Cuốn theo chiều gió 1
Chương
1
Scarlett O' Hara không đẹp, nhưng nam giới ít nhận ra điều đó
mỗi khi bị cuốn hút bởi sự duyên dáng của nàng, như trường hợp hai anh em song
sinh Tarleton. Khuôn mặt nàng là một sự kết hợp hài hoà giữa những đường nét
kiều diễm của mẹ, người quý tộc miền duyên hải thuộc dòng dõi Pháp, và những
góc cạnh thô kệch của người cha Ái Nhĩ Lan, da dẻ hồng hào. Tuy thế, đó là
khuôn mặt ưa nhìn với cằm thon, hàm nở rộng. Đôi mắt xanh biếc của nàng được viền
bởi những hàng nở rộng. Đôi mắt xanh biếc của nàng được viền bởi những hàng mi
dài rậm uốn cong vút. Bên trên đôi mắt đó là hai vệt mày chênh chếch vạch
thành hai đường nghiêng đậm nét trên làn da trắng trong của hoa mộc lan - màu da
mà phụ nữ miền Nam vô cùng quý trọng và cẩn thận giữ gìn bằng những chiếc nón rộng
vành, mạng che mặt và bao tay để chống lại ánh nắng gay gắt của xứ Georgia.
Ngồi với Stuart và Brent Tarleton dưới bóng mát của mái hiên
Tara, đồn điền của cha nàng, giữa một chiều nắng tháng Tư năm 1861, Scarlett là
hiện thân của hình ảnh yêu kiều Chiếc áo mới bằng sa- tanh có điểm hoa xoè rộng
mười một thước trên những viền đai, xứng hợp hoàn toàn với đôi giày da bê thuộc
màu xanh mà cha nàng vừa mua từ Atlanta Chiếc áo làm nổi bật tột cùng cái vòng
eo bốn mươi hai phân rưỡi, vòng eo thon mảnh nhứt của địa hạt xứ Georgia, và
chiếc yếm bó sát vừa vặn để lộ bộ ngực tròn trịa của một thiếu nữ 16 tuổi? Tuy
nhiên, dẫu tà áo đã được khép kín quanh, dẫu mái tóc láng mịn đã được búi gọn
đúng vẻ trang nghiêm, và dẫu hai bàn tay trắng nhỏ đã được xếp tréo trên đùi,
Scarlett cũng không che giấu nổi con người thật sự của nàng trên khuôn mặt cố
giữ nét đoan trang, đôi mắt màu lam vẫn không ngớt lóng lánh ánh nhiệt cuồng,
bướng bỉnh và khát sống, tương phản rõ rệt với cái vẻ bề ngoài cố làm ra thuỳ mị.
Phong cách của nàng là kết tinh những lời khuyên dạy của mẹ và kỷ luật nghiêm
khắc của mammy, nhưng đôi mắt vẫn là mắt của riêng nàng.
Mỗi người một bên Scarlett, hai anh em sinh đôi nhàn nhã ngồi
trên ghế, vừa nói cười, vừa lơ đãng nhìn ánh nắng chiếu xuyên hai ly rượu ngọt
bạc hà to tướng, và hững hờ bắt tréo đôi chân dài mang giày ống cao tới gối, cuồn
cuộn nhưng bắp thịt rắn chắc của người quen sống trên lưng ngựa. Cùng 19 tuổi,
cùng cao 1m85, xương dài thịt chắc, hai anh em cùng giống nhau như hai bành
bông vải, cũng những khuôn mặt sạm nắng, cũng tóc đỏ hoe, cũng ánh mắt tươi vui
ngạo nghễ, cũng mặc một loại áo màu xanh và quần kỵ mã màu hột cải.
Bên ngoài, nắng chiều chiếu nghiêng xuống khoảnh sân, ném những
tia sáng chói chang lên hàng cây dương đào với từng chùm hoa trắng trên bối cảnh
xanh um. Ngựa của 2 anh em song sinh được cột ngoài mã lộ, 2 con cao lớn bộ
lông hung đỏ không khác gì tóc chủ. Vơ vẩn quanh chân ngựa là một lũ chó mảnh
khảnh, hung hăng, đang gầm gừ nhau, và bất cứ lúc nào cũng theo sát Stuart với
Brent. Xa hơn 1 chút, dường như để ra điều quý phái, một con chó lông lốm đố đen
nằm gác mõm lên hai chân trước, nhẫn nại đợi chủ trở về dùng bữa tối.
Giữa đàn chó, đôi ngựa và hai anh em song sinh nảy sinh 1 mối
thân tình còn sâu đậm hơn cả mối tình của những kẻ luôn khắng khít bên nhau. Tất
cả đều cuờng tráng, vô tư, lành lặn duyên dáng và dũng cảm, hai gã con trai
cũng hung hăng như ngựa họ, hung hăng và nguy hiểm nhưng đồng thời cũng ngoan
ngoãn với những ai khéo xử.
Mặc dầu đuợc sinh trưởng giữa cuộc sống dễ dãi ở đồn điền, được
săn sóc hầu hạ từ lúc bé nhưng cả 3 khuôn mặt duới mái hiên không có gì uể oải
hay mềm yếu. Họ vẫn có đủ nghị lực và sự mẫn tiệp của dân quê đã từng quen sống
ngoài trời và không một mảy may bận trí bởi những điều nhạt nhẽo trong sách vở.
Cuộc sống ở hạt Clay ton, miền Bắc Georgia hãy còn mới mẻ và có phần sống sượng
so với trình độ ở các hạt Augusta, Savannah và Charleston. Người miền Nam kỳ cựu
và nghiêm trang nhất thường nhìn dân sống ở cao nguyên Georgia với con mắt
khinh thường, nhưng ở đây tại miền Bắc Georgia, vấn đề thiếu sót những điểm cầu
kỳ trong nền giáo dục cổ điển chẳng có gì đáng cho là xấu hổ, miễn là người đàn
ông có đủ khả năng để thực hiện những việc thích nghi. Và trồng bông vải, cuỡi
ngựa hay bắn giỏi, khiêu vũ nhẹ nhàng, biết hầu chuyện nữ giới một cách lịch
thiệp và biết uống ruợu như một khách hào hoa là tất cả những gì đáng kể.
Về các phương diện đó, hai anh em Tarleton tỏ ra xuất sắc, lại
còn vượt bực hơn với sự bất lực rõ ràng về chuyện không thể thâu thập nổi bất cứ
những gì chứa đựng trong sách vở. Gia đình họ quá giàu, nuôi nhiều ngựa và nhiều
nô lệ hơn bất cứ ai trong toàn hạt, nhưng cả hai thì lại ít học hơn bất cứ người
Cracker(người da trắng nghèo khổ ở miền Nam Hoa Kỳ) nào chung quanh.Đó là lý do
chánh yếu đã khiến cho Stuart và Brent nhàn hạ giết thì giờ ở cổng đồn điền Tara
vào buổi chiều tháng Tư này. Họ vừa bị trục xuất ra khỏi Đại học Georgia, trường
đại học thứ tư trong vòng 2 năm đã đuổi họ ra khỏi cửa, và anh em của họ là Tom
và Boyd cũng bỏ học, cùng về, bởi vì họ không thể tiếp tục ở lại nơi đã từng thẳng
tay xử tệ với hai anh em song sinh. Đối với Stuart và Brent thì lần bị đuổi học
sau cùng này chỉ là một trò đùa, và Scarlett, kể từ khi rời khỏi nữ học xá
Phayetteville, không buồn lật qua một trang sách nào nữa cả, cũng cho đó là một
điều thú vị.
Nàng nói:
− Tôi biết 2 anh bất cần chuyện đuổi học, cả anh Tom cũng vậy.
Nhưng chẳng biết anh Boyd sẽ ra sao? Anh ấy hiếu học, nhưng hai anh lại làm cho
anh ấy lần lượt phải bỏ học ở Virginia, Alabama,
South Carolina, và bây giờ tới Georgia. Cứ cái đà này, chắc
chẳng bao giờ anh ấy tốt nghiệp đuợc.Brent hững hờ:
− Ồ, có gì đâu . Anh ấy có thể học luật tại văn phòng thẩm
phán Parmalee ở Phayetteville. Vả lại, chuyện cũng chẳng có gì quan trọng. Đằng
nào thì bọn này cũng phải trở về trước khi hết học trình.
− Sao vậy ?
− Chiến tranh chớ còn sao nửa Cô bé khờ, chiến tranh sắp sửa
bùng nổ bất cứ khi nào. Cô tưởng có đứa nào trong bọn này sẽ chịu đi học trong
khi chiến tranh diễn ra, phải không?
Scarlett khó chịu:
− Các anh dư biết là không có chiến tranh mà chỉ nói cho có
chuyện thôi. Nếu có thì tại sao anh Asley Quilkes và ba anh ấy nói với ba tôi
là mấy ông đặc uỷ của mình tại Hoa Thịnh Đốn tuần tra đã đi tới một thoả hiệp với
ông Lincoln về chánh sách Liên Bang. Vả lại, bọn Yankee quá sợ mình thì làm sao
dám đánh. Nhứt định là không có chiến tranh đâu, tôi chán nghe chuyện đó lắm rồi.
Cả 2 anh em song sinh đều bất bình kêu lên dường như họ đã bị
đánh lừa:
− Không có chiến tranh!
Và Stuart tiếp ngay:
− Có chớ, cưng ơi, nhứt định sắp có chiến tranh. Có lẽ bọn
Yankee vẫn sợ mình, nhưng qua cái lối Đại tướng Beauregard nã đại bác đẩy bật
chúng ra khỏi căn cứ Sumter, chúng bắt buộc sẽ phải đánh trả nếu không muốn
cả thế giới coi chúng là những tên khiếp nhược. Tại sao, Liên bang...
Scarlett mím môi, bực tức:
− Nếu các anh nói tới "chiến tranh" một lần nữa,
tôi sẽ vào nhà và đóng cửa lại ngay. Chưa bao giờ tôi chán nản tiếng nào hơn tiếng
"chiến tranh" ngoại trừ tiếng "phân ly". Hết sáng tới trưa
và tối, ba không ngớt nói chuyện chiến tranh, và bao nhiêu khách tới nhà cũng
bô bô nói về chuyện căn cứ Sumter, về quyền lợi của các Tiểu bang và ông Abe
Lincoln đến nổi tôi chán ngấy muốn hét lên. Rồi bọn con trai cũng nói vậy và nhắc
chuyện bộ đội xưa cũ của họ. Cứ vậy mà mùa xuân này chẳng có một hội hè nào cho
ra đám, bởi vì bọn con trai chẳng có gì để nói khác hơn. Tôi hết sức bằng lòng
Georgia đã chờ đến qua lễ Giáng Sinh mới ly khai, nếu không thì mấy cuộc vui dịp
Giáng Sinh đều hỏng cả. Nếu các anh lặp lại lần nữa tiếng "chiến
tranh" là tôi vào nhà ngay.
Scarlett sẽ làm đúng như đã nói vì rằng nàng không thể chấp
nhận được bất cứ một câu chuyện nào mà trong đó nàng không phải là chủ đề. Tuy
vậy, nàng vẫn mỉm cười trong khi nói, cố làm cho đồng tiền ở má lúm sâu thêm,
và chớp nhanh hàng mi đen rậm như cánh bướm. Đúng như nàng mong mỏi, cả hai đều
thoả thích và vội vàng xin lỗi đã làm người đẹp mất vui. Họ không hề buồn phiền
chút nào về việc nàng không thích thú nghe chuyện của mình. Chiến tranh là việc
của đàn ông chớ không phải của nữ giới, và họ xem thái độ của nàng như một dấu
hiệu hiển nhiên của nữ tính .
Sau khi đưa hai người bạn trai ra khỏi câu chuyện nhàm chán về
chiến tranh, Scarlett kéo vấn đề trở lại hiện tình của họ.
− Hai anh bị đuổi học, bác gái có nói gì không?
Hai anh em sanh đôi làm ra lúng túng, nhớ lại thái độ của bà
mẹ ba tháng trước khi họ bị trục xuất khỏi Đại học Virginia.
Stuart đáp:
− Ơ, bả chưa kịp nói gì cả. Tom và tụi này rời nhà lúc sáng sớm
trước khi bả dậy, Tom thì đi qua chơi bên gia đình Phontaine còn tụi nầy đi thẳng
lại đây.
− Đêm qua, lúc mấy anh về tới, bác cũng không nói gì sao?
− Đêm qua, tụi nầy gặp vận may. Ngay trước khi bọn nầy về con
ngựa giống mà má đặt mua ở Kentucky tháng trước được đưa tới, và cả nhà náo động
lên. Đúng là con ngựa phi thường, Scarlett. Cô phải nói với ba cô qua xem
cho biết... dọc đường nó cắn thằng nài và đạp nhầu hai thằng hắc nô mà má sai
ra đón ở ga xe lửa Jonesboro. Và ngay trước khi bọn nầy về tới, nó đã phá tan
hoang tàu ngựa và suýt giết chết con Straquberry, con ngựa nòi già của má. Lúc
tụi nầy về tới, má đang ở ngoài tàu ngựa với cả một bịch đường để nhử nó và đã
thành công không mấy khó. Mấy đứa hắc nô thì đeo cứng trên xà tàu ngựa, mắt đứng
tròng, bọn nó sợ dữ lắm, còn má thì nhỏ to bên tai con thú làm như là bạn cũ.
Trong khi đó, con ngựa đứng yên ăn đường của bà già đút cho. Chưa có ai trị ngựa
bằng má. Và vừa thấy mặt tụi nầy, má hét lớn : "Trời ơi! Bốn đứa mày lại về
nhà làm gì nữa đây? Tụi bây còn độc hại hơn bịnh dịch ở bên Ai cập!". Vậy
là con ngựa bắt đầu khịt khịt và chồm lên. Bà già lại hét : "Đi hết ngay!
Bộ tụi bây không thấy con ngựa cưng của tao bực mình đó sao? Sáng mai tao sẽ hỏi
tội cả lũ". Không chần chờ gì nữa, cả bọn đi ngủ, và sáng nay, tụi nầy đi
sớm trước khi bà già thức dậy, để anh Boyd ở lại xoay xở .
− Theo các anh thì bác gái có đánh anh Boyd không?
Cũng như tất cả những người khác trong hạt, Scarlett không lạ
gì chuyện bà Tarleton nhỏ thó thường trừng trị các con bà bằng cách dùng roi ngựa
quất tưới vào lưng họ mỗi khi nhận thấy đó là điều hữu hiệu nhứt.
Beatrice Tarleton là một phụ nữ luôn luôn bận rộn nhứt, dưới
tay bà chẳng những có trọn một đồn điền bông vải rộng lớn, cả trăm hắc nô và 8
đứa con, lại còn thêm cả một trại nuôi ngựa to nhứt xứ. Là người nóng tánh, bà
rất dễ nổi cơn thịnh nộ với những chuyện xằng bậy thường xuyên của 4 cậu con
trai, và cho rằng thỉnh thoảng nện cho họ một trận đòn cũng chẳng có gì tai hại,
mặc dầu đối với ngựa và bọn hắc nô, bà tuyệt đối cấm bất cứ ai sử dụng roi vọt.
Stuart kiêu hãnh với chiều cao hơn một thước tám của mình:
− Nhứt định là bà già không đánh anh Boyd. Chưa bao giờ anh
Boyd bị đòn nhiều cả bởi vì anh là con trưởng mà cũng là đứa đẹt nhứt trong bọn.
Bởi vậy tụi này mới để ảnh ở lại để nói rõ cho bà già hiểu.
Thiên địa ơi, đáng lẽ má đừng đánh tụi nầy nữa mới phải. Hai
đứa nầy đã 19 tuổi rồi và anh Tom cũng 21 tuổi, vậy mà bà làm như cả đám mới
lên sáu.
− Ngày mai bác gái có cỡi con ngựa mới đi dự dã yến bên gia
đình Quilkes không?
− Bà già tính vậy nhưng ba nói là nguy hiểm lắm. Dầu sao thì
bọn con gái cũng phải đi dự tiệc như một mệnh phụ, phải đi bằng xe đàng hoàng.
− Mong sao ngày mai đừng mưa. Suốt cả tuần, gần như ngày nào
cũng có mưa. Chẳng có gì chán hơn là một dạ yến lại biến thành một bữa tiệc
trong nhà.
Stuart làm ra vẻ thông thạo:
− Không có mưa đâu và trời sẽ ấm như tiết tháng sáu. Nhìn mặt
trời lặn kia thì biết. Tôi chưa thấy có mặt trời nào đỏ rạng như vậy bao giờ.
Muốn biết thời tiết, chỉ có việc xem mặt trời lặn ra sao.
Họ cùng nhìn ra những mẫu đất mới cày thuộc đồn điền bông vải
của ông Gerald dài mút mắt tới tận chân trời đỏ thẫm . Phía sau như!ng ngọn đồi
bên kia sông Phlink mặt trời đang lặn từ từ giữa một vùng sắc đỏ tía trộn lẫn
vào nhau, sức nóng của một ngày tháng tư cũng trở nên mát dịu .
Tiết xuân đã đến sớm hơn thường lệ với những trận mưa rào ấm
áp, với những chùm hoa hồng đào nở rộ và những cành dương đào rải trắng sao hoa
trên mặt đầm, u tối ở dãy đồi xa. Mặt đất đã cày gần xong và vầng hào quang đỏ
thắm của mặt trời tưới nhuộm những luống cày mới trở của miền đất đỏ xứ
Georgia. Đất mới còn ẩm ướt phơi mình như lắng đợi hột bông vải gieo vào, trổ sắc
hồng trên đầu luống cát và biến thành màu châu sa, màu đỏ thắm và nâu sậm trong
lòng luống. Ngôi nhà sở bằng gạch tô vôi trắng trông như một hòn đảo giữa một
biển son đang chuyển động, một vùng biển với những đợt sóng xoáy lốc, xoay tròn
bỗng dưng như dừng sửng lại giữa lúc các đầu sóng màu hồng vừa vỗ tới bờ. Ở đây
không có loại đường cày thẳng tắp như thường thấy ở những cánh đồng đất sét
vàng thuộc vùng bình nguyên trung bộ Georgia hay ở vùng đất đen lầy phù sa miền
duyên hải. Vùng đồi núi thoai thoải miền Bắc Georgia là nơi lưỡi cày vạch thành
hàng triệu đường cong để giữ cho đất màu mỡ khỏi chuồi tuột xuống lòng sông rạch.
Đó là một vùng đất đỏ hoang sơ, đỏ như màu máu, sau các cơn
mưa phai như gạch nung vào mùa nắng, và đó cũng là vùng sản xuất loại bông vải
tốt nhứt thế giới. Đó là một miền gồm toàn những ngôi nhà trắng xinh xinh, những
cánh đồng lặng lẽ và những dòng nước lờ đờ, nhưng đó cũng là một miền có lắm sự
tương phản giữa ánh nắng chói chan và bóng mát dày đặc. Những vùng trống trải của
đồn điền với hàng dặm dài bông vải ngửa mặt chào đón ánh mặt trời ấm áp, hiền
hoà và sung mãn . Nhưng chung quanh đồn điền là những khu rừng già, đầy bóng tối
và tươi mát dù dưới sức nắng của những ngày oi ả nhứt, những khu rừng huyền bí
với đôi chút âm hiểm, cùng ngàn thông xao động với tất cả nhẫn nại muôn đời dường
như lúc nào cũng hắt ra những lời đe doạ theo gió thoảng: "Ta đã từng chiếm
giữ các người. Hãy coi chừng! Hãy coi chừng! Ta vẫn có thể tái chiếm những gì
đã mất".
Ngồi dưới mái hiên, cả ba người trẻ tuổi vẳng nghe tiếng chân
thú nện trên mặt đất, tiếng khua leng keng của yên cương và tiếng cười the thé
vô tư của đám hắc nô trên đường từ đồng áng trở về. Từ trong nhà thoảng vọng ra
tiếng nói nhẹ nhàng của mẹ Scarlett, bà Ellen O'Hara, gọi đứa nữ tì da đen phụ
trách việc mang giỏ đựng chìa khóa của bà. Giọng chát chúa trẻ con đáp lại:
"Thưa bà, vâng", và có tiếng bước chân đi ra cửa sau, tiến lần về
phòng xông khói nơi bà Ellen sắp sửa chia khẩu phần cho những nô lệ vừa về tới.
Có tiếng khua tô dĩa và tiếng muỗng nỉa bằng bạc chạm nhau trong khi Pork, người
hầu cận trung tín của Tara sắp đặt bữa ăn tối.Nghe những tiếng động sau cùng
đó, bọn Stuart biết là đã tới giờ phải về nhà. Nhưng họ lại ngán phải chạm trán
với bà mẹ nên cứ dần dà mãi với hy vọng sẽ được Scarlett mời dùng bữa .
Brent nói:
− Nầy, Scarlett. Tôi muốn nói chuyện ngày mai. Không phải vì
tụi nầy ở xa, chẳng hay biết gì về buổi dạ yến và cuộc khiêu vũ mà bọn nầy
không có quyền nhảy thật nhiều đêm mai. Chắc cô chưa hứa với bọn họ, phải
không?
− Chưa sao được! Làm sao tôi biết trước là tất cả các anh
cùng trở về? Không lẽ tôi phải giữ vai trò ngồi chơi xơi nước để đợi các anh.
Cả hai cùng cười phá lên:
− Cô mà ngồi chơi xơi nước à?
− Cưng ơi, cưng phải cho tôi được cùng nhảy bản luân vũ đầu
tiên và dành cho Stu bản cuối cùng, và phải ngồi ăn tối chung với tụi nầy. Bọn
mình sẽ ngồi ở bệ thang và bắt Mammy Jincy đoán số mạng.
− Tôi không thích những lời bói toán của Mammy Jincy đâu. Bà ấy
bảo tôi sắp kết hôn với một anh chàng tóc đen huyền, râu mép cũng đen và dài sọc.
Tôi không ưa mấy anh chàng tóc đen nổi.
Brent nhăn nhó:
− Như vậy là cưng ưa mấy thằng tóc đỏ, phải không? Nào, hứa với
tụi nầy đi, hai bản luân vũ và bữa ăn tối.
Stuart chêm vào:
− Nếu chịu hứa, tụi nầy sẽ cho nghe một chuyện bí mật .
Scarlett kêu lên, tò mò như một đứa bé:
− Sao? Chuyện gì vậy?
− Có phải đó là chuyện mình mới nghe ở Atlanta ngày hôm qua
không, Stu? Nếu là chuyện đó, mầy nhớ là tụi mình đã hứa không được nói lại .
− Ừ, cô Pitty có dặn vậy .
− Cô gì?
− Cô biết mà, đó là Pittypat Hamilton, cô ruột của Charles và
Melanie Hamilton ở Atlanta, có họ với Ashley Quilkes.
− Biết rồi, và đó cũng là một bà gái già ngốc nghếch nhứt mà
tôi chưa từng thấy trong đời.
− Ừ, hôm qua khi bọn nầy tới Atlanta đợi chuyến xe về nhà thì
xe cô ấy đi ngang qua nhà ga và dừng lại nói chuyện với bọn nầy. Cô ấy cho biết
là giữa cuộc khiêu vũ đêm mai người ta sẽ loan báo một lễ đính hôn.
Scarlett thất vọng:
− Tưởng gì chớ chuyện đó thì biết rồi. Chính thằng cháu đần độn
của bà ta là Charlie Hamilton sẽ đính hôn với con Honey Quilkes. Mấy năm nay ai
cũng biết là bọn nó rồi có ngày sẽ lấy nhau, mặc dầu
Charles không mấy sốt sắng về chuyện đó .
Brent hỏi:
− Cô cho là nó đần độn hả ? Giáng sinh năm rồi, chính cô đã để
cho nó đeo dính một bên.
Scarlett thờ ơ nhún vai:
− Làm sao cản được? Trông y như một đứa lại cái .
Stuart ra chiều đắc thắng:
− Nhưng có phải là lễ hỏi của hắn đâu. Đây là chuyện của
Ashley Quilkes và chị của thằng Charlie tức là cô Melanie.
Mặt Scarlett không đổi sắc nhưng môi nàng trắng lợt ra - giống
như kẻ vừa lãnh một quả đấm bất ngờ, vừa giữa lúc kinh động vẫn chưa hiểu việc
gì xảy ra - đó là khuôn mặt của nàng khi nhìn sững Stuart và anh chàng nầy
không bao giờ bận tâm phân tách, cho rằng Scarlett chỉ quá ngạc nhiên thôi và cảm
thấy vô cùng thích thú.
− Theo cô Pitty thì người ta muốn để sang năm mới loan báo vì
Melly không được mạnh khoẻ, nhưng với tất cả những tin đồn dồn dập về chiến
tranh, cả hai gia đình cũng nghĩ là nên cho thành hôn càng sớm càng tốt. Do đó
mà có lời loan báo đêm mai giữa buổi tiệc. Rồi đó, Scarlett, tụi nầy đã tiết lộ
hết rồi, bây giờ cô phải hứa cùng ngồi ăn chung với tụi nầy đi.Scarlett trả lời
như người máy:
− Vâng, tôi hứa.
− Và tất cả những bản luân vũ?
− Tất cả.
− Điệu quá! Chắc chắn là đám con trai khác nhảy dựng lên mà tức.
Brent nói:
− Có tức cũng chẳng sao. Chỉ hai đứa mình là cũng đủ đối phó
rồi. Nầy, Scarlett, ngồi với tụi nầy luôn bữa dã yến sáng nữa nghe.
− Cái gì?
Stuart lặp lại lời đề nghị:
− Cố nhiên.
Hai anh em sanh đôi mặt sáng rỡ nhìn nhau nhưng không khỏi ngạc
nhiên đôi chút . Mặc dầu vẫn tự xem mình là những kẻ thích hợp nhứt với
Scarlett nhưng chưa bao giờ họ được hưởng những ân huệ dễ dàng thế cả . Thông
thường nàng để cho họ van lơn, nài nỉ hết lời trong khi nàng vẫn lửng lơ chẳng
chịu chẳng không, cười cợt khi họ dỗi hờn và lạnh lùng khi họ phát cáu. Và bây
giờ nàng đã hiển nhiên hứa dành cho họ trọn ngày mai - ngồi bên cạnh nhau trong
dã yến, cùng nhảy tất cả các bản luân vũ (và họ sẽ làm mọi cách cho tất cả các
bản nhạc đều toàn một điệu luân vũ) và tiếp họ giữa tiệc tối. Vậy là bị đuổi khỏi
Đại học cũng chẳng có gì đáng tiếc.
Với sự thành công bất ngờ, cả hai phấn khởi thêm, họ tiếp tục
lân la, bàn đến chuyện dã yến và buổi dạ vũ, nói về Ashley Quilkes và Melanie
Hamilton, thỉnh thoảng ngắt lời nhau, bông đùa và cười cợt với nhau nhưng cũng
không quên nói gần nói xa một cách lộ liễu về ước vọng được mời ở lại ăn tối .
Cứ thế mãi một lúc khá lâu, họ mới nhận ra là Scarlett gần như chẳng nói năng
gì cả . Không khí đã có phần đổi khác . Hai anh em song sanh chẳng biết rõ vì
sao, nhưng biết rõ là cảm giác hăng say của họ đã tan biến cùng với buổi chiều
. Scarlett dường như không chú ý mấy đến những gì họ nói, mặc dầu vẫn ứng đáp
phải lẽ . Mơ hồ nhận thấy có một điều gì mà họ không thẻ hiểu ra đã làm ngăn trở
và gây chán nản, cả hai cố ở nán thêm lúc nữa, rồi miễn cưỡng đứng lên nhìn đồng
hồ tay.Mặt trời đã xuống thấp trên các cánh đồng mới cày và hàng cây cao bên
kia dòng sông đã biến thành những bóng đen. Chim én liệng mau như những lằn tên
ngang qua sông, từng đàn gà vịt, gà tây vênh váo và núng na núng nính từ ngoài
đồng kéo trở về trong hỗn loạn.
Stuart gọi to: "Jeems!" Và chỉ trong khoảnh khắc, một
gã da đen cao lớn trạc tuổi họ hộc tốc chạy vòng ngôi nhà tiến thẳng ra nơi cột
ngựa. Jeems là người hầu riêng của hai anh em, và cũng như đàn chó, gã theo sát
chủ khắp nơi. Gã cũng là bạn nô đùa của họ từ thuở nhỏ, và được giao đứt cho họ
khi cả hai ăn mừng sinh nhật từ năm mười tuổi.
Vừa thấy bóng anh chàng da đen, đàn chó nằm trong bụi cỏ vụt
đứng lên ngóng chủ. Hai anh em Tartleton nghiêng mình chào, bắt tay và cho
Scarlett biết là họ sẽ sang nhà Ashley vào sáng sớm để chờ nàng. Rồi cả hai
cũng phóng bước ra nơi cột ngựa, nhảy phóc lên yên, phía sau anh chàng Jeems
theo bên gót. Họ cho ngựa sải mau trên con đường đổ dốc giữa hai hàng cây bách
hương, vừa phất nón vừa hò hét vói lại Scarlett.
Sau khi cho ngựa rẽ qua một khúc quanh trên con đường đầy bụi
vừa khuất khỏi Tara, Brent cho ngựa dừng trước lùm cây dương đào, Stuart cũng dừng
theo, và gã da đen cho ngựa đứng lại cách mấy bước phía sau. Được nới lỏng dây
cương, mấy con thú vươn cổ gặm cỏ non mùa xuân, và đàn chó lúc nào cũng kiên nhẫn,
lại cùng nằm bệt xuống mặt đất đầy bụi đỏ mịn màng, ngước nhìn một cách thèm muốn
những con én liệng vòng trong buổi hoàng hôn, Khuôn mặt chất phát của Brent hiện
rõ nét băn khoăn với đôi chút bất bình .
− Nầy, mầy có nghĩ rằng đáng lẽ con bé phải mời mình ở lại ăn
không?
Stuart đáp:
− Tao cũng nghĩ vậy. Tao chờ cho nó lên tiếng nhưng nó chẳng
nói, mầy thấy thế nào ?
− Tao không nghĩ gì cả. Có điều tao thấy đúng ra là nó phải mời
mình. Dầu sao đây cũng là hôm đầu tiên bọn mình trở về và nó đã không gặp mình
từ lâu rồi. Với lại bọn mình còn có cả khối chuyện để nói với nó.
− Theo tao thì ngay lúc mình vừa tới nó mừng ra mặt.
− Tao cũng thấy vậy .
− Và rồi, khoảng nửa giờ sau, nó bỗng lặng thinh làm như bị
nhức đầu.
− Tao cũng nhận thấy như vậy nhưng lúc đó thì không để ý.
Theo mầy thì con nhỏ bị chuyện gì?
− Có biết gì đâu. Bộ mầy tưởng bọn mình có nói gì xúc phạm đến
nó hả?
Cả hai cùng suy nghĩ giây lát .
− Tao cũng không thể nghĩ ra gì cả. Vả lại, mỗi lần Scarlett
nổi sùng là ai cũng thấy rõ ngay. Nó không thèm tự kềm chế giống như một vài đứa
khác.
− Đúng, nhờ vậy mà tao thích nó. Lúc nổi giận là nó nói toạc
hết ra, không làm ra vẻ lạnh nhạt hay oán hận. Chắc có lẽ mình đã làm hoặc nói
gì đó khiến nó không nói chuyện nữa và trông như bị bệnh.
Tao dám chắc là con nhỏ rất hài lòng khi thấy bọn mình tới và
đã có ý định mời bọn mình ăn tối.
− Chẳng biết là có phải tại tụi mình bị đuổi học không?
− Trời, không phải đâu. Đừng ngu quá vậy. Nó vẫn cười giỡn
khi bọn mình cho biết. Chẳng những thế, nó cũng bất cần chuyện học hành không
khác bọn mình .
Brent quay người lại, gọi:
− Jeems!
− Dạ .
− Mầy có nghe tụi tao nói chuyện với Scarlett không?
− Dạ không, thưa cậu B'ent. Sao cậu cho rằng tôi dám dọ dẫm
người da trắng?
− Trời ơi, dọ dẫm! Bọn da đen tụi mầy thì có chuyện gì là
không biết . Nầy, thằng láo, chính mắt tao thấy mầy núp gần bên thềm trong cụm
lài bên cạnh bờ tường . Đâu, mầy cho biết coi bọn tao có nói gì làm phật ý
cô Scarlett... hay làm cho cô ấy tức giận không?
Thế là gã Jeems bỏ luôn màn kịch tỏ ra không hề nghe lén. Gã
nhíu đôi mày đen sậm:
− Dạ không, tôi không nghe hai cậu nói gì làm cho cô giận. Cô
ấy hết sức bằng lòng khi gặp lại hai cậu, cô nói huyên thuyên như con chim,
nhưng tới khi hai cậu kể chuyện cậu Ashley và cô Melly Hamilton thì cô ngồi
sửng làm như con chim nhỏ nhìn thấy diều hâu bay trên trời .
Hai anh em song sinh nhìn nhau, gật đầu, nhưng chẳng hiểu ra
sao cả .Stuart lên tiếng trước:
− Thằng Jeems nói đúng. Nhưng tao cũng không hiểu tại sao.
Ông ơi! Ashley có nghĩa gì với nó đâu, chỉ là một người bạn. Nó có mê gì thằng
Ashley, chỉ có bọn mình là nó khoái.
Brent gật đầu:
− Mầy có nghĩ là có lẽ Ashley không cho nó biết trước chuyện
loan báo đêm mai nên nó nổi giận. Đã là bạn cũ thì nó cần được biết trước khi mọi
người đều hay. Con gái thì đứa nào cũng coi việc biết trước những chuyện đó là
quan trọng.
− Ừ, có thể là như vậy. Nhưng có ăn thua gì khi người ta
không cho hay trước. Đó là chuyện cần giữ kín để tạo một sự bất ngờ vui vẻ, và
người đàn ông có quyền giữ riêng chuyện cưới hỏi của họ chớ, phải không? Bọn
mình có lẽ cũng không biết nếu cô của Melly không nói ra. Nhưng phần Scarlett
thì phải biết chuyện đó phải xảy ra. Từ nhiều năm nay ai cũng biết, dòng họ
Quilkes và Hamilton luôn luôn gả cưới những người trong họ. Người nào cũng biết
là Ashley sẽ cưới Melly một ngày nào đó, cũng như Honey Quilkes sắp kết hôn với
em của Melly là thằng Charles.
− Thôi, tao chịu thua. Nhưng tao vẫn khó chịu vì con nhỏ
không mời mình ở lại ăn tối. Tao thề là tao không muốn về nhà giờ này để nghe
má tụng về chuyện bị đuổi học.
− Có lẽ giờ này anh Boyd đã làm dịu được bà già. Anh ấy già mồm
lắm, lúc nào cũng có thể làm bà già nguôi giận.
− Đồng ý, nhưng Boyd phải mất nhiều thì giờ. Ảnh phải nói
quanh co cho tới khi má không rõ là chuyện gì nữa cả và bảo ảnh bớt nói lại để
giữ giọng trong khi thực tập làm luật sư. Nhưng tao lo là ảnh chưa tìm ra chỗ
đúng lúc. Tao cá với mầy là má vẫn còn xúc động nhiều về con ngựa mới về, đến nỗi
không nhận ra là bọn mình đã trở về . Rồi, tới tối nay khi ngồi vào bàn ăn, thấy
anh Boyd... Và trước khi bữa ăn kết thúc, má vẫn hét ra lửa. Và có thể là tới
10 giờ đêm, trước khi anh Boyd nói cùng má là tụi mình chẳng đứa nào còn mặt
mũi nếu cứ ở lại trường, sau khi ông Viện trưởng mắng tao và mầy xối xả. Và cho
tới nửa đêm, anh Boyd mới có thể chọc tức được má khiến má giận ông Viện trưởng,
và hỏi anh Boyd sao không bắn ông ta. Không, tụi mình không thể về nhà trước nửa
đêm.Hai anh em buồn bã nhìn nhau. Họ bất chấp ngựa hoang, họ dám dây huyên náo
và bất bình cho những người láng giềng, nhưng họ lại kinh hoảng trước lời lẽ
nhiếc móc của người mẹ tóc đỏ, cũng như ngọn roi ngựa mà bà không ngần ngại quất
vào mông họ.
Brent đề nghị:
− Hay là mình sang nhà Quilkes. Ashley và bọn con gái chắc sẵn
sàng mời ăn.
Stuart vẫn băn khoăn:
− Không, đừng qua đó . Họ còn bận lo các món ăn trong buổi dã
yến ngày mai, vả lại ...
Brent nói mau:
− Ồ, tao quên mất. Thôi, không qua đó .
Họ thúc ngựa và đi bên nhau trong yên lặng một lúc lâu, một
thoáng ngại ngùng hiện ra trên đôi má nâu sậm của Stuart. Hè năm rồi, Stuart vẫn
theo tán tỉnh India Quilkes với sự đồng ý của gia đình hai bên và của cả toàn hạt.
Người trong hạt cho rằng tính tình trầm lặng của India có thể sẽ làm cho anh
chàng bớt nóng nảy hơn. Tất cả đều mong như thế với bất cứ giá nào. Stuart có lẽ
cũng thành hôn rồi nếu Brent không bất mãn. Brent cũng mến India nhưng cho rằng
cô ta quá tầm thường và nhạt nhẽo, và anh ta không thể yêu India được chỉ vì
còn muốn chơi thân với Stuart. Đó là lần đầu tiên, hai anh em bất đồng ý kiến,
và Brent đã giận Stuart sao lại để mắt tới một thiếu nữ mà anh ta cho là chẳng
có điểm nào đặc sắc.
Rồi, mùa hạ năm rồi, tại một cuộc hội thảo chính trị giữa khu
rừng sồi ở Jonesboro, cả hai bỗng cùng để ý tới Scarlett O'Hara. Họ đã biết
nàng từ nhiều năm, và ngay từ lúc bé, Scarlett đã là bạn thân thiết nhứt của họ
vì nàng cũng biết cỡi ngựa và trèo cây không kém họ. Nhưng bây giờ, trước sự ngạc
nhiên của họ, Scarlett đã biến thành một thiếu nữ thanh lịch đã tới tuổi trưởng
thành, và là một thiếu nữ kiều diễm nhứt đời.
Lần đầu tiên họ để ý tới ánh mắt xanh biếc và linh hoạt của
nàng cười, đến đôi tay và đôi chân nhỏ nhắn cùng vùng eo thon. Những nhận định
của họ khiến Scarlett cười dòn tan, và tự nghĩ rằng nàng đã coi hai anh em mình
như những kẻ xuất sắc, họ đâm ra tự đánh giá cao hơn.Đó là ngày đáng ghi nhớ nhứt
trong đời hai anh em song sinh. Về sau, mỗi lần nhắc lại, họ cứ mãi tự hỏi tại
sao không nhận ra bóng sắc của Scarlett sớm hơn. Chẳng bao giờ họ tìm ra một
câu trả lời chính xác, bởi vì câu trả lời đó, Scarlett chẳng nói ra, bởi vì hôm
đó, nàng quyết tâm làm hai anh em chú ý tới mình . Nàng tự nguyện là không bao
giờ chấp nhận bất cứ một người đàn ông nào yêu một phụ nữ khác hơn mình, và khi
thấy sự thân mật của Stuart và India tại buổi hội thảo, nàng không chịu nổi.
Không riêng với Stuart, nàng còn quăng lưới cả Brent với tất cả quyết tâm làm
cho họ mê mệt mình.
Và bây giờ, cả hai đều đã yêu nàng, India và Litty Munroe ở
Lovejoy, cô gái mà Brent đã từng theo ve vãn, đều bị quên lãng . Rồi người thua
cuộc sẽ làm gì, nếu Scarlett chọn một trong hai anh em, đó là điều mà họ không
bao giờ nghĩ tới. Họ chỉ có việc phải qua cầu khi chiếc cầu hiện ra trước mắt.
Ngay hiện thời, họ cũng hài lòng như nhau vì cùng chấm một cô gái, bởi vì giữa
họ không hề có vấn đề ganh tị. Tình trạng đó khiến cho người láng giềng vô cùng
thích thú, nhưng lại gây phiền muộn cho bà mẹ vì bà không thích Scarlett.
Bà nói:
− Rồi bọn bây sẽ biết nếu con nhỏ quỉ quái đó lấy một trong
hai đứa bây. Không chừng nó sẽ lấy cả hai và chừng đó, bọn bây chỉ có nước dọn
qua Utah nếu bọn Mormons chịu chấp nhận - nhưng đó là điều còn nghi ngờ - Tất cả
những cái gì làm cho tao buồn nhứt là có ngày tụi bây say mèm và nổi ghen với
nhau vì cái bị thịt, khuôn mặt và hai con mắt xanh lè đó, rồi bắn giết nhau.
Nhưng dầu sao, đó cũng không phải là một ý nghĩ xấu.
Từ sau ngày dự cuộc hội thảo, Stuart đâm ra ngượng ngùng mỗi
khi đối diện với India. Tình trạng đó không phải do India phiền trách hay tỏ dấu
bằng ánh mắt hay cử chỉ là đã biết rõ sự thay đổi đột ngột của anh ta rồi. Nàng
vẫn tỏ ra quá thanh lịch. Nhưng Stuart thì vẫn có mặc cảm phạm tội và bối rối trước
mặt nàng. Anh ta biết là chính mình đã làm cho India yêu mình và cô nàng vẫn
còn yêu, do đó, anh ta tự thấy là mình không xứng đáng. Anh vẫn thương nàng sâu
đậm và trọng nể nàng qua phong cách dịu dàng, qua trình độ học vấn và tất cả những
đức tính quí giá của nàng. Nhưng khốn nỗi, nàng vẫn cứ tái mét và xoàng xĩnh
mãi mãi bên cạnh bóng sắc tươi sáng và bản chất phong phú của Scarlett. Bất cứ
lúc nào người ta cũng đọc được ý nghĩ của India một cách dễ dàng, nhưng với
Scarlett thì khó mà đoán được chút gì. Chỉ bao nhiêu đó cũng làm cho đàn ông
thú vị lắm rồi.
− Thôi, mình qua Cade Calvert ăn tối đi. Scarlett cho biết là
Cathleen vừa từ Charleston về. Có thể cô ta biết thêm được chút ít tin tức về
căn cứ Sumter.
− Cathleen thì chẳng biết gì đâu. Tao cá hai ăn là một con nhỏ
cũng không biết có căn cứ nằm trong hải cảng ở đó, đừng nói là biết đến chuyện
có đầy nhóc quân Yankee cho tới khi mình đẩy bật chúng đi. Tất cả những gì mà
cô ta biết là những cuộc khiêu vũ đã được tham dự, và mấy thằng nhân tình vớ được.
− Đúng vậy, nhưng nghe nó bí ba bí bô cũng vui tai. Ngoài ra,
mình còn có chỗ để ẩn trú chờ khi má đi ngủ.
− Được rồi. Tao thích Cathleen và muốn nghe nó nói về chuyện
Caro Rhett cùng những người quen biết khác ở Charleston. Nhưng dầu có bị đày xuống
địa ngục, tao cũng khó ngồi chung bàn ăn lần nữa với bà mẹ kế người Yankee của
cô ta.
− Đừng nặng lời, Stuart, bà ta là người tốt.
− Tao có ác ý gì với bà ta đâu. Tao thương hại bà ta, nhưng
tao không thích những kẻ làm cho mình thương hại họ. Bà ta, lúc nào cũng rối
rít, săn đón, cố làm cho khách được thoải mái, cuối cùng chỉ nói và làm toàn những
chuyện không phải chỗ . Bà ta làm tao muốn đứt thần kinh luôn. Và cho rằng người
miền Nam toàn là những kẻ man rợ. Có lần bà ta nói với má như vậy. Bà ta sợ người
Nam lắm. Hễ lúc nào mình tới là bà ta sợ điếng hồn. Trông bà ta không khác một
con gà mái ốm đứng co ro trên ghế, mắt trợn trừng trắng dã, sẵn sàng kêu hoảng
và đập cánh dầu chỉ với một tiếng động thật nhẹ.
− Mầy không nên trách bà ta. Chính mầy đã bắn vào chân thằng
Cade.
− Hôm đó tao say quá, nếu không tao đâu có làm vậy . Mà thằng
Cade có thù hận gì đâu. Cả Cathleen, Raiphord và ông Calvert cũng không nói gì
. chỉ có cái bà mẹ ghẻ Yankee đó là la ầm lên, mắng tao là quân mọi rợ và cho rằng
người lịch sự không thể nào sống yên được với người Nam kém văn minh.
− Hừ, mầy không thể trách bả . Bả là người Yankee, không quen
với những hành vi mã thượng . Vả lại, dù sao thì mầy cũng đã bắn thằng con ghẻ
của bả.
− Mẹ kiếp, đó không phải là lý do để mắng chửi tao. Mày là
con đẻ của má, nhưng má có la ầm ĩ vậy đâu khi mầy bị thằng Tony Phontaine bắn
vào chân? Không, bà già chỉ cho mời lão bác sĩ Phontaine đến băng bó và còn hỏi
cái gì đã làm cho thằng Tony bắn không trúng. Má lại đoán chừng vì rượu cho nên
nó đã nhắm không trúng mục tiêu. Mầy có nhớ là thằng Tony Phontaine lúc đó giận
vô kể không?
Cả hai anh em cùng cười vang dội.
Brent nói với tất cả tình thương mẹ:
− Má thật là cừ khôi. Mình có thể luôn luôn tin tưởng ở má để
làm đúng và khỏi phải lúng túng trước mặt những kẻ khác.
− Đúng, nhưng đêm nay, lúc mình về, má vẫn thừa khả năng làm
mình bối rối trước mặt ba và đám con gái . Brent, tao đoán là tụi mình hết đi
Âu châu được rồi. Má nói là nếu mình bị đuổi học lần nữa, thì hết được đi du lịch.
− Hừ, mình cóc cần, phải không? Có gì để xem ở Âu châu đâu?
Tao cá là mấy người ngoại quốc đó chả có gì mà ngay ở Georgia nầy mình không
có. Tao cá là ngựa họ không nhanh bằng ngựa mình, con gái không đẹp hơn, và tao
dám chắc là họ không thể có được loại Whisky bằng lúa mạch nào đương nổi với rượu
của ba.
− Ashley Quilkes bảo là họ có cả khối hí viện và phòng hoà nhạc.
Ashley thích Âu châu. Anh ta cứ nói tới luôn.
− Hừ ... Mầy đã biết dòng họ Quilkes ra sao rồi mà. Họ say mê
âm nhạc, sách vở và sân khấu. Má cho biết đó là do nội tổ của họ gốc Virginia.
Má bảo là xứ Virginia rất say mê những thứ đó.
− Mặc họ . Cứ cho ta một con ngựa giỏi để cỡi và rượu ngon để
uống, gái đẹp để ve vãn, một cô khác lẳng lơ để đùa giỡn là mọi người mặc tình
ôm lấy Âu châu của họ ... Không được du lịch thì ăn nhằm gì. Thí dụ như lúc nầy
mình đang ở Âu châu và chiến tranh xảy ra thì sao? Làm sao mình về sớm kịp?
Đánh giặc còn sướng hơn đi Âu châu nhiều.
− Tao cũng nghĩ vậy, ngày nào ... Ê, Brent, tao biết chỗ mình
có thể tới kiếm ăn rồi . Bây giờ mình băng qua đầm tới chỗ của Able Quynder,
cho anh ta biết là cả bốn đứa đều về tới và sẵn sàng tập quân sự.
Brent reo mừng:
− Ý kiến hay. Bọn mình còn biết thêm tất cả các tin tức liên
quan tới Bộ đội và coi họ đã chọn màu sắc nào cho quân phục.
− Nếu quân phục giống của bọn Zouave thì dù có bị đày xuống địa
ngục, tao cũng không nhập ngũ . Mặc cái thứ quần đỏ rộng thùng thình đó, tao sẽ
giống hệt một tên lại cái . Trông nó có vẻ như là quần lót bằng nỉ đỏ của đàn
bà.
Gã hắc nô nói xen vào:
− Bộ mấy cậu tính sang nhà ông Quynde' hả ? Tới đó không có
gì ăn đâu. Thằng bết chết 'ồi mà ổng cũng chưa mua được đứa mới, Bây giờ là một
con mẹ làm việc ngoài đồng vô nấu ăn, tụi da đen cho biết con mẹ đó nấu ăn tồi
nhứt nước.
− Coi kìa, sao không mua một đứa làm bếp khác ?
− Mấy người da t'ắng nghèo cặn bã đó làm sao mua nổi người da
đen? Ở nhà không khi nào có hơn được bốn đứa.
Giọng nói của Jeems biểu lộ rõ sự khinh thường. Địa vị xã hội
của nó được kể như được bảo đảm vì họ Tarleton có cả trăm nô lệ, và cũng như tất
cả các hắc nô ở những đồn điền lớn, nó khinh miệt các nông gia nghèo chỉ có vài
đứa tớ.
Stuart giận dữ:
− Tao đập chết mầy bây giờ. Đừng dở giọng gọi Able Quynder
theo kiểu đó. Ông ta nghèo nhưng không phải là cặn bã. Và dầu có bị đày xuống địa
ngục, tao cũng nhứt định không để cho một kẻ nào, dầu đen hay trắng, chạm tới
ông ta. Trong khắp hạt này, chẳng có người nào hơn ông ta nổi, nếu không thì tại
sao được Bộ đội tuyển chọn làm Thiếu Uý?Jeems vẫn không ngại nét mặt hầm hừ của
chủ:
− Cái nầy thì thiệt là không hiểu nổi, đáng lẽ phải lựa sĩ
quan t'ong các người giàu thay vì lựa đám cặn bã ở đầm lầy.
− Ông ta không phải là cặn bã, mầy nghe rõ chưa? Bộ mầy muốn
so sánh ông ta với tụi da trắng cặn bã như Slattery hả ? Able không giàu, vậy
thôi. Ông ta là một nông gia ít đất, không phải là chủ một đồn điền lớn, nhưng
đó không phải là cái cớ để bất cứ đứa da đen nào xúc phạm tới ông ta. Bộ đội,
người ta biết rõ chuyện phải làm.
Đội kỵ binh đã được thành lập 3 tháng trước, ngay trong ngày
xứ Georgia tách ra khỏi liên bang, và cũng kể từ đó, các tân binh được huấn luyện
gấp rút cho chiến tranh. Mặc dầu không thiếu những đề nghị, đội quân vẫn chưa
có danh hiệu . Mỗi người đều có một ý kiến riêng và cứ muốn cho đó là ý kiến
hay, cũng như mỗi người đều có một quan điểm riêng về màu sắc và kiểu quân phục
. "Đoàn mèo rừng của Clayton", "Những kẻ nuốt lửa", "Kỵ
binh miền Bắc Georgia", "Đoàn quân Zouave", "Các tay súng
trường nội địa" (mặc dầu Bộ đội chỉ được võ trang súng lục và gươm dáo chớ
không hề có súng dài), "Những người xám của Clayton", "Đơn vị
Máu và Sấm sét", "Những kẻ gan lì", ... ngần ấy danh hiệu đều có
người khăng khăng binh vực . Trong khi chờ đợi quyết định, mọi người đều gọi tổ
chức là Bộ đội, và danh hiệu đó thế rồi tồn tại luôn.
Sĩ quan được các đoàn viên đề cử lên, vì rằng không một ai
trong hạt có được chút ít kinh nghiệm về quân sự, ngoại trừ một vài cựu chiến
binh đã từng dự các trận chiến Mễ Tây Cơ và Seminole, ngoài ra Bộ đội không bao
giờ chấp nhận cho một cựu chiến binh cầm đầu họ, nếu người đó không được họ mến
chuộng và tin cậy . Mọi người đều thích bốn gã con trai của họ Tarleton và ba
anh chàng của nhà Phontaine, nhưng buộc lòng không thể chọn vì đám Tartleton uống
rượu mau say, còn đám Phontaine thì dễ nổi máu sát nhân. Ashley Quilkes được cử
làm Đại uý nhờ có biệt tài kỵ mã, và tinh thần trầm tĩnh của chàng có thể nêu
gương sáng trong quân ngũ để duy trì kỷ luật. Raiphord Calvert được đề bạt chức
Trung uý, vì được mọi người mến chuộng, phần Able Quynder, con một người làm
nghề sập bẫy ở ao đầm, thì được làm Thiếu uý.
Able là một chàng khổng lồ, dốt đặc nhưng thông sáng, tốt bụng
trọng tuổi hơn các thanh niên khác, và cũng sử xự hết sức thanh lịch trước mặt
nữ giới. Trong Bộ đội ít người chú ý tới địa vị xã hội. Phần lớn ông bà và cha
mẹ họ đều xuất thân từ thành phần nông dân nghèo khó, rồi mới dựng được cơ nghiệp
đồ sộ như ngày nay. Hơn nữa, Able là tay súng thiện xạ nhứt trong Bộ đội, có thể
bắn trúng phóc con mắt của một chú sóc ở cách xa khoảng bảy mươi thước, ngoài
ra y lại còn thấu đáo tất cả nghệ thuật sống ngoài trời như nhóm lửa dưới mưa,
theo chân thú và tìm ra mạch nước. Bộ đội thán phục chân tài đó, đã thế họ lại
còn ưa thích y nên Able được đưa lên hàng sĩ quan. Y nhận lấy vinh dự ấy một
cách đứng đắn, không tự kiêu, dường như cho đó là một chuyện cố nhiên. Tuy thế,
các bà chủ sở và các nô lệ đồn điền không chịu quên rằng Able là kẻ thuộc dòng
hạ lưu, mặc dù chồng con và chủ họ không lưu tâm tới điều đó.
Mới đầu, Bộ đội chỉ tuyển mộ riêng biệt con cái của các chủ sở,
mỗi người tự sắm ngựa lấy, tự mua võ khí, quân trang, quân dụng và người theo hầu.
Nhưng ở hạt Clayton chưa thành hình được bao lâu, làm gì có được nhiều chủ điền
giàu có, bởi thế muốn có được một đoàn quân hùng mạnh, người ta phải gọi thêm
tân binh trong đám con cái nông dân nghèo, thợ săn thú ở rừng sâu, các tay bẫy
sập ở ao đầm, những người Cracker, và trong một số ít trường hợp, cả những người
da trắng nghèo khổ, với điều kiện nếu họ khá hơn chút ít đối với người trong giới
họ.
Những binh sĩ thuộc hạng sau này cũng nao nức được đánh quân
Yankee không kém gì những làng giềng giàu có hơn. Rồi vấn đề khó khăn về tài
chánh được nêu lên, chỉ một ít nông dân nghèo là có ngựa . Công việc đồng áng
toàn là nhờ cả vào loại la, ít khi có hơn được bốn con. Họ không thể hy sinh những
con la đó cho quân ngũ, dầu rằng Bộ đội chịu chấp nhận, nhưng đó là chuyện hoàn
toàn không ai nghĩ tới . Riêng những người da trắng nghèo khổ, có được một con
la cũng đã khá lắm rồi. Phần các thợ săn trong rừng rậm, những người sống bằng
bẫy sập, thì chẳng có ngựa mà cũng chẳng có la. Họ chỉ sống toàn là nhờ vào thú
săn hay bẫy được rồi mang đi bán, nên quanh năm có khi chẳng được 5 Mỹ kim tiền
mặt . Việc sắm ngựa và quân phục vượt quá tầm tay họ . Nhưng họ cũng kiêu hãnh
ghê gớm về sự nghèo khó của mình, chẳng khác gì những ông chủ đồn điền tự đắc về
sự nghiệp lớn lao, và họ nhứt định không đón nhận bất cứ những gì được coi như
lòng từ thiện của những láng giềng giàu có . Do đó, để giữ được sĩ diện của mọi
người, đồng thời cũng nhằm tăng cường sức mạnh cho Bộ đội, cha của Scarlett,
các ông John Quilkes, Buck Munroe, Jim Tarleton, Hugh Calvert, nói chung là mỗi
chủ sở to lớn trong hạt, ngoại trừ người duy nhứt là Angus Mac-in-tosh, đều
đóng góp tiền bạc để lấp bằng sự khiếm khuyết của Bộ đội, cả ngựa lẫn người .
Chung cuộc là mỗi chủ nhân đồn điền đồng ý xuất tiền sắm quân trang, quân dụng
cho con cái của họ và một số thanh niên khác, nhưng vấn đề quan trọng là phải
dàn xếp thế nào để cho những người nghèo chịu nhận lãnh mà danh dự không bị tổn
thương.
Mỗi tuần, Bộ đội tập hợp hai lần tại Jonesboro để thao luyện
và cầu nguyện chiến tranh tới sớm . Mặc dầu chưa mua được đầy đủ ngựa, những kẻ
có sẵn ngựa vẫn tới thao dượt trên cánh đồng phía sau pháp đình và diễn tập điều
mà họ cho là kỹ thuật chiến đấu của kỵ binh, bụi cát tung bay mù mịt giữa những
tiếng reo hò khản cổ và những cánh tay vun vút múa các thanh kiếm từ đời chiến
tranh Cách Mạng vừa được tháo gỡ ở phòng khách xuống . Những người chưa có ngựa
thì ngồi ở lề đường, trước cửa hiệu Bullard, nhìn theo đồng đội, vừa nhai thuốc
lá vừa kể chuyện phiêu lưu mạo hiểm, hoặc thi đua bắn súng. Bất cứ người đàn
ông nào ở miền Nam cũng không cần phải tập bắn, vì họ đều được sanh trưởng với
khẩu súng trên tay, và các cuộc săn bắn thường xuyên đã biến họ thành những tay
thiện xạ.
Từ những ngôi nhà rộng lớn của chủ đồn điền, tới các căn lều
lụp xụp ở ao đầm là cả một sự khác nhau về vũ khí . Nào là những khẩu súng săn
nạp đạn thượt dạo nào còn mới, nào những cây súng nạp đạn ở đầu nóng đã bắn hạ
nhiều tên da đỏ vào thời kỳ tân khai xứ Georgia, những khẩu súng lục đã được sử
dụng từ năm 1812 trong các trận chiến Seminol và Mễ tây cơ, súng cán bạc dùng để
song đấu, súng bỏ túi, súng hai nòng và một vài cây súng trường mới tinh của
Anh quốc, với bá gỗ bóng láng .Các buổi tập dượt luôn luôn được chấm dứt ở các
quán rượu nơi Jonesboro và cho tới lúc chiều tối thì nhiều vụ ấu đả xảy ra đến
nổi các sĩ quan phải vất vả lắm mới tránh cho họ khỏi bị thương tích, trước khi
quân Yankee có thể gây cho họ. Chính trong một của những cuộc xô xát đó mà
Stuart Tarleton đã bắn Cade Calvert và Tony Phontaine bắn Brent. Hai anh em
song sinh đang ở nhà, sau khi mới bị trục xuất khỏi Đại học Virginia, ngay lúc
Bộ đội được thành lập và họ đã hăng hái gia nhập ngay, nhưng sau vụ bắn nhau,
hai tháng trước bà mẹ lại bắt họ vào Đại học quốc gia và phải ở luôn tại đó. Họ
buồn bực vì không được dự vào những dịp náo nhiệt qua các buổi tập luyện và nhận
thấy rằng chuyện học hành thật là vô bổ, chỉ mong sao được cưỡi ngựa, hò hét và
bắn súng với các bạn.Brent nhắc lại:
− Thôi, mình băng đồng qua nhà Able đi. Mình vượt qua lòng rạch
của ông O'Hara và đồng cỏ của nhà Phontaine là tới nơi trong chốc lát.
Jeems vẫn cố chống:
− Qua đó họ chỉ cho mình ăn toàn 'au cải và thịt chuột 'ừng
thôi.
Stuart nhíu mày:
− Còn mầy thì chẳng được ăn cóc gì . Mầy phải trở về nói cho
má tụi tao hay là tụi nầy không ăn tối .
Jeems kêu hoảng:
− Không, tôi không đi đâu. Không, nhứt định không. Tôi không
muốn bị bà Beet'iss ném 'a ngoài . T'ước hết, bà hỏi tại sao tôi để hai cậu bị
đuổi nữa . Kế nữa, bà hỏi tại sao tôi không đem hai cậu về tối nay để bà nện .
Rồi bà nhảy tới chụp tôi như con vịt chụp con bọ và đổ hết lỗi cho tôi. Nếu hai
cậu không dẫn tôi theo qua nhà ông Able Quynder, thì tôi sẽ ở trong rừng suốt
đêm và sẽ bị lính tuần chộp đầu. Thà bị bắt còn sướng hơn là bị bà Beet'iss vồ
khi bà nổi xung.
Hai anh em song sinh nhìn nét mặt cương quyết của gã da đen,
vừa do dự vừa bực tức .
− Điên khùng như nó thì dễ bị lính tuần bắt lắm, mà như vậy
là má sẽ có chuyện để chế nhạo thêm mấy tuần. Tao quả quyết là bọn da đen còn rắc
rối hơn ai hết . Lắm lúc tao nghĩ bọn chủ trương bãi bỏ chế độ mãi nô có lý.
− Để thằng Jeems gánh chịu những gì chính mình phải chịu là
không tốt . Mình phải đem nó theo. Nầy thằng mọi khùng mặt dày mày dạn kia, nếu
mầy lỡ lời hay làm bộ làm tịch trước đám hắc chủng của ông Quynder, và nói bóng
nói gió là nhà mình luôn luôn ăn gà quay và đùi heo muối trong khi họ chỉ được
ăn thỏ và chuột rừng thôi, thì tao... Tao sẽ nói cho bà biết. Và tụi tao cũng
không cho mầy đi theo đánh giặc.
− Làm bộ làm tịch gì? Tôi mà phải cần lên mặt với lũ da đen rẻ
tiền đó à? Thưa cậu, không đâu. Tôi là người đàng hoàng, lịch sự mà. Bà
Beet'iss dạy tôi cách xử sự cũng như đã dạy hai cậu.
Stuart chép miệng:
− Rất tiếc là bà già đã uổng công với cả ba. Thôi đi.
Anh ta thúc đinh giày vào hông ngựa khiến nó nhảy vọt qua một
cách dễ dàng bức rào chắn giữa con lộ và đồn điền đất mềm của ông O'Hara. Brent
phóng ngựa theo và kế đó là Jeems, nhưng gã da đen phải ôm ghì lấy bờm ngựa.
Jeems không thích nhảy rào, nhưng nó buộc lòng phải phóng qua những bức rào cao
hơn để luôn luôn theo sát chủ .Giữa lúc ba thầy trò băng qua những luống cày đỏ
sậm đi xuống triền đồi để tới lòng sông trong màn đêm buông xuống, Brent bỗng
nói to với em:
− Ê, Stu! Mầy có thấy là đáng lý con Scarlett phải mời mình ở
lại không?
Stuart đáp ngay:
− Theo tao thì phải vậy. Tại sao mầy nghĩ là ...
Chọn Tập
Khi hai anh em song sinh để một mình Scarlett ở lại dưới vòm
cổng Tara, và khi tiếng vó ngựa chìm khuất đằng xa, Scarlett đi trở về ghế như
một kẻ thụy du. Da mặt nàng như bị căng ra vì đau đớn, và miệng thì đau nhức vì
cứ phải cố nhoẻn cười để cho hai anh chàng Tarleton không phát giác được sự bí ẩn
của mình. Nàng mệt mỏi ngồi xuống, co một chân lên lót dưới đùi, và tim nàng
càng lúc càng phồng to trong nỗi thống khổ gần như sắp nổ tung. Nó cứ nhảy nhói
lên từng lúc, hai bàn tay lạnh ngắt với cảm giác của một sự sụp đổ có thể xảy
ra. Mặt nàng lộ rõ niềm đau xót và vẻ ngẩn ngơ, sự ngẩn ngơ của một đứa bé được
nuông chìu, lúc nào cũng được thoả mãn tất cả những gì đòi hỏi để rồi bây giờ,
lần đầu tiên trong đời, bị roi đời quất ngược .Ashley sắp cưới Melanie
Hamilton!
Ô, đó không thể là sự thật! Hai gã Tarleton đã lầm . Họ chỉ
đùa nghịch theo bản tính của họ thôi. Ashley không thể, không có thể yêu được
Melanie. Không một ai có thể yêu được cô gái loắt choắt và nhát nhúa đó .
Scarlett khinh bỉ nhớ lại thân hình gầy xẹp như con nít đó, với cái khuôn mặt
trái tim quá tầm thường không gợi lên được một chút hứng khởi nào. Và Ashley có
thể không gặp cô ta từ nhiều tháng nay. Chàng đã không có mặt ở Atlanta quá hai
lần kể từ khi tổ chức một cuộc hội họp vào năm ngoái ở Twelve Oaks. Không,
Ashley không thể yêu được Melanie vì chàng... - Ô, nàng không thể lầm lẫn được
- Bởi vì chàng đã yêu mình! Phải, chính Scarlett là người được chàng yêu, nàng
quá rõ điều đó!
Nghe tiếng bước chân nặng nề của Mammy làm rung chuyển sàn
nhà trước, Scarlett vội vàng kéo chân ra và cố làm vẻ tỉnh táo. Không nên để
cho Mammy nghi ngờ. Mammy tự cho là cả họ O'Hara thuộc về bà, cả thể xác lẫn
linh hồn, và những bí ẩn của họ cũng chính là những bí ẩn của đời bà, và chỉ cần
nghi ngờ một chút thôi là cũng đủ làm cho bà cương quyết phát giác cho kỳ được
với sự xông xáo của loài chó săn. Qua kinh nghiệm, Scarlett hiểu rõ là nếu sự
tò mò chưa được giải toả, nhứt định là Mammy sẽ nói lại với Ellen và chừng đó,
Scarlett sẽ bị bắt buộc phải cung khai tất cả với mẹ nàng, hoặc phải nghĩ ra một
chuyện nói dối cho có vẻ thuận lý.
Mammy bước ra, một phụ nữ đồ sộ và lớn tuổi với đôi mắt nhỏ
bé nhưng tinh quái như mắt voi. Da đen bóng, đúng giống người Phi châu, và sẵn
sàng trung thành với dòng họ O'Hara tới giọt máu cuối cùng, bà là điểm tựa
chánh của bà Ellen, là nỗi chán chường của ba cô con gái và là sự khủng khiếp đối
với tất cả tôi tớ trong nhà . Mammy là người da đen nhưng thái độ xử sự và ý thức
tự trọng của bà đôi khi còn cao hơn chủ . Bà được nuôi nấng từ nhỏ trong nhà bà
Solange Robillard, mẹ của bà Ellen O'Hara, một phụ nữ Pháp, mũi cao và nghiêm
khắc, không ngần ngại trừng phạt con cái hoặc gia nhân mỗi khi có ai làm gì
thương tổn đến gia phong. Bà là nhủ mẫu của Ellen và cùng đi với chủ từ
Savannah tới cao nguyên sau ngày Ellen lấy chồng . Người nào được Mammy thương
thì người ấy luôn luôn bị la rầy. Và vì quá yêu quí Scarlett, và đã đặt tất cả
hãnh diện vào, nên sự quở phạt của bà gần như liên tục .
− Mấy cậu về 'ồi sao? Sao không mời người ta ở lại dùng bữa ?
Tôi đã bảo Po'k dọn thêm hai bộ dĩa cho họ . Đó là lối xã giao nào vậy?
− Ối, tôi đã chán nghe họ nói chuyện chiến tranh đến nổi
không thể nào chịu đựng thêm nữa suốt bữa ăn, nhứt là khi có ba phụ họa và
không ngớt la ó về ông Lincoln.
− Cô cư xử không hơn một đứa quê mùa. Bao nhiêu công khó của
tôi và bà Ellen cuối cùng chẳng ra gì . Và cô lại không choàng khăn nữa! Và đêm
lại lạnh! Tôi đã nói bao nhiêu lần rồi là cô sẽ bị cảm sốt nếu ngồi ngoài
trời đêm mà không chịu choàng khăn lên vai. Đi vào nhà đi, cô Scarlett.
Scarlett quay mặt sang phía khác với dáng điệu cố làm ra vẻ
ung dung, mừng thầm là Mammy đã không phát hiện ra được gì bởi bận tâm về vụ
khăn choàng.
− Không, tôi muốn ngồi đây để ngắm mặt trời lặn. Đẹp lắm.
Mammy làm ơn vào lấy giùm khăn choàng đi, tôi sẽ ngồi đây đợi ba về.
Giọng Mammy nghi ngờ:
− Coi, sao tiếng nói của cô giống như bị cảm vậy?
Scarlett hơi lo:
− Không phải đâu. Bà vào lấy khăn dùm đi.
Mammy lệch bệch đi vào nhà và Scarlett nghe tiếng bà gọi đứa
tớ gái trên lầu:
− Rosa đâu? Ném cái khăn choàng của cô Scarlett xuống đây.
Và giọng bà trở nên gắt gỏng hơn:
− Đồ mọi cái ăn hại! Lần nào gọi cũng không có. Bây giờ tao lại
phải đích thân lên đó lấy.
Scarlett nghe thang lầu kêu răng rắc và nàng nhẹ nhàng đứng
lên. Khi Mammy trở ra, bà ta lại nhai tới nhai lui về thái độ khiếm nhã của
Scarlett đối với khách, và nàng sẽ không chịu đựng nổi những lời vô vị nhạt nhẽo
đó trong khi tim nàng sắp vỡ toang ra. Giữa lúc nàng đứng đó, ngập ngừng chưa
biết tìm chỗ nào ẩn lánh, để chờ cho sự đau đớn trong lồng ngực dịu bớt đi, thì
một ý nghĩ chợt loé lên, mang tới một tia hy vọng. Cha nàng đã đi qua bên
Twelve Oaks, đồn điền của họ Quilkes hồi xế này để mua Dilcey, người vợ to lớn
của người hầu Pork. Ở Tquelve Oaks, Dilcey vừa là trưởng toán nữ gia nhân vừa
và cô đỡ, và kể từ đám cưới sáu tháng trước cho tới nay, Pork cứ theo quấy rầy
chủ từ sáng tới tối về chuyện xin mua Dilcey về để cho hai vợ chồng được sống
chung trong một đồn điền . Và xế nay, sau khi đã mềm lòng, ông Gerald đã sang
bên đó để thương lượng việc mua Dilcey.
Scarlett nghĩ, chắc chắn ba biết rõ chuyện đó có thật hay
không. Dầu cho người chẳng nghe được rõ rệt điều gì, có thể người cũng nhận thấy
một dấu hiệu nào đó qua sự xôn xao bên nhà họ Quilkes. Nếu mình có thể gặp
riêng ba trước lúc ăn tối, có thể mình sẽ biết ra sự thật, đó chỉ là một trong những
trò đùa ác hại của anh em song sinh.
Đã tới lúc Gerald sắp về, và nếu nàng có ý định gặp riêng ông
thì chẳng có cách nào khác hơn là đón ông ở ngay chỗ giáp giới của đường mòn và
quan lộ. Nàng rón rén bước xuống các bực thềm, vừa ngoái đầu nhìn lại để biết
chắc là Mammy không từ trên các cửa sổ lầu nhìn theo. Không bắt gặp khuôn mặt
đen to lớn nào với mái tóc trắng như tuyết núp sau màn cửa, nàng bạo dạn kéo tà
áo xanh thêu hoa lên, và chạy về phía đường mòn với tất cả sức nhanh của đôi
giày nhỏ buộc dây.
Tàng cây bách hương từ hai bên con đường trải sạn giao đầu
vào nhau làm thành một mái vòm trên cao, biến con đường dài thành một đường hầm
tối ám. Ngay khi vừa chạy tới phía dưới những tàng cây bách hương, nàng biết là
đã thoát khỏi tầm quan sát của người nhà, nên đi chậm lại . Vì dây nịt áo đã được
buộc quá chặt, Scarlett mệt thở chẳng ra hơi, nhưng vẫn cố cố gắng bước mau. Chẳng
mấy lúc nàng đã ra tới đường cái, nhưng cứ tiếp tục đi cho tới một khúc quanh,
nơi có một lùm cây to làm thành một bức bình phong giữa nàng và ngôi nhà.
Mặt đỏ ửng và thở hồng hộc, nàng ngồi lên một gốc cây bị đốn
để đợi cha. Đúng ra thì giờ nầy ông đã về nhưng nàng lại hài lòng vì ông đã về
muộn . Khoảng thời gian chậm lại đó sẽ giúp cho nàng điều hoà hơi thở và lấy lại
bình tĩnh trên nét mặt để cha khỏi nghi ngờ. Cứ mỗi lúc nàng tưởng như nghe thấy
tiếng vó ngựa khua, và thấy cha phóng nhanh lên đồi với tốc độ nguy hiểm quen
thuộc của ông. Nhưng thời gian cứ trôi qua mà Gerald vẫn chưa về tới. Nàng ngó
mong xuống đường và trái tim lại bắt đầu căng phồng thêm mãi .Nàng nghĩ:
− Ô, đó không thể là sự thật! Tại sao ba chưa chịu về ?
Nàng đưa mắt dài theo con đường quanh co, đỏ như màu máu sau
trận mưa buổi sáng. Nàng phác hoạ trong đầu một con đường chạy dài xuống triền
núi, cho tới dòng sông Phlint lặng lờ, băng qua những đầm lầy, rồi leo lên ngọn
đồi kế đó dẫn tới vùng Twelve Oaks, nơi Ashley cư ngụ . Bây giờ con đường đó đã
có ý nghĩa khác hơn, con đường đưa tới Ashley và ngôi nhà xinh xắn với hàng cột
trắng toát sừng sững trên đồi như một đền Hy lạp.
− Ô, Ashley, Ashley!
Nàng nghĩ tới chàng và tim đập rộn .Cái cảm giác lạnh buốt của
nỗi ngỡ ngàng và sự sụp đổ đè nặng lên nàng do sự thóc mách của hai anh em
Tarleton gây ra đã bị đẩy lui và thay vào đó là ngọn lửa nóng bỏng đã nung nấu
lòng nàng từ hai năm qua.
Kể cũng lạ là từ khi lớn lên, nàng nhận thấy ở Ashley chẳng
có gì là hấp dẫn cả. Từ những ngày thơ ấu, nàng thấy chàng đến rồi đi và chẳng
chú ý gì hơn. Nhưng cho tới một ngày cách đây hai năm, khi Ashley trở về sau ba
năm du lịch Âu châu, đến Tara thăm viếng, nàng chợt thấy đã yêu chàng. Chỉ giản
dị thế thôi.
Hôm ấy, nàng đang đứng trên thềm và Ashley cỡi ngựa đi trên
con đường dài, y phục bằng nỉ mỏng toàn màu xám và chiếc cà vạt rộng khổ màu
đen làm nổi bật chiếc sơ mi xếp nếp hình tổ ong. Cho tới bây giờ, nàng vẫn còn
hình dung được từng chi tiết về y phục của chàng, đôi giày bóng sáng chói làm
sao ấy và cái kẹp mang hình đầu nữ quái Medusa, chiếc nón Panama rộng vành mà
chàng vội lấy xuống cầm tay ngay khi thấy mặt nàng. Chàng đã nhẹ nhàng rời lưng
ngựa và ném dây cương cho một thằng bé da đen, để ngắm nàng với đôi mắt mở to,
với nụ cười nở rộng, và ánh mắt tươi sáng đã biến mái tóc vàng óng ả của chàng
thành một mũ bạc rực rỡ. Và chàng đã nói : "Em lớn lắm rồi, Scarlett ạ".
Và nhẹ nhàng bước lên các bậc thềm, chàng đã hôn tay nàng. Và giọng nói của
chàng! Nàng không bao giờ quên được nhịp nhảy rộn ràng của tim mình, khi nghe
giọng nói ấy lần đầu tiên, nó êm lướt, trầm ấm và dìu dặt làm sao!
Nàng đã thấy cần chàng, ngay phút đầu tiên, cần một cách đơn
giản và không thiết tìm hiểu, như nàng đã thấy cần có thức ăn, có ngựa cỡi và một
chiếc giường êm dịu.Luôn hai năm, chàng đã đưa nàng dạo chơi khắp hạt, dự các
buổi khiêu vũ, câu cá, các bữa ăn ngoài trời... không quá thường xuyên như hai
anh em Tarleton hoặc Cade Calvert, không gây bực mình như mấy gã con trai nhỏ
tuổi nhà Phontaine, không hề bỏ sót một lần viếng Tara mỗi tuần.
Thật ra, chàng chưa bao giờ nói yêu nàng và đôi mắt màu lam
đó cũng chưa bao giờ chiếu ra những tia nóng rực mà Scarlett từng bắt gặp ở những
đàn ông khác. Vậy mà ... vậy mà ... nàng biết chàng đã yêu nàng. Nàng không thể
lầm lẫn được. Linh cảm mạnh hơn lý trí và sự hiểu biết nhờ vào kinh nghiệm cho
nàng hay là chàng đã yêu nàng. Lắm lần nàng đã bắt gặp ánh mắt chàng không thờ
thẫn và xa vắng nữa, khi chàng nhìn nàng nửa khao khát nửa buồn rầu, khiến nàng
không hiểu ra sao cả . Nàng đã biết chàng yêu mình. Tại sao chàng không chịu
nói ra? Đó là điều nàng không hiểu nổi. Nhưng cũng còn quá nhiều chuyện liên
quan tới chàng mà nàng không hiểu nổi.
Chàng luôn luôn lễ độ, nhưng xa cách . Không ai đoán được
chàng đang nghĩ gì, Scarlett lại còn kém hơn ai cả . Ở một nơi mà mọi người đều
có thói quen nói trắng ra mọi ý nghĩ của mình, thì thái độ dè dặt của Ashley khiến
cho nhiều người phải bực mình . Chàng cũng xuất sắc như tất cả những thanh niên
khác về những trò tiêu khiển trong hạt như săn bắn, đánh bạc, khiêu vũ và chánh
trị, mà cũng là tay kỵ mã có biệt tài hơn cả, nhưng càng khác biệt hẳn mọi người
trong việc cho rằng các hoạt động thú vị đó không phải là mục đích của đời mình
. Và chàng đã riêng rẽ tìm nguồn vui trong sách vở, âm nhạc và say mê thi văn.
Ô, tại sao tóc chàng lại vàng óng đến thế, tại sao lại lễ độ
cách biệt như thế, tại sao lại quá cuồng nhiệt bận tâm kể những mẫu chuyện về
Âu châu, âm nhạc, thi văn và những chuyện mà nàng không thấy thú vị chút nào -
nhưng lại là người rất đáng yêu? Đêm đêm ,mỗi khi lên giường, sau khi đã ngồi
nói chuyện với chàng trong ánh sáng mờ mờ ở thềm nhà, nàng trằn trọc luôn nhiều
giờ và chỉ tự an ủi với ý nghĩ là chàng sẽ mở lời trong lần gặp tới . Nhưng lần
gặp tới diễn qua đi, nhưng kết quả chẳng có gì - chẳng có gì ngoại trừ cơn sốt
trong nàng cứ dâng cao và nóng bỏng hơn thêm.
Nàng yêu chàng, cần thiết có chàng, nhưng không sao hiểu được
chàng . Nàng thẳng thắn và giản dị như những ngọn gió thổi qua Tara, như con
sông đục vàng uốn quanh đồn điền, và có lẽ cho tới ngày cuối của cuộc đời nàng
vẫn không sao hiểu nổi một chuyện gì phức tạp. Và bây giờ, lần đầu tiên trong đời,
nàng phải đương đầu với một tình trạng phức tạp.
Ashley được sinh ra từ dòng dõi của những người quen dùng sự
nhàn hạ của họ để suy nghĩ chớ không phải để hành động, để theo đuổi những giấc
mộng màu sắc rực rỡ không một chút thực tế. Chàng sống giữa một nội giới đẹp đẽ
hơn xứ Georgia và chỉ bước vào thực tế một cách miễn cưỡng. Chàng nhìn xem mọi
người, không ưa cũng không ghét họ. Chàng nhìn xem cuộc đời, không phấn khởi
cũng không sầu não. Chàng chấp nhận cái vũ trụ trong đó có một chỗ cho mình, và
mặc nó ra sao, chàng nhún vai quay trở về với sách vở, âm nhạc và cái thế giới
mỹ miều hơn của riêng mình.
Scarlett không hiểu được vì sao chàng có thể chiếm được hồn
nàng, trong khi đầu óc chàng vẫn cứ là của một kẻ xa lạ đối với nàng . Chính
cái sự bí ẩn của chàng đã khơi dậy tính tò mò của nàng, giống như một cánh cửa
không then cài, không ổ khóa. Những gì ở chàng mà nàng không hiểu nổi lại càng
làm cho nàng yêu chàng hơn lên, và thái độ tán tỉnh kỳ lạ, hạn chế của chàng,
càng khiến nàng thêm cương quyết chiếm chàng cho kỳ được. Nàng không bao giờ
nghi ngờ việc một ngày nào chàng sẽ ngỏ lời vì nàng hãy còn quá trẻ và quá được
nuông chìu để có thể chấp nhận được một sự thất bại nào. Và bây giờ, tin tức
kinh khủng đó đã đến với nàng như một tiếng sét bên tai. Ashley sắp cưới
Melanie! Không thể có thật được!
Tại sao, chỉ mới tuần qua thôi, trong khi hai người từ
Phairhill cỡi ngựa về vào một buổi hoàng hôn, chàng đã nói: "Scarlett, anh
có một chuyện quan trọng muốn nói với em, nhưng anh không biết phải ngỏ ý như
thế nào".
Nàng đã ngượng ngùng nhìn xuống, tim đập rộn ràng, cho rằng
giây phút thần tiên đã tới . Nhưng rồi chàng lại nói: "Bây giờ thì không còn
đủ thời giờ để nói. Ô, Scarlett, anh đúng là một kẻ khiếp nhược!" Và anh
thúc vào hông ngựa, chàng phóng lên triền đồi Tara.Ngồi trên gốc cây, Scarlett
nhớ lại những lời lẽ đó đã từng làm cho nàng ngây ngất, và bỗng nhiên nàng lại
thấy nó có một ý nghĩa khác, một ý nghĩa gớm ghiếc. Phải chăng chàng đã có ý muốn
báo tin lễ hỏi nầy?
Ô, ước gì ba về tới lúc nầy! Nàng không thể chịu đựng thêm được
nữa. Nàng lại sốt ruột đưa mắt nhìn suốt con đường và một lần nữa, nàng thất vọng.
Mặt trời đã chìm khuất và chân trời đỏ chói bây giờ đã xuống
màu hồng lợt. Vòm trời màu thiên thanh từ từ biến thành xanh lam như màu vỏ trứng
họa mi, và sự yên tĩnh lạ thường của cảnh chiều tà nơi đồng nội len nhẹ vào
nàng. Bóng tối nhoà nhoà lan rộng. Những đường cày hồng thắm và con đường trải
dài vắt ngang đồng ruộng như một vết thương đỏ ối đã mất hẳn cái màu máu huyền
bí của nó, chỉ còn lại màu nâu trơ của đất. Bên kia đường trên đồng cỏ, ngựa,
la và bò cái đứng im lìm, thò đầu qua rào, chờ đợi về chuồng. Chúng không chịu
được những cái bóng đen ngòm của các lùm cây rậm rạp mọc quanh đồng cỏ, và phe
phẩy vành tai về phía Scarlett, dường như khoan khoái được có người bên cạnh.
Trong bóng tối chập chờn, những cây thông cao lớn bên bờ rạch
lầy lội lúc nãy tươi xanh dưới nắng chiều, bây giờ đã đen sậm trên nền trời xám
màu chì trông như một hàng người khổng lồ có phận sự che khuất dòng sông vàng đục
dưới chân. Trên ngọn đồi bên kia sông, mấy ống khói cao vút và trắng toát của
nhà họ Quilkes từ từ mờ khuất vào bóng đen của những cây sồi rậm rạp chung
quanh, và xa xa chỉ có các đốm sáng của những ngọn đèn ăn tối mới chứng tỏ nơi
đó có một ngôi nhà . Hương hoa cỏ mùa xuân ấm áp và ẩm ướt, trộn lẫn với mùi đất
mới cày và tất cả những cây lá vươn lên, khiến hồn nàng nhẹ lâng lâng.
Cảnh mặt trời lặn, tiết xuân nồng và cây cỏ xanh tươi mới mẻ
không phải là chuyện lạ đối với Scarlett. Với nàng, vẻ đẹp thiên nhiên cũng như
không khí để thở và nước để uống, bởi vì chưa bao giờ nàng ý thức được một sự
xinh đẹp nào khác hơn là nét đẹp trên khuôn mặt đàn bà, nét đẹp qua vóc dáng của
loài tuấn mã, của các loại áo lụa và của tất cả những gì có thể sờ mó được . Thế
nhưng, bóng tối mong lung yên tĩnh, bao trùm mảnh đất khéo chăm sóc của Tara đã
đem lại cho đầu óc rối loạn của nàng một chút lắng dịu . Nàng đã quá yêu mảnh đất
nầy mà không ngờ tới, yêu nó như yêu khuôn mặt của mẹ trong giờ cầu kinh dưới
ánh đèn.
Trên con lộ quanh co, vẫn chưa thấy bóng Gerald. Nếu Scarlett
phải đợi lâu hơn nữa, chắc chắn Mammy sẽ ra tìm và bắt buộc nàng phải vào nhà với
những lời quở trách. Nhưng giữa lúc nàng đang mòn mỏi ngóng nhìn con đường tối
sẫm, nàng chợt nghe có tiếng vó ngựa phía dưới đồng cỏ và thấy bò ngựa hoảng hốt
chạy tán loạn. Gerald O'Hara đang băng đồng với tất cả tốc độ.
Ông đang phóng bay lên đồi trên lưng con ngựa mập mạp với 4
chân dài thon mảnh. Từ xa, trông ông như một đứa bé ngồi lỏng lẻo trên lưng con
vật dềnh dàng. Mái tóc dài bạc trắng bay xoả ở phía sau, ông vừa thúc ngựa vừa
hò hét, vung roi.
Mặc dầu tràn ngập bởi nhiều nỗi lo buồn, Scarlett vẫn không
khỏi ngắm nhìn cha với một sự hãnh diện trìu mến, bởi vì Gerald quả là một tay
kỵ mã đại tài.
Nàng tự hỏi: "Chẳng biết tại sao người cứ luôn luôn
thích nhảy rào mỗi khi đã có chút rượu vào. Và nhứt là sau khi đã ngã té năm rồi
làm gãy xương đầu gối. Mình tưởng là chỉ một bài học đó cũng đủ lắm rồi, và đặc
biệt là đã thề với má rằng không bao giờ, không bao giờ nhảy nữa".
Scarlett không sợ cha mà còn cảm thấy gần gũi với ông hơn là
hai cô em gái, bởi vì Gerald thường kiêu hãnh một cách trẻ con với đôi chút sảng
khoái, sau khi phạm tội trong những lần nhảy rào giấu vợ. Tính khí đó thích hợp
với sự thích thú ngầm của nàng mỗi khi qua mặt được Mammy. Scarlett đứng lên để
ngắm nhìn cha.
Con ngựa cao lớn đã tới sát rào, nó thu mình lại và bay bổng
qua rào dễ dàng như một con chim, trong khi người cỡi reo hò nhiệt náo, ngọn
roi vụt đen đét trên không, và những lọn tóc bạc phơ bay phất phới . Gerald
không nhìn thấy con đang đứng khuất mình trong bóng cây. Ông dừng cương lại
trên đường, vỗ nhẹ vào cổ ngựa với sự tán thưởng.
− Không một con ngựa nào trong toàn hạt nầy có thể sánh được
với mầy. Cả nước chắc cũng không.
Ông kiêu hãnh nói với con vật bằng giọng Ái nhĩ lan mà ông vẫn
chưa bỏ được, mặc dầu đã sống trên đất Mỹ ba mươi chín năm rồi. Rồi ông hối hả
vuốt lại mái tóc rối bời, sửa áo cho thẳng thớm và kéo lại chiếc cà vạt đang vắt
ở mang tai. Scarlett biết rõ là cha nàng đang sửa soạn để đến khi gặp mẹ nàng,
ông có được cái dáng điệu của một con người phong nhã vừa đi viếng bạn trở về một
cách thong dong. Nàng cũng biết là tình cảnh đó rất thuận lợi để nàng bắt chuyện
với cha, mà khỏi phải cần nêu lý do xác thực .Nàng cười lớn lên, và quả đúng
như điều mong mỏi, tiếng cười làm cho Gerald giựt nẩy mình, nhưng ngay khi nhận
ra Scarlett, khuôn mặt hồng hào của ông lộ rõ vẻ nửa ngượng ngùng nửa nghi ngại
. Ông xuống ngựa một cách khó khăn vì gối cứng đơ, rồi quấn dây cương vào tay,
ông khập khiễng đi về phía cô con gái.Vừa nhéo vào má con, ông vừa hỏi:
− Nầy, tiểu thơ, có phải cô rình rập tôi để rồi cũng như con
Suellen em cô tuần trước, mét lại với má cô không?
Giọng nói trầm khàn của ông pha lẫn một chút bất bình và tâng
bốc. Scarlett vừa tróc lưỡi chọc cha vừa sửa lại chiếc cà vạt của ông cho ngay
ngắn. Hơi thở của ông phà vào mặt nàng nực nồng mùi rượu Bourbon với một chút
hương vị bạc hà. Người ông còn toát ra mùi thuốc lá, mùi da đánh bóng và mùi ngựa
- một sự pha trộn của những thứ mùi mà nàng đã quen thuộc nơi cha, và tự nhiên
nàng thấy thích như thế ở những người đàn ông khác.
− Không, ba, con không bép xép như Suellen đâu.
Scarlett trấn an cha và bước lùi ra để kiểm soát lại bộ diện
của ông.Gerald người nhỏ thó, cao khoảng trên một thước rưỡi, nhưng to bề ngang
và lớn cổ, cho nên với cái bề ngoài đó, mỗi khi ông ngồi, người lạ có thể tưởng
lầm ông là người to lớn. Thân hình vạm vỡ của ông được giữ bởi đôi chân ngắn
nhưng chắc nịch, lúc nào cũng không rời đôi giày ống bằng loại da hảo hạng, và
lúc nào cũng dạng ra trông như một đứa bé vênh váo. Phần đông những người thấp
bé muốn lấy điệu bộ nghiêm trang đều có đôi chút lố bịch, nhưng nếu loại gà
bantam - bé nhỏ nhưng hùng dũng - được đồng loại kính nể bao nhiêu thì Gerald
cũng thế . Không một ai dám táo bạo coi Gerald O'Hara như là một kẻ thấp bé buồn
cười.
Ông đã sáu mươi tuổi và mái tóc quăn đã bạc phơ, nhưng khuôn
mặt thông minh chưa có một vết nhăn nào, và đôi mắt xanh biếc đầy quả cảm của
ông vẫn còn giữ được ánh trong sáng của một kẻ không bao giờ mệt trí với các vấn
đề trừu tượng, hơn là phải nghĩ cách để thắng một ván bài . Khuôn mặt Ái nhĩ
lan của ông cũng giống như hình dáng của mảnh đất quê hương mà ông đã phải rời
bỏ từ lâu - một khuôn mặt tròn trịa, da đỏ hồng, mũi ngắn, miệng rộng và hiếu động.
Dưới cái bề ngoài hung bạo đó, Gerald O'Hara ẩn chứa cả một
lòng nhân đức. Ông không thể nhìn được cảnh một tên nô lệ bị mạt sát, dầu là
đáng tội, cũng không thể chịu được tiếng mèo ngao hay tiếng khóc của trẻ con;
nhưng ông lại sợ bị người khác nhận ra. Ông không làm sao biết được rằng lòng
nhân ái của ông chỉ trong vòng năm phút là bị phát giác ngay bởi những kẻ tiếp
xúc ông, và ông sẽ vô cùng khổ sở nếu nhận ra điều đó, bởi vì ông thích nghĩ rằng
mỗi khi ông quát tháo vang rần là tất cả đều run sợ và tuân lịnh . Không bao giờ
ông hiểu được rằng chỉ có một tiếng nói duy nhứt ở đồn điền là có đủ quyền uy
khiến mọi người tùng phục - tiếng nói dịu dàng của vợ ông, bà Ellen. Đó là một
bí ẩn mà ông không bao giờ khám phá nổi, bởi vì tất cả, từ bà Ellen cho đến gã
nông nô đần độn nhứt, đều ngấm ngầm và khả ái toa rập với nhau để cho ông cứ
mãi tin tưởng rằng chính tiếng nói của ông mới thật sự là pháp luật.
Ít hơn ai hết, Scarlett chẳng sợ sệt bao nhiêu trước tánh
nóng và những lời quát tháo của cha. Nàng là con trưởng, và bây giờ Gerald đã
nhận rõ ra rằng ông sẽ không bao giờ có một đứa con trai nào nữa, ngoài ba đứa đang
nằm trong nghĩa địa nhà, nên ông bắt đầu xử sự với Scarlett như đối với một nam
nhi, điều mà Scarlett cảm thấy vô cùng thích thú. Nàng rất giống cha nhiều hơn
là mấy cô em gái. Carreen, tên thật là Caroline Irene, thì yếu đuối và đa cảm;
Suellen, tên thật là Susan Elinor, thì lại tự kiêu về sự làm dáng cho ra vẻ đài
các của mình.
Ngoài ra, Scarlett với cha còn cấu kết với nhau một thoả hiệp
ngầm về sự che giấu cho nhau. Nếu Gerald bắt gặp nàng trèo rào thay vì phải đi
nửa dặm mới ra tới cổng, hoặc ngồi nán lại quá khuya dưới thềm nhà để nói chuyện
với một gã con trai nào đó, ông sẽ đích thân mắng trách dữ dội, nhưng sẽ không
nói lại chuyện đó cho vợ hoặc Mammy biết. Và hễ Scarlett bắt gặp cha phóng ngựa
qua rào sau khi đã hứa với vợ là không tái diễn trò đó nữa, hoặc khám phá được
số tiền đích xác đã thua bạc của ông, như thường được biết qua sự bàn tán của
người trong hạt, nàng sẽ không đề cập đến việc đó trong bữa ăn tối, như Suellen
đã từng thường làm với thái độ vụng về có tính toán. Scarlett và cha cùng long
trọng bảo kết với nhau rằng đem những chuyện đó tới tai bà Ellen chỉ làm cho bà
khổ sở thêm mà thôi, và chẳng có gì khiến họ phải làm tổn thương đến tinh thần
hoà ái của bà.Nhìn cha đứng trong bóng tối cuối ngày, tự nhiên không hiểu sao
Scarlett bỗng cảm thấy ấm áp trước sự hiện diện của người. Có một cái gì rắn rỏi
và bình dị từ người ông toát ra khiến nàng được an ủi.
Là người kém óc phân tách nhứt, nàng không hiểu được rằng đó
là cảm giác nẩy sinh từ chỗ nàng và cha có quá nhiều điểm phù hạp nhau về bản
chất, mặc dầu đã được Ellen và Mammy cố gắng uốn nắn tánh tình luôn mười sáu
năm trời.
Nàng nói với cha:
− Bây giờ, trông ba đàng hoàng rồi đó. Chắc chắn là không ai
biết được những trò nghịch ngợm của ba đâu, nếu ba không khoe với họ. Nhưng
theo con thì sau khi bể xương đầu gối năm rồi cũng vì chính cái rào nầy...
− Nè, dầu có phải chết đi nữa tôi cũng không để cho con gái của
tôi dạy tôi có nên nhảy rào nữa hay không - Ông hét lớn và lại nhéo vào má
Scarlett - Cái cổ là cổ của riêng tôi, nó có gãy cũng kệ tôi.
Còn cô, tiểu thơ, cô làm gì ở ngoài nầy mà không mang khăn
choàng?Nhận thấy cha lại giở những trò quỉ quái quen thuộc để tránh khỏi bị sa
vào một câu chuyện bất lợi, Scarlett luồn tay vào tay cha:
− Con ra đón ba. Con không ngờ là ba về trễ quá. Con không thể
hiểu là ba có mua Dilcey về không.
− Mua thì có chớ sao không, nhưng với một giá mắc tàn tệ. Mua
nó và cả con quỉ cái nhỏ của nó là Prissy. John Quilkes muốn cho không nhưng ba
không chịu, chẳng lẽ để cho thiên hạ đồn ầm lên là
Gerald lợi dụng tình bạn trong chuyện mua bán. Ba bắt ông ta
phải nhận ba ngàn đồng cả hai đứa.
− Trời ơi, ba ngàn đô la sao, ba! Mình có cần mua con nhỏ
Prissy đó làm gì đâu?
Gerald hét lớn ra điều hùng biện:
− Đã tới lúc chính con gái tôi ngồi phê phán hành vi của tôi
rồi sao? Prissy là một con... và như vậy ...
Scarlett vẫn bình thản:
− Con biết nó. Nó là một con nhỏ xảo quyệt mà đần độn. Ba mua
nó chẳng qua là tại Dilcey cầu khẩn ba.
Gerald ngượng và bối rối, đúng như mỗi lần bị bắt gặp làm một
việc nghĩa . Trước thái độ lột rõ chân tướng của cha, Scarlett bật cười.
− Nè, tôi có làm điều gì sái quấy đâu? Chẳng lẽ mua con Dilcey
về rồi cứ để nó rầu khổ vì nhớ con? Nè, kể từ nay trở đi, tôi không bao giờ để
một tên hắc nô nào ở đây lấy vợ bên ngoài. Hao tốn quá . Nè cô bé, thôi đi vào.
Bóng tối đã dày đặc, màu xanh lợt lạt cuối cùng trên không đã
tắt lịm và không khí đã trở nên mát lạnh thay chỗ cho tiết Xuân ấm áp . Nhưng
Scarlett cố trì hoãn, tự hỏi chẳng biết phải vào đề bằng cách nào để dọ hỏi vụ
Ashley mà không làm cho cha phái nghi ngờ . Đó là cả một sự khó khăn vì bản chất
của nàng không quen tế nhị, nghĩa là cũng giống như cha nên khó mà che giấu được
ông cũng chính như ông không che giấu được nàng.
− Bên Twelve Oaks có gì lạ không, ba?
− Cũng bình thường. Cade Calvert có ở bển. Sau khi tính vụ
con Dilcey xong, cả bọn ra ngoài hành lang uống luôn nhiều ly toddy. Thằng Cade
vừa từ Atlanta tới đó. Ở Atlanta, người ta nhốn nháo hết, người nào cũng nói
chuyện chiến tranh và ...Scarlett thở dài . Một khi Gerald đã đề cập chuyện chiến
tranh và phân ly thì phải hằng giờ sau ông mới chịu ngưng. Nàng xoay chuyện qua
hướng khác.
− Họ có nói gì cuộc dã yến ngày mai không, ba?
− Bây giờ ba mới nhớ tới . Cô... tên là gì đây... cái con bé
nhỏ thó, mềm mại, năm ngoái có qua bên mình, con biết không, nó bà con với thằng
Ashley... à, nhớ ra rồi, cô Melanie Hamilton, đúng cái tên đó rồi... con nhỏ và
thằng Charles, em nó cũng vừa từ Atlanta về đó và...
− Ồ, cô ta cũng đã tới đó?
− Chớ sao, và con nhỏ mới mềm mại và lặng lẽ làm sao. Không một
tiếng nào nói cho mình hết, đúng tư cách một người đàn bà. Thôi vô con, đừng cà
rề nữa. Coi chừng má con ra kiếm bây giờ.
Những tin tức vừa nghe khiến tim nàng se thắt . Nàng đã mong
mỏi một chuyện ngoài hy vọng là Melanie Hamilton vẫn còn ở lại Atlanta và bây
giờ lại nghe chính miệng cha nàng khen ngợi tư cách dịu hiền của cô ta, trái
ngược với tánh tình mình, nàng không chịu nổi nữa nên đi thẳng vào đề:
− Ashley cũng có mặt ở đó hả ba?
− Có chớ .
Gerlad buông tay con gái ra, và quay nhìn sát mặt con:
− Nếu chỉ vì chuyện đó mà con ra đây đợi ba thì tại sao không
nói trắng ra mà lại vòng vo?
Scarlett không biết phải nói gì, nàng nghe mặt mình nóng ran
lên.
− Nè, nói đi chớ .
Nàng vẫn chưa nói được, ước gì có quyền được nắm lấy cha mình
và lay mạnh bắt người im miệng lại.
− Nó có ở đó và nó vồn vã hỏi thăm con, bọn em gái nó cũng vậy.
Tụi nó mong con sẽ không vắng mặt trong cuộc dã yến ngày mai.
Và ông tinh tế hỏi thêm:
− Bây giờ con nói thật coi, có chuyện gì giữa con và thằng
Ashley?
Scarlett vừa trả lời gọn vừa ôm lấy tay cha:
− Có gì đâu. Mình đi vào, ba.
Gerald để ý thái độ của con:
− À, bây giờ thì tới phiên con muốn vào nhà . Nhưng ba thì ba
muốn đứng hoài ở đây cho tới khi nào hiểu rõ con muốn gì. Bây giờ ba nhớ ra rồi,
mấy lúc gần đây coi bộ con hơi khác. Nó có giỡn cợt với con không?
− Không.
− Vậy là nó sẽ không bao giờ hỏi cưới con đâu.
Scarlett giận dữ nhưng Gerald đã dùng tay giữ nàng lại.
− Rán giữ mồm giữ miệng, thưa cô! Ba mới hay chuyện đó hồi xế
nầy do John Quilkes nói lại và dặn phải hết sức giữ bí mật. Đó là chuyện Ashley
sắp cưới Melanie. Người ta sẽ loan báo ngày mai.
Bàn tay Scarlett rời thỏng tay cha. Vậy là có thật!Tim nàng
nhức buốt như đang bị vò xé bởi những chiếc răng nhọn dã thú. Giữa cơn đau lịm
đó, nàng vẫn còn thấy đôi mắt cha nhìn mình, đôi mắt vừa thương hại, vừa bối rối
trước một vấn đề nan giải. Ông yêu quí Scarlett nhưng đồng thời cảm thấy khó chịu
khi bị cưỡng bách phải tìm một giải pháp cho những vấn đề trẻ con của nàng.
Ellen thì bao giờ cũng có sẵn những đáp biện. Lẽ ra, Scarlett nên đặt những vụ
rắc rối đó với vợ ông.
Gerlad gào to, giọng ông vang lớn mỗi lần bị xúc động mạnh:
− Vậy là cô đã tự biến thành một trò cười... biến cả nhà
thành trò cười cho thiên hạ rồi, phải không? Vậy là cô đã chạy theo một thằng
đàn ông không hề yêu cô, trong khi cô có thể chiếm được bất cứ một đứa con trai
nào trong hạt, phải không?
Sự phẫn nộ và lòng tự trọng bị tổn thương, khiến cho cơn đau
của Scarlett nhẹ bớt đi:
− Con không hề chạy theo anh ấy . Chỉ ... chỉ vì ngạc nhiên
thôi.
− Láo!
Gerlad quát lớn, rồi nhìn đăm đăm vào khuôn mặt thất sắc của
con, ông bỗng bất ngờ đổi giọng âu yếm:
− Ba buồn lắm, con. Nhưng dầu sao con cũng hãy còn nhỏ, còn cả
khối con trai khác.
Giọng Scarlett nghe như nghẹn:
− Hồi má lấy ba, má mới mười lăm tuổi, bây giờ con mười sáu
tuổi rồi còn gì.
− Má con thì khác. Tánh má không nông nổi như con. Thôi, con
gái vui lên đi. Tuần tới ba sẽ đưa con về Charleston thăm dì Eulalie, và rồi với
tất cả những xôn xao về vụ căn cứ Sumter, chỉ trong một tuần là con sẽ quên mất
thằng Ashley.
Scarlett nghĩ thầm, nửa buồn tủi, nửa tức giận nghẹn ngào:
"Ổng cứ tưởng mình con nít, hễ cứ cho một món đồ chơi mới là mình quên hết
mấy trận đòn".
− Thôi, đừng có chĩa cằm về phía tôi nữa chớ. Nếu con biết
suy nghĩ một chút, con sẽ chọn thằng Stuart hoặc thằng Brent Tarleton từ lâu.
Nghĩ thiệt kỹ đi con. Lấy một trong hai đứa sanh đôi đó thì hai đồn điền sẽ kết
hợp nhau, rồi Jim Tarleton và ba xây cho hai đứa bây một ngôi nhà xinh đẹp,
ngay chỗ hai đồn điền giáp nối, trong khu rừng thông to lớn và...
Scarlett la lớn:
− Đừng coi con như con nít nữa! Con không cần đi Charleston,
con không muốn có một ngôi nhà hay kết hôn với hai đứa song sinh đó . Con chỉ
muốn ...
Nàng vụt nhưng nói, nhưng đã trễ.
Giọng nói của Gerald bình tĩnh một cách lạ lùng, và ông nói thật
chậm rãi, dường như những ngôn ngữ đó vừa được lấy ra khỏi một kho tàng tư tưởng
ít khi được sử dụng.
− Con chỉ muốn có Ashley và rồi con sẽ không bao giờ chiếm được
nó. Và nếu nó có muốn cưới con, mà ba có phải tán thành vì ba nể tình bạn giữa
ba và John Quilkes thì ba cũng sẽ lo ngại không ít.
Nhìn ánh mắt kinh ngạc của con, Gerald nói tiếp:
− Ba muốn con gái của ba được sung sướng, nhưng chắc chắn con
sẽ không tìm thấy hạnh phúc khi chung sống với Ashley.
− Ồ, được mà! Được mà!
− Không đâu con. Chỉ có những cặp vợ chồng hợp tâm tính nhau
mới có hạnh phúc.
Scarlett muốn hét lớn : "Ba và má có giống nhau đâu sao
vẫn có hạnh phúc" nhưng nàng kịp thời dừng lại, sợ cha tát tai vì tội vô lễ.Gerald
tiếp tục nói chậm rãi, chọn lời:
− Dòng họ mình khác hẳn với nhà họ Quilkes. Họ cũng khác với
bất cứ láng giềng nào ... khác với mọi gia đình mà ba quen biết . Họ là những kẻ
kỳ dị, thà cứ để họ cưới lẫn nhau giữa những người bà con để giữ riêng cái kỳ dị
đó còn hơn.
− Không, ba, Ashley đâu có...
− Hãy giữ mồm giữ miệng, con gái! Ba không có ý nói xấu nó
đâu bởi vì ba mến nó. Ba bảo kỳ dị chớ không nói là điên. Nó không điên như bọn
Calvert dám hy sinh mọi thứ vì một con ngựa, cũng không như đám Tarleton cứ mỗi
một lứa là đẻ ra một hoặc hai thằng say, cũng chẳng giống đám Phontaine võ phu,
nóng nảy, dám ám sát người vì một sự nhục mạ tưởng tượng. Cái lối kỳ dị đó rất
dễ hiểu, chắc chắn như vậy . Và nếu không nhờ Thượng đế thì Gerald O'Hara nầy
cũng không thoát khỏi những tệ hại đó! Ba cũng không có ý nói là Ashley sẽ chạy
theo một con đàn bà khác, nếu con là vợ nó, hoặc nó sẽ đánh đập con. Được vậy
có lẽ con còn sung sướng hơn vì ít ra con cũng hiểu được vì sao. Nhưng nó lại
khác thường với những lối khác không làm sao hiểu nổi . Ba mến nó nhưng phần lớn
những chuyện nó nói, ba chẳng hiểu đầu đuôi ra sao cả . Đâu, con nói thật coi
con có hiểu nổi những chuyện lăng nhăng trong sách vở, thi ca, âm nhạc, và hội
họa cùng những thứ khùng điên tương tự như nó kể hay không?
Scarlett sốt ruột:
− Kìa, ba! Nếu con lấy anh ấy, con sẽ thay đổi tất cả.
− Ồ, con có thể thay đổi à?
Gerald nhìn chăm chú vào mặt con, nói tiếp:
− Như vậy là con chẳng hiểu gì về đàn ông, chưa nói tới
Ashley. Không một người vợ nào có thể thay đổi được tánh tình chồng, con đừng
quên điều đó . Còn nói tới chuyện thay đổi một người trong dòng họ Quilkes thì
... là chuyện vá trời, con ơi! Cả họ đều như vậy, và cứ muôn đời như vậy . Ba bảo
là họ kỳ dị ngay từ lúc mới sanh ra. Cứ xem họ chịu khó đi cho tới Nữu ước và
Boston để coi ca kịch và tranh sơn dầu . Rồi còn gởi mua sách Pháp và Đức trong
mấy tiệm buôn của Yankee! Rồi ngồi ì ra đó, vừa đọc vừa mơ mộng có Trời mà biết
chuyện gì, trong khi đáng lý ra phải dùng thì giờ đó để săn bắn và đánh phé như
bao nhiêu người bình thường khác.
Tức giận vì Ashley bị chê là quá gần với nữ tính, Scarlett phản
đối:
− Không một ai trong hạt nầy có thể cỡi ngựa giỏi hơn Ashley,
không một ai cả, ngoại trừ cha anh ấy. Còn về chuyện đánh phé bộ không phải
Ashley mới ăn của ba hai trăm đô-la tuần qua tại Jonesboro sao?
Gerald hết chối cãi:
− Vậy là mấy thằng nhóc Calvert lại bép xép nữa rồi, nếu
không thì con làm sao biết được con số. Ashley có thể cỡi ngựa hay so với người
hay nhứt và đánh phé giỏi với người giỏi nhứt - và người đó chính là ba. Và ba
cũng không chối cãi là nó uống rượu cũng cừ khôi, có thể hạ ngã anh em Tarleton
không mấy khó . Nó có thể làm tất cả những chuyện đó nhưng chẳng để tâm vào .
Chính vì vậy mà ba bảo là nó kỳ dị.
Scarlett lặng thinh, tim nàng thắt lại . Đối với nhận xét sau
cùng của cha, nàng nhận thấy rõ là đúng . Ashley không hề chú tâm vào bất cứ những
thú tiêu khiển nào thuộc loại đó mặc dầu chàng tự chúng tỏ có biệt tài. Tất cả
những gì người khác cho là đặc biệt thú vị, chàng chỉ tham dự với một ít hứng
thú của người biết giữ lễ cho phải phép.Hiểu rõ sự im lặng của Scarlett, Gerald
vỗ nhẹ vào tay con và nói với giọng đắc thắng:
− Con thấy không, Scarlett! Con đã nhận đó là sự thật . Con sẽ
sống ra sao với một người chồng như Ashley. Những người trong dòng họ Quilkes đều
gàn cả.
Rồi với giọng vỗ về, ông nói tiếp:
− Lúc nãy khi ba nói với con về mấy anh em Tarleton, không phải
là ba cố ý đề cao chúng . Bọn nó đều xứng đáng, nhưng nếu con để mắt tới thằng
Cade Calvert, ừ, thì là con giống ba. Họ Calvert gồm toàn những người tốt mặc dầu
ông già chúng nó lấy một bà vợ Yankee. Và tới khi ba qua đời ... im, con gái
cưng nghe ba nói! Ba sẽ để cả đồn điền Tara nầy cho con và thằng
Cade...Scarlett giận dữ ngắt lời:
− Dầu có đặt Cade ngồi trên mặt kho tàng, con cũng không thèm
. Ba đừng đề cao hắn với con! Con không thèm Tara cũng chẳng cần bất cứ một đồn
điền cổ lỗ nào . Đồn điền mà không có nghĩa gì khi...
Nàng định nói "khi mà không sống được với người mình
yêu", nhưng tức giận trước sự khinh mạn gạt ngang của con đối với món quà
mà ông quí trọng nhứt đời - chỉ thua có Ellen - Gerald gầm lên:
− Scarlett O'Hara, cô dám đứng đó nói với tôi rằng Tara mảnh
đất nầy - chẳng nghĩa lý gì hết hả ?Scarlett bướng bỉnh gật đầu . Nàng đã đau đớn
đến độ không còn biết sợ cơn thịnh nộ của cha.
Khoa rộng hai cánh tay lớn và chắc nịch, Gerald quát lớn:
− Đất đai là vật duy nhứt có ý nghĩa trên đời, bởi vì đó cũng
là vật duy nhứt tồn tại mãi, cô đừng quên điều đó! Đó là vật duy nhứt xứng đáng
để bỏ công làm lụng, xứng đáng để chiến đấu bảo vệ... và xứng đáng để chết vì
nó.
Scarlett kêu lên, giọng nhàm chán:
− Kìa, ba! Ba nói y hệt như một người Ái Nhĩ Lan.
− Có khi nào tôi xấu hổ là người Ái Nhĩ Lan đâu? Không, tôi
còn hãnh diện nữa mà . Và cô, cô đừng quên là cô cũng có một nửa dòng máu Ái
Nhĩ Lan trong người thì mảnh đất mà họ sống trên đó chính là một bà mẹ hiền .
Ngay lúc nầy, tôi mắc cỡ vì cô. Tôi dâng cho cô mảnh đất xinh đẹp nhứt trên đời
- ngoại trừ mảnh đất ở hạt Meath - rồi cô tỏ thái độ gì ? Cô gạt ngang
đi!Gerald sắp ầm ĩ nổi cơn thịnh nộ thì thoáng thất nét bi thương trên mặt của
con nên dừng lại:
− Nhưng thôi, con còn trẻ quá . Tình yêu đất rồi sẽ đến với
con. Là người Ái Nhĩ Lan, con không làm sao rời bỏ được đất đai. Con còn nhỏ và
chỉ biết nghĩ tới đám thanh niên theo tán tỉnh . Tới chừng nào lớn lên, con sẽ
biết tình yêu đất ra sao... Thôi, con cứ quyết định chọn Cade hoặc một trong
hai đứa sanh đôi Tarleton, hay một đứa nào đó của Evan Munroe rồi con sẽ thấy
ba tốt với con tới bực nào!
− Kìa, ba!
Tới lúc đó Gerald đã hoàn toàn chán nản cuộc đối thoại với
con và hết sức buồn khổ trước vấn đề nan giải . Đã vậy, ông còn đau buồn hơn vì
Scarlett cứ mang bộ mặt thảm não sau khi được hứa cho chọn bất cứ người con
trai ưu tú nào trong hạt, lại còn được hứa tặng cả Tara. Ông muốn những quà tặng
của ông phải được đón nhận với những tiếng vỗ tay và những cái hôn đáp lễ .
− Thôi, đừng nhăn nhó nữa, tiểu thơ! Cô lấy ai cũng được miễn
là người đó hoà hợp với cô, một người phong nhã miền Nam, và biết tự trọng. Đối
với đàn bà, tình yêu tới sau hôn nhân.
− Ồ, ba! Đó là quan niệm cổ hủ bên xứ của ba!
− Nhưng đó là một quan niệm đúng! Cái trò ở Mỹ nầy muốn xếp đặt
những đám cưới vì tình, như bọn đầy tớ, bọn Yankee! Những cuộc hôn nhân tốt đẹp
nhứt là do cha mẹ tác thành cho con gái chớ làm sao một đứa bé nông nổi giống
như con mà có thể biết được đứa nào tốt, đứa nào đểu cán? Cứ xem dòng họ
Quilkes thì biết . Cái gì đã làm cho người của họ từ đời nầy tới đời kia vẫn
khoẻ mạnh và kiêu dũng? Có gì lạ đâu, họ chỉ kết hợp lẫn nhau, cưới gả những
người trong họ hàng do chính gia đình của họ muốn như vậy.
− Ồ!
Scarlett rên rỉ, nỗi đau xót lại đến với nàng vì những lời của
Gerald lại gợi ra một sự thật phũ phàng . Nhìn cái đầu cúi gầm của con, Gerald
lắc lư trên đôi chân một cách khổ sở:
− Con khóc đó hả ?
Ông vừa hỏi vừa vụng về nâng cằm con lên, nét mặt hiện rõ
tình thương.
− Không.
Scarlett hét lớn và vùng khỏi tay cha.
− Con nói láo, nhưng ba lại rất hãnh diện. Ba rất bằng lòng
là con vẫn còn biết tự trọng. Ba muốn được thấy con như vầy trong cuộc dã yến
ngày mai. Ba không muốn cho cả hạt nầy đàm tiếu và cười vào mặt con về chuyện
đem trái tim dâng cho một người đàn ông chẳng ngó ngàng gì tới mình, ngoại trừ
tình bạn thông thường.
Scarlett buồn rầu nghĩ thầm: "Anh ấy có nghĩ tới mình.
Nghĩ rất nhiều. Mình biết chắc như vậy. Mình có thể nói ra nếu mình có thêm được
một ít thì giờ, mình có thể làm cho anh ấy phải nói ra... Ồ, phải chi những người
trong dòng họ Quilkes đừng có ý nghĩ là phải cưới hỏi giữa những người cùng họ
hàng!"Gerald quàng lấy tay con.
− Bây giờ mình vào nhà ăn tối, và nhớ đây là chuyện giữa hai
cha con mình thôi. Ba sẽ không làm buồn lòng mẹ con về vụ nầy... Con cũng vậy.
Hỉ mũi đi, con.Scarlett hỉ mũi vào chiếc khăn tay đã bị vò nát, và hai cha con
tay trong tay cùng ngược lên lối đi tối sẫm, con ngựa chậm chạp theo sau. Gần tới
nhà, Scarlett sắp sửa tiếp nối câu chuyện thì nhìn thấy mẹ đang đứng trong bóng
tối mờ dưới mái hiên. Bà đội nón, quàng khăn và đeo bao tay. Phía sau bà là
Mammy đang hầm hừ, tay xách chiếc túi da màu đen dùng để đựng thuốc men mà bà
Ellen O'Hara thường dùng để săn sóc và chữa bệnh cho bọn nô lệ. Môi của Mammy vốn
đã dày và xệ, gặp lúc bất bình, lại còn dày và xệ gấp đôi. Bây giờ, nó đang xệ
dài ra, và Scarlett hiểu ngay là Mammy đang bực tức về một chuyện nào đó.
− Ông O'Hara!
Ellen gọi khi nhìn thấy hai cha con đang đi tới... bà thuộc
thế hệ của những người quí trọng nghi thức mặc dầu đã sống với nhau mười bảy
năm và đã có sáu con...
− Ông O'Hara, nhà Slattery có người bịnh. Đứa con mới sanh của
Emmie đang hấp hối và cần được đặt tên Thánh. Tôi và Mammy phải qua bên đó để
xem có giúp ích được gì không.
Bà hơi cất giọng lên như để hỏi và sẵn sàng chờ quyết định
tán thành của chồng, dầu chỉ là hình thức nhưng cũng làm mát ruột
Gerald..Gerald nói oang oang:
− Trời ơi, sao bọn da trắng rác rến đó lại khiến cho bà rời
khỏi nhà ngay trong giờ ăn tối và giữa lúc tôi đang cần kể cho bà nghe về chuyện
chiến tranh đang được bàn tán xôn xao ở Atlanta! Xin cứ đi, bà O'Hara. Bà sẽ
không thể nào ngủ yên được khi biết là có chuyện đau khổ ở ngoài mà không có mặt
bà tại chỗ để giúp đỡ.
− Bà làm sao ngủ yên được dầu phải đi ban đêm để cứu t'ị cho bọn
hắc chủng và đám ra t'ắng.
Mammy vừa càu nhàu vừa đi xuống những bậc thềm tiến thẳng ra
chiếc xe đợi sẵn bên mã lộ. Ellen vuốt nhẹ vào má Scarlett:
− Chút nữa vào bàn ăn, con nhớ ngồi thay chỗ má.
Mặc dầu nước mắt cứ trực trào ra, Scarlett vẫn rung động với
sự vuốt ve lúc nào cũng chứa đầy huyền lực của mẹ nàng, vưới mùi hương sả nhẹ
nhàng toát ra từ chiếc áo lụa của bà. Ở Ellen O'Hara có một cái gì khiến cho
Scarlett ngất ngây, một sự mầu nhiệm cùng chung sống với nàng dưới một ngôi
nhà, và sự mầu nhiệm đó vừa làm cho nàng sợ hãi đồng thời cũng khiến nàng say
mê và cảm thấy ấm áp lạ thường.
Gerald đỡ vợ lên xe rồi dặn gã đánh xe cẩn thận. Phụ trách việc
nuôi ngựa cho Gerald suốt hai chục năm, Toby biểu lộ sự bất bình vì bị chỉ dạy
trong ngay lãnh vực chuyên nghiệp của anh ta. Toby với Mammy ngồi bên cạnh xe
rõ ràng là hai hình ảnh chính xác phơi bày thái độ bất mãn bằng cách xệ môi dài
ra của chủng tộc Phi châu.Gerald cáu kỉnh:
− Nếu mình không tận tâm giúp đỡ bọn Slattery để chúng nó mạt
rệp luôn, có lẽ chúng nó đã bán lại cho mình mấy mẫu đất lầy lội đó và cả hạt nầy
sẽ không còn bị phiền hà gì về chúng nữa.
Rồi, mặt bỗng tươi lên với ý nghĩ sắp bẫy một màn đùa cợt,
ông nói tiếp:
− Mình vào đi con, mình sẽ cho tên Pork biết là thay vì mua
Dilcey về, ba đã bán Pork luôn cho John Quilkes.
Ông ném dây cương cho một thằng bé da đen đứng gần đó và bước
lên thềm. Ông đã quên khuấy chuyện đau buồn của con gái và chỉ nghĩ tới chuyện
trêu chọc người hầu. Scarlett uể oải bước theo, chân nặng như chì. Nàng nghĩ, dầu
sao thì một sự kết hợp giữa nàng và Ashley cũng chẳng có gì kỳ dị hơn sự kết hợp
giữa cha nàng và Ellen Robillard O'Hara. Rồi cũng như mọi khi, nàng tự hỏi chẳng
biết tại sao, một con người ầm ĩ và thiếu tế nhị như cha nàng, lại có thể cưới
được một người vợ như mẹ nàng, bởi vì cả hai quá cách biệt nhau về tuổi tác,
trình độ giáo dục và tư tưởng.
Chọn Tập
Ellen O'Hara đã ba mươi hai tuổi, ở vào thời đó, bà đưỢc coi
như một thiếu phụ trung niên, đã từng sanh 6 đứa con và chôn hết 3. Bà cao lớn,
cao hơn chồng một cái đầu nhưng với dáng đi mềm mại làm nhún nhảy nhịp nhàng tà
áo phồng to, bà đã làm cho mọi người quên để ý tới chiều cao đó . Chiếc áo chẽn
lụa đen làm nổi bật cái cổ tròn trịa, thon thon và trắng ngần như sữa . Cái cổ
đó dường như lúc nào cũng ngửa ra sau bởi sức nặng của mái tóc xum xuê bọc
trong bao lưới . Mẹ bà là người Pháp mà cuộc Cách mạng 1791 cha mẹ đã phải trốn
chạy khỏi đảo Haiti. Ở mẹ, bà thừa hưởng đôi mắt huyền hơi xếch, những hàng mi
dài rậm và mái tóc đen nhánh . Với cha, từng là một chiến sĩ của Nã phá luân,
bà giống ở sóng mũi dài và thẳng, ở quai hàm vuông nhờ đôi má bầu bĩnh làm dịu
nét . Nhưng chính nhờ cuộc sống mà Ellen có được cái sắc thái kiêu hãnh nhưng
không khinh mạn, dáng vẻ yêu kiều và nét sầu mơ làm mất hẳn cả sự tươi vui.
Bà sẽ là một giai nhân tuyệt sắc nếu có được một chút ánh
sáng trong đôi mắt, một chút nồng nhiệt ở nụ cười, hoặc một chút hồn nhiên
trong giọng nói, cái giọng nói êm như ru thường rót vào tai chồng con và đám
gia nhân. Giọng bà êm dịu nhưng hơi líu ríu của người miền duyên hải xứ
Georgia, nguyên âm dính liền nhau, phụ âm tách rời ra với chút ít âm điệu Pháp
. Đó là thứ tiếng nói chẳng bao giờ cất cao khi ra lịnh hoặc quở trách con,
nhưng là tiếng nói mà mọi người ở Tara phải tuân hành tức khắc, trong khi những
lời gầm thét ỏm tỏi của chồng bà bị kể như vô hiệu .
Từ lúc hiểu biết tới nay, Scarlett vẫn thấy mẹ nàng không hề
biến đổi, giọng nói vẫn êm và dịu dầu là ngợi khen hay rầy bảo, cử chỉ vẫn
khoan thai và hữu hiệu mặc dầu luôn luôn bận rộn với bao nhiêu công việc khẩn cấp
và náo nhiệt hằng ngày trong ngôi nhà của Gerald, đầu óc bà luôn luôn bình tĩnh
và lưng vẫn thẳng, ngay cả trong ngày chết của ba đứa con trai. Scarlett cũng
chưa bao giờ nhìn thấy mẹ dựa lưng vào ghế . Nàng cũng chẳng hề thấy mẹ ngồi ở
nơi nào mà không có kim chỉ trên tay, ngoại trừ lúc dùng bữa, lúc cứu chữa người
bệnh hoặc tính toán sổ sách của đồn điền . Khi tiếp khách, trên tay bà luôn
luôn có một món đồ thêu, nhưng vào những lúc khác, bàn tay bà lại bận rộn với
những chiếc sơ mi nhầu nát của Gerald, với những chiếc áo của ba cô con gái hoặc
y phục của bọn hắc nô. Scarlett không thể tưởng tượng ra hình ảnh của mẹ mà
không có cái bao đầu ngón tay bằng vàng . Nhớ tới mẹ là nàng cũng thấy ngay
hình ảnh của mẹ đi qua trong tiếng sột sọat của tà áo lụa, theo sau là một con
bé da đen có bổn phận duy nhứt là rút chỉ lượt và mang hộp đồ may bằng gỗ tử
đàn, đi từ phòng nầy sang phòng khác, trong khi Ellen rảo quanh khắp nhà để kiểm
soát việc nấu nướng, quét dọn và việc may y phục cho người làm ở đồn điền .
Chưa bao giờ, ngày cũng như đêm, Scarlett bắt gặp mẹ rời khỏi
dáng vẻ trang nghiêm bình lặng cũng như chưa bao giờ nhận thấy cách phục sức của
bà thiếu thích nghi. Khi Ellen sửa soạn dự một cuộc khiêu vũ hay tiếp khách hoặc
đi Jonesboro dự lễ, bà phải cần tới hai tiếng đồng hồ, hai người tớ gái và cả
Mammy phụ lực vào để lo việc ăn mặc sao cho thích hợp . Tuy thế, trong những
trường hợp khẩn cấp, bà lại thay đổi y phục một cách mau lẹ khác thường .
Vì cửa phòng mở ra hành lang đối diện của phòng mẹ nên ngay từ
thuở nhỏ, Scarlett đã quen với tiếng động rón rén của những bàn chân da đen bước
thoăn thoắt trên sàn gỗ cứng từ lúc tờ mờ sáng, những tiếng gõ cửa gấp rút ở
phòng của mẹ, và tiếng nói nghẹn ngào sợ sệt của bọn hắc nô thì thào về chuyện
đau ốm, sanh đẻ, chết chóc trong dãy phòng quét bằng vôi trắng, nơi chúng ở .
Lúc nhỏ, nàng thường len lén ra cửa nhìn qua khe hở nhỏ, và thấy Ellen từ trong
gian phòng tối om bước ra trong khi cũng ở nơi đó, tiếng ngáy của Gerald vẫn đều
đều và vô tư lự . Mẹ nàng đi vào vùng ánh sáng chập chờn của ngọn nến, tay kẹp
hộp thuốc men, tóc vẫn thẳng thớm, áo chẽn gài cẩn thận .
Lúc nào cũng vậy, Scarlett luôn luôn cảm thấy ấm áp khi nghe
mẹ thì thầm với giọng chắc, gọn nhưng đầy âu yếm trong khi bà nhón chân đi:
− Suỵt, đừng có ầm ĩ thế . Bọn bây làm ông O'Hara mất giấc ngủ
bây giờ . Bịnh chúng nó chưa đến nổi chết đâu.
Quả vậy, nàng cảm thấy ấm lòng trở lên giường, biết rằng
Ellen đang ở bên ngoài trong đêm tối và mọi việc đều đâu vào đó cả .Lại có những
buổi sáng, sau khi trọn đêm săn sóc những người sanh nở hoặc cứu chữa những kẻ
sắp chết trong khi chẳng một ai tìm được hai bác sĩ Phontaine - một già, một trẻ
- đến để tiếp tay, Ellen vẫn chủ toạ bữa điểm tâm như thường lệ, đôi mắt huyền
nổi quầng thâm vì mệt mỏi . Dưới cái bề ngoài hiền thục uy nghiêm đó là cả một
tinh thần cương nghị khiến cho tất cả đều kinh sợ kể cả chồng bà và mấy cô con
gái, mặc dầu thà chết còn hơn là phải nhìn nhận điều đó - đối với Gerald.
Đôi khi Scarlett nhón chân hôn mẹ, nàng để ý đến vành môi
trên quá ngắn và quá mềm mại của bà, một cái miệng dễ bị đời gây đau khổ . Nàng
tự hỏi chẳng biết cái miệng đó có khi nào cười nhảm nhí lúc còn con gái, hoặc
thức trọn những đêm dài để tâm tình với bạn gái hay không. Không, đó là một điều
không thể có . Mẹ nàng vẫn luôn luôn là một, là cột trụ của uy lực, là nguồn gốc
của khôn ngoan, con người duy nhứt bao giờ cũng có sẵn mọi giải đáp .
Nhưng Scarlett đã lầm, vì rằng nhiều năm về trước, Ellen
Robillard của Savannah cũng cười ngớ ngẩn như bất cứ một cô gái nào ở tuổi 15
trong thành phố duyên hải nên thơ đó, cũng thức trắng đêm với bạn bè, trao đổi
tâm tình, tiết lộ tất cả các bí ẩn của đời mình - chỉ trừ một việc . Đó là năm
mà Gerald O'Hara, lớn hơn Ellen 25 tuổi bước vào cuộc đời bà - và đó cũng là
năm mà người anh họ trẻ trung, mắt đen huyền, Philippe Robillard, bước ra khỏi
đời bà . Khi Philippe với đôi mắt long lên sòng sọc, và với điệu bộ hung hãn,
vĩnh viễn rời bỏ Savannah, người con trai đó cũng mang theo luôn ngọn lửa lòng
của Ellen, để cho anh chàng Ái nhĩ lan chân vòng kiềng kia kết hôn với một cái
vỏ sò trống rỗng nhưng xinh xắn .
Nhưng bao nhiêu đó cũng đủ đối với Gerald, một dịp may bất ngờ
để cưới được người con gái ấy . Và nếu có một cái gì đã ra khỏi cuộc đời nàng,
thì cái gì đó có mất mát gì đối với ông đâu. Là người sáng suốt, ông hiểu rằng
chỉ có phép lạ mới khiến cho một gã Ái nhĩ lan vô gia đình, không sự sản lại có
thể chiếm được ái nữ của một trong những gia đình giàu có và kiêu hãnh nhứt ở
miền duyên hải . Bởi vì chính Gerald chỉ là một kẻ tự lập .
Từ Ái nhĩ lan, Gerald bước chân lên đất Mỹ vào năm hai mươi mốt
tuổi . Cũng như nhiều người Ái nhĩ lan trước đó, hơn hoặc kém ông, Gerald đã phải
ra đi hấp tấp chỉ với một ít quần áo trên lưng, với hai đồng si linh và với cái
đầu được treo giá một khoản tiền khá lớn, lớn hơn tội của ông nhiều . Ở xứ ông,
không một tên Orange nào đáng giá tới một trăm đồng bảng Anh đối với chánh phủ
Anh quốc, nhưng người Anh xúc động vì một viên quản lý của một điền chủ Anh đã
bị ông đánh chết thì ông chỉ có việc là phải bỏ trốn và trốn ngay. Quả tình ông
có gọi tên quản lý đó là "đồ tạp chủng Orange", nhưng có thế mà hắn lại
dám chửi vào mặt ông bằng cách huýt sáo điệu nhạc "The Boyne Quater".
Trận Boyne đã xảy ra cách hơn một trăm năm, nhưng đối với người
trong họ O'Hara và các láng giềng thì như chỉ mới hôm qua khi mà đất đai và gia
sản của họ tan biến trong vầng mây bụi che phủ cuộc đào tẩu của hoàng thân
Stuart, để cho Quilliam oph Orange và đoàn quân khả ố của ông đeo huy hiệu màu
cam tàn sát những kẻ đứng về phe hoàng tộc Stuart.
Vì lẽ đó và nhiều lý do khác nữa, gia đình O'Hara tưởng rằng
chuyện rắc rối chẳng có gì quan trọng lắm, ngoại trừ trường hợp nó bị kết liền
với những hậu quả nghiêm trọng khác . Từ nhiều năm, họ O'Hara thường bị nhân
viên cảnh sát Anh nghi ngờ về những hoạt động lén lút chống chánh phủ, và
Gerald không phải là người đầu tiên trong gia đình phải chạy ba chân bốn cẳng để
rời khỏi Ái nhĩ lan giữa lúc hừng sáng . Hai người anh lớn, James và Andrequ mà
ông chỉ nhớ mang máng là hai thanh niên kín đáo thường đi đi về về ban đêm vào
những giờ giấc khác thường, đôi khi biến mất luôn cả mấy tuần khiến bà mẹ ngồi
đứng không yên. Họ đã trốn sang Mỹ nhiều năm trước, ngay sau khi một số súng
chôn giấu dưới những chuồng heo nhà O'Hara bị khám phá . Hiện nay, họ đã là những
thương gia phát đạt "mặc dầu chỉ có Trời mới biết vì sao" như lời bà
mẹ mỗi khi nhắc tới hai đứa lớn nhứt của đám con trai bà . Chính Gerald đã được
gởi gấm cho hai người anh đó .
Ông rời nhà với chiếc hôn vội vàng của mẹ, với những lời bà cầu
nguyện văng vẳng bên tai và lời khuyên của người cha: "Mầy phải nhớ là
không bao giờ lấy cắp một món gì của ai". Năm người anh cao lớn tiễn biệt
ông với những nụ cười thán phục pha lẫn chút ý nghĩa khích lệ, bởi vì Gerald
hãy còn nhỏ mà là kẻ thấp bé trong một gia đình cao lớn khoẻ mạnh .Năm người
anh cũng như cha ông, đều cao từ một thước tám trở lên, nhưng về phần Gerald
năm hai mươi mốt tuổi, ông tự hiểu là chiều cao một thước sáu mấy phân là tất cả
những gì mà Thượng đế đã ban cho. Chỉ có hạng người như Gerald mới không phí
thì giờ tiếc rẻ cái tầm vóc thấp bé của mình và không bao giờ coi đó là một chướng
ngại trên đường tiến thủ . Trái lại, chính cái thân hình thu gọn đó đã tạo cho
ông thành người như ngày nay, bởi vì ông đã sớm hiểu rằng những người thân hình
nhỏ bé cần phải đầy đủ quả cảm mới sống còn được giữa những kẻ to lớn . Và
Gerald đúng là người quả cảm .
Các anh ông đều ảm đạm và trầm lặng . Ở họ, sự lưu truyền của
những thời vàng son trong gia tộc đã vĩnh viễn qua rồi, đã bị dồn nén thành một
mối hận thù câm nín và nếu có phải phát tiết thì chỉ với hình thức chua xót . Nếu
Gerald cũng cao lớn, khoẻ mạnh như các anh, có lẽ tánh tình ông cũng như họ và
có lẽ ông đã lặng lẽ biến thành một thành phần chống đối chánh phủ . Nhưng
Gerald là đứa "rộng họng cứng đầu" như mẹ ông thường mắng yêu như thế,
dễ nổi xung và hay đấm đá . Ông giống như một con gà "bantam" nhỏ bé
nhưng hung hăng đi nghênh ngang giữa một đàn gà khổng lồ loại
"cochin", nhưng các anh ông vẫn nuông chiều ông và chỉ khi nào xét thấy
quá cần để răn dạy thằng em nhỏ bé, họ mới phải sử dụng tới những nắm tay to lớn
.
Về phần học vấn, Gerald mang theo lên đất Mỹ một kiến thức
kém cỏi, nhưng ông không cần nhận thức điều đó, và nếu có ai nói rõ với ông như
thế, ông vẫn dửng dưng. Bà mẹ đã dạy cho ông biết đọc và biết viết . Ông cũng
khá tinh thông về toán pháp . Và trình độ chữ nghĩa ông chỉ tới chừng đó thôi.
Phần ngôn ngữ La tinh mà ông đã được biết qua chỉ đủ cho những lời xướng hoạ
trong lễ Misa và sự hiểu biết về sử học của ông chỉ gồm toàn những chuyện đau
thương, đen tối đã dồn dập xảy tới cho Ái nhĩ lan. Ông chẳng biết tí gì về thi
ca ngoại trừ mấy bài thơ của Moore và cũng không hiểu gì về âm nhạc trừ một vài
bản dân ca. Trong khi vẫn ngưỡng mộ những kẻ có học thức hơn mình, ông chẳng
bao giờ nhìn nhận trình độ học lực của mình là một thiếu sót đáng kể . Vả lại,
những điều học hỏi đó có giúp ích được gì tại một xứ khai phá, nơi mà những người
Ái nhĩ lan dốt đặc cũng đã lập nên sự sản to lớn ? Ở một nơi chỉ đòi hỏi người
đàn ông phải có sức khoẻ và không ngại lao tác ?
Cả James và Andrequ, hai người anh đã cho ông tá túc trong một
cửa hàng ở Savannah, cũng không hề hối tiếc về sức học quá thiếu sót của đứa
em. Bàn tay khéo léo cùng những phép tính chính xác và khả năng linh mẫn của
ông đã khiến họ trọng nể . Thật vậy, ở đây, nếu cậu em Gerald mà có được tài
nghệ văn chương hoặc âm nhạc thì chắc chắn hai người anh của cậu ta sẽ không khỏi
bất bình, khinh ghét . Mỹ quốc vào những năm đầu thế kỷ, dường như ưu đãi người
Ái nhĩ lan. James và Andrequ bắt đầu công cuộc làm ăn bằng cách chuyên chở hàng
hoá trong những cổ xe phủ kín từ đi từ Savannah tới tận các thành phố nội địa
Georgia và đã phát đạt để dựng lên một thương cuộc riêng có Gerald cùng chung
hưởng .
Gerald yêu mến miền Nam, và chưa đầy bao lâu, ông tự cho mình
là một người Nam chánh cống . Kể ra thì hãy còn quá nhiều chuyện về miền Nam -
và những người Nam - mà ông không làm sao hiểu nổi, nhưng với bản chất mộc mạc,
ông chấp nhận tất cả những tư tưởng và thói quen nào gần gũi với ông - chẳng hạn
như chơi phé và đua ngựa, các cuộc bàn cãi chánh trị sôi nổi và luật lệ song đấu,
quyền lợi các quốc gia và lên án bọn Yankee, binh vực chế độ nô lệ và quí trọng
mảnh đất được mệnh danh là Vua Bông Vải, khinh rẻ bọn da trắng cặn bã và tỏ ra
lịch sự thái quá đối với nữ giới . Ông cũng tập cả thói nhai thuốc lá . Riêng về
tửu lượng thì ông khỏi phải tốn công để học hỏi vì là một kẻ có máu rượu ngay
tư thuở mới ra đời .
Nhưng Gerald vẫn cứ là Gerald. Lề lối sống và tư tưởng của
ông thay đổi nhưng ông vẫn cứ giữ nguyên cốt cách của ông, dầu rằng ông có đủ sức
để thay đổi nó . Ông thán phục cái dáng điệu sang trọng buông thả của các đại
phú nông và chủ đồn điền giàu có từ những lãnh địa đầy rêu của họ đến viếng
Savannah, chễm chệ trên lưng những con ngựa nòi, theo sau là các cổ song mã chở
những bà vợ xinh đẹp và phía sau nữa là một số xe đầy nhóc bọn nô lệ . Nhưng
Gerald thì chẳng bao giờ có được cái điệu bộ sang trọng . Giọng nói uể oải và
điệu bộ hững hờ của họ đối với ông nghe thật êm tai nhưng cái giọng của người
Ái nhĩ lan vẫn bám chặt ở lưỡi ông. Ông thích cái thái độ ung dung của họ khi
thương lượng các vấn đề quan trọng . Nếu có phải vì một cây bài mà mất đi một sản
nghiệp, một đồn điền hay một tên nô lệ, họ vẫn viết giấy nhường lại những thứ
đó cho người thắng cuộc với một dáng vẻ bất cần như khi họ ném vãi một số xu đồng
cho đám trẻ con da đen. Nhưng Gerald là kẻ từng sống trong cảnh nghèo khó nên
ông không bao giờ học được cái tư thái thua tiền một cách ung dung thanh lịch
đó . Người ở miền duyên hải Georgia nầy họp thành một sắc dân nhỏ khả ái với giọng
nói êm dịu, với những cơn giận bất ngờ và tính khí vô chừng khiến Gerald yêu
thích họ . Tuy thế, bên trong con người trẻ tuổi vừa mới rời khỏi một xứ sở mà
các đầm lầy đầy sương mù không dung chứa bịnh sốt rét, luôn luôn có gió ẩm và lạnh,
bên trong con người đó còn có một khí lực sinh động và hoạt nhiệt khiến cho anh
ta khác hẳn với hạng người trang nhã nhưng lặng lờ quen sống ở phong thổ bán
nhiệt đới với những ao đầm đầy muỗi sốt rét .
Ở họ, ông chỉ học lấy những gì mà ông cho là cần thiết, phần
còn lại, ông bất chấp . Ông nhận thấy đánh phé là trò hữu dụng nhứt trong tất cả
các tập quán miền Nam, đánh phé và uống rượu thật cừ; và chính cái năng khiếu về
phé và rượu mạnh đó đã đem lại cho Gerald hai trong ba vật sở hữu quí nhứt đời
ông, đó là gã hầu cận và đồn điền bông vải . Vật quí nhứt còn lại chính là vợ của
ông mà mỗi khi nghĩ tới, ông chỉ biết cho rằng đó là hạnh phúc trời ban.
Gã hầu cận, tên Pork, là một hắc nô da đen nhánh, đứng đắn và
thuần thục về nghệ thuật thời trang. Anh ta là kết quả của một sòng bài phé suốt
đêm giữa Gerald và một chủ đồn điền từ đảo St. Simon tới . Lối tố phé của ông
ta cũng gan lì chẳng kém Gerald, nhưng về tửu lượng đối với món Rhum Nequ
Orleans thì ông ta không phải là đối thủ . Về sau, mặc dầu người chủ cũ của
Pork có đề nghị mua lại anh ta với giá mắc gấp đôi, Gerald vẫn cương quyết từ
chối, bởi vì có được một gã nô lệ hầu cận đầu tiên mà đó lại là "tên hầu cận
gioinhứt miền duyên hải" tức là đánh dấu được bước đầu tiên trong giấc mộng
lớn của ông: có được thật nhiều nô lệ và thành một địa chủ thanh lịch .
Từ lâu ông đã có chủ ý là sẽ không giống như James và Andrequ
cứ suốt ngày mặc cả với khách hàng rồi thức khuya tính toán những hàng cột dài
chi chít số dưới ngọn nến mờ . Trái với hai anh, ông đã nhận thấy một cách sắc
bén rằng xã hội chẳng bao giờ có ấn tượng đẹp đối với những "người là
thương mãi". Gerald muốn trở thành một chủ đồn điền . Với tất cả lòng hăng
say của một người Ái nhĩ lan đã từng là tá điền, ông muốn chính mắt nhìn ngắm
những mẫu đất xanh tươi của riêng mình . Trong mục đích duy nhứt đó, ông kỳ vọng
có một ngôi nhà, một đồn điền, thật nhiều ngựa và nô lệ cho riêng mình . Và ở
đây, ở một xứ vừa được khẩn hoang, không còn phải lo sợ đến hai mối tai hoạ vẫn
luôn xảy ra ở quê hương ông - thuế má ăn mòn huê lợi và sự đe doạ thường xuyên
của một án lịnh tịch biên bất ngờ - ông nhứt quyết phải thực hiện mộng ước .
Nhưng, cùng với thời gian trôi qua, ông nhận thấy rằng có một ước vọng và biến
ước vọng đó thành sự thật là hai chuyện khác nhau.Rồi bàn tay của định mệnh
liên kết với bàn tay của thần đổ bác đã giúp cho ông có một đồn điền mà về sau
ông gọi là Tata, đông thời đưa ông ra khỏi vùng duyên hải lên tận vùng cao
nguyên Bắc Georgia.
chuyện xảy ra vào một đêm mùa xuân oi bức trong một quán rượu
ở Savannah khi Gerald thoáng nghe câu chuyện của người bên cạnh . Khách lạ là
người sanh quán ở Savannah vừa từ nội địa trở về sau mười hai năm xa cách . Ông
ta là một trong những người trúng được đất đai do nhà nước xổ số để phân chia
vùng đất mênh mông bát ngát của vùng Trung bộ Georgia do dân da đỏ nhượng lại một
năm trước khi Gerald đặt chân lên Mỹ quốc . Ông ta đã lên trên đó và tạo dựng một
đồn điền, nhưng hiện thời, ngôi nhà lớn đã bị thiêu huỷ, ông ta quá nản cái
"chỗ ghê tởm" nên có ý định phủi tay.
Luôn luôn bị ám ảnh bởi cái ý nghĩ làm chủ một đồn điền,
Gerald nhờ người giới thiệu với khách . Và càng lúc ông càng quan tâm hơn khi
nghe người lạ kể chuyện là ở miền Bắc đó đang tràn ngập những người đi lập nghiệp
từ Carolinas và Virginia tới . Sống khá lâu ở Savannah nên Gerald quan niệm rằng,
ngoài vùng duyên hải ra, tất cả các nơi khác đều là rừng rú với một tên da đỏ ẩn
núp sau mỗi bụi rậm . Trong khi tải hàng cho thương cuộc "Anh em
O'Hara", ông đã từng đi qua Augusta, phía bên con sông Savannah khoảng một
trăm dặm, và ông cũng đã từng đi sâu tới các thành phố xưa cũ nằm về phía Tây của
thị trấn nầy . Ông nhận thấy khu vực đó cũng được xây dựng an bày như vùng duyên
hải, nhưng theo lời người lạ thì đồn điền của ông ta còn ở sâu vào một nội địa
cách Savannah tới hai trăm rưỡi dặm về phía Tây và Bắc . Và chỉ cách con sông
Chattahoochee chừng vài dặm . Gerald cũng biết rằng vượt quá con sông đó về
phía Bắc là nơi chiếm cứ của giống dân da đỏ Cherokee, do đó ông không khỏi ngạc
nhiên khi thấy người lạ kể qua những vụ đụng độ với dân da đỏ bằng một vẻ khinh
thường, và cũng ở đấy, nhiều thị trấn bắt đầu mọc lên và đồn điền phát đạt vô
cùng .
Một giờ sau, khi câu chuyện bắt đầu lạt lẽo, với một thủ đoạn
làm ra vẻ ngây thơ chất phác phản chiếu từ đôi mắt trong xanh, Gerald đề nghị
chơi bài . Khi đêm càng khuya và rượu uống đã nhiều, bao nhiêu người khác đều dừng
tay, chỉ còn Gerald và người khách lạ . Khách xô hết đống tiền ra và tố luôn với
tờ bằng khoán đất . Gerald cũng xô tuốt cộc tiền của mình và đặt trên đó trọn
bóp bạc . Đặt trường hợp số bạc trong bóp đó là tiền của Công ty "Anh em
O'Hara", Gerald cũng không hối hận bao nhiêu vì ông sẽ về thú tội trước lễ
Misa sáng hôm sau. Ông biết rõ điều ông muốn, và khi Gerald muốn có một cái gì,
ông cố chiếm lấy bằng con đường trực tiếp . Vả lại, ông còn có cả một đức tin
vào số mạng và "xây thiều dĩ " của mình nên không một chút bận tâm về
việc làm cách nào để hoàn trả số tiền lại cho các anh nếu bài của người lạ lớn
hơn.
Người lạ chỉ có đôi ách vừa thở ra vừa gọi mượn giấy bút và
nói:
− Thắng ván nầy ông cũng chẳng được lợi bao nhiêu. Phần tôi
thì khỏi phải lo đến việc thuế khoá . Ngôi nhà lớn bị cháy năm rồi . Đồn điền,
cây cối mọc hoang và đầy những thông con. Nhưng dù sao nó cũng đã thuộc về
ông.
Cũng ngay đêm đó, Gerald đã nghiêm trang bảo Pork khi anh ta
đỡ ông lên giường:
− Đừng lầm lẫn chuyện bài bạc với rượu Quhisky trừ khi mình
là tay cừ về rượu lậu Ái nhĩ lan.
Và gã nô lệ hầu cận bày tỏ sự thán phục của anh ta đối với chủ
mới bằng một thứ thổ âm pha trộn giữa địa phương của anh ta và địa phương của
chủ mà chỉ có hai người đối thoại là hiểu nổi với nhau mà thôi, kỳ dư chẳng ai
có thể biết là gì cả .
Con sông Phlint đục bùn lặng lờ chảy giữa hai bức tường thông
và sồi bao phủ bởi những cây leo, ôm lấy giãi đất của Gerald như một cánh tay mở
rộng ôm choàng qua hai phía . Đứng trên nền đất, trước là nền của ngôi nhà
chánh, Gerald say sưa ngắm bức tường chắn cao ngất và xanh um ấy, coi như đó là
bờ rào do chính ông dựng lên để phân định ranh giới mảnh đất của mình . Từ trên
nền đá đen xạm vì hỏa hoạn nhìn xuống lối đi có trồng cây hai bên chạy ra đường
cái, Gerald chửi thề ỏm tỏi vì vui sướng quá đến nỗi quên tạ ơn Thượng đế . Hai
dãy cây song song nhau kia là thuộc quyền sở hữu của ông, cả cái sân hoang phế
kia cũng là của ông, nơi đó cỏ đã mọc cao tới thân người bên dưới những khóm
hoa mộc lan đầy bông sao trắng . Những cánh đồng không ai canh tác, lố nhố những
thông non và bụi rậm, trải dài bình diện đất đỏ xa lần ra bốn phía cũng là của
Gerald - tất cả đều thuộc quyền sở hữu của ông chỉ vì ông có dòng máu Ái nhĩ
lan mạnh rượu và có cái can đảm dám liều sanh tử trong một ván bài .
Gerald nhắm mắt lại, và giữa sự yên tĩnh của vùng đất đỏ bỏ
hoang, ông có cảm tưởng như vừa trở lại quê nhà . Ở đây, ngay dưới chân ông, một
ngôi nhà tường vôi trắng sẽ mọc lện Bên kia đường sẽ có nhiều bức rào để chứa
lũ gia súc béo phị và những con ngựa giống, và giãi đất đỏ thoai thoải đổ xuống
triền đồi ra tận thung lũng phì nhiêu kia sẽ trắng xoá như lông tơ vịt biển dưới
ánh mặt mặt trời
- đó là bông vải, hàng mẫu và hàng mẫu bông vải ! Vận số của
dòng họ O'Hara lại sắp được tỏa rạng .
Với một ít bạc mượn được của hai người anh không mấy nhiệt
thành và một khoản tiền khá lớn cầm thế đất, Gerald mua được một số nô lệ
chuyên việc đồng áng và lên đường tới Tara sống độc thân trong ngôi nhà nhỏ chỉ
có bốn phòng của viên quản gia trong khi chờ ngôi nhà lớn cất lên.
Ông cho khai quang các cánh đồng để trồng bông vải, mượn thêm
tiền của James và Andrequ để mua nô lệ . Họ O'Hara đoàn kết như một bộ lạc,
luôn luôn bám sát vào nhau trong hoàn cảnh sung túc cũng như những lúc gặp tai
ương, không phải vì quá thương mến nhau mà là vì trong suốt nhiều năm đen tối,
họ đã hiểu được nếu muốn sống còn thì cả gia đình phải liên kết chặt chẽ với
nhau để đối phó với bên ngoài . Họ cho Gerald mượn tiền, rồi những năm sau đó,
tiền lại được trả vào tay họ với một số lời . Đồn điền từ từ bành trướng trong
khi Gerald mua thêm một số đất bên cạnh, và ngôi nhà trắng đã từ trong mộng hiện
ra.
Ngôi nhà do bọn nô lệ xây lên trông vụng về như bò trườn ra.
Nó nằm chễm chệ trên gò đất nhìn xuống đồng cỏ tươi tốt trải dài nghiêng
nghiêng xuống tận dòng sông, và Gerald đã hết sức hài lòng vì mặc dầu mới được
xây cất, trông nó già giặn như từng trải mưa nắng nhiều năm. Những cây sồi cổ
thụ đã từng nhìn thấy dân da đỏ đi qua dưới cành lá của mình ôm chặt lấy ngôi
nhà, nhánh nhóc chìa ra che phủ mái nhà trong một vòm bóng mát . Sân cỏ được săn
sóc kỹ càng bây giờ đã xanh mướt với loài xa trục thảo và loại cỏ Bermuda và
Gerald luôn luôn nhắc nhở người làm phải trông chừng cẩn thận . Từ con đường lớn
hai bên có trồng cây bách hương đến dãy lều trắng dùng làm nơi cư trú cho nô lệ,
Tara toát ra một không khí chắc chắn, vững vàng và trường cửu . Cứ mỗi lần phi
ngựa qua khúc quanh trên đường cái và nhìn thấy mái nhà của chính mình nhô lên
khỏi cành lá xanh tươi là mỗi lần ông cảm thấy hãnh diện dường như lúc nào cũng
chỉ mới nhìn thấy lần đầu .
Chính ông - chính cái anh chàng Gerald bé nhỏ, cứng đầu và ồn
ào - đã tạo dựng được nó .Gerald luôn hoà nhã với tất cả các láng giềng trong hạt,
chỉ trừ đám Mac intosh có đất nằm sát mé trái đồn điền của ông và bọn Slattery
chỉ có vỏn vẹn ba mẫu đất, cằn cỗi ở về phía phải, chạy dài theo những ao đầm nằm
giữa con sông và đồn điền của John Quilkes.
Đám Mac intosh là người Tô cách lan - Ái nhĩ lan lại thuộc
phe Orange nên cho dầu họ có được tất cả những đức tánh cao quí của bao nhiêu vị
Thánh có tên trong lịch Thiên Chúa giáo thì dòng họ tổ tiên của họ vẫn cứ đáng
bị nguyền rủa muôn đời trước mắt Gerald. Thật sự, họ đã tới sống ở Georgia được
bảy chục năm rồi, và trước đó, cũng đã trải qua suốt một thế hệ ở Carolinas,
nhưng những người đầu tiên trong tông tộc của họ đã từ Ulster đặt chân lên đất
Mỹ và chỉ nội một việc đó cũng đủ cho Gerald thù hận lắm rồi .
Bọn họ toàn những kẻ thâm trầm và ương ngạnh, chỉ quanh quẩn
trong thế giới riêng của họ và gả cưới lẫn nhau giữa những người thân tộc ở
Carolinas. Không phải chỉ một mình Gerald là giận ghét họ, bởi vì dân trong hạt
ai ai cũng niềm nở và hợp quần với nhau thì khó mà tha thứ được đối với những kẻ
thiếu những đức tánh đó . Những lời đồn đãi về việc họ thiên về phe chủ trương
giải phóng nô lệ lại càng làm cho người trong hạt lánh xa họ Mac intosh. Mặc dầu
lão Angus chưa hề giải phóng cho một tên nô lệ nào và mặc dầu ông ta đã làm một
điều hết sức trái ngược với chủ nghĩa phế nô là bán một vài đứa nô lệ cho những
người mãi nô đưa lên những cánh đồng mía ở Louisiana, những lời đồn đãi kia vẫn
cứ tồn tại .Gerald nói với John Quilkes:
− Không nghi ngờ gì hết, y là một tên phế nô. Nhưng ở một đứa
theo phe Orange, khi một nguyên tắc chạm vào cái thế kín như bưng của Tô cách
lan thì nguyên tắc đó phải lâm nguy.
Đối với đám Slattery thì lại là một vấn đề khác . Là những
người da trắng nghèo đói, họ không được dành một chút nể trọng bất đắc dĩ nào
như đối với dòng họ Mac intosh qua việc sống triệt để độc lập với họ hàng . Lão
già Slattery cứ bám dính lấy mấy mẫu đất nghèo nàn với tất cả sự lười biếng và
sầu thảm, mặc dầu Gerald và John Quilkes đã nhiều lần đề nghị mua lại . Vợ lão
là một người đàn bà tóc tai rối nùi, trông bịnh hoạn và thất sắc, lại còn phải
chăn nuôi cả một lũ con nhút nhát - cứ mỗi năm lại mỗi tăng nhân số . Tom
Slattery không có tới một tên nô lệ và hai đứa con trai lớn của y lại không chịu
liên tục cố gắng trồng bông vải, trong khi bà vợ và đám trẻ con quanh quẩn trên
một lõm đất được coi như là vườn rau cải của gia đình . Do đó, bông vải chẳng
bao giờ được mùa, và vườn rau thì chẳng mấy khi cung cấp đủ cho cả nhà, bởi vì
bà Slattery cứ luôn luôn mất thì giờ cho việc sanh đẻ .
Cảnh Tom Slattery thất thểu đi từ nhà nầy sang nhà khác để ăn
mày hạt giống bông vải hay một lát thịt để sống qua ngày là một chuyện quá quen
mắt . Còn một chút hơi tàn nào là Slattery thù hận chút ấy đối với các láng giềng
qua sự khinh khi ra mặt của họ, nhứt là với bọn hắc nô tự phụ vì được làm tôi
đòi cho đám nhà giàu . Bọn tôi tớ da đen trong hạt luôn luôn tự cho mình cao cả
hơn những kẻ da trắng rác rến, và thái độ khinh ngạo không che giấu của chúng
làm cho y uất ức, nhưng đồng thời cũng khiến cho y thèm muốn địa vị của chúng .
Trong khi y phải sống trong cảnh nghèo khổ thì bọn da đen đó lại được ăn uống đầy
đủ, quần áo tươm tất, lại còn được săn sóc tử tế lúc bịnh hoạn hay khi già nua.
Bọn chúng hãnh diện về danh tiếng của chủ và phần lớn đều tự kiêu vì được dịp hầu
hạ người cao quí .
Tom Slattery có thể bán nông trại của y với một số tiền mắc gấp
ba lần giá trị thật sự cho bất cứ chủ điền nào trong hạt . Họ sẵn sàng coi đó
như là một món tiền xứng đáng dùng tống khỏi cộng đồng một vật chướng mắt . Tuy
thế, y lại rất hài lòng được ở lại trên mảnh đất đó để chịu đựng cuộc sống cùng
khổ chỉ với một bành bông vải mỗi năm với lòng từ thiện của những láng giềng
.Riêng đối với bao nhiêu người khác thì Gerald luôn giữ vững tình giao hảo và một
vài trường hợp còn đi tới chỗ thân thiết . Những người trong họ Quilkes,
Calvert, Tarleton và Phontaine đều tươi cười khi trông thấy con người nhỏ thó của
ông ngồi trên lung một con ngựa bạch cao lớn sải như bay ngược dốc trên đường
vào nhà họ . Họ tươi cười và nâng cao những chiếc ly lớn có pha một muỗng rượu
Bourbon cùng một ít lá bạc hà nghiền nát . Gerald là một người khả ái, và lần lần
người láng giềng nhận ra điều mà bọn trẻ, đám hắc nô và lũ chó đã phát giác ra
ngay từ khi mới thấy ông lần đầu rằng ông là một người tốt bụng, chịu khó nghe
và luôn luôn cởi mở mặc dầu con người bề ngoài của ông là một kẻ hay la hét và
có vẻ hung tợn .
Cứ mỗi lần ông tới đâu là lũ chó mừng rỡ sủa như điên, và bọn
trẻ da đen hò hét vang rần, chạy ào ra đón, giành nhau đặc ân giữ ngựa trong
khi ông quát mắng mấy câu trìu mến . Đám trẻ con da trắng thì đòi được ông cho
đu đưa trên gối, giữa lúc ông không ngớt miệng tố cáo với người lớn về sự phỉ
báng của các chánh trị gia Yankee; các cô gái con của bạn ông thì kể riêng với
ông về những chuyện tình của họ, và các cậu trai không dám thú nhận với cha về
một món nợ danh dự nào đó thì lại coi ông như là một người bạn cần thiết .
Thế là ông mắng ngay:
− Thằng ranh con, vậy là mầy đã mắc nợ cả tháng rồi ! Khốn kiếp,
tại sao mầy không chịu nói với tao sớm hơn?
Đã quá quen với lối ăn nói cục mịch của ông, nên không ai coi
đó như một sự sỉ vả, và các cậu trai chỉ biết rụt rè cười nhăn nhó:
− Thưa bác, con không dám làm phiền bác . Cha con...
− Cha mầy là một người tốt, đó là điều không thể chối cãi .
Nhưng ông ấy nghiêm khắc . Đây, cầm lấy cái nầy và không được nhắc tới chuyện
đó nữa .
Vợ của các ông chủ đồn điền là những người cuối cùng nhận ra
điều đó . Nhưng, đến khi bà Quilkes, "một phụ nữ quí phái và kín đáo chẳng
ai bằng" - như Gerald thường bảo - một đêm đã nói với chồng sau khi Gerald
phóng ngựa ra về rằng "ông ta ăn nói hơi sỗ sàng nhưng đó là một người
phong nhã", Gerald mới thật sự được chấp nhận vào xã hội thượng lưu.Gerald
không ngờ là phải mất suốt mười năm mới nhận được điều vinh hạnh đó, vì chẳng
bao giờ ông nghĩ là, ngay từ đầu, người láng giềng đã coi ông như là một kẻ
không xứng đáng . Ngay từ khi mới đặt chân lên đồn điền Tara, chẳng một chút
nghi ngờ gì cả, ông đã tự cho mình đương nhiên thuộc về giai cấp đó rồi .
Năm bốn mươi ba tuổi, Gerald mập tròn và da mặt hồng hào
trông chẳng khác một địa chủ sang trọng trong một bức tranh săn bắn . Cũng vào
năm đó, ông nhận thấy, mặc dầu Tara rất quí giá đối với ông và các bạn láng giềng
luôn niềm nở đón tiếp ông, ông vẫn còn thấy thiếu một cái gì . Ông muốn có một
người vợ .
Tara cần phải có một nữ chủ . Người nấu ăn trước kia được cắt
đặt trông coi sân gà vịt được nâng lên hàng đầu bếp vì thiếu người, chẳng bao
giờ dọn ăn đúng giờ giấc, còn đứa hầu phòng trước chỉ là một nữ nông nô, luôn
luôn để bụi phủ đầy bàn ghế và dường như chẳng bao giờ lo sẵn quần áo sạch cho
đủ mặc, do đó, mỗi lần có khách tới là cả nhà nhốn nháo lên. Pork, người da đen
duy nhứt được huấn luyện về cách phục vụ chủ, có nhiệm vụ giám sát toàn thể tôi
tớ trong nhà, nhưng rồi cũng lần lần đâm ra lười biếng và bất cẩn sau nhiều năm
tiêm nhiễm thói sống không cần nghi thức của chủ nhân. Là người hầu cận, hắn phải
dọn dẹp buồng ngủ của Gerald cho ngăn nắp, và với phận sự hầu bàn, hắn dọn ăn một
cách trịnh trọng và khéo léo, nhưng đối với các chuyện khác hắn cứ để mặc cho
ra sao thì ra.
Với năng khiếu bén nhạy của người Phi châu, bọn hắc nô đều nhận
thấy rõ ràng Gerald chỉ sủa chớ không bao giờ cắn, và bọn chúng đã lợi dụng điều
ấy một cách không xấu hổ . Thời đó, lúc nào người ta cũng nghe nói tới chuyện
bán nô lệ xuống miền Nam, và những trận đòn thảm khốc, nhưng ở Tara thì chẳng
có một gã nô lệ nào bị bán, và chỉ có một trận đòn duy nhứt xảy ra vì hôm đó,
tên mã phu quên lo cho con ngựa quí của Gerald sau trọn ngày săn đuổi .
Bằng đôi mắt xanh biếc, Gerald tỉ mỉ quan sát sự xếp đặt gọn
ghẽ tại các ngôi nhà trong vùng và ông cũng không quên để ý tới những bà nội trợ
tóc chải láng, ung dung điều khiển bọn gia nhân. Ông không hề biết được rằng những
bà vợ đó đã phải làm việc không hở tay từ sáng sớm đến nửa khuya, lúc thì trông
coi việc nấu nướng, săn sóc con cái, lúc thì điều khiển việc may và giặt giũ .
Ông chỉ thấy có những kết quả bề ngoài và chính những kết quả đó đã ám ảnh ông.
Sự cần thiết cấp bách phải có một người vợ trở nên rõ rệt hơn
vào một buổi sáng giữa lúc ông đang mặc đồ để đi ra thị xã dự lễ, Pork mang vào
cho ông một chiếc sơ mi xếp nếp thành hình tổ ong nhưng con nữ tì lại vá quá vụng
về đến nỗi không ai dám mặc ra ngoài, ngoại trừ gã hần cận .
Trong khi chủ nổi giận hét vang, Pork xếp chiếc áo lại với vẻ
hân hoan:
− Thưa ông Gerald, ông cần phải có một người vợ, và bà vợ đó
phải là một người đã từng có một nhà chứa đầy nô lệ .
Gerald mắng ngay gã hầu cận về tội vô lễ của hắn, nhưng ông
cũng nhìn nhận là hắn có lý . Ông muốn có vợ, có con, và nếu không thực hiện sớmm
thì có lẽ đã trễ lắm rồi . Nhưng ông không thể cưới bất cứ ai, như Calvert đã lấy
người đàn bà Yankee dạy riêng cho các đứa con của ông ta. Vợ ông phải là một
người đàn bà quí phái, quí phái từ trong huyết quản, phải có tư cách và duyên
dáng như bà Quilkes đã thực hiện một cách toàn hảo tại đồn điền của chồng bà .
Nhưng có hai việc khó khăn trong việc cưới hỏi tại những gia
đình ở đồn điền . Trước nhất là chẳng còn bao nhiêu cô gái đến tuổi thành hôn.
Thứ hai, và đây là vấn đề quan trọng hơn, Gerald chỉ là một "người mới"
mặc dù đã cư ngụ trong xứ gần mười năm, và bị coi như một ngoại nhân. Không một
ai biết gì cả về gia thế của ông. Và mặc dầu xã hội trên cao nguyên Georgia
không kiên cố mấy về sự bảo toàn danh giá như các giới quí tộc miền duyên hải,
chẳng một gia đình nào muốn cho con gái kết hôn với một kẻ mà tổ phụ của kẻ ấy
không từng được biết đến .
Gerald hiểu rằng mặc dầu vẫn được sự mến chuộng của những người
đã từng cùng ông săn bắn, uống rượu và bàn luận chánh trị, ông vẫn ít có hy vọng
được cưới con gái của một người nào trong số đó . Ông cũng không muốn để thiên
hạ cứ mỗi bữa ăn tối lại xì xầm với nhau là ông nọ hoặc ông kia đã từ chối
không cho Gerald O'Hara tán tỉnh con gái mình . Tuy biết thế, ông vẫn không cảm
thấy hạ thể chút nào đối với các láng giềng . Chẳng có gì khiến cho Gerald cảm
thấy thấp kém đối với bất cứ ai. Trong hạt, có tục lệ khá buồn cười là người ta
chỉ gả con gái cho những ai đã sống ở miền Nam quá hai mươi năm, và kẻ đó phải
có một mảnh đất, có nhiều nô lệ và chỉ biết say mê những trò vui thích hợp của
thời ấy thôi.Gerald bảo Pork:
− Sửa soạn đồ đạc mau. Mình đi Savannah. Và nếu tao nghe mầy
nói : "Suỵt" hay "Số mạng", chỉ một lần thôi, là tao sẽ bán
mầy liền, bởi vì tao cũng ít khi xài những tiếng đó .
James và Andrequ có thể giúp ý kiến về chuyện hôn nhân, vả lại
còn một số thiếu nữ con của bạn họ mà ông có thể cầu hôn và sẽ được chấp nhận .
James và Andrequ nhẫn nại nghe ông nói nhưng chẳng có một chút khích lệ nào . Ở
Savannah, họ không có người trong thân quyến để nhờ vả tới, bởi vì họ đã có vợ
trước khi tới Mỹ châu. Và các cô gái con của bạn họ đã có chồng từ lâu và đã có
con.James nói với Gerald:
− Chú không được giàu và cũng không phải thuộc dòng dõi thế
gia.
− Tôi đã có thể làm ra tiền thì tôi cũng có thể dựng được một
gia đình quyền quí .
Andrequ chỉ nói cộc lốc:
− Chú trèo quá cao !
Nhưng họ vẫn cố giúp Gerald. James và Andrequ là những người
cũ và có địa vị ở Savannah. Bạn bè của họ khá đông, và trong vòng một tháng, họ
đã đưa Gerald đi từ nhà nầy sang nhà khác, ở lại dùng các bữa ăn tối, dự các cuộc
khiêu vũ và các bữa ăn ngoài trời .Cuối cùng, Gerald tuyên bố:
− Ở đây, tôi chỉ để mắt có một người, và khi tôi đặt chân lên
đất Mỹ, người ấy vẫn chưa được sanh ra.
− Chú nói ai ?
− Cô Ellen Robillard.
Gerald cố nói với giọng điệu thản nhiên nhưng thật ra thì đôi
mắt buồn hơi xếch của Ellen Robillard đã làm ông xúc động nhiều . Tuy chỉ mới
mười lăm tuổi, nhưng cái dáng vẻ hững hờ kín đáo của cô bé đã làm cho Gerald thật
sự say mê. Đã vậy, cái nhìn ám ảnh như chứa chan niềm thất vọng của cô ta lại
càng làm cho ông đắm đuối thêm và tỏ ra lịch thiệp như chưa từng bao giờ có với
một người nào .
− Nhưng tuổi chú đáng làm cha cô ta !
Gerald bất mãn:
− Nhưng tôi đang ở thời kỳ tráng niên mà .
James từ tốn:
− Gerald, ở Savannah không có cô gái nào mà chú ít hy vọng được
cưới hơn cô gái đó . Cha cô ta là người thuộc họ Robillard, và mấy người Pháp
đó còn kiêu căng hơn cả quỉ Lucipher. Và mẹ cô ấy cầu trời cứu rỗi cho linh hồn
bà - trước kia đúng là một mệnh phụ .
Gerald phát cáu :
− Cóc cần ! Vả lại, mẹ cô ta đã chết, còn cụ Robillard thì lại
mến tôi.
− Mến như một người bạn thì đúng, chớ không phải như một thằng
rể .
Andrequ chen vào:
− Dầu thế nào cô ta cũng không chịu chú . Cả năm nay, cô ta yêu
thằng anh họ cuồng nhiệt của cô ta là Philippe Robillard, mặc cho gia đình luôn
luôn cản trở .
Gerald nói ngay:
− Nó đã đi Louisianna tháng nầy rồi .
− Sao chú biết ?
− Biết chớ !
Gerald trả lời vắn tắt, không muốn nói rõ chính Pork đã tiết
lộ cho ông mẩu tin đáng giá đó, và rằng anh chàng Philippe đã bắt buộc đi tận
miền Tây theo lịnh của gia đình anh ta. Và Gerald tiếp:
− Tôi nghĩ là dầu yêu thương thằng kia cách mấy cũng chưa chắc
là cô ta không thể không quên hắn được . Mới 15 tuổi thì làm gì hiểu rõ được
chuyện ái tình .
− Thà họ chịu gả con gái cho thằng liều mạng đó còn hơn cho
chú .
Chính vì vậy mà James và Andrequ không khỏi kinh ngạc hết sức
như bao nhiêu người khác khi nghe tin là ái nữ của Pierre Robillard sắp thành
hôn với một người Ái nhĩ lan thấp bé trên vùng cao nguyên.Cả thành phố Savannah
thầm thì bàn tán và băn khoăn về chuyện Philippe Robillard bỏ đi, nhưng những lời
đàm tiếu ấy không đưa tới được chút ánh sáng nào . Việc cô gái cưng của nhà
Robillard sắp thành hôn với một gã đàn ông không cao tới mang tai vợ, mặt đỏ
gay, to tiếng vẫn cứ mãi là điều bí ẩn đối với mọi người .
Ngay cả chính Gerald cũng không bao giờ hiểu được sự thể một
cách trọn vẹn . Ông chỉ biết là một phép lạ đã xảy ra. Và, lần đầu tiên trong đời,
ông hết sức khiêm tốn khi Ellen, da mặt trắng nhợt, nhưng vô cùng bình tĩnh, đặt
bàn tay nhỏ nhắn lên cánh tay ông và bảo : "Ông O'Hara, tôi bằng lòng
thành hôn với ông".Cả gia đình Robillard hoang mang chỉ hiểu được có phần
nào câu chuyện, chỉ có Ellen và bà vú của nàng mới rõ trọn vẹn việc đêm ấy, khi
một cô gái khóc ròng như mưa, lòng tan nát, sáng hôm sau, khi thức dậy lại quyết
chỉ như một người đàn bà .
Như đã dự liệu, Mammy đã mang cho tiểu chủ một gói nhỏ do một
người lạ trao tay từ Nequ Orleans. Gói đó chứa đựng một bức ảnh nhỏ của Ellen
mà nàng đã ném xuống sàn với tiếng kêu thảm thiết, ngoài ra còn bốn bức thư viết
tay cho Philippe Robillard và một mảnh giấy của một tu sĩ vắn tắt cho biết,
Philippe đã chết trong quán rượu, sau một cuộc ấu đả .
− Chính họ đã đuổi anh ấy, cha tôi, Pauline và Eulalie. Họ đã
xua đuổi anh ấy . Tôi thù oán họ, tôi ghét tất cả, tôi không bao giờ muốn gặp họ
nữa . Tôi muốn bỏ đi, tôi sẽ đi đến nơi nào để không còn nhìn thấy họ nữa, nhìn
thấy thành phố nầy, những người quen sẽ làm cho tôi nhớ ... nhớ tới anh ấy .
Và khi gần tàn đêm, Mammy khóc trên mái tóc xanh mướt của tiểu
chủ, van lơn:
− Con ơi, con không làm như vậy được .
− Tôi sẽ làm . Ông ta là một người dễ thương lắm . Tôi sẽ làm
như vậy hoặc vào một tu viện ở Charleston.
Chính vì lời doạ vào tu viện đó đã làm cho ông Pierre
Robillard phải ưng thuận dù đang bối rối và đau lòng . Ông theo phái Trưởng Lão
giáo trong khi nhà ông theo Công giáo và ý nghĩ con gái sẽ trở thành một nữ tu
sẽ làm ông khó chịu hơn là lấy Gerald O'Hara. Sau cùng, ông chẳng có gì để phản
đối Gerald ngoài sự hiểu biết về gia thế của ông.Vì thế, Ellen, đoạn tuyệt với
họ Robillard, quay lưng lại Savannah, để không bao giờ trở lại nữa, và cùng với
một người chồng đứng tuổi, Mammy và hai mười đầy tớ da đen lên đường đi về Tara.Năm
sau, đứa con thứ nhất ra đời, được đặt tên là Katie Scarlett, theo tên của mẹ
Gerald. Gerald hơi thất vọng vì ông ta mong con trai hơn, tuy vậy, ông hài lòng
đứa con gái tóc đen nhỏ xíu đã có dịp cho ông đãi đằng bọn nô lệ da đen nhậu nhẹt
và để chính ông được la hét ăn uống một bữa .
Nếu Ellen có hối tiếc về quyết định lấy ông, thì cũng chẳng
ai bie6't, ngay cả Gerald vì mỗi khi nhìn vợ, ông gần như kiêu hãnh . Nàng đã
bôi xoá Savannah và kỷ niệm ở đó khi rời bỏ thành phố miền biển đầy phong tục cao
quí, và ngay khi đặt chân lên hạt nầy, miền Bắc Georgia đã trở thành quê hương
của nàng .
Khi rời khỏi căn nhà của cha, nàng đã để lại sau nó với những
đường nét thật đẹp và nở nang như thân hình đàn bà, như một chiếc thuyền buồm
no gió . Một ngôi nhà tô hồ như cẩm thạch hồng, cất theo kiểu nhà thuộc địa
Pháp, vươn lên cao cái hình dáng xinh xắn, phía trước có thang xoáy, tay vịn
làm bằng sắt rèn như đăng ten, một ngôi nhà sang trọng, lộng lẫy nhưng vô cùng
lạnh lẽo .Chẳng những nàng rời nơi trú ẩn kia mà còn lìa bỏ hoàn toàn đời sống
văn minh đã được xây dựng từ trước ở đó . Và nàng tự thấy mình đang ở một nơi
xa lạ, khác biệt như nàng đã vượt qua một địa lục khác .
Đây là miền Bắc Georgia, một nơi hiểm trở được khai phá bởi
những người sắt đá . Trên đỉnh cao nguyên nằm dưới chân rặng núi Blue Ridge,
Ellen có thể thấy những ngọn đồi tròn đất đỏ, với những hiện tượng đột khởi của
đá hoa cương và những hàng thông cao vút, khắp nơi. Tất cả đều có vẻ hoang vu,
không làm sao hợp mắt một người miền biển, đã từng quen thuộc với hải đảo, những
cây cối đẹp êm ả phủ đầy rêu xám, hải đảo xanh, những bãi cát nóng dưới ánh nắng
miền bán nhiệt đới và quen thuộc với con đường cát nằm dài dưới hai hàng dừa hoặc
kè .
Ở vùng nầy, người ta chỉ biết có cái lạnh buốt xương của mùa
đông cũng như cái nóng thiêu đốt của mùa hè, và tinh thần, nghị lực của dân
chúng ở đây quá xa lạ với nàng . Họ là một mẫu người lịch thiệp, quảng đại và
nhiều tánh tốt, nhưng thật là hùng hổ, dũng mãnh và dễ nổi giận . Dân miền biển
mà nàng đã rời bỏ, có thể tự hào về cách đối xử hờ hững những công việc của họ,
ngay cả lúc đấu gươm, đấu súng hoặc lúc thanh toán oán thù cũng vậy, nhưng người
Georgia có mầm bạo động trong người họ . Trên miền biển, đời sống lụn dần, ở
đây, luôn luôn tươi trẻ, cường tráng và mới mẻ .Tất cả những người mà Ellen
quen ở Savannah dường như được đúc cùng khuôn, rập nhau về quan điểm và tập tục,
nhưng ở đây mỗi người mỗi khác . Những người định cư miền Bắc Georgia đã tới từ
nhiều nơi khác nhau, những vùng khác ở chính Georgia, Carolinas, Virginia, Âu
châu, Bắc Mỹ ... Một số bọn họ, như Gerald, đi lập nghiệp, một số giống như
Ellen thuộc về thành phần những gia đình cố cựu, thấy rằng không thể nào chịu
được cuộc sống dưới mái nhà đúc của họ và tìm kiếm một nơi ẩn náu xa hơn. Một số
đông thì chẳng còn có lý do gì cả, ngoại trừ huyết quản họ, dòng máu của những
tiền nhân khai phá lúc nào cũng sôi sục .
Những người tứ xứ nầy tô lên cuộc sống của hạt một vẻ giản dị
mới mẻ đối với Ellen, điều xa lạ mà nàng không bao giờ quen thuộc được . Theo
năng khiếu, nàng đoán biết được hành động của người dân miền biển trong bất cứ
trường hợp nào . Nhưng ở đây, không được .
Và để khêu lại sự hoạt động trong xứ, một phong trào phồn thịnh
tràn xuống miền Nam. Cả the6' giới kêu gào bông vải, và đất mới trong địa hạt rất
phì nhiêu vì chưa khai thác, sản xuất một cách phong phú . Bông vải là nhịp tim
của vùng nầy, trồng trọt và gặt hái cũng như hai thời kỳ trương tâm và thu tâm
của đất đỏ . Sự thịnh vượng đến từ những luống cày cong cong và sự kiêu ngạo
cũng như bắt nguồn từ đó, kiêu hãnh vì cây lên nhiều nụ, vì hàng ngàn mẫu ruộng
nhỏ trổ hoa đẹp như mây trắng . Nếu bông vải làm cho họ sung túc suốt đời thì
những thế hệ sau còn phồn thịnh hơn thế nữa .Sự chắc chắn của tương lai làm họ
thú vị và hăng hái, dân trong hạt bằng lòng cuộc sống của họ một cách khoan
khoái mà Ellen không bao giờ hiểu được . Họ có đủ tiền, có nô lệ để vui chơi,
và họ thích vui chơi. Hình như không bao giờ họ bận rộn đến phải bỏ ngang công
việc để đi câu cá, đi săn hay đua ngựa và không có tuần nào mà họ quên mở dã yến
hay khiêu vũ .Ellen không bao giờ muốn hoặc có thể làm giống như họ được, bà đã
bỏ lại Savannah rất nhiều cá tính của mình . Nhưng bà rất kính phục họ và lâu dần,
bà biết thán phục sự thành thật và lòng quả quyết của họ . Đó là những người thận
trọng và biết xác định giá trị con người một cách đứng đắn .
Bà trở thành một người láng giềng được ưa thích nhứt trong
vùng, một người bình dị, một bà chủ đúng nghĩa, một mẹ hiền và một người vợ tận
tụy . Thay vì hiến dâng cõi lòng tan nát và tinh thần vị kỷ cho tôn giáo, bà đã
đặt trọn tâm hồn vào mấy đứa con, mái nhà và người đàn ông đã mang bà ra khỏi Savannah,
ra khỏi bao nhiêu kỷ niệm mà không hỏi câu nào cả .
Khi Scarlett được một tuổi, mạnh khoẻ và đẹp hơn bất cứ đứa
nhỏ nào khác - Mammy nghĩ như vậy - thì Ellen sinh đứa thứ hai, tên Susan
Elinor, nhưng thường gọi là Suellen, và sau đó Carreen được ghi vào gia phả là
Caroline irene. Và sau đó là ba cậu trai, nhưng tất cả đều chết trước khi biết
đi... Ba cậu bé đó hiện giờ đang an nghỉ dưới rặng bách hương gân guốc trong mảnh
đất mai táng cách nhà chừng một trăm thước với ba tấm bia cùng ghi "Gerald
O'Hara, Jr.".
Kể từ ngày đầu Ellen đến Tara, vùng đất đã thay đổi nhiều . Mặc
dầu mới 15 tuổi, Ellen vẫn sẵn sàng đảm nhận vai trò của một bà chủ đồn điền .
Trước khi lấy chồng, các cô gái cần phải dịu dàng quí phái và biết trang điểm,
nhưng sau ngày thành hôn, các cô phải có khả năng cai quản những toà nhà chừng
một trăm người hay hơn nữa, gồm cả da trắng lẫn da đen. Họ được huấn luyện từ
nhỏ nhằm mục đích ấy .
Ellen đã được chuẩn bị trước cho ngày cưới cũng như các cô
gái nhà lành đã hấp thụ, và bà còn có Mammy, người có thể làm phấn chấn những
tên hắc nô lười nhứt . Bà mang đến sự ngăn nắp, trang nghiêm và sang trọng cho
căn nhà của Gerald và mang lại cho Tara một vẻ đẹp trước kia chưa từng có .
Căn nhà không xây theo một hoạ đồ kiến trúc nào cả, người ta có
thể xây thêm những phòng đặc biết nếu thấy tiện, nhưng nhờ sự cẩn thận và chú ý
của Ellen, nó dần dần trở nên duyên dáng để bù đắp các khuyết điểm . Con đường
nhỏ trồng bách hương từ đường chính vào nhà, con đường mà các nhà vườn ở
Georgia không thể nào hoàn toàn như vậy được, có bóng râm mát, làm nổi bật màu
xanh của các cây khác . Cây tử đằng hoa leo phủ mái hiên phô màu rực rỡ trên
vách tường vôi trắng và phối hợp với những nụ trân châu thái (sim) gần cửa ra
vào, những cụm trắng hoa mộc lan trong sân... che đậy phần nào sự vụng về của
gian nhà .
Vào mùa xuân và hạ, cỏ Bermuda và xa trục thảo trên sân trước
đổi sang màu lục tươi, trông vui mắt đến nỗi đám gà tây và ngỗng trắng mặc dầu
thường ngày lang thang sau nhà cũng bị quyến rũ . Một vài con già nhứt trong
đám mon men tiến đến sân trước, bị lôi cuốn bởi cỏ xanh và sự hứa hẹn ngon lành
của những nụ lài bách nhật . Chống lại sự phá phách của chúng là một đứa bé hắc
nô đứng trước thềm, võ trang một mảnh giẻ . Đứa nhỏ da đen ngồi trên bực thềm ấy
là một bối cảnh của Tara. Nó chẳng vui vẻ gì lắm, vì nó bị cấm không được đánh
đập đám gia cầm ấy mà chỉ được phe phẩy mảnh giẻ để xua đuổi chúng đi mà thôi.
Ellen đã trao nhiệm vụ đó cho vài chục thằng bé da đen, đó là
chức vụ đầu tiên ở Tara đối với một nô lệ trai. Khi đã được 10 tuổi, nó sẽ được
gởi cho lão Daddy thợ vá giày của đồn điền để học nghề, hoặc Amos thợ mộc và
đóng bánh xe, hay Phillip chăn bò, Cuphphee chăn la. Nếu chúng không đủ khả
năng học những nghề nầy, chúng sẽ làm việc ngoài đồng, và đối với bọn da đen,
như thế là mất luôn quyền có địa vị trong xã hội .
Cuộc sống của Ellen không dễ dàng mà cũng không sung sướng,
nhưng bà không mong cuộc đời dễ dàng hơn. Và nếu không được sung sướng thì đó
cũng là số phận của nữ giới . Thế giới chỉ dành riêng cho đàn ông và bà chỉ có
việc chấp nhận nó . Đàn ông làm chủ sản nghiệp, và đàn bà quản trị sản nghiệp
đó . Đàn ông hưởng hết công trạng của việc khai thác, và đàn bà có bổn phận
khen ngợi sự khéo léo của đàn ông. Đàn ông gầm thét như bò rừng khi bị xóc dầm,
còn đàn bà phải cắn răng không rên rỉ khi sinh nở vì sợ chồng lo lắng . Đàn ông
ăn nói cộc cằn và hay say sưa. Đàn bà không được nói lấp tiếng và dìu người say
lên giường mà không hề trách móc một lời . Đàn ông thô lỗ và hay nói thẳng .
Đàn bà phải luôn luôn ân cần, cao quí và khoan dung.Ellen đã được giáo dục theo
nếp sống cổ truyền của các bà quí tộc . Bà đã được dạy cách mang gánh nặng của
gia đình trên vai mà vẫn giữ vẻ vui tươi, ý định của bà là làm cho ba đứa con
gái cũng trở nên các phu nhân quí phái . Với hai cô con nhỏ, bà đã thành công.
Suellen thích làm dáng nên sẵn sàng chú ý và ngoan ngoãn vâng lời dạy dỗ của mẹ,
Carreen thì rụt rè và dễ hướng dẫn . Nhưng Scarlett, xứng đáng là con gái của
Gerald, cho rằng con đường đi đến nữ tính thật khó khăn.
Mammy giận dữ cho rằng, Scarlett thích làm bạn với lũ trẻ da
đen trong đồn điền hay mấy đứa con trai hàng xóm hơn là hai cô em gái đoan
trang hoặc mấy cô Quilkes lễ phép . Nàng có thể trèo cây hoặc ném đá không thua
gì bọn con trai. Mammy lo ngại vô cùng vì đứa con gái của Ellen đã biểu lộ những
cá tánh đó và thường khuyên bảo Scarlett : "Hãy có tư cách của một tiểu
thơ". Nhưng Ellen khoan dung và nhìn xa hơn. Bà biết rằng những bạn bè lúc
thơ ấu sẽ trở thành những vị hôn phu sau nầy, và bổn phận đầu tiên của một cô
con gái là phải lấy chồng . Bà tự nhủ là tại con mình quá tràn trề sức sống mà
thôi, và còn đủ thì giờ để dạy bảo nó có nghệ thuật và sự duyên dáng để thu hút
đàn ông.
Trong mục đích đó, Ellen và Mammy cùng cố gắng . Và càng lớn
lên, Scarlett càng có khiếu về thuật quyến rũ đàn ông, dầu các môn khác đều dở
. Mặc dầu đã có nhiều nữ sư phó đã cố gắng và hai năm được gởi nội trú tại nữ học
viện Phayetteville gần nhà, sự học của nàng không được hoàn toàn . Tuy thế,
không một cô gái nào trong hạt có thể khiêu vũ đẹp bằng nàng, Scarlett biết mỉm
cười làm sao cho má lúm đồng tiền, biết nhón gót cho chiếc váy phồng to và đu
đưa, biết cách ngước nhìn một người đàn ông rồi sụp mắt xuống, chớp thật nhanh
làm như rung động vì cảm xúc . Nhứt là nàng còn biết giấu kín trí thông minh sắc
bén dưới một khuôn mặt khả ái và tròn trịa như một đứa trẻ, khi đứng trước đàn
ông.Ellen khuyến cáo nhẹ nhàng, còn Mammy thì luôn luôn chỉ trích, cố khắc sâu
vào đầu nàng những đức tánh sẽ giúp nàng xứng đáng là người vợ mà đàn ông ai
cũng mong ước .Ellen nói với con:
− Con phải tỏ ra lịch thiệp hơn, nghiêm trang hơn. Con không
nên ngắt lời những người thanh lịch, ngay cả khi con nghĩ rằng con hiểu biết
nhiều hơn họ . Đàn ông tao nhã không ưa những cô gái quá tiến bộ .
Mammy rầu rĩ tiên đoán:
− Các cô gái hay nhăn mặt, đưa càm lên và nói "Tôi sẽ
...", và "Tôi muốn ..." sẽ kiếm không 'a chồng . Các cô phải ngó
xuống và nói : "Vâng, thưa ông", và "Vâng, ông nói thế đúng lắm,
thưa ông".
Họ dạy Scarlett tất cả những gì một bà quí phái cần phải biết,
nhưng nàng chỉ học bề ngoài của những phép lịch sự ấy thôi, không thiết tới bề
trong của nó, không bao giờ biết đến tại sao phải học tập như thế . Bề ngoài đủ
dùng rồi, với nó, nàng được mọi người mến chuộng và nàng chỉ muốn có chừng đó .
Gerald cho rằng Scarlett đáng làm hoa khôi của cả năm hạt, cũng đúng một phần
nào, vì hầu hết trai trẻ trong vùng lân cận và một số ở xa hơn nữa như Atlanta,
Savannah cũng đều cầu hôn nàng .
Năm 16 tuổi, nhờ Mammy và Ellen, nàng trông thật dịu dàng kiều
diễm và lơ đãng . Nhưng thực ra, rất thực tế, ngoan cố, tự đắc và bướng bỉnh .
Nàng thừa hưởng của người cha Ái nhĩ lan tánh nóng nảy và không còn gì khác
hơn, ngoài bề ngoài có vẻ vị tha, nhẫn nại của bà mẹ . Ellen không bao giờ nhận
ra đó chỉ là lớp vỏ bên ngoài, vì lúc nào trước mặt mẹ, Scarlett cũng phô diễn
những hình thức đẹp đẽ nhứt, giấu kín hành vi nghịch ngợm, cố gắng tự chế và tỏ
ra dịu dàng để mẹ khỏi quở mắng đến có thể phát khóc được .Nhưng Mammy không
nuôi một ảo tưởng nào về Scarlett. Lúc nào bà cũng lo ngại cái bề ngoài ấy tan
vỡ . Mắt của bà sắc hơn Ellen, và Scarlett nhớ lại cả đời nàng, chưa bao giờ
nàng lường gạt Mammy được lâu.
Hai vị cố vấn ấy không phàn nàn về tinh thần hăng hái, sức sống
mãnh liệt và thuật quyến rũ của Scarlett, mà trái lại, đều là người miền Nam, họ
lấy làm kiêu hãnh vì những đức tánh ấy . Nhưng đầu óc táo bạo và sự hung hăng
mà Scarlett thừa hưởng nơi Gerald làm họ lo âu. Đôi lúc họ sợ họ không thể che
đậy kịp những tệ hại có thể xẩy ra trước khi Scarlett có được một cuộc hôn nhân
xứng đáng . Nhưng Scarlett quyết định lấy chồng ... lấy Ashley ... và nàng sẵn
sàng trở thành đoan trang, dễ dạy và hơi lơ đãng, nếu những điều ấy làm cho đàn
ông thích . Tại sao đàn ông cũng rập một khuôn, nàng không hiểu nổi . Nàng chỉ
biết rằng phương pháp ấy có hiệu quả . Nàng không bao giờ cố gắng tìm nguyên
nhân, không biết gì về đời sống nội tâm con người, kể cả của chính nàng .
Scarlett biết rằng nếu nàng nói rằng như thế nầy, như thế kia thì đàn ông có thể
trả lời một cách chắc chắn những câu đầy đủ thích ứng . Giống như một công thức
toán, không khó lắm vì toán là môn mà Scarlett học dễ dàng nhứt lúc ở trường .
Nếu nàng chỉ biết thật ít oi về những tư tưởng của đàn ông,
thì nàng còn tệ hơn nữa với những tư tưởng của đàn bà, vì nàng chẳng hề chú ý đến
họ . Nàng chưa có một cô bạn gái nào nhưng không thấy đó là điều thiếu thốn . Đối
với nàng, kể cả hai cô em, đều là những kẻ thù tự nhiên, cùng săn đuổi một con
mồi chung : đàn ông.
Tất cả đàn bà, nhưng trừ mẹ nàng ra. Ellen O'Hara khác hẳn,
Scarlett chiêm ngưỡng bà như một đấng thiêng liêng, đứng ngoài nhơn loại . Khi
còn bé, Scarlett lầm lẫn mẹ nàng với Thánh mẫu, và bây giờ, càng lớn nàng càng
thấy không có lý do gì để thay đổi ý kiến đó . Đối với Scarlett, Ellen tượng
trưng cho sự che chở an toàn mà chỉ có Thượng đế hay một bà mẹ mới có thể làm
được . Nàng biết mẹ nàng là hiện thân của công bình, sự thật, tình thương tràn
trề và khôn ngoan thâm trầm ... Thật là một người đàn bà cao cả .
Scarlett rất muốn được giống mẹ, chỉ có một điều khó là muốn
công bằng, thành thật, dịu dàng, vị tha thì phải mất hầu hết những vui thú của
cuộc đời và chắc chắn là sẽ mất đi những kẻ si tình . Và đời sống thật quá ngắn
ngủi để cho chúng ta thiếu vắng những thú vui ấy . Ngày nào đó, khi nàng đã lấy
Ashley và già đi, ngày đó nàng sẽ có đủ thời giờ để tập lại, và dĩ nhiên sẽ được
giống Ellen. Nhưng, trong lúc chờ đợi thì ...
Chọn Tập
Tối hôm ấy, Scarlett thay thế mẹ chủ tọa bữa ăn, nhưng đầu óc
nàng cứ rối cuồng vì cái tin kinh khủng về Ashley và Melanie. Tuyệt vọng, nàng
mong mẹ trở về từ nhà Slattery bởi vì, nếu không có bà, nàng cảm thấy cô đơn và
lạc lõng. Bọn Slattery với những chứng bịnh không ngớt của chúng có quyền gì
đem Ellen ra khỏi nhà, trong khi nàng Scarlett, cần bà biết bao?
Suốt bữa ăn buồn bã ấy, giọng nói oang oang của Gerald cứ đập
mạnh vào tai khiến Scarlett tưởng rằng không thể nào chịu đựng được nữa. Gerald
đã hoàn toàn quên hẳn câu chuyện hồi chiều và không ngớt độc thoại về những tin
tức giờ chót đối với căn cứ Sumter, nhấn mạnh bằng cách đấm lên bàn và khoa nắm
tay tứ tung. Thói quen của ông trong bữa ăn là điều khiển những câu chuyện, và
thường thường, Scarlett bận rộn với những ý nghĩ riêng, chỉ nghe một cách ơ hờ.
Nhưng tối nay, Scarlett không thể nào không để lọt vào tai giọng nói của cha,
dù nàng hết sức vểnh tai lắng đợi tiếng bánh xe ngựa báo hiệu mẹ về.
Dĩ nhiên, nàng không có ý kể cho mẹ nghe tâm sự thảm não của
mình, vì Ellen sẽ bất bình và phiền muộn khi nghe con gái bà đi yêu một người
đàn ông đã đính hôn với một thiếu nữ khác. Nhưng lần đầu tiên trong đời gặp phải
một chuyện bi thương, nàng muốn tìm an ủi nơi mẹ. Nàng thường cảm thấy an toàn
hơn khi được gần bên Ellen, vì mẹ nàng luôn luôn biến được những cảnh ngộ khó
khăn trở nên tốt đẹp, chỉ bằng sự hiện diện của bà.
Nàng đứng bật lên khi nghe tiếng bánh xe lọc cọc ngoài đường
và rồi lại ngồi xuống khi tiếng xe chạy vòng quanh để ra nhà sau. Chắc không phải
Ellen, vì nếu là bà, thì Ellen đã xuống xe ngay thềm trước. Kế đó, có tiếng bập
bẹ và tiếng cười ầm ĩ của bọn da đen vang lên ở sân sau. Qua cửa sổ, Scarlett
trông thấy Pork, vừa từ trong nhà bước ra, tay cầm một bó đuốc nhựa thông cháy
lập loè và một vài người không rõ mặt đang bước xuống một cổ xe chở hàng. Trong
đêm tối vang lên tiếng xì xào, tiếng cười ồm ồm, những âm thanh vui vẻ quen thuộc,
vô tư lự, những âm thanh trong cổ họng trầm bổng như âm nhạc . Kế đó có tiếng
chân kéo lê trên bậc thềm trước, vào lối đi dẫn đến nhà chánh rồi dừng lại
trong đại sảnh, ngay trước cửa phòng ăn. Có tiếng thì thầm một lúc và Pork bước
vào, mất hẳn dáng điệu nghiêm chỉnh hàng ngày, mắt tròn xoe và răng trắng xoá.
Hắn thở hổn hển báo tin với vẻ kiêu hãnh của một tân lang.
− Thưa ông Gerald, người đàn bà mới của ông đã tới rồi.
Gerald giả bộ giận dữ:
− Đàn bà mới nào, tao chẳng có mua đứa đàn bà mới nào cả !
− Dạ thưa ông, có mà, thưa ông Gerald ! Vâng, nó đang đứng
ngoài kia, nó muốn thưa chuyện với ông.
Pork vừa trả lời, vừa vặn tay lo lắng.
− Thôi được, cho tân nương vào.
Pork quay lại, ngoắc vợ hắn vào. Đó là người đàn bà mới từ đồn
điền nhà Wilkes và sẽ trở thành gia nhân của Tara. Vợ hắn bước vào, sau lưng là
một đứa bé gái mười hai tuổi bị che khuất bởi cái váy rộng bằng vải chúc bâu,
đang bám lấy chân mẹ.
Dilcey, người cao lớn, thân hình luôn luôn thẳng đứng. Căn cứ
vào nét mặt, người ta có thể gán cho mụ giữa ba mươi tới sáu mươi, vì đó là một
bộ mặt ít nếp nhăn và bất động như đồng. Ở mụ, dòng máu người da đỏ ấn lát những
đặc điểm của người da đen. Trên mặt mụ người ta nhận thấy có sự pha trộn của
hai chủng tộc với màu da đỏ, vầng trán cao nhưng hẹp, lưỡng quyền nhô cao, mũi
quặm như mỏ chim ưng nhưng lại hẹp ở chóp và vành môi cộm của người da đen. Đó
là một mẫu người tự chủ với dáng đi đĩnh đạc còn vượt hơn cả Mammy, bởi vì
Mammy đã phải tự luyện còn với Dilcey thì những cái đó thuộc về bẩm sinh.
Tiếng nói của mụ không quá lắp bắp như phần đông dân hắc chủng,
đã vậy mụ còn biết chọn từng lời:
− Kính chào quí vị tiểu thơ, kính chào ông Ge'ald, tôi 'ất buồn
phải làm phiền quí vị, nhưng tôi muốn vào đây để cám ơn quí vị đã mua tôi và đứa
con tôi. Có nhiều vị có thể chỉ chịu mua tôi chớ không chịu mua luôn con P'issy
của tôi, thế nầy thì tôi không còn gì phải buồn 'ầu, và tôi cám ơn quí vị. Tôi
sẽ cố gắng hết sức để tỏ 'a mình không bao giờ quên...
− Hừm ... hừm ...
Gerald chỉ có thể tằng hắng như thế để che giấu sự bối rối của
mình khi bị phát giác lộ liễu một nghĩa cử.Dilcey quay sang phía Scarlett và có
một cái gì ở khóe mắt mụ giống như một nụ cười:
− Thưa cô Sca'lett, Po'k có nói với tôi là chính cô đã yêu cầu
ông Ge'ald mua tôi. Do đó, tôi 'ất sung sướng để con P'issy làm nữ tỳ 'iêng của
cô.
Mụ vói tay ra sau lôi đứa bé tới trước . Đó là một con bé loắt
choắt, da nâu, chân khẳng khiu như chim, trên đầu xoắn tít những lọn tóc vô số
bằng chỉ sợi . Mắt nó sắc bén, chẳng một điều gì có thể lọt qua nhưng mặt lại
làm ra ngu dại.Scarlett đáp:
− Cám ơn Dilcey, nhưng tôi ngại là Mammy chẳng tán thành . Bà
đã từng phục dịch tôi ngay từ lúc mới sanh ra.
Dilcey đáp lại bằng một giọng thản nhiên có thể làm cho Mammy
tức điên lên nếu bà có mặt:
− Mammy đã già 'ồi! Bà là một người vú tốt, nhưng cô bây giờ
là một thiếu nữ 'ồi, cần phải có một nữ tỳ giỏi, và con P'issy của tôi đã từng
hầu hạ cô India tới một năm 'ồi . Nó biết may vá và cài tóc khéo như người lớn.
Bị mẹ đẩy tới, cô bé vừa cúi chào vừa cười toe toét, khiến
Scarlett chẳng thể nào đừng cười trả lại. Nàng nghĩ: "Đúng là một con quỉ
nhỏ lém lỉnh" và nói lớn:
− Cám ơn Dilcey, mình sẽ bàn lại chuyện đó khi mẹ tôi về tới.
− Dạ, cám ơn cô. Chúc cô ngon giấc.
Dilcey nói xong, quay lại dẫn đứa con ra khỏi phòng, riêng
Pork vẫn còn đứng hầu. Đồ ăn đã dẹp hết, Gerald tiếp tục bài diễn văn của ông,
nhưng ít hứng thú hơn, còn mấy thính giả của ông thì chẳng thích chút nào. Với
một giọng hùng hồn, ông nêu ra những dự đoán về cuộc chiến tranh và những câu hỏi
cũng hùng hồn như là miền Nam có chịu khoanh tay ngồi ngó hay không trước sự
lăng nhục của bọn Yankee và chỉ được các con ông trả lời lí nhí: "Phải,
thưa ba" và "Không phải, ba".
Carreen ngồi trên gối lót, dưới ngọn đèn lớn đang chăm chú đọc
chuyện tình của một thiếu nữ đi tu sau khi người yêu chết, rơi nước mắt xúc động
âm thầm vừa thích thú tưởng tượng lúc mình đang đội chiếc mũ trắng của nữ tu.
Suellen thì ngồi thêu mấy món đồ mà cô gọi đùa là "Của Hồi Môn", thầm
nghĩ xem có thể nào tách rời được Stuart Tarleton ra khỏi Scarlett ngày mai
không, để mê hoặc Stuart với những đức tánh dịu dàng rất đàn bà của cô mà
Scarlett không thể có. Trong khi đó, Scarlett đang nát lòng vì chuyện Ashley.
Tại sao ba cứ nói hoài về vụ căn cứ Sumter và bọn Yankee,
trong khi ba biết trái tim mình đang tan nát ? Cũng như những cô gái trẻ khác,
nàng lạ lùng chẳng hiểu tại sao người ta lại quá ích kỷ đến nỗi quên luôn sự
đau đớn của nàng và tại sao trái đất cứ tiếp tục quay không chút ngó ngàng tới
tâm trạng đau xót của nàng .
Nàng tưởng tượng như có cơn lốc vừa thổi qua, và ngạc nhiên
thấy phòng ăn vẫn yên ổn, vẫn không thay đổi, y hệt như trước nay. Bàn ăn, tủ
trà bằng gỗ đào hoa tâm, muỗng nĩa bằng bạc nguyên chất, tấm thảm chói lọi trên
nền nhà bóng loáng đều ở đúng vị trí quen thuộc của chúng, như chẳng có chuyện
gì xảy ra. Đây là gian phòng thân thuộc, tiện nghi. Thường thường Scarlett yêu
thích những giờ êm ấm lúc gia đình còn nán lại sau bữa ăn tối, nhưng hôm nay,
nàng ghét nhìn thấy nó, và, nếu không ngại những câu hỏi sang sảng của cha, chắc
nàng đã chuồn ra ngoài, xuống tiểu phòng làm việc của Ellen, ngồi trên trường kỷ
khóc để vơi sầu.
Đó là gian phòng Scarlett thích nhứt nhà. Nơi đó mỗi sáng,
sau bàn giấy cao nghệu, Ellen ngồi tính toán việc chi thu của đồn điền và nghe
phúc trình của Jonas Wilkerson, viên quản gia. Gia đình cũng tề tựu ở đó để giết
thì giờ trong khi Ellen tính sổ bằng bút lông, Gerald ngồi trong cái đu cũ kỷ,
các cô gái thì chiếm giữ mấy cái gối lót đã phai màu của trường kỷ, vì móp méo
nên không đặt ở phòng ngoài. Scarlett nóng lòng được ngồi một mình với Ellen và
đặt đầu lên gối mẹ khóc cho thoả thích. Mẹ vẫn chưa về sao?
Nhưng rồi, có tiếng bánh xe vang rộn ràng trên đường trải đá,
và có giọng thầm thì êm dịu của Ellen vọng vào khi bà cho người xà ích đi nghỉ.
Mấy cha con cùng sốt ruột ngẩng đầu lên khi bà bước nhanh vào, váy đong đưa,
nét mặt mệt nhọc và buồn bã. Cùng một lượt với bà mùi dầu sả thoang thoảng
trong phòng, mùi hương lúc nào cũng bám theo những nếp xếp của áo bà, mùi hương
luôn luôn nối liền tư tưởng của Scarlett với mẹ. Mammy theo sau vài bước, tay
xách túi da, môi dưới xệ xuống, mày nhíu thấp. Mammy lẩm bẩm, giữ thấp giọng để
người ngoài không nghe ra, nhưng đủ to để chứng tỏ sự bất bình!
− Tôi rất tiếc phải về quá trễ.
Ellen vừa nói, vừa gỡ khăn choàng trao cho Scarlett, nựng nhẹ
gò má con.Mặt Gerald sáng rực lên như bởi một ma thuật khi vợ ông bước vào. Ông
hỏi:
− Đứa nhỏ được đặt tên Thánh chưa?
Ellen đáp:
− Rồi, và, tội nghiệp, nó đã chết. Tôi sợ Emmie cũng chết
theo, nhưng tôi nghĩ là nó có thể sống được.
Mấy cô gái đưa mắt nhìn bà, ngạc nhiên dọ hỏi trong khi
Gerald lúc lắc đầu một cách điềm tĩnh:
− Vậy cũng xong, thằng nhỏ đó chết là tốt, không còn nghi ngờ
gì nữa, đứa con hoa...
− Khuya lắm rồi, mình cầu kinh ngay đi.
Ellen ngắt lời, thật êm ái đến nỗi nếu Scarlett không biết rõ
mẹ, sự ngắt lời đó sẽ trôi qua mà nàng không cảm thấy có ẩn ý nào.Thật là thú vị
khi biết ai là cha đứa con của Emmie, nhưng Scarlett hiểu không bao giờ nàng được
biết sự thật nếu chờ mẹ nói ra. Scarlett nghi cho Jonas Wilkerson, vì nàng thường
thấy hắn đi chung với Emmie những buổi chiều tối. Jonas là người Yankee và độc
thân. Chức vụ quản gia đã ngăn cản hắn không được giao thiệp với xã hội trong hạt.
Không gia đình đàng hoàng nào trong hạt có thể gả con cho hắn, không người nào
có thể kết thân với hắn ngoại trừ Slattery và bọn hạ lưu như vậy. Vì trình độ học
vấn của hắn cao hơn Emmie nhiều bực nên hiển nhiên là hắn không muốn cưới cô
ta, mặc dầu hắn thường đi chung với cô ta vào lúc hoàng hôn.
Scarlett thở dài, vì tính tò mò bén nhọn của nàng không được
thoả mãn. Dưới mắt mẹ nàng, mọi việc chẳng đáng chú ý bao nhiêu cũng giống như
chẳng hề xảy tới. Ellen làm ngơ trước tất cả những việc trái ngược với tư tưởng
của riêng bà và cố gắng dạy Scarlett như vậy, nhưng kết quả chẳng bao
nhiêu.Ellen bước tới cái kệ trên lò sưởi lấy xâu chuỗi trong các hộp khảm xà cừ
nhưng Mammy ngăn lại một cách quả quyết:
− Thưa bà Ellen, bà cần phải ăn một chút t'ước khi đọc kinh.
− Cám ơn Mammy, nhưng tôi không đói.
− Tôi sẽ tự tay dọn ăn cho bà và bà phải ăn mới được.
Trán nhăn tít vì bực dọc, bà bước xuống nhà bếp, gọi lớn:
− Po'k, bảo con bếp nhúm lửa, bà Ellen về 'ồi.
Trong khi sàn nhà rung rinh dưới sức nặng của bà, những lời lầm
bầm của bà từ lúc mới trở về càng ngày càng lớn, rõ tận tai của mỗi người trong
phòng ăn:
− Mình đã nói như vậy nhiều lần. Chẳng có ích gì khi giúp đỡ
bọn da t'ắng không 'a gì đó. Chúng là thứ lười nhứt, bội bạc nhứt. Và bà Ellen
lại đi giúp đỡ chúng. Cứ cho mấy đứa da đen săn sóc chúng là đủ 'ồi . Mình đã
nói với bà Ellen là...
Giọng của bà kéo lên cho đến lúc bà bước vào hành lang chỉ lợp
nóc đưa tới nhà bếp. Mammy có phương pháp riêng để phát biểu ý kiến chính xác của
bà về mọi chuyện. Bà biết phẩm cách của người da trắng thượng lưu không cho
phép họ để ý đến những lời lầm bầm trong miệng một người da đen. Bà biết rằng để
bảo toàn cái phẩm cách đó, họ phải làm bộ không nghe những gì bà nói, dù bà có
đứng ở gian phòng kế bên và la thật lớn. Điều đó tránh được cho bà mọi sự khiển
trách mà mọi người vẫn có thể nghe được quan điểm của bà về một số vấn đề.
Pork bước vào phòng ăn, mang theo một cái dĩa, muỗng nĩa bằng
bạc và một khăn ăn, theo sau là Jack, một đứa bé da đen 10 tuổi, hấp tấp gài
nút chiếc áo khoác bằng nỉ trắng với một tay, còn tay kia thì cầm một phất trần
đuổi ruồi làm bằng nhiều miếng giấy báo cắt nhỏ, cột ở đầu một cây sậy cao hơn
nó. Ellen có một cây đuổi ruồi thật đẹp bằng lông công, nhưng nó chỉ được dùng
trong những trường hợp đặc biệt, và bà phải chống lại với quan điểm của bọn gia
nhân, vì theo chúng, lông công là điềm xui xẻo.Ellen ngồi xuống chiếc ghế
Gerald vừa đẩy tới cho bà, và bốn giọng nói tranh nhau mở lời:
− Má, áo dạ hội con sút ren rồi, con muốn bận nó ngày mai ở
Twelve Oaks. Má có thể kết lại cho con chớ?
− Má, cái áo của Scarlett đẹp hơn của con, màu hồng làm cho
con xấu như quỉ. Tại sao chỉ không mặc màu hồng và để cho con cái màu xanh của
chỉ? Chỉ mặc màu hồng hợp lắm.
− Má, con có thể dự dạ vũ được không? Con mười ba tuổi rồi!
− Bà O'Hara ơi, bà có tin thế không... Suỵt, mấy đứa con gái,
coi chừng ăn roi nghe! Cade Calvert vừa ở Atlanta về sáng nay... Mấy đứa bây có
chịu im để tao còn được nghe tiếng nói của tao hay không?... Hắn nói tình trạng
ở đó rất hỗn loạn, ai cũng nói về chiến tranh, tập luyện dân quân, thành lập
quân đội. Và hắn nói, theo những tin từ Charleston, rằng họ sẽ làm cho quân
Yankee không bao giờ phỉ báng mình được nữa...
Ellen mỉm cười mệt nhọc. Giữa những sự ồn ào đó, bà trả lời
câu hỏi của chồng trước, đúng theo bổn phận của một người vợ:
− Nếu những người Charleston đáng kính ấy đã chọn đường lối
kia thì tôi tin sớm muộn gì chúng ta cũng chọn cùng đường lối với họ.
Bà nói thế vì bà tin tưởng mãnh liệt rằng phần lớn những dòng
máu quí phái của đại lục đều nằm trong thành phố hải cảng nhỏ xíu kia và đa số
người Charleston đều đồng ý về điểm nầy.
− Không, Carreen, hãy đợi sang năm, con gái cưng. Lúc đó con
mới có thể thức khuya để khiêu vũ, mặc quần áo người lớn, và con sẽ có một đôi
má hồng thật đẹp. Đừng giận, con gái! Con dự dã yến được và có thể thức đến
khi xong bữa ăn tối, nhưng không được dự dạ vũ khi con chưa tới mười bốn tuổi,
hãy nhớ điều đó!
− Đưa cái áo con cho má, Scarlett, má sẽ vắt đăng ten lại khi
cầu nguyện xong.
− Suellen, má không ưa cái giọng của con. Cái áo hồng rất dễ
thương và hợp với màu da của con lắm, cũng như áo của Scarlett hợp với nước da
của nó vậy. Tối nay má sẽ cho con mượn xâu chuỗi thạch lựu ngọc.
Suellen, đằng sau Ellen, đắc thắng nhăn mũi với Scarlett, vì
nàng đã định xin mẹ đeo xâu chuỗi ấy. Scarlett thè lưỡi chọc lại, Suellen đúng
là một cô em khó chịu với tánh ích kỷ và hay than van, và nếu Ellen không kềm
giữ được, chắc chắn Scarlett đã nhiều lần bạt tai em. Ellen nói:
− Bây giờ, ông O'Hara hãy kể xem ông Calvert còn nói gì về
Charleston nữa không?
Scarlett biết mẹ không hề quan tâm về những thứ như chánh trị,
chiến tranh và nghĩ rằng đó là những chuyện của đàn ông, không người đàn bà nào
có thể xen vào một cách thông thạo. Nhưng điều nầy làm cho Gerald thích thú được
phô trương quan điểm của ông, và Ellen luôn luôn ân cần với những thú vui của
chồng.
Trong khi Gerald nói huyên thuyên về những tin tức nghe được.
Mammy đặt trước mặt bà chủ mấy dĩa bánh nướng, vàng óng, ức gà chiên và củ
khoai mỡ vàng đã lột vỏ trộn chung với bơ lỏng bốc khói nghi ngút. Mammy véo
Jack một cái, nó hấp tấp làm nhiệm vụ bằng cách phe phẩy nhè nhẹ cây đuổi ruồi
phía sau Ellen. Mammy đứng bên cạnh bàn, nhìn mỗi miếng ăn đi vào miệng Ellen,
làm như bà có ý định nhét các thức ăn ấy vào cổ Ellen nếu bà tỏ dấu chán ngán.
Ellen cố gắng ăn, nhưng Scarlett thấy rõ là bà quá mệt nhọc tới nổi không biết
mình đang ăn món gì. Chỉ có gương mặt lạnh như đồng của Mammy mới ép buộc bà
làm như vậy được.
Khi dĩa đã cạn thức ăn và Gerald đang ở đoạn giữa những lời
chỉ trích về bọn ăn cắp Yankee, muốn phóng nô mà chẳng chịu đóng góp một xu để
trả giá sự tự do của chúng, thì Ellen đứng dậy.Bà miễn cưỡng hỏi chồng:
− Chúng ta có thể cầu nguyện được chưa?
− Được, khuya rồi ! Ủa, đã mười giờ rồi kìa!
Đúng lúc đó, đồng hồ tường khúc khắc gõ mười tiếng bằng quả lắc
thiếc.
− Carreen đáng lẽ phải ngủ lâu rồi. Mang đèn lại đây, Pork,
và cuốn kinh của tôi, Mammy.
− Được.
Mammy nhắc bằng một giọng thì thào khàn khàn, Jack cất cây đuổi
ruồi trong một góc và dọn dẹp mấy dĩa ăn, trong khi Mammy lục lọi trong những
ngăn kéo tủ trà tìm quyển kinh Thánh cũ của Ellen. Pork nhón gót, với lên cái
khoen xích và kéo chầm chậm ngọn đèn xuống cho tới khi trần nhà mất dạng trong
bóng tối và mặt bàn tràn ngập ánh sáng chói chang. Ellen thu gọn váy và quì xuống
sàn nhà, trải quyển kinh Thánh trên bàn ngay trước mặt và chắp tay lên đó.
Gerald quì cạnh bên, Scarlett và Suellen vẫn ở chỗ quen thuộc của các cô ở bên
kia bàn, gấp chiếc váy rộng chêm dưới gối để bớt đau vì sàn nhà quá cứng.
Carreen vì tác nhỏ hơn tuổi, không thể quì một cách thoải mái trước bàn nên quì
bên một cái ghế, chống khuỷu tay lên đó. Cô rất thích bộ vì nầy vì cứ thường ngủ
gục trong khi cầu nguyện, cho nên trong tư thế đó, cô thoát khỏi sự chú ý của mẹ.
Đám gia nhân kéo nhau tập trung trong đại sảnh và quì ở ngưỡng
cửa. Mammy suýt xoa hơi lớn tiếng khi quì xuống, còn Pork thì lưng thẳng như
chày vồ. Rosa và Teena, hai cô gái hầu dịu dàng xoè váy vải màu tươi sáng,
Cookie, gầy guộc và vàng vọt trong bộ quần áo cũ trắng lóng lánh và Jack khờ đi
vì buồn ngủ, tránh xa khỏi Mammy để khỏi bị ngắt véo. Những đôi mắt đen của họ
ngời chiếu niềm tin vì được cầu nguyện với chủ là một trong những việc quan trọng
một ngày. Đối với họ, những câu kinh cổ và màu mè đó không có ý nghĩa gì hết
nhưng vẫn làm thoả mãn một cái gì trong lòng họ, và họ thường lay động khi xướng
họa những câu "Xin Đức Chúa Trời thương xót chúng con", "Xin đấng
Christ thương xót chúng con".
Ellen nhắm mắt lại và bắt đầu cầu nguyện. Giọng của bà lúc vượt
cao, lúc hạ xuống, lúc dịu đi như ru ngủ. Tất cả các mái đầu đều cúi xuống dưới
vòm ánh sáng vàng rực của ngọn đèn, trong khi Ellen tạ ơn Thượng đế đã ban sức
khoẻ và hạnh phúc cho ngôi nhà, cho gia đình và cho những người da đen của bà.
Khi bà chấm dứt những lời cầu nguyện cho những người sống dưới
mái nhà Tara, cho cha mẹ, chị em, cho ba đứa con trai đã chết của bà, và
"cho những linh hồn bất hạnh ở Tỉnh Tội Giới", bà siết chặt xâu chuỗi
trong tay và bắt đầu lần hạt. Y như tiếng rì rào của một làn gió nhẹ, những lời
xướng hoạ tuôn ra khỏi cổ họng người da trắng lẫn da đen.
"Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng tôi là kẻ
có tội, khi nầy và trong giờ lâm tử".
Dù đang đau đớn, xót xa bởi không thể khóc lên được, một cảm
giác âm trầm, êm dịu và bình an vẫn cứ tới với Scarlett trong những giờ phút
đó. Nàng đã gạt bỏ được sự chán nản hôm nay và sự sợ hãi ngày mai, nhường chỗ
cho một niềm hy vọng đột khởi. Không phải sự hướng thượng của nàng đối với Thượng
đế đã mang tới cho nàng hương vị đó, vì đối với nàng Tôn giáo không có gì hơn
là những lời thì thầm và cầu nguyện. Chính là sự nhìn thấy khuôn mặt thánh thiện
của mẹ nàng xoay về ngai Chúa, các Thánh và Thiên thần của Ngài, và xin giáng
phúc cho những người bà yêu thương đã cho nàng cảm giác đó. Khi Ellen khẩn cầu
đấng Tối cao, Scarlett chắc chắn là Người cũng nghe thấy.
Ellen ngừng lại, và Gerald, chẳng bao giờ tìm ra xâu chuỗi của
mình trong giờ cầu nguyện, len lén đếm trên mười đầu ngón tay.Nghe âm thanh đều
đều của cha, tư tưởng của Scarlett bắt đầu tản mác, không còn tự chế được .
Nàng biết là phải tự vấn lương tâm.Ellen đã dặn nàng, cứ mỗi ngày, nàng có bổn
phận phải xét kỹ lương tâm để thú nhận tội lỗi, cầu xin Chúa Trời thứ tội và
ban cho sức khoẻ để khỏi bao giờ tái phạm . Nhưng hôm nay, Scarlett lại tự vấn
trái tim nàng .
Nàng giấu đầu trong lòng bàn tay để mẹ không nhìn thấy mặt,
và những ý nghĩ của nàng buồn thảm quay về Ashley. Tại sao chàng lại định cưới
Melanie trong khi thật lòng yêu nàng, Scarlett? Và trong khi chàng cũng biết là
nàng yêu chàng? Tại sao chàng có thể chủ tâm bóp vỡ trái tim nàng?Đột nhiên, một
ý tưởng sáng lòe và mới mẻ, xẹt như sao chổi qua trí óc nàng :
− Ủa, Ashley đâu có biết là mình yêu chàng !
Suýt nữa nàng đã thở ra thật mạnh vì sự khích động bất ngờ
đó. Tư tưởng nàng dừng lại như bị tê liệt một lúc lâu, hụt hơi trong một lúc rồi
lại phóng sổ về phía trước.
− Làm sao chàng biết được? Mình luôn luôn tỏ ra kiêu kỳ, đứng
đắn và cao quí trước mặt chàng, chàng có thể nghĩ mình chỉ coi chàng như một
người bạn. Đúng rồi, chính vì vậy mà chàng không bao giờ tỏ tình với mình.
Chàng nghĩ chàng đã yêu trong tuyệt vọng, chính vì vậy mà chàng trông có vẻ
quá...
Scarlett hồi tưởng thật mau tới những lúc bắt gặp Ashley nhìn
mình với một vẻ kỳ lạ, lúc đó đôi mắt xám như bức màn hoàn toàn che lấp cảm
nghĩ của chàng như mở lớn ra, chứa đựng một vẻ thống khổ và tuyệt vọng.
"Chàng đau lòng vì cho rằng mình yêu Brent, Stuart hay
Cade. Và có lẽ chàng đã nghĩ rằng nếu không cưới được mình thà làm vui lòng gia
đình bằng cách cưới Melanie. Nhưng nếu Ashley biết mình yêu chàng ..."
Đầu óc hay thay đổi của nàng bắn vọt từ chỗ ngã lòng sâu xa
nhứt lên đến cõi phấn khởi cuồng nhiệt . Đó là do bản tánh ít nói và lối xử sự
lạ lùng của chàng. Chàng không hề biết lòng tự kiêu của nàng nổi dậy với sự tiếp
sức do lòng thèm muốn tin tưởng của nàng, biến niềm tin thành sự thật. Nếu
Ashley biết nàng yêu chàng, chàng sẽ hấp tấp đến với nàng ngay. Nàng chỉ còn
...
"Ồ", nàng suy nghĩ một cách say sưa, mấy ngón tay bấu
vào trán. "Mình thật là ngốc, đã không nghĩ đến điều ấy sớm hơn! Mình phải
nghĩ cách biểu lộ cho chàng biết. Chàng sẽ không thể cưới Melanie được nếu biết
mình yêu chàng ! Làm sao chàng có thể làm như vậy được?..."
Scarlett giựt mình khi thấy Gerald chấm dứt đọc kinh và mẹ
đang nhìn nàng chòng chọc. Nàng vội vã bắt đầu lần chuỗi một cách máy móc nhưng
giọng nàng lạc hẳn vì xúc động khiến cho Mammy hé mắt nhìn với vẻ dò xét. Nàng
vừa dứt cầu kinh thì Suellen và kế đó là Ellen tiếp tục, trí óc nàng lại phóng
hết tốc độ tới những cảm nghĩ vừa đột nhập.Bây giờ cũng chưa trễ lắm! Từ lâu,
trong hạt người ta thường đàm tiếu về những vụ cô dâu hoặc chú rể bỏ trốn khi
người thứ ba xuất hiện giữa lúc hai họ đang làm lễ cưới trước bàn thờ. Vả lại,
lễ đính hôn của Ashley đã được loan báo đâu? Vậy là hãy còn đủ thì giờ!
Nếu giữa Ashley và Melanie không có tình yêu mà chỉ là sự
giao kết từ lâu, thì tại sao chàng lại không thể huỷ bỏ lời giao kết nầy để cưới
mình? Chắc chắn chàng sẽ làm vậy, nếu chàng biết mình, Scarlett, yêu chàng.
Nàng phải tìm cách cho chàng biết. Nàng phải tìm ra một cách nào đó! Và rồi ...
Scarlett thình lình tỉnh mộng vì nàng bỏ qua mấy lời xướng họa
theo kinh và Ellen nhìn nàng một cách trách móc. Vừa lấy lại điệu bộ, nàng vừa
hé mắt liếc nhìn thật mau quanh phòng. Những dáng người quì gối, ánh phản chiếu
dịu dàng của ngọn đèn, những bóng lờ mờ lắc lư của bọn da đen và ngay những vật
quen thuộc mà nàng rất ghét nhìn cách đây một giờ, trong khoảnh khắc đều mang lại
những sắc thái do những cảm xúc riêng của nàng. Và một lần nữa, gian phòng hình
như là một nơi đáng yêu. Nàng sẽ không bao giờ quên giây phút và cảnh tượng nầy!"Đức
Mẹ trọn đời đồng trinh", mẹ nàng lâm râm đọc. Kinh kính mừng Maria bắt đầu,
và Scarlett ngoan ngoãn tiếp:
− Cầu cho chúng ta.
Và Ellen với một giọng trầm dịu, ca tụng biểu tượng của Đức
Chúa Trời .Lúc còn bé, Scarlett thường coi Ellen đáng tôn kính hơn Đức Mẹ nữa.
Có thể đó là một ý tưởng phạm Thánh, Scarlett thường mở hé mắt nhìn khuôn mặt
ngẩng lên của mẹ chớ không nhìn gương mặt của Thánh mẫu lúc lặp lại những câu
cũ rích: "Sức mạnh cho những kẻ bịnh tật", "Đức Bà tha thứ cho
những kẻ có tội", "Đóa hường mầu nhiệm ..." đó là những ngôn từ
đẹp đẽ, vì nó là biểu tượng của Ellen. Nhưng đêm nay vì khích động, Scarlett nhận
thấy trong lễ cầu nguyện, trong những tiếng êm êm, những câu xướng họa thì thầm,
một vẻ đẹp vượt lên trên tất cả những gì nàng đã từng chứng kiến. Và nàng dâng
trái tim lên cho Thượng đế, thành thật tạ ơn Ngài đã mở một con đường dưới chân
nàng, để đem nàng ra khỏi cảnh khốn cùng và tiến thẳng vào vòng tay của Ashley.Khi
tiếng Amen cuối cùng được đọc lên, tất cả cùng đứng dậy, hơi tê người một chút.
Mammy gượng đứng dậy với sự giúp đỡ của Teena và Rosa, Pork lấy cuộn mồi lửa
trên kệ, đốt đèn lên, rồi bước ra phòng ngoài. Đối diện với cầu thang là tủ đựng
chén bát bằng gỗ hồ đào, vì quá lớn nên không sử dụng được trong phòng ăn. Bên
trên mặt tủ có đặt nhiều đèn và một dãy chúc đài cắm sẵn nến. Pork thắp xong một
ngọn đèn với ba ngọn nến rồi với vẻ trịnh trọng của một ngự tiền thị vệ trong nội
cung, soi đèn cho đức Vua cùng Hoàng hậu về thư phòng, dẫn đoàn người lên
thang, nâng cao ngọn đèn lên khỏi đầu. Ellen nắm vịn Gerald bước theo ông, mấy
cô gái, mỗi cô cầm một chúc đài bước theo sau.
Scarlett về phòng, đặt giá nến lên nóc tủ kéo và lục lọi
trong cái tủ ngầm ở tường kiếm bộ áo khiêu vũ cần phải khâu lại.Kẹp áo trong
tay, nàng im lặng băng qua phòng ngoài. Cửa phòng của cha mẹ vẫn còn hé mở.
Nàng sắp sửa gõ cửa thì bỗng nghe giọng nói thật thấp nhưng nghiêm nghị của
Ellen:
− Ông O'Hara, ông phải cho Jonas Wilkerson nghỉ việc.
Gerald to tiếng:
− Rồi tôi sẽ tìm đâu ra một đứa quản gia khác, không lường gạt
của tôi lấy một xu?
− Phải đuổi nó lập tức, ngay sáng mai. Sam khổng lồ là thằng
cai giỏi, nó có thể làm thế công việc cho đến khi ông mướn được người quản gia
khác.
Giọng Gerald vang rõ:
− A ha! Tôi hiểu rồi, thì ra cái thằng Jonas xứng đáng của
tôi đã thổi phình cái bụng...
− Phải đuổi hắn ngay.
Scarlett nghĩ thầm:
− Thì ra Jonas là cha của đứa bé con Emmie Slaterry. Ồ, đúng
rồi, còn đoán xa đoán gần gì nữa đối với một tên Yankee và một đứa con gái da
trắng đốn mạc.
Cẩn thận chờ cho tiếng càu nhàu của cha mình lắng xuống,
Scarlett gõ cửa, trao cho mẹ cái áo rồi về phòng.Trong lúc cởi áo ra và tắt nến,
nàng phác họa một chương trình làm việc với đủ mọi chi tiết cho ngày mai. Đó chỉ
là một chương trình đơn giản, rất hợp với đức tính của Gerald, nghĩa là rất quả
quyết. Nàng không lơi mắt trước mục tiêu và chỉ nghĩ đến những bước trực tiếp
nhứt để đạt được thành quả.
Trước tiên, nàng sẽ làm bộ "rất kiêu hãnh" như
Gerald đã dạy. Ngay lúc đến Twelve Oaks nàng sẽ làm như tươi vui nhứt, không ai
có thể ngờ là nàng đang đau xót về chuyện Ashley với Melanie. Nàng sẽ làm dáng
với tất cả mọi người. Điều đó hơi tàn nhẫn đối với Ashley, nhưng nó sẽ làm cho
chàng khao khát nàng hơn, nàng sẽ không bỏ qua một người đàn ông nào còn trong
tuổi kén vợ. Từ Frank Kennedy râu đỏ, già xọm - kẻ trồng cây si Suellen - cho tới
Charles Hamilton rụt rè mắc cở và trầm lặng, em của Melanie. Họ sẽ vây quanh
nàng như con ong vầy quanh tổ, và Ashley sẽ rời Melanie để nhập bọn với những kẻ
ái mộ nàng. Rồi nàng sẽ tìm cách nói chuyện riêng với Ashley vài phút, xa đám
đông. Nàng hy vọng mọi việc sẽ xảy ra êm thấm và nếu không có thể sẽ khó khăn
hơn. Và nếu Ashley không ngỏ lời trước thì chính nàng sẽ làm điều đó.
Cuối cùng, khi cả hai đã hoàn toàn riêng rẽ, chàng sẽ nhớ
ngay tới hình ảnh những gã đàn ông mới chen lấn quanh nàng và Ashley sẽ cảm xúc
hơn nữa với sự kiện tất cả những kẻ ấy đều ao ước chiếm được nàng. Và nét buồn
thảm pha lẫn thất vọng của hôm nọ sẽ hiện lên ở mắt chàng. Bấy giờ nàng sẽ làm
cho chàng khoan khoái trở lại bằng cách để cho chàng thấy nàng vẫn yêu thích
chàng hơn mọi đàn ông trên thế giới. Và khi thú nhận điều đó, nàng sẽ làm ra
khiêm tốn, dịu dàng và hàng ngàn phương cách khác nữa. Dĩ nhiên, nàng sẽ thực
hiện tất cả những việc đó trong phạm vi của phụ nữ đoan trang. Nàng sẽ không mơ
mộng mà nói một cách trơ tráo là yêu chàng, đó là một việc không đưa tới thành
công. Nhưng chọn cách nào để nói vẫn là một chi tiết chẳng làm nàng bối rối bao
nhiêu. Từ trước, nàng đã sắp xếp được những hoàn cảnh tương tự thì nàng vẫn có
thể lại làm như thế dễ dàng.
Nằm dài trên giường, đắm mình trong ánh trăng, Scarlett hình
dung suốt cảnh ấy . Nàng tưởng tượng tới sự ngạc nhiên và hạnh phúc hiện rõ
trên mặt Ashley khi nàng xác định là nàng thật lòng yêu chàng và nàng sẽ được
nghe những lời chàng phải nói để cầu hôn.
Tự nhiên là nàng sẽ trả lời rằng nàng không thể nghĩ tới chuyện
kết hôn với một người đàn ông đã đính ước với một cô gái khác, nhưng chàng sẽ cố
van nài và nàng sẽ làm như bị thuyết phục. Kế đó, cả hai cùng quyết định trốn
đi Jonesboro ngay xế trưa hôm ấy và...
Ủa ! Trong đêm mai vào giờ nầy nàng có thể đã là bà Ashley
Wilkes!Scarlett ngồi bật dậy trong vòng tay ôm gối và trong lúc lâu tràn ngập hạnh
phúc, nàng thấy mình đã là bà Ashley Wilkes - vợ của Ashley! Nhưng một cảm giác
lạnh buốt bỗng xua tới. Nếu mọi việc không tiến hành theo một chiều thuận lợi?
Nếu Ashley không khẩn cầu nàng trốn đi với chàng? Nàng xua đuổi một cách quả
quyết tư tưởng đó ra khỏi óc.
"Mình sẽ không nghĩ tới chuyện đó bây giờ, nó sẽ làm
mình rối trí lên mất. Chẳng có lý do gì mọi việc sẽ không xảy ra theo chiều hướng
mong muốn của mình, nếu chàng yêu mình. Và mình biết chàng phải yêu mình."
Nàng ngẩng càm lên, và đôi mắt xanh viền mi đen lấp lánh ánh
trăng, Ellen chưa bao giờ nói với nàng rằng điều ước mơ và sự thành tựu là hai
việc rất khác nhau. Cuộc sống chưa dạy nàng rằng kẻ thắng cuộc đua không phải
chỉ là những người mau nhứt . Nàng nằm xuống trong ánh bạc với lòng can đảm vượt
lên, và phác họa những dự định của một cô gái 16 tuổi, mà cuộc đời thật hoàn mỹ,
đến nỗi thất bại chỉ là một chuyện không tưởng, còn một cái áo đẹp hay một làn
da mịn màng mới là khí giới để chiến thắng số phận.
Chọn Tập
Mười giờ sáng, ngày có hơi ấm so với tiết tháng tư, và xuyên
qua bức màn xanh treo ở khung cửa sổ rộng, những tia nắng vàng rực rỡ tràn vào
phòng Scarlett. Những bức tường màu kem rực hồng ánh sáng, hóc kẹt của bàn ghế
bằng gỗ đào hoa tâm phản chiếu màu đỏ sậm như rượu chát. Trừ những chỗ trải thảm,
sàn nhà lóng lánh như gương với những đốm màu vui mắt.
Không khí mùa hạ đã lảng vảng quanh nhà, cái dấu hiệu đầu
tiên của mùa hạ xứ Georgia đến ngay giữa tiết xuân mãn, miễn cưỡng nhường chỗ
cho hơi nóng oi nồng. Một luồng gió ấm mang hương thơm của cây cối trổ bông,
mùi hoa cỏ vừa nẩy lá, mùi hăng nồng của đất đỏ ẩm ướt mới cày, lùa vào phòng
nàng. Qua vuông cửa, Scarlett trông thấy hai hàng thuỷ tiên đồng đầy hoa, trồng
dọc hai bên đường trải đá sỏi và từng cụm lài vàng phơi phới trên đất trông như
một tấm vải bông. Vài con sáo và cà cưỡng tranh nhau, bởi mối thù truyền kiếp,
để chiếm hữu cây mộc lan ngoài cửa sổ. Trong những tiếng chí choé của chúng,
người ta phân biệt được tiếng kêu chát tai của những con cà cưỡng, những tiếng
êm ru như kể lể của con sáo.
Những buổi sáng rực rỡ như thế thường mời mọc nàng tới bên cửa
sổ, tựa tay lên thành cửa để cho hương thơm và âm thanh của Tara thấm vào hồn.
Nhưng hôm nay, nàng không để ý tới cảnh đẹp trời, tới nắng ấm, mà chỉ có một ý
nghĩ vội vàng: "Tạ ơn Chúa, Trời không mưa". Xếp cẩn thận trong một hộp
giấy cứng, nằm trên giường là chiếc áo dạ vũ bằng lụa có vân thuỷ ba xanh với
những tràng đăng ten bằng tơ vàng óng, sẵn sàng mang qua Twelve Oaks để cho
Scarlett mặc lúc khiêu vũ. Nhưng nàng rùng vai khi nhìn thấy nó. Nếu kế hoạch của
nàng thành tựu, nàng khỏi phải mặc chiếc áo ấy tối nay. Thật lâu, trước khi buổi
dạ vũ bắt đầu, nàng và Ashley đã cùng trên đường đến Jonesboro để làm lễ cưới rồi.
Chỉ còn một vấn đề rắc rối nữa thôi: nàng sẽ mặc áo gì trong dã yến?
Mặc chiếc áo nào để làm nổi bật lên và khiến cho Ashley không
cầm lòng được trước sắc đẹp của nàng? Từ lúc tám giờ, nàng đã thử và loại bỏ
nhiều thứ áo, và bây giờ, vừa chán nản, vừa tức giận, nàng chỉ mặc có cái quần
lót viền đăng ten, cái áo nịt và cái váy lót bằng len có ba hàng đăng ten.
Chung quanh nàng, trên giường, trên ghế chất đống những màu sắc rực rỡ, những
dây băng ngổn ngang.
Cái áo bằng sa mỏng, màu hồng với khăn choàng cổ dài rất vừa
vặn với nàng, nhưng nàng đã mặc nó vào mùa hè năm ngoái nhân dịp Melanie viếng
thăm Twelve Oaks và chắc chắn là cô ta sẽ nhận ra nó. Và cô ta sẽ có đủ thâm hiểm
để nhắc lại chuyện nầy. Cái áo canh tơ chỉ vải đen, tay phồng, cổ viền đăng
ten, làm nổi bật màu da trắng của nàng thật tuyệt mỹ nhưng lại khiến cho nàng
trông có vẻ già đi một chút. Scarlett lo lắng nhìn kỹ khuôn mặt mười sáu tuổi của
mình trong gương, hình như nàng sợ thấy những nếp nhăn, những bắp thịt cằm chùn
xuống. Nàng không muốn mình có vẻ già dặn nghiêm nghị trước một Melanie trẻ
trung như thế. Cái áo sa mỏng sọc xanh lợt thật đẹp với những lớp đăng ten rộng
và những đường viền rõ ràng nhưng lại không hợp với mẫu người nàng. Nó rất
thích hợp với trắc diện sắc sảo và làn da nhợt nhạt của Careen, nhưng Scarlett
nghĩ rằng nó sẽ làm nàng giống một nữ sinh. Nàng không bao giờ muốn biến thành
một cô học trò bên cạnh Melanie thật là điềm tĩnh. Cái áo bằng vải sọc vuông Tô
cách lan, màu xanh, dợn sóng và mỗi lượn sóng đều có cặp một hàng nhung sọc màu
xanh thì vừa vặn nhứt . Thật ra nó là cái áo nàng thích nhứt, nó làm cho cặp mắt
nàng sậm màu ngọc bích, nhưng ngay thân áo trước có một đốm mỡ trông thật rõ
ràng . Lẽ dĩ nhiên cây trâm của nàng có thể cài che đi chỗ ấy, nhưng Melanie rất
tinh mắt. Bây giờ chỉ còn lại những chiếc áo bằng vải màu loè loẹt mà Scarlett
không thể nào mặc được trong dịp này. Chiếc dạ y và cái áo bằng sa thêu màu
xanh nàng đã mặc hôm qua. Nhưng đó cũng không phải là cái áo mặc buổi chiều .
Không thể mặc trong buổi dã yến được vì tay áo ngắn, phồng và cổ quá rộng so với
áo khiêu vũ . Nhưng chẳng còn gì để lựa chọn, nàng đành phải mặc nó. Vả lại
nàng cũng không có gì để xấu hổ với cái cổ, cánh tay và bộ ngực, ngay cả việc để
hở chúng vào buổi sáng là điều không mấy đứng đắn.
Vừa xoay người trước tấm gương để nhìn nghiêng, Scarlett vừa
nghĩ rằng không có gì trên mặt làm cho nàng phải xấu hổ. Cổ nàng ngắn nhưng
tròn, hai cánh tay tròn lẳn và quyến rũ. Bộ ngực cao nhờ cái áo nịt, thật là một
bộ ngực xinh xắn. Không bao giờ, như những cô gái mười sáu tuổi khác, Scarlett
không bao giờ may những lớp lụa nhún tổ ong để lót bên trong chiếc áo ngực khiến
cho bộ ngực có những đường cong theo ý muốn. Nàng sung sướng vì được thừa hưởng
ở Ellen bàn tay trắng trẻo và mảnh dẻ, bàn chân thon thon. Nàng còn mong được
cao như Ellen nhưng chiều cao của nàng cũng làm nàng hài lòng rồi. "Thật
đáng tiếc là không thể để lộ được đôi chân đẹp". Vừa nghĩ ngợi, nàng vừa
kéo chiếc váy lên tiếc rẻ nhìn đôi chân xinh xắn, tròn trịa dưới lớp vớ. Đôi
chân nàng đẹp thật. Ngay cả những người bạn gái của nàng ở nữ học xá
Fayetteville cũng phải khen. Còn về vòng eo của nàng thì ... không một ai ở
Fayetteville, Jonesboro hoặc trong ba hạt quanh đây có được vòng eo thon như thế.
Sự suy nghĩ về vòng eo đã đem lại cho nàng những điều thiết thực.
Vòng eo của cái áo bằng sa xanh được mười bảy phân Anh, và Mammy đã nới cái áo
canh tơ chỉ vải ra mười tám phân Anh. Mammy phải siết chặt dây vào. Scarlett mở
cửa, lắng nghe tiếng chân nặng nề của Mammy ở phòng ngoài, từng dưới. Nóng nảy,
nàng lớn tiếng gọi, biết chắc mình sẽ không bị rầy vì tiếng kêu ấy vì Ellen
đang ở trong phòng xông khói phân phát thực phẩm trong ngày cho Cookie.
− Tụi nhà quê cứ tưởng mình cùng loại ăn cắp với chúng.
Mammy vừa lẩm bẩm vừa kéo lê bước chân lên cầu thang. Bà thở
hổn hển bước vào, với sắc mặt của một kẻ sẵn sàng đón nhận một cuộc tranh đấu.
Trên cánh tay dài đen đúa, bà bưng một mâm thức ăn bốc khói, hai củ khoai mỡ phủ
bơ, một chồng bánh lúa mạch nướng tẩm đường, một khoanh thịt đùi heo lỏng bỏng
trong nước xối thịt. Nhìn thấy cái mâm nặng trĩu của Mammy, Scarlett đổi sắc mặt
. Từ giận dỗi biến thành cau có. Mệt mỏi vì phải thử quá nhiều áo, Scarlett
quên mất qui luật nghiêm nhặt của Mammy là, trước khi dự hội, các cô gái nhà
O'Hara phải ngốn thật nhiều thức ăn ở nhà đến nổi không thể ăn hoặc uống một thứ
gì khác ở bữa tiệc.
− Không cần mấy món nầy đâu! Vú đem dẹp xuống bếp liền đi!
Mammy đặt mâm xuống bàn, tay chống nạnh, ngực ưỡn ra:
− Nè, thưa cô, tôi sẽ không để xảy chuyện như kỳ dã yến trước
đâu, lúc ấy tôi bị bịnh nặng, không thể mang dồi heo lên cho cô được. Tôi sẽ
không dẹp cái mâm trước khi cô đi. Cô phải ăn hết cái mâm nầy.
− Thôi ! Bây giờ vú tới đây siết cho tôi cái thắt lưng nầy
đi, trễ rồi. Mới có tiếng xe ngựa chạy qua trước cửa đó.
Mammy đổi giọng dụ dỗ:
− Nào, Scarlett, cô ngoan lắm, lại ăn một miếng nhỏ đi coi. Cả
hai cô Carreen và Suellen đã ăn hết cả rồi.
Scarlett nói với vẻ khinh miệt:
− Chẳng có gì lạ! Đầu óc chúng không hơn những con thỏ. Nhưng
tôi thì khác. Tôi chưa quên bữa tôi đã ăn hết một mâm ở nhà trước khi sang bên
nhà Calvert đó. Họ mời ăn kem mua từ Savannah về mà tôi chỉ có thể ăn một muỗng
nhỏ. Tôi muốn bữa nay tôi sẽ được vui vẻ và ăn những món gì tôi thích.
Trước sự thách thức ấy, Mammy nhíu mày tức giận. Đối với bà,
điều mà một cô gái có thể làm hoặc không được phép làm thì thật phân biệt, như
màu trắng với màu đen, và cũng không có một sự dung hoà nào giữa hai hành động
trên. Suellen và Carreen được nhồi nặn trong hai tay nhiều quyền lực và những lời
dạy dỗ của bà. Nhưng đối với Scarlett, bà phải luôn luôn phấn đấu mới dạy được
nàng hiểu rằng phần lớn những xung động bẩm sinh của nàng không hề thích hợp
cho một phụ nữ quí phái. Những thắng lợi của Mammy thường trải qua những cam go
kèm theo các mưu mô quỉ quyệt, mà người da trắng không thể nào nghĩ ra.
Bà biết rõ ý định của Scarlett:
− Nếu cô không muốn nghe người ta nói gì về cô thì tôi rất tiếc
. Tôi không muốn những người trong dạ hội nói rằng cô không được giáo dục tử tế
. Tôi đã nói đi nói lại nhiều lần với cô là một phụ nữ quí phái phải ăn uống nhỏ
nhẹ như chim. Và tôi không thích phải dẫn cô qua nhà ông Wilkes để cô ngốn ngấu
như một con nô lệ và ăn tạp như heo con.
Scarlett chống chế:
− Nhưng mẹ tôi là một bà quí phái, bà cũng ăn vậy.
− Khi cô lấy chồng rồi, cô mới có thể ăn được như vậy.
Mammy bắt bẻ:
− Hồi bà Ellen bằng tuổi cô, bà không bao giờ ăn cái gì cả
khi đi ra ngoài. Ngay cả dì Pauline và Eulalie cũng vậy. Và họ đều kết hôn được
hết. Thường thường mất cô gái ăn nhiều không bao giờ kiếm được chồng.
− Tôi không tin chuyện đó. Trong kỳ dã yến trước, lúc vú bịnh
tôi đã không ăn gì trước khi đi, và Ashley Wilkes đã nói với tôi là chàng thích
nhìn một cô gái ăn nhiều.
Mammy lắc mạnh đầu:
− Lời nói và sự suy nghĩ của các ông quí phái là hai việc
khác nhau. Và tôi có bao giờ thấy ông Ashley cầu hôn cô đâu.
Scarlett nhăn mặt, muốn to tiếng nhưng dằn xuống, không thể
nào tranh luận nổi với Mammy. Thấy vẻ mặt ngoan cố của Scarlett, Mammy bưng mâm
lên, và với một mánh khóe tuyệt diệu của chủng tộc bà, Mammy đổi chiến thuật, vừa
bước ra cửa vừa thở dài:
− Được, tốt lắm, tôi đã nói với con bếp khi nó sửa soạn cái
mâm nầy là, nếu thấy cô không ăn gì hết thì có thể gọi "họ" là người
quí phái . Và tôi kể cho nó nghe là chưa bao giờ tôi gặp một phu nhân da t'ắng
nào ăn ít hơn cô Melly Hamilton t'ong kỳ cô ấy viếng nhà ông Wilkes. À quên,
tôi muốn nói viếng cô India.
Scarlett nghi ngờ liếc nhìn Mammy, nhưng trên khuôn mặt to lớn
của bà chỉ biểu lộ sự hối tiếc thực thà, tại sao Scarlett không được thanh lịch
bằng Melanie Hamilton.Scarlett cau có:
− Vú để mâm xuống và lại giúp tôi siết chặt sợi dây lưng nầy
coi. Sau đó tôi sẽ cố gắng ăn một chút. Nếu tôi ăn bây giờ, lát nữa làm sao siết
dây lại.
Ra điều như không thiết tới chiến thắng của mình, Mammy đặt
mâm xuống:
− Con trừu con của vú định mặc áo gì đó?
− Cái nầy - Scarlett đáp và chỉ cái áo sa có lông to bằng
nhung xanh. Mammy liền phản đối:
− Không được, không mặc cái áo nầy vào buổi sáng được . Cô
không thể để hở bộ ngực t'ước ba giờ chiều, và cái áo nầy không có cổ cũng
không có tay. Nắng sẽ làm da cô nổi lên những vết lốm đốm.
Tôi không muốn cô bị nổi mụn đỏ. Tôi đã dùng sữa thoa lên những
mụn đỏ mà cô bị khi đi tắm biển Savannah mùa đông rồi. Tôi sẽ mét với bà liền
cho coi.
Scarlett lạnh lùng:
− Nếu vú nói một lời nào với mẹ tôi trước khi mặc áo xong,
tôi sẽ không ăn một miếng nào hết . Mẹ tôi không đủ thì giờ bắt tôi thay áo
khác đâu.
Mammy thở dài, bỏ cuộc vì đã đoán được phản ứng của Scarlett.
Giữa hai điều tệ hại nầy, thà để cho Scarlett mặc áo trái buổi còn hơn để cho
nàng ngốn thức ăn như heo con.
− Cô dựa chỗ nào và hít hơi vô đi.
Scarlett làm theo, cố gắng nắm chặt lấy giường . Mammy siết mạnh
sợi dây và vòng đai áo càng lúc càng nhỏ lại, cặp mắt của bà đầy vẻ kiêu hãnh
và âu yếm . Mammy nói với giọng rất hài lòng :
− Không có cô gái nào có được cái eo như con t'ừu con của vú
. Mấy lần vú siết dây nịt cho Suellen dưới hai mươi phân là con nhỏ đã muốn xỉu.
Scarlett thở ra và nói thật khó khăn:
− Tôi không bao giờ xỉu đâu.
Mammy khuyên:
− Thỉnh thoảng cũng nên làm như sắp ngất đến nơi, nhiều lúc
cô chẳng biết xấu hổ gì hết cô Scarlett, tôi muốn nói với cô là khi gặp rắn hay
chuột thì làm như sắp chết coi mới được. Tôi nói không phải cô làm vậy ở nhà mà
phải lựa lúc đang ở giữa đám đông kìa. Và tôi đã nói với cô là...
− Ồ, mau lên chớ vú! Đừng có dài dòng hoài vậy chớ. Tôi sẽ kiếm
một ông chồng được mà, vú sẽ thấy tôi không cần phải kêu thất thanh và ngất xỉu
đâu. Được lắm, nịt sát lắm rồi, mặc áo vào cho tôi đi.
Mammy cẩn thận khoác 11 thước sa xanh lên chiếc váy phồng,
gài những móc lưng dây nịt và cái áo trên rồi dặn dò:
− Nhớ choàng khăn lên vai khi ra nắng và đừng lột nón khi thấy
nóng. Nếu không thì khi về nhà cô sẽ đen lên giống như mụ Slatte'y cho coi.
Nào, lại đây ăn đi cưng, nhưng đừng ăn mau quá.
Scarlett bước lại ngồi trước mâm, ngạc nhiên chẳng biết có thể
nào nhét nổi thức ăn vào dạ dầy được nữa không, và làm sao đủ chỗ để thở nữa.
Mammy lại bàn phấn lấy cái khăn rộng quấn quanh cổ Scarlett trải những nếp xếp
trắng phủ lên vai áo nàng. Scarlett bắt đầu với món đùi heo mà nàng ưa thích nhứt
và nàng ăn hết ngay.
− Cầu trời cho tôi lấy chồng phứt cho rồi!
Nàng vừa nói một cách tức giận vừa miễn cưỡng dùng sang món
khoai mỡ. Tôi chán ngấy phải sống không hợp với bản tính và không bao giờ được
làm việc gì mình muốn làm. Tôi chán ngấy cái lối đóng kịch ăn nhỏ nhẹ như chim,
phải đi khoan thai trong lúc muốn chạy và phải nói rằng sắp ngất sau khi nhảy
xong một bản luân vũ trong khi tôi có thể khiêu vũ luôn hai ngày không thấy mệt.
Tôi chán phải nói: "Ông thật tuyệt diệu" với những kẻ chỉ thông minh
bằng phân nửa tôi, và tôi ghét phải làm bộ không biết gì cả, để đàn ông giải
thích dài dòng và lên mặt quan trọng khi nghe họ nói... Thôi, tôi không ăn nổi
nữa đâu.
Mammy nói với giọng lạnh nhạt:
− Cô ăn bột lúa mạch nướng đi.
− Tại sao phải làm ra vẻ khờ dại như vậy mới kiếm chồng được?
− Tôi nghĩ có lẽ đàn ông họ không hiểu được họ muốn gì. Họ chỉ
biết được cái mà họ nghĩ rằng họ muốn thôi. Và trao cho cái mà họ muốn để cứu vớt
cả đống đàn bà để đàn bà khỏi trở thành gái già. Và họ tưởng họ muốn những cô
gái đó, bé bỏng như chim và chẳng có chút gì gọi là thông minh trong đầu. Đàn
ông sang trọng họ không thích cưới một phụ nữ mà họ ngờ là thông minh hơn họ.
− Vú có tưởng là họ sẽ ngạc nhiên vì sau ngày cưới mới khám
phá ra vợ họ không ngốc như họ tưởng?
− Có thể lắm chớ, nhưng lúc đó đã trễ vì họ đã lấy nhau rồi.
Mặt khác, đàn ông cũng muốn vợ họ không đến nỗi tồi lắm.
− Một ngày nào đó, tôi sẽ làm và nói những gì mà tôi muốn. Và
nếu mọi người không thích, tôi cũng cóc cần.
Mammy nhăn nhó:
− Không được, không làm như vậy được cho tới khi tôi không
còn thở nữa. Ăn bánh nướng đi, nhúng nó vào nước xối thịt đó cưng.
− Tôi nghĩ rằng, gái Yankee không phải đóng kịch ngu ngốc như
thế. Ở Saratoga năm rồi, tôi để ý phần đông bọn họ xử sự như những người rất
thông minh, ngay trước mặt đàn ông cũng vậy.
Mammy khịt mũi:
− Hừm, gái Yankee! Vâng, tôi đoán chừng họ diễn tả tư tưởng
hay lắm, nhưng vú thấy ở Sa'atoga chẳng có ai cầu hôn với họ cả.
Scarlett cãi lại:
− Người Yankee cũng phải lấy chồng chớ. Họ đâu có mọc lên một
mình được. Họ phải lấy vợ lấy chồng và đẻ con. Họ có nhiều trẻ con lắm mà.
Mammy quả quyết:
− Đàn ông lấy họ là vì tiền mà thôi.
Scarlett chấm miếng bánh nướng vào nước xốt và cho vào miệng.
Có lẽ Mammy nói có phần đúng. Phải có phần đúng vì Ellen cũng nói vậy tuy tế nhị
hơn. Thật ra mẹ của các bạn gái nàng đã in sâu vào đầu óc con họ sự cần thiết
phải biến thành người nhu nhược và bám víu như thỏ cái. Thật ra, phải tập luyện
nhiều mới làm ra được như thế. Có lẽ bàn luận với Ashley một cách thẳng thắn về
ý nghĩ của nàng. Hay là việc ấy cùng sở thích đi bộ, cỡi ngựa của nàng đã đẩy
chàng ra khỏi nàng để đi tới Melanie yếu ớt kia? Có lẽ, nếu nàng thay đổi chiến
thuật... Nhưng nàng cảm thấy rằng nếu Ashley bị chế ngự bởi những mưu mô của
đàn bà, thì nàng sẽ không bao giờ kính phục chàng nữa. Những người đàn ông ngốc
tới nỗi phải luỵ trước một nụ cười không tự nhiên chút nào, trước một trò bất tỉnh
hay vì câu nói: "Ồ, ông thật là tuyệt diệu" đều không xứng đáng để
cho nàng kết hôn. Nhưng tất cả bọn họ hình như đều thích những cái giả dối ấy.
Nếu nàng đã dùng một chiến thuật sai lầm đối với Ashley trong
quá khứ... Được lắm, chuyện đó đã qua rồi! Hôm nay, nàng phải dùng một chiến
thuật khác, chính xác hơn. Nàng muốn chiếm Ashley và nàng chỉ có vài giờ để chiếm
đoạt chàng. Nếu cần phải ngất, nàng cũng sẵn sàng thi hành thủ đoạn nầy. Nếu cần
phải cố gắng cười gượng, phải làm dáng, phải tỏ ra là một người có đầu óc rỗng
tuếch, để Ashley thích thú thì nàng sẽ vui lòng làm dáng ngay, và sẽ giả vờ ngu
hơn cả Cathleen Calvert nữa. Nếu phải cần tới những thủ đoạn liều lĩnh nhứt
nàng vẫn cứ sử dụng. Hôm nay chính là ngày trọng đại.
Không ai nói với Scarlett về nhân cách của nàng, mặc dầu quá
sung mãn, vẫn làm cho đàn ông thích hơn là những chiếc mặt nạ nàng có thể mang
vào. Nói với nàng điều ấy, nàng đã hài lòng nhưng không tin tưởng mấy. Và nền
văn minh mà nàng lệ thuộc vào cũng không tin tưởng. Bởi vì trước đó hay từ đây
trở đi, người ta đánh giá quá thấp thiên bẩm của nữ giới.
Khi cổ xe ngựa mang nàng xuống dốc con đường đất đỏ đưa tới đồn
điền Wilkes, Scarlett cảm thấy khoan khoái một cách tội lỗi là mẹ nàng và Mammy
đã không dự tiệc hôm nay. Sẽ không có ai trong dã yến nhíu mày hoặc mím môi, có
thể làm trở ngại chương trình của nàng . Dĩ nhiên là Suellen chắc chắn sẽ đồn đại
câu chuyện nầy ngày mai. Nhưng nếu tất cả đều diễn ra đúng như Scarlett hy vọng,
thì gia đình nàng, trước chuyện nàng đính hôn với Ashley, hay chuyện nàng bỏ
nhà theo trai sẽ phải băn khoăn lo lắng nhiều hơn là bất mãn. Vâng, nàng sung
sướng lắm khi Ellen phải ở nhà vì bận việc.
Sáng nay, Gerald uống brandy đã khá say, cho Jonas Wilkerson
nghỉ việc và Ellen phải ở lại đồn điền để kết toán sổ sách trước khi hắn ra đi.
Scarlett đã hôn từ giã mẹ lúc đó đang ngồi trong căn phòng nhỏ, trước bàn giấy
cao với những ngăn kéo đầy giấy tờ. Jonas Wilkerson, nón cầm tay, đứng bên cạnh
bà, da mặt màu vàng tái căng lên. Hắn không che đậy được sự căm thù mãnh liệt
vì bị đuổi không báo trước ra khỏi chân quản gia tốt nhất của hạt nầy. Tất cả
chỉ vì một chuyện lăng nhăng nhỏ nhặt. Hắn lặp đi lặp lại với Gerald rằng cả tá
đàn ông khác, cũng có thể dễ dàng như hắn, là cha của đứa bé Emmie Slattery.
Gerald cũng tán đồng điểm nầy, nhưng về phần Ellen thì trường hợp của hắn không
đáng được giảm khinh chút nào. Jonas thù ghét tất cả những người miền Nam. Hắn
ghét những phong cách lạnh lùng mà người ta đối với hắn, ghét sự khinh miệt đối
với địa vị xã hội của hắn mà người ta che đậy không ổn dưới lớp màu mè lịch sự
. Hắn thù ghét Ellen O'Hara hơn mọi người khác vì bà là tiêu biểu cho tất cả những
gì mà hắn thù ghét ở người miền Nam.
Mammy, người cầm đầu phái nữ gia nhân trong đồn điền ở lại tiếp
tay cho Ellen, và chính Dilcey ngày hôm nay, thay bà ngồi gần chỗ xà ích, bên cạnh
Toby với cái hộp đựng các chiếc áo khiêu vũ của các cô đặt trên đầu gối .
Gerald cỡi con ngựa săn to lớn bên cạnh cổ xe, mặt đỏ phừng hơi rượu, thích thú
vì đã thanh toán lẹ làng vụ khó nghĩ về Wilkerson. Ông đã trút hết trách nhiệm
lên Ellen, mà không cần nghĩ là Ellen có thể tiếc vì không dự dã yến được, bởi
cũng là dịp bà có thể gặp gỡ bạn bè.
Trời mùa xuân êm ả, cánh đồng của ông tuyệt đẹp, chim chóc
líu lo và ông cảm thấy mình trẻ quá, vui vẻ quá đến nổi chẳng còn nghĩ gì tới
ai nữa cả. Thỉnh thoảng, ông cất giọng hát "Peg đi trên xe ngựa có ghế dựa",
những cổ điệu Ái nhĩ lan khác hoặc bản bi ca của Robert Emmet: "Nàng rời
xa miền đất nơi người anh hùng trẻ tuổi của nàng nằm xuống".
Ông rất sung sướng, vui vẻ một cách kích động trước viễn ảnh
sắp được trọn ngày bàn luận về bọn Yankee, về chiến tranh và về ba cô con gái
xinh đẹp trong những chiếc váy phồng lộng lẫy dưới những chiếc dù bằng đăng ten
ngộ nghĩnh. Ông không còn nhớ đến câu chuyện với Scarlett ngày hôm qua, vì nó
đã hoàn toàn thoát ra khỏi ký ức của ông rồi. Ông chỉ nghĩ rằng Scarlett rất đẹp
và làm vẻ vang ông, cặp mắt của nàng xanh biếc như những đồng cỏ Ái nhĩ lan. Tư
tưởng sau cùng nầy làm cho ông thấm thía, rung động vì sự nên thơ của nó. Với một
giọng oang oang, hơi sai nhịp, ông dành cho con gái bản "Người mặc áo
xanh".
Scarlett nhìn ông với vẻ âu yếm tự tôn của một bà mẹ đối với
những đứa con vênh váo. Biết rằng chiều nầy ông sẽ say mèm, về nhà trong bóng
đêm dày đặc sẽ cố gắng như thường lệ, nhẩy qua hết mấy cái hàng rào giữa Twelve
Oaks và Tara, nàng cầu mong đấng Thánh linh nhân từ che chở và nhờ linh giác của
con ngựa ông sẽ khỏi bị gãy cổ. Ông sẽ không thèm đếm xỉa tới cây cầu, cho ngựa
lội qua rạch và luôn miệng gào thét. Trong những trường hợp như vậy, Pork sẽ là
người luôn luôn chờ ông với ngọn đèn trên tay và sẽ để ông nằm ngủ trên trường
kỷ kê ở phòng ngoài.Ông sẽ làm hư bộ đồ mới bằng nỉ xám của ông để rồi sáng hôm
sau lấy đó làm nguyên do để ông mắng chửi ỏm tỏi và kể lể dài dòng cho Ellen
nghe tại sao con ngựa của ông lại qua khỏi cầu trong đêm tối. Đó chỉ là một
chuyện bịa đặt hiển nhiên, không đánh lừa được ai, nhưng ai cũng phải thừa nhận
chuyện nầy và nó làm cho ông cảm thấy ông thật là một người sắp đặt tài tình.
Scarlett suy nghĩ với một mối suy nghĩ thiện cảm dồi dào. Ba
yêu quí, ba thật dễ thương, vị kỷ và khinh suất làm sao. Nàng cảm thấy, sáng
hôm nay thật là xúc động và vui vẻ đến nỗi nàng bao gồm cả vũ trụ và Gerald vào
trong tình thương của mình. Nàng thật đẹp, và nàng biết rõ điều ấy. Nàng sẽ chiếm
được Ashley trước khi ngày tàn. Ánh nắng ấm dịu và mùa xuân Georgia trải trước
mắt Scarlett vẻ rực rỡ của nó. Dọc theo đường, dâu rừng với lớp lá xanh mềm mại
che phủ những con rạch đỏ ngầu được vạch ra bởi những cơn mưa mùa đông. Những
phiến hoa cương nhẵn nhụi trồi lên trên mặt đất đỏ khuất lấp bởi những cây đổng
thảo sắc tím lợt. Bên trên con rạch, trên những ngọn đồi xanh, những nụ dương
đào óng ánh trắng như những đốm tuyết chưa tan trên lá. Những cây táo dại trổ
hoa và hỗn loạn màu sắc, từ màu trắng lợt đến màu hồng thẩm và dưới những tàng
cây, nơi ánh nắng bị cắt nát rọi tới những lá thông nhọn hoắt, những cây kim
ngân hoa trải tấm thảm nhiều màu đỏ tươi, màu cam và màu hồng. Gió thoảng hương
thơm của cây cỏ hoang dã và hương vị đời sống đáng thèm.
Scarlett suy nghĩ:
− Mình sẽ nhớ mãi những cái đẹp của ngày hôm nay cho tới chết.
Có lẽ, hôm nay là ngày thích hợp với hôn lễ của mình.
Và nàng nghĩ tiếp, tim đập mạnh, xế nầy hay trong đêm nay, dưới
ánh trăng, nàng và Ashley phóng ngựa thật nhanh xuyên qua vùng hoa cỏ tuyệt vời
nầy đến Jonesboro tìm một linh mục. Dĩ nhiên, sau đó nàng sẽ làm lễ hôn phối
nơi một cố đạo ở Atlanta, nhưng đó là việc mà Gerald và Ellen phải lo. Nàng hơi
run khi nghĩ tới sự sỉ nhục mà Ellen nhận lúc nghe tin con gái đã bỏ nhà theo vị
hôn phu của một cô gái khác, nhưng nàng biết Ellen sẽ tha thứ cho nàng khi thấy
nàng hạnh phúc. Và Gerald sẽ quở mắng và chửi rủa nhưng qua tất cả những lời
phê bình không chấp nhận nàng kết hôn với Ashley hôm qua, ông vẫn sẽ hết sức
vui lòng về sự kết hợp giữa gia đình ông và dòng họ Wilkes.
"Nhưng đó chỉ là những việc phải lo lắng sau ngày cưới".
Nàng thầm nghĩ, gạt bỏ những suy tư ra khỏi đầu óc.
Không cảm thấy gì khác ngoài một niềm vui chan hoà, dưới ánh
nắng ấm tiết xuân, với những ống khói của Twelve Oaks vừa ló dạng trên những ngọn
đồi bên kia rạch. Scarlett nghĩ:
− Mình sẽ sống ở đây và mình sẽ còn thấy được độ năm mười mùa
xuân như thế nầy hoặc đẹp hơn nữa và mình sẽ kể cho con cháu nghe mùa xuân nầy
đẹp như thế nào, đáng yêu hơn mọi mùa xuân chúng được thấy sau nầy.
Sung sướng bởi ý nghĩ sau cùng nầy, nàng nối tiếp khúc cuối bản
"Người mặc áo xanh" làm Gerald vỗ tay ầm ĩ.
− Em chẳng biết tại sao sáng nay chị vui vẻ quá vậy.
Suellen càu nhàu hỏi bởi cô nghĩ rằng nếu cô được mặc chiếc dạ
y xanh của Scarlett thì cô sẽ đẹp hơn chị cô nhiều. Và tại sao Scarlett lại luôn
luôn ích kỷ, chẳng bao giờ cho cô mượn cái áo cũng như mũ của chị ấy. Và tại
sao mẹ cứ ủng hộ chị ấy, cho rằng màu xanh không hợp với Suellen?
− Chị cũng biết rõ như em là lễ đính hôn của Ashley sẽ được
loan báo tối nay. Ba đã nói sáng nay rồi mà. Và em còn biết chị mết anh ta từ mấy
tháng nay.
− Mầy chỉ biết có bấy nhiêu sao?
Scarlett vừa hỏi vừa thè lưỡi, không muốn để mất khí sắc vui
tươi của nàng. Suellen sẽ hết sức ngạc nhiên vào giờ nầy ngày mai.
Carreen phản đối như bị đụng chạm:
− Susie, chị cũng biết là không phải vậy, Scarlett chỉ mết có
Brent thôi mà.
Scarlett quay sang, đôi mắt xanh như cười với cô em út, ngạc
nhiên nghĩ tại sao người ta lại khả ái như vậy. Cả gia đình đều biết rằng trái
tim mười ba tuổi của Carreen đã giao cho Brent Tarleton, người chẳng bao giờ
chú ý tới cô nếu cô không phải là em của Scarlett. Mỗi khi Ellen không có nhà,
hai cô chị thường trêu ghẹo Carreen đến phát khóc về chuyện Brent.Scarlett vui
vẻ vì được tỏ ra rộng lượng:
− Em cưng, chị chẳng để ý gì đến Brent đâu, và anh ta cũng chẳng
để ý gì đến chị cả. Anh ấy đang chờ em lớn đấy.
Khuôn mặt tròn trịa của Carreen đỏ bừng lên, lòng thích thú
nhưng vẫn nghi ngờ:
− Ồ, Scarlett, thật không?
− Scarlett, chị biết là má đã nói Carreen còn nhỏ không được
nghĩ tới bồ bịch sao chị lại nhét những ý nghĩ đó vào đầu nó?
Scarlett đáp:
− Được, mầy muốn lưu ý hay nói nhảm nhí tuỳ ý, tao không cần.
Mầy muốn chèn ép Sissy bởi vì mầy biết chỉ trong một năm nữa nó sẽ đẹp hơn mầy.
Gerald lên tiếng:
− Tụi bây chịu dẹp cái giọng thường ngày đó vào hôm nay hay
không? Hay tao lại quất cho mấy roi bây giờ. Thôi im đi, tao có nghe tiếng xe
ngựa thì phải? Có thể là đám Tarleton hay Fontaine.
Khi đến gần giao lộ, nơi gặp nhau của hai con đường từ đồi
cây rậm rạp ở Mimosa và Fairhill đổ xuống, họ đã nghe tiếng bánh xe, vó ngựa và
những giọng đàn bà vang ra từ sau màn cây dầy đặc càng lúc càng rõ ràng và ầm ĩ
hơn. Gerald đi đầu, ghì ngựa lại và ra hiệu cho Toby dừng xe ngay chỗ hai con
đường gặp nhau.
− Đúng là bà Tarleton và mấy cô con gái.
Mặt ông tươi như hoa. Trừ Ellen ra, trong hạt nầy không có bà
nào được ông thích bằng bà Tarleton tóc đỏ.
− Và chính bà ta cầm cương, thật là một người biết điều khiển
ngựa! Hai bàn tay nhẹ như lông chim, mạnh như roi da và cũng đủ đẹp để hôn lên.
Tụi bây chẳng có đứa nào có bàn tay như vậy .
Ông tiếp, đôi mắt dịu dàng quở trách các con:
− Carreen thì sợ mấy con ngựa, còn Sue thì tay cứng như bàn ủi
khi cầm cương, còn con thì...
Scarlett bất mãn:
− Được lắm, nhưng con chưa bao giờ té ngựa hết. Còn bà
Tarleton kỳ săn nào cũng bị ngựa quăng xuống đất.
Gerald tiếp ngay:
− Và gãy xương quai xanh như một người đàn ông, nhưng không bất
tỉnh, không kêu la. Thôi, bà ấy tới kìa.
Ông đứng trên hai bàn đạp ngựa, dở nón vạch một vòng chào,
trong khi cổ xe của nhà Tarleton chất đầy con gái mặc áo sặc sỡ, che dù và khăn
trùm đầu phất phới, đến nơi với bà Tarleton tay cầm cương như Gerald đã nói. Với
bốn cô con gái, bà vú, những hộp giấy dài đựng áo khiêu vũ chật ních xe, quả thật
không còn chỗ cho tên xe xà ích ngồi nữa. Vả lại Beatrice Tarleton không ưng
thuận cho ai cầm cương, da trắng hay da đen cũng vậy, trừ khi bà bị băng treo
tay lên cổ. Gầy gò, yếu đuối, màu da trắng tới nỗi người ta tưởng như mái tóc đỏ
rực của bà đã hút khí sắc trên mặt, nhưng bà lại không thiếu sức lực và hăng
hái. Bà đã sanh tám lần, đứa nào cũng tóc đỏ và đầy sức sống như bà, và bà đã dạy
bảo chúng rất có kết quả, như dân trong hạt đã nói, bởi vì bà đã trao cho chúng
tất cả tình thương vô bờ bến và một kỷ luật nghiêm nhặt như khi bà nuôi đám ngựa
con. "Uốn nắn nhưng đừng làm gãy tinh thần chúng". Đó là châm ngôn của
bà Tarleton.Bà thương ngựa và nói về chúng bất cứ lúc nào. Bà rất tin tưởng bầy
ngựa của bà, đặc biệt là con ngựa cái màu đỏ tên Nellie, khôn như người. Khi
nào quá bận rộn việc nhà, bà giao cho một đứa bé da đen tô đường và dặn nó:
− Hãy đút cho Nellie một nắm đầy và nói với nó ta về ngay! Trừ
những dịp hiếm có, lúc nào bà cũng mặc đồ kỵ mã dù có cỡi ngựa hay không vì bà
luôn luôn sẵn sàng lên yên, bởi thế bà có thói quen nai nịt gọn gàng từ sáng sớm.
Cứ mỗi sáng, dầu mưa hay nắng, Nellie đều sẵn sàng yên cương và quần tới quần
lui trước cửa nhà, chờ đợi lúc bà Tarleton rỗi rảnh cỡi chạy một vòng. Nhưng
Fairhill là một đồn điền không dễ quản trị nên bà ít có dịp được rảnh tay. Do
đó, Nellie cứ phải một mình đi tới đi lui hết giờ nầy sang giờ khác, trong khi
bà Beatrice Tarleton bận rộn cả ngày với tà váy vắt trên tay và bên dưới là đôi
giầy bóng loáng ống cao mười lăm phân.
Hôm nay, trong chiếc áo lụa đen tầm thường với chiếc váy hẹp
và lỗi thời, bà vẫn còn có vẻ như đang mặc đồ cỡi ngựa bởi chiếc áo được may cắt
quá giống với y phục kỵ mã của bà. Đã vậy, chiếc nón đen nhỏ nhắn được gắn lông
chim cũng màu đen một bên vành sụp xuống gần đôi mắt nâu khiến nó cũng giống
như chiếc nón đi săn cũ kỹ của bà.
Bà khoa roi ngựa trên không làm dấu hiệu chào đón Gerald, và
ghì cương cho đôi ngựa đỏ dừng lại, và bốn cô gái ngồi phía sau cùng nghiêng đầu
ra kêu thét đón mừng chị em Scarlett khiến cho cặp ngựa lồng lên vì hoảng hốt.
Đối với người bàng quan thì sự chào đón quá nồng nhiệt đó có thể khiến họ nghĩ
rằng hai nhà Tarleton và O'Hara đã chẳng có dịp gặp nhau nhiều năm, nhưng thật
ra thì họ chỉ mới có xa cách nhau hai hôm. Nhưng người trong họ Tarleton đều
quen tánh niềm nở và rất mến thích các bạn láng giềng, nhứt là các cô O'Hara.
Điều đó có nghĩa là họ chỉ thích Suellen và Carreen thôi. Trong hạt, chẳng một
cô gái nào thật sự mến thích Scarlett, ngoại trừ cô bé đầu óc rỗng tuếch
Cathleen, nhưng điều đó cũng không có gì bảo đảm.
Vào những dịp hè, trung bình mỗi tuần đều có một dã yến và một
cuộc dạ vũ được tổ chức trong hạt, nhưng đối với các cô Tarleton tóc đỏ, bẩm
tính thích vui chơi, thì cứ mỗi dã yến và mỗi cuộc dạ vũ đều vô cùng thích thú
giống như họ chỉ mới được dự lần đầu. Cả bốn cô gái đều mủm mỉm, xinh xắn, ngồi
chật nứt trong xe đến nỗi các chiếc váy phồng và những lằn ren đè bẹp lên nhau,
và mấy cây dù cứ xô lấn nhau bên trên những chiếc nón rơm rộng vành kiểu Ý đại
lợi gắn đầy hoa hồng trong khi các quai nón bằng nhung đen bay phất phới. Dưới
bốn chiếc nón đó là đủ loại màu tóc đỏ. Hetty thì tóc đỏ tươi, Camilla màu dâu
tây chín, Randa màu đồng đỏ còn cô bé Betsy thì đúng là màu cà rốt.
Gerald dừng cương bên hông xe, khen nịnh:
− Tất cả đều quá đẹp, thưa bà. Nhưng muốn hơn được mẹ thì các
cô hãy còn cách quá xa.
Bà Tarleton đảo tròn đôi mắt và cắn môi làm ra điều e thẹn
khôi hài. Mấy cô gái đồng phụ họa:
− Má, má không được đảo mắt nghe! Tụi con sẽ mét ba cho coi!
Và thưa bác O'Hara, chúng cháu phải thú thật rằng chẳng bao giờ má để cho tụi
cháu có một cơ hội tốt nào cả khi có mặt một người hào hoa phong nhã như bác.
Cũng như mọi người, Scarlett không khỏi bật cười trước những
lời đùa hóm hỉnh đó, nhưng bao giờ cũng vậy, nàng nhận thấy cái lối ăn nói quá
tự do của mấy con nhỏ Tarleton với mẹ là chướng tai. Chúng cứ tưởng như mẹ cũng
cùng trang lứa. Đối với Scarlett chỉ nội nghĩ tới có thể nói như thế với mẹ
cũng gần như mắc tội phạm Thánh. Thế nhưng... thế nhưng... có một cái gì gần
gũi, ấm áp giữa mấy con nhỏ Tarleton và mẹ chúng, mặc dầu hay trêu chọc mẹ,
chúng vẫn hết sức kính trọng bà. Không được, Scarlett thành tâm tự nhủ một cách
vội vàng, không phải vì vậy mà nàng thích có một người mẹ như bà Tarleton hơn
là Ellen nhưng dầu sao kể cũng ngộ nghĩnh khi được đùa giỡn với mẹ. Nàng nhận
thấy ý nghĩ đó đã đủ bất kính đối với Ellen và cảm thấy xấu hổ. Nàng cũng biết
là loại ý nghĩ đó chẳng bao giờ quấy rầy bốn khối óc dưới những mái tóc chói
chang đang ngồi trên xe kia. Và, cũng như bao nhiêu lần khác, nàng cảm thấy ngượng
ngùng bực dọc vì nhận ra mình không giống các bạn láng giềng.
Trong bộ óc không có thói quen phân tách, một cái gì thoáng
hiện mà nàng chỉ nhận ra một cách lờ mờ rằng, sở dĩ các con nhỏ Tarleton có những
thái độ đó là vì chúng cũng bất kham như những con ngựa con, hoang dại như thỏ
rừng. Ở bọn họ, một trong những di truyền tính là giản dị, vô tư. Cả cha và mẹ
họ đều cùng là dân xứ Georgia - Bắc Georgia - chỉ cách xa những tổ phụ khai
hoang có một thế hệ . Họ tự tin và tin tưởng ở những vật chung quanh. Theo bản
năng, họ tự nhiên biết là họ phải làm gì - cũng như người trong họ Wilkes, mặc
dầu chiều hướng dị biệt thật rõ ràng. Với họ không hề có chuyện xáo trộn thường
xuyên ở nội tâm như trường hợp Scarlett, trong huyết quản có cung cách quí phái
của miền duyên hải trộn lẫn với đầu óc thực tế và giòng máu yêu đất của một
nông dân Ái nhĩ lan. Scarlett muốn tôn sùng yêu kính mẹ như một thần tượng, muốn
làm rối tóc và muốn trêu nghịch mẹ. Nàng tự biết mình có thể vừa là thế nầy vừa
là thế khác. Đó là một điều trái ngược đã làm cho nàng ước ao có một vẻ nhu mì,
một cô gái quí phái có giáo dục với con trai, nếu có thể được thì cũng là một
thiếu nữ bất cần đời không tiếc gì một vài cái hôn.
Bà Tarleton hỏi:
− Sáng nay Ellen đi đâu?
− Bà ấy ở nhà soát lại sổ sách kế toán với tên quản gia,
chúng tôi vừa sa thải hắn. Ông nhà và mấy con trai đâu?
− Ồ, họ đi Twelve Oaks lâu rồi, họ muốn nếm thử món rhum pha
sữa, chanh, đường xem có mạnh không. Tôi cam đoan là họ nếm món rượu ấy từ giờ
đến sáng mai! Tôi sẽ nhờ ông Wilkes giữ họ qua đêm, dầu họ có thể bò về ngủ
trong chuồng ngựa. Năm người đàn ông say rượu thì quá nhiều... Ba người thì còn
được, chớ...
Gerald vội vàng ngắt lời chuyển sang đề tài khác. Ông cảm thấy
mấy cô con gái ông đang cười thầm sau lưng ông vì chúng còn nhớ tới tình trạng
khi ông trở về nhà sau buổi dã yến mùa thu năm ngoái.
− Sao bữa nay bà không đi ngựa? Chắc chắn là bà trông không
có vẻ gì là bà nữa khi không có con Nellie ở cạnh bà. Bà trông giống như con
stentor..
Bà Tarleton la lên, nhái giọng Ái nhĩ lan của Gerald:
− Stentor, ông mới dốt làm sao! Chắc ông muốn nói centaur là
quái vật nửa người nửa ngựa chớ còn stentor là một người có giọng nói như đồng
mà.
Dầu nói sai, Gerald vẫn thản nhiên :
− Stentor hay centaur gì cũng được. Chính bà cũng là người giọng
đồng kia mà bà Tarleton, lúc bà hét đám chó săn.
Hetty nói :
− Đó, má thấy chưa. Con đã nói là má la hét giống như một tên
da đỏ Comanche mỗi lần má gặp một con chồn.
Bà Tarleton quay lại:
− Như đâu có lớn như mầy kêu thét lúc bị Mammy rửa tai. Ý là
mầy đã 16 tuổi rồi đó! À, tại sao tôi không cỡi ngựa sáng nay hả, con Nellie mới
vừa đẻ hồi sáng sớm.
− Nó đẻ rồi à?
Gerald kêu lên với một vẻ thích thú thật sự. Tánh ham mê ngựa
của người Ái nhĩ lan nơi ông hiện rõ trong ánh mắt. Và Scarlett một lần nữa cảm
thấy xúc động khi so sánh mẹ nàng với bà Tarleton. Đối với Ellen, ngựa cái hay
bò cái không bao giờ đẻ. Cùng lắm là gà mái sanh ra trứng. Ellen làm như không
bao giờ biết tới các chuyện ấy, còn bà Tarleton thì cứ sao nói vậy.
− Một con ngựa cái con phải không?
− Không, một con ngựa giống chân dài chừng hai thước. Ông phải
tới coi nó, ông O'Hara. Quả là một con ngựa của họ Tarleton. Lông nó đỏ như mấy
lọn tóc của con Hetty.
− Và trông giống Hetty lắm .
Camilla nối lời mẹ, vừa nói xong liền bị biến mất dưới đống
váy, quần và nón, miệng la hét ầm ĩ, vì Hetty, cô gái có mặt thật dài, bắt đầu
ngắt véo cô.
Bà Tarleton nói:
− Mấy con ngựa cái con của tôi sáng nay coi bộ hăng lắm. Chúng
nó tía lia khi nghe tin Ashley và con em họ nó ở Atlanta. Tên nó là gì hả?
Melanie, phải không? Cầu trời ban phước cho con nhỏ đó. Thật là một đứa nhỏ dịu
dàng, nhưng tôi thì chẳng nhớ tên mà cũng chẳng nhớ mặt nó. Con đầu bếp của tôi
là vợ của thằng bồi coi hầm rượu nhà Wilkes, hắn ở bên nhà tôi đêm qua và cho vợ
hắn biết chuyện lễ đính hôn tối nay, hồi sáng con bếp mới cho tôi hay. Mấy đứa
con gái của tôi đứng ngồi không yên, tôi chẳng hiểu tại sao. Từ mấy năm rồi ai
cũng biết Ashley sẽ cưới con nhỏ đó, nếu cậu ta không cưới một trong các cô em
họ Burr ở Macon. Cũng như Honey Wilkes sẽ lấy Charles, em của Melanie. Ông
O'Hara, ông cho tôi biết coi có ai không cho phép họ Wilkes lấy người ngoài họ
không? Bởi vì nếu...
Scarlett không thể nghe được phần còn lại vì bị tiếng cười lấp
mất. Trong giây lát, mặt trời như bị che khuất bởi một đám mây lạnh buốt khiến
cho vạn vật chìm trong bóng râm, các màu sắc đều biến mất. Màu xanh tươi của lá
cây như bịnh hoạn, cây dương đào trở nên trắng nhợt và cây táo dại trỗ bỗng tàn
tạ, tiêu điều. Scarlett bấu các ngón tay vào nệm xe và trong một lúc, chiếc dù
nơi tay nàng run rẩy. Hay tin Ashley đính hôn là một chuyện, còn nghe người ta
bàn tán về chuyện đó mà vẫn giữ vẻ hờ hững lại là một chuyện khác. Nhưng rồi sức
phấn đấu của nàng trở lại thật mạnh và mặt trời lố dạng, cảnh vật trở lại tưng
bừng như lúc nãy. Nàng biết Ashley yêu nàng. Thật sự như vậy. Và nàng mỉm cười
tưởng tượng hình ảnh nhà Tarleton ngạc nhiên khi chẳng có lễ đính hôn nào được
loan báo tối nay... và sẽ ngạc nhiên biết bao nếu một vụ đào hôn xảy ra. Rồi bà
sẽ kể cho hàng xóm nghe rằng Scarlett quả là một con ranh mãnh, vì nàng vẫn ngồi
lặng thinh nghe bà nói chuyện Melanie, trong khi nàng và Ashley đã... Nàng cười
lúm chiếc đồng tiền với ý nghĩ đó, và Hetty, nãy giờ chăm chú quan sát hiệu quả
những lời nói của mẹ cô, ngồi thụp xuống với bộ mặt nhăn nhó vì chẳng hiểu ra
sao cả .Bà Tarleton trịnh trọng:
− Ông có nói gì cũng vậy thôi, ông O'Hara! Theo tôi thì lấy
nhau trong họ hàng là bậy. Ashley cưới con họ Hamilton cũng đã không phải rồi,
còn Honey sắp lấy thằng Charles Hamilton xanh mét kia thì...
− Honey chẳng bao giờ kiếm được ông nào nếu cô ta không chịu
lấy Charlie.
Randa nói một cách tàn nhẫn và tự tin rồi tiếp :
− Cô ta chẳng bao giờ có một tình nhân nào ngoài Charlie. Và
hắn chẳng bao giờ ngó ngàng tới cô ta, mặc dù họ đã đính hôn với nhau rồi.
Scarlett, chị còn nhớ anh ta cứ bám sát chị hồi lễ Giáng sinh trước?
Bà Tarleton quay lại:
− Đừng hàm hồ, họ hàng không thể lấy nhau, dù là họ hàng xa
đi nữa. Nó làm yếu dòng dõi, không thể giống như loài ngựa. Người ta có thể đẻ
một con ngựa cái nhảy với một con ngựa anh hoặc một con ngựa con nhảy với một
con ngựa cha và sẽ có giống tốt nếu mình biết rõ chúng thuộc về nòi gì. Nhưng
không thể làm như vậy được với loài người. Có lẽ sẽ coi tốt mã lắm nhưng không
bền. Người ta...
− Đây, thưa bà. Tôi không đồng ý với bà về vấn đề nầy. Bà có
thể kể cho tôi nghe tên một người nào hơn họ Wilkes không? Và họ đã lấy nhau
như vậy từ đời nầy sang đời khác.
− Nhưng bây giờ đúng là lúc họ phải dẹp chuyện đó lại, vì nó
đã bắt đầu có triệu chứng xấu rồi. Ồ, Ashley cũng không đến nỗi gì, nó quả là
thắng chó đẹp trai dầu rằng nó... Nhưng hãy xem mấy đứa con gái tái mét của họ
Wilkes! Thật tội nghiệp! Đẹp thật, dĩ nhiên, nhưng quá ốm yếu, nhợt nhạt. Cứ
nhìn con nhỏ Melanie thì rõ, mỏng như một cái lá chắn và ốm tới nỗi gió thổi
cũng bay chẳng có vẻ gì là hăng hái. Chẳng có một khái niệm nào trong đầu.
"Phải, má", "Không phải, thưa má", nó chỉ biết nói có vậy
thôi. Ông rõ tôi muốn nói gì chớ? Gia đình đó cần phải có một dòng máu mới mẻ,
một dòng máu hoàn toàn tráng kiện như mấy con nhỏ tóc đỏ nhà tôi hay cháu
Scarlett. Nào, đừng hiểu lầm. Họ Wilkes là những người thanh nhã nhất trong cái
lối của họ, ông biết là tôi rất mến thích họ, nhưng phải thẳng thắn mà nói! Có
phải họ đã được giáo dục quá mức và cũng do tự nhiên mà ra hay không? Họ có thể
xuất sắc trên đường khô, trên đường bằng phẳng, nhưng ông nghe kỹ tôi đây. Tôi
không tin tưởng rằng họ chưa học được sức chịu đựng, và hễ nguy hiểm xảy ra,
tôi tin rằng họ không thể ứng phó được. Họ chỉ là giống được dùng trong nhà vào
mùa khô ráo chớ không phải như một con ngựa tốt có thể chạy được với bất cứ thời
tiết nào. Những vụ họ hàng cưới nhau của họ đã làm họ khác biệt với những người
chung quanh. Lúc nào cũng loay hoay với cây dương cầm hoặc vùi đầu vào sách vở!
Tôi quả quyết rằng Ashley thích đọc sách hơn là đi săn. Tôi thành thật tin tưởng
như vậy, ông O'Hara. Ông hãy nhìn bộ xương của họ, quá mảnh mai. Họ cần có những
giống đực và những giống cái thật mạnh khỏe.
− Á! À! Hừm! Gerald bỗng thấy như phạm tội khi nhận thấy câu
chuyện thật là thích thú và hợp ý ông nhưng đối với Ellen thì hoàn ngược lại.
Thật vậy, ông biết Ellen sẽ mãi mãi buồn phiền nếu biết được con gái bà đã ngồi
nghe một câu chuyện trắng trợn đến thế. Nhưng bà Tarleton, luôn luôn làm ngơ
trước những cảm nghĩ của kẻ khác khi theo đuổi đề tài thú vị nhứt của bà. Đó là
về nuôi dạy, người hay ngựa.
− Tôi biết rõ những gì tôi nói ra vì tôi có một vài người bà
con lấy lẫn nhau. Tôi cho ông biết là con cái của họ đều mắt lồi như mắt ếch,
thật thảm hại. Và khi gia đình tôi muốn tôi kết hôn với một người bà con xa,
tôi nhảy dựng lên như một con ngựa con. Tôi đã nói: "Không đâu, má. Con
không chịu như vậy đâu. Mấy đứa con của con sẽ bị chai chân và thở dốc như ngựa".
Và mẹ tôi đã ngất xỉu khi nghe tôi nói về mấy cái vụ chai chân, nhưng tôi vẫn
cương quyết giữ ý định và bà ngoại tôi cũng ủng hộ tôi. Bà cũng biết một ít về
vấn đề nuôi ngựa ông thấy, và bà nói tôi có lý. Sau đó bà giúp tôi bỏ trốn với
ông Tarleton. Ông hãy nhìn mấy đứa con tôi, to lớn và mạnh khỏe không có một chứng
bịnh nào cũng như không có đứa nào lùn, mặc dầu thằng Boyd chỉ cao khoảng một
thước bảy. Còn bọn Wilkes...
− Thôi, mình sang chuyện khác đi!
Gerald hấp tấp ngắt lời, vì ông chú ý tới cặp mắt ngơ ngác của
Carreen và sự thèm thuồng tò mò trên mặt Suellen. Ông sợ chúng sẽ hỏi Ellen nhiều
câu rắc rối khiến bà biết được ông là một người giám hộ chẳng ra gì. Về phần
Scarlett, ông rất sung sướng khi thấy nàng, hình như nàng đang nghĩ ngợi về
chuyện đâu đâu, đúng tư cách của một thiếu nữ cao quí.Hetty giúp ông thoát khỏi
cảnh lúng túng, cô sốt ruột kêu lên với bà Tarleton :
− Trời ơi, má để tụi con đi chớ. Mặt trời luộc chín con rồi
nè. Cổ con phồng da rồi đây.
Gerald nói :
− Một phút nữa thôi, trước khi bà tiếp tục đi. Bà quyết định
ra sao về chuyện bán lại ngựa cho chúng tôi dùng cho Bộ đội? Chiến tranh có thể
bùng nổ nay mai, và bọn trẻ muốn mọi việc đâu vào đó. Đó là đạo quân của hạt
Clayton và chúng ta cần có ngựa cho họ. Nhưng bà là người bướng bỉnh, chắc bà sẽ
không chịu bán mấy con thú ưu tú của bà.
− Có lẽ chiến tranh không xảy ra đâu.
Bà Tarleton trì hoãn, bà đã hoàn toàn quên hết tục lệ cưới hỏi
của dòng họ Wilkes.
− Tại sao vậy, thưa bà, bà không thể nào ...
Hetty lại ngắt lời :
− Má, má và ông O'Hara có thể bàn về chuyện ngựa ở Twelve
Oaks tốt hơn ở đây.
Gerald nói:
− Đúng vậy, và tôi không giữ các cô quá một phút nữa đâu.
Chúng ta sẽ đến Twelve Oaks trong chút xíu nữa, và tất cả mọi người, già hay trẻ,
đều muốn biết vấn đề ngựa ngã ngũ như thế nào. A, nhưng thật là đau lòng cho
tôi nếu một bà mẹ cao quí đẹp đẽ như mẹ các cô lại quá keo kiệt về mấy con thú.
Nào, lòng ái quốc của bà đâu, bà Tarleton? Có phải Liên bang miền Nam chẳng có
nghĩa lý gì với bà không, bà Tarleton?
Con bé Besty la lên:
− Má, Randa ngồi trên áo con, làm nhăn hết rồi!
− Thì hất con Randa ra và câm miệng lại. Nào, bây giờ hãy
nghe tôi, ông O'Hara! - Bà trả đũa, mắt bắt đầu long lên - Ông đừng ném mấy tiếng
Liên bang miền Nam vào mặt tôi. Những tiếng đó có rất nhiều ý nghĩa đối với
tôi cũng như với ông. Phần tôi, có tới bốn đứa con trong quân đội, còn ông, chẳng
có gì hết! Nhưng đám con tôi, chúng có thể tự lo lấy chúng, còn mấy con ngựa
cưng của tôi thì không. Tôi sẽ rất sung sướng được giao ngựa vô điều kiện nếu
tôi biết rõ chúng sẽ được cởi bởi những người tôi quen, những người đã quen với
ngựa thuần chủng. Không, tôi sẽ không do dự một phút nào . Nhưng để cho những
tên rừng rú hoặc bọn trộm cắp cỡi những con tuấn mã của tôi, những kẻ chỉ quen
cỡi lừa ! Không, thưa ông, tôi sẽ không ngủ được khi nghĩ rằng chúng sẽ chạy với
vết cứa của bộ yên cương và không được săn sóc kỹ càng . Ông có nghĩ rằng tôi
chịu để cho những tên ngốc nghếch cỡi những con ngựa mõm thật đẹp của tôi, và rồi
nhìn miệng chúng nát bét ra và bị đánh đập tới khi mất hết trí khôn không? Đây,
tôi đã rợn người rồi nè, ngay khi nghĩ về những chuyện đó. Không, ông O'Hara,
ông đã có lòng tốt nghĩ về mấy con ngựa của tôi, nhưng tốt hơn ông nên đi
Atlanta mua mấy con ngựa già cho mấy gã thô kệch của ông đi. Họ chẳng bao giờ
thấy được sự khác biệt nào hết!
Camilla hỏi, cũng sốt ruột như mấy chị em:
− Má, mình chưa đi sao? Má biết là cuối cùng rồi má cũng phải
nhường lại mấy con thú cưng của má. Khi ba và tụi con trai cùng hô hào rằng
Liên bang miền Nam cần đến chúng, chừng đó, má sẽ khóc nức nở nhưng cũng đành để
cho chúng ra đi.
Bà Tarleton nhăn mặt và giựt cương:
− Tao sẽ không nhường con nào hết.
Bà vừa nói vừa phớt nhẹ ngọn roi lên mình ngựa. Cổ xe vọt tới.
− Thật là một người đàn bà tuyệt vời.
Gerald vừa nói vừa đội nón lên và cho ngựa lui về bên cạnh cổ
xe các con ông.
− Đi thôi, Toby. Bọn nầy sẽ làm hao mòn ý chí của bà ta và sẽ
có ngựa. Dĩ nhiên là bà ta đúng. Nếu một người đàn ông không phải là người quí
phái, kẻ ấy chẳng dính dáng gì đến chuyện ngựa. Hắn phải ở trong đám bộ binh.
Nhưng còn nhiều phiền phức, con của chủ đồn điền trong hạt không đủ số để thành
lập trọn một đạo quân. Con nói gì đó, Scarlett?
− Ba, ba nên cỡi ngựa đằng sau hay phía trước chúng con. Ba
làm tung bụi khiến chúng con nghẹt thở cả.Scarlett nói, vì nàng cảm thấy không
thể kéo dài cuộc đàm luận lâu hơn nữa . Điều nầy làm cho nàng xao lảng ý tưởng,
trong khi nàng muốn sắp xếp vừa ý tưởng vừa mặt mày của nàng cho có vẻ quyến rũ
trước khi đến Twelve Oaks.Gerald thúc ngựa và giữa một vầng mây bụi đỏ ngòm,
ông theo sau xe của họ Tarleton để tiếp tục đàm luận về chuyện ngựa.
Phim hay nhất lịch sử điện ảnh
Margaret Mitchell
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét