Gia Chính cũng lần lượt làm lễ.
Bọn Giả Xá lại kính cẩn lui ra. Bắc Tĩnh vương dặn bọn thái
giám mời bọn họ ngồi chung với các bà con, thết đãi tử tế, chỉ giữ Bảo Ngọc ở lại
nói chuyện và cho phép ngồi. Bảo Ngọc đập đầu tạ ơn, rồi ghé mình ngồi trên cái
đôn phủ nệm thêu đặt bên cửa, nói chuyện về việc đọc sách và làm văn bài. Bắc
Tĩnh vương rất mến, lại cho uống trà và nói:
- Hôm qua quan tuần phủ họ Ngô vào yết kiến hoàng thượng, có
nói về việc lúc ông nhà ta nhận chức học chính, làm việc chí công, bọn học trò
thuộc hạ rất là kính phục. Lúc Ngô tuần phủ yết kiến hoàng thượng, hoàng thượng
cũng có hỏi, ông ta hết sức đề cử, đủ biết đó là tin mừng của ông nhà ta.
Bảo Ngọc vội vàng đứng dậy, chờ nghe xong câu chuyện, rồi mới
thưa:
- Đó là ơn điển của Vương gia và thịnh tình của cụ lớn Ngô.
Đang nói thì thấy viên thái giám nhỏ vào thưa:
- Các vị quan lớn ở ngoài đều ở điện trước, xin chuyển lời tạ
ơn Vương gia đã ban yến.
Nói xong dâng một tờ thiếp ghi những lời tạ yến và thỉnh an.
Bắc Tĩnh vương nhìn qua một tý, lại trao cho viên thái giám nhỏ và nói:
- Biết rồi, nói với họ là ta xin lỗi đã làm phiền họ.
Viên thái giám nhỏ kia lại thưa:
- Cơm Vương gia thưởng riêng cho anh Giả Bảo Ngọc cũng đã dọn
rồi.
Bắc Tĩnh vương liền sai viên thái giám kia dẫn Bảo Ngọc đến một
ngôi nhà nhỏ nhắn xinh đẹp, sai người tiếp đãi. Bảo Ngọc ăn cơm xong, lại qua tạ
ơn. Bắc Tĩnh vương lại nói mấy câu chuyện, rồi bỗng cười và bảo:
- Lần trước thấy viên ngọc của anh, ta thích lắm, về nói hình
dạng với người nhà, rồi cũng làm một viên khác. Hôm nay vừa gặp lúc anh đến
đây, ta cho anh đưa về mà chơi.
Nói xong, sai viên thái giám nhỏ lấy ra, tự tay Vương gia đưa
cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cầm lấy tạ ơn, rồi lui ra. Bắc Tĩnh vương lại sai hai
thái giám nhỏ dẫn Bảo Ngọc đến với bọn Giả Xá rồi cùng ra về.
Giả Xá về chào Giả mẫu, rồi về nhà mình. Giả Chính thì dẫn ba
người đến hỏi thăm sức khỏe của Giả mẫu xong rồi kể lại việc ở phủ Bắc gặp những
người nào. Bảo Ngọc thuật lại câu chuyện quan lớn Ngô đề cử lên hoàng thượng
cho Giả Chính nghe.
Giả Chính nói:
- Quan lớn Ngô ấy là chỗ quen biết cũ với ta, cũng là người
trong bọn chúng ta, và cũng có khí khái.
Giả Chính lại nói thêm mấy câu chuyện phiếm nữa. Giả mẫu bảo:
- Anh về đi nghỉ thôi.
Giả Chính lui ra. Bọn Giả Trân, Giả Liễn, Bảo Ngọc đều theo đến
cửa. Giả Chính nói:
- Các anh trở lại ngồi tiếp chuyện bà.
Nói đoạn, Giả Chính về phòng. Vừa ngồi được một tý thì thấy một
a hoàn nhỏ thưa:
- Ông Lâm Chi Hiếu ở ngoài có việc xin thưa với ông lớn.
Nói xong nó đưa lên một bức thiếp màu hồng, trên viết tên họ
của Ngô tuần phủ. Giả Chính biết là ông ta đến chào, liền bảo con hầu nhỏ gọi
Lâm Chi Hiếu vào. Giả Chính ra đứng ngoài thềm.Lâm Chi Hiếu vào thưa:
- Hôm nay Ngô tuần phủ đến thăm, tôi đã thưa với ông ta rằng
ông còn đi vắng nên ông ta đã về rồi, nghe nói hiện nay Bộ Công khuyết chức
lang trung, người ngoài và người trong bộ đều đồn đại là ông lớn sẽ được thực
thụ chức ấy.
- Chờ xem đã.
Lâm Chi Hiếu nói vài câu nữa rồi lui ra.
Giả Trân, Giả Liễn và Bảo Ngọc đi ra. Bảo Ngọc lại quay vào
nhà Giả mẫu thuật lại việc Bắc Tĩnh vương đối đãi với mình ra sao, và đưa viên
ngọc cho mọi người xem.
Giả mẫu bảo:
- Cất đi, đừng có làm mất. Viên ngọc của cháu đeo cho tử tế,
đừng có làm lẫn lộn đi.
Bảo Ngọc liền lấy viên ngọc đeo trên cổ xuống và nói:
- Viên ngọc của cháu đây này. Hai viên ngọc khác nhau xa, lẫn
sao được. Cháu đang định thưa với bà, đêm hôm trước, lúc cháu ngủ, lấy ngọc xuống,
treo trong màn ánh sáng lóe ra, cả màn đều đỏ rực.
Giả mẫu nói:
- Lại nói nhảm rồi. Đó là vì cái diềm màn màu hồng, ánh đèn
chiếu vào, tự nhiên nó đỏ đấy thôi.
- Không phải, lúc đó đèn đã tắt rồi, cả nhà đều lối đen, mà
cháu vẫn trông thấy viên ngọc.
Hình phu nhân và Vương phu nhân đều phì cười.
Phượng Thư nói:
- Đó là tin mừng đấy.
Bảo Ngọc nói:
- Tin mừng gì?
Giả mẫu nói:
- Cháu không hiểu đâu, hôm nay mệt cả ngày, cháu về nghỉ
thôi, đừng ở đây mà nói nhảm nữa.
Bảo Ngọc lại đứng một lát, rồi về trong vườn.
Giả mẫu lại hỏi tiếp
- Phải đấy. Các người sang thăm dì Tiết, có nói đến việc ấy
không?
Vương phu nhân nói:
- Định sang thăm ngay, nhưng vì cháu Xảo nhà chị Phượng lại ốm,
nên con để chậm mất hai ngày. Hôm nay mới sang. Chúng con đã nói việc ấy, dì Tiết
cũng bằng lòng, nhưng nói hiện giờ thằng Bàn đi vắng, cha cháu mất rồi, phải
bàn với cháu Bàn rồi hãy lo liệu.
Giả mẫu nói:
- Như vậy cũng phải, nhưng đã như thế thì hãy khoan nhắc đến,
chờ cho bên dì Tiết bàn bạc chắc chắn rồi sẽ nói chuyện.
Bảo Ngọc về phòng mình, bảo Tập Nhân:
- Vừa rồi cụ và chị Phượng có vẻ úp mở, tôi chẳng hiểu gì cả.
Tập Nhân nghĩ một lúc rồi cười, nói:
- Cái đó tôi cũng không đoán ra, nhưng vừa rồi khi nói chuyện,
cô Lâm có ở đấy không?
- Cô Lâm vừa ốm dậy, mấy lâu nay có đến bên nhà cụ đâu?
Đang nói chuyện thì nghe ở nhà ngoài Xạ Nguyệt và Thu Văn cãi
nhau. Tập Nhân hỏi:
- Hai chị lại làm cái gì thế?
Xạ Nguyệt nói:
- Hai đứa chúng tôi đánh bài, nó được tiền của tôi, nó lấy. Đến
khi nó thua lại không chịu trả. Cái đó còn được, nhưng nó lại còn ăn cướp hết
tiền của tôi nữa.
Bảo Ngọc cười nói:
- Mấy đồng tiền, quan hệ gì? Đố ngốc không được làm ồn lên nữa!
Nghe nói, hai người chỉ ngồi lẩm bẩm trong miệng.
Trong nhà Tập Nhân dọn dẹp cho Bảo Ngọc đi ngủ.
Nghe câu nói vừa rồi, Tập Nhận biết ngay là họ bàn việc hỏi vợ
cho Bảo Ngọc. Nhưng sợ Bảo Ngọc hay có những ý trẻ con, nếu nhắc đến, không
khéo lại gợi ra cho anh ta bao nhiêu câu nói ngớ ngẩn. Tập Nhân cố ý làm như
không biết, nhưng đối với chị ta đó là việc quan trọng nhất. Đêm nằm, Tập Nhân
có ý định: Chi bằng sang gặp Tử Quyên, xem có tăm hơi gì không thì tự khắc biết.
Hôm sau, Tập Nhân dậy sớm, sắm sửa cho Bảo Ngọc đi học rồi, chị ta chải đầu rửa
mặt, thong thả đến quán Tiêu Tương, gặp Tử Quyên đang hái hoa. Thấy Tập Nhân đến,
Tử Quyên cười hì hì nói:
- Mời chị vào trong nhà ngồi.
Tập Nhân nói:
- Ngồi rồi đây, em hái hoa à? Cô đâu?
- Cô tôi vừa chải đầu rửa mặt xong, đang chờ hâm thuốc đấy.
Tử Quyên vừa nói vừa cùng Tập Nhân đi vào. Thấy Đại Ngọc đang
ngồi xem sách.
Tập Nhân cười lấy lòng và nói:
- Không trách cô hay mệt, mới ngủ dậy đã xem sách. Cậu Bảo
nhà chúng tôi đi học mà được như cô thì hay biết mấy?
Đại Ngọc cười, đặt sách xuống. Tuyết Nhạn bưng đến một khay
trà trong để một chén thuốc, một chén nước. Một a hoàn nhỏ bưng ống đờm và chậu
súc theo sau.
Tập Nhân đến định dò tin, nhưng ngồi một lúc, không biết khơi
mào như thế nào, lại nghĩ Đại Ngọc là người hay nghi ngờ, mình dò chẳng được
tin gì mà lại chạm lòng cô ta thì thật không hay. Vì vậy Tập Nhân chỉ ngồi một
lát hỏi vơ vẩn rồi cáo từ. Vừa đến cửa viện Di Hồng bỗng thấy có hai người đang
đứng ở đấy, Tập Nhân không tiện đi thẳng lại. Một người trông thấy vội vàng chạy
đến. Tập Nhân nhìn lại thì ra Sừ Dược, liền hỏi:
- Anh làm gì đấy?
- Vừa rồi cậu hai Vân đến, cầm một mảnh thiếp đưa vào cho cậu
Bảo xem. Hiện cậu ta đứng đây chờ tin.
- Cậu Bảo hôm nào cũng đi học, anh không biết hay sao? Còn chờ
tin với tức gì?
- Tôi đã nói với cậu ấy, cậu ấy bảo nói với chị và chờ tin chị
đấy.
Tập Nhân đang định nói, thì thấy Giả Vân thong thả bước lại gần.
Tập Nhân vội vàng nói với Sừ Dược:
- Anh nói với cậu ấy, tôi biết rồi, chốc nữa sẽ đưa cho cậu Bảo
xem.
Giả Vân muốn tới nói chuyện với Tập Nhân, chỉ cốt gần gũi làm
quen nhưng lại không dám hấp tấp, cứ thong thả đi vào. Vừa tới gần đã nghe Tập
Nhân nói câu ấy, nên hắn đành phải đứng lại. Đằng này Tập Nhân đã quay người đi
vào phía trong rồi. Giả Vân đành buồn rầu, cùng Sừ Dược ra về.
Đến chiều, Bảo Ngọc về phòng, Tập Nhân thưa lại:
- Hôm nay cậu hai Vân ở bên kia có đến.
- Đến làm gì?
- Cậu ta có mang theo một bức thiếp nữa.
- Ở đâu? Đưa đây tôi xem.
Xạ Nguyệt liền vào nhà lấy ở trên giá sách đưa lại. Bảo Ngọc
đỡ lấy xem thấy trên phong bì đề: “Thúc phụ đại ân nhân an bẩm” (Kính trình lên
chú), liền nói:
- Thằng bé này sao không nhận ta là cha nữa?
- Sao thế?
- Năm trước, lúc nó biếu cây hải đường trắng cho tôi, nó gọi
tôi là cha. Bức thiếp hôm nay trên phong bì nó lại đề là chú, không phải nó
không nhận tôi là cha nữa là gì?
- Cậu không biết thẹn mà hắn cũng không biết thẹn! Hắn to xác
như thế lại nhận cậu là cha, không phải không biết thẹn là gì. Nói cho đúng ra
thì cậu ngay cả...
Nói đến đó, chị ta đỏ mặt và mỉm cười.
Bảo Ngọc cũng hiểu ý và nói:
- Cái ấy cũng khó nói, tục ngữ có câu: “Ông sư không con mà
con hiếu lại nhiều”. Tôi thấy nó sắc sảo, vừa ý nên mới nhận như thế, nếu nó
không bằng lòng, tôi cũng chẳng thiết.
Vừa nói Bảo Ngọc vừa bóc bức thiếp. Tập Nhân cũng cười nói:
- Cái cậu hai Vân kia cũng có vẻ tinh quái, khi thì định dòm
người ta, khi lại lén lén lút lút, đủ biết con người bụng dạ không ngay thẳng.
Bảo Ngọc chỉ chú ý mở bức thiếp ra xem, không để ý gì đến lời
nói của Tập Nhân. Tập Nhân thấy Bảo Ngọc xem bức thiếp, lúc đầu nhăn mày, sau lại
cười, lại lắc đầu, cuối cùng có vẻ rất là bực. Chờ xem xong rồi, Tập Nhân mới hỏi:
- Trong thiếp nói gì thế?
Bảo Ngọc không trả lời, xé tan bức thiếp làm mấy mảnh. Tập
Nhân thấy tình hình như thế, cũng không tiện hỏi, liền nói:
- Cậu ăn cơm rồi có xem sách không?
- Buồn cười cho thằng Vân, dám bậy bạ như thế?
Tập Nhân thấy hỏi một đường trả lời một nẻo, liền mỉm cười hỏi:
- Vậy là việc gì thế?
- Hỏi làm gì! Chúng mình ăn cơm rồi nghỉ thôi, trong bụng tôi
bực bội lắm.
Bảo Ngọc nói xong bảo a hoàn nhỏ thắp đèn lên, đem bức thiếp
đã xé, đốt đi.
Một lát, bọn a hoàn nhỏ dọn cơm lên, Bảo Ngọc cứ ngồi ngẩn
người ra. Tập Nhân vừa dỗ vừa chọc, giục mãi Bảo Ngọc mới ăn được một miếng, liền
đặt đũa xuống, rồi rầu rầu nằm nghiêng trên giường, một lúc bỗng ứa nước mắt. Tập
Nhân và Xạ Nguyệt đều không hiểu đầu đuôi ra sao.
Xạ Nguyệt nói:
- Tự dưng vô cớ, làm sao cậu lại như thế? Chỉ tại anh Vân,
anh “Vũ” nào đó, chẳng biết việc gì, đem cái thiếp quái quỷ đấy đến, làm cho cậu
cười cười, khóc khóc như người điên. Nếu cứ trời đất này, hết bực nọ đến bực
kia thì ai mà chịu được.
Nói đến đó, chị ta cũng chảy nước mắt.
Tập Nhân đứng một bên bật cười, khuyên:
- Em ạ, em cũng đừng làm phiền người ta nữa. Một mình cậu ấy
cũng đủ rồi, em lại cũng như thế nữa. Chẳng nhẽ việc trong bức thiếp ấy liên
can đến em hay sao?
Xạ Nguyệt nói:
- Đừng nới nhảm! Ai biết trên thiếp hắn viết lời bậy bạ gì,
sao chị lại kéo bừa người ta vào đấy? Nếu như thế thì trên thiếp ấy có lẽ cũng
liên can đến chị đấy!
Tập Nhân còn chưa trả lời thì nghe Bảo Ngọc ở trên giường cười
phì lên một tiếng, lồm ngồm bò dậy, rũ áo, và nói:
- Chúng mình ngủ đi thôi, đừng làm ồn lên nữa. Ngày mai tôi
còn phải dậy sớm để học đấy.
Nói xong lại nằm xuống ngủ.
Hôm sau, Bảo Ngọc dậy chải đầu rửa mặt rồi đi học. Vừa ra đến
cửa, chợt nhớ điều gì, liền bảo Bồi Dính đứng chờ một chút rồi vội vàng quay lại
gọi:
- Chị Xạ Nguyệt đâu rồi?
Xạ Nguyệt chạy ra hỏi:
- Sao cậu lại trở về?
- Hôm nay thằng Vân có đến thì chị nói với nó không được quấy
rầy ở đây nữa. Nếu nó còn quấy thì tôi sẽ trình với cụ và ông lớn đấy.
Xạ Nguyệt vâng lời.
Bảo Ngọc vừa quay mình đi ra ngoài, thì thấy Giả Vân hoảng hốt
chạy đến. Thấy Bảo Ngọc, hắn liền chào và nói:
- Thưa chú, xin có lời mừng chú!
Bảo Ngọc cứ tưởng là câu chuyện hôm qua, liền nói:
- Thằng này to gan thật! Không biết người ta có chuyện gì hay
không, cứ tới quấy rầy.
Giả Vân cười, nới:
- Chú không tin cứ nhìn xem. Người ta đã đến cả rồi, đang ở cửa
ngoài đấy.
Bảo Ngọc càng hoảng lên, bảo:
- Mày nói cái gì thế?
Đang nói thì nghe bên ngoài có tiếng người ồn ào.
Giả Vân nới:
- Chú nghe đấy, không phải là gì?
Bảo Ngọc càng ngờ vực, chợt nghe một người gào lên:
- Các người không có phép tắc gì cả! Ở đây là chỗ nào mà các
người dám ồn lên như thế!
Người kia nói:
- Ông lớn thăng quan kia mà. Sao lại không cho chúng
tôi ăn mừng? Nhà khác mong cho người ta đến mừng mà không được đấy.
Bảo Ngọc nghe nói mới biết là Giả Chính được thăng chức lang
trung, người ta đến báo tin mừng. Bảo Ngọc mừng quá đang định đi thì Giả Vân
theo sau nói:
- Chú có vui không nào? Nếu việc hôn nhân của chú mà xong nữa
thì thật là hai lần mừng đấy.
Bảo Ngọc đỏ mặt lên, nhổ toẹt một cái và nói:
- Hừ! Đồ đáng chết! Mày liệu mà xéo đi.
Giả Vân đỏ mặt lên nói:
- Sao chú lại thế? Tôi xem rồi chú có...
Bảo Ngọc sầm nét mặt lại, và nói:
- Có cái gì?
Giả Vân đứng im không dám nói nữa.
Bảo Ngọc vội vàng đến trường, thấy Giả Đại Nho cười, nói:
- Ta vừa nghe nói cha cháu được thăng chức, hôm nay cháu cũng
đi học à?
Bảo Ngọc cười và nói:
- Cháu đến gặp cụ, rồi để qua bên nhà cha cháu.
- Hôm nay không cần đến, cho cháu nghỉ một ngày đấy. Nhưng
không được về vườn chơi đâu nhé. Cháu đã lớn tuổi rồi, tuy chưa biết lo liệu
gì, cũng nên học tập các anh mới được.
Bảo Ngọc vâng lời trở về. Vừa đến cửa thứ hai, thấy Lý Quý chạy
lại đón, đứng một bên, cười nói:
- Cậu đã về à? Tôi vừa định đến trường mời cậu.
- Ai bảo thế?
- Cụ vừa sai người đến Viện Di Hồng tìm cậu. Các cô bên ấy
nói cậu đi học rồi. Cụ sai người ra bảo tôi xin phép cho cậu mấy hôm. Nghe nói
còn có hát xướng ăn mừng đấy, không ngờ cậu đã về đây rồi.
Bảo Ngọc đi vào cửa thứ hai, thấy bọn a hoàn và các bà già đều
mặt mày hớn hở. Trông thấy Bảo Ngọc họ đều cười nói:
- Cậu Hai đến giờ mới về à? Mau mau vào mừng cụ đi.
Bảo Ngọc cười và đi vào trong nhà, thấy Đại Ngọc ngồi sát
phía trái Giả mẫu; bên phải là Tương Vân rồi đến Hình phu nhân, Vương phu nhân
và tất cả bọn chị em Thám Xuân, Tích Xuân, Lý Hoàn, Phượng Thư, Lý Văn, Lý Ỷ,
Hình Tụ Yên đều ở đấy, chỉ không thấy Bảo Thoa, Bảo Cầm và Nghênh Xuân mà thôi.
Bảo Ngọc mừng quá, không biết nói gì, vội vàng chúc mừng Giả
mẫu, Hình phu nhân, Vương phu nhân và đi chào hỏi tất cả chị em, rồi cười và
nói với Đại Ngọc:
- Em đã khoẻ thật chưa?
Đại Ngọc cũng mỉm cười nói:
- Khoẻ lắm rồi, nghe nói anh cũng mệt, đã khoẻ chưa?
- Khoẻ rồi! Đêm hôm nọ, tôi tự nhiên đau bụng, mấy hôm nay
hơi đỡ, liền đi học ngay, cũng không sang thăm em được.
Đại Ngọc không chờ Bảo Ngọc nói hết lời, đã ngoảnh đầu nói
chuyện với Thám Xuân.
Phượng Thư đứng giữa nhà cười, nói:
- Hai anh chị này hình như không phải hàng ngày ở chung một
chỗ, mà là một đôi khách lạ, cứ quen nói cái lối khách sáo như thế! Thật đúng
như người ta nói: “Kính nhau như khách” đấy.(1)
Câu nói ấy khiến cho mọi người đều cười. Đại Ngọc đỏ mặt lên,
nói cũng không tiện, không nói cũng không xong, im lặng một chốc rồi mới nói:
- Chị thì hiểu cái gì!
Mọi người lại càng cười ồ lên.
Một chốc Phượng Thư nghĩ lại, mới biết là mình lỡ lời,
đang định tìm cách nói lảng, chợt nghe Bảo Ngọc nói với Đại Ngọc:
- Em Lâm, cái thằng Vân đúng là đồ quỉ sứ!
Nói đến đó, Bảo Ngọc mới nghĩ lại, liền im bặt, làm cho mọi
người lại cười ồ lên, hỏi:
- Nói cái gì thế?
Đại Ngọc cũng chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, thấy người ta cười
cũng cười theo.
Bảo Ngọc lúng túng không biết làm thế nào, liền nói tiếp:
- Vừa rồi tôi nghe nói có người định đưa ban hát đến, vậy là
hôm nào đấy?
Mọi người đều nhìn Bảo Ngọc mà cười.
Phượng Thư nói:
- Chú ở ngoài nghe nói, thì chú tin cho chúng tôi biết, bây
giờ chú còn hỏi ai đấy.
Bảo Ngọc nhân dịp liền nói:
- Để tôi ra ngoài hỏi xem.
Giả mẫu nói:
- Đừng có chạy ra ngoài ấy, một là sợ người đến báo tin mừng
họ cười; hai là hôm nay cha mày vui mừng, mà đụng phải mày, không khéo lại đâm
giận đấy.
Bảo Ngọc vâng lời rồi đi ra.
Giả mẫu hỏi Phượng Thư:
- Ai nói chuyện đưa ban hát đến?
- Nghe đâu bên nhà ông cậu Hai nói, hôm sau tốt ngày, sẽ đưa
một ban hát mới đến mừng cụ và ông Hai, bà Hai.
Nói đến đó, chị ta lại cười và nói tiếp:
- Không những tốt ngày mà lại là ngày tốt nữa đấy! Ngày sau lại
là...
Chị ta lại nhìn Đại Ngọc mà cười. Đại Ngọc cũng mỉm cười.
Vương phu nhân nói:
- Phải đấy, hôm sau là ngày sinh nhật của cháu ngoại(2) đấy.
Giả mẫu nghĩ một lúc rồi cười nói:
- Ta già rồi, việc gì cũng lú lấp, may có con Phượng, thật là
viên “cấp sự trung”(3) của ta. Đã thế thì rất tốt, nhà cậu của họ mừng cho họ,
thì nhà cậu của cháu cũng mừng sinh nhật cho cháu, lại không tốt à?
Câu ấy làm cho mọi người cùng cười, và nói:
- Cụ nói câu nào cũng đều hay như văn chương trong sách, chẳng
trách có phúc to như thế!
Đang nói thì Bảo Ngọc vào, nghe nói thế lại càng hoa tay múa
chân mừng không kể xiết. Một lúc sau, mọi người đều ăn cơm ở nhà Giả mẫu, rất
là vui vẻ.
Ăn xong, Giả Chính đi tạ ơn về, qua nhà thờ lạy tạ, về khấu đầu
trước Giả mẫu, đứng nói vài câu, rồi đi ra chào khách. Ở đấy bà con liên tiếp
xe ngựa rộn ràng, áo xiêm chen chúc, thật là:
Hoa nở đúng mùa ong bướm rộn;
Qua hai ngày như vậy thì đến ngày ăn mừng. Ngày hôm ấy, sáng
dậy, bà con nhà Vương Tử Đằng đưa một ban hát đến dựng ngay sân khấu ở trước
nhà khách của Giả mẫu. Bên ngoài đàn ông đều mang lễ phục chầu chực. Bà con đến
mừng, ngồi hơn mười bàn rượu. Vì là ban hát mới, lại thấy Giả mẫu cao hứng nên
họ đem cái bình phong bằng pha lê ngăn nhà sau ra, trong đó cũng tiệc rượu.
Trên hết là bàn dì Tiết, có Vương phu nhân và Bảo Cầm ngồi tiếp; phía bên kia
là bàn Giả mẫu, có Hình phu nhân và Tụ Yên ngồi tiếp; phía dưới còn hai
bàn để không. Giả mẫu bảo gọi bọn con gái đến mau.
Một chốc Phượng Thư dẫn bọn a hoàn xúm xít đưa Đại Ngọc
đến. Đại Ngọc chỉ mặc chiếc áo mới, mà xinh đẹp như nàng tiên xuống cõi trần, bẽn
lẽn mỉm cười, ra chào mọi người. Bọn Tương Vân, Lý Văn, Lý Ỷ đều nhường cô ta
ngồi trên, Đại Ngọc nhất định không chịu.
Giả mẫu cười nói:
- Hôm nay cháu cứ ngồi thôi.
Dì Tiết đứng dậy hỏi:
- Hôm nay cô Lâm cũng có việc mừng à?
Giả mẫu cười:
- Ngày sinh nhật của cháu đấy.
Dì Tiết nói:
- Chao ôi! Thế mà tôi quên mất.
Rồi bà ta chạy lại, nói với Đại Ngọc:
-Tha lỗi cho tôi hay quên nhé, để chốc nữa bảo em Cầm đến mừng
thọ cô.
Đại Ngọc cười nói:
- Không dám.
Rồi mọi người ngồi xuống. Đại Ngọc để ý xem, chỉ không thấy Bảo
Thoa liền hỏi:
- Chị Bảo có khỏe không? Tại sao không sang?
Dì Tiết nói:
- Đáng lẽ nó phải sang, nhưng vì không có ai coi nhà, nên
không sang được/
Đại Ngọc má ửng hồng, mỉm cười nói:
- Bên nhà dì bây giờ lại thêm chị Cả nữa, làm sao còn cần chị
Bảo coi nhà? Chắc là chị ấy sợ nhiều người nhộn nhịp, nên không thích đến
chăng. Cháu thì nhớ chị ấy lắm.
Dì Tiết cười nói:
- Cảm ơn cháu nhớ đến nó. Nó cũng thường nhớ chị em cháu, hôm
sau sẽ bảo nó đến để chị em nói chuyện.
Nói đến đó thì bọn a hoàn tới rót rượu và dâng đồ ăn. Bên
ngoài ban hát bắt đầu hát. Trước hết diễn vài vở tuồng chúc mừng. Đến vở thứ ba
thì thấy Kim Đồng, Ngọc Nữ, cờ phướn, tàn quạt, dẫn một người đóng vai nữ, mặc
áo vũ y, trên đầu đội cái khăn đen, ra hát mấy câu rồi vào. Mọi người không hiểu
là tích gì. Nghe người bên ngoài nói: Đây là tích “Chết trên trời” trong vở “Nhị
châu ký” mới soạn ra. Người đóng vai nữ là Hằng Nga bị đày xuống cõi trần, sắp
đi lấy chồng, may nhờ Phật Quan Âm giác ngộ cho nên cô ta chưa đi lấy chồng thì
đã chết. Lúc này chính là lúc lên cung trăng đấy, nghe trong hát:
Đời chỉ cho phong tình là hay,
Nào biết đâu trăng thu, hoa xuân dễ mờ héo ngay,
Hầu như quên hẳn cả cung quảng hàn này.
Vở thứ tư là “Ăn cám”. Vở thứ năm là: “Sư Đạt Ma đem đồ đệ
qua sông”. Trên sân khấu đang diễn ra cảnh “Lâu đài mịt mù trên mặt biển”(4) rất
là vui nhộn. Mọi người đang cao hứng, chợt thấy người nhà họ Tiết sồng sộc chạy
vào, mồ hôi như tắm, nói với Tiết Khoa:
- Cậu Hai về mau đi. Mời cả bà về nữa. Ở nhà có việc rất kíp.
Tiết Khoa nói:
- Việc gì thế?
- Về nhà sẽ hay.
Tiết Khoa không kịp cáo từ, liền chạy về ngay.
Dì Tiết nghe đoạn, mặt tái như gà cắt tiết, cũng vội vàng đứng
dậy, dẫn Bảo Cầm chào mọi người rồi lên xe về ngay. Thấy vậy ai nấy đều lấy làm
kinh ngạc. Giả mẫu nói:
- Hãy cho người sang bên ấy xem có việc gì, chúng ta cần phải
để ý đấy.
Mọingơời đều nói: “Vâng”.
Phủ Giả vẫn hát xướng như cũ. Dì Tiết về nhà thấy hai người
nha dịch đang đứng ở cửa thứ hai, có mấy người làm công ở hiệu cầm đồ tiếp chuyện
và nói:
- Chờ bà tôi về, thế nào cũng có cách xử trí.
Đang nói thì dì Tiết đi vào. Bọn nha dịch thấy một số đông
đàn ông đàn bà xúm xít chung quanh một người đàn bà già, biết ngay là mẹ Tiết
Bàn. Họ không dám làm gì, cứ buông tay đứng hầu, nhường cho dì Tiết vào. Dì Tiết
vào đến sau nhà khách, đã nghe có tiếng khóc to, đó là tiếng Kim Quế. Dì Tiết vội
vàng chạy vào, thấy Bảo Thoa ra đón, nước mắt ròng ròng.
Bảo Thoa thấy mẹ liền nói:
- Mẹ nghe rồi chứ? Đừng có hoảng lên, cần nhất là phải lo liệu
đã.
Dì Tiết cùng Bảo Thoa vào tới nhà, vừa đến cửa, nghe người
nhà nói, bà ta khiếp quá, người run cầm cập, vừa khóc vừa hỏi:
- Nó đánh ai thế?
Bọn đầy tớ trả lời:
- Bây giờ bà chưa cần hỏi căn vặn làm gì? Mặc dầu đánh chết
ai cũng cứ phải đền mạng cả, giờ hãy bàn xem phải lo liệu như thế nào mới được.
Dì Tiết vừa khóc vừa nói:
- Còn bàn bạc gì nữa.
Bọn đầy tớ nói:
- Theo ý chúng tôi, đêm nay phải thu xếp tiền bạc, cùng cậu
Hai gấp rút đi gặp cậu Cả, tìm một ông thầy kiện cho khá, cho họ một ít tiền,
trước hết lo liệu cho khỏi tội chết đã, rồi sẽ nhờ phủ Giả xin với quan trên. Lại
còn có bọn nha dịch ở ngoài kia, bà hãy đem mấy lạng bạc cho họ về đi đã, để
chúng ta tiện việc lo liệu.
Dì Tiết nói:
- Chúng ta phải đi tìm nhà kia, cho họ tiền bạc để tống táng,
lại giúp đỡ cho một số nữa. Nguyên cáo mà không kêu nài thì việc sẽ êm dần.
Bảo Thoa ở trong màn nói ra:
- Mẹ ạ! Không được đâu. Việc ấy mà cho họ tiền thì họ càng quấy
dữ. Lời của chú nhỏ vừa nói là đúng.
Dì Tiết lại khóc và nói:
- Ta cũng không cần tính mạng gì nữa. Phải đến đó gặp nó rồi
ta cùng chết với nó là xong.
Bảo Thoa hoảng lên, một mặt khuyên, một mặt ở trong màn bảo
người nhà:
- Mau mau cùng cậu Hai đi lo liệu thôi.
Bọn a hoàn vực dì Tiết vào. Tiết Khoa vừa đi ra, thì Bảo Thoa
dặn:
- Có tin tức gì thì sai người về ngay, còn các ngươi thì cứ ở
đấy mà trông nom lo liệu.
Tiết Khoa vâng lời ra đi. Bảo Thoa đang khuyên dì Tiết thì
Kim Quế thừa cơ nắm lấy Hương Lăng và gào lên:
- Ngày thường bọn mày cứ khoe nhà chúng mày đánh chết người,
chẳng can gì, cứ việc đi vào kinh. Mày cứ đem những lời lẽ ấy xui giục cậu đánh
chết người, ngày thường cứ khoe có tiền, có thế, có bà con giỏi. Giờ đây tao
xem cũng khiếp sợ cuống quít chân tay lên đấy. Sau này cậu Cả có mệnh hệ nào,
không về được, bọn mày ai làm việc nấy, chỉ bỏ một mình tao chịu tội thôi.
Nói đến đó, Kim Quế khóc ầm lên.
Dì Tiết nghe vậy càng tức giận ngất người. Bảo Thoa cũng cuống
lên chẳng biết làm thế nào.
Đang lúc nhốn nháo thì Vương phu nhân sai một a hoàn lớn đến
hỏi tin tức. Bảo Thoa tuy biết mình là người nhà phủ Giả rồi, nhưng một là việc
ấy chưa nói rõ; hai là đang lúc cấp bách, đành phải nói với a hoàn:
- Bây giờ đầu đuôi câu chuyện chưa được rõ ràng, chỉ mới nghe
nói anh tôi ở ngoài đánh chết người, bị huyện bắt đi, cũng không biết định tội
như thế nào. Vừa rồi cậu Hai mới đi dò xem, hễ có tin tức gì sẽ báo cho dì bên ấy
biết. Chị về cho tôi gửi lời cảm ơn dì đã nghĩ đến, sau này chúng tôi còn có biết
bao nhiêu điều nhờ đến các ông các cậu bên ấy.
A hoàn vâng lời ra về.
Dì Tiết cùng Bảo Thoa ở nhà, chẳng biết xoay sở ra sao. Qua
hai ngày, thì thấy người hầu về, cầm một phong thư giao cho a hoàn nhỏ đưa vào.
Bảo Thoa mở ra xem, thấy trong thư viết:
“Việc giết người của anh Cả là lỡ tay chứ không phải cố ý.
Sáng nay cháu đã đứng tên làm một tờ giấy trình lên nhưng chưa thấy quan phê. Lời
khẩu cung của anh Cả trước đây rất là bất lợi, hãy chờ khi nào tờ trình của
cháu được chấp nhận, mở phiên tra hỏi khác, nếu khai lại cho khéo thì sẽ khỏi
phải tội chết. Mau mau lấy ở hiệu cầm đồ năm trăm lạng nữa để tiêu dùng cho kịp,
nhất thiết đừng chậm! Và xin bác yên lòng. Còn các việc khác thì hỏi thằng nhỏ”.
Bảo Thoa xem xong, đọc rõ đầu đuôi cho dì Tiết nghe.
Dì Tiết lau nước mắt, nói:
- Xem như thế thì sống hay chết cũng chưa có gì chắc chắn cả.
Bảo Thoa nói:
- Mẹ đừng đau buồn, chờ gọi thằng nhỏ vào hỏi rõ hãy bàn.
Rồi cho a hoàn nhỏ ra gọi thằng nhỏ vào.
Dì Tiết liền hỏi:
- Mày kể rõ việc cậu Cả cho ta nghe.
Thằng nhỏ nói:
- Chiều hôm nọ nghe cậu Cả nói chuyện với cậu Hai, làm con sợ
ngẩn người.
Chú thích:
Chú thích:
(1). Ngày xưa vợ chồng Khước Khuyết kính nhau như khách. Ở
đây Phượng Thư mượn câu này để đùa Bảo Ngọc và Đại Ngọc.
(2). Tức Đại Ngọc.
(3). Tên một chức quan, ở đây ý nói được người giúp việc giỏi.
(4). Một hiện tượng không khí thường xuất hiện ở sa mạc hoặc ở
bể, những khói mù nổi lên như lâu đài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét