Hồng lâu mộng 4
Hồi 16:
Giả Nguyên Xuân có tài, được tuyển vào cung Phượng Tảo;
Tần Kình Khanh còn trẻ, đã thác xuống cõi Hoàng Tuyền.
Phượng Thư thu xếp công việc ở chùa Thiết Hạm xong, dẫn Tần
Chung, Bảo Ngọc lên xe về thành. Đến nhà, vào chào Giả mẫu, Vương phu nhân rồi
về buồng nghỉ. Hôm sau, Bảo
Ngọc thấy phòng học đã dọn dẹp xong, hẹn Tần Chung đến tối
cùng tới đó học. Tần Chung vốn người yếu đuối, ra ngoài thành bị sương gió, lại
mấy lần dan díu với Trí Năng, không biết giữ gìn, khi về bị cảm phong, ho suyễn,
không thiết ăn uống, người cứ rạc đi, phải ở nhà tĩnh dưỡng, không đi học được.
Bảo Ngọc vì thế mất vui. Không còn cách gì, đành phải chờ cho Tần Chung khỏi bệnh.
Phượng Thư nhận được thư trả lời của Vân Quang, nói việc ấy
đã xong xuôi cả. Sư già liền đến báo tin cho nhà họ Trương. ông Thủ Bị không biết
làm thế nào, đành nuốt giận
nhận lại món tiền sêu tết khi trước. Không ngờ bố mẹ thì
thính thế lực, tham tiền của, nhưng con gái lại biết lẽ phải, giàu tình cảm,
khi nghe tin phải thôi người chồng trước, bắt gả về nhà họ Lý, Kim Kha liền thắt
cổ tự tử. Con trai ông Thủ Bị cũng là một người chung tình, nghe nói Kim Kha thắt
cổ chết, cũng không phụ nghĩa vợ, đâm đầu xuống sông chết theo. Đáng thương cho
hai nhà họ Trương, họ Lý vừa mất người, vừa mất của, còn Phượng Thư thì ngồi
mát ăn không ba nghìn lạng bạc. Việc này Vương phu nhân chẳng biết một tí gì. Từ
đó, Phượng Thư càng bạo gan, biết bao chuyện làm liều như thế, không kể xiết được.
Một hôm, gặp ngày sinh nhật Giả Chính, người nhà phủ Ninh, phủ
Vinh đương nhộn nhịp ăn mừng. Chợt có người gác cổng vào báo:
- Có cụ Hạ là quan đô thái giám ở Lục cung đem chiếu chỉ đến.
Bọn Giả Chính, Giả Xá sợ hãi không biết việc gì, ngừng ngay
hát xướng, dọn cỗ bàn đi, bày hương án, mở cửa giữa ra, quỳ đón chiếu chỉ. Đô
thái giám là Hạ Bỉnh Trung cưỡi ngựa đến, có nhiều nội giám đi theo. Hạ thái
giám không mạng chiếu sắc, đến tận cửa dinh giữa mới xuống ngựa, nét mặt tươi tỉnh,
đứng ngoảnh về phía nam, nói:
- Vâng đặc chỉ Hoàng đế đòi Giả Chính lập tức vào điện Lâm
Kính bệ kiến (*). Nói xong hắn không uống nước, cưỡi ngựa đi ngay.
Chú thích:
(*) chầu Vua...
Giả Chính đoán mãi chẳng biết việc gì, vội vàng thay
quần áo vào chầu. Giả mẫu và người nhà hoảng hốt, lo sợ, luôn
luôn sai người cưỡi ngựa đi dò tin tức. Độ hai giờ sau, lũ Lại Đại cùng bốn người
quản gia thở hồng hộc chạy vào cửa nghi môn báo tin mừng: "ông bảo về mời
cụ dẫn các bà vào cung tạ ơn.”
Giả mẫu đang lúc tâm thần hoảng hốt, đứng dưới hành lang nghe
ngóng. Hình phu nhân, Vương phu nhân, Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư, chị em
Nghênh Xuân và Tiết phu nhân đều chụm cả một chỗ chờ tin. Giả mẫu gọi Lại Đại
vào hỏi kỹ đầu đuôi. Lại Đại bẩm:
- Chúng con chỉ đứng chờ ở ngoài triều phòng thôi, tin tức
trong ấy không biết gì cả. Sau thấy Hạ thái giám chạy ra chúc mừng. Cô lớn nhà
ta đã được phong chức Thượng thư ở cung Phượng Tảo, gia phong là Hiển đức phi.
Sau ông nhà ra cũng dặn bảo chúng con như thế. Hiện giờ ông đi sang Đông cung.
Xin mời cụ và các bà vào tạ ơn ngay.
Giả mẫu nghe vậy mới yên lòng, ai nấy vui tươi hiện ra nét mặt.
Giả mẫu dẫn Hình phu nhân, Vương phu nhân và Vưu thị mặc triều phục theo phẩm
tước, đi bốn cỗ kiệu lớn nói
đuôi nhau vào chầu. Giả Xá, Giả Trân cùng mặc triều phục dẫn
Giả Tường, Giả Dung đi theo hầu Giả mẫu.
Khắp phủ Ninh, Vinh, ai nấy đều vui cười vang trời dậy đất,
chỉ có Bảo Ngọc là lờ như không biết. Đó là vì sao? Vì gần đây Trí Năng ở am Thủy
Nguyệt lẻn vào thành tìm Tần Chung, không ngờ bị Tần Nghiệp biết, đuổi Trí Năng
đi, đánh Tần Chung một trận rồi vì giận quá, đâm ốm mấy hôm thì chết.
Tần Chung vốn người yếu sẵn, đương ốm chưa khỏi, bị một trận
đòn, cha lại vì tức mà chết. Hắn rất băn khoăn hối hận, nên bệnh tình ngày càng
nặng thêm. Thấy thế, Bảo Ngọc áy náy không vui, dù Nguyên Xuân đã được phong chức,
cũng chẳng khuây khỏa nỗi buồn rầu. Giả mẫu khi đi tạ ơn, lúc trở về nhà bè bạn
đến chúc mừng, rồi mọi người trong hai phủ Ninh, Vinh đi lại nhộn nhịp vui mừng
hớn hở, riêng có Bảo Ngọc vẫn hờ hững như không, chẳng hề để ý đến. Vì thế mọi
người cười hắn là chàng ngốc.
May sao có người về báo tin Giả Liễn cùng Đại Ngọc đã về,
ngày mai sẽ đến nhà. Bảo Ngọc lúc ấy mới hơi mừng. Hỏi kỹ nguyên do, biết là nhờ
có Vương Tử Đằng dâng sớ nhiều lần về Giả Vu Thôn, nên mới được nhà vua triệu
Vũ Thôn vào Kinh bộ biến, và chờ ngày bổ dụng. Vũ Thôn là anh em cùng họ với Giả
Liễn, lại có tình thầy trò với Đại Ngọc, nên cùng đi một đường lên đây. Linh cữu
Lâm Như Hải đã được chôn gần mộ tổ. Mọi việc đều đã xong xuôi.
Giả Liễn về Kinh chuyến này cứ theo hành trình thì tháng sau
mới đến nhà. Nhưng vì nghé thấy tin mừng của Nguyên Xuân nên đêm ngày đi gấp,
trên đường đều được bình yên cả.
Bảo Ngọc ngoài việc hỏi sức khỏe của Đại Ngọc ra thì không để
ý đến gì nữa.
Đến quá trưa hôm sau, mới thấy người báo: "Cậu Liễn và
cô Lâm đã về".
Khi gặp mặt, ai nấy mừng mừng, tủi tủi, khóc ầm lên một lúc,
rồi ngỏ lời chúc mừng và an ủi nhau.
Bảo Ngọc nhìn kỹ Đại Ngọc, thấy nét mặt có vẻ xinh xắn hơn
trước. Đại Ngọc mang nhiều sách vở về, sai người quét dọn buồng ngủ, bày biện đồ
đạc, chia các thứ bút giấy cho bọn Bảo Thoa, Nghênh Xuân và Bảo Ngọc. Bảo Ngọc
lấy chuỗi hạt châu thơm của Bắc Tĩnh Vương tặng ngày trước, trịnh trọng đưa cho
Đại Ngọc. Đại Ngọc vứt trả lại nói:
- Cái thứ mà hạng con trai hôi hám đã cầm rồi, tôi không nhận
đâu.
Bảo Ngọc đành phải nhặt về.
Giả Liễn chào hỏi mọi người xong, về buồng, Phượng Thư đương
bận rộn, không lúc nào rỗi, thấy Giả Liễn đi xa về, đành phải bỏ việc ra đón tiếp.
Nhân lúc trong buồng không có người, Phượng Thư cười nói:
- Xin mừng quốc cữu ! Ngài đi đường vất vả lắm nhỉ! Hôm qua
người nhân phi ngựa về báo là hôm nay ngài sẽ về phủ, kẻ hèn mọn này gọi là sửa
một chén rượu tẩy trần, không biết ngài có chiếu cố cho chăng ?
Giả Liễn cười nói:
- Không dám! Không dám! Hậu tình quá! Hậu tình quá.
Bình Nhi và các a hoàn vào chào xong, bưng nước lên, Giả Liễn
hỏi chuyện nhà trong những ngày đi vắng, và an ủi Phượng Thư đã chịu khó trông
coi.
Phượng Thư nói:
- Tôi có làm được việc gì đâu! Hiểu biết thì hẹp, mồm mép lại
vụng, bụng thì thẳng như ruột ngựa, người ta đưa cho cái dùi, mình lại ngỡ là
cái kim. Thấy ai nói khéo thì hay cả nể. Vả lại, tôi ít trải việc, lại nhát
gan, hễ thấy mẹ có điều gì không vừa ý là tôi sợ hãi suốt đêm không ngủ được.
Tôi đã từ chối mấy lần nhưng mẹ không cho, lại bảo là tôi chỉ muốn nhàn rỗi
không chịu học việc. Có biết đâu tôi đã vắt ra biết bao mồ hôi. Từng câu nói phải
giữ gìn, từng bước đi phải rón rén. Cậu đã biết đấy, các chị quản gia nhà này
hay bới chuyện lắm. Lầm một tí là họ bêu ngay ra làm trò cười; hơi nghiệt một
tí là họ oán. Rồi họ nói bóng nói gió, nào là "ngồi trên núi xem hổ đánh
nhau", "mượn dao giết người, "nhờ gió thổi lửa", "cầm
sào đứng trên bờ", "hất bình dầu đổ rồi bỏ mặc đấy", đều là những
lời cạnh khóe của bọn mẹ mìn. Tôi còn ít tuổi, không dọa dẫm được ai, tránh sao
họ chẳng coi tôi bằng nửa con mắt. Đáng buồn cười nữa là việc tang vợ cháu Dung
bên kia, anh Trân hai ba lần quỳ trước mặt mẹ, xin tôi sang trông nom giúp mấy
ngày. Tôi ba bốn lần từ chối, nhưng mẹ nể quá bảo cứ đi, tôi đành phải nhận lời.
Rút cuộc, công việc rối bét, chẳng ra thể thống gì, làm anh Trân đến nay vẫn
còn trách móc phàn nàn. Ngày mai cậu gặp anh ấy, nên nói đỡ cho tôi, rằng tôi
còn ít tuổi, chưa từng trải việc bao giờ. Ai bảo anh ấy cứ giao liều công việc
cho tôi.
Đang nói chuyện, nghe bên ngoài có tiếng người xì xào.
Phượng Thư hỏi:
- Ai đấy?
Bình Nhi vào nói:
- Tiết phu nhân sai Hương Lăng sang hỏi một việc, tôi đã trả
lời và bảo về rồi.
Giả Liễn cười nói:
- Đúng đấy, ta vừa gặp dì Tiết, và một người con gái đến, xem
dáng điệu xinh xắn lắm. Ta nghĩ nhà ta không có người nào như thế. Hỏi mới biết
con bé đó tên gọi Hương Lăng, trước đây vì nó mà xảy ra kiện cáo lôi thôi. Nay
nó là nàng hầu của anh ngốc họ Tiết. Con bé này đã cạo mặt vẽ lông mày (*),
trông lại càng thêm vẻ xinh đẹp. Anh chàng họ Tiết thật là làm nhơ bẩn cả một đời
người ta.
Chú thích:
(*) Có lẽ theo tập quán phong kiến Trung Quốc, con gái khi lấy
chồng mới cạo mặt, vẽ lông mi.
Phượng Thư bĩu môi nói:.
- Hừ! Chuyến này đi Giang Tô, Hàng Châu về, chắc đã biết mùi
đời nhiều rồi, thế mà còn no bụng đói con mắt! Nếu cậu thích thì chẳng khó gì,
để tôi đem Bình Nhi đánh đổi có
được không? Anh chàng họ Tiết là hạng người cầm bát cơm nhưng
vẫn dòm nồi. Một năm nay vì chưa lấy được Hương Lăng, anh chàng đã quấy dì Tiết
nhiều lần. Dì Tiết cho nhan sắc của Hương Lăng chỉ là việc thường, nhưng thấy
con bé đứng đắn, khác hẳn những đứa khác, tính tình lại ôn hòa điềm đạm., các
cô con nhà quyền quý cũng chưa chắc đã ăn đứt được nó. Vừa rồi anh Tiết có sửa
tiệc mời khách, chính thức nhận nó là người trong phòng. Nhưng chưa đầy nửa
tháng, anh ấy lại thoảng đi như không, chẳng khác gì gió thổi qua chuồng ngựa!
Trong khi đang nói chuyện, người hầu vào báo:
- Ông đương chờ cậu ở thư phòng..
Giả Liễn nghe nói vội vàng mặc áo đi ra.
Phượng Thư mới quay sang hỏi Bình Nhi:.
- Vừa rồi dì Tiết sai Hương Lăng đến hỏi việc gì thế?
Bình Nhi nói:
- Có Hương Lăng nào đâu. Đó là tôi nói dối đấy. Mợ xem, chị
Vượng chẳng có ý tứ gì cả.
Rồi đến cạnh Phượng Thư nói khẽ:
- Món tiền lãi ấy sớm tối mang đến lúc nào chẳng được, lại
nhè vào lúc cậu đương ở nhà. May sao tôi gặp ở ngoài thềm, nếu không thì chị ta
đã chạy thẳng vào buồng đưa cho mợ, thế là cậu sẽ trông thấy. Tính cậu thì còn
lạ gì, tiền bạc có bỏ trong vạc dầu sôi cũng lấy ra được. Nếu biết mợ có tiền để
riêng, cậu lại không tha hồ phung phí hay sao? Thấy thế, tôi chạy ngay ra đón, nói
cho chị ấy mấy câu. Ngờ đâu mợ lại nghe thấy. Nhưng vì cậu đương ngồi đấy, nên
tôi phải nói dối là Hương Lăng sang.
Phượng Thư nghe rềi cười nói:
- Ta biết mà. Dì Tiết biết cậu về rồi, vô cớ sai người sang
làm gì. Hóa ra con ranh này nói dối.
Đang ngồi nói chuyện thì Giả Liễn về. Phượng Thư sai dọn rượu.
Vợ chồng ngồi đối diện với nhau. Phượng Thư tuy uống được, nhưng không dám lai
láng vui quá chén, chỉ ngồi hầu Giả Liễn uống. Giữa lúc đó, vú nuôi Giả Liễn là
họ Triệu đến.
Giả Liễn, Phượng Thư vội vàng mời ngồi lên giường, uống rượu.
Vú Triệu nhất định không nghe. Bình Nhi đặt ngay một cái bàn riêng và một cái
ghế thấp ở bên cạnh giường mời vú Triệu ngồi. Giả Liễn lấy mấy món ăn ở bàn
mình đặt sang bàn vú Triệu. Phượng Thư nói:
- U không nhai được những món này đâu, không khéo thì gẫy
răng đấy.
Rồi hỏi Bình Nhi:
- Sáng hôm nay ta thấy có món chân giò ninh dừ kia mà. Sao
không bảo nhà bếp hâm nóng rồi mang lên đây u ăn.
Lại nói:
- U ơi con u mới mang rượu Huệ Tuyền về đây, u nếm một chén.
Vú Triệu nói:
- Tôi xin vâng. Mợ cũng uống một chén, sợ gì, không uống nhiều
là được rồi. Lần này tôi đến đây có chút việc chứ có phải vì cơm rượn đâu. Mợ
nên để bụng thương tôi, còn cậu nhà nói thì tử tế lắm, nhưng đến khi có việc
thì quên khuấy tôi đi. Tôi nuôi cậu từ bé, nay cậu đã lớn, tôi cũng già rồi.
Tôi có hai đứa con, nhờ cậu để ý chăm nom giúp, chắc người ngoài chẳng ai dám
hé răng tị nạnh gì. Tôi hai ba lần nói với cậu, cậu cứ ừ tràn, rồi mãi đến nay
vẫn không đâu vào đâu. Hiện giờ được một tin mừng lớn như từ trên trời rơi xuống
là ở đây đang cần dùng người. Vì thế lần này tôi đến nhờ mợ là hơn cả, chứ nhờ
cậu thì có lẽ tôi chết đói mất..
Phượng Thư cười nói:
- U cứ giao hai anh cho tôi. U nuôi cậu ấy từ lúc bé lại
không biết tính cậu ấy à? Cậu ấy thì ruột để ngoài da, chỉ để tâm đến những người
bâng quơ ở đâu ấy. Các anh nhà u nào có thua kém gì ai, sao lại không để ý đến?
Nếu cậu ấy thương đến các anh nhà u thì ai dám nói là không phải. Thế mà cậu ấy
lại hay dễ dãi với người ngoài. Tôi nói thế có lẽ lầm đấy. Người mà chúng ta
coi là "người ngoài", thì cậu ấy lại coi là "người trong (*).
Chú thích:
(*) Phượng Thư có ý ghen chồng coi những người đàn bà ngoài
thân hơn vợ, mới mượn hai tiếng ấy để nói đùa.
Nói đến câu ấy cả nhà đều cười. Vú Triệu cũng cười rộ lên, lại
niệm phật:
- Trong nhà này đã có bóng mặt trời sáng soi. Cậu chúng ta
đâu có chuyện lẫn lộn người trong với người ngoài như thế. Chẳng qua cậu tốt bụng,
cả nể, người ta nằn nì vài câu là không nỡ từ chối đấy thôi.
Phượng Thư cười nói:
- U nói thế chưa đúng, có hạng "người trong" thì cậu
ấy nể nang, nhưng đối với u con chúng ta thì cậu ấy chẳng nể nang gì cả.
Vú Triệu nói:
- Mợ nói thật là chính tình, tôi rất vui. Tôi uống thêm một
chén rượu ngon nữa! Từ nay trở đi, mợ làm chủ, tôi không lo gì
Giả Liễn nghe vậy hơi ngượng, cười nói:
- Thôi đừng nói nhảm nữa, mang cơm ra ăn, còn có việc phải
sang bàn với anh Trân.
Phượng Thư nói:.
- Phải đấy, đừng làm nhỡ việc. Vừa rồi ông gọi cậu sang bảo
việc gì đấy?
- Việc "tỉnh nhân" (*).
Chú thích:
(*) Cung phi được phép về thăm cha mẹ, các thân thuộc, gọi là
"tỉnh nhân”.
- Việc ấy đã được chuẩn y rồi à?
Tuy chưa chắc chắn cả mười, nhưng đã có hy vọng đến chín.
- Đó là đặc ân của hoàng thượng đấy. Xưa nay trong sách,
trong các vở tuồng có nói đến việc này bao giờ.
Vú Triệu nói:
- Tôi già lẫn, chỉ nghe thấy mọi người đồn ầm lên về cái ngày
ấy. Thế nào là "tỉnh nhân" hay không tỉnh nhân, tôi cũng chẳng để ý đến.
Bây giờ lại nói đến việc "tỉnh nhân", sự thực đầu đuôi ra thế nào?
Giả Liễn nói:.
- Hoàng thượng bây giờ thể tất lòng mọi người, nghĩ rằng việc
lớn trên đời không gì bằng chữ hiếu. Xưa nay lòng cha mẹ và con cái, không cứ
sang hèn, ai cũng thế cả. Hoàng thượng cho rằng chính người ngày đêm hầu hạ
thái hoàng thượng, hoàng thái hậu, còn sợ chưa làm tròn được đạo hiếu. Người thấy
các phi tần, tài nhân vào cung lâu năm, xa cách cha mẹ, có lẽ nào lại không
thương nhớ. Con thương nhớ cha mẹ đã đành, cha mẹ ở nhà cũng thương nhớ con, nếu
không được gặp mặt, sinh ra đau ốm, đến chết, thế là tại ta giam hãm, khiến bao
người không được trọn đạo luân thường, thương tổn đến hòa khí của trời đất. Vì
thế người tâu lên thái thượng hoàng, hoàng thái hậu, mỗi tháng đến ngày hai,
ngày sáu. Cung phi được phép vào thăm Thái thượng hoàng và hoàng thái hậu rất
vui, khen người là bậc nhân hiếu, biết thể tất lòng trời, nghĩ đến muôn vật. Vì
thế hai vị lão thánh nhân ban chỉ dụ xuống: "Các thân thuộc vào cung thăm
nom, bị nghi lễ của nhà vua ràng buộc, chắc chưa được thỏa lòng. Nay ban đại ân
rộng rãi hơn, trừ những ngày được vào thăm, còn đặc cách cho phép những người
thân thuộc, nếu ai có nhà cửa riêng làm nơi nghỉ chân và tiện canh phòng, thì
được phép xin với nội đình rước xe cung phi về thăm nhà, như thế là vẹn tình
riêng cốt nhục, và cũng được trọn đạo luân thường". Chỉ dụ vừa đưa xuống,
ai nấy nhảy nhót mừng rỡ đội ơn. Hiện nay phụ thân Chu quí phi đã khởi công sửa
nhà riêng, phụ thân Ngô quí phi là Ngô Thiên Hựu cũng đã ra ngoài thành tìm nơi
làm nhà riêng rồi. Như thế có phải việc này đã chắc được tám chín phần không?
Vú Triệu nói:
- A di đà phật. Nếu quả như thế thì phủ ta đây cũng phải sửa
soạn đón tiếp cô lớn nhà ta.
Giả Liễn nói:
- Chẳng phải nói, nếu không thì bây giờ còn phải bận việc gì?
Phượng Thư cười nói:
- Nếu quả như thế, thì phen này tôi được thấy một việc lớn nhất
đời. Tiếc rằng tôi sinh sau đẻ muộn, nếu sớm độ hai ba mươi năm, thì còn ai dám
khinh tôi là không biết việc đời. Thấy nói ngày trước đức Thái tổ hoàng đế ta bắt
chước việc vua Thuấn đi tuần, quang cảnh nhộn nhịp hơn cả những chuyện trong
sách, nhưng tôi không được trông thấy.
Vú Triệu nói:.
- Ối chà! Thực là một việc nghìn năm hiếm có! Tôi nhớ họ Giả
nhà ta hồi còn ở miền Cô Tô, Dương Châu, trông nom việc đóng thuyền bể, và sửa
sang đường bể, chỉ có sửa soạn đón tiếp vua một lần, mà tiền bạc tiêu như bể nước.
Nhắc đến thì...
Phượng Thư vội nói tiếp:
- Họ Vương nhà tôi cũng đã sửa soạn đón tiếp vua một lần rồi.
Bấy giờ ông tôi còn giữ riêng việc đón tiếp người các nước đến triều cống. Người
nước ngoài đến, đều do nhà tôi tiếp đãi cả. Những thuyền bè hàng hóa ở ngoài đến
các tỉnh Việt, (*)
Mân, Điền, Chiếng đều là của nhà tôi.
Chú thích:
(*) Việt, Quảng Đông, Mân, Phúc Kiên, Điền, Vân Nam, Chiết,
Chiết Giang.
Vú Triệu nói:
- Ai chẳng biết việc ấy? Hiện giờ còn có câu tục ngữ
"Vua Đông Hải thiếu ngọc trắng làm giường, phải đến vay Kim Lăng nửa lạng".
Câu ấy chỉ vào nhà mợ đấy. Lại còn nhà họ Chân ở Giang Nam. Ôi chà! Thần thế
như trời! một mình nhà ấy đón vua bốn lần. Nếu không phải chính mắt chúng tôi
trông thấy, thì nói không ai tin. Không những coi tiền bạc như bùn, mà các thứ ở
đời, hết thảy đều có, cứ chồng chất như rừng như núi ấy. Nhưng tránh sao khỏi bốn
chữ "Tội lỗi đáng tiếc".
Phượng Thư nói:
- Ông tôi cũng nói thế, lẽ nào lại không tin. Nhưng lạ thật
sao nhà ấy lại giàu sang được như thế.
Vú Triệu nói:
- Tôi bảo mợ câu này nhé: chẳng qua lấy tiền bạc của nhà vua
đem đập vào bản thân nhà đấy thôi! Chứ ai thừa tiền mua lấy cái náo nhiệt hão ấy!
Đương nói chuyện, Vương phu nhân sai người đến xem Phượng Thư
ăn cơm xong chưa. Phượng Thư biết có việc, vội ăn cơm, súc miệng toan đi, lại
có người hầu vào báo:
- Cậu Dung và cậu Tường ở phủ Đông sang chơi.
Giả Liễn vừa súc miệng xong, Bình Nhi bưng nước rửa tay đến,
Giả Liễn thấy hai người vào, liền hỏi:
- Sang có việc gì?
Phượng Thư cũng đứng lại. Giả Dung nói:
- Cha cháu sai sang trình chú biết, các ông đã bàn định xong
rồi. Khoảng đất từ phía đông nối liền với vườn hoa phủ Đông, đến phía tây bắc
dài độ ba dặm rưỡi, chỗ ấy có thể lập nhà "tỉnh nhân" được. Cha cháu
đã sai người vẽ bản đồ, ngày mai thì xong. Chú mới về, chắc hãy còn mệt, không
cần phải sang bên cháu vội. Có việc gì, ngày mai sẽ mời chú sang bàn.
Giả Liên cười nói:
- Cảm ơn ông anh có lòng thể tất, tôi xin vâng lời, không
sang nữa, ý định như thế là phải, vừa bớt được công việc, xây dựng cũng dễ hơn,
nếu chọn nơi khác, tốn kém nhiều mà chưa chắc đã ra trò. Cháu về trình với cha
cháu: “làm thế rất tốt”; nếu các ông muốn thay đổi chỗ khác thì cha cháu nên
can ngăn đi. Sáng mai chú sẽ sang thăm và bàn kỹ.
Giả Dung liền đáp "vâng".
Giả Tường lại đến gần nói:
- Ông sai cháu đem hai người con bác quản gia họ Lại cùng đi
với hai vị khách là Đan Sính Nhân và Bốc Cố Tu xuốngCô Tô đón phường hát, chọn
mua con gái bé, sắm sữa nhưng đồ âm nhạc và đồ hát tuồng. Cháu đến trình để chú
biết.
Giả Liễn nghe nói, ngắm nghía Giả Tường rồi cười nói:
- Cháu có thạo việc này không? Nói tuy không quan hệ lắm,
nhưng trong đó cũng có thể có chuyện tệ lậu đấy.
Giả Tường cười nói:
- Cháu hỏi han người ta rồi cũng làm được.
Giả Dung đứng sau bóng đèn, khẽ kéo áo Phượng Thư.
Phượng Thư hiểu ý, cũng khẽ xua tay làm như không biết.
Rồi cười nói:
- Cậu hay lo xa quá, có lẽ nào ông anh không biết dùng người
bằng chúng ta. Cậu lại sợ cháu không thạo việc à! Chưa chắc ai thạo hơn ai. Vả
chăng các cháu đã lớn cả rồi, tuy chưa ăn thịt lợn, nhưng cũng đã trông thấy lợn
(*). Chuyện ông anh sai cháu đi, chẳng qua để đóng vai ông tướng ngồi cầm cờ lệnh
đó thôi, chứ có phải bảo đi tính toán giá cả và xếp đặt công việc đâu. Theo ý
tôi, cháu đi được đấy.
Chú thích:
(*) ý nói việc tuy chưa làm bao giờ, nhưng đã trông thấy người
ta làm.
Giả Liễn nói:
- Việc ấy cố nhiên rồi; không phải tôi muốn ngăn giữ đâu,
nhưng cũng nên bàn tính trước hộ cháu một tí. Nhân hỏi: “món tiền ấy thì lấy ở
đâu?"
Giả Tường nói:
- Việc này vừa rồi đã bàn đến. Bác lại nói: "Không cần
phải mang tiền ở nhà đi. Hiện giờ nhà họ Chân ở Giang Nam có giữ của nhà ta năm
vạn bạc. Ngày mai viết một lá thư và phiếu nhận tiền giao chúng cháu mang đi, lấy
ba vạn, còn hai vạn hãy gửi lại để chi việc sắm sữa đèn nến, cờ và màn.
Giả Liễn gật đầu nói:
Phượng Thư vội bảo Giả Tường:
- Đã thế thì ta có hai người thạo việc, cháu nên mang đi
theo, càng dễ dàng cho công việc của cháu.
Giả Tường vội cười nói:
- May quá, cháu đang định xin thêm hai người.
Rồi hỏi tên hai người ấy, Phượng Thư hỏi lại vú Triệu.
Bấy giờ vú Triệu đương ngồi ngẩn ra nghe chuyện, Bình Nhi cười,
đẩy một cái, vú Triệu mới tỉnh lại, vội nói:.
- Một đứa là Triệu Thiên Lương, một đứa là Triệu Thiên Đống.
Phượng Thư nói:
- Đừng có quên nhé. Thôi ta đi làm việc của ta đây.
Nói xong đi ngay. Giả Dung vội theo sau khẽ cười nói:
- Thím cần thứ gì, thì xin kê đơn, cháu sẽ mau đủ mang về.
Phượng Thư cười nói:
- Thèm vào! Mi định lễ lạt để lấy lòng ta à? Ta không ưa những
trò thầm thầm thụt thụt ấy!
Nói xong cười rồi đi...
Bấy giờ Giả Tường cũng hỏi Giả Liễn, có cần gì sẽ mua về biếu,
Giả Liễn cười nói:
- Cháu đừng hí hởn vội, mới bắt đầu học việc, đã học ngay những
trò ấy. Thiếu thứ gì ta sẽ viết giấy báo sau.
Nói xong, bảo Giả Dung và Giả Tường về.
Sau đó ba bốn lần có người vào trình việc, Giả Liễn mệt, bảo
người canh cửa, hết thảy không được một ai vào trình. Có việc gì chờ đến ngày
mai. Phượng Thư thì mãi đến canh ba mới đi ngủ.
Sáng hôm sau, Giả Liễn trở lên thăm Giả Xá, Giả Chính, rồi
sang phủ Ninh họp tất cả những người nhà thạo việc, cùng bọn gia khách đi xem
xét khu đất hai phủ, vẽ bản đồ nhà "tỉnh nhân", rồi cắt đặt người nào
vào việc nấy. Từ đó, các loại thợ
thuyền đến đủ mặt. Nhưng đồ vàng, bạc, đồng, thiếc, gỗ lạt, gạch
ngói, chuyên chở không ngớt. Trước hết, sai thợ phá hết những nhà cửa, tường
vách trong vườn Hội Phương ở phủ Ninh thông thẳng đến nhà lớn phía đông phủ
Vinh. Một dãy những phòng của người nhà ở bên đông phủ Vinh cũng phá hết.
Nguyên là hai phủ Ninh, Vinh có một cái ngõ nhỏ ngăn đôi. Ngõ này là đất tư,
không phải đường công, nhưng vẫn để đi lại. Trong vườn Hội Phương, có một dòng
suối từ góc tường phía bắc chảy qua,. cũng không phải khơi thêm nữa. cây cối
núi non tuy chưa có mấy, nhưng vì chỗ ở của Giả Xá là vườn cũ của phủ Vinh, nên
những núi non, cây cối, đình, tạ, hành lang đều có thể dời đến đấy được cả. Hai
nơi gần nhau họp thành một chỗ, có thể đỡ được nhiều sức người và tiền của. Dù
có thiếu cũng không tốn kém mấy. Lại nhờ được một nhà nổi tiếng về cách bài trí
vườn hoa cây cảnh, núi non bộ là Sơn Tử Giã vẽ đồ bản, trù tính việc khởi công.
Giả Chính không quen công việc, nhất nhất đều nhờ bọn Giả Xá,
Giả Trân, Giả Liễn, Lại Đại, Lại Thăng, Lâm Hiếu,Ngô Tân Đăng, Thiềm Quang,
Trình Nhật Hưng trông nom xếp đặt. Nào là đắp núi, đào ao, xây lầu, dựng gác,
trồng trúc, vun hoa, còn cách sắp xếp đã có Sơn Tử Giả. Khi tan chầu nhàn rỗi,
Giả Chính chỉ đi ngắm nghía các nơi, có việc gì cần thì bàn với Giả Xá. Giả Xá
cũng nằm khểnh ở nhà, có việc vặt, thì bọn Giả Trân hoặc đến hỏi, hoặc viết giấy
trình, khi muốn bảo ban việc gì thì gọi bọn Giả Liễn, Lại Đại đến truyền lệnh.
Giả Dung chuyên coi việc làm đồ vàng bạc, Giả Tường thì đi Cô Tô. Bọn Giả Trân,
Lại Đại thì điểm số người, làm danh sách, trông coi thợ thuyền. Công việc nhộn
nhịp, tấp nập không thể kể xiết.
Gần đây Bảo Ngọc vì trong nhà bận việc, Giả Chính không hay hỏi
đến việc học, trong bụng rất là thư thái. Không ngờ bệnh Tần Chung càng ngày
càng nặng, nên trong lòng áy náy không vui. Một hôm, Bảo Ngọc dậy sớm, rửa mặt
xong, định sang xin phép Giả mẫu đi thăm Tần Chung. Chợt thấy Đinh Yên ở ngoài
cửa thứ hai thập thò dòm vào, Bảo Ngọc vội ra hỏi việc gì Đinh Yên nói:
- Cậu Tần nguy lắm rồi!
Bảo Ngọc nghe nói giật mình vội hỏi:
- Hôm trước ta đến thăm, nó còn tỉnh táo kia mà, sao đã nguy
kịch ngay thế ?
Đinh Yên nói:
- Con cũng không biết, vừa rồi người nhà cậu ấy đến nói thế!
Bảo Ngọc nghe xong, quay lại xin phép Giả mẫu. Giả mẫu sai
người cẩn thận đi theo và bảo:
- Đến đấy thăm nom để tỏ tình bạn học, xong phải về ngay,
không được ở lâu. Bảo Ngọc vội về thay quần áo. Ra đến ngoài, xe chưa sửa soạn
kịp, cứ phải chạy loanh quanh khắp thềm. Giục mãi, xe mới kéo đến, Bảo Ngọc nhảy
lên đi ngay. Lý Quí, Đinh Yên đi theo hầu. Khi đến cửa nhà họ Tần, thấy vắng
tanh vắng ngắt, chẳng có một ai. Bọn Bảo Ngọc chạy ùa vào nhà trong, làm mấy
người thím, chị dâu và các chị em của Tần Chung lẩn tránh không kịp.
Bấy giờ Tần Chung đã hai ba lần ngất đi. Thay chiếu (*) đã
lâu rồi.
Chú thích:
(*) Về sau dùng lắm danh từ chỉ chung cho người đã chết.
Bảo Ngọc trông thấy, không cầm nổi lòng thương, khóc òa lên.
Lý Quí vội khuyên:
- Cậu đừng khóc. Cậu Tần yếu lắm, sợ nằm trên giường cứng
quá, khó chịu, nên vực xuống nằm đó cho thoải mái đấy thôi. Cậu khóc chỉ làm
cho cậu ấy ốm thêm.
Bảo Ngọc nghe nói mới nín, đến gần, thấy Tần Chung mặt trắng
bệch như nến, mắt nhắm, thở thoi thóp trên gối.
Bảo Ngọc vội gọi:
- Kình Kha ơi! Bảo Ngọc đến đây. - Gọi luôn hai ba tiếng, Tần
Chung vẫn không mở mắt, Bảo Ngọc lại kêu to:
- Bảo Ngọc đến đây.
Bấy giờ Tần Chung hồn đang lìa xác, chỉ còn một tí hơi thừa ở
ngực. Hắn thấy nhiều quỉ sứ cầm bài mang thừng đến bắt, nhưng khi nào hắn chịu
đi ngay. Nghĩ đến nhà không có
người trông nom, nghĩ đến ba bốn nghìn lạng bạc của cha để lại
nghĩ đến Trí Năng hiện bơ vơ không có chỗ nương tựa, hắn phải khẩn khoản van
xin bọn quỉ sứ. Nhưng chúng không nghe, quát mắng: "Anh là người đọc sách
mà không biết câu: “Theo tục lệ cũ, người chết rồi, thì thay chiếu nằm. Diêm
Vương bảo canh ba phải chết. Ai dám chờ đến trống canh năm. Chúng ta ở âm phủ đều
là những người mặt sắt, không thiên tư gì, không như ở dương gian, nể nang tình
vị, làm lỡ cả việc”.
Đương lúc ồn ào, hồn phách Tần Chung chợt nghe thấy bốn tiếng
"Bảo Ngọc đến đây", lại vội van nài:
- Xin các vị từ bi một chút, cho tôi trở về nói rốt một lời với
người bạn thân rồi xin đi ngay.
Quỉ sứ nói:
- Lại còn bạn thân nào?
Tần Chung nói:
- Không dám nói dối các vị, người ấy là cháu Vinh quốc công,
tên gọi Bảo Ngọc.
Phán quan nghe nới sợ hãi, vội vàng đứng lên mắng lũ quỉ sứ:
- Ta đã bảo các ngươi lôi nó đi ngay, các người không nghe lời,
để có người vận đỏ đến quấy rối, thì làm thế nào bây giờ ?
Lũ quỉ sứ nghe phán quan nói thế, sợ quá, chân tay luống cuống
một mặt lại hậm hực:
- Trước kia ngài quát tháo ầm lên như sấm ran, sét nổ, là vì
chưa nghe thấy hai chữ "Bảo Ngọc". Theo ý chúng tôi, nó ở dương gian,
ta ở âm phủ, cần gì phải sợ nó.
Phán quan lại càng tức giận, gắt ầm lên:
- Đồ chó? Tục ngữ có câu: “Quan thiên hạ trị dân thiên hạ!”
Xưa nay người với quỷ là một, âm dương không hai. Mặc dầu anh
ta ở âm hay ở dương, cũng phải kính trọng, không được sai trái. Lũ quỷ nghe vậy,
đành phải tha hồn Tần Chung về. Hữ một tiếng, hai mắt hé mở, thấy Bảo Ngọc ngồi
bên cạnh, Tần Chung gắng gượng thở dài:
- Sao anh không lại sớm? Chậm chút nữa em sẽ không được gặp.
Bảo Ngọc cầm tay Tần Chung, nước mắt giàn giụa:
- Có dặn lại câu gì không?
Tần Chung nói:
- Không có gì đáng dặn cả. Trước đây anh em ta cứ tưởng cao
quý hơn đời, nay mới biết là sai. Sau này anh nên quyết chí công danh làm rạng
rỡ ông cha mới đúng.
Nói xong thở dài một tiếng, lặng lẽ qua đời.
Hồi 17 - 18:
Đề câu đối trong vườn Đại Quan, thử tài Bảo Ngọc
Về thăm nhà ở phủ Vinh Quốc, gặp tiết nguyên tiêu
Giàu sang là đáng thích,
Ly biệt lại khôn khuây.
Tiếng hão dành mua được,
Ai hay nỗi đắng cay.
Tần Chung chết rồi, Bảo Ngọc khóc lóc mãi, bọn Lý Quí phải
khuyên giải, khi về nhà hãy còn ngậm ngùi thương xót.
Giả mẫu đã gửi giúp mấy chục lạng bạc, lại sắm sửa lễ vật để
Bảo Ngọc đến viếng. Sau bảy ngày chốn cất xong, Bảo Ngọc nhớ tiếc, nhưng chẳng
làm thế nào, và cũng chẳng biết bao giờ mới nguôi được.
Một hôm, Giả Trân đến trình Giả Chính:
- Công việc sửa sang trong vườn đã xong, ông Cả đã đến xem,
chỉ chờ ông đến xem có chỗ nào chưa ổn thì sửa sang lại, và cần phải đề biển,
câu đối.
Giả Chính nghĩ một lúc, rồi nói:
- Đề biển và câu đối là một việc khó, cứ nhẽ ra thì xin Quý
phi mới phải. Nhưng người chưa trông thấy thì cũng khó nghĩ phỏng ra được. Nếu
chờ khi người đến, thì bao nhiêu cảnh trí, bao nhiêu lâu đài, lại không có một
chữ đề vào, mặc dù cây hoa non nước có đẹp đẽ dường nào, cũng kém phần sinh sắc.
Bọn gia khách đứng bên cạnh nói:
- Ngài nghĩ rất phải. Cứ ý chúng tôi thì biển và câu đối
không thể thiếu, nhưng cũng không thể đặt tên trước được.
Bây giờ tùy theo từng cảnh mà đề hai, ba, bốn chữ gì na ná
cho hợp rồi làm bằng đèn lồng treo tạm lên đã, chờ khi Quý phi đi du ngoạn, sẽ
xin người đặt tên, như thế có tiện không.
Giả Chính nói:
- Nghĩ thế đúng đấy. Bây giờ chúng ta hãy đi xem các nơi, rồi
cứ đề đi, nếu ổn thì dùng, không ổn thì nhờ ông Vũ Thôn đến sửa lại.
Mọi người cười nói:.
- Hôm nay ngài nghĩ chắc là hay, cần gì phải đợi ông Vũ Thôn.
Giả Chính cười nói:
- Các ông không biết, tôi từ bé đến giờ, về việc vịnh chim
hoa non nước, cũng thường thôi. Bây giờ có tuổi, lại bận việc văn án nhiều, nên
thú ngâm vịnh lại càng xao nhãng. Dù có nghĩ ra thì cũng quê mùa, lại làm cho
vườn hoa cây cảnh kém phần xinh đẹp, chẳng còn thú gì!
Bọn gia khách nói:
- Cái đó không ngại, chúng tôi cùng nghĩ, ai nấy đều theo sở
trường của mình, hay thì để, dở thì bỏ, cũng chẳng hề gì.
- Như thế phải đấy. Hôm nay khí trời ấm áp, chúng ta đi chơi
một lượt.
Nói rồi đứng dậy dẫn mọi người đi. Giả Trân đi trước, báo cho
mọi người biết.
Bảo Ngọc hồi này vì nhớ Tần Chung, lòng thương xót mãi. Thấy
vậy Giả mẫu thường sai người dẫn đến vườn mới dạo cảnh cho khuây. Một hôm, vừa
vào đến vườn, chợt gặp Giả Trân. Giả Trân cười bảo:
- Sao chú không tránh đi chỗ khác, chốc nữa ông đến đấy.
Bảo Ngọc nghe nói, dẫn ngay lũ hầu, chạy vút ra khỏi vườn. Vừa
đi đến quãng đường vòng, thì gặp ngay Giả Chính dẫn các gia khách đến. Bảo Ngọc
tránh không kịp, đành phải đứng về một bên.
Gần đây Giả Chính thường nghe Đại Nho khen Bảo Ngọc làm câu đối
khá; tuy không thích học, nhưng có tài vặt. Vì thế Giả Chính bảo Bảo Ngọc đi
theo vào trong vườn, ý muốn thử tài xem sao. Bảo Ngọc chưa biết ý định của bố,
đành phải đi theo. Vừa đến cửa vườn, đã thấy Giả Trân dẫn các người chấp sự đứng
hầu một bên. Giả Chính bảo:
- Cháu hãy cho đóng cửa vườn lại, để chúng ta xem bên ngoài
đã, rồi sẽ vào sau.
Giả Trân sai người đóng cửa lại.
Giả Chính trước hết đứng ngắm nghía năm gian cửa chính, nóc
nhà cong, lợp ngói ống, cánh cửa và bực cửa đều chạm trổ theo kiểu mới, không
sơn vẽ hoa hòe; một dãy tường quét vôi trắng xóa, dưới thềm lát đá trắng thành
hình hoa sen.
Nhìn hai bên tường trắng như tuyết, dưới xây đá có vân như da
hổ, không lòe loẹt như lối nhà giàu thô tục. Giả Chính lấy làm thích, bảo mở cửa
đi vào. Thoạt nhìn, một dãy núi xanh chắn ngay trước mặt. Các gia khách đều
nói:
- Núi đẹp thật!
Giả Chính nói:
- Nếu không có núi này, thì khi vào sẽ trông thấy hết cả các
cảnh đẹp ở trong vườn, còn thú gì nữa?
Mọi người nói:
- Rất đúng. Nếu ngài không có kiến thức rộng rãi thì làm sao
nghĩ được như thế!
Đi vào tận nơi, thấy đá trắng chồng chất, hoặc như hình quỷ
quái hoặc như hình thú dữ, ngang dọc đứng chầu nhau, bên trên, rêu xanh lấm tấm,
cây leo chỗ thưa, chỗ nhặt, ở giữa hiện lên một con đường nhỏ quanh co. Giả
Chính nói:
- Chúng ta vào con đường này chơi, rồi ra đường bên kia, thế
mới nhìn khắp được.
Rồi bảo Giả Trân dẫn đường, còn mình thì dắt Bảo Ngọc đi
quanh lên núi. Ngẩng lên trông thấy phía trước có một tảng đá mặt nhẵn như
gương, chính là chỗ đáng để đề thơ.
Giả Chính quay lại hỏi:
- Các ông xem chỗ này nên đề thế nào cho hay?
Có người xin đề hai chữ "Điệp thúy" (1), có người
xin đề: “cẩm chướng" (2), có người xin đề: "Trại Hương lô” (3).
Lại có người xin đề: “tiểu Chung Nam” (4).
Tất cả hàng mấy chục tên.
Mọi người biết Giả Chính muốn thử tài Bảo Ngọc, cho nên đều
nghĩ mấy chữ sáo mép cho qua. Bảo Ngọc cũng biết ý ấy.
Giả Chính nghe xong, ngoảnh lại hỏi Bảo Ngọc. Bảo Ngọc nói:
- Cổ nhân có câu: "Mới không bằng cũ, cổ vẫn hơn
kim". Nơi này không phải là nơi chính, chẳng qua là bước đầu vào vườn ngắm
cảnh, chưa thể đề gì được. Sao bằng dùng ngay mấy chữ cũ: "Khúc kín thông
u” (5) mới có nghĩa bao quát và hàm súc.
Mọi người khen:.
- Phải lắm! Hay lắm! Cậu Hai thông minh, tài tình, không
như chúng tôi là hạng mọt sách.
Giả Chính cười nói:
- Không nên khen nó quá, nó còn bé, chẳng qua nghĩa mười hiểu
một, góp làm trò cười đấy thôi, để sau bàn lại.
Mọi người lại đi vào hang đá, thấy cây đẹp xanh um, hoa lá rực
rỡ, một dòng nước trong từ chỗ cây cối đằng xa chảy xuống khe đá. Đi mấy bước nữa,
rẽ sang phía bắc, có một chỗ rộng phẳng, hai bên có lầu cao vút, nóc vẽ, cột
sơn, ẩn núp dưới sườn núi ngọn cây. Cúi xuống nhìn thì thấy dòng trong chảy ngọc,
bực đá xuyên mây, lan can đá trắng, bao lượn quanh hồ.
Đầu cầu đá ba nhịp con thú giả trông như khi ngậm vào, khi nhả
ra. Trên cầu có cái đình.
Giả Chính cùng mọi người vào ngồi trong đình, hỏi:
- Theo ý các ông nên đề chữ gì ở đây?
Mọi người đều nói:
- Ngày trước trong bài “ký túy ông đình" của Âu Dương
Tu(6) có câu “hữu đình dục nhiên”(7) vậy nên đặt là "Dục nhiên”.
Giả Chính nói:
- Dục nhiên hay thật, nhưng đình này ở trên mặt nước, cũng
nên nói đến nước mới phải. Cứ ý tôi nghĩ, Âu Dương Tu có câu “Tá ư lưỡng phong
chi gian” (8), vậy nên dùng chữ tá mới được.
Có một người khách nói:
- Phải lắm! Thế thì nên dùng hai chữ “Tả ngọc” (9) là hay.
Giả Chính vuốt râu ngẫm nghĩ, rồi sai Bảo Ngọc cũng thử nghĩ
xem.
Bảo Ngọc nói:
- Cha vừa dạy rất phải, nhưng xét cho kỹ, có lẽ ngày trước Âu
Dương Tu dùng chữ "tả" đề vào Nhượng tuyền (10) thì đúng, bây giờ dùng
chữ "tả” ở đây hình như chưa ổn. Huống chi đây là biệt thự "tỉnh
nhân", cũng nên theo như thể văn ứng chế, nếu dùng chữ "tả ngọc",
con sợ thô lậu không nhã. Xin đề thế nào cho có nghĩa sâu xa hơn.
Giả Chính cười nói:
- Các ông nghe nó nói thế nào? Vừa rồi mọi người đặt chữ mới,
thì mày bảo không bằng dùng chữ cũ; bây giờ dùng chữ cũ, mày lại bảo là không ổn!
Thế mày định dùng chữ gì?
Bảo Ngọc thưa:
- Dùng hai chữ "Tả ngọc”, sao bằng dùng hai chữ "Thẩm
phương” (11) chẳng mới và lịch sự hay sao?
Giả Chính vuốt râu, gật đầu không nói gì. Mọi người chìu ý
ngay, khen Bảo Ngọc tài tình khác thường. Giả Chính nói:
- Đề hai chữ trên biển cũng dễ, thử làm đôi câu đối bảy chữ
xem sao.
Bảo Ngọc nhìn quanh một lượt, nghĩ ngay ra, bèn đọc:
Quanh bờ vẻ biếc ba hàng hiên.
Cách bến mùi thơm một dây hoa.
Giả Chính nghe xong gật đầu mỉm cười. Mọi người lại khen ngợi
một hồi. Ra khỏi đình, sang qua ao, từ một ngọn núi, một hòn đá, một bông hoa,
một gốc cây chỗ nào họ cũng để ý ngắm nghía. Chợt ngẩng đầu lên thấy trước mặt
một dãy tường trắng, mấy ngôi nhà con xinh xắn, thấp thoáng trong đám hàng
nghìn khóm trúc xanh. Mọi người đều nói: "Chỗ này nhã thật!”
Rồi cùng đi vào. Bước vào cửa là một dãy hành lang quanh co.
Nước đượm mùi thơm.Dưới thềm có con đường đá. Mặt trước ba gian nhà nhỏ, sạch sẽ,
cửa khép, cửa mở. Trong nhà kê bàn ghế giường chiếu ngay ngắn gọn gàng. Từ phía
trong có cửa con đi ra sân sau. Có mấy cây lê cao lớn, mấy cụm chuối um tùm.
Lùi về phía sau, lại có vài gian nhà nhỏ. Chân tường có một dòng suối rộng chừng
một thước quanh co theo thềm đến dãy nhà đằng trước, rồi từ trong những khóm
trúc róc rách chảy ra..
Giả Chính cười nói:
- Chỗ này thú đấy. Đêm trăng mà ngồi dưới cửa sổ đọc sách,
cũng không uổng một đời.
Nói rồi nhìn Bảo Ngọc, Bảo Ngọc sợ quá cúi đầu xuống.
Mọi người vội vàng nói lảng sang chuyện khác. Có hai người
nói:
- Chỗ này nên đề một cái biển bốn chữ.
Giả Chính cười hỏi:
- Bốn chữ gì?
Một người đọc:
- “Kỳ thủy di phong” (12).
Giả Chính nói:
- Quê lắm.
Lại một người đọc:
- Thọ viên nhã tích (13).
Giả Chính nói:
- Cũng quê.
Giả Trân đứng bên cạnh nói:
- Lại đến chú Bảo nghĩ thôi.
Giả Chính nói:
- Nó là đồ khinh bạc, chưa làm nổi đã khen chê người khác.
Mọi người nói:
- Khen chê đúng thì làm thế nào được.
Giả Chính vội nói:
- Thôi! Đừng nuông nó thế.
Rồi bảo:
- Hôm nay cho mày muốn nói gì thì nói, phải bàn cãi ra lẽ đã
rồi mới cho mày làm. Những câu đề vừa rồi, có câu nào được không?
Bảo Ngọc nói:.
- Hình như đều không được cả.
Giả Chính cười nhạt:
- Làm sao mà không được?
Bảo Ngọc nói:
- Đây là nơi ra chơi đầu tiên của Quý phi, nên có những lời
chúc tụng mới phải. Nếu muốn dùng bốn chữ đề biển thì có sẵn của cổ nhân rồi, cần
gì phải làm nữa.
Giả Chính nói:
- "Kỳ thủy" và “thư viên" không phải là chữ của
cổ nhân hay sao?
Bảo Ngọc thưa:
- Mấy chữ ấy cũ lắm, sao bằng đề: “Hữu phượng lai nghi” (14)
còn hơn.
Mọi người nhao lên khen hay. Giả Chính gật đầu nói:
- Thằng ngu! Thực là đồ lấy ống dòm trời, lấy bầu đong biển.
Lại bảo:
- Phải đề một câu đối nữa.
Bảo Ngọc lại đọc.
Bên cửa cờ tan tay vẫn mát,
Trong lò trà cạn khói còn thơm.
Giả Chính lắc đầu:
- Chưa lấy gì làm hay.
Nói xong, dắt mọi người đi ra. Lúc sắp đi, chợt nghĩ việc gì,
Giả Chính hỏi Giả Trân:
- Chỗ này nhà cửa, bàn ghế có đủ, nhưng màn, rèm và các đồ trần
thiết đã xếp đặt đâu vào đấy chưa?
Giả Trân thưa:
- Những đồ trần thiết phải sắm thêm nhiều, đến ngày ấy sẽ đâu
có đấy. Các thứ màn, rèm, hôm nọ chú Liễn nói còn thiếu vì lúc mới khởi công,
đã vẽ đồ bản theo đúng kích thước và sai người đi thửa, hôm qua chắc đã làm được
một nửa.
Giả Chính nghe nói, biết việc này không phải của Giả Trân, liền
cho đi gọi Giả Liễn. Một lúc, Giả Liễn đến. Giả Chính hỏi:
Giả Liễn nghe hỏi, vội vàng rút quyển sổ ở trong ống giày ra
xem, rồi trình:.
- Các thứ đoạn thêu rồng, thêu hoa, các thứ hoa lụa chỉ điều
chỉ viền, các thứ màn che lớn nhỏ cộng một trăm hai mươi chiếc, hôm nọ đã được
tám mươi chiếc, còn thiếu bốn mươi chiếc. Rèm hai trăm chiếc, sắm đủ rồi. Ngoài
ra còn rèm da hai trăm chiếc, rèm trúc sơn đỏ tết chỉ vàng một trăm chiếc, rèm
trúc sơn đen hai trăm chiếc, rèm thêu hoa năm màu hai trăm chiếc, mỗi thứ đã được
một nửa, đến mùa thu thì đủ cả. Gối tựa, khăn bàn, quần giường, đệm ghế, mỗi thứ
một nghìn hai trăm chiếc, đã đủ cả rồi.
Mọi người vừa nói chuyện vừa đi, đã đến một ngọn núi xanh chênh
chếch. Đi vào trong núi, thấp thoáng có một bức tường thấp, đất vàng, trên tường
có rơm che, có mấy trăm cây hoa hạnh, trông như lửa phun, ráng phủ. Mặt trong
có mấy gian nhà tranh, mặt ngoài có những cây dâu, dâm bụt và găng mơn mởn tốt
tươi theo nhau chỗ nhô ra, chỗ lượn vào, đan thành hai hàng rào xanh. Dưới chân
núi, ngoài hàng rào có cái giếng khơi, bên cạnh có gầu và trục kéo nước; mé dưới
có mảnh rộng phẳng lì, có luống rau tươi tốt, trông bát ngát mênh mông.
Giả Chính nói:
- Chỗ này thế mà có ý nghĩa lắm. Tuy tự tay người ta bày đặt
ra, nhưng nhìn đến ai cũng phải cảm xúc, khêu gợi lòng ta muốn về hưởng thú điền
viên. Chúng ta hãy vào đấy nghỉ ngơi xem.
Nói xong đang định đi vào, chợt thấy bên ngoài hàng giậu có một
hòn đá, cũng là chỗ đáng đề thơ. Mọi người cười nói:
- Đẹp lắm! Đẹp lắm! Chỗ này mà treo biển đề chữ, thì hết hẳn
phong vị nhà quê. Dựng một cái bia ở đây lại càng thêm vẻ đẹp. Nếu không có bài
thơ “điền gia" của ông Phạm Thạch Hồ (15) thì không tả hết được cái đẹp của
nó.
Giả Chính nói:
Xin các ông đề cho.
Mọi người nói:
- Vừa rồi cậu Bảo nói làm mới không bằng theo cũ, cổ nhân đã
nói nhiều rồi, chi bằng đề ngay “hạnh hoa thôn" là hay.
Giả Chính nghe nói, cười bảo Giả Trân:
- Nhờ có câu ấy, ta lại nghĩ ra một điều. Chỗ này đẹp cả, chỉ
thiếu một cái kỳ bài bán rượn thôi. Ngày mai làm cho ta một cái, mặt ngoài cứ
theo lối nhà quê, không cần trang hoàng, lấy một con sào treo kỳ bài vào đó rồi
buộc lên ngọn cây là được.
Giả Trân vâng lời, lại thưa:
-Chỗ này không cần nuôi các loài chim đẹp biết hót, chỉ nuôi
ngỗng, vịt, gà... thì mới đúng.
Mọi người đều nói:
-Đúng đấy!.....
Giả Chính lại nói:
-"Hạnh hoa thôn" hay thực, nhưng hiềm vi phạm vào
chính tên thôn của người ta, đợi xin quý phi đặt tên mới phải.
Mọi người nói:
- Phải đấy, nhưng bỏ trống không tiện, cũng nên dùng chữ gì?
Mọi người đương nghĩ, Bảo Ngọc sốt ruột, không chờ Giả Chính
bảo, nói ngay:
-Thơ cũ có câu "Hồng hạnh sao đầu quái tửu kỳ” (16).
Nay xin đề bốn chữ: “thanh liêm tại vọng” (17) là hơn.
Mọi người đều nói:
- Hai chữ “tại vọng" hay lắm, lại ngụ ý "Hạnh hoa”
không.
Bảo Ngọc cười nhạt:
- Tên thôn mà dùng hai chữ "Hạnh hoa" thì quê lắm.
Thơ Đường có câu: “sài môn lâm đạo hoa hương” (18). Sao không dùng ba chữ đạo
hương thôn có hay không?
Mọi người đều vỗ tay khen. Giả Chính quát to:
- Thằng súc sinh ngu ngốc kia, mày biết được mấy vị cổ nhân,
nhớ được mấy bài thơ cũ, đã dám múa mép trước các vị tiền bối? Vừa rồi cho phép
mày nói bừa, chẳng qua ta thử xem mày hay dở thế nào, để làm trò cười đấy thôi.
Mày cứ tưởng thực đấy à?
Nói xong, dẫn mọi người vào trong nhà tranh. Ở đây, cửa sổ
dán giấy, giường gỗ đơn sơ, không có gì là hào hoa phú quý cả.
Giả Chính trong lòng rất sung sướng, lại nhìn Bảo Ngọc nói:
- Chỗ này thế nào?
Mọi người thấy hỏi, đều khẽ đẩy Bảo Ngọc, xui Bảo Ngọc nói là
đẹp. Bảo Ngọc không nghe, nói ngay:
- Xem ra chỗ này kém xa "Hữu phương lai nghi”.
Giả Chính nói:
- Hứ! Đồ ngu xuẩn! Chả biết gì. Mày chỉ thích lầu son gác tía
đẹp đẽ một cách thô tục, biết đâu được cái cảnh u nhã này.
Rút lại chỉ vì lỗi tại mày không chịu đọc sách thôi.
Bảo Ngọc đáp:
- Cha dạy đành là phải, nhưng cổ nhân có nói hai chữ thiên
nhiên con không hiểu ý ra làm sao?
Ai nấy thấy Bảo Ngọc bướng bỉnh, sợ sẽ bị mắng; nay thấy hắn
hỏi nghĩa hai chữ "thiên nhiên" đều vội nói:
- Cái gì cậu cũng hiểu cả, sao lại còn phải hỏi hai chữ
"thiên nhiên". "Thiên nhiên" nghĩa là tự nhiên thiên thành,
không phải sức người làm được.
Bảo Ngọc nói:
- Thế thì chỗ này đặt thánh trang trại, rõ ràng là do người
bày đặt ra. Xa thì không có hàng xóm, gần thì không có thành quách, dựa vào núi
thì không có mạch, trông ra nước thì không có nguồn, chỗ cao thì không có tháp
nhà chùa, chỗ thấp thì không có cầu ra chợ, trơ trọi đứng một mình, không phải
là nơi bao la rộng rãi. Sao bằng mấy nơi trước có vẻ tự nhiên hơn. Tuy có giồng
trúc, khơi suối cũng hơi xuyên tạc, nhưng không hại gì. Cổ nhân có bốn chữ “bục
tranh thiên nhiên”, sợ chỗ này không đáng có thôn trang, và sơn thủy, mà gượng
bày đặt ra, dù khéo léo đến đâu cũng vẫn không hợp.
Bảo Ngọc nói chưa dứt lời, Giả Chính nổi giận thét lên:
- Thôi, bước ngay!
Bảo Ngọc vừa đi ra, Giả Chính lại thét: "Hãy quay lại,
làm thêm câu đối nữa, nếu không làm được thì ta sẽ vả vào mồm".
Bảo Ngọc đành phải đọc:
Giặt vải xanh tươi nguồn dưới bến;
Hái rau thơm đượm khách trong mây.
Giả Chính nghe xong, lắc đầu nói:
- Cũng chẳng ra gì!
Rồi dắt mọi người đi ra, đi quanh sườn núi, khi trong hoa,
khi dưới liễu, khi trên núi, khi bên sông, đến rặng đồ mi, vào giàn mộc hương,
lên đình mẫu đơn, qua vườn thược dược, tới viện tường vi, tựa vào khóm ba tiêu,
ngang dọc, quanh co; chợt nghe thấy tiếng nước ở trong hang đá róc rách chảy
ra, trên thì dây leo lòng thòng rũ xuống, dưới thì hoa rụng rập rờn trôi quanh.
Mọi người đều nói:
- Đẹp lắm!
Giả Chính hỏi:
- Các ông định đề chữ gì?
Mọi người nói:
- Không cần phải nghĩ nữa, cứ viết ba chữ “Vũ lăng
nguyên” (19) là được rồi.
Giả Chính cười nói:.
- Cũ lắm! Lại không đúng sự thực.
Mọi người cười:
- Không thì đề bốn chữ “tần nhân cựu xá” (20) cũng được.
Bảo Ngọc nói:
- Lại càng hỏng nữa. "Tần nhân cựu xá" có ý là
tránh loạn, dùng thế nào được? Chi bằng dùng bốn chữ “liễu đình hoa thì là
hơn (21).
Giả Chính nói:
- Cũng lại nhảm nữa!.
Giả Chính đi vào trong hang, hỏi Giả Trân:
- Có thuyền không?
Giả Trân nói:
- Có bốn thuyền hái hoa sen, một thuyền ngồi chơi, nhưng bây
giờ chưa làm xong.
Giả Chính cười nói:
- Tiếc rằng không vào được.
Giả Trân nói:
- Đi quanh lên núi, sẽ đến nơi.
Nói rồi đi trước dẫn đường. Mọi người níu dây vịn cây đi lên,
thấy mặt nước hoa rụng man mác, dòng suối trong vắt rập rờn quanh co; hai hàng
liễu rủ bên bờ, những cây đào, cây mận, mọc chen nhau che rợp cả bóng mặt trời.
Khắp nơi, không có một chút đất bụi. Trong rặng liễu nhô ra một nhịp cầu, lan
can sơn đỏ.
Qua cầu, đường thông các ngả; xa xa, có một tòa nhà ngói mát
mẻ và một dãy tường hoa. Ở đây mạch núi chính đều xuyên qua tường chia đi các
ngả.
Giả Chính nói:
- Tòa nhà này ở đây chẳng có nghĩa lý gì!
Rồi bước vào cửa. Chợt thấy mặt trước có một quả núi đá lấp
lánh cao ngất trời, xung quanh bao bọc bằng các thứ đá đủ các màu, che kín hẳn
những nhà cửa bên trong. Ở đây, không có một gốc cây, toàn những cỏ lạ hoặc leo
lên núi, hoặc bò ra đất hoặc từ trên núi rủ xuống, hoặc luồn qua khe đá chui
ra; lại có những dây từ mái nhà bò xuống, leo quanh cột chằng chịt cả bờ hè,
như vải xanh phất phơ, như sợi vàng uốn khúc, quả đỏ hoa vàng, hương thơm ngào
ngạt, không một thứ hoa nào có thể bì được.
Giả Chính nói:
- Thú quá! Chỉ hiềm không biết là những loại cỏ gì?
Có người nói là:
- “Tiết lệ đằng la”.
Giả Chính nói:.
- “Tiết lệ đằng la” làm gì có hương thơm lạ này?
Bảo Ngọc nói:
- Thực không phải. Trong loại cỏ này cũng có "tiết lệ đằng
la", nhưng hương thơm là của "đỗ nhược hành vu”. Còn cái giống này,
hình như đây là cỏ "chi lan", kia là cỏ "thanh cát", đây là
"kim đăng”, kia là "ngọc lộ", thứ đỏ kia là "tử vân",
thứ xanh này là "thanh chi". Nhớ đến những cỏ lạ đã nói ở trong Ly
tao văn tuyển (văn của Khôi Nguyện), nào là hoắc nạp, gương vựng, nào là luân tổ,
tử giáng; lại còn có cỏ thạch phàm, thủy tùng, phù lưu; cũng có những cỏ lục
di, đan tiêu, mi vu, phong liên... Nay đã lâu năm, người đời không thể nhớ lại
được, nên cứ trông hình dạng mà đặt tên; dần dần gọi sai đi, có lẽ thế đấy.
Bảo Ngọc nói chưa dứt lời, Giả Chính thét lên:
- Ai hỏi đến mày?
Bảo Ngọc sợ hãi lùi xuống, không dám nói nữa.
Giả Chính thấy hai bên hành lang có tay vịn, nhân tiện đi
vào. Trước mặt, năm gian nhà mát mẻ, giàn hoa dựng lên, bốn mặt hành lang cửa sổ
sơn xanh vách bóng, trông rất thanh nhã. Giả Chính thở dài:
- Ở đây mà pha trà, đánh đàn, thì chẳng cần phải đốt trầm nữa.
Không ngờ lại có chỗ này, các ông chắc phải có những câu hay đề ở đây cho khỏi
phụ cảnh đẹp.
Mọi người cười nói:
- Sao bằng đề bốn chữ "an phong huệ lộ” (22) là thiết thực
hơn.
Giả Chính nói:
- Thế mới được bốn chữ thôi, còn câu đối?
Một người nói:
- Tôi nghĩ được một câu, xin các vị chưa cho. Nói rồi đọc:
Đỗ nhạc ngạt ngào châu minh nguyệt,
Xạ lan sực nức viện tà dương.
Mọi người nói:
- Hay thì hay thực, chỉ có hai chữ "tà dương" chưa ổn.
Người ấy nói:
- Cổ thi có câu “Mi vu mãn viện khấp tà dương” (23).
Mọi người nói:
-Buồn lắm! Buồn lắm!
Lại có một người nói:
- Tôi cũng có một câu, xin các vị chữa cho. Nói xong đọc:
Ba ngõ gió đưa hương ngọc huệ;
Một sân giăng rọi bóng kim lan.
Giả Chính vuốt râu, ngẫm nghĩ, cũng muốn để một câu.
Chợt trông thấy Bảo Ngọc đứng yên bên cạnh, mới thét:
- Sao lúc đáng nói mày không nói, định để người ta mời mày
hay sao?
Bảo Ngọc thưa:
- Chỗ này làm gì có "lan xạ”, "minh nguyệt" và
chơi chữ, nếu cứ kể ra cho hết, thì đề đến hai trăm câu cũng không đủ.
Giả Chính nói:
- Ai gõ đầu mầy bắt phải nói những chữ ấy?
Bảo Ngọc thưa:
- Đã thế thì cái biển nên đề bốn chữ: "Hành chỉ thanh
phân” (24) câu đối thì đề:
Ngâm câu đậu khấu, thơ càng đẹp,
Sao giấc đồ mi, mộng vẫn thơm.
Giả Chính cười nói:
- Mày lại ăn cắp cái câu “thư thành tiễu diệp văn áo lục” (25),
lấy gì làm lạ.
Mọi người nói:
- Bài “phượng hoàng đài” của ông Lý Thái Bạch cũng ăn cắp bài
“hoàng lạc lâu", chỉ cốt ăn cắp khéo là được. Bây giờ cứ nghĩ kỹ ra thì
câu của cậu còn nhã và mạnh hơn câu “thư thành tiễu diệp” nhiều, khéo câu
"thư thành..." lại ăn cắp ở câu này cũng nên.
Giả Chính cười nói:
- Có nhẽ nào thế.
Mọi người đi ra, không mấy chốc đã thấy gác tía nguy nga, lầu
son cao ngất, nhà cửa san sát, đường đi quanh co.
Tùng xanh chạm mái, ngọc lan quanh thềm; mặt thú, đầu ly, sơn
vàng sáng nhoáng. Giả Chính nói:
- Đây là điện chính, xa hoa quá?
Mọi người đều nói:
- Thế mới hợp thể, tuy rằng quý phi thích tiết kiệm thực,
nhưng bây giờ đã tôn quý rồi, lễ nghi như thế, chẳng lấy gì làm quá.
Vừa nói vừa đi, thấy mặt trước có một cái cổng chào xây bằng
ngọc thạch, phía trên long cuốn ly vờn, chạm trổ rất khéo.
Giả Chính nói:
- Chỗ này đề chữ gì được?
Mọi người nói:
- Nên đề "Bồng lai tiên cảnh".
Giả Chính lắc đầu không nói gì.
Bảo Ngọc trông thấy chỗ này, lòng tự nhiên xúc động, hình như
mình đã được thấy ở đâu rồi, nhưng không nhớ ngày tháng năm nào (26).
Giả Chính lại bảo đề, Bảo Ngọc đương ngẫm nghĩ cảnh trước,
không để bụng đến việc này. Mọi người không biết ý, cho là Bảo Ngọc bị quở mắng,
từ bấy đến giờ tinh thần rối loạn, lẩn quẩn nghĩ không ra; nếu giục, sợ xảy ra
sự gì thì không tiện bèn nói với Giả Chính.
- Thôi! Xin để ngày mai sẽ đề.
Giả Chính cũng sợ Giả mẫu không yên lòng, cười nhạt:
- Thằng súc sinh, mày đã đến lúc hết khoe giỏi rồi! Thôi ta hạn
cho mày, đến ngày mai, nếu không đề được, ta nhất định không tha đâu. Chỗ này
quan hệ nhất, phải làm cho hay mới được!
Nói xong, dẫn mọi người đi xem chỗ khác. Kể từ khi vào cửa vườn
đến giờ, mười phần mới đi ngắm được năm sáu. Lúc này, có người vào báo:
"Có ông Vũ Thôn sai người đến trình việc.” Giả Chính cười nói:
- Còn vài chỗ chưa đến được, chúng ta hãy theo đường này đi
ra, thì dù chưa biết hết cũng có thể xem qua loa.
Liền dẫn mọi người đến một cái cầu lớn, thấy nước như rèm thủy
tinh dội vào, thì ra cái cầu này là cửa đập thông ra ngoài sông, khơi thành suối
để dẫn nước vào.
Giả Chính hỏi:
- Đặt tên cái đập nây là gì.
Bảo Ngọc nói:
- Đây là dòng chính của suối "thẩm phương", thì nên
đặt là "đập Thẩm phương”.
Giả Chính nói:.
- Mày lại nói nhảm, không nên dùng hai chữ "thấm
phương".
Mọi người theo đường đi ra, thấy có những nhà rộng, lều
tranh, tường, đá, cửa hoa, dưới núi có chùa, trong rừng có phòng luyện thuốc,
hiên dài, động sâu, nhà vuông, đình tròn.
Giả Chính không đi hết được. Vì đã nửa ngày chưa được nghỉ
ngơi; lưng đau chân mỏi, chợt trông thấy phía trước có một cái nhà. Giả Chính
nói:
- Nơi này có thể nghỉ được!
Liền đi theo con đường nhỏ quanh khóm bích đào, qua cửa tò vò
đan bằng trúc và cài hoa. Chợt thấy tường trắng vây quanh, ngoài có liễu xanh rủ
xuống. Giả chính cùng mọi người đi vào. Hai bên, hành lang nối nhau, ở trong
lác đác mấy ngọn núi. Một bên có mấy khóm chuối; một bên là cây hải đường của
phủ tây, trông như cái tán, dây rủ xanh biếc, hoa đỏ như son.
Một người nói:
- Hoa đẹp nhỉ! Hải đường có nhiều, nhưng chưa thấy cây nào đẹp
như thế này.
Giả Chính nói:
- Đây là "nữ nhi đường”, lấy giống ở nước ngoài. Tục
truyền giống này ở nước Nữ Nhi. Bên ấy có rất nhiều, nhưng cũng là lời hoang đường,
không đáng tin.
Một người nói:
- Bảo rằng hoang đường không đáng tin thì tại sao từ lâu đã
có cái tên ấy.
Bảo Ngọc nói:
- Phần nhiều các nhà ngâm vịnh thấy hoa này đỏ như son, ẻo lả
như có bệnh, gần giống phong độ của người trong khuê các, cho nên đặt tên là
"Nữ Nhi". Có lẽ sau này người đời không thích nghe cái tên ấy, bèn dựa
vào sử sách cho có chứng cớ rồi cứ thế truyền sai mãi đi, để thành sự thực.
Mọi người đều gật đầu khen ngợi, rồi ra ngồi cả ở giường
ngoài hiên. Giả Chính bảo:
- Nên đề mấy câu gì thực mới đây?
Một người khách nói:
- Nên đề hai chữ “tiêu hạc” (27).
- Lại một người nói: "Nên đề bốn chữ "Sùng quang
phiếm thái”(28).
Giả Chính cùng mọi người nói:
- “Sùng quang phiếm thái” hay!
Bảo Ngọc nói:
- Hay đấy, nhưng đáng tiếc
Mọi người hỏi:
- Sao lại đáng tiếc?
Bảo Ngọc nói:
- Chỗ này trồng chuối và hải đường, ám chỉ màu đỏ, màu xanh.
Nếu chỉ nói chuối mà bỏ sót hải đường thì không hay; trái lại nói hải đường mà
bỏ sót chuối cũng không được. Như thế không thể chỉ có chuối mà không có hải đường,
càng không thể chỉ có hải đường mà không có chuối.
Giả Chính nói:
- Ý mày định viết chữ gì?
Bảo Ngọc nói:
- Con muốn viết bốn chữ "Hồng hương lục ngọc" thì mới
đủ cả hai nghĩa.
Giả Chính lắc đầu:
- Không được, không được!
Mọi người vào trong buồng, thấy ở đấy trang trí không giống
các nơi, nhìn chỗ nào cũng như chỗ nào. Nguyên ở đây xung quanh đều ghép gỗ chạm
nổi của những tay thợ rất tài tình: chỗ thì chạm trăm con dơi bay vòng quanh,
chỗ thì chạm ba người bạn mùa đông(29), chỗ thì chạm sông núi, nhân vật, chỗ
thì chạm các thứ chim, cỏ, cây hoa hoặc thập cẩm, hoặc đời cổ hoặc chữ phúc, chữ
thọ, các thứ này đều được khảm vàng ngọc đủ các màu sắc. Có nhiều ô vuông, tròn
khác nhau, theo hình hoa quỳ, lá chuối, vòng tròn hay bán nguyệt để bỏ sách,
bút nghiên, đặt đỉnh, lọ hoa chậu cây. Thực là trăm hoa nghìn gấm, chói lọi khắp
nơi. Chỗ này cửa sổ dán lụa ngũ sắc xinh xắn; chỗ kia cửa che lụa mỏng lờ mờ.
Khắp tường, có bày các đồ cỗ, như đàn, gươm, bầu rượu... đều đặt trong từng ô một,
phẳng lì với mặt trăng. Mọi người đều khen: "Thực là tinh xảo! Làm được thế
này khó lắm!"
Giả Chính chưa đi đến từng thứ hai đã lạc đường, trông
sang bên tả có cửa ra vào, nhìn sang bên hữu có cửa sổ ngăn lại,
tiến lên phía trước bị một tủ sách chắn ngang, quay lại phía sau thấy cửa sổ
che màn lụa trông rõ lối đi. Khi đến nơi, chợt thấy có người lù lù đi lại giống
mình như hệt, đó là cái gương pha lê lớn. Luôn qua cái gương lại thấy nhiều cửa.
Giả Trân cười nói:
- Ông cứ theo tôi, đi đường này ra thì đến sân sau, ở đằng
sau đi ra thì gần hơn đằng trước.
Mọi người đi quanh hai lần cửa gấm, quả nhiên có một lối ra.
Trong sân có nhiều giàn hoa tường vi. Qua hàng rào hoa, thấy có một khe nước chắn
ngang. Mọi người lấy làm lạ nói:
- Dòng nước này từ đâu đến đây?
Giả Trân trỏ ra đằng xa nói:
Nó từ cửa đập đằng kia chảy đến cửa hang, theo chỗ trũng ở
núi phía đông bắc dẫn đến trang trại. Lại có dòng nhỏ chảy ra phía tây nam, đến
đấy hợp lại làm một, rồi theo chân tường chảy đi.
Mọi người đều nói: "Khéo quá nhỉ!"
Chợt thấy ngọn núi lớn chắn ngang, ai nấy đều sợ lạc đường Giả
Trân cười nói:
- Cứ đi theo tôi.
Rồi hắn đi trước dẫn đường. Vòng khỏi chân núi một quãng lại
là đường to bằng phẳng, có một cái cửa lớn hiện ra trước mắt. Mọi người nói:
“Thú thực, thú thực! Thần kỳ tinh xảo đến thế là cùng!”
Bấy giờ Bảo Ngọc chỉ để tâm nhớ nhà, không thấy Giả Chính bảo
gì, đành phải theo đến thư phòng. Giả hình sực nhớ, nói:
- Mày còn chưa về à? Đi chơi nửa ngày trời vẫn chưa chán hay
sao? Chắc cụ lại mong đấy. Về ngay đi. Nuông lắm sinh hư thôi!.
Bảo Ngọc nghe vậy mới dám về. Ra đến ngoài, bọn hầu bé của Giả
Chính chạy lại ôm lấy nói:
- May mà hôm nay ông nhà vui đấy. Vừa rồi cụ mấy lần sai người
ra hỏi, chúng tôi đều nói ông đương vui với cậu; nếu không thì cụ đã gọi cậu về
ngay rồi, còn trổ tài làm sao được? Ai cũng bảo thơ cậu hay hơn mọi người. Hôm
nay được hãnh điện như thế, phải thưởng cho chúng tôi mới được.
Bảo Ngọc cười nói:
- Cho mỗi người một quan tiền.
Mọi người nói:
- Một quan tiền thì ai mà chẳng có? Thưởng cho cả cái túi của
cậu!
Nói xong đứa cỡi lấy cái túi, đứa lấy túi quạt, chẳng kể đầu
đuôi, chúng lấy sạch các thứ đeo ở trong người Bảo Ngọc.
Rồi nói:
- Thôi đưa cậu về đi.
Một lũ vây tròn lấy Bảo Ngọc, dẫn về đến tận cửa Giả mẫu. Bấy
giờ Giả mẫu đương mong, thấy Bảo Ngọc về, biết là không xảy chuyện gì, trong
lòng rất vui.
Một chốc, Tập Nhân mang nước trà đến, thấy những đồ đeo trong
mình Bảo Ngọc không còn một thứ gì, cười hỏi: Những đồ đeo đâu cả? Chắc lại bị
bọn mặt dày nào lột mất rồi.
Đại Ngọc nghe nói chạy lại, thấy chẳng còn cái gì, hỏi Bảo Ngọc:
- Cái túi của tôi khâu, anh cũng cho chúng nó rồi à? Mai lại
chực xin cái khác, đừng hòng có của sẵn thế.
Nói xong, bực tức về buồng, lấy kéo cắt vụn cái túi đựng
hương đang khâu cho Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc bực lên, biết lại sinh chuyện, vội
vàng chạy đến thì Đại Ngọc đã cắt mất cái túi rồi, Bảo Ngọc cũng đã trông thấy
cái túi ấy, tuy chưa làm xong, nhưng khéo lắm. Nay Đại Ngọc tự nhiên cắt đi,
nghĩ cũng đáng tức. Bảo Ngọc vội vàng cỡi áo trong lấy cái túi của Đại Ngọc cho
khi trước giơ ra nói:
- Em xem, cái gì đây! Khi nào tôi lại cho người ta nhưng cái
em tặng tôi!
Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc cẩn thận, sợ người ta lấy mất, đã đeo ở
tận trong áo, rất hối hận đã quá nóng, cắt mất túi hương, nên cứ ngồi cúi đầu
không nói câu gì.
Bảo Ngọc nói:
- Em không cần phải cắt. Tôi biết rằng em không thích cho tôi
cái gì nữa. Ngay cái túi náy tôi cũng xin nộp lại có được không?
Nói xong, Bảo Ngọc ném cái túi vào lòng Đại Ngọc, rồi đi.
Đại Ngọc tức phát khóc lên, lại chực cắt nốt cái túi này.
Bảo Ngọc vội quay lại giật lấy, cười nói:
- Thôi! xin em tha cho nó!
Đại Ngọc vứt kéo đi, gạt nước mắt nói:
- Anh không nên thế, lúc thì tử tế, lúc thì giận dỗi. Không
ưa nhau thì buông tha nhau ra.
Nói xong, bực tức lên giường nằm ngoảnh mặt vào tường chùi nước
mắt. Bảo Ngọc lại phải chạy đến xin lỗi hết cô em thế nọ, đến cô em thế kia.
Giả mẫu cho người đến tìm Bảo Ngọc. Mọi người nói:
- Hiện đương ở buồng cô Lâm.
Giả mẫu nói:
- Được được! Để cho anh em nó chơi với nhau.Vừa rồi bố nó
giam hãm nó mất nửa ngày, nay cho nó thỏa thuê một chút. Nhưng bảo chúng nó
không được cãi nhau.
Mọi người vâng lời.
Đại Ngọc bị Bảo Ngọc làm rầy mãi, đành phải đứng dậy nói:
- Ý anh không muốn cho tôi yên, thì tôi đành phải xa anh.
Nói xong, chạy ngay ra ngoài.
Bảo Ngọc cười:
- Em đi chỗ nào, anh cũng đi chỗ ấy.
Một mặt lại cầm lấy cái túi đeo vào người.
Đại Ngọc giơ tay giăng lấy:
- Anh vừa nói không cần, sao lại còn đeo? Tôi lấy làm xấu hổ
hộ anh!
Nói xong, phì ra cười. Bảo Ngọc nói:
- Em ơi, ngày mai lại khâu cho anh cái túi khác nhé!
Đại Ngọc nói:
- Để xem đã, lúc nào thích thì làm.
Hai người vừa nói, vừa đến buồng Vương phu nhân, thì gặp Bảo
Thoa cũng ở đấy. Lúc này trong nhà Vương phu nhân bận rộn lắm. Vì Giả Tường đã
mua mười hai người con gái ở Cô Tô về. Hắn mời người dạy hát và cả những đồ diễn
tuồng nữa.
Tiết phu nhân thì dọn sang ở một ngôi nhà về phía đông bắc.
Viện Lê Hương được sửa sang lại cho phường hát ở để dạy con
hát. Những người đàn bà già trong nhà, trước biết hát đều đến đó trông nom bọn
con hát. Các khoản chi tiêu hàng ngày, các vật liệu cần dùng, đều do Giả Tường
cai quản.
Lại có Lâm Chi Hiếu đến báo: mười hai ni cô, đạo cô trẻ tuổi
đã đón về, hai mươi bốn bộ áo lễ nữa đã may xong. Ngoài ra có một vị sư cô để
tóc, tên Diệu Ngọc, là người Tô Châu. Cô này dòng dõi nhà quan, khi bé lắm bệnh,
phải làm bao nhiêu hình nhân thế mạng, vẫn không khỏi; sau cùng phải xuất gia
vì thế đi tu mà vẫn để tóc. Năm nay cô ta mười tám tuổi, bố mẹ chết cả, chỉ còn
có hai người vú và một a hoàn hầu hạ. Cô này chữ nghĩa rất thông, kinh kệ thuộc
lòng, người lại đẹp. Nghe nói kinh đô có những di tích phật Quan âm và bản kinh
viết bằng lá bối, nên năm ngoái cô ta theo sư phụ đến đây, hiện đương ở chùa Mầu
Ni ngoài cửa tây. Sư phụ của cô ta, lấy số tiên thiên rất giỏi, nhưng đã chết từ
mùa đông năm ngoái rồi. Theo lời dặn của sư phụ, Diệu Ngọc không nên về quê, cứ
ở đây chờ tự khắc có kết quả tốt. Bởi vậy cô ta chưa về.
Vương phu nhân nói:
- Sao không mời cô ta?
Lâm Chi Hiếu nói:
- Nếu mời miệng thì cô ta sẽ nói: “Nhà quan hay cậy thế ức hiếp
người, ta không khi nào chịu đến!”
Vương phu nhân nói:
- Cô ta là con gái nhà quan, tất nhiên hay làm cao. Ta viết
thiếp mời, cũng không ngại gì.
Lâm Chi Hiếu vâng lời, ra bảo thư ký viết thiếp mời Diệu Ngọc,
ngày mai sắp xe kiệu đi đón.
Bấy giờ có người đến trình: các thợ đang cần the lụa để trang
trí, đến xin Phượng Thư mở lầu phát cho; lại có người đến trình: xin Phượng Thư
nhận bỏ kho cho nhưng đồ vàng bạc, Vương phu nhân cùng các người hầu thân đều
không ai được rỗi. Bảo Thoa nói:
- Chúng ta không nên ở đây làm quẩn chân, vướng tay người ta.
Bèn cùng Bảo Ngọc, Đại Ngọc đến buồng Nghênh Xuân nói chuyện
phiếm.
Vương phu nhân ngày nào cũng bận túi bụi. Mãi đến cuối tháng
mười thu xếp xong. Những người đốc biện đã tính toán và bàn giao sổ sách; các đồ
cổ, các bức thư họa đã được bày biện ở các nơi; những chim muông như hạc, hươu,
thỏ, gà, ngỗng đã mua về và đem thả ở trong vườn. Giả Tường cũng soạn xong hai
mươi ba vở hát. Các ni cô, đạo cô niệm phật, tụng kinh đều đã thông thạo. Bấy
giờ Giả Chính mới yên lòng, mời Giả mẫu vào vườn xem lại một lượt. Thấy mọi việc
xếp đặt đã ổn thỏa đâu vào đấy không còn sai sót một ly. Giả Chính bèn chọn
ngày tâu sớ lên. Chỉ vua truyền xuống: đến rằm tháng giêng sang năm là tiết thượng
nguyên, Quý phi sẽ về thăm nhà. Từ đó trong phủ họ Giả bận rộn suốt ngày, ăn tết
cũng vội vã.
Thấm thoát gần đến tiết nguyên tiêu, từ mồng tám tháng giêng
trở đi đã có viên thái giám đến xem xét phương hướng: chỗ thay áo, chỗ ngồi
chơi, chỗ nhận lễ, chỗ ăn tiệc, chỗ nghỉ ngơi. Lại có viên thái giám tổng quản
lý quan phòng đem bọn thái giám nhỏ đến xem xét chỗ canh gác, chỗ căng màn, và
dặn bảo người nhà họ Giả các nghi lễ như chỗ nào phải lui ra, chỗ nào quỳ, chỗ
nào dâng món ăn, chỗ nào tâu việc. Bên ngoài lại có nhân viên bộ công và ty ngũ
thành binh mã phải đến quét dọn đường sá, ngăn cấm những người không có chức vụ
qua lại.
Bọn Giả Xá thì đốc thúc những thợ làm đèn đuốc. Mãi đến ngày
mười bốn, mọi việc mới xếp đặt xong. Đêm hôm ấy, không một ai được chợp mắt.
Hôm rằm, đầu canh năm, từ Giả mẫu trở xuống, theo chức tước mặc
phẩm phục đại trào. Trong vườn Đại quan, màn rồng, rèm phượng, vàng bạc châu báu
choáng lên khắp nơi.
Đỉnh đốt hương bách hợp, lọ cắm hoa trường xuân, bốn bề im lặng
như tờ, không một tiếng động. Bọn Giả Xá đứng ngoài cửa Tây, bọn Giả mẫu đứng ở
ngoài cửa chính phủ Vinh. Đầu đường cuối ngõ mùng màn che kín. Đang lúc chờ lâu
sốt ruột, chợt có một viên thái giám cưỡi ngựa đến, Giả Chính đón hỏi tin tức.
Viên thái giám nói:
- Hãy còn sớm chán, đầu giờ mùi ngự cơm chiều, giữa giờ mùi đến
lễ phật ở cung Bảo Linh, đầu giờ dậu vào cung Đại Minh hầu yến, xem đèn rồi mới
xin thánh chỉ về, có lẽ đầu giờ tuất mới bắt đầu đi.
Phượng Thư nghe xong, nói:
- Thế thì mời bà và mẹ hãy về buồng nghỉ, chờ lúc ấy sẽ ra
cũng không muộn.
Giả mẫu trở về. Công việc trong vườn đều do Phượng Thư trông
nom.
Những người coi việc, mời bọn thái giám đi ăn uống, sau đó bảo
người nhà gánh từng gánh nến đi thắp ở các nơi.
Chợt nghe bên ngoài có tiếng ngựa chạy rầm rập, chừng mười
viên thái giám thở hồng hộc đến vẫy tay ra hiệu. Bọn thái giám ở đấy biết là
quý phi sắp đến, đều theo phương hướng đứng xếp hàng. Giả Xá dẫn con cháu trong
họ đứng chực ngoài cửa Tây. Giả mẫu dẫn đám đàn bà trong họ đứng ở ngoài cửa
chính đón tiếp. Lặng lẽ một lúc, thấy hai viên thái giám đi từ từ đến cửa Tây,
xuống ngựa đem buộc ở ngoài chỗ quây màn rồi ngoảnh mặt về phía tây, buông
thõng tay đứng chực. Chốc sau lại có hai viên nữa. Rồi cứ thế lần lượt tới gần
mười đôi, khi ấy mới nghe văng vẳng có tiếng âm nhạc từ đằng xa vọng lại. Rồi từng
đôi một cầm quạt phượng, cờ rồng, lông trĩ, quạt rồng, và lẵng vàng đốt trầm
hương. Theo sau là một cái tán vàng thêu bảy con phượng, che mũ, áo, đai, giày.
Lại có bọn thái giám mang khăn tay. ống nhổ, phất trần cũng từng đôi một lũ lượt
đi qua. Sau cùng là tám viên thái giám rước cỗ xe loan thêu phượng màu vàng từ
tử đi đến.
Giả mẫu vội quỳ xuống, có ngay bọn thái giám đến đỡ dậy. Xe
loan đi vào cửa chính, rẽ sang phía đông, đến trước một nhà, có viên thái giám
quì xuống, mời quí phi xuống xe thay áo. Khi vào đến cửa, bọn thái giám lui ra,
chỉ có Tiêu Dung, Thái Tần (30) đỡ Nguyên Xuân xuống xe.
Trong vườn, đèn hoa sáng rực, đều làm bằng the lụa cực kỳ
tinh xảo, trên treo một cái biển căng đèn, viết bốn chữ: “thể nhàn mộc đức” (31).
Nguyên Xuân vào thay áo rồi lại lên xe ra thăm vườn: khói
thơm nghi ngút, bóng hòa rập rờn, chỗ nào cũng đèn sáng chói lọi, lúc nào cũng
tiếng nhạc du dương, thật là cảnh tượng thái bình, phong lưu phú quí, nói không
xiết được!
Nhớ lại những ngày ở dưới núi Thanh Ngạnh trong dãy núi Đại
Hoang, mình sao mà buồn rầu tịch mịch vậy! Nếu không nhờ nhà sư chốc đầu và đạo
sĩ khiễng chân mang đến đây, thì làm gì mình được thấy cái thế giới này. Muốn
làm một bài phú đèn trăng, bài tụng tinh nhân, để ghi lại việc hôm nay, nhưng lại
sợ vướng vào khuôn sáo của các sách. Với quang cảnh ấy, dù có làm bài phú, bài
tụng, cũng không thể hình dung hết cái đẹp của nó; mà không làm thì những hào
hoa mỹ lệ, chắc độc giả cũng có thể tưởng tượng ra được. Cho nên xin bớt đi, khỏi
phải dài dòng, để quay về ý chính là hơn.
Giả phi ngồi trên kiệu trông thấy quang cảnh trong và ngoài
vườn, lẳng lặng thở dài: “Xa hoa quá”. Chợt viên thái giám quì mời lên thuyền.
Giả phi xuống kiệu, chỉ thấy một dòng nước trong uốn khúc như rồng lượn, hai
bên bờ đá, treo các thứ đèn bằng thủy tinh hoặc pha lê, sáng như bạc, trắng như
tuyết. Khắp trên cành cây liễu, cây hạnh, đều kết hoa giả bằng giấy lụa và
thông thảo treo hàng bao nhiêu ngọn đèn. Dưới nước có những đèn hình hoa sen,
hoa ấu, con le, con cò, đều làm bằng vỏ trai, ốc hoặc lông chim. Trên dưới đua
sáng, trời nước một màu, thực là một thế giới lưu ly. Trên thuyền lại có các chậu
hoa, các thứ đèn cực kỳ tinh xảo, rèm châu, màn gấm, chèo quế, sào lan, không cần
phải nói nhiều... Vào bến đá, có một cái biển đèn đề bốn chữ: “Liễu đình hoa tự”.
Bạn đọc thử xem, những chữ: “liễu đình hoa tự”, “hữu phượng
lai nghi”. Chỉ là những chữ Giả Chính muốn thử tài Bảo Ngọc, sao lại đem ra đề
thực? Họ Giả lại là một nhà nền nếp thi thư, bạn bè qua lại đều là những tay
tài giỏi, làm gì chả có mấy người đứng ra đề vịnh, sao lại lấy những câu của
chú bé con để lấp liếm cho qua? Như vậy khác nào bọn hào phú, quẳng tiền ra,
chuốc những chuyện tô son điểm phấn, như loại: Trước cửa khóa vàng cây liễu lục;
sau nhà bình gấm chặng non xanh; và cho đó là nhã. Đằng này, hai phủ Ninh, Vinh
mà suốt cuốn thạch đầu đã nêu ra thì không phải như vậy. Xem thế, đủ thấy trái
ngược rất xa. Độc giả chưa hiểu, để vật ngu xuẩn nói rõ đầu đuôi cho hay.
Nguyên là Giả phi lúc bé được Giả mẫu nuôi dạy. Sau thêm được
Bảo Ngọc. Giả phi là chị cả, Bảo Ngọc là em út. Giả phi nghĩ mẹ tuổi đã cao, mới
sinh được đứa em nhỏ, nên rất thương yêu Bảo Ngọc, khác hẳn mọi người. Vả lại,
chị em cùng ở với Giả mẫu, không rời nhau lúc nào. Khi Bảo Ngọc mới ba, bốn tuổi,
chưa đi học, đã được Giả phi dạy truyền khẩu, thuộc lòng mấy quyển sách, biết đến
mấy nghìn chữ. Tuy là chị em, nhưng chẳng khác gì mẹ với con. Sau khi vào cung,
Giả phi thường nhắn tin cho cha mẹ: “Cần phải nuôi dạy Bảo Ngọc cẩn thận, không
nghiêm thì sau này không thành người, nhưng nghiêm quá lại sợ xảy ra sự bất trắc,
làm cho cha mẹ lo buồn”.
Lòng quyến luyến của Giả phi đối với Bảo Ngọc thật là không
khuây chút nào. Mấy hôm trước, thấy thầy học khen Bảo Ngọc tài tình, Giả Chính
chưa tin, nhân lúc vào thăm vườn, liền bắt đề thơ, để xem ý tứ hay dở thế nào.
Ông ta nghĩ: “Câu đối, biển đề” có nhờ ngòi bút của bậc đại tài cũng chẳng khó
gì. Song trẻ con làm ra, tuy không hay lắm, cũng có chỗ đáng lấy và có phong vị
của nhà mình hơn”. Mặt khác, ông ta cũng muốn để Giả phi biết rằng: những câu đề
vịnh này là của em nhỏ nghĩ ra, để khỏi phụ lòng Giả phi ngày thường mong mỏi. Vì
thế ông ta mới để những câu đó lại. Còn chỗ nào hôm trước chưa đề, về sau đều đề
thêm cả.
Giả phi xem bốn chữ này cười nói:
- Hai chữ “hoa tự” là được rồi, cần gì phả thêm “liễu đình” nữa?
Thái giám đứng hầu nghe vậy, vội lên bờ truyền cho Giả Chính.
Giả Chính lập tức cho viết lại.
Bấy giờ thuyền đến bờ, ghé lại. Giả phi lên xe, thấy cung điện
nguy nga, trên bức hoảnh viết bốn chữ lớn: “Thiên tiên bảo cảnh” (32) Giả Phi
sai đổi là: “Tinh thân biệt thự” (33), rồi tiến vào hành cung. Ở đây, đèn đuốc rực
trời, hương thơm nhát đất, cây lửa, hoa kỳ, cửa vàng, cột ngọc, rèm cuốn bằng
móc râu tôm, đệm giải bằng da rái cá, đỉnh tỏa mùi xạ hương, tường treo quạt
đuôi trĩ. Thực là: “Chốn thần tiền cửa vàng lầu ngọc, nhà hoàng phi đền quế,
cung lan”
Giả phi hỏi:
- Tại sao nơi này không đề biển?
Thái giám đi theo hầu, quì tâu:
- Đấy là chính điện, không dám tự tiện đề trước.
Giả phi gật đầu. Thái giám mời Giả phi ngồi nhận lễ. Hai bên
thềm tấu nhạc. Hai viên thái giám dẫn bọn Giả Xá, Giả Chính xếp hàng ở dưới thềm.
Chiêu Dung truyền dụ: "miễn lễ". Mọi người lui ra. Lại dẫn bọn Giả mẫu
từ thềm bên đông lên. Chiêu Dung lại truyền dụ: "miễn lễ”. Mọi người lại
lui ra. Ba tuần dáng trà xong. âm nhạc nghi. Giả phi xuống ngai, vào nhà bên
thay áo, rồi lên xe ra vườn chơi. Đến nhà Giả mẫu, Giả phi muốn làm lễ gia
đình, Giả mẫu quì xuống ngăn lại. Thoạt gặp mặt nhau, Giả phi rỏ nước mắt, một
tay nắm Giả mẫu một tay nắm Vương phu nhân. Ba người đều thổn thức, nói không
ra lời. Hình phu nhân, Lý Hoàn, Vương Hy Phượng, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích
Xuân đứng bên cạnh cũng đều rỏ nước mắt không nói gì. Một lúc Giả phi mới nén
buồn, cười gượng an ủi:
- Ngày trước đã đưa tôi đến chỗ không bao giờ được về gặp người
nhà, nay may được về đây, mẹ con lại không cười, không nói, cứ khóc! Chốc nữa
tôi đi, biết bao giờ lại được gặp nhau?
Nói xong Giả phi không nhịn được, lại thổn thức khóc.
Hình phu nhân vội đến khuyên giải. Giả mẫu mời Giả phi về chỗ
ngồi. Giả phi theo thứ tự hỏi han từng người, lại khóc một phen nữa. Rồi đến những
người coi việc ở phủ đông, phủ tây đứng ngoài hiên làm lễ. Sau lần lượt đến bọn
hầu đàn bà con gái. Giả phi hỏi:
- Dì Tiết, Bảo Thoa, Đại Ngọc ở đâu không đến.
Vương phu nhân thưa:
- Vì họ là ngoại, không có chức vị gì, nên không dám thiện tiện
vào hầu.
Giả phi liền bảo mời vào. Một lúc, Tiết phu nhân vào, muốn
theo quốc lễ, nhưng Giả phi truyền miễn cho, rồi cùng kể “Hành chi thanh phân”,
trên gác, lên lầu, qua ngòi, quanh núi, nhìn ngắm quanh co, chỗ nào cũng trang
hoàng lộng lẫy, cái gì cũng tô điểm mới lạ. Nguyên phi khen ngợi không ngớt, lại
khuyên: “Làm thế này là quá lạm, lần sau không nên xa xỉ quá. Đến chính điện,
Nguyên phi truyền miễn lễ, mọi người vào chỗ ngồi. Tiệc yến bắt đầu. Giả mẫu ngồi
dưới tiếp, bọn Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư thì dâng canh, nâng chén.
Nguyên phi truyền lấy bút mực sẵn, tay mở giấy hoa tiên, chọn
chỗ nào vừa ý thì đặt tên. Tên vườn thì đặt là “Đại quan viên” (34), biển ở
chính diện đề là: “Cố ân tư nghĩa” (35).
Câu đối đề:
Trời đất mở lòng nhân, con đỏ dân đen đều mến phục,
Xưa nay rộng ân điển, chín cháu muôn nước đội vinh quang.
Chỗ có biển đề: “Hữu phượng lai nghi” thì đặt tên là: “Tiêu
Tương quán” (36) Chỗ đề: “Hồng hương lục ngọc”, thì đổi là: “Di hồng khoái lục” (37),
và đặt tên là: “Di hồng viện”. Chỗ đề “Hành chí thanh phân” thì đặt tên là:
“Hành vu uyển”. Chỗ đề: “Hạnh liêm tại vọng” thì đặt tên là: “Cán các sơn
trang” (38) lầu giữa đặt tên là: “Đại quan lâu”. Lầu bên đông đặt tên là: “Xuyết
cẩm các” (39). Lầu bên tây đặt tên là: “Hàm phương ác". Lại còn những tên
“Lục phong hiên”, “Ngẫu hương tạ” (40), “Từ lang châu” (41), “Hành diệp chứ”. Biển
đề có những chữ: “Lê hoa xuân vũ”, “Đồng tiễn thu phong”(42), “Địch lộ dạ tuyết” (43).
Nguyên phi lại truyền không nên bỏ những câu đối và bức hoành đã đề trước, rồi
đề một bài tứ tuyệt như sau:
Non nước bao quanh khéo lạ lùng,
Biết bao công của mới làm xong.
Thợ trời thêm thợ người tô điểm,
Gọi Đại quan viên có xứng không?
Nguyên phi đề xong, cười bảo các chị em:
- Tôi xưa nay vẫn kém tài mẫn tiệp, không quen ngâm vịnh, các
em đều đã biết cả. Đêm hôm nay gọi là nghĩ qua loa để khỏi phụ cảnh này thôi.
Bao giờ rỗi tôi sẽ soạn bài “Đại quan viên ký” và bài “Tình thân tụng” để kỷ niệm
ngày hôm nay. Chị em cũng nên mỗi người đề một cái biển, vịnh một bài thơ, chớ
vì tài mọn của tôi mà phải gò bó. Bảo Ngọc cũng biết đề vịnh, điều ấy đáng mừng.
Trong các nơi, ta thích nhất “quán Tiêu Tương” và “Hành Vu uyển” rồi đến “viện
Di Hồng” và “Cát cân sơn trang”, bốn nơi này phải có thơ đề vịnh riêng mới được.
Những câu đề trước tuy cũng khá, nhưng phải làm mỗi nơi một bài thơ, để ta thử
tài tại chỗ, mới không phụ công ta vất vả dạy dỗ từ bé!
Bảo Ngọc vâng lời, lui ra nghĩ thơ.
Trong bọn Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân thì Thám Xuân hơn
cả. Nhưng biết trước không thể đua tài với họ Tiết, họ Lâm được, tuy nhiên,
nàng cũng phải gắng gượng làm cho qua chuyện. Lý Hoàn cũng gắng sức làm một
bài. Giả phi lần lượt xem:
Biển đề KHOÁNG TÍNH DI TÌNH
Phong cảnh vườn này thực lạ ghê.
Vâng lời đề biển, thẹn tay đề.
Cõi trần đâu có nơi nào thế,
Dạo cảnh ai là chẳng phải mê!
Nghênh Xuân
Biển đề VẠN TƯỢNG TRANH HUY (44).
Vườn này xây đắp thực nguy nga,
Vâng mệnh đề thơ thẹn bút hoa.
Tinh xảo nhường nào không kể xiết,
Quả nhiên muôn vật đẹp thêm ra.
Thám Xuân
Biển đề VĂN CHUƠNG TẠO HÓA
Non nước bao quanh mấy dăm dài,
Lâu đài cao ngất giữa từng mây.
Sánh cùng nhật nguyệt cùng tươi sáng,
Bác thợ trời kia cũng kém tài.
Tích Xuân
Biển đề VĂN THÁI PHONG LƯU
Bốn bề non nước cảnh chơi vơi,
So với Bồng lai đẹp tuyệt vời.
Quạt lướt màu xanh làn cỏ ngát,
Quần xòe sắc đỏ cánh hoa rơi.
Ngọc chờ đời thịnh càng lên giá.
Tiên ở đài dao lại xuống chơi.
Từ lúc vườn này chào khách quí,
Phàm trần đã đến được bao người.
Lý Hoàn
Biển đề NGƯNG HUY CHUNG THỤY (45).
Vườn hoa xây cạnh đế thành,
Một vùng trời đẹp mây lành lạ sao.
Rời hang oanh đã đậu cao,
Trúc kia đợi phượng múa chào cùng vui.
Gió văn thổi lúc ra chơi,
Thăm nhà trọn hiếu dạy người theo noi.
Tài tiên cao diêu tuyệt vời,
Thẹn mình còn dám thêm lời nữa sao?
Tiết Bảo Thoa
Dạo chơi Người lại thêm vui,
Cõi tiên nào phải là nơi bụi hồng!
Đep thay mượn cảnh non sông,
Điểm tô cảnh lại lạ lùng đẹp hơn.
Rượu kim cúc ngát mùi hương,
Chào mừng người ngọc rõ ràng hoa tươi.
Mong sao trên đội ơn trời,
Vườn này thường được đón mời xe loan.
Lâm Đại Ngọc
Nguyên phi xem xong khen mãi, cười nói:
- Rút cục bài của em Tiết, em Lâm hơn hẳn các bài. Chị em
chúng ta không ai bằng.
Ngay đêm ấy, Đại Ngọc định trổ hết tài át hẳn mọi người.
Không ngờ Nguyên phi chỉ bảo đề mấy chữ hoành biển và một bài thơ, nên không
dám trái lời, chỉ làm qua loa một bài thơ cho tác trách.
Bảo Ngọc mới làm xong hai bài “Tiêu Tương quán” và “Hành vu
uyển”, đang nghĩ bài “Di hồng viện”. Bảo Thoa liếc mắt nhìn, thấy trong bản
nháp của Bảo Ngọc có câu “Lục ngọc xuân do quyển” (47). Nhân lúc mọi người không
để ý, bèn đẩy Bảo Ngọc bảo:
- Quý phi không thích những chữ “hồng hương lục ngọc” mới đổi
ra “di hồng khoái lục”, giờ anh lại dùng hai chữ “lục ngọc” như thế chả phải là
cố làm trái ý người hay sao? Vả chăng điển tích lá chuối cũng có nhiều, nên đổi
đi là phải.
Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa nói thế, gạt mồ hôi nói:
- Bây giờ tôi nghĩ mãi cũng chẳng nhớ ra được điển tích nào?
Bảo Thoa cười:
- Anh chỉ đổi chữ “lục ngọc” làm chữ “lục lạp” (48) là được.
Bảo Ngọc nói:
- Chữ “lục lạp” xuất xứ ở đâu?
Bảo Thoa khẽ bĩu môi, gật đầu nói:
- Đêm nay mới có thế mà anh đã cuống lên, sau này thi ở trước
đền vàng, có lẽ họ Triệu, họ Tiền, họ Tôn, họ Lý cũng quên tất. Bài thơ Vịnh ba
tiêu của Hàn Dực nhà Đường có câu: “Lãnh chúc vô yên lục lạp can” (49) anh quên
rồi à!
Bảo Ngọc nghe xong chợt nhớ ra cười nói:
- Đáng chết! Đáng chết! Chữ ngay trước mắt tôi cũng không
nghĩ ra. Chị đáng là “Nhất tự sư” (50) vậy. Từ rầy tôi xin gọi là thầy, chứ
không dám gọi là chị nữa.
Bảo Thoa khẽ cười nói:
- Làm nhanh đi, đừng chị chị em em nữa. Ai là chị? Người mặc
áo vàng ngồi trên kia mới là chị.
Sợ làm mất thì giờ của Bảo Ngọc, Bảo Thoa vừa cười nói, vừa
quay đi chỗ khác.
Bảo Ngọc làm xong bài này, mới là ba bài. Bấy giờ Đại Ngọc
chưa được trổ hết tài, vẫn chưa mãn nguyện. Nhân thấy Bảo Ngọc nghĩ ngợi khó
khăn, nghĩ bụng: “Sao ta không làm giúp vài bài cho anh ấy đỡ mệt”. Rồi chạy đến
bên bàn Bảo Ngọc khẽ hỏi đã làm xong chưa. Bảo Ngọc nói:
- Mới làm xong ba bài, còn thiếu bài “Hạnh liêm tại vọng”.
Đại Ngọc nói:
- Đã vậy anh cứ chép ba bài kia đi, còn bài này tôi sẽ làm
giúp.
Nói xong nghĩ ngợi một lúc, làm xong một bài, viết vào mảnh
giấy, vê tròn ném cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc giở ra xem, thấy hay hơn ba bài của
mình nhiều, vội chép cẩn thận rồi đưa nộp. Nguyên phi xem thấy:
HỮU PHƯỢNG LAI NGHI
Ngọc tốt vừa ra quả,
Đang chờ phượng đến chơi.
Rờn rờn xanh mấy ngọn,
Thoang thoáng mát đầy nơi.
Qua bực, e thềm ướt.
Lọt rèm thơm sặc mùi,
Bóng kia đừng rung động,
Giấc mộng đẹp đường dài.
HÀNH CHỈ THANH PHÂN
Vườn kia im lặng như tờ
Hành la đua nở đương chờ đợi ai?
Có xuân xanh lẫn màu trời,
Dải hồng tha thướt quyệt mùi hương thơm.
Khói bay nhè nhẹ bên đường,
Áo quần xanh đẫm hơi sương lạnh lùng.
“Trì đường” là khúc hóa công,
Anh em họ Tạ giấc nồng nàn thay.
DI HỒNG KHOÁI LỤC
Một vùng sân vắng ngày dài,
Thuyền quyên hai ả cả hai đẹp dòn,
Trời xuân anh vẫn cuộn tròn,
Áo hồng thơ thẩn khuya còn đứng đây.
Bên kia áo đỏ gió bay,
Khói xanh, dựa đá bên này đỡ chơi.
Trước gió đông đứng hàng đôi,
Chủ nhân ướm hỏi ai người biết thương?
HẠNH LIÊM TẠI VỌNG
Cờ rượu treo mời khách,
Kề non dựng một tòa.
Cỏ thơm ao tắm ngỗng,
Dâu tốt yến xây nhà.
Rau xuân xanh bát ngát,
Mùi lúa nức gần xa.
Đời thịnh nào ai đói.
Canh cửi vội chi mà.
Bảo Ngọc kính đề
Nguyên phi xem xong, thích lắm, nói:
- Học đã tiến rồi đấy!
Lại bảo:
- Trong bốn bài, thì bài “Hạnh liêm” hơn cả.
Rồi đổi tên “Cán cát sơn trang” làm “Đạo hương thôn” (51).
Nguyên phi sai Thám Xuân lấy giấy hoa tiên chép cẩn thận những
bài thơ ấy, rồi cho thái giám đưa ra nhà ngoài. Bọn Giả Chính xem, đều khen ngợi
mãi. Giả Chính lại dâng bài “Qui tính tụng”. Nguyên phi sai lấy các đồ vàng ngọc
thưởng cho Bảo Ngọc và Giả Lan. Giả Lan hãy còn bé, chưa hiểu gì, chỉ biết theo
mẹ và chú đến tạ.
Giả Hoàn bị ốm từ trong năm đang điều dưỡng nên không nói đến.
Bấy giờ Giả Tường đã dẫn một ban hát đứng ở dưới lầu, chờ mãi
sốt ruột, chợt có một viên thái giám chạy đến bảo: thơ làm xong rồi, đem trình
ngay các mục vở hát lên. Giả Tường vội đem trình các mục vở hát và danh sách mười
hai ca nữ. Một lúc thấy chấm bốn vở:
1. Hào yến,
2. Khất sảo,
3. Tiên duyên,
4. Ly hồn.
Giả Tường vội xếp đặt các vở đem ra diễn. Những điệu hát lên
cao, lanh lảnh, những điệu múa biến ảo như ma, tuy chỉ là lối biểu diễn hóa
trang, nhưng nỗi vui buồn đều biểu lộ rõ
Hát xong, bọn thái giám bưng lên một mâm kẹo bánh, hỏi:
- Ai là Linh Quan?
Giả Tường biết là để thưởng cho Linh Quan, vội vàng nhận lấy
và bảo Linh Quan ra tạ ơn. Thái giám nói: Quí phi truyền “Linh Quan giỏi lắm,
hát thêm hai vở nữa. Vở gì cũng được”.
Giả Tường vội vàng vâng lời, bảo diễn thêm hai vở “Du tiên”
và “Kinh mộng”.
Linh Quan nói:
- Không quen hát hai vở ấy.
Hắn nhất định không nghe và xin hát hai vở “Tương ước và
“Tương mạ”. Giả Tường ngăn không được, đành để cho hát, Nguyên phi thích lắm,
truyền: “Không nên bắt ép đám trẻ con quá, để nó học tập dần”. Và đặc cách thưởng
cho hai tấm nhiễu trong cung, hai cái túi và mấy thoi vàng bạc nhỏ. Tan tiệc
Nguyên phi lại ra ngắm cảnh những chỗ chưa dạo qua. Chợt thấy ngôi chùa ở bên
núi, Nguyên phi vội vàng rửa tay, thắp hương lễ phật, đề biển bốn chữ “Khổ hải
từ hàng” (52), rồi đặc cách ban thưởng cho bọn ni cô, đạo cô.
Một lúc thái giám quì tâu: “Đồ ban thưởng sắp cả rồi, xin
theo lệ phân phát”. Rồi trình bản kê lên. Nguyên phi xem từ đầu đến cuối, không
nói gì, truyền cứ theo thế mà làm. Thái giám đem xuống ban cho mọi người. Giả mẫu
được một đôi như ý (53) bằng vàng và bằng ngọc, một cái gậy bằng gỗ trầm hương,
một chuỗi tràng hạt, bốn tấm đoạn “phú quí trường xuân” (54), bốn tấm phiễu
“phúc thọ miên trường” (55), mười hai thoi vàng “bút đĩnh như ý” (56), mười thoi
bạc “cát khánh hữu dư” (57). Hai phần của Hình phu nhân, Vương phu nhân cũng thế,
chỉ kém cái gậy, thoi như ý và tràng hạt. Giả Kính, Giả Xá, Giả Chính, mỗi phần
hai bộ tân thư ngự chế, hai hộp mực quí, hai chiếc chén vàng. Còn đồ biếu khác
thì cũng như trên. Chị em Bảo Thoa, Đại Ngọc, mỗi người một bộ tân thư, một cái
nghiên quí, bốn thoi vàng bạc đúc kiểu mới. Bảo Ngọc, Giả Lan thì hai cái vòng
bằng vàng bạc, bốn thoi vàng bạc. Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư, mỗi người bốn
thoi vàng bạc, bốn thứ đồ biếu. Hai mươi bốn thứ đồ biếu, tiền năm trăm quan,
thì thưởng cho bọn vú bõ và a hoàn hầu Giả mẫu và các phòng. Giả Trân, Giả Liễn,
Giả Hoàn, Giả Dung đều mỗi người một thứ đồ biếu, hai thoi vàng bạc. Một trăm tấm
lụa hoa, một nghìn lạng vàng bạc, rượu ngự tiếc hoa thì thì cho bọn trông nom
công việc bày biện, đi lại, coi ban hát, trông đèn nến ở hai phủ Vinh, Ninh.
Năm trăm quan thưởng cho những người trông nom bếp nước, chèo hát, các trò
chơi, sai vặt...
Mọi người tạ ơn xong, viên thái giám chấp sự tâu: “Nay đã đến
giữa giừ sửu, mời loan giá về cung”.
Nguyên phi lại nước mắt giàn giụa, nhưng phải gượng cười cầm
tay Giả mẫu và Vương phu nhân dặn dò nhiều lần: “Giữ lấy sức khỏe, không nên
thương nhớ. Hiện giờ ơn trên rộng rãi, mỗi tháng cho vào cung thăm một lần, gặp
mặt cũng dễ dàng, việc gì phải buồn rầu? Nếu sang năm ơn trên lại cho về thăm
nhà, thì không nên bày vẽ xa xỉ như thế này”. Giả mẫu khóc nức nở, nói không ra
lời. Nguyên phi tuy không nỡ rời tay, nhưng vì theo phép tắc nhà vua, nên đành
dằn lòng lên xe. Mọi người khuyên giải Giả mẫu và Vương phu nhân rồi dìu về
nhà.
Chú thích:
Chú thích:
(1). Màu xanh của núi và của cây cối chồng chất lên nhau.
(2). Núi gấm.
(3). Trại thi nhau. Hương lô: Đời Hán có người thợ khéo lắm
in một cái lư hương như hình quả núi, gọi là Bắc sơn hương lô. Ở đây ý nói quả
núi này đẹp hơn Bắc sơn hương lô.
(4). Nụ Chung Nam nhỏ: một quả núi ở phía nam Thiểm Tây, phía
đông Hà Nam, phía tây Cam Túc, phong cảnh rất đẹp.
(5). Con đường nhỏ, quanh co, đưa đến chỗ thắng cảnh.
(6). Âu Dương Tu tự là tính Thúc, hiệu là Túy ông. Một nhà
văn nổi tiếng ở đời Tống có làm hai bài ký Túy ông đình. Nay ớ Từ Huyện. tinh
An Huy, còn di tích cái đình này.
(7). Quang đãng, sáng sủa.
(8). Suối chảy qua khe giữa hai quả núi.
(9). Nước chảy ra từng hạt ngọc.
(10). Nước suối ngon có thể dùng để nấu rượu.
(11). Nước đượm mùi thơm.
(12). Điển tích trong kinh Thi. Phong nhã của bên Kỳ sót lại.
(14). Có chim phượng đến múa, ý nói điềm lành trong cảnh tượng
thái bình.
(15). Phạm Thành Đại, hiệu Thạch Hồ cư sĩ, một nhà văn nổi tiếng
đời Cao Tông triều Nam Tống, có làm bài thơ tả phong vị nhà làm ruộng.
(16). Trên ngọn cây mận treo kỳ bài bán rượu.
(17). Cờ bán rượu trên cây hạnh trước mặt.
(18). Cửa tre dòm xuống nước, mùi lúa thơm ngào ngạt.
(19). Theo bài ký “Nguồn đào" (Đào nguyên) của Đào Tiềm
đời Tấn.
(20). Nhà cũ của người đời Tần, tức là người đời Tần vào
tránh loạn ở trong Đào nguyên.
(21). Bờ cỏ liễu bên hoa (cỏ liễu là một loại cỏ thơm mọc dưới
nước).
(22). Gió hoa lan, sương hoa huệ.
(23). Hoa cỏ đầy sân khóc bóng chiều.
(24). Thơm mát của cỏ hành cỏ chi.
(25). Viết lên lá chuối chữ còn xanh.
(26). Chỗ này ý nói Bảo Ngọc nhớ lại giấc mộng đã nói ở trong
hồi thứ năm.
(27). Xây chuối và con hạc.
(28). Màu sáng lộng lẫy dọi ra nhiều vẻ.
(29). Tùng, trúc, mai gọi là ba người bạn mùa đông.
(30). Các nữ quan trong cung.
(31). Nhờ nhân đức nhà vua.
(32). Cảnh đẹp cõi tiên.
(33). Nhà riêng về thăm cha mẹ.
(34). Vườn lớn, nhiều phong cảnh đẹp, làm cho người du lãm có
một tầm mắt bao la.
(35). Trông thấy ơn vua thì nghĩ đến nghĩa lớn.
(36). Quán tên sông Tiêu, sông Tương.
(37). Màu đỏ, màu xanh cùng vui tươi.
(38). Trại giặt vải ở gần núi.
(39). Lầu trăng gấm.
(40). Thơm mùi ngó sen.
(41). Hoa súng tía.
(42). Lá ngô đồng gặp gió mùa thu.
(43). Hoa lan gặp đêm tuyết.
(44). Muôn vẻ đua sáng.
(45). Họp mọi màu sáng và chung đức điểm lành.
(46). Suối cõi tiên ở ngoài cõi trần.
(47). Ngọn ngọc mùa xuân còn đang cuốn (chỉ cây chuối).
(48). Cây sáp xanh.
(49). Ngọn đuốc không có khói mà cây sáp xanh cứ khô dần.
(50). Thầy dạy một chữ.
(51). Thơm mùi lúa.
(52). Bè từ bi độ chúng sinh trong bể khổ.
(53). Nguyên là một tên đồ dùng để gãi lưng về sau làm đồ trần
ngoạn, hoặc bằng vàng, hoặc bằng ngọc, ngụ ý chúc tụng những sự tốt lành.
(54), (55), (56), (57). Đều là những danh từ chúc tụng.
Hồi 19:
Tình đằm thắm đêm khuya hoa biết nói
Ý triền miên ngày vắng ngọc thêm hương
Giả phi về cung, hôm sau vào chầu Vua tạ ơn và tâu lại về việc
thăm nhà. Mặt rồng rất vui, lại phát những vàng bạc, gấm vóc trong kho thưởng
cho Giả Chính và gia thuộc.
Nói về hai phủ Vinh, Ninh suốt mấy ngày làm hết hơi sức, sau
đó lại phải thu xếp những đồ trần thiết trong vườn, hai ba ngày mới xong, ai
cũng mỏi mệt. Phượng Thư là người bận hơn cả. Nếu như người khác còn có thể lảng
tránh công việc, nhưng Phượng Thư thì không sao làm ngơ được; vả lại chị ta
tính hiếu thắng, không chịu để người chê trách, nên ôm đồm hết thảy mà vẫn làm
ra dáng ung dung như không bận rộn gì. Trái lại, chỉ có Bảo Ngọc là người nhàn
rỗi nhất. Một buổi sáng, mẹ Tập Nhân đến hầu Giả mẫu, xin phép cho con về nhà
ăn cỗ đầu năm, đến chiều mới về. Vì thế Bảo Ngọc chỉ đánh cờ, chơi đùa với lũ a
hoàn. Đương lúc buồn, chợt thấy người hầu vào nói: “ông Trân bên phủ Đông mời cậu
sang xem hát, đốt cây bông”. Bảo Ngọc nghe nói, bảo thay quần áo. Lúc sắp đi,
thì Giả phi sai người đem cho bánh sữa. Bảo Ngọc nghĩ ngay đến Tập Nhân thích
ăn thứ bánh này, liền bảo để dành, rồi xin phép Giả mẫu đi xem hát.
Những trò hát bên nhà Giả Trân là “Đinh lang nhận phụ”,
“Hoàng Bá Ương đại bài âm hồn trận”, “Tôn hành giả đại náo Thiên cung”, “Khuơng
thái công trảm tướng phong thần”. Lúc thì quỷ thần biến ảo, lúc thì ma quái ly
kỳ; phất cờ chạy đèn, dâng hương niệm phật, tiếng chuông trống, hò hét ầm ĩ, cả
ngoài đường cũng nghe thấy. Người qua lại trên phố đều tán tụng: "Vui quá
nhỉ? Nhà khác làm gì có trò này". Bảo Ngọc thấy phồn hoa huyên náo quá,
không chịu được, ngồi một lúc rồi ra dạo chơi các nơi. Trước hết, vào nhà trong
nói quấy với Vưu thị và các tỳ thiếp một lúc, rồi đi ra cửa. Vưu thị tưởng Bảo
Ngọc lại ra xem hát, nên không để ý. Bọn Giả Trân, Giả Liễn, Tiết Bàn thì lăn
vào đánh đố, uống rượu, giở trăm trò vui, ai nấy cứ cho là Bảo Ngọc đi vào nhà
trong, nên không hỏi đến. Cả những người lớn theo hầu Bảo Ngọc cũng cho là Bảo
Ngọc thế nào đến chiều mới về. Được dịp rỗi, họ họp nhau đánh bạc, hoặc đi uống
rượu ở nhà họ hàng, bạn hữu. Mỗi người tản đi mỗi nơi, hẹn nhau đến chiều mới về.
Bọn trẻ con thì chen nhau vào buồng xem hát.
Bảo Ngọc không thấy có người nào theo hầu, liền nghĩ:
"Nhà này có một thư phòng nhỏ, trong có treo bức tranh mỹ nhân rất thần
tình. Bây giờ ở đây vắng người, mỹ nhân ấy chắc cũng hiu quạnh lắm. Ta cần phải
đến đó thăm hỏi xem sao". Nghĩ thế rồi đi. Đến nơi, mới vào cửa, nghe
trong phòng có tiếng thở. Bảo Ngọc giật mình, nghĩ: Có lẽ mỹ nhân hiện thành
người thật chăng? Rồi đánh bạo, dấp nước bọt, chọc thủng cửa sổ giấy nhìn vào,
thấy mỹ nhân vẫn y nguyên ở trong tranh. Té ra Dính Yên đương đè một người con
gái, ôn lại bài học của nàng tiên Cảnh ảo trước đây. Bảo Ngọc ăn không được, đạp
cửa vào hét to: "Quá lắm nhỉ!" Hai người nghe động, ôm lấy áo sợ run
lên.
Dính Yên trông thấy Bảo Ngọc, vội quỳ xuống kêu van. Bảo Ngọc
nói:
- Đương lúc ban ngày ban mặt, mày làm trò gì thế? Nếu anh
Trân biết thì mày sống hay chết?
Nhìn lại thấy người con gái, mặt mũi sạch sẽ, tuy không đẹp lắm,
nhưng có vẻ dễ thương, hổ thẹn cúi đầu, đứng im không nói gì. Bảo Ngọc giậm
chân nói:
- Còn không đi à?
Cô gái nghe xong chạy đi ngay. Bảo Ngọc lại theo ra nói to:
- Đừng sợ! Tao không mách ai đâu.
Dính Yên vội kêu lên:
- Ông trẻ ơi! Thế là ông mách người ta rồi còn gì?
- Con bé ấy bao nhiêu tuổi?
- Độ mười sáu mười bảy tuổi.
- Ngay tuổi nó mày cũng không hỏi, mà đã làm cái trò ấy! Thật
là nó vớ uổng phải mày! Đáng thương! Đáng thương! Còn tên nó là gì?
- Nếu nói tên nó ra thì chuyện cũng dài và mới lạ lắm. Nó
nói: khi sắp đẻ, mẹ nó nằm mộng thấy được một tấm gấm, trên mặt thêu hoa năm sắc
hình chữ "Vạn", vì thế đặt tên nó là Vạn Nhi.
- Thế thì lạ thật, chắc sau này nó cũng khá đấy.
Nói xong, Bảo Ngọc lặng lẽ nghĩ ngợi giờ lâu.
Dính Yên hỏi:
- Hát hay thế, sao cậu không xem?
- Xem một chốc, buồn quá, chạy ra ngoài chơi thì gặp chúng
bay. Bây giờ nên làm gì đây?
Dính Yên cười khì khì:
- Bây giờ không ai biết, tôi lẳng lặng đưa cậu ra ngoài thành
chơi một chốc rồi sẽ về.
- Không được, cẩn thận đấy, kẻo mẹ mìn nó bắt đi. Và nếu họ
biết thì lại làm ầm lên. Sao bằng đi chơi nơi nào gần đây rồi lại trở về.
- Nếu đi gần đây thì nên đến nhà ai? Kể cũng khó đấy!
- Cứ ý ta, chúng ta đến thăm chị Hoa(1) xem chị ấy ở nhà làm
gì.
- Được được, nhưng tôi không nhớ nhà chị ta. Vả lại, nếu họ
biết tôi dẫn cậu đi chơi nhảm, thì tôi sẽ bị đòn.
- Đã có ta.
Dính Yên nghe nói, dắt ngựa đến, rồi hai người từ cửa sau đi
ra. May là nhà Tập Nhân không xa, chỉ độ nửa dặm đường thoắt đã đến cửa.
Dính Yên vào trước gọi anh Tập Nhân là Hoa Tự Phương. Bấy giờ
mẹ Tập Nhân đương ăn hoa quả với Tập Nhân và mấy người cháu gái. Nghe bên ngoài
có người gọi "anh Hoa", Hoa Tự Phương vội chạy ra, thấy hai thầy trò
Bảo Ngọc. Hắn sợ hãi không biết có việc gì, vội vàng bế Bảo Ngọc xuống ngựa, rồi
chạy vào nhà nói to: "Cậu Bảo đến đấy!" Tập Nhân nghe thấy, không biết
chuyện gì, vội chạy ra đón, dắt tay Bảo Ngọc, hỏi:
- Có việc gì mà cậu đến đây?
- Buồn quá, đến xem chị làm gì thôi.
Tập Nhân nghe xong mới yên lòng, nói:
- Cậu cũng liều quá, đến đây làm gì?
Rồi hỏi Dính Yên:
- Còn có ai đi theo hầu không?
- Chẳng có ai cả.
Tập Nhân lại sợ hãi nói:
- Như thế sao được! Nếu gặp người quen, hay ông nhà hoặc
ngoài đường người chen, ngựa giẫm, có việc gì xảy ra thì sao? Có phải chuyện
chơi đâu? Các người quả to gan thật. Chỉ tại thằng Dính Yên bày trò ra cả. Khi
về, ta mách các vú nhất định đánh cho chết thằng giặc này.
Dính Yên bĩu mỏ nói:
- Cậu mắng tôi, đánh tôi, bắt phải đưa đi, bây giờ lại đổ tội
cho tôi. Tôi đã bảo đừng đến mà! Nếu thế, chúng tôi về quách.
Hoa Tự Phương khuyên can:
- Cậu đã trót đến đây rồi, nói lôi thôi mãi làm gì. Chỉ hiềm
nhà tôi nhà rách, vách nát, chật hẹp, bẩn thỉu, biết mời cậu ngồi đâu được?
Mẹ Tập Nhân ra đón. Bảo Ngọc thấy trong buồng có bốn năm người
con gái. Trông thấy Bảo Ngọc, họ đều cúi đầu, thẹn đỏ mặt. Mẹ con Hoa Tự Phương
sợ Bảo Ngọc lạnh, mời lên ngồi trên bục, mang hoa quả, nước trà đến. Tập Nhân
cười nói:
- Đừng làm cuống lên, vô ích, tôi biết cậu ấy rồi, đừng nên
cho ăn nhảm.
Nói xong đem cái nệm của mình giải trên ghế, rồi dắt Bảo Ngọc
ngồi xuống. Lại mang cái lồng ấp chân của mình để vào chân Bảo Ngọc. Lại lấy ở
túi ra hai cái bánh mai hoa đưa cho Bảo Ngọc và đốt lồng ấp tay của mình, đậy
kín lại, để vào lòng Bảo Ngọc. Rồi lại lấy chén riêng của mình pha trà mời Bảo
Ngọc uống. Bấy giờ anh và mẹ Tập Nhân đã bày sẵn một mâm hoa quả. Tập Nhân thấy
không có gì đáng ăn, liền cười nói:
- Cậu đã đến đây, có nhẽ nào lại về không, hãy nếm một tí gọi
là lần đầu đến chơi nhà tôi.
Nói xong, lấy một ít hạt dẻ bóc sạch vỏ, đựng vào khay tay
đưa cho Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc trông thấy Tập Nhân hai mắt đỏ hoe, mặt phấn hơi ướt,
khẽ hỏi:
- Ai khóc bao giờ, vì ngứa mắt, tôi dụi đấy thôi.
Rồi bỏ qua chuyện ấy. Nhân thấy Bảo Ngọc mặc áo vóc đỏ chẽn
tay, thêu rồng vàng lót da cáo, ngoài khoác áo xanh lót da cừu. Tập Nhân nói:
- Khi cậu đến đây mặc áo mới, ở nhà không ai hỏi à?
- Anh Trân mời xem hát, nên mới thay mặc bộ này.
Tập Nhân gật đầu, lại nói:
- Hãy ngồi một lát rồi về. Chỗ này không phải là chỗ cậu đến
đâu nhé.
- Chị nên về nhà ngay mới được. Tôi đã để phần chị một thứ
ngon lắm.
- Nói khẽ chứ, người ta nghe thấy thì còn ra làm sao?
Rồi giơ tay tháo "viên ngọc thiêng" ở cổ Bảo Ngọc
ra, cười nói với các chị em:
- Này hãy xem đi. Ngày thường các chị cứ phàn nàn không được
trông thấy của hiếm này, bây giờ thì xem cho chán đi, có gì là lạ, chẳng qua nó
cũng chỉ thế thôi.
Nói xong, Tập Nhân đưa viên ngọc cho mọi người chuyền tay
nhau xem một lượt, rồi lại đeo vào cổ Bảo Ngọc.
Tập Nhân bảo người anh đi thuê xe hoặc kiệu đưa Bảo Ngọc về.
Hoa Tự Phương nói:
- Để tôi đưa đi, cậu ấy cưỡi ngựa cũng được.
Tập Nhân nói:
- Không phải là không được, chỉ sợ người ta trông thấy.
Hoa Tự Phương vội đi thuê một cỗ kiệu lớn, mọi người không tiện
giữ lại, đành để Bảo Ngọc ra về. Tập Nhân lại đưa một nắm quả cho Dính Yên và
cho nó tiền mua pháo, rồi bảo:
- Nếu nói với ai, cả mày cũng có tội đấy.
Rồi đưa Bảo Ngọc ra cửa, lên xe, buông màn xuống. Hoa Tự
Phương và Dính Yên dắt ngựa đi theo. Đến phủ Ninh, Dính Yên bảo dừng xe, rồi
nói với Hoa Tự Phương:
- Tôi và cậu Hai hãy vào phủ Đông chơi một lúc sẽ về, để người
ta khỏi ngờ.
Hoa Tự Phương cho là phải, vội ẵm Bảo Ngọc xuống kiệu, rồi đỡ
lên ngựa. Bảo Ngọc cười:
- Làm phiền anh quá.
Liền đi về cửa sau.
Thấy Bảo Ngọc đi vắng, lũ a hoàn tha hồ chơi đùa, đánh cờ,
đánh bài, vất đầy vỏ hạt dưa ra. Vú Lý chống gậy đến thăm Bảo Ngọc, thấy bọn a
hoàn xúm nhau lại chơi đùa, vú rất khó chịu, thở dài:
- Dạo này ta ít đến đây, chúng bay càng làm bừa bãi quá. Các
vú khác chẳng ai dám nói động đến chúng bay cả. Bảo Ngọc như cây đèn cao ngất,
chỉ biết đi soi nhà người, còn nhà mình thì không hề soi đến, để cho chúng nó
phá phách đến thế này, chẳng còn thể thống gì cả.
Bọn a hoàn xưa nay biết Bảo Ngọc không để ý đến những việc lặt
vặt; vú Lý đã thôi việc cáo lão về nhà rồi, còn cai quản thế nào được chúng. Vì
thế, mụ nói gì mặc mụ, chúng cứ việc chơi đùa. Vú Lý lại hỏi:
- Bây giờ Bảo Ngọc mỗi bữa ăn được bao nhiêu cơm? Đến giờ nào
đi ngủ?
Bọn a hoàn trả lời qua loa. Có đứa còn nói: “Cái mụ già này
chán thật!”
Vú Lý lại hỏi:
- Bánh sữa trong bát kia sao không đưa ta ăn?
Nói xong, vú Lý lấy ngay ra ăn. Một a hoàn bảo:
- Mụ đừng động vào! Cậu bảo là để phần chị Tập Nhân. Lát nữa
cậu về là lôi thôi đấy. Má ăn thì má phải chịu lấy, đừng để rầy rà đến chúng
tôi.
Vú Lý nghe xong vừa tức vừa xấu hổ, liền nói:
- Ta không ngờ cậu ấy lại xử tệ với ta như thế. Đừng nói một
bát bánh sữa chứ một thứ gì quý giá hơn nữa ta ăn cũng đáng. Lẽ nào cậu ấy lại
quý Tập Nhân hơn ta? Lẽ nào cậu ấy lại không nghĩ vì ai mới lớn được như thế?
Vì máu ta hoá sữa cho cậu ấy bú rồi mới lớn lên. Bây giờ ta ăn một bát bánh sữa
mà cậu ấy lại sinh sự với ta à? Ta cứ ăn, xem cậu ấy làm trò gì? Chúng bay có
biết Tập Nhân là đứa thế nào không? Nó là một đứa a hoàn bé con, do tay ta gây
dựng, chứ có quý hoá gì.
Vừa nói vừa tức, vú ăn hết cả bát bánh sữa. Một a hoàn cười
nói:
- Các chị ấy vụng về, làm má tức giận. Cậu Bảo Ngọc vẫn thường
biếu má thứ này thứ khác luôn, có nhẽ nào vì một bát bánh sữa mà cậu ấy không bằng
lòng?
Vú Lý nói:
- Chúng mày cũng đừng nói mèo nói cáo đánh lừa ta. Mày tưởng
bận trước chuyện đập chén trà của con Phiến Tuyết, ta không biết à? Ngày mai có
xảy ra điều gì, ta sẽ đến nhận.
Nói xong hầm hầm đi ra.
Một lúc Bảo Ngọc về, sai người đi đón Tập Nhân, thấy Tình Văn
nằm dài trên giường không dậy. Bảo Ngọc hỏi:
- Ốm hay thua bạc đấy?
Thu Văn nói:
- Nguyên là nó được bạc, nhưng vì vú Lý đến làm ồn, nó đối
đáp không lại, nó tức khí đi ngủ đấy thôi.
Bảo Ngọc cười nói:
- Các chị đừng để ý đến mụ ấy, mặc kệ mụ ấy là hơn.
Ngay sau đó, Tập Nhân về, mọi người chào nhau. Tập Nhân hỏi Bảo
Ngọc hôm nay ăn cơm ở đâu? Về sớm hay muộn? Lại nói mẹ và em gửi lời hỏi thăm
các chị em. Rồi thay quần áo, bỏ đồ trang sức ra. Bảo Ngọc sai người lấy bánh sữa.
Bọn a hoàn nói: "Vú Lý ăn cả rồi". Bảo Ngọc toan hỏi, thì Tập Nhân vội
cười nói:
- Thế ra để phần cái ấy à? Cám ơn cậu lắm. Hôm nọ vì thấy
ngon, tôi ăn nhiều, đâm ra đau bụng, sau phải nôn ra mới khỏi. Bà ấy ăn cho là
may, nếu cứ bỏ đấy cũng phí đi thôi. Tôi chỉ thích ăn hạt dẻ, cậu bóc giùm cho
mấy hạt để tôi đi thu dọn giường chiếu đây.
Bảo Ngọc nghe nói tưởng thật, không nghĩ đến chuyện bánh sữa
nữa. Bèn lấy hạt dẻ đến gần đèn ngồi bóc. Nhân thấy trong buồng vắng người, Bảo
Ngọc cười hỏi Tập Nhân:
- Hôm nay cái người mặc áo đỏ là bà con thế nào với chị?
- Là chị con bà dì tôi đấy.
Bảo Ngọc nghe nói thở dài mấy cái.
Tập Nhân nói:
- Việc gì mà cậu thở dài? Tôi biết bụng cậu rồi. Cậu cho là
chị ấy không đáng mặc áo đỏ chứ gì?
Bảo Ngọc cười nói:
- Không phải thế, không phải thế! Người như thế không đáng mặc
thì còn ai đáng? Vì tôi trông thấy chị ấy đẹp thật, làm thế nào để chị ấy đến ở
với chúng ta thì hay lắm.
Tập Nhân cười nhạt:
- Một mình tôi làm tôi đòi chưa đủ, cậu muốn dắt cả bà con họ
hàng tôi vào nữa hay sao? Cậu thì muốn chọn tất cả những người con gái thật đẹp
đến ở nhà này ấy?
Bảo Ngọc vội cười nói:
- Chị lại hay đa nghi! Tôi bảo chị ấy đến ở nhà tôi, chứ có
phải nhất định đến đây làm tôi đòi đâu; coi chị ấy như họ hàng không được à?
Tập Nhân nói:
- Đâu dám chơi trèo thế.
Bảo Ngọc không nói gì nữa, chỉ bóc hạt dẻ. Tập Nhân cười hỏi:
- Sao không nói chuyện nữa đi? Chắc vừa rồi tôi nói có điều
trái ý cậu. Ngày mai tức khí cậu phí mấy lạng bạc mua họ về là được ngay chứ
gì?
Bảo Ngọc cười nói:
- Nói thế còn ai biết trả lời thế nào? Chẳng qua tôi khen chị
ấy đẹp, đáng lẽ phải sinh vào nơi cửa cao nhà rộng như ở đây. Trái lại chúng
tôi là hạng ô trọc lại được đẻ ở nhà này!
Tập Nhân nói:
- Chị ấy tuy không được may mắn như cậu nói, nhưng cũng được
nuôi nấng chiều chuộng. Dượng và dì tôi coi như viên ngọc quí vậy. Năm nay chị ấy
mười bảy tuổi, các đồ tư trang đã sắm đủ cả, sang năm sẽ đi lấy chồng.
Bảo Ngọc nghe hai tiếng "lấy chồng", không nhịn được,
lại thở dài, trong bụng áy náy khó chịu. Tập Nhân lại than thở:
- Trong mấy năm nay, chị em mỗi người mỗi ngả, nay tôi đang định
xin về, thì họ lại sắp đi cả.
Bảo Ngọc nghe câu nói có ý tứ, giật mình, bỏ ngay hạt dẻ xuống
hỏi:
- Vì cớ gì chị lại muốn về?
Tập Nhân nói:
- Hôm nay tôi thấy mẹ tôi và anh tôi bàn với nhau bảo tôi cố ở
rốn lại một năm. Sang năm sẽ xin chuộc về.
Bảo Ngọc nghe nói, cuống cả lên hỏi:
- Làm sao lại chuộc chị về?
Tập Nhân nói:
- Cậu hỏi mới lạ chứ? Tôi có phải như những người khác, đời đời
làm tôi đòi đâu. Cả nhà tôi ở nơi khác, chỉ có một mình tôi ở đây sao lại để
mãi thế được?
- Nhưng tôi không bằng lòng thì chị cũng khó mà về được.
- Xưa nay không có nhẽ nào như thế. Đừng nói nhà cậu, ngay đến
trong cung nhà vua cũng có lệ nhất định, mấy năm một lần tuyển, mấy năm một lần
thải về, không có nhẽ nào giữ mãi người ta ở lại được.
Bảo Ngọc nghĩ thấy có lý, lại nói:
- Nhưng cụ không cho chị về thì sao?
Tập Nhân nói:
- Tại sao lại không cho tôi về? Nếu quả khó tìm được một người
như tôi, cụ và bà Hai có bụng tiếc, cho nhà tôi thêm mấy lạng bạc nữa, giữ tôi ở
lại, thì cũng có lý. Nhưng thực ra, tôi cũng chỉ là hạng tầm thường, còn rất
nhiều người hơn. Khi bé, tôi theo cụ rồi hầu cô Sử mấy năm, bây giờ đến hầu cậu.
Giá nhà tôi đến chuộc, có lẽ không mất tiền chuộc mà nên gia ơn cho tôi về mới
phải. Còn bảo rằng tôi hầu cậu khéo, không cho về, thì không bao giờ có chuyện
như vậy. Phận sự tôi là phải khéo hầu, chứ nào có công trạng gì. Tôi về thì sẽ
có người hầu khéo hơn, đừng sợ vắng tôi không có người làm nổi việc.
Bảo Ngọc nghe vậy, thấy Tập Nhân chỉ muốn về chứ không muốn ở,
trong bụng càng bồn chồn, liền nói:
- Chị nói thì đúng đấy, nhưng tôi cứ giữ chị lại, thế nào cụ
cũng nói chuyện với bà nhà, và đưa thêm ít tiền, chắc bà cũng không nỡ đón chị
về nữa.
Tập Nhân nói:
- Khi nào mẹ tôi dám cưỡng. Đừng kể đến chuyện nói tử tế và
cho thêm tiền, dù chẳng bảo gì, chẳng cho đồng nào, cứ bắt tôi ở lại, mẹ tôi
cũng không dám trái lệnh. Nhưng nhà ta xưa nay chẳng cậy thần thế ức hiếp bao
giờ. Việc này không thể ví với các việc khác được, hễ cậu thích là bỏ nhiều tiền
ra mua, người bán hàng không bị thiệt thế là được rồi. Nay vô cớ, giữ tôi lại,
đã không ích gì cho cậu, lại làm cho ruột thịt nhà tôi chia lìa nhau. Việc này
cụ và bà Hai có nỡ làm không?
Bảo Ngọc nghe xong nghĩ một lúc rồi nói:
- Theo lời chị nói thì chị định đi thật à?
Tập Nhân nói:
- Định đi thật.
- Nếu sớm biết ai cũng định đi cả, thì mình chuốc đến đây làm
gì. Có lẽ sau này chỉ còn trơ trọi một mình.
Nói xong, bực bội lên giường ngủ
Nguyên khi về nhà, Tập Nhân được tin mẹ và anh muốn chuộc
mình về. Tập Nhân nhất định không chịu, nói:
- Ngày trước nhà ta không có bát ăn, chỉ có một mình tôi là
đáng giá mấy lạng bạc; nếu không bán tôi đi, để mẹ chết đói, sao cho đành lòng.
Bây giờ may mắn tôi được vào nơi này, ăn mặc cũng như chủ nhà, lại không bị
đánh hôm chửi mai gì. Vả chăng, cha đã chết rồi, nhà ta lại gây dựng được cơ
nghiệp. Ví còn nghèo túng, định chuộc tôi về để kiếm thêm ít tiền, thì đã đành
rồi. Nhưng thực ra nhà ta không đến nỗi thế. Vậy định chuộc tôi về làm gì? Cư
coi như tôi đã chết rồi là xong, đừng nên nghĩ đến chuyện ấy nữa.
Rồi chị ta khóc lóc một hồi.
Mẹ và anh thấy Tập Nhân cương quyết như thế, tất nhiên là
không chịu về. Vả chăng, trong văn tự là bán đứt. Nhưng thấy họ Giả là một nhà
từ thiện phúc đức, nếu đến xin nài, có thể không phải mất tiền chuộc. Hai là họ
Giả xưa nay ân nhiều uy ít chưa từng hành hạ người nhà bao giờ, bao nhiêu con
gái hầu thân trong các phòng đều được biệt đãi, ngay các cô gái nhà thường dân
chưa chắc đã được quý trọng bằng. Sau đó Bảo Ngọc đến chơi, sự thân mật giữa họ
làm cho hai mẹ con càng thấy rõ như ban ngày, thật là ngoài sức tưởng tượng. Từ
đó mọi người yên lòng, không nghĩ đến việc chuộc nữa.
Tập Nhân từ bé thấy Bảo Ngọc tính tình khác thường, cáu kỉnh,
ngang bướng khác mọi đứa trẻ. Lại có những nết xấu rất kỳ quặc, không thể nói hết.
Lâu nay được bà nuông chiều, bố mẹ không dám ngăn cấm. Bảo Ngọc càng phóng túng
dông dài, không thích chăm lo việc chính. Nhiều lúc, Tập Nhân muốn khuyên nhủ,
nhưng biết Bảo Ngọc chẳng chịu nghe nào. May sao hôm nay nhân có dịp nhà muốn
chuộc mình về, Tập Nhân nói dối để dò ý và ngăn chặn Bảo Ngọc nhụt bớt đi, rồi
sẽ tìm cách khuyên răn. Thấy Bảo Ngọc lẳng lặng đi ngủ, biết rằng cậu ta không
nỡ dứt tình vơi mình và lòng đang chán nản. Tập Nhân vốn không thích ăn hạt dẻ,
nhưng sợ vì một bát bánh sữa mà sinh chuyện, lại như chuyện chén trà của Phiến
Tuyết lần trước, nên nói dối là thích ăn, để đánh lảng câu chuyện. Sau đó, chị
ta cho bọn a hoàn nhỏ đem đi ăn, rồi đến đánh thức Bảo Ngọc. Thấy Bảo Ngọc nước
mắt giàn giụa, Tập Nhân nói:
- Việc gì mà phải đau buồn thế? Nếu cậu thực bụng giữ lại thì
khi nào tôi đi!
Bảo Ngọc thấy câu nói ý vị, liền nói:
- Theo như chị nói, thì tôi giữ chị lại làm sao được? Và
chính tôi cũng chẳng biết nói thế nào nữa.
Tập Nhân cười:
- Hai chúng ta ngày thường tử tế với nhau, cái đó không cần
phải nói. Nhưng cậu muốn giữ tôi ở lại, thì không phải chỉ ở chỗ tử tế với
nhau. Tôi đề ra ba việc, cậu có nghe thì mới là thực bụng giữ tôi ở lại, dù dao
kề cổ cũng không khi nào tôi đi.
Bảo Ngọc cười:
- Chị nói đi! Những việc gì? Chị ơi, chẳng cứ ba việc, đến ba
trăm việc tôi cũng theo; chỉ mong các chị ở đây trông nom tôi giữ gìn tôi, khi
nào tôi hóa thành tro bay, nhưng tro bay cũng chưa được, vì nó còn dấu vết, còn
có tri thức! Phải chờ khi nào tôi hóa thành một làn khói nhẹ, gió thổi một cái
là tan ngay, các chị không trông nom được tôi, tôi cũng chẳng đoái hoài đến các
chị, lúc ấy tôi cũng vậy, các chị cũng vậy, tha hồ muốn đi đâu thì đi.
Tập Nhân vội vàng bịt mồm Bảo Ngọc lại bảo:
- Khéo lắm! Tôi đang muốn ngăn đi, cậu lại mở miệng nói độc rồi.
- Từ rầy tôi không nói thế nữa.
- Đấy là điều thứ nhất cậu cần phải đổi ngay.
- Xin đổi. Nếu tôi nói nữa thì chị cứ vả vào mồm tôi! Còn việc
gì nữa không?
- Còn việc thứ hai: cậu thực lòng thích học hay giả vờ cũng mặc,
nhưng không nên chê bai bừa bãi trước mặt ông nhà và mọi người. Cậu nên làm ra
dáng chăm học để ông nhà đỡ bực mình và nên lựa lời nói khéo lấy lòng người ta.
Trong bụng ông thường nghĩ nhà ta đời đời đọc sách, không ngờ từ khi có cậu,
không những biếng học, làm cho ông buồn bực, lại khi vắng mặt người ta thì cậu
hay chê bai nhảm nhí. Những người đọc sách để tìm đường tiến thủ, cậu đều đặt
cái tên riêng cho họ như "con mọt ăn lộc”. Cậu lại nói, trừ mấy chữ
"minh minh đức” ra, thì không còn sách nào nữa, toàn là do ý nghĩ nhảm nhí
của người trước biên chép ra. Nói như thế tránh sao ông chả giận, chả muốn đánh
cậu?
Bảo Ngọc cười nói:
- Thôi, không nói thế nữa. Đó là lúc tôi còn bé, không biết
trời cao đất dày, quen miệng nói nhảm. Từ giờ tôi không dám nói những câu ấy nữa.
Còn việc gì nữa không?
Tập Nhân nói:
- Cậu không được chế nhạo tăng đạo, không được chơi hoa chơi
phấn. Điều cần nhất là không được ăn những sáp non đã đánh ở trên môi người ta,
và những nết tính xấu như ưa thích màu hồng.
- Xin chừa hết, xin chừa hết. Còn việc gì nữa nói nết ra.
- Chẳng còn gì nữa, chỉ cần mọi việc, cậu phải suy nghĩ cẩn
thận, không được làm liều là được rồi. Nếu cậu quả thực nghe theo những lời tôi
khuyên, thì dù đem kiệu tám người khiêng đến, cũng không thể rước nổi tôi ra khỏi
nhà này.
Bảo Ngọc cười nói:
- Chị cứ ở đây, cũng có lúc ngồi kiệu tám người khiêng.
Tập Nhân cười nhạt:
- Cái đó tôi chẳng thèm khát gì. Có phúc mà không có đức thì
dù được ngồi kiệu cũng chẳng thú gì.
Hai người đương nói chuyện, thấy Thu Văn đến giục:
- Canh ba rồi, nên đi ngủ thôi. Vừa rồi cụ sai người sang hỏi,
tôi trả lời cụ đã ngủ rồi.
Bảo Ngọc lấy đồng hồ xem thì kim đã trỏ giờ tý hai khắc, bấy
giờ mới bắt đầu rửa mặt súc miệng, cởi áo đi nằm.
Sáng hôm sau, Tập Nhân dậy, thấy người khó chịu, đầu nhức, mắt
hoa, chân tay nóng nực, lúc đầu còn cố, sau không gượng nổi, chỉ thích ngủ, bèn
để nguyên cả áo nằm xoài trên giường. Bảo Ngọc vội trình Giả mẫu cho mời thầy
xem mạch.
Thầy thuốc nói bị cảm lạnh, uống một vài thang phát tán sẽ khỏi.
Rồi kê đơn sai người đi lấy thuốc về sắc. Bảo Ngọc dặn Tập Nhân uống xong phải
trùm chăn cho ra mồ hôi. Sau đó Bảo Ngọc đến thăm Đại Ngọc.
Đại Ngọc đương nằm ngủ trưa. Bọn a hoàn đi chơi cả. Trong nhà
im lặng như tờ. Bảo Ngọc vén rèm thêu vào, lay Đại Ngọc dậy, nói:
- Cô em vừa ăn xong đã đi ngủ à?
Đại Ngọc tỉnh dậy, thấy Bảo Ngọc, nói:
- Anh hãy ra ngoài chơi. Đêm qua tôi thức cả đêm, hôm nay
chưa được nghỉ, đau nhừ cả người.
Bảo Ngọc nói:
- Đau mình là sự thường, chứ ăn mà ngủ ngay, thì thành bệnh
to. Tôi sẽ làm cho cô em đỡ buồn, để quên ngủ thì hơn.
Đại Ngọc cứ nhắm mắt, nói:
- Tôi không ngủ, chỉ nằm nghỉ một lát, anh hãy ra ngoài chơi,
chốc nữa sẽ đến.
Bảo Ngọc nói:
- Tôi đi đâu bây giờ?
Đại Ngọc phì cười, rồi nói:
- Nếu muốn ở lại đây, thì sang bên kia ngồi nghiêm chỉnh,
chúng ta sẽ nói chuyện.
- Tôi cũng muốn ngả lưng.
- Thì anh cứ ngả lưng.
- Nhưng không có gối. Chúng ta gối chung một gối vậy.
- Bậy nào! Ở ngoài kia chẳng có gối là gì? Mang một cái đến
mà gối.
Bảo Ngọc ra bên ngoài, nhìn một lượt rồi quay vào nói:
- Cái gối kia tôi không cần, không biết đó là gối của mụ già
nào mà bẩn thế!
Đại Ngọc nghe nói, trừng mắt đứng dậy nói:
- Anh thực là sao "thiên ma" trong lá số của tôi.
Đây xin mời gối cái gối này.
Nói xong, Đại Ngọc đưa cái gối của mình cho Bảo Ngọc, rồi lấy
cái gối khác để gối. Hai người nằm đối diện nhau.
Đại Ngọc nhìn thấy bên má trái Bảo Ngọc có một nốt đỏ bằng
cái khuya áo, liền xích lại gần lấy tay xoa kỹ xem rồi nói:
- Đã bị móng tay ai cào sứt ra đây?
Bảo Ngọc nằm nghiêng lại, cười nói:
- Chẳng có ai cào cả. Có lẽ lúc nãy lọc sáp cho họ bị sáp bắn
lên một giọt.
Nói xong tìm khăn để lau. Đại Ngọc lấy khăn lụa của mình lau
hộ, và chép miệng:
- Anh lại làm những trò ấy à? Làm thì đã đành rồi, nhưng cũng
cần phải giấu đi. Dù cậu không thấy, nhưng nếu người khác thấy thì họ cho là một
việc lạ lùng quái gở, sẽ kháo ầm lên, đến tai cậu thì chẳng ai yên được đâu.
Nhưng Bảo Ngọc chẳng nghe gì cả, chỉ ngửi thấy mùi thơm ở
trong tay áo Đại Ngọc đưa ra, làm Bảo Ngọc tâm hồn mê mẩn, liền kéo tay áo Đại
Ngọc xem trong ấy đeo thứ hương gì. Đại Ngọc cười nói:
- Đương buổi trưa này ai đeo hương làm gì?
- Thế thì mùi thơm này ở đâu ra?
- Tôi cũng không biết, hay là mùi hương ở trong hòm áo.
Bảo Ngọc lắc đầu:
- Chưa chắc. Mùi hương này lạ lắm, không giống như mùi hương
bánh, hương quả cầu và hương trong túi đâu.
Đại Ngọc cười nhạt:
- Làm gì có vị La Hán chân nhân nào đem cho tôi những mùi
hương lạ ấy? Dù có chăng nữa, cũng chẳng có anh em ruột thịt nào lấy hoa, lấy
nhụy, lấy sương, lấy tuyết chế ra cho tôi. Tôi chỉ có những thứ hương phàm tục
thôi.
Bảo Ngọc cười nói:
- Hễ tôi nói một câu, là em lại sinh sự bắt bẻ. Nếu không trị
cho em một phen đáo để thì em không biết tay, từ giờ không tha thứ nữa đâu.
Nói xong, giơ hai tay lên, lấy ngón tay cù vào hai bên cạnh
sườn Đại Ngọc. Đại Ngọc có máu buồn, thấy Bảo Ngọc giơ tay muốn cù thì cười giốc
lên:
- Anh Bảo Ngọc, anh đùa nữa tôi giận đấy.
Bảo Ngọc mới dừng tay lại cười hỏi:
- Còn nói thế nữa thôi?
Đại Ngọc cười nói:
- Không dám nói nữa ạ.
Rồi vén tóc cười:
- Tôi có mùi "hương lạ" thì anh có mùi "hương ấm”
không?(2)
Bảo Ngọc nghe không hiểu, hỏi:
- Thế nào là "hương ấm"?
- Ngu quá! Anh có ngọc thì người ta có vàng để sánh đôi, thế
mà người ta có "hương lạnh", anh lại không có "hương ấm" à?
Bảo Ngọc mới nghe ra, cười nói:
- Vừa mới xin lỗi, đã lại nói kháy rồi.
Nói xong, lại chực giơ tay cù.
Đại Ngọc cười:
- Anh ơi! Tôi không dám thế nữa!
Bảo Ngọc cười nói:
- Tha cho em cũng dễ thôi, nhưng phải đưa tay áo cho tôi ngửi.
Bảo Ngọc kéo tay áo Đại Ngọc trùm vào mặt ngửi mãi. Đại Ngọc
giật tay nói:
- Thôi anh nên về đi.
Bảo Ngọc cười:
- Tôi không về đâu. Chúng ta cùng nằm tử tế nói chuyện với
nhau.
Bảo Ngọc lại nằm ngả mình xuống. Đại Ngọc cũng nằm, lấy khăn
lụa che mặt.
Bảo Ngọc thỉnh thoảng lại giở những chuyện vớ vẩn ra nói. Đại
Ngọc đều không để ý. Bảo Ngọc hỏi Đại Ngọc: Khi đến kinh bao nhiêu tuổi? Đi đường
thấy nhưng phong cảnh gì? Dương Châu có những cổ tích gì? Phong tục ở đấy thế
nào? Đại Ngọc đều không trả lời. Bảo Ngọc chỉ sợ Đại Ngọc ngủ rồi sinh ốm, bên
nói lừa:
- Ái chào! Ở trong thành Dương Châu, có một việc to lớn, em
có biết không?
Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc nói vẻ trịnh trọng, nghiêm nghị, tưởng
là chuyện thực, bèn hỏi việc gì? Bảo Ngọc nín cười nói:
- Dương Châu có một ngọn Đại sơn, trên núi có động Lâm Tử.
Đại Ngọc cười nói:
- Đó là bày chuyện nói nhảm, xưa nay chẳng nghe thấy cái tên
núi ấy bao giờ.
- Thiên hạ núi sông rất nhiều, em biết thế nào hết được, để
tôi nói xong đã sẽ bình phẩm.
- Thế thì nói đi.
- Nguyên trước đây động Lâm Tử có một đàn chuột già đã thành
tinh. Năm ấy vào ngày mùng bảy tháng chạp, một con chuột già lên ngồi trên cao
truyền phán công việc: "Ngày mai là mồng tám tháng chạp, người ta đều nấu
cháo "lạp bát". Nay trong động ta đương thiếu hoa quả, đồ ăn. Nhân dịp
này chúng ta đi kiếm lấy mấy thứ. Nói rồi liền rút một cái lệnh tiễn, sai một
con chuột nhỏ thạo việc đi thăm dò các nơi. Sau đó con chuột nhỏ về báo:
"Đã đi thăm dò các nơi rồi, chỉ có một ngôi miếu ở dưới núi là có nhiều
hoa quả và thóc gạo". Con chuột già hỏi: “Gạo, quả có mấy thứ?" Chuột
nhỏ thưa: "Gạo, đậu hàng kho; quả có năm thứ: một là táo đỏ, hai là hạt dẻ,
ba là lạc, bốn là củ ấu, năm là khoai thơm". Chuột già nghe nói mừng lắm,
rút một cái lệnh tiễn, hỏi: "Ai đi ăn trộm gạo?" Một con nhận lệnh
đi. Lại rút một cái lệnh tiễn nữa hỏi: "Ai đi ăn trộm đậu?" Con khác
nhận lệnh đi. Rồi hai con nữa đều nhận lệnh tiễn đi làm việc. Còn khoai thơm,
chuột già rút lệnh tiễn ra hỏi: "Ai đi ăn trộm?" Có con chuột bé nhỏ,
yếu đuối nhất chạy ra xin đi. Chuột già và các chuột khác thấy nó yếu đuối, sợ
không quen việc, không cho đi. Nó nói: “Tôi tuy nhỏ yếu, nhưng pháp thuật rất mầu
nhiệm, ăn nói linh lợi, có mưu sâu sắc, đi chuyến này chắc tôi ăn trộm tài hơn
cả". Một con khác hỏi làm thế nào mà cho là tài? Chuột con nói: "Tôi
không ăn trộm đường hoàng như bọn kia. Tôi chỉ quay mình một cái biến thành củ
khoai thơm, rồi lẩn vào trong đống khoai. Không ai nhận ra. Sau tôi khe khẽ
khuân ra và dần dần khuân hết cả đống. Thế chẳng tài hơn bọn kia cứ trơ tráo đi
ăn trộm hay sao?” Những con chuột kia đều nói: "Giỏi đấy, nhưng cách biến
thế nào? Làm thử cho chúng ta xem nào?" Chuột con nghe rồi cười nói: “Việc
ấy khó gì. Tôi biến cho mà xem". Nói xong nó quay mình biến ngay thành một
cô con gái rất đẹp. Mấy con chuột khác vộI cười nói: "Nhầm rồi! Nhầm rồi!
Trước nói biến thành củ khoai thơm, sao lại biến thành một cô gái?" Con
chuột con trở lạI nguyên hình cười nói: Chúng bay không biết rõ chuyện đời! Chỉ
biết củ ấy là củ khoai thơm, mà không biết cô gái nhà cụ Lâm mới chính là
"ngọc thơm" đấy!”(3)
Đại Ngọc nghe nói, vùng ngay dậy, dí tay vào người Bảo Ngọc
cười nói:
- Cái anh toét miệng này! Tôi biết ngay rằng anh lại đặt điều
chế nhạo tôi mà!
Nói xong Đại Ngọc lại véo miệng Bảo Ngọc, Bảo Ngọc liền kêu
van:
- Em ơi! tha cho tôi, tôi không dám thế nữa! Vì ngửi thấy mùi
thơm của em, chợt nhớ đến chuyện cổ tích ấy.
Đại Ngọc cười nói:
- Tha hồ mắng người ta, rồi anh lại bảo là chuyện cổ tích!
Đương nói chuyện thì Bảo Thoa đến, cười hỏi:
- Ai nói chuyện cổ tích, cho tôi nghe với.
Đại Ngọc vội mời Bảo Thoa ngồi rồi cười nói:
- Chị xem đấy, còn ai nữa? Anh ấy mắng tôi, lại còn nói là
chuyện cổ tích.
Bảo Thoa cười:
- A, thế ra cậu Bảo đấy à? Lạ nhỉ! Xưa nay cậu ấy nhớ rất nhiều
chuyện cổ, nhưng chỉ tiếc có một điều: lúc đáng dùng điển cổ thì cậu ấy lại
quên. Hôm nay nhớ được thì đêm hôm nọ làm bài thơ “ba tiêu” cũng phải nhớ chứ?
Thế mà truyện ngay trước mắt cũng nghĩ mãi không ra. Lúc đó người ta thì rét
run không chịu được, mà cậu ấy thì đổ mồ hôi ra. Bây giờ sao trí nhớ lại tốt thế!
Đại Ngọc cười nói:
- A di đà phật! Chị thực đáng là bậc chị của tôi! Giờ cậu Bảo
mới gặp tay đối thủ. Thế mới biết rằng sự báo ứng không sai chút nào.
Họ nói chuyện đến đây, nghe thấy bên phòng Bảo Ngọc có tiếng
cãi cọ ầm lên.
Chú thích:
Chú thích:
(1). Tập Nhân họ Hoa (xem hồi 3).
(2). Đại Ngọc nói bóng nói gió, nhắc đến “lãnh hương hoan” của
Bảo Thoa (xem hồi thứ 7) có nghĩa là “hương lạnh” nên Đại Ngọc dùng nghĩa trái
là “hương ấm”.
(3). Theo chữ Trung Quốc: “khoai thơm”, “ngọc thơm” đều đọc
giống nhau.
Hồi 20:
Phượng Thư thẳng thắn dẹp hẳn thói ghen tuông
Đại Ngọc tinh ranh nói những câu bỡn cợt
Bảo Ngọc đang ở trong buồng Đại Ngọc nói chuyện con chuột, chợt
Bảo Thoa đến chế Bảo Ngọc về việc tiết nguyên tiêu vừa rồi không nhớ điển “Lục
lạp”. Ba người ngồi cười đùa chế giễu lẫn nhau. Bảo Ngọc sợ Đại Ngọc ăn xong đi
ngủ ngay, lỡ ra không tiêu, hoặc đêm không ngủ được sẽ sinh bệnh. May có Bảo
Thoa đến chơi, cùng nhau cười đùa làm cho Đại Ngọc không buồn ngủ nữa. Bấy giờ
Bảo Ngọc mới yên lòng. Chợt bên buồng Bảo Ngọc có tiếng om sòm, mọi người lắng
tai nghe. Đại Ngọc cười nói:
- Thôi lại bà vú của anh cãi nhau với Tập Nhân rồi. Tập Nhân
đối với bà ấy vẫn tử tế, mà bà ấy cứ quát mắng luôn, thế mới biết là già hay
trái tính.
Bảo Ngọc muốn chạy về, Bảo Thoa kéo lại nói:
- Không nên lôi thôi với bà ấy, già hay lẩm cẩm, nhịn đi một
tí là hơn.
- Biết rồi.
Nói xong Bảo Ngọc chạy về, thấy vú Lý đương chống gậy đứng mắng
Tập Nhân:
- Con đĩ ranh này vô ơn, công tao cất nhắc mày lên, nay tao đến
đây, mày lại làm bộ làm tịch, nằm ngửa trên giường, không thèm chào hỏi một
câu. Mày là giống cáo thành tinh, chỉ tìm cách cám dỗ Bảo Ngọc để nó nghe mày
không nhìn đến tao. Mày chẳng qua là con hầu nhỏ mua bằng mấy lạng bạc mốc đem
về đây. Thế mà mày đã sinh yêu sinh quái ở nhà này! Liệu hồn đấy! Tao thì lôi cổ
mày ra đem gả cho một thằng ranh con nào đấy, xem mày còn giở thói yêu tinh cám
dỗ Bảo Ngọc nữa thôi!
Tập Nhân chỉ tưởng vú Lý cáu vì vú vào mà mình nằm lỳ không dậy,
nên phân trần: "Vì tôi ốm, phải trùm đầu cho ra mồ hôi, nên khi u vào tôi
không trông thấy". Sau nghe thấy những câu "cám dỗ Bảo Ngọc",
"gả cho thằng ranh con", thì vừa xấu hổ, vừa ức, khóc òa lên.
Bảo Ngọc nghe thấy vậy, rất khó chịu nhưng không biết làm thế
nào, đành phân trần hộ Tập Nhân: "Ốm đang uống thuốc… Nếu u không tin, cứ
hỏi a hoàn khắc biết.”
Vú Lý nghe thấy thế, lại càng làm già:
- Cậu chỉ biết bênh con ranh ấy, còn chả biết tôi là ai nữa?
Tôi biết hỏi ai? Bây giờ ai chẳng vào hùa với cậu, chẳng bị con Tập Nhân nó cám
dỗ? Tôi biết hết cả rồi. Tôi với cậu hãy đến phân trần trước mặt cụ và bà Hai:
vì có sữa tôi, cậu mới lớn được thế này, nay không cần bú nữa, cậu gạt tôi ra một
xó, dung túng bọn con hầu khinh rẻ tôi!
Vú Lý vừa nói vừa khóc.
Bấy giờ Đại Ngọc, Bảo Thoa cũng đến khuyên ngăn:
- Thôi u rộng lượng tha thứ cho họ.
Vú Lý thấy họ đến, liền kể lể hết nỗi uất ức bấy nay: nào
chuyện uống nước trà, Phiến Tuyết bị đuổi, chuyện ăn bánh sữa hôm qua. Nói lải
nhải mãi không dứt. May sao lúc ấy Phượng Thư đang ở trong buồng tính sổ, nghe
thấy tiếng ồn ào ở phía sau, biết là vú Lý già giở chứng, gắt mắng a hoàn của Bảo
Ngọc, lại gặp hôm thua bạc, cáu lây sang cả người khác. Phượng Thư liền chạy
sang ngay, kéo tay vú Lý cười nói:
- U đừng nóng tính thế! Nhà vừa mới có tiệc mừng xong, cụ mới
vui vẻ được ít ngày. U là bậc có tuổi, người nào làm rầm rĩ u ngăn cấm đi mới
phải, lẽ nào chính u lại không giữ phép tắc la hét ầm nhà, làm cho cụ bực mình.
Ai hỗn với u, tôi sẽ đánh nó cho. Bên nhà tôi mới nấu thịt chim trĩ còn nóng, mời
u sang uống rượu với tôi.
Phượng Thư vừa nói vừa dắt vú Lý đi, lại gọi "Phong Nhi!
Mang gậy và lấy khăn lau mặt cho vú Lý!"
Vú Lý thất thểu theo Phượng Thư đi ra, còn ngoái cổ lại:
- Tao già rồi, chẳng cần gì nữa. Hôm nay tao liều, chẳng giữ
phép tắc, làm rầm rĩ một phen, dù có mất thể diện cũng còn hơn chịu tức khí với
con đĩ kia!
Bảo Thoa, Đại Ngọc thấy Phượng Thư dàn xếp như thế đều vỗ tay
cười:
- Nhờ có trận gió nào mới lôi được mụ ấy đi.
Bảo Ngọc lắc đầu:
- Không hiểu cái nợ ấy từ đâu đến, cứ nhè vào người hiền lành
mà bắt nạt. Cũng không biết cô nào cứ hay gây chuyện, để mụ ấy làm ầm lên.
Tình Văn đứng cạnh nói:
- Ai có hóa rồ mà gây chuyện với mụ ấy? Đã gây chuyện thì có
gan nhận, cần gì để liên lụy đến người khác.
Tập Nhân vừa khóc vừa kéo tay Bảo Ngọc:
- Tôi đã có lỗi với vú ấy, cậu lại vì tôi mà có lỗi với người
ta. Việc này một mình tôi chịu cũng chưa đủ hay sao? Lại còn lôi người khác
vào!
Bảo Ngọc thấy Tập Nhân đương ốm lại thêm buồn bực, nên cố nhịn,
và an ủi Tập Nhân, bảo đi ngủ cho ra mồ hôi. Lại thấy người Tập Nhân nóng ran
như lửa, Bảo Ngọc liền ngồi ghé bên cạnh khuyên giải Tập Nhân tĩnh dưỡng, không
nên nghĩ vơ vẩn những việc không đâu. Tập Nhân cười nhạt:
- Vì những việc như thế mà bực tức, thì liệu có ai ở được nhà
này một giờ không? Nhưng ngày tháng còn dài, nếu lúc nào cũng ầm ỹ như thế này,
ai còn chịu nổi? Ngày thường tôi vẫn khuyên cậu chớ nên vì chúng tôi mà mang lỗi
với người, nhưng có đôi lúc cậu không chú ý đến, thành ra họ nhớ mãi, gặp dịp
sơ hở là họ nói ra những giọng khó nghe, như thế còn ra gì nữa?
Tập Nhân vừa nói vừa ứa nước mắt, nhưng lại sợ Bảo Ngọc buồn,
nên phải cố nén đi. Một chốc, bà già bưng đến nước thuốc thứ hai. Bảo Ngọc thấy
Tập Nhân mới ra mồ hôi, không muốn gọi dậy, tự tay mang thuốc đến cạnh gối cho
uống. Rồi sai bọn a hoàn nhỏ sửa soạn giường chiếu. Tập Nhân hỏi:
- Cậu ăn cơm chưa? Hãy sang bên cụ hay bên bà ngồi chơi với
chị em một chốc rồi lại về đây, cho tôi nằm nghỉ một lúc.
Bảo Ngọc nghe lời, chờ cho Tập Nhân tháo trâm vòng, nằm nghỉ,
rồi mới lên nhà trên ăn cơm với Giả mẫu. Ăn xong, Giả mẫu muốn đánh bài với bọn
vợ quản gia. Bảo Ngọc nhớ đến Tập Nhân, lại về buồng ngay. Thấy Tập Nhân đã ngủ
say, Bảo Ngọc cũng muốn đi ngủ, nhưng trời còn sớm. Bấy giờ bọn Tình Văn, Ỷ Hà,
Thu Văn, Bích Ngân đều đi tìm trò chơi với Uyên Ương và Hổ Phách. Chỉ còn trơ Xạ
Nguyệt ngồi đánh bài một mình ở gian nhà ngoài. Bảo Ngọc cười hỏi:
- Sao chị không đi chơi với họ.
- Không có tiền.
- Tiền để ở dưới gầm giường, không đủ cho chị đánh à?
- Đi chơi cả, nhà để ai trông? Một người ốm nằm đấy, trên thì
đến, dưới thì lửa, các bà già vất vả suốt ngày, cũng nên để cho họ đi nghỉ; bọn
a hoàn nhỏ cũng phải hầu hạ cả ngày, không cho họ đi chơi một lúc hay sao? Vì
thế tôi phải ở nhà.
Thật rõ ràng là lời lẽ của Tập Nhân thứ hai, Bảo Ngọc liền cười
nói:
- Giờ tôi ngồi ở đây, chị cứ yên tâm đi chơi.
Xạ Nguyệt nói:
- Cậu đã ở nhà thì tôi càng không cần phải đi nữa. Hai chúng
ta nói chuyện với nhau chẳng hơn ư?
Bảo Ngọc nói:
- Chúng ta làm gì bây giờ? Cũng chẳng có chuyện gì. Thôi vậy,
sớm hôm nay tôi thấy chị nói ngứa đầu, bây giờ rỗi, tôi chải đầu cho chị nhé.
Xạ Nguyệt nói:
- Cũng được.
Rồi mang hộp gương đến, tháo bỏ trâm vòng. Xạ Nguyệt rũ đầu
ra cho Bảo Ngọc lấy lược chải. Mới chải được mấy cái, thì Tình Văn ở đâu chạy về
lấy tiền. Trông thấy thế, Tình Văn cười nhạt:
- Kìa, chưa uống rượu giao bôi đã gỡ tóc cài trâm(1) cho nhau
rồi?
Bảo Ngọc cười:
- Chị lại đây tôi chải cho luôn một thể?
Tình Văn nói:
- Chả dám. Tôi kém phúc lắm.
Nói xong, lầy tiền rồi bỏ rèm xuống đi ra.
Bảo Ngọc ngồi sau Xạ Nguyệt, Xạ Nguyệt soi gương. Hai người
nhìn nhau ở trong gương cùng cười. Bảo Ngọc cười nói:
- Trong nhà này, chỉ có nó là lắm điều nhất.
Xạ Nguyệt vội xua tay ở trong gương. Bảo Ngọc biết ý. Chợt
nghe tiếng rèm "xoạt" một cái, Tình Văn chạy vào hỏi:
- Thế nào là lắm điều? Nói ra cho rõ?
Xạ Nguyệt cười nói:
- Thôi cút đi, lại đến đây định vặn nhau à?
Tình Văn cười nói:
- Mày lại bênh cậu ấy à? Các người giở trò ma quỷ, tưởng đây
không biết hay sao? Để tôi đi đánh gỡ vốn đã, rồi trở về sẽ bảo cho.
Nói xong, chạy một mạch.
Bảo Ngọc chải đầu cho Xạ Nguyệt xong, khẽ bảo sửa soạn cho
mình đi ngủ, đừng làm Tập Nhân thức dậy.
Đêm hôm ấy, Tập Nhân ra được mồ hôi. Thấy người nhẹ đi. Sáng
hôm say chỉ uống nước cháo và nằm tĩnh dưỡng. Lúc đó, Bảo Ngọc mới yên lòng. Ăn
cơm xong, Bảo Ngọc sang chơi bên Tiết phu nhân.
Bấy giờ vào giữa tháng giêng, nhà trường còn nghỉ học, trong
khuê các còn kiêng thêu thùa may vá, nên ai cũng rỗi cả. Giả Hoàn cũng sang đấy
chơi. Gặp lúc Bảo Thoa, Hương Lăng và Oanh Nhi đương đánh xúc xắc, hắn cũng muốn
đánh. Ngày thường Bảo Thoa coi hắn cũng như Bảo Ngọc, không phân biệt gì; nay
thấy hắn muốn đánh, nên mời chơi một chân. Mỗi cuộc mười đồng. Cuộc đầu hắn được,
trong bụng hí hởn lắm; ngờ đâu về sau hắn thua luôn mấy lần, đâm cuống. Lần này
đến lượt hắn gieo xúc xắc, nếu gieo con "thất" thì được cả, con
"lục” cũng được, trúng con "tam" thì thua. Hắn cầm con xúc xắc
gieo xuống thật mạnh, một con đã ngửa mặt "ngũ”, một con nữa còn quay tít.
Oanh Nhi vỗ tay nói "yêu”. Giả Hoàn trừng mắt lên nói luôn: "lục",
"thất", "bát". Nhưng sao con xúc xắc lại ngửa mặt
"yêu". Giả Hoàn vội giơ tay nắm lấy con xúc xắc, chực vơ lấy tiền,
nói là con "lục".
Oanh Nhi nói:
- Rõ ràng là con "yêu".
Bảo Thoa thấy Giả Hoàn cáu kỉnh, vội lườm Oanh Nhi một cái
nói:
- Càng lớn càng không có phép tắc! Có lẽ nào các cậu lại nói
dối? Sao mày không bỏ tiền xuống?
Oanh Nhi trong bụng rất ức, nhưng thấy Bảo Thoa nói thế không
dám cãi lại, đành bỏ tiền xuống, càu nhàu:
- Đã là cậu mà lại còn ăn gian mấy đồng tiền của chúng tôi. Số
tiền đó chúng tôi cũng chẳng coi vào đâu. Hôm nọ chơi với cậu Bảo Ngọc, cậu ấy
thua mà chẳng thấy gắt gỏng gì, thừa đồng nào là đám a hoàn nhỏ cướp hết, cậu ấy
cũng chỉ cười thôi.
Bảo Thoa liền ngắt lời không cho nó nói nữa.
Giả Hoàn nói:
- Tao bì thế nào được với cậu Bảo Ngọc? Chúng bay sợ cậu ấy,
nên đều tử tế với cậu ấy và cho tao không phải là con đẻ của bà Hai, nên ai
cũng khinh rẻ tao!
Nói xong khóc ầm lên.
Bảo Thoa vội khuyên giải:
- Em ơi! Đừng nói thế, người ta cười cho.
Rồi quay lại mắng Oanh Nhi.
Vừa lúc đó Bảo Ngọc chạy đến, trông thấy, hỏi:
- Làm sao thế?
Giả Hoàn không dám nói câu gì. Bảo Thoa xưa nay vẫn biết gia
pháp nhà này, làm em thì phải sợ anh. Nhưng biết đâu Bảo Ngọc lại không muốn ai
sợ mình. Trong bụng nghĩ: "Đã có bố mẹ dạy bảo, việc gì ta phải lắm chuyện
khiến anh em xa nhau. Vả lại ta là con vợ cả, nó là con vợ lẽ, ta đối với nó
nghiêm khắc thì người ngoài chê cười, ta còn cai quản thế nào được nó".
Hơn nữa, Bảo Ngọc còn có một ý nghĩ ngây ngô. Độc giả có biết ngây ngô thế nào
không? Vì Bảo Ngọc từ bé luôn luôn ở chung với đám chị em, chị em ruột thì có
Nguyên Xuân, Thám Xuân; chị em thúc bá thì có Nghênh Xuân, Tính Xuân; chị em
ngoại thì có Tương Vân, Đại Ngọc, Bảo Thoa; Bảo Ngọc cho rằng, người thiêng hơn
cả vạn vật, bao nhiêu tinh hoa trong sạch của trời đất, đều chung đúc vào con
gái, bọn con trai chỉ là hạng cặn bã bẩn đục mà thôi. Vì thế, cậu ta cho tất cả
con trai là hạng thô tục có cũng được, không cũng chằng sao. Chỉ vì theo lời dạy
của Khổng Tử, thánh hiền bậc nhất thời xưa, đã nói về cha, chú, anh em, một điều
không thể trái ngược, nên giữa anh em với nhau, chẳng qua phải ở cho có tình có
lý. Cậu ta cũng chẳng nghĩ gì mình là anh trai, phải làm gương cho lũ đàn em.
Do đó Giả Hoàn không sợ Bảo Ngọc, chỉ sợ Giả mẫu không bằng lòng, nên cũng nể
phần nào thôi.
Bảo Thoa lại sợ Bảo Ngọc trách mắng Giả Hoàn đâm ra cụt hứng,
nên tìm cách che đậy hộ hắn. Bảo Ngọc nói:
- Đầu giêng năm mới, sao mày lại khóc? Chỗ này không thích
thì mày đi chơi chỗ khác. Mày ngày nào cũng đọc sách mà còn vơ vẩn như thế. Thí
dụ, cái này mày không thích, thì đã có cái kia, mày cứ bỏ cái này đi mà chơi
cái kia. Tội gì mày cứ khư khư giữ mãi cái ấy? Khóc liệu có ăn thua gì? Chơi cất
lấy vui, mà lại hóa ra chuốc lấy cái buồn? Sao mày không đi chỗ nào cho yên
chuyện?
Giả Hoàn nghe nói đành phải bỏ về.
Dì Triệu trông thấy, hỏi dồn:
- Chắc lại bị người ta bắt nạt ở đâu rồi về đấy chứ gì?
Giả Hoàn đáp:
- Tôi chơi với chị Bảo, bị Oanh Nhi ăn gian tiền, rồi anh Bảo
Ngọc đuổi tôi về.
Dì Triệu mắng:
- Ai bảo mày chơi trèo? Đồ khốn nạn! Đồ mặt dày! Chỗ nào mày
chơi chả được, sau lại cứ cắm đầu sang đấy?
Đương nói, Phượng Thư đi qua ngoài cửa sổ nghe thấy, nói với
vào:
- Đầu giêng năm mới, sao dì lại thế? Em nó còn trẻ, có điều
gì nhầm lẫn thì dì dạy bảo, sao dì lại giở những giọng ấy ra? Dù nó thế nào
chăng nữa, đã có ông và bà cai quản, sao lại ngoạc cái mồm ra mắng nó? Nó là cậu
ấm, đã có người dạy bảo, việc gì đến dì? Em Hoàn, em ra đây theo ta đi chơi!
Giả Hoàn xưa nay vẫn sợ Phượng Thư hơn là sợ Vương phu nhân,
nghe thấy gọi, vội chạy ra ngay. Dì Triệu cũng chẳng dám nói câu gì. Phượng Thư
bảo Giả Hoàn:
- Mày là hạng người không có khí phách gì cả. Ta thường bảo
mày muốn ăn, muốn uống, muốn chơi gì tùy ý, trong các anh, các chị, ưa người
nào thì chơi với người ấy, mày không nghe lời, lại cứ đi nghe hạng người bậy bạ,
ranh mãnh. Mình không biết tự trọng mình, chỉ theo lối hạ lưu bừa bãi, lại còn
oán người ta đối đãi thiên lệch với mình. Thua có mấy đồng mà đến nỗi thế à?
Thua hết bao nhiêu?
Giả Hoàn nói:
- Em thua hết một vài trăm đồng tiền.
Phượng Thư mắng:
- Cũng mang tiếng là cậu ấm, mới thua một hai trăm đồng mà đã
thế à!
Rồi quay lại bảo Phong Nhi:
- Đi lấy một quan tiền ra đây. Các cô đương chơi ở đường sau
kia, đưa cậu ra đấy chơi.
- Từ rầy mày còn giữ lối quỉ quái như thế, ta sẽ đánh trước rồi
mách bên trường học cho người ta lột da ra! Vì mày không biết tự trọng, nên anh
Bảo giận mày lắm. Nếu tao không can thì anh mày đã đá cho mày lòi ruột ra rồi.
Thôi! Cút đi!
Giả Hoàn vâng vâng dạ dạ, theo Phong Nhi lấy tiền rồI ra chỗ
bọn Nghênh Xuân chơi.
Bảo Ngọc đương ngồi chơi với Bảo Thoa, chợt thấy ngườI nói:
"Cô Sử đã đến". Bảo Ngọc chực chạy đi ngay. Bảo Thoa cười nói:
- Hãy chờ một tí, chúng ta cùng đến thăm cô ta một thể.
Nói xong, xuống giường cùng Bảo Ngọc đến chỗ Giả mẫu.
Sử Tương Vân đương cười cười, nói nói, thấy họ đến, vộI đứng
dậy chào.
Đại Ngọc ngồi bên cạnh, hỏi Bảo Ngọc:
- Anh ở đâu về đấy?
- Đến thăm chị Bảo về.
Đại Ngọc cười nhạt:
- Em đã nói mà, nếu không vướng mắc ở đâu thì đã bay đến ngay
rồi.
- Thế tôi chỉ được ở nhà chơi đùa với cô em để cô em đỡ buồn
thôi ư? Vừa mới sang bên ấy một lúc mà đã nói những câu ấy.
- Khéo vớ vẩn chưa! Đi hay không có liên can gì đến tôi? Ai
khiến anh ở nhà để cho tôi đỡ buồn? Từ giờ trở đi, không cần anh để ý đến tôi nữa.
Nói xong, giận dỗi trở về buồng.
Bảo Ngọc vội chạy theo hỏi:
- Đang tử tế mà lại đâm ra giận dỗi rồi. Dù tôi có lỡ lời, em
cũng nên ngồi chơi một lúc nói chuyện cho vui. Việc gì lại chuốc nỗi buồn vào
người!
- Anh cấm đoán tôi à?
- Tôi nào dám cấm đoán em. Chỉ là em tự giày vò thân em đấy
thôi!
- Tôi tự giày vò thân tôi! Tôi chết kệ tôi, có việc gì đến
anh?
- Sao lại thế? Đầu giêng năm mới, cứ nói "chết" với
"sống” mãi!
- Tôi chỉ nói "chết" thôi! Phen này tôi chết đấy!
Anh sợ chết thì cứ sống đến trăm tuổi, có được không?
- Cứ rắc rối mãi thế này, tôi lại sợ chết à? Thà chết đi cho
yên chuyện!
- Phải đấy, cứ rắc rối mãi thế này, thì thà chết hết đi cho
yên chuyện!
- Tôi nói là tôi chết cho yên chuyện, em đừng nghe nhầm lại đổ
oan cho tôi.
Hai người đương nói với nhau, thì Bảo Thoa chạy đến nói:
- Cô Sử đương chờ cậu đấy.
Rồi kéo Bảo Ngọc đi. Đại Ngọc càng tức, nhìn ra cửa sổ, nước
mắt chảy ròng ròng.
Độ chừng uống cạn hai chén nước thì Bảo Ngọc trở về. Đại Ngọc
trông thấy càng khóc nức nở. Bảo Ngọc thấy thế, biết rằng khó làm Đại Ngọc hồi
tâm, nên cố tìm hết lời êm dịu để khuyên giải, nhưng chưa kịp mở mồm, Đại Ngọc
đã nói:
- Anh còn đến đây làm gì? Sống chết kệ thây tôi! Vả chăng bây
giờ đã có người chơi với anh rồi. Người ấy lại biết đọc sách, biết làm thơ, biết
viết chữ, biết nói, biết cười. Họ sợ anh bực tức, mới lôi đi để cám dỗ anh. Bây
giờ anh còn đến đây làm gì nữa?
Bảo Ngọc nghe nói, vội đến trước mặt Đại Ngọc khẽ nói:
- Em là người hiểu biết, có lẽ nào không biết câu “Thân bất
cách sơ”, “Tiên bất tiếm hậu”(2) hay sao? Anh tuy dốt nát, nhưng cũng biết
nghĩa hai câu đó. Điều thứ nhất, chúng ta là anh em con cô con cậu, chị Bảo với
anh là đôi con dì, với em thì còn xa hơn. Điều thứ hai, em đến đây trước, hai
chúng ta từ bé đến lớn, ăn cùng một bàn, ngủ cùng một giường, chị Bảo thì mới đến,
lẽ nào tôi lại vì chị ấy mà xa em?
Đại Ngọc gạt đi:
- Tôi lại bảo anh xa người ta à? Như thế tôi còn ra gì? Tôi
chỉ biết bụng tôi thôi!
- Tôi cũng chỉ biết bụng tôi thôi. Có lẽ nào em biết bụng em
mà không biết bụng tôi?
Đại Ngọc cúi đầu lặng im, một lúc sau mới nói:
- Anh chỉ trách người ta làm cho anh bực mình, có biết đâu
chính anh đã làm cho người ta khó chịu. Xem thời tiết hôm nay, trời lạnh như thế
mà anh không khoác áo bông vào?
Bảo Ngọc nói:
- sao lại không mặc? Chỉ vì thấy em bực tức, anh phát nóng cả
người, nên cởi áo ra đấy thôi.
Đại Ngọc phàn nàn:
- Rồi có bị cảm lại đổ tại vì cãi nhau với em mà đâm ốm.
Hai người đương nói thì Tương Vân chạy lại cười nói:
- Anh “ái”(4) ơi, chị Lâm ơi, các người ngày nào cũng chơi
đùa một chỗ với nhau, còn tôi không mấy khi đến đây, thế mà chẳng ai thèm hỏi
han đến tôi cả!
Đại Ngọc cười nói:
- Đã ngọng lại còn hay nói, ngay tiếng anh Hai cũng chẳng nói
nên thân, lại gọi là anh "ái", anh "ái". Lúc đánh lú cũng lại
ngọng nốt, cứ luôn mồm "yêu ái tam".
Bảo Ngọc cười bảo Đại Ngọc:
- Em bắt chước quen đi rồi cũng đâm ngọng thôi!
Tương Vân nói:
- Chị ấy không chừa một ai, chỉ tìm cách trêu chọc người ta.
Nếu mình quả giỏi hơn, cũng không nên gặp người nào là trêu chọc người ấy. Tôi
kể một người ra đây, chị dám trêu chọc thì tôi mới phục.
Đại Ngọc hỏi là ai. Tương Vân nói:
- Chị dám trêu chọc chị Bảo Thoa, tôi mới cho là giỏi.
Đại Ngọc cười nhạt:
- Tưởng ai chứ chị ấy thì tôi đâu dám.
Bảo Ngọc không chờ nói hết, vội nói lảng ra chuyện khác.
Tương Vân cười nói:
- Hiện nay thì tôi chịu thua chị. Tôi chỉ cầu mong sau này chị
lấy được người chồng cũng nói ngọng như tôi. Chị cũng có phen được nghe những
tiếng ái" ấy thôi. A di đà phật! Lúc đó sẽ hiện ra trước mắt chị.
Câu nói ấy làm cho mọi người bật cười, Tương Vân vội chạy mất.
Chú thích:
Chú thích:
(1). Trong đời phong kiến Trung Quốc, theo tục mới cưới, chú
rể gỡ tóc cài trâm cho cô dâu. Ở đây Tình Văn dùng câu đó để nói đùa hai người.
(2). Không vì người thân mà xa người sơ, cũng không vì người
trước mà lấn người sau.
(3). Tiếng Trung Quốc, chữ “ái” đọc gần giống chữa “hai”
(nhi). Ái lại có nghĩa là yêu. Tương Vân nói ngọng bị Đại Ngọc chế, Tương Vân lại
dùng chữ đó để trêu Đại Ngọc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét