Tam quốc chí diễn nghĩa 6
Hồi 31:
Tào Tháo ở Thương Đình, phá vỡ Bản Sơ
Huyền Đức sang Kinh Châu, nương nhờ Lưu Biểu
Viên Thiệu đội khăn xéo, mặc áo đơn, dẫn hơn tám trăm quân kỵ
mã chạy đến bờ phía bắc sông Lê Dương, đại tướng là Tưởng Nghĩa Cừ ra trại đón
rước.
Thiệu kể chuyện đầu đuôi với Nghĩa Cừ.
Nghĩa Cừ thu thập tàn quân lại. Quân sĩ nghe tin Viên Thiệu ở
đó, theo về đông như kiến, quân thế lại mạnh, mới bàn mưu về Ký Châu.
Khi đem quân đi dọc đường, đêm ngủ trong núi. Thiệu nằm trong
trướng, nghe văng vẳng có tiếng khóc, bèn lẻn ra nghe xem, đều là những tàn
quân, họp nhau lại, than khóc những nỗi mất anh, chết em, xa họ hàng, lìa bạn hữu.
Người nào người ấy vỗ bụng than thở:
- Nếu chúa công nghe lời Điền Phong, chúng ta đâu đến nỗi
này!
Thiệu nghe thấy, rất hối hận, nói:
- Ta không nghe lời Điền Phong, binh thua tướng mất. Nay trở
về, còn mặt mũi nào trông thấy hắn nữa.
Hôm sau, cưỡi ngựa đang đi, Phùng Kỷ dẫn quân lại đón. Thiệu
bảo Phùng Kỷ:
- Ta không nghe lời Điền Phong đến nỗi thua, bây giờ trở về,
trông thấy hắn thật xấu hổ.
Phùng Kỷ nhân thể nói gièm:
- Điền Phong ngồi trong ngục, nghe tin chúa công thua, vỗ tay
cười to: “Ta nói có sai đâu!”
Viên Thiệu cả giận, mắng:
- Thằng hủ nho ấy lại dám nhạo báng ta, ta phải giết đi.
Nói rồi sai sứ cầm bảo kiếm đi trước về Ký Châu vào ngục giết
Điền Phong.
Điền Phong đang ở trong ngục, một hôm cai ngục vào thăm nói:
- Tôi xin vào mừng ông.
Phong hỏi:
- Có việc gì đáng mừng?
Cai ngục lại nói:
- Viên tướng quân thua to mới về. Phen này ông sẽ được trọng
dụng.
Phong cười nói:
- Ta sắp chết thì có!
Cai ngục lại hỏi:
- Ai cũng mừng cho ông, ông lại bảo ông sắp chết là nghĩa thế
nào?
Phong nói:
- Viên tướng quân trông ngoài mặt thì khoan hoà nhưng trong bụng
hay ghen ghét, không nghĩ đến người trung thành; nếu được mà mừng, may ra còn
tha ta; nay thua tất hổ thẹn, ta còn mong sống sao được?
Cai ngục còn chưa tin, đã thấy sứ giả cầm gươm vào truyền lệnh
Viên Thiệu đem Điền Phong ra chém.
Cai ngục giật mình. Phong nói:
- Ta đã biết thế nào cũng chết mà!
Bọn cai ngục ai nấy đều khóc thương.
Điền Phong nói:
- Làm thân đại trượng phu sống trong trời đất không biết kén
chúa mà thờ, thật là ngu dốt, ngày nay chịu chết, còn thương tiếc làm chi!
Nói rồi tự vẫn ở trong ngục.
Điền Phong chết, ai nghe tin cũng than tiếc.
Người sau có thơ rằng:
Lần trước thua quân mất Thư Thụ
Hôm nay trong ngục giết Điền Phong
Cột rường Hà Bắc đền long gãy
Viên Thiệu hòng sao khỏi bại vong!
Viên Thiệu về Ký Châu, ruột gan bối rối, không trông coi được
chính sự.
Vợ là Lưu thị, khuyên Thiệu lập con nối nghiệp.
Thiệu có ba con: Con trưởng là Viên Đàm, tự là Hiển Tự, giữ
Thanh Châu; con thứ hai là Viên Hy, tự là Hiển Dịch, giữ U Châu; con út là Viên
Thượng, tự Hiển Phụ là con của vợ thứ Lưu thị, hình dong tuấn tú, Thiệu rất
yêu, nên cho ở luôn bên cạnh mình.
Từ khi thua trận ở Quan Độ, Lưu thị khuyên Thiệu lập Viên Thượng
lên nối nghiệp.
Thiệu đem việc ấy bàn với bốn người là Thẩm Phối, Phùng Kỷ, Tân
Bình, Quách Đồ. Thẩm, Phùng, hai người vốn theo Viên Thượng; Tân, Quách, hai
người vốn theo Viên Đàm. Bốn người ai cũng có bụng vì chủ cả.
Thiệu nói:
- Nay lo ở ngoài chưa yên, việc trong nhà nên phải sớm liệu.
Ta muốn lập kế tự: con trưởng là Đàm thì tính hung bạo hay giết người; con thứ
là Hy thì nhu nhược, khó làm nên được; duy có con thứ ba là Thượng có dáng anh
hùng, lại biết trọng người hiền, quý kẻ sĩ, ta muốn lập Thượng, các ông nghĩ thế
nào?
Quách Đồ nói:
- Trong bọn công tử, Đàm là trưởng lại ở ngoài, chúa công nếu
bỏ trưởng lập thứ, đó là gây cái mầm biến loạn. Hiện nay, quân uy vừa nhụt,
quân giặc lại đến áp ngoài bờ cõi, há lại để trong nhà cha con anh em có việc
tranh lẫn với nhau hay sao? Xin chúa công hãy lo kế đánh giặc, còn việc lập tự về
sau bàn cũng được.
Viên Thiệu còn trù trừ chưa định, chợt có tin báo Viên Hy dẫn
sáu vạn quân tự U Châu đến; Viên Đàm dẫn năm vạn quân tự Thanh Châu đến; con rể
là Cao Cán cũng dẫn năm vạn quân tự Tinh Châu đến, cùng đến Ký Châu trợ chiến.
Thiệu mừng lắm, chỉnh lại quân mã đi đánh Tào Tháo.
Bấy giờ Tào Tháo dẫn quân đắc thắng, đóng ở trên sông Hoàng
Hà. Dân địa phương đem cơm nước ra đón.
Tháo thấy có mấy cụ già, đầu râu tóc bạc, sai mời vào ngồi
trong trướng rồi hỏi:
- Các cụ năm nay bao nhiêu tuổi?
Mấy ông già thưa:
- Chúng tôi đều gần trăm tuổi cả.
Tháo nói:
- Quân ta quấy nhiễu làng các cụ, ta rất không được an tâm.
Mấy ông già nói:
- Thời vua Hoàn Đế có ngôi sao vàng, mọc ở phần đất Sở đất Tống.
Ở Liêu Đông có người tên là Ân Quỳ, tài xem thiên văn, đêm nằm ở đây có nói
chuyện với chúng tôi rằng: “Hoàng tinh chiếu thẳng vào chỗ này. Năm mươi năm nữa
sẽ có một đấng chân nhân, dấy lên ở vùng Lương Bái”. Nay tính ra, vừa đúng năm
mươi năm. Vả Viên Thiệu thu thuế nặng quá, dân ai cũng oán. Thừa tướng cất quân
nhân nghĩa, cứu dân trừ kẻ có tội, một trận đánh ở Quan Độ, phá được trăm vạn
quân của Viên Thiệu, chính ứng vào lời của Ân Quỳ ngày xưa. Muôn dân có thể
mong được thái bình từ đây.
Tháo cười, nói:
- Tôi đâu dám nhận lời nói của các cụ.
Nói rồi, truyền lấy rượu, thịt, lụa, vải tặng các phụ lão; lại
hiệu lệnh trong ba quân rằng:
- Ai dám vào làng giết gà, chó của dân, phải tội cũng như giết
người.
Bởi thế, quân dân ai cũng phục. Tháo cũng mừng thầm. Chợt lại
có quân báo:
- Viên Thiệu họp quân bốn châu được hai ba mươi vạn, đến hạ
trại ở Thương Đình.
Tháo đem quân tiến lên, đóng trại đâu đấy.
Hôm sau hai bên đối nhau dàn trận. Tháo dẫn các tướng ra. Thiệu
cũng đem ba con trai, một chàng rể và các văn võ ra trước trận, Tháo nói:
- Bản Sơ nay đã kế cùng, sức hết, sao chẳng đầu hàng, đợi đến
gươm kề cổ, hối sao cho kịp?
Thiệu giận lắm, ngoảnh lại hỏi các tướng:
- Ai dám ra đánh?
Viên Thượng muốn ra khoe tài trước mặt bố, liền múa đôi dao,
tế ngựa ra trận, rong ruổi chạy đi chạy lại. Tháo trỏ hỏi các tướng:
- Người này là người nào?
Có người biết, thưa:
- Đó là Viên Thượng, con thứ ba của Viên Thiệu.
Nói chưa dứt lời. Sử Hoán là bộ tướng của Từ Hoảng nhảy ra.
Hai bên đánh nhau được ba hiệp. Thượng quay đầu ngựa chạy về. Sử Hoán đuổi
theo. Viên Thượng dừng ngựa lại, giương cung đặt tên, quay mình bắn một phát
trúng giữa mắt trái Sử Hoán, Hoán ngã ngựa chết.
Viên Thiệu thấy con đánh được, giơ roi vẫy một cái, đại đội
quân mã kéo ồ ra. Hai bên đánh nhau một trận to, rồi cùng khua chiêng thu quân
về trại.
Tháo trở về bàn với các tướng chước phá Viên Thiệu.
Trình Dục dâng kế mai phục mười mặt, khuyên Tháo: lui về bờ
sông Hoàng Hà phục mười đội quân, nhử cho Thiệu đuổi đến bờ sông, quân Tào
không có đường lui nữa, tất phải cố chết mà đánh, thì phá được Viên Thiệu.
Tháo nghe kế ấy, tả hữu mỗi bên chia làm năm đội. Tả có đội
nhất Hạ Hầu Đôn, đội nhì Trương Liêu, đội ba Lý Điển, đội tư Nhạc Tiến, đội năm
Hạ Hầu Uyên. Hữu có: đội nhất Tào Hồng, đội nhì Trương Cáp, đội ba Từ Hoảng, đội
tư Vu Cấm, đội năm Cao Lãm.
Trung quân thì Hứa Chử làm tiên phong.
Hôm sau, mười đội đi trước, mai phục đâu vào đấy. Nửa đêm
Tháo sai Hứa Chử dẫn quân tiến lên, giả vờ cướp trại.
Năm trại binh mã của Viên Thiệu kéo ùa cả ra. Hứa Chử rút chạy.
Viên Thiệu dẫn quân đuổi theo, hò reo ầm ĩ. Vừa đến sáng rõ thì quân Thiệu đuổi
đến bờ sông Hoàng Hà, quân Tào hết đường lui, Tháo hô to:
- Hết đường chạy rồi, anh em sao không liều chết đánh bừa đi!
Quân Tào quay lại, hăng hái tiến đánh, Hứa Chử tế ngựa đi trước,
tay chém một lúc chết vài chục tướng Thiệu.
Quân Thiệu rối loạn, vội vã quay về. Quân Tào đuổi theo.
Trong khi đang chạy, bỗng nghe hồi trống nổi lên, bên tả Hạ Hầu
Uyên, bên hữu Cao Lãm xông ra. Thiệu tụ tập ba con trai và một rể, liều chết mở
đường máu mà chạy. Chưa được mười dặm, lại gặp Nhạc Tiến, Vu Cấm ở đâu trổ ra,
bắn giết quân Thiệu, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối.
Chạy được vài dặm nữa, lại gặp Lý Điển, Từ Hoảng đón đánh một
trận. Mấy bố con Viên Thiệu, hoang mang lo sợ, chạy về trại cũ, sai quân đi thổi
cơm ăn.
Sắp sửa ăn thì hai cánh quân của Trương Liêu và Trương Cáp lại
xông ập vào trại. Thiệu vội nhảy lên ngựa, chạy đến Thương Đình. Người đói lả,
ngựa mệt nhoài. Thiệu đang muốn đứng lại nghỉ thì đại quân Tào Tháo đuổi kịp.
Viên Thiệu liều mạng vùng té chạy. Đang chạy gặp Tào Hồng, Hạ Hầu Đôn chắn
ngang đường Thiệu hô lớn:
- Nếu không cố chết mà đánh thì sẽ bị bắt thôi!
Mấy bố con xông xáo thoát khỏi vòng vây.
Viên Hy, Cao Cán đều bị thương. Binh mã thương vong gần hết.
Thiệu ôm ba con khóc lóc một hồi, bất giác ngất di ngã gục xuống đất. Mọi người
xúm lại cứu chữa. Miệng thổ máu tươi ròng ròng. Thiệu than:
- Ta từng xông pha mấy mươi trận, không ngờ hôm nay suy đốn đến
nỗi này! Đó là trời giết ta! Các con ai hãy về châu nấy, thề cùng với giặc Tào
quyết một trận sống mái!
Rồi Thiệu sai Tân Bình, Quách Đồ đi theo Viên Đàm lập tức về
Thanh Châu phòng giữ sợ Tào Tháo xâm phạm bờ cõi; sai Viên Hy về U Châu, Cao
Cán về Tinh Châu, ai nấy đều phải thu xếp quân mã, sẵn sàng chuẩn bị.
Còn Thiệu thì đem bọn Viên Thượng về Ký Châu dưỡng bệnh, giao
cho Thượng cùng Thẩm Phối, Phùng Kỷ tạm trông nom việc quân.
Sau trận thắng lớn ở Thượng Đình, Tào Tháo khao ba quân, rồi
sai người sang thăm dò tình hình Ký Châu.
Quân do thám về báo: “Viên Thiệu ốm nằm liệt giường; Viên Thượng,
Thẩm Phối phòng thủ ráo riết. Còn Viên Đàm, Viên Hy, Cao Cán thì người nào về
châu người nấy cả rồi”.
Các tướng tá đều khuyên Tào Tháo tiến đánh Ký Châu ngay.
Tháo nói:
- Ký Châu lương thực rất nhiều. Thẩm Phối lại có mưu trí,
chưa dễ phá ngay được; hiện nay lúa má còn ở ngoài đồng, sợ làm thiệt hại nghề
nông của dân, ta muốn đợi mùa màng xong hãy đem quân đi đánh cũng chưa muộn.
Trong khi đang bàn, chợt có thư của Tuân Úc đến báo:
“Lưu Bị ở Nhữ Nam, được vài vạn quân của Lưu Tích, Cung Đô,
nghe thấy thừa tướng đem quân đánh Hà Bắc, liền sai Lưu Tích giữ Nhữ Nam, còn Bị
tự dẫn quân đến Hứa Xương thừa cơ định đánh úp. Xin thừa tướng mau mau đem quân
phòng ngự”.
Tháo giật nảy mình, sai Tào Hồng đóng quân giữ bên sông, giả
vờ phô trương thanh thế. Còn Tháo đem đại quân đến Nhữ Nam đón đánh Lưu Bị.
Lại nói, Huyền Đức cùng Quan, Trương, Triệu, định đem quân
đánh úp Hứa Đô, đi gần tới núi Tương Sơn thì vừa gặp quân Tào Tháo kéo đến.
Huyền Đức liền cắm trại ở chân núi, chia quân làm ba đội: Vân
Trường đóng ở góc đông nam, Trương Phi đóng ở góc tây nam, còn Huyền Đức cùng
Triệu Vân lập trại ở mặt chính nam.
Quân Tào Tháo đến, Huyền Đức đánh trống ra quân, Tháo dàn
thành thế trận rồi gọi Huyền Đức ra nói chuyện.
Huyền Đức cưỡi ngựa ra cửa cờ, Tháo giơ roi mắng rằng:
- Ta đãi ngươi làm thượng khách, sao ngươi nỡ trái nghĩa quên
ơn?
Huyền Đức đáp:
- Ngươi giả danh tướng nhà Hán, thực là giặc nước. Ta là tôn
thân nhà Hán, vâng mật chiếu của thiên tử đến đây đánh phản tặc.
Nói rồi, ngồi trên ngựa giở tờ chiếu vua từng viết trong cân
đai gửi Đổng Thừa ra đọc.
Tháo giận lắm, sai Hứa Chử ra đánh.
Triệu Vân đứng sau Huyền Đức vác giáo cưỡi ngựa xông lên. Hai
tướng đánh nhau ba mươi hiệp chưa phân thắng bại. Chợt nghe tiếng reo ầm ĩ,
Quan Vũ ở phía đông nam kéo lại, Trương Phi cũng từ phía tây nam xốc tới. Ba mặt
ùa vào đánh giết. Quân Tào vừa ở xa đến còn mệt, không địch nổi, thua lớn rút
chạy. Huyền Đức thắng trận về trại.
Hôm sau lại sai Triệu Vân ra khiêu chiến. Suốt một tuần (mười
hôm), quân Tào nhất định không ra. Huyền Đức lại sai Trương Phi thách đánh,
quân Tào cũng làm thinh. Huyền Đức càng hoài nghi, chợt có người báo:
- Cung Đô tải lương đến, bị quân Tào bao vây.
Huyền Đức vội sai Trương Phi ra cứu, thì lại có tin báo rằng:
- Hạ Hầu Đôn dẫn quân đi lẻn phía sau đến lấy Nhữ Nam.
Huyền Đức thất kinh nói:
- Nếu vậy, trước mắt và sau lưng ta đều bị địch chặn cả,
không có đường về rồi.
Liền sai Vân Trường đến cứu. Hai đạo quân đều kéo đi.
Được vài ngày có người tế ngựa về báo:
- Hạ Hầu Đôn đã đánh vỡ Nhữ Nam, Lưu Tích phải bỏ thành chạy,
hiện nay Vân Trường đang bị vây.
Huyền Đức lo lắm, lại được tin cả Trương Phi đi cứu Cung Đô
cũng bị vây, Huyền Đức muốn rút quân về nhưng lại lo quân Tào Tháo đuổi theo.
Đang lưỡng lự, thì có quân vào báo:
- Có Hứa Chử đến thách đánh ở ngoài trại.
Huyền Đức không dám ra. Đợi đến đêm, ra lệnh cho quân sĩ ăn
thật no, bộ binh đi trước, kỵ binh đi sau, trong trại vẫn cứ việc đánh trống cầm
canh như thường.
Bọn Huyền Đức đi ước được vài dặm, vừa qua núi đất, thấy đèn
đuốc sáng rực, ở trên đỉnh núi có tiếng hô lớn:
- Đừng để Lưu Bị chạy thoát. Thừa tướng đợi ở đây đã lâu!
Huyền Đức hoảng sợ, tìm đường chạy.
Triệu Vân nói:
- Chúa công đừng lo. Xin cứ theo tôi mà đi.
Triệu Vân vác giáo tế ngựa, chém giết mở đường, Huyền Đức cầm
song kiếm đi sau. Đang đánh thì Hứa Chử đuổi tới, đánh nhau kịch liệt với Triệu
Vân. Phía sau Vu Cấm, Lý Điển lại đến tiếp.
Huyền Đức thấy tình hình nguy cấp, cướp đường mà chạy. Khi thấy
tiếng hò reo đã xa, Huyền Đức mới lẻn đi vào đường tắt trong núi, một mình một
ngựa đi trốn.
Mãi đến sáng, ở phía cạnh sườn có một toán quân xông ra. Huyền
Đức sợ quá, nhìn xem hoá ra Lưu Tích dẫn hơn một nghìn kỵ binh thua trận, hộ tống
vợ con Huyền Đức tới. Tôn Càn, Giản Ung, My Phương cũng đến cả. Mọi người đều
nói:
- Thanh thế quân Hạ Hầu Đôn lớn lắm. Chúng tôi phải bỏ thành
rút chạy. Quân Tào đuổi theo, may có Vân Trường chặn lại, nên mới thoát nạn.
Huyền Đức hỏi:
- Thế Vân Trường nay ở đâu?
Lưu Tích thưa:
- Xin tướng quân hãy đi đã, sau sẽ liệu.
Đi được vài dặm, một hồi trống nổ, phía trước một toán quân
kéo đến. Viên tướng đi đầu là Trương Cáp quát to:
- Lưu Bị xuống ngựa chịu hàng, mau!
Huyền Đức đang chực lùi lại, thì thấy hàng cờ đỏ ở phía núi
chuyển động rồi một toán quân từ trong hang kéo ra, đại tướng Cao Lãm đi trước.
Huyền Đức bị nghẽn cả hai phía, ngẩng mặt lên trời kêu to:
- Trời hỡi! Sao để ta cùng cực thế này? Sự thể đã đến nỗi
này, chi bằng chết quách cho rảnh!
Nói xong, rút gươm định tự vẫn, Lưu Tích vội ngăn:
- Để tôi xin liều chết, đánh mở đường cứu ngài.
Nói đoạn, liền ra địch với Cao Lãm. Đánh nhau chưa được ba hiệp,
bị Cao Lãm đâm chết.
Huyền Đức đang lo, định xông ra đánh, chợt thấy hậu quân của
Cao Lãm rối loạn, một tướng xông thẳng vào trận, phóng giáo trúng Cao Lãm chết
lăn xuống ngựa.
Nhìn ra thì là Triệu Vân, Huyền Đức mừng quá. Vân quất ngựa,
múa giáo, đánh tan đội quân sau, rồi vọt lên tiến quân đánh Trương Cáp. Được ba
mươi hiệp, Cáp quay ngựa chạy. Vân thừa thế xông lên đánh, nhưng bị quân Cáp giữ
vững cửa ải đường hẹp không ra được. Vân đang cố cướp lấy đường thì thấy Quan
Công, Quan Bình, Chu Thương dẫn ba trăm quân đến. Hai bên ập vào đánh lui
Trương Cáp, bọn Huyền Đức ra khỏi được cửa ải, tìm chỗ núi hiểm cắm trại.
Huyền Đức sai Vân Trường đi tìm Trương Phi.
Số là Trương Phi đem quân đi cứu Cung Đô, nhưng chưa tới nơi
thì Đô bị Hạ Hầu Uyên giết chết rồi. Phi cố sức đánh lui Hạ Hầu Uyên, đang loay
hoay đuổi theo, lại bị Nhạc Tiến đem quân bao vây.
Vân Trường đi dọc đường gặp quân thua chạy về, liền tìm lối
theo đến, đánh lui Nhạc Tiến, rồi cùng Trương Phi về gặp Huyền Đức.
Giữa lúc ấy có người báo đại quân Tào Tháo đuổi đến.
Huyền Đức sai ngay bọn Tôn Càn dẫn gia đình già trẻ đi trước,
còn mình cùng với Quan, Trương, Triệu Vân đi sau, vừa đánh vừa chạy.
Thấy Huyền Đức đi đã xa, Tháo thu quân về, không đuổi nữa.
Huyền Đức cùng với ngót một ngàn quân tan tác chạy trốn. Đi đến
một con sông, cho gọi dân địa phương lại hỏi, biết là sông Hán, Huyền Đức tạm
đóng trại nghỉ.
Nhân dân ở đó biết là Huyền Đức, đem dê và rượu đến dâng, mọi
người bèn cùng nhau quây quần uống rượu trên bãi cát. Huyền Đức than rằng:
- Các ngươi đều có tài giúp vua cả, rủi theo lầm phải Lưu Bị
này. Số Bị vất vả, làm liên luỵ cả đến các ngươi. Cho đến nay Bị vẫn chưa có mảnh
đất cắm dùi, e rằng làm lỡ các ngươi. Các ngươi sao chẳng bỏ Bị này, tìm chủ
anh minh mà lập lấy công danh?
Mọi người đều bưng mặt khóc.
Vân Trường nói:
- Anh nói sai rồi! Cao tổ ngày xưa tranh thiên hạ với Hạng
Vũ, bị Vũ đánh cho thua luôn, sau chỉ thắng có một trận ở núi Cửu Lý mà gây nên
cơ nghiệp bốn trăm năm. Được thua là việc thường của nhà cầm quân việc gì anh
phải nản chí!
Tôn Càn nói:
- Có lúc được cũng có lúc thua, không nên ngã lòng. Đây cách
Kinh Châu không xa lắm. Lưu Cảnh Thăng ngồi trấn chín quận, binh mạnh lương nhiều,
vả lại cũng là tôn thân nhà Hán, sao ngài không sang đó nương tựa có hơn không?
Huyền Đức nói:
- Chỉ e họ không dung!
Càn nói:
- Tôi xin sang nói trước, khiến Cảnh Thăng phải ra biên giới
đón chúa công.
Huyền Đức mừng rỡ, sai Tôn Càn gấp rút đến Kinh Châu. Đến
nơi, Càn vào ra mắt Lưu Biểu, thi lễ xong Lưu Biểu hỏi:
- Ông đi theo Huyền Đức, tại sao lại đến đây?
Càn thưa:
- Lưu sứ quân là anh hùng thiên hạ, tuy binh đơn tướng ít,
nhưng có chí muốn giúp xã tắc. Lưu Tích, Cung Đô ở Nhữ Nam, vốn không thân
thích gì, cũng đem cái chết để đền ơn. Minh công đây với Lưu sứ quân cùng là
dòng dõi nhà Hán; nay sứ quân vừa bị thua, muốn sang Giang Đông theo Tôn Quyền.
Tôi can rằng: “Không nên bỏ người thân mà đi nhờ người sơ; Lưu tướng quân ở
Kinh Châu, kính người hiền, trọng kẻ sĩ, nhân tài trong thiên hạ kéo đến như nước
xuôi dòng, chảy về đằng đông, huống chi lại là người cùng họ”. Vì thế sứ quân
có sai tôi đến đây thưa chuyện trước, minh công dạy cho thế nào?
Biểu mừng lắm, nói rằng:
- Huyền Đức làm em ta, ta vẫn ước ao được họp mặt mà không được,
nay muốn đến thăm, thật may mắn quá!
Sái Mạo gièm rằng:
- Không nên. Lưu Bị trước theo Lã Bố, sau thờ Tào Tháo, mới rồi
lại đi theo với Viên Thiệu, ở với ai cũng không được thuỷ chung, thế đủ biết
con người ấy thế nào rồi. Nay nếu ta chứa hắn, Tào Tháo tất đem quân đến đánh,
gây nên chiến tranh vô ích. Chi bằng lấy đầu Tôn Càn đem dâng Tào Tháo. Tháo tất
trọng đãi chúa công.
Tôn Càn nghiêm sắc mặt nói:
- Càn đây không phải là người sợ chết. Lưu sứ quân một lòng
trung vì nước, lũ Lã Bố, Tào Tháo, Viên Thiệu, đâu có sánh kịp. Trước kia Lưu sứ
quân bất đắc dĩ phải theo chúng đấy thôi. Nay nghe Lưu tướng quân đây là dòng
dõi nhà Hán, tình nghĩa đồng tông, cho nên không quản đường nghìn dặm đến theo.
Ngươi sao dám gièm pha để hại người hiền như vậy?
Lưu Biểu nghe lời, mắng Sái Mạo rằng:
- Ý ta đã quyết, ngươi chớ nhiều lời!
Lưu Biểu liền sai Tôn Càn về báo trước, một mặt thân ra khỏi
thành ba mươi dặm nghênh tiếp.
Huyền Đức ra mắt Lưu Biểu, giữ lễ phép rất cẩn thận. Biểu
cũng đối đãi rất hậu. Huyền Đức dẫn Quan, Trương vào yết kiến Lưu Biểu. Biểu
cùng bọn Huyền Đức vào Kinh Châu, sắp xếp nhà cửa cho ở.
Lại nói Tào Tháo dò biết Huyền Đức đã sang Kinh Châu theo Lưu
Biểu, muốn đem quân đến đánh ngay. Trình Dục tâu rằng:
- Chưa trừ xong Viên Thiệu đã vội đánh Kinh, Tương, ngộ Viên
Thiệu từ mặt bắc kéo đến, thì được, thua chưa biết ra sao. Chi bằng hãy đem
quân về Hứa Đô nghỉ ngơi dưỡng sức, ít lâu sau đợi sang xuân ấm áp, sẽ khởi
binh, trước đánh Viên Thiệu, sau lấy Kinh, Tương, vừa được lợi cả nam lẫn bắc;
như vậy chỉ một chuyến là thu được cả vào tay mình.
Tháo nghe theo, truyền lệnh kéo quân về Hứa Đô.
Đến tháng giêng năm Kiến An thứ bảy (203 công nguyên), Tháo lại
bàn việc cất quân.
Trước hết, sai Hạ Hầu Đôn, Mãn Sủng trấn thủ Nhữ Nam đối phó
với Lưu Biểu; Tào Nhân, Tuân Úc ở lại giữ Hứa Đô. Còn Tháo tự thống lĩnh đại
quân ra đóng ở Quan Đô.
Đây nói Viên Thiệu bị bệnh thổ huyết từ năm ngoái, nay mới
hơi bớt, đã bàn đem quân đánh Hứa Đô. Thẩm Phối can rằng:
- Năm ngoái thua ở Quan Độ, Thương Đình, lòng quân đến nay vẫn
chưa phấn chấn lên được. Xin chúa công hãy cứ thành cao hào sâu để dưỡng sức
quân dân.
Giữa lúc bàn bạc, chợt có tin báo Tào Tháo lại đem quân đến
đóng ở Quan Độ để đánh Ký Châu.
Thiệu nói:
- Nếu giặc đến chân thành, tướng đến biên giới mới tìm cách
chống cự thì muộn mất rồi. Ta phải thống lĩnh đại quân ra nghênh địch mới được.
Viên Thượng can rằng:
- Cha chưa được khoẻ, không nên đi đánh xa. Con xin đem quân
ra chống cự.
Thiệu đồng ý rồi sai người đến gọi Viên Đàm ở Thanh Châu,
Viên Hy ở U Châu, Cao Cán ở Tinh Châu về. Bốn lộ quân hợp sức đánh Tào Tháo.
Thật là:
Vừa tới Nhữ Nam khua trống trận
Lại sang Ký Bắc gióng chiêng quân.
Chưa biết phen này ai được ai thua, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 32:
Cướp Ký Châu, Viên Thượng tranh hùng
Khơi sông Chương, Hứa Du hiến kế
Viên Thượng từ khi chém được Sử Hoán, cậy mình khoẻ mạnh,
không đợi binh mã của bọn Viên Đàm đến, tự dẫn vài vạn quân ra Lê Dương, gặp
ngay tiền quân của Tào Tháo. Trương Liêu tế ngựa ra trước. Viên Thượng vác giáo
lại đánh, chưa được ba hiệp, chống đỡ không nổi, thua chạy.
Trương Liêu thừa kế đánh trận. Thượng liệu thế không địch nổi,
tất cả kéo quân về Ký Châu.
Viên Thiệu nghe tin con bị thua, lo sợ quá, bệnh cũ tái phát,
thổ ra hàng chậu máu, ngất đi ngã lăn xuống đất.
Lưu phu nhân vội vàng ra cứu, vực vào giường nằm. Bệnh tình
Thiệu mỗi ngày một nguy. Lưu thị cho gọi ngay Thẩm Phối, Phùng Kỷ đến bên giường
Viên Thiệu để bàn công việc về sau.
Thiệu bấy giờ đã ú ớ, không nói được nữa, chỉ lấy tay chỉ trỏ
được thôi.
Lưu thị hỏi:
- Viên Thượng kế tự được không?
Thiệu gật đầu.
Thẩm Phối đến ngay bên giường, viết một tờ di chúc. Thiệu trở
mình, kêu to một tiếng, lại thổ ra hơn một chậu huyết rồi chết.
Người sau có thơ than rằng:
Mấy đời công tướng tiếng nhà dòng
Chí khí tung hoành cũng đã ngông.
Tuấn kiệt ba ngàn nhiều cũng phí
Hùng binh trăm vạn có như không.
Mình dê, da hổ làm chi nổi?
Lông phượng, gan gà việc khó xong.
Đến nỗi đàn con gây vạ lẫn,
Thương thay, nỗi ấy rất đau lòng!
Viên Thiệu chết rồi, bọn Thẩm Phối lo liệu ma chay.
Lưu thị bắt năm nàng hầu yêu quý nhất của Thiệu đem giết đi.
Lại sợ âm hồn những người ấy xuống chín suối còn đi lại được với Thiệu chăng.
Lưu thị bèn sai gọt tóc, đâm nát mặt mũi, băm nát mình mẩy họ. Ghen tuông đến
thế là cùng!
Viên Thượng lại sợ sau này họ hàng những người ấy báo thù,
nên lại lùng bắt giết sạch.
Thẩm Phối, Phùng Kỷ lập Viên Thượng làm đại tư mã tướng quân,
lĩnh chức mục bốn châu: Ký, Thanh, U, Tinh, rồi cáo phó khắp nơi.
Khi ấy, Viên Đàm đã cất quân ra khỏi Thanh Châu, nghe tin bố
chết, liền cùng với Quách Đồ, Tân Bình bàn bạc. Đồ nói:
- Chúa công không ở Ký Châu, Thẩm Phối và Phùng Kỷ tất lập Hiển
Phụ lên làm chủ, ta phải đi mau mới được.
Tân Bình nói:
- Thẩm, Phùng, hai người ắt đã chuẩn bị cách đối phó, nếu đến
ngay sẽ bị tai hoạ.
Viên Đàm nói:
- Vậy thì làm thế nào?
Quách Đồ nói:
- Hãy đóng quân ở ngoài thành, tôi xin vào trước thăm dò xem
động tĩnh ra sao đã.
Đàm nghe lời, Quách Đồ vào Ký Châu, ra mắt Viên Thượng. Thi lễ
xong, Thượng hỏi:
- Anh ta làm sao không đến?
Đồ thưa:
- Bị đau, nằm ngoài trại, không vào ra mắt được.
Thượng nói:
- Di chúc của cha ta để lại, lập ta làm chủ. Ta phong anh ta
làm xa kỵ tướng quân. Nay quân Tào đã tiến đến bờ cõi, xin anh làm tiền bộ, ta
điều quân theo sau tiếp ứng.
Đồ nói:
- Trong quân không có ai bàn tính mưu kế, xin cho Thẩm,
Phùng, hai người ra giúp việc.
Thượng nói:
- Ta cũng cần đến hai người ấy, sớm tối bày mưu tính kế, cho
đi sao được?
Đồ nói:
- Trong hai người đó, xin cho một người đi thì thế nào?
Thượng bất đắc dĩ, sai hai người rút thăm, Phùng Kỷ rút
trúng, Thượng liền hạ lệnh cho Phùng Kỷ mang ấn tín, đi theo Quách Đồ ra trại
quân Viên Đàm.
Kỷ theo Đồ đến trại, thấy Viên Đàm không đau ốm gì, trong bụng
áy náy. Khi Kỷ đệ trình ấn tín, Đàm nổi giận toan chém Phùng Kỷ. Quách Đồ nói
nhỏ:
- Nay quân Tào đến sát bờ cõi, hãy nên khoản đãi và giữ Phùng
Kỷ ở đây cho yên lòng Thượng. Đợi khi nào phá được Tào, bấy giờ sẽ về cướp Ký
Châu cũng không muộn.
Đàm nghe lời, liền nhổ trại kéo quân đến Lê Dương chống cự với
quân Tào. Đàm sai đại tướng là Uông Chiêu ra trận. Tháo sai Từ Hoảng đón đánh.
Được vài hiệp, Từ Hoảng vung đao chém Uông Chiêu chết lăn xuống ngựa. Quân Tào
thừa kế đánh bừa. Đàm thua to, thu quân kéo về Lê Dương rồi sai người cầu cứu
Viên Thượng.
Thượng bàn với Thẩm Phối chỉ phái năm nghìn người đến giúp.
Tào Tháo biết quân cứu đã đến, sai Nhạc Tiến, Lý Điển đón đường
giết sạch.
Đàm thấy Thượng chỉ cho năm nghìn quân đi cứu, lại bị chết cả,
giận lắm, liền gọi Phùng Kỷ ra trách mắng, Kỷ nói:
- Để tôi viết thư về nói với chúa công đem quân ra cứu.
Đàm bảo Kỷ viết thư và sai ngay người đem tới Ký Châu cho
Viên Thượng.
Thượng và Thẩm Phối bàn với nhau. Phối nói:
- Quách Đồ lắm mưu. Lần trước Đàm bỏ đi, không tranh giành
gì, vì có quân Tào ở ngoài cõi. Nay nếu Đàm phá được Tào, tất lại về tranh Ký
Châu, chi bằng không đi cứu để mượn sức Tào Tháo trừ đi.
Thượng nghe, không cho quân đi cứu viện.
Sứ giả chạy về báo lại. Đàm giận lắm, liền đem chém Phùng Kỷ
và bàn ra hàng Tào Tháo.
Quân do thám về mật báo với Viên Thượng. Thượng bàn với Thẩm
Phối:
- Để cho Đàm hàng Tào, hợp sức lại đánh thì Ký Châu nguy mất.
Thượng sai ngay Thẩm Phối và đại tướng Tô Do ở lại giữ Ký
Châu, tự mình mang đại quân ra Lê Dương cứu Viên Đàm.
Thượng hỏi các tướng tá, ai dám đi tiền bộ. Hai anh em đại tướng
Lã Khoáng, Lã Tường xin đi. Thượng cho ngay ba vạn quân và cho làm tiên phong,
đến Lê Dương trước.
Đàm nghe tin Thượng đến cứu, mừng lắm, không nghĩ đến việc
hàng Tào nữa. Đàm đóng quân trong thành, Thượng đóng ngoài thành, làm thế ỷ giốc.
Được mấy hôm, Viên Hy và Cao Cán cũng kéo quân đến ngoài
thành, đóng đồn ba chỗ, ngày nào cũng đem binh ra cầm cự với Tháo.
Thượng thua luôn. Quân Tháo thắng liên tiếp.
Đến tháng hai năm Kiến An thứ tám, Tào Tháo chia đường ra
đánh. Viên Thượng, Viên Hy, Viên Đàm, Cao Cán đều thua to, phải bỏ cả Lê Dương
rút chạy.
Tháo dẫn quân đuổi đến Ký Châu.
Đàm và Thượng vào thành giữ vững. Hy và Cán đóng trại cách
thành ba mươi dặm để phô trương thanh thế.
Tháo đánh luôn mấy hôm không được. Quách Gia hiến kế:
- Viên Thiệu bỏ con trưởng lập con thứ. Mấy anh em nhà Viên
hiện đang tranh giành nhau, kéo bè kéo cánh, đánh gấp thì chúng cứu nhau, trì
hoãn thì chúng tranh nhau. Chi bằng rút quân về Kinh Châu, đánh Lưu Biểu, đợi
khi nào anh em họ Viên có biến, ta quay lại đánh, thì chỉ một trận là xong việc.
Tháo nghe theo, sai Giả Hủ làm thái thú giữ Lê Dương, Tào Hồng
đem binh giữ Quan Độ, Tào Tháo dẫn đại quân tiến sang Kinh Châu.
Đàm và Thượng thấy quân Tào Tháo rút lui, cùng nhau ăn mừng.
Viên Hy và Cao Cán từ giã ra về. Viên Đàm bàn với Quách Đồ, Tân Bình rằng:
- Ta là con trưởng lại không được nối nghiệp, Thượng là con mẹ
kế, lại hưởng chức lớn, ta thật áy náy trong lòng.
- Chúa công nên đem quân ra đóng ngoài thành giả vờ mời Hiển
Phụ và Thẩm Phối đến uống rượu rồi phục quân đao phủ mà giết đi, việc lớn ắt
xong.
Đàm theo kế ấy. Chợt có quân biệt giá Thành Châu là Vương Tu
vừa đến. Đàm đem việc ấy ra bàn, Tu nói:
- Anh em với nhau như hai cành. Nay đương địch với người
ngoài, lại đem chặt tay phải đi, rồi nói mình nhất định thắng thì có được
không? Anh em mà xa rời nhau không thân nhau thì trong thiên hạ còn ai là người
thân thiết nữa. Ông bị người dèm pha ly gián cốt nhục để kiếm chút lợi, xin bịt
tai lại, chớ nên nghe.
Đàm nổi giận quát đuổi Vương Tu ra, rồi sai người đi mời Viên
Thượng. Thượng lại bàn với Thẩm Phối. Phối nói:
- Đây là mưu của Quách Đồ đây. Hễ chúa công đi tất có tai hoạ,
chi bằng thừa kế đánh luôn.
Viên Thượng nghe lời, nai nịt lên ngựa, dẫn năm vạn quân ra
ngoài thành.
Viên Đàm thấy Viên Thượng đem quân đến, biết mưu đã bị lộ,
cũng mặc áo giáp cưỡi ngựa, đánh nhau với Thượng. Thượng mắng Đàm thậm tệ. Đàm
cũng mắng lại:
- Mày bỏ thuốc độc giết bố để tranh lấy tước vị, nay lại đến
giết nốt anh nữa phải không?
Hai người giáp chiến. Viên Đàm thua to, Thượng xông pha tên đạn
đánh trận. Đàm phải rút quân chạy về Bình Nguyên. Thượng cũng thu quân về.
Đàm và Quách Đồ lại bàn tiến quân, sai Sầm Bích làm tướng kéo
quân đi trước. Thượng tự dẫn quân ra Ký Châu.
Hai bên đối diện, cờ mở trống giong.
Bích ra trận quát mắng. Thượng muốn ra đánh, đại tướng Lã
Khoáng vỗ ngựa, múa đao đánh lại Sầm Bích. Chưa được vài hiệp, Khoáng chém Sầm
Bích chết lăn xuống ngựa.
Quân Đàm lại thua, chạy về Bình Nguyên.
Thẩm Phối khuyên Thượng nên đem binh đuổi đến tận nơi. Đàm
không địch nổi, rút vào trong thành, giữ vững không ra.
Thượng bủa vây ba mặt.
Đàm bàn với Quách Đồ, Đồ nói:
- Nay trong thành ít lương, quân địch đang hăng khó lòng giữ
nổi. Theo ý tôi, nên sai người ra hàng Tào Tháo, để Tháo đem binh đánh Ký Châu,
Thượng tất phải về cứu. Tướng quân bấy giờ đánh giáp lại, chắc bắt được Thượng.
Nếu Tháo phá vỡ quân Thượng thì ta thu lấy quân hắn để cự với Tháo. Quân Tháo ở
xa đến, không tiếp tế luôn được, tất phải rút về. Ta vẫn giữ được Ký Bắc để
tính việc tiến thủ.
Đàm nghe theo, hỏi rằng:
- Ai có thể đi theo sứ được?
Đồ nói:
- Có em Tân Bình là Tân Tỷ, tự là Tá Trị, hiện đương làm quan
lệnh ở Bình Nguyên. Người ấy nói năng khéo léo, nên sai đi.
Đàm lập tức cho người đi mời. Tỷ vui vẻ đến ngay. Đàm viết
thư giao cho Tỷ, rồi sai ba nghìn quân đưa đi. Tỷ vội vã mang thư đến yết kiến
Tào Tháo.
Bấy giờ Tào Tháo đương đóng quân ở Tây Bình để đánh Lưu Biểu.
Biểu sai Huyền Đức dẫn quân đi trước. Chưa kịp giao chiếu thì
Tân Tỷ đem thư đến trại Tháo. Thi lễ xong Tào Tháo hỏi đến có việc gì? Tỷ trình
bày ý kiến Viên Đàm và đệ trình thư.
Tào Tháo xem xong bàn với các tướng. Trình Dục nói:
- Viên Đàm bị Viên Thượng đánh gấp nên bất đắc dĩ phải lại
hàng, không nên tin.
Lã Kiền, Mãn Sủng cũng nói:
- Thừa tướng đã đem quân đến đây, lẽ nào không đánh Lưu Biểu
mà lại giúp Đàm.
Tuân Du nói:
- Ba ông nói chưa được đúng lắm. Theo tôi, đang lúc thiên hạ
lắm việc, Lưu Biểu ngồi yên giữ miền Giang Hán, không dám bước ra khỏi cõi, rõ
là không có chí vùng vẫy bốn phương rồi. Còn như họ Viên giữ đất bốn châu, quân
mã vài mươi vạn. Giả sử anh em hắn hoà thuận với nhau, cùng giữ cơ nghiệp của bố,
tình hình thiên hạ sẽ chưa biết ra sao. Chi bằng nhân dịp anh em hắn đương đánh
lẫn nhau. Đàm thế cùng đến hàng ta, trước hết, ta điều quân trừ Viên Thượng,
sau có cơ hội giết nốt Viên Đàm, việc lớn thiên hạ có thể định được. Dịp tốt
này không nên bỏ lỡ.
Tháo mừng lắm, mời ngay Tân Tỷ vào uống rượu và hỏi rằng:
- Họ Viên xin hàng, thực hay dối? Quân Viên Thượng ta đánh có
chắc thắng được không?
Tân Tỷ thưa:
- Minh công chẳng cần phải hỏi thật hay giả, chỉ nhìn tình hình
cũng đủ biết. Họ Viên mấy năm nay thua luôn. Quân tướng thì mệt nhọc ở ngoài;
mưu thần thì bị giết ở trong; anh em lại hiềm khích lẫn nhau, đất nước chia xẻ,
lại thêm mất mùa, đói khát, thiên tai nhân hoạ rất nhiều. Như thế dầu người
khôn hay ngu cũng đều thấy rõ cái cơ tan vỡ rồi. Đó là dịp trời diệt họ Viên vậy.
Nay xin minh công đem quân đánh Nghiệp Quận, Viên Thượng không về cứu thì mất
sào huyệt, bằng về cứu thì Viên Đàm đuổi đánh mặt sau, đem thế mạnh của minh
công mà đánh quân đã mỏi mệt có khác gì gió lốc quét lá vàng. Sao minh công chẳng
tính nước ấy, mà lại đi đánh Kinh Châu? Kinh Châu là miền phong phú, nước hoà
dân thuận, chưa dễ lay động được. Huống chi Hà Bắc bây giờ, so với các nơi là
chỗ đáng lo nhất. Minh công định được Hà Bắc tất dựng được nghiệp bá. Xin minh
công xét cho kỹ.
Tháo mừng lắm nói:
- Ta tiếc vì gặp Tân Tá Trị muộn quá!
Ngay hôm ấy, Tháo đốc quân về lấy Ký Châu.
Huyền Đức sợ Tào Tháo có mưu kế, không dám đuổi theo, rút
quân về Kinh Châu.
Lại nói Viên Thượng được tin Tháo sang qua sông Hoàng Hà, vội
vàng kéo quân về Nghiệp Quận và sai Lã Khoáng, Lã Tường đi chặn phía sau.
Viên Đàm thấy Viên Thượng rút quân, liền huy động toàn bộ
binh mã ở Bình Nguyên đuổi theo. Đi chưa được vài chục dặm, bỗng tiếng pháo nổ
vang, hai cánh quân xông lên, bên tả Lã Khoáng, bên hữu Lã Tường. Hai anh em chặn
đánh Viên Đàm.
Đàm kìm ngựa, bảo hai tướng rằng:
- Khi còn cha ta, ta chưa từng bạc đãi hai ông. Nay sao nỡ
theo em ta mà ức hiếp ta?
Hai người nghe nói liền xuống ngựa hàng Viên Đàm.
Đàm nói:
- Xin đừng hàng ta, nên ra hàng Tào thừa tướng.
Hai tướng theo Đàm về trại.
Đàm đợi quân Tào Tháo đến, dẫn hai tướng vào ra mắt Tào Tháo.
Tháo mừng lắm, hẹn gả con gái cho Viên Đàm và sai ngay Lã Khoáng, Lã Tường làm
mối.
Đàm đề nghị Tháo tiến đánh Ký Châu, Tháo nói:
- Hiện nay lương thảo không tiếp tế được, vận tải rất khó
khăn. Ta phải qua sông Hoàng Hà, chắn nước sông Ký cho chảy vào Bạch Câu để mở
thông đường vận lương, rồi sẽ tiến binh.
Tháo bảo Đàm hãy ở Bình Nguyên, còn mình thì dẫn quân lui về
đóng ở Lê Dương, phong cho Lã Khoáng, Lã Tường làm liệt hầu, cho đi theo để sai
khiến.
Quách Đồ bảo Viên Đàm:
- Tào Tháo hẹn gả con gái cho ông, chưa chắc đã thật đâu. Nay
lại phong tước cho Lã Khoáng, Lã Tường và đem đi theo trong quân, đó là có ý muốn
lung lạc người Hà Bắc, sau này nhất định sẽ làm hại ta. Xin chúa công nên khắc
ngay hai cái ấn tướng quân, mật sai người đưa cho anh em họ Lã, sai làm nội ứng;
đợi khi Tào Tháo phá được Viên Thượng, ta sẽ nhân dịp ra tay.
Đàm nghe theo, sai khắc ngay hai quả ấn, mật sai người đem
đi. Hai anh em họ Lã lĩnh ấn rồi, mang trình ngay Tào Tháo. Tháo cười rộ:
- Đàm mật đưa ấn đến định nhờ các ngươi làm nội ứng, đợi khi
ta phá được Viên Thượng, hắn sẽ phản ta. Các ngươi cứ nhận lấy, ta đã có chủ
trương rồi.
Từ đó, Tào Tháo có ý muốn giết Viên Đàm.
Lại nói, Viên Thượng bàn với Thẩm Phối:
- Nay quân Tào vận lương vào Bạch Câu, tất đến đánh Ký Châu,
vậy nên làm thế nào?
Phối nói:
- Nên đưa hịch sai quan trưởng ở Vũ An là Doãn Khải đóng đồn ở
Mao Thành, giữ suốt đường tải lương ở Thượng Đảng; sai Thư Hộc là con Thư Thụ
giữ Hàm Đan để làm thanh thế, còn chúa công thì nên tiến binh sang Bình Nguyên
đánh gấp Viên Đàm. Giết xong Đàm bấy giờ ta sẽ đánh Tháo.
Viên Thượng mừng lắm, để Thẩm Phối và Trần Lâm ở lại giữ Ký
Châu; sai Mã Diên, Trương Dĩ làm tiền phong, liền đêm mang quân đánh Bình
Nguyên.
Được tin quân Thượng tới nơi. Đàm cáo cấp với Tào Tháo, Tháo
nói:
- Phen này ta chắc được Ký Châu rồi!
Còn đang bàn tính thì Hứa Du từ Hứa Xương tới, nghe thấy Viên
Thượng lại đánh Viên Đàm, liền vào nói với Tháo rằng:
- Thừa tướng ngồi giữ ở đây để đợi thiên lôi đánh chết hai
anh em họ Viên hay sao?
Tháo cười nói:
- Ta đã định liệu cả rồi.
Liền sai Tào Hồng mang quân đi trước đánh Nghiệp Quận; Tháo tự
dẫn một toán quân đánh Doãn Khải.
Quân Tào kéo đến, Khải điều quân chống cự. Khải xông lên.
Tháo gọi: “Hứa Trọng Khang đâu?” Hứa Chử nhảy vọt ra, chỉ một nhát dao chém chết
Khải. Quân Khải vỡ chạy tán loạn. Tháo chiêu hàng được hết, và cấp tốc đem quân
lấy Hàm Đan.
Thư Hộc ra đón đánh. Trương Liêu ra ngựa giao chiến. Chưa được
ba hiệp, Hộc thua chạy. Liêu đuổi theo. Khi hai ngựa gần nhau, Liêu giương cung
bắn một phát, Hộc chết lăn xuống ngựa.
Tháo thúc quân đánh ập vào, quân Hộc chạy tan tác.
Rồi đó, Tháo kéo đại quân đến Ký Châu, Tào Hồng đã đến chân
thành. Tháo sai ba quân đắp ụ quanh thành, và đào hầm dưới đất để đánh vào.
Thẩm Phối lập kế giữ thật vững, pháp lệnh rất nghiêm.
Tướng giữ cửa đông là Phùng Lễ, vì say rượu bỏ bê canh gác bị
Phối mắng thậm tệ. Phùng Lễ tức, lẻn ra hàng Tào Tháo. Tháo hỏi mẹo đánh thành,
Lễ nói:
- Chỗ cửa Đột Môn đất dày có thể đào đường hầm để vào thành.
Tào Tháo sai ngay Phùng Lễ dẫn ba trăm tráng sĩ, liền đêm hôm
ấy đào đường hầm tiến vào.
Lại nói, từ khi Phùng Lễ ra hàng, Thẩm Phối đêm nào cũng lên
mặt thành, trông nom quân mã. Đêm hôm ấy, Phối đứng ở cửa Đột Môn, trên gác
nhìn ra ngoài không thấy có đèn đuốc gì cả. Phối nói:
- Chắc Phùng Lễ dẫn quân đi đường hầm vào rồi.
Nói đoạn, sai ngay tinh binh chuyển đá, lấp kín cửa đường hầm
lại. Phùng Lễ và ba trăm tráng sĩ đều chết trong hầm.
Tháo bị thiệt nặng, đành bỏ, không dùng kế đào hầm, rút ngay
về đóng trên sông Viên Thuỷ, đợi Viên Thượng quay binh lại.
Viên Thượng đi đánh Bình Nguyên, bỗng nghe tin Tào Tháo đã
phá được Doãn Khải, Thư Hộc, quân Tào lại vây Ký Châu riết lắm, liền kéo quân về
cứu.
Bộ tướng là Mã Diên nói:
- Nếu đi theo đường lớn, Tào Tháo tất có mai phục. Nên đi
theo đường nhỏ từ Tây Sơn ra cửa sông Phủ Thủy, lẻn đến cướp trại Tào, chắc giải
được vây.
Thượng nghe lời, tự lĩnh đại quân đi trước, sai Mã Diên,
Trương Dĩ đi hậu vệ.
Quân do thám vội về báo. Tháo nói:
- Nếu chúng đi đường lớn, ta nên tránh, nếu theo đường nhỏ
Tây Sơn thì chỉ một trận là có thể bắt sống được Viên Thượng. Ta đoán Viên Thượng
thế nào cũng đốt lửa làm hiệu cho trong thành ra tiếp ứng. Ta nên chia quân ra
mà đánh.
Mọi việc xếp đặt đâu vào đấy cả.
Viên Thượng ra khỏi cửa sông Phù Thuỷ, nhằm phía đông kéo đến
Dương Bình, đóng quân trong một toà đình, cách Ký Châu mười bảy dặm, một mặt dựa
vào sông Phù Thuỷ. Thượng sai quân sĩ chứa củi khô cỏ ráo, đến đêm đốt lửa làm
hiệu, rồi quan chủ bạ là Lý Phu giả làm đô đốc quân Tào, đi thẳng đến chân
thành gọi to: “Mở cửa ra!”
Thẩm Phối nhận được tiếng Lý Phu, mở cửa cho vào. Vào đến
nơi, Phu nói:
- Viên Thượng đã dẫn quân ở đình Dương Bình đợi tiếp ứng, nếu
quân trong thành kéo ra, cũng đốt lửa lên làm hiệu.
Phối liền sai chất rơm đốt lửa để làm hiệu báo tin. Phu lại
nói:
- Trong thành hết lương, phải huy động những người già yếu,
tàn binh và đàn bà ra hàng. Quân Tào không phòng bị, ta đem quân theo ra đánh
ngay.
Phối nghe lời.
Hôm sau, trên thành kéo một lá cờ trắng, trên viết mấy chữ
to: “Trăm họ ở Ký Châu xin ra hàng”.
Tháo nói:
- Đây là trong thành hết lương, xua dân già yếu ra hàng, thế
nào cũng có quân lính ra theo.
Liền sai Trương Liêu, Từ Hoảng mỗi người dẫn ba nghìn quân phục
ở hai bên cửa. Tháo cưỡi ngựa, che lọng, đến tận dưới thành.
Quả nhiên thấy cửa thành mở toang, trăm họ già trẻ dắt díu
nhau, tay cầm cờ trắng đi ra. Dân đi vừa hết thì quân lính kéo ồ ra. Tháo sai
người cầm lá cờ đỏ vẫy một cái, Trương Liêu, Từ Hoảng, hai bên ập vào đánh giết.
Quân trong thành lại phải quay vào, Tháo tế ngựa đuổi theo đến tận cầu treo,
trong thành tên nỏ bắn ra như mưa, trúng ngay chỏm mũ Tào Tháo, suýt nữa suốt đến
đỉnh đầu, các tướng vội vàng cứu về.
Tháo thay áo đổi ngựa rồi lại dẫn các tướng đến đánh trại
Viên Thượng. Thượng thân ra nghênh chiến. Lúc bấy giờ, các đạo quân nhất tề kéo
đến, hai bên đánh nhau kịch liệt.
Thượng thua to, rút quân về đóng ở Tây Sơn, rồi sai người đi
thúc Mã Diên, Trương Dĩ đem quân đến. Không ngờ Tào Tháo cho Lã Khoảng, Lã Tường
đi chiêu an được hai tướng rồi.
Tào Tháo phong tước cho Diên và Dĩ, ngay hôm ấy tiến binh
đánh Tây Sơn: Trước hết sai hai anh em họ Lã và Diên, Dĩ đi chẹn đường chuyển
lương của Viên Thượng.
Thượng liệu kế không giữ nổi Tây Sơn, liền đêm chạy ra Lam Khẩu.
Thượng lập trại chưa xong thì lửa bốn mặt cháy ngùn ngụt,
quân mai phục kéo ồ ra. Người chưa kịp mặc giáp, ngựa chưa kịp thắng yên, quân
Thượng đã tan vỡ, phải rút lui năm mươi dặm; thế cùng sức kiệt Thượng buộc phải
sai thứ sử Dự Châu là Am Quy đến trại Tào xin hàng.
Tháo giả vờ nhận lời, nhưng lại sai Trương Liêu, Từ Hoảng
ngay đêm hôm ấy đến cướp trại. Thượng phải bỏ cả ấn tín, tiết việt và lương thực
trốn vào Trung Sơn.
Tháo đem quân ngay về đánh Ký Châu, Hứa Du lại hiến kế rằng:
- Thừa tướng sao không khơi sông Chương Hà cho nước tràn vào
thành?
Tháo nghe theo, trước hết sai quân xẻ một cái hào ở ngoài
thành, chu vi bốn mươi dặm.
Thẩm Phối đứng trên thành, trông thấy quân Tháo đào hào ở
ngoài thành, nhưng đào nông lắm, bèn cười thầm nói:
- Chúng mày định khơi nước sông Chương Hà làm ngập thành mà
đào nông thế kia thì ăn thua gì?
Rồi khinh thường không phòng bị. Đêm hôm ấy, Tào Tháo huy động
thêm mười vạn quân sĩ ra sức đào xúc, vừa đến sáng rõ, hào sâu hai trượng, nước
tràn vào thành ngập đến vào thước. Vả lại lương thực trong thành cũng cạn, nên
quân sĩ đều chết đói.
Tân Tỷ ở ngoài thành, lấy ngọn giáo, bêu ấn tín và mũ áo của
Viên Thượng lên, kêu gọi những người trong thành ra hàng.
Thẩm Phối nổi giận đùng đùng, bắt hết gia thuộc nhà Tân Tỷ,
già trẻ hơn tám mươi người, đem cả lên mặt thành chém rồi quăng đầu xuống.
Tân Tỷ kêu khóc thảm thiết.
Cháu Thẩm Phối là Thẩm Vinh, vốn thân thiết với Tân Tỷ, thấy
gia thuộc Tân Tỷ bị hại giận lắm, liền mật viết một lá thư xin dâng cửa thành,
buộc trên đầu tên bắn ra ngoài thành.
Quân sĩ nhặt được đưa cho Tân Tỷ, Tỷ đem trình Tào Tháo. Trước
hết, Tháo hạ lệnh:
- Nếu vào được thành Ký Châu, không được giết hại gia đình họ
Viên, quân dân xin hàng, đều tha tội chết.
Sáng hôm sau, Thẩm Vinh mở toang cửa tây cho quân Tào vào.
Tân Tỷ tế ngựa vào trước, quân tướng theo sau.
Thẩm Phối đứng ở trên lầu mé đông nam, thấy quân Tào đã ùa
vào, liền dẫn vài tên kỵ binh xuống liều chết chống cự, gặp ngay Từ Hoảng; Phối
bị Từ Hoảng bắt sống, điệu ra ngoài thành; giữa đường gặp Tân Tỷ. Tỷ nghiến
răng, mắm miệng giơ roi đập vào đầu Phối nói:
- Thằng giặc sát nhân! Hôm nay mày phải chết!
Phối mắng Tân Tỷ:
- Đồ phản tặc kia, mày dẫn Tào Tháo đánh phá Ký Châu, tao giận
không băm vằm được mày ra!
Từ Hoảng giải Phối đến trước Tào Tháo, Tháo hỏi:
- Ngươi có biết ai dâng cửa thành cho ta không?
Phối nói không biết. Tháo nói:
- Ấy cháu ngươi là Thẩm Vinh đó!
Phối giận quá chỉ nói:
- Trẻ con mất dạy mới đến nỗi này!
Tháo nói:
- Hôm qua ta đến dưới thành, tên đâu mà bắn ra nhiều thế?
Phối nói:
- Hiềm rằng còn ít, còn ít!
Tháo lại hỏi:
- Ngươi trung với họ Viên như thế là đúng, nay chịu hàng ta
không?
Phối nói:
- Không hàng! Không hàng!
Tân Tỷ khóc lạy xuống đất thưa:
- Gia đình tôi hơn tám mươi người đều bị tay thằng này giết hại,
xin thừa tướng giết đi để rửa thù này!
Phối nói:
- Tao sống làm tôi họ Viên, chết làm ma họ Viên, không như lũ
chúng mày là những thằng a dua, nịnh hót. Mau chém tao đi!
Tháo sai đem chém.
Trước khi chết, Thẩm Phối nạt quân đao phủ rằng:
- Chúa ta ở phương bắc, không thể bắt tao trông về phương nam
mà chết được!
Nói xong, ngồi quỳ về phía bắc, vươn cổ đón lưỡi đao.
Đời sau có thơ rằng:
Hà Bắc lắm danh sĩ
Ai bằng Thẩm Chính Nam?
Vua hèn, thân bị hại
Lòng ngay, chết cũng cam.
Trung trực, nói vẫn thẳng,
Thanh liêm, dạ chẳng tham
Chết còn ngoảnh về bắc,
Thẹn thay kẻ đầu hàng!
Thẩm Phối chết rồi, Tháo thương là người trung nghĩa, sai đem
táng ở phía bắc thành Ký Châu.
Các tướng bấy giờ mời Tháo vào thành. Sắp khởi hành, thấy bọn
đao phủ điệu một người đến, Tháo nhìn xem ai, té ra là Trần Lâm.
Tháo hỏi Lâm:
- Trước mày làm bài hịch cho Bản Sơ, kể tội tao ra cũng được,
nhưng sao lại dám nói nhục đến cả ông cha tao?
Trần Lâm đáp:
- Mũi tên đặt trên dây cung, không thể không bắn đi được.
Tả hữu khuyên Tào Tháo giết đi. Tháo tiếc là người có tài,
cho làm tòng sự.
Lại nói, con trưởng Tào Tháo là Tào Phi, tự là Tử Hoàn, năm ấy
mười tám tuổi. Lúc Phi ra đời, có một đám mây xanh tía, tròn như cái lọng, phủ
trên mái nhà một ngày không tan. Có người trông thấy, mật nói với Tháo rằng:
- Đó chính là khí thiên tử, công tử quý hết chỗ nói!
Lên tám tuổi, Phi đã giỏi văn, mau trí khôn, bác cổ thông
kim, cưỡi ngựa bắn cung đều khá, múa kiếm cũng tài.
Hồi Tháo phá Ký Châu, Phi theo cha trong quân; vào thành, Phi
đem quân tuỳ tùng đến thẳng phủ Viên Thiệu, xuống ngựa tuốt gươm bước vào.
Một viên tướng ngăn lại, nói:
- Thừa tướng đã ra lệnh, không ai được vào phủ Viên Thiệu.
Phi quát mắng tướng ấy phải lui, rồi xách gươm đi thẳng vào
nhà sau. Vào đến nơi, thấy có hai người đàn bà ôm nhau khóc.
Phi xông lại định giết.
Thật là:
Khanh tướng bốn đời thành giấc mộng
Một nhà cốt nhục lại lâm nguy.
Chưa biết tính mệnh hai người đàn bà ấy ra thế nào, xem hồi
sau sẽ rõ.
Hồi 33:
Tào Phi nhân loạn lấy Chân thị
Quách Gia dặn kế định Liêu Đông
Lại nói, Tào Phi thấy hai người đàn bà kêu khóc, rút gươm
toan chém, chợt thấy một đám hồng quang chói lọi trước mắt, liền chống gươm hỏi:
- Chúng bay là người nào?
Một người thưa:
- Thiếp là Lưu thị, vợ Viên tướng quân.
Phi lại hỏi:
- Người con gái này là ai?
Lưu thị thưa:
- Nó là Chân thị, vợ con trai thứ của tôi là Viên Hy. Chồng
nó ra trấn ở U Châu, nó không chịu đi xa, nên ở lại đây.
Phi kéo người con gái ấy lại gần, thấy đầu bù mặt nhọ. Phi lấy
vạt áo lau mặt, lộ rõ màu da trắng như ngọc, mặt đẹp như hoa, có vẻ nghiêng
thành nghiêng nước.
- Ta là con cả Tào thừa tướng, xin bảo toàn gia đình nhà
ngươi, nàng cứ yên tâm đừng lo sợ.
Nói rồi, cầm gươm ngồi trên nhà canh giữ.
Tào Tháo thống lĩnh binh tướng kéo vào Ký Châu. Vừa đến cửa
thành, Hứa Du tế ngựa tới gần, lấy roi trỏ vào cửa thành bảo Tháo:
- Không có ta, làm sao A Man vào được cửa này!
Tháo cười ầm lên. Các tướng ai cũng bất bình.
Tháo đến cửa phủ Thiệu, hỏi:
- Có ai đã vào đây không?
Tướng canh cửa thưa:
- Có thế tử ở trong ấy.
Tháo gọi ra quở mắng. Lưu thị ra lạy mà kêu rằng:
- May nhờ có thế tử, nhà thiếp mới được an toàn. Thiếp xin
dâng Chân thị để nâng khăn sửa túi, hầu hạ thế tử.
Tháo sai gọi ra, Chân thị sụp xuống lạy, Tháo xem mặt và nói:
- Thực xứng đáng làm dâu ta!
Liền bảo Tào Phi nhận Chân thị làm vợ.
Bình định xong Ký Châu, Tháo ra tận mộ Viên Thiệu tế viếng quỳ
lạy khóc lóc rất bi thương, rồi ngoảnh lại bảo các tướng rằng:
- Khi xưa, ta với Bản Sơ cùng khởi binh, Bản Sơ hỏi rằng: “Nếu
việc không thành, thì nên tính mặt nào?” Ta mới hỏi lại: “Ý túc hạ định làm
sao?” Bản Sơ đáp: “Ta đây, mặt nam giữ Hà Bắc, ngăn lấy Yên, Đại, mang cả quân
lính vùng sa mạc, hướng về nam để tranh thiên hạ, liệu việc có xong không?” Ta
đáp: “Ta dùng tài trí trong thiên hạ, lấy đạo nghĩa để phòng ngự, làm thế nào
cũng được cả!” Lời ấy vẫn còn văng vẳng bên tai, nay Bản Sơ đã mất, ta không thể
không rơi nước mắt.
Mọi người đều cảm động.
Tháo sai lấy vàng lụa, lương gạo cấp cho Lưu thị, rồi hạ lệnh:
- Dân Hà Bắc gặp tai nạn chiến tranh, năm nay miễn cả sưu thuế.
Rồi dâng biểu về triều, Tháo tự lĩnh chức Ký Châu mục.
Một hôm Hứa Chử cưỡi ngựa vào cửa đông vừa hay gặp Hứa Du. Du
gọi Chử bảo rằng:
- Các ngươi không có ta, làm sao được đi vào cửa này?
Chử nổi giận mắng rằng:
- Chúng ta vào sinh ra tử, xông pha tên đạn, cướp được thành
trì, sao ngươi dám nói láo?
Du mắng:
- Các ngươi là đồ sất phu không đáng đếm xỉa!
Chử giận lắm, rút gươm chém Hứa Du, xách đầu vào trình Tào
Tháo:
- Nó vô lễ nên tôi giết đi!
Tháo nói:
- Tử Viễn là bạn cũ của ta, cho nên nói đùa như vậy, sao
ngươi lại giết?
Tháo trách mắng Hứa Chử thậm tệ rồi sai an táng cho Hứa Du rất
tử tế.
Tháo lại sai người đi tìm hỏi những hiền sĩ ở Ký Châu.
Dân nói:
- Ở đây có quan kỵ đô uý Thôi Diệm, tự là Quý Khuê người ở
Đông Vũ Thành, quận Thanh Hà. Trước đã mấy lần bày mưu cho Viên Thiệu. Thiệu
không dùng nên cáo ốm về ở nhà.
Tháo lập tức cho triệu Thôi Diệm, cử làm biệt giá tòng sự
trong châu. Tháo nhân hỏi:
- Hôm qua xem sổ hộ tịch châu này, tổng cộng có ba mươi vạn
dân, có thể gọi là châu lớn.
Diệm thưa:
- Hiện nay thiên hạ chia xẻ, chín châu tan nát, hai anh em họ
Viện tranh giành nhau, dân châu Ký phơi xương nhan nhản ở ngoài đồng. Thừa tướng
chưa kịp hỏi thăm phong tục, cứu kẻ lầm than, đã vội tính ngay sổ hộ khẩu, thì
dân còn trông mong gì?
Tào Tháo nghe nói thay đổi nét mặt và tạ lỗi, đãi Diệm làm
thượng khách.
Bình định xong Ký Châu, Tháo sai người dò la tin tức Viên
Đàm.
Lúc ấy, Đàm mang quân đi cướp bóc các vùng Cam Lăng, An Bình,
Bột Hải và Hà Giang, nghe tin Viên Thượng thua chạy vào Trung sơn, liền đem
quân đuổi đánh. Thượng mất tinh thần, chạy sang U Châu với Viên Hy. Bao nhiêu
quân lính đều hàng Đàm. Đàm có ý muốn đánh lấy lại Ký Châu.
Tháo sai người gọi Đàm, Đàm không đến. Tháo giận lắm, đưa thư
cắt đứt lời hứa gả con gái khi trước, rồi thống lĩnh đại quân kéo thẳng đến
Bình Nguyên.
Đàm thấy Tháo dẫn đại quân đến, sang cầu cứu Lưu Biểu. Biểu mời
Huyền Đức đến bàn, Huyền Đức nói:
- Tào Tháo đã phá được Ký Châu, uy thế đang mạnh. Không bao
lâu nữa, anh em họ Viên sẽ bị Tào Tháo bắt hết, cứu cũng vô ích. Vả Tháo vẫn có
ý chiếm cả Kinh, Tương, ta phải dưỡng sức quân để phòng thủ không nên kinh động.
Biểu nói:
- Thế thì từ chối làm sao?
Huyền Đức nói:
- Nên viết thư cho hai anh em họ Viên, dùng lời lẽ khéo léo để
từ chối.
Biểu nghe theo, lập tức viết thư, trước hết gửi cho Viên Đàm.
Trong thư đại ý nói:
“Người quân tử lánh nạn, không bao giờ đặt chân lên đất kẻ
thù. Trước đây, nghe tin ngài quỳ gối hàng Tào, theo tôi, đó là quên cả thù của
ông cha, bỏ cả tình tay chân thân thiết và để lại cái nhục cho đồng minh. Nếu
Ký Châu (chỉ Viên Thượng) không hoà thuận, ta cũng phải hết sức giúp đỡ. Đợi
khi công việc xong rồi, hay dở thế nào đã có thiên hạ bình nghị, hà chẳng cao
nghĩa lắm ru!”
Lại gửi cho Viên Thượng nói:
“Thanh Châu (chỉ Viên Đàm) tính nóng nảy, không biết phải
trái. Ngài nên trừ Tào Tháo trước để rửa hận cho cha. Công việc hoàn thành rồi
sẽ tính đến những chuyện nhỏ, há chẳng hay lắm sao? Nếu không tỉnh ngộ thì chẳng
khác gì hai con Hàn lư và Đông quách, tranh mồi nhau, rút cục chỉ người đi săn
là được lợi”.
Đàm được thư của Biểu, biết Biểu có ý không cứu, lại tự liệu
sức mình không địch nổi Tháo, liền bỏ Bình Nguyên, chạy sang giữ Nam Bì.
Tháo đuổi theo đến Nam Bì.
Bấy giờ đang mùa đông, tiết trời giá lạnh, nước sông thành
băng, thuyền lương không sao đi được. Tháo hạ lệnh bắt dân phu ra phá băng và
kéo thuyền.
Dân nghe tin, bỏ trốn sạch. Tháo giận lắm, định bắt đem chém.
Trăm họ thấy thế phải đến trại đầu thú, Tháo nói:
- Nếu không giết chúng bay thì hiệu lệnh của ta không nghiêm,
mà giết thì lòng ta không nỡ. Thôi chúng bay nên trốn cả vào trong núi đi, chớ
để cho quân ta bắt được.
Trăm họ đều ứa nước mắt mà đi.
Viên Đàm đem quân ra đánh nhau với quân Tào. Hai bên dàn trận.
Tháo cưỡi ngựa giơ roi trỏ vào Đàm mắng rằng:
- Tao hậu đãi mày như thế, sao mày dám thay lòng đổi dạ?
Đàm nói:
- Mày xâm phạm bờ cõi tao, cướp thành trì của tao, quyến rũ vợ
con tao, còn trách tao đổi dạ à?
Tháo giận lắm, sai Từ Hoảng ra. Đàm gọi Bành An tiếp chiến.
Chưa được vài hiệp, Hoảng chém An chết lăn xuống ngựa.
Quân Đàm thua chạy, rút vào Nam Bì. Tháo sai quân bao vây bốn
mặt. Đàm hoảng sợ, sai ngay Tân Bình ra trại Tháo xin hàng.
Tháo nói:
- Viên Đàm tráo trở, không thể tin được. Em ngươi là Tân Tỷ
ta đã trọng dụng rồi, chi bằng ngươi cũng ở lại đây với ta.
Bình thưa:
- Thừa tướng lầm rồi. Tôi nghe nói: Chúa sang trọng thì bầy
tôi vẻ vang, chúa lo âu thì bầy tôi nhục nhã. Tôi thờ họ Viên đã lâu, nay sao nỡ
bỏ?
Tháo biết không lưu được, cho về, Bình về gặp Đàm nói:
- Tào Tháo không cho hàng.
Đàm mắng rằng:
- Em mày hiện đương thờ Tào Tháo. Hay là mày cũng muốn phản
tao nốt hay sao?
Bình nghe nói, tức đầy ruột, uất lên, ngã gục xuống đất.
Đàm sai vực dậy, được một lát thì chết. Đàm bấy giờ mới hối,
Quách Đồ bảo Đàm rằng:
- Ngày mai nên bắt cả trăm họ đi trước, quân lính theo sau,
quyết một trận sống mái với Tào.
Đàm nghe lời, đang đêm bắt toàn dân Nam Bì chuẩn bị gươm giáo
chờ lệnh.
Sáng hôm sau, bốn cửa thành mở toang, nhân dân đi trước, quân
đi sau, hò reo ầm ĩ, ùn ùn kéo ra, thẳng đến trại Tào. Hai bên đánh nhau từ giờ
thìn đến giờ ngọ, chưa phân thắng bại, người chết đầy đồng.
Tháo thấy chưa giành được toàn thắng, liền gò ngựa chạy lên
núi khua trống. Tướng sĩ thấy vậy, ai cũng gắng sức tiến lên.
Quân Đàm thua to. Nhân dân bị giết không biết bao nhiêu mà kể.
Tào Hồng tả xung hữu đột, gặp ngay Viên Đàm, múa dao chém lia lịa. Viên Đàm bị
Tào Hồng giết chết tại trận.
Quách Đồ thấy trận thế rối loạn, vội rút vào thành. Nhạc Tiến
trông thấy, giương cung đặt tên bắn một phát, Quách Đồ chết cả người lẫn ngựa.
Tháo đem quân vào Nam Bì, vỗ yên trăm họ. Chợt có một toán
quân kéo đến, đó là Tiêu Súc và Trương Nam, hai bộ tướng của Viên Hy.
Tháo tự dẫn quân nghênh chiến. Hai người trở giáo cởi giáp đầu
hàng.
Tháo đều phong cho tước hầu.
Tiếp đó tên tướng giặc ở núi Hắc Sơn là Trương Yên, cũng dẫn
mười vạn quân đến quy thuận, được phong làm Bình bắc tướng quân.
Tháo sai đem bêu đầu Viên Đàm và ra lệnh kẻ nào cả gan đến
khóc thì chém.
Đầu Đàm treo ngoài cửa bắc. Có một người đội mũ vải, mặc đồ
tang đến khóc thê thảm. Lính canh bắt nộp Tào Tháo, Tháo hỏi ra là biệt giá
Vương Tu, vì can Viên Đàm bị Đàm đuổi về. Nay được tin Đàm chết, vội đến khóc
viếng.
Tháo hỏi:
- Ngươi không biết lệnh ta à?
Tu thưa:
- Biết chớ.
Tháo hỏi:
- Ngươi không sợ chết à?
Tu thưa:
- Tôi đã vâng mệnh ra giúp chúa, nay chúa chết mà không khóc
thật là phi nghĩa. Sợ chết quên cả nghĩa thì còn đáng đứng trên thế gian sao! Nếu
được chôn cất cho Đàm, dẫu chết tôi cũng không oán hận gì.
- Đất Hà Bắc thật nhiều nghĩa sĩ, tiếc rằng họ Viên không biết
dùng người. Nếu biết dùng thì ta đâu dám nhòm ngó miền này!
Liền sai chôn cất Viên Đàm, rồi đãi Tu làm thượng khách và
cho làm Tư kim trung lang tướng. Nhân tiện hỏi Tu:
- Nay Viên Thượng đã theo Viên Hy, muốn đánh thì dùng mẹo gì?
Tu không trả lời.
Tháo nói:
- Thật là trung thần.
Tháo hỏi Quách Gia, Gia nói:
- Nên sai Tiêu Súc và Trương Nam là bọn hàng tướng của họ
Viên đi đánh.
Tháo nghe lời, một mặt sai ngay Tiêu Súc, Trương Nam, Lã
Khoáng, Lã Tường, Mã Diên và Trương Dĩ, ai nấy dẫn binh mã của mình, chia làm
ba đường đánh U Châu. Một mặt, sai Lý Điển, Nhạc Tiến hợp với Trương Yên sang
Tinh Châu đánh Cao Cán.
Nói về Viên Thượng, Viên Hy được tin quân Tào kéo đến liệu địch
không nổi liền bỏ thành, chạy sang Liêu Tây, theo Ô Hoàn.
Thứ sử U Châu là Ô Hoàn Súc, hợp các quan lại ở U Châu, uống
máu ăn thề, bàn việc hướng về Tào Tháo và phản lại họ Viên. Ô Hoàn Súc nói trước:
- Ta biết Tào thừa tướng là anh hùng trong thiên hạ đời nay.
Nay qua đầu hàng, ai không tuân lệnh sẽ bị chém đầu.
Mọi người lần lượt uống máu ăn thề. Đến lượt quan biệt giá
Hàn Hành, Hành quẳng gươm xuống đất hô lớn:
- Ta chịu ơn sâu của cha con họ Viên. Nay chủ bại vong, ta đã
không có tài cứu được, lại không có gan liều chết, đối với đạo nghĩa thật thiếu
sót lớn! Nếu ngoảnh về phía bắc hàng Tào, ta nhất định không làm!
Ai nấy tái mặt. Ô Hoàn Súc nói:
- Phàm làm việc lớn, phải dụng nghĩa lớn. Việc thành hay bại
không phải do một người. Hàn Hành đã có chí như thế, xin cứ tuỳ tiện.
Nói rồi đẩy Hàn Hành ra. Ô Hoàn Súc ra ngoài thành đón ba lộ
quân, đi thẳng đến hàng Tháo.
Tháo mừng lắm, phong cho chức Trấn bắc tướng quân. Chợt, có
thám mã về báo.
- Nhạc Tiến, Lý Điển và Trương Yên đi đánh Tinh Châu, Cao Cán
giữ ải Hồ Quan vững lắm, không sao phá được.
Tháo tự cất quân đi. Ba tướng đều nói:
- Cán cầm cự, khó đánh lắm!
Tháo họp các tướng lại bàn. Tuân Du nói:
- Muốn phà được Cán, phải dùng kế trá hàng.
Tháo gọi Lã Khoáng, Lã Tường đến ghé vào tai nói nhỏ mấy câu,
Lã Khoáng dẫn vài chục tên lính thẳng đến trước ải, gọi to lên rằng:
- Chúng tôi nguyên là tướng cũ họ Viên, bất đắc dĩ phải hàng
Tào. Tào Tháo là người quỷ quyệt, bạc đãi chúng tôi. Nay lại xin về giúp chủ
cũ, mau mở cửa ải cho tôi vào.
Cao Cán chưa tin, chỉ bảo hai tướng lên cửa ải nói chuyện.
Hai tướng cởi giáp xuống ngựa đi vào, rồi bảo Cán:
- Quân Tào mới đến. Nên nhân dịp lòng quân chưa yên, kéo ra
cướp trại. Hai chúng tôi tình nguyện đi đầu.
Cán mừng lắm theo lời ấy. Đến đêm sai hai tướng họ Lã đi trước,
còn Cao Cán dẫn hơn vạn quân kéo theo. Gần đến trại Tào, bỗng có tiếng reo ầm
ĩ, quân mai phục bốn phía xông ra. Cán biết là mắc mẹo, vội quay về Hồ Quan thì
Nhạc Tiến, Lý Điển đã cướp được thành rồi.
Cao Cán cướp đường chạy thoát, sang nhờ viện Hung Nô.
Tháo lĩnh binh đóng giữ cửa ải, rồi sai người đuổi Cao Cán.
Cán đến địa phận của đất Hung Nô thì gặp ngay vua Bắc Phiên Tả Hiền Vương. Cán
xuống ngựa quỳ lạy thưa rằng:
- Tào Tháo lấn cướp mất cả bờ cõi, nay lại muốn xâm phạm đất
đai của ngài. Xin ngài cứu viện, góp sức cùng tôi đánh lấy lại, để giữ vững
phương bắc.
Tả Hiền vương nói:
- Ta cùng Tào Tháo không thù hằn gì nhau, lẽ đâu Tháo xâm phạm
vào đất nước ta? Ngươi lại muốn cho ta kết oán với họ Tào hay sao?
Nói rồi, mắng đuổi Cao Cán đi. Cán cùng đường buộc phải sang
theo Lưu Biểu. Đi đến Thượng Lộ thì bị Đô uý Vương Viêm giết, đem đầu đến dâng
Tào Tháo. Tháo phong cho Viêm tước hầu.
Bình định xong Tinh Châu, Tháo bàn định quay sang phía tây
đánh Ô Hoàn. Bọn Tào Hồng nói:
- Viên Hy, Viên Thượng binh thua tướng mất, sức hết thế cùng,
đã trốn tránh sang miền sa mạc. Nay ta đem quân sang tận phía tây, nếu Lưu Biểu,
Lưu Bị thừa cơ đánh úp Hứa Đô, ta cứu ứng không kịp, tai hoạ không phải nhỏ.
Xin hãy kéo quân về là hơn cả.
Quách Gia nói:
- Các ông nói sai cả rồi; chúa công tuy uy danh lừng lẫy khắp
thiên hạ, nhưng người ở nơi sa mạc, cậy thế xa xôi hiểm trở, tất không phòng bị.
Nhân chỗ sơ hở ta đánh cho thật mau lẹ thì chắc phá được. Vả lại Ô Hoàn mang ơn
Viên Thiệu, mà hai anh em Viên Hy, Viên Thượng nay hãy còn sống, thế nào cũng
phải trừ đi mới xong. Còn Lưu Biểu chỉ là hạng người ngồi nói chuyện suông
thôi. Biểu tự biết không đủ tài để đối phó với Lưu Bị. Dùng Bị vào việc to, thì
sợ không khống chế nổi; còn dùng vào việc nhỏ, chắc Bị không chịu làm. Dù ta có
bỏ nước mà kéo quân đi đánh xa các ông cũng đừng lo.
Tháo nói:
- Lời Phụng Hiếu rất đúng.
Lập tức huy động ba quân và vài nghìn cỗ xe rầm rộ kéo đi.
Dọc đường cát vàng bay ngát, gió bão bốn bề, đường sá gập ghềnh,
người ngựa khó nhọc.
Tháo có ý muốn quay trở về, bèn hỏi Quách Gia.
Lúc ấy, Gia không quen thuỷ thổ, ốm nằm trong xe. Tháo khóc
nói:
- Vì ta muốn bình định miền sa mạc khiến ông phải đi xa vất vả,
đến nỗi mắc bệnh, ta yên tâm sao được?
Gia nói:
- Tôi đội ơn sâu của thừa tướng, dù có chết cũng chưa đền được
muôn một.
Tháo nói:
- Ta thấy vùng bắc hiểm trở, muốn rút quân về ông thấy thế
nào?
Gia nói:
- Việc binh cốt mau lẹ. Nay đi đánh xa hàng ngàn dặm, lương
thực, khí giới nhiều, nhưng khó mang theo; không bằng đem khinh binh rút đường
đến đánh bất ngờ, nhưng phải có người thuộc đường tắt đi hướng dẫn mới được.
Tháo cho Quách Gia ở lại Dịch Châu dưỡng bệnh, rồi sai tìm
người hướng đạo. Có người giới thiệu Điền Trù là tướng cũ của Viên Thiệu. Tháo
gọi lại hỏi, Trù nói:
- Đường này, về mùa hạ và mùa thu có nước, chỗ nông xe ngựa
không đi được, chỗ sâu lại không chở được thuyền bè, khó hành quân lắm. Chi bằng
trở lại từ cửa Lư Long vượt Bạch Đàn hiểm trở, qua vùng đất hoang đến sát Liễu
Thành mà đánh úp, chỉ một trận là bắt sống được Thác Đốn.
Tháo nghe theo, phong Điền Trù làm Tĩnh bắc tướng quân, kiêm
hướng đạo đi trước; Trương Liêu đi thứ nhì; Tháo áp hậu, gấp rút tiến quân.
Điền Trù dẫn Trương Liêu đến trước núi Bạch Lang, vừa gặp
Viên Thượng, Viên Hy cùng với Thác Đốn đem vài vạn quân kỵ kéo đến.
Liêu phi ngựa báo Tào Tháo.
Tháo cưỡi ngựa lên cao đứng xem, thấy quân Thác Đốn đi lộn xộn,
không có hàng ngũ. Tháo bảo Trương Liêu:
- Quân giặc không được tề chỉnh, nên đánh ngay.
Nói rồi đưa cờ hiệu cho Liêu.
Liêu dẫn Hứa Chử, Vu Cấm, Từ Hoảng chia làm bốn đường kéo xuống,
cố sức xông vào đánh.
Quân Thác Đốn rối loạn, Trương Liêu xộc ngựa chém chết Thác Đốn.
Tàn quân đều xin hàng.
Còn hai anh em họ Viên vội dẫn vài nghìn quân kỵ mã chạy sang
Liêu Đông.
Tháo thu quân vào Liễu Thành, phong Điền Trù làm Liễu đình hầu,
trấn thủ thành.
Trù hu hu khóc, nói rằng:
- Tôi đã là kẻ phụ nghĩa, mang ơn ngài cho sống là may lắm rồi,
dám đâu bám Lư Long đổi lấy tước lộc nữa! Dẫu chết cũng không dám nhận.
Tháo cho là người có nghĩa, cử Trù làm Nghị lang. Tháo phủ dụ
dân Hung Nô, thu được một vạn ngựa tốt, ngay hôm ấy rút quân về.
Bấy giờ, tiết trời lạnh và khô ráo, hai trăm dặm đường không
có lấy một giọt nước. Lương ăn cũng hết, phải giết ngựa cho quân ăn; phải đào
sâu xuống đất ba bốn mươi trượng mới lấy được nước uống.
Tháo về đến Dịch Châu, thưởng cho những người khuyên can lúc
trước; nhân đó, bảo các tướng rằng:
- Bữa trước ta thừa cơ đi đánh xa, may mà thành công, cũng là
trời giúp. Nhưng chớ nên thấy được mà bảo là việc nên làm. Các ngươi can ngăn
là phải, nên ta khen thưởng. Từ rày về sau, các ngươi đừng có ngại, có việc gì
cứ thực mà nói.
Tháo về đến Dịch Châu thì Quách Gia vừa chết được mấy hôm,
linh cữu quàn tại công đường. Tháo vào tế, khóc rằng:
- Quách Phụng Hiếu mất đi, đó là trời hại ta vậy!
Khóc rồi, ngoảnh lại bảo các quan rằng:
- Tuổi các ngươi cũng bằng trạc ta cả, duy có Phụng Hiếu còn
trẻ hơn. Ta vẫn định uỷ thác việc về sau, không ngở nửa chừng chết yểu, khiến
ta tan nát ruột gan!
Lúc ấy bộ hạ của Quách Gia đưa một phong thư ra trình, nói:
- Khi Quách công gần mất, có viết thư này để lại dặn rằng: “Nếu
thừa tướng theo đúng lời trong thư này, thì việc Liêu Đông sẽ xong”.
Tháo mở thư ra xem, gật đầu khen phải.
Các tướng không hiểu ý thế nào.
Hôm sau bọn Hạ Hầu Đôn vào bẩm rằng:
- Thái thú Liêu Đông là Công Tôn Khang, lâu nay vẫn không chịu
phục. Bây giờ, Viên Hy, Viên Thượng lại sang ở đó, tất sinh tai hoạ về sau. Chi
bằng nhân lúc chúng chưa hành động, ta đến đánh ngay, nhất định lấy được Liêu
Đông.
Tháo cười nói:
- Không dám phiền đến oai hùm của các ông. Vài hôm nữa, Công
Tôn Khang sẽ đem đầu hai anh em họ Viên lại nộp.
Các tướng tá đều không tin.
Nói về Viên Hy, Viên Thượng dẫn vài nghìn quân kỵ chạy sang
Liêu Đông, Thái thú Liêu Đông Công Tôn Khang, vốn người ở Tương Bình, là con Uy
vũ tướng quân Công Tôn Độ. Khi thấy hai anh em họ Viên đến hàng, Khang liền họp
các tướng lại bàn.
Công Tôn Cung nói:
- Khi Viên Thiệu còn sống, thường có ý muốn thôn tính Liêu
Đông. Nay Viên Hy, Viên Thượng quân thua tướng mất, không chỗ nương nhờ, nên mới
phải đem thân lại đây, có khác nào chim cưu cướp tổ chim thước [1]. Nếu ta dung
nạp về sau tất nó phản. Chi bằng lừa nó vào thành, giết nó đi lấy đầu nộp Tào
công, chắc thế nào ngài cũng hậu.
- Chỉ sợ Tào Tháo đem binh lấy Liêu Đông, ta nên giữ hai anh
em họ Viên ở đây giúp ta thì hơn.
Cung nói:
- Nên sai người đi do thám xem. Hễ thấy quân Tào đến đánh,
thì ta để hai anh em họ Viên lại. Bằng quân Tào không đến thì ta giết đi đem đầu
ra nộp.
Khang nghe theo, cho ngay người đi do thám.
Nói về Viên Hy, Viên Thượng đến Liêu Đông, hai anh em bàn kín
với nhau rằng:
- Quân Liêu Đông được vài vạn, kể cũng đủ chống với Tào Tháo.
Nay ta hãy tạm đến nương nhờ, sau này sẽ giết Công Tôn Khang rồi cướp lấy đất,
bồi dưỡng lực lượng chống cự Trung Nguyên mới có thể lấy lại Hà Bắc được.
Bàn định xong, hai người vào ra mắt Khang. Khang mời nghỉ ở
nhà khách, giả ốm không tiếp vội.
Được mấy hôm, quân do thám về báo:
- Tào Tháo đóng quân ở Dịch Châu, không có ý gì hạ Liêu Đông
cả.
Công Tôn Khang mừng lắm, sai ngay quân đao phủ mai phục hai
bên, rồi cho người mời hai anh em họ Viên vào.
Chào hỏi xong xuôi, Khang mời ngồi. Lúc này trời rét lắm. Thượng
thấy giường không có đệm, nói với Khang cho giải chiếu.
Khang trợn mắt, mắng:
- Hai cái đầu chúng bay sắp rụng, lo chi đít không có chiếu
ngồi!
Thượng sợ quá.
Khang hét lớn:
- Tả hữu đâu, hạ thủ ngay đi!
Bọn đao phủ xông ra chặt đầu hai người, đóng vào hòm mang đến
Dịch Châu, yết kiến Tào Tháo.
Khi ấy Tào Tháo đóng quân ở Dịch Châu, Hạ Đầu Đôn và Trương
Liêu vào bẩm rằng:
- Thừa tướng không đánh Liêu Đông thì nên rút về Hứa Đô, sợ
Lưu Biểu gây chuyện gì chăng?
Tháo nói:
- Đợi đầu lâu hai anh em họ Viên đã rồi sẽ rút.
Mọi người đều cười thầm. Chợt có người vào báo:
- Có Công Tôn Khang ở Liêu Đông sai người đưa đầu lâu Viên
Thượng, Viên Hy đến nộp.
Ai nấy kinh sợ. Sứ giả dâng thư lên. Tháo cười ha hả mà rằng:
- Quả đúng như lời dự đoán của Phụng Hiếu!
Liền trọng thưởng cho sứ và phong Công Tôn Khang làm Tương
bình hầu, Tả tướng quân.
Tướng tá đều hỏi:
- Đúng như lời dự đoán của Phụng Hiếu là thế nào?
Tháo liền đưa bức thư của Quách Gia ra. Đại ý trong thư viết:
“Nay nghe Viên Hy và Viên Thượng sang Liêu Đông, minh công
không nên cất quân ra đó. Công Tôn Khang vốn sợ họ Viên thôn tính. Hai anh em
Viên đến hàng, Khang tất nghi ngờ.
Nếu ta đem quân đến đánh, nhất định họ phải hợp sức chống cự,
nôn nóng thì khó mà hạ được. Nếu ta hoãn lại, thì Công Tôn Khang và họ Viên sẽ
giết lẫn nhau. Việc này thế tất phải xảy ra như vậy”.
Nghe xong, ai cũng hớn hở khen giỏi.
Tháo dẫn bọn quan lại ra đặt hương án tế trước linh vị Quách
Gia một lần nữa.
Gia khi chết mới có ba mươi tám tuổi, theo Tào Tháo đi đánh dẹp
mười một năm, lập nhiều kỳ công. Người sau có thơ khen rằng:
Trời sinh Quách Phụng Hiếu
Hào kiệt đã nức danh
Ruột chứa đầy kinh sử
Bụng xếp chặt giáp binh
Lập mưu ngang Phạm Lãi
Bày mẹo tựa Trần Bình
Đáng tiếc lại chết sớm
Trung nguyên cột trụ nghiêng.
Tào Tháo mang quân về Ký Châu, sai người đưa linh cữu Quách
Gia về Hứa Đô trước, làm lễ an táng.
Bọn Trình Dục đề nghị:
- Phương bắc định xong, nay về Hứa Đô, nên đặt ngay kế hoạch
lấy Giang Nam.
Tháo cười nói:
- Ta vẫn có chí lấy đã lâu. Các ngươi nói chính hợp ý ta.
Đêm ấy ngủ trên lầu phía đông thành Ký Châu, Tháo tựa lan
can, ngẩng mặt lên trời xem thiên văn, Tuân Du cũng đứng bên cạnh. Tháo trỏ lên
trời bảo rằng:
- Phương nam vương khí chói lọi, vị tất đã đánh được.
Du nói:
- Oai thừa tướng như trời, đánh đâu chẳng nổi.
Đang mải xem, bỗng một luồng kim quang từ mặt đất bay lên. Du
nói:
- Dưới chỗ đất ấy chắc có của báu.
Tháo xuống gác, sai người đến tận nơi đào.
Thế mới là:
Phương nam vừa ngắm thiên văn rõ,
Đất bắc ngờ đâu bảo khí sinh.
Chưa biết đào chỗ ấy lên thấy vật gì, xem hồi sau sẽ biết.
[1] Tương truyền, chim thư cưu không biết làm tổ; đến ở nhờ tổ của chim thước,
rồi ăn cướp làm tổ của mình.
Hồi 34:
Sái phu nhân nấp nghe chuyện kín
Lưu hoàng thúc nhảy ngựa Đàn Khê
Tào Tháo sai người đào được một con chim sẻ bằng đồng, bèn hỏi
Tuân Du rằng:
- Điềm này là điềm gì?
Du thưa:
- Ngày xưa, mẹ vua Thuấn nằm mơ thấy con chim sẻ bằng ngọc
bay vào bụng, sau sinh ra vua Thuấn. Nay thừa tướng được con sẻ bằng đồng cũng
là điềm hay.
Tháo mừng lắm, sai làm một cái đài cao để kỷ niệm.
Ngay hôm ấy, bạt đất chặt cây, nung ngói đóng gạch, xây đài
“Đồng Tước” [1] ở trên bờ Chương Hà, chừng một năm mới xong.
Con thứ của Tào Tháo là Tào Thực bàn rằng:
- Muốn dựng đài cao hai tầng thì phải lập ra ba toà: toà giữa
cao nhất, gọi là “Đồng Tước”; toà bên trái gọi là “Ngọc Long”; toà bên phải gọi
là “Kim Phượng”. Lại nên xây hai cái cầu vồng nối dài hai bên với đền giữa cho
đẹp mắt.
Tháo nói:
- Ý kiến con ta hay lắm. Nay mai, đền này làm xong sẽ là nơi
di dưỡng tuổi già của ta!
Nguyên Tào Tháo sinh được năm con, duy có Thực là thông minh,
linh lợi, giỏi nghề văn chương. Tháo rất mực yêu mến, nên để Tào Thực và Tào
Phi ở lại Nghiệp Quận trông coi việc xây đền; lại sai Trương Yên giữ Bắc Trại.
Tháo dẫn năm mươi sáu vạn quân, gồm cả số quân của Viên Thiệu, về Hứa Đô; phong
tặng cho các công thần; lại dâng biểu xin truy tặng Quách Gia làm Trinh hầu và
đem con trai Quách Gia tên là Dịch về nuôi ở trong phủ.
Tháo lại họp các mưu sĩ bàn việc kéo quân xuống miền nam đánh
Lưu Biểu, Tuân Úc nói:
- Đại quân đi đánh miền bắc mới về, chưa nên huy động vội.
Xin hãy đợi nửa năm, chuẩn bị đầy đủ lực lượng, chỉ một trận là dẹp xong Lưu Biểu
và Tôn Quyền.
Tháo nghe lời, bèn chia quân ra các nơi đóng đồn, làm ruộng,
đợi khi dùng đến.
Lại nói Huyền Đức từ khi sang Kinh Châu, được Lưu Biểu đãi rất
hậu. Một hồi sau đương cùng nhau uống rượu, chợt có tin báo bọn hàng tướng là
Trương Vũ, Trần Tôn ở Giang Hạ, âm mưu cướp bóc nhân dân, bàn mưu làm phản.
Biểu giật mình, nói rằng:
- Hai thằng giặc này làm phản sẽ gây tai hoạ không nhỏ.
Huyền Đức thưa:
- Đại huynh không phải lo, Bị xin đi đánh.
Biểu mừng lắm, lập tức điểm cho ba vạn quân. Huyền Đức lĩnh mệnh
đi ngay. Không mấy bữa, đến Hạ Giang.
Trương Vũ, Trần Tôn đem quân ra đón đánh. Huyền Đức cùng Quan
Vũ, Trương Phi, Triệu Vân cưỡi ngựa ra cửa cờ. Trông thấy ngựa của Trương Vũ rất
khoẻ, Huyền Đức nói:
- Đây tất là ngựa thiên lý.
Nói chưa dứt lời, Triệu Vân vác giáo xông thẳng vào trận địa.
Trương Vũ tế ngựa đón đánh, chưa được ba hiệp, bị Triệu Vân đâm chết. Vân nắm
ngay lấy dây cương dắt ngựa chạy về.
Trần Tôn trông thấy, đuổi cướp lại. Trương Phi quát to một tiếng,
vác mâu ra đâm chết Trần Tôn. Quân địch tan vỡ, Huyền Đức chiêu dụ dư đảng,
bình định xong vùng Giang Hạ, rồi kéo quân về.
Lưu Biểu ra tận ngoại thành đón tiếp, mở tiệc ăn mừng. Rượu đến
nửa chừng, Biểu nói:
- Hiền đệ tài giỏi, Kinh Châu thực được nhờ cậy. Như còn lo
Nam Việt bất thần đến cướp; Tôn Quyền và Trương Lỗ cũng phải đề phòng.
Huyền Đức nói:
- Em có ba tướng có thể uỷ thác được: Trương Phi đi tuần Nam
Việt, Vân Trường giữ thành Cố Tử để trấn Trương Lỗ; Triệu Vân giữ Tam Giang cự
với Tôn Quyền, như vậy còn lo gì nữa!
Biểu mừng, định nghe theo. Sái Mạo nói với chị là Sái phu
nhân (vợ Lưu Biểu):
- Lưu Bị sai ba tướng giữ phía ngoài, còn hắn ở lại Kinh
Châu, sau này sẽ gây tai hoạ cho ta.
Đến đêm, Sái phu nhân nói với Biểu:
- Tôi thấy ở Kinh Châu lắm người đi lại với Lưu Bị, phải nên
đề phòng mới được. Nay để cho hắn ở trong thành cũng vô ích, sao bằng để cho hắn
đi nơi khác.
Biểu nói:
- Huyền Đức là người nhân nghĩa đấy.
Sái phu nhân nói:
- Tôi chỉ sợ người ta chẳng được như bụng ông nghĩ thôi.
Biểu lặng yên nghĩ ngợi không trả lời. Hôm sau, Lưu Biểu đi
ra ngoài thành, trông thấy con ngựa của Huyền Đức cưỡi tốt lắm, hỏi ra, biết là
ngựa của Trương Vũ. Biểu tấm tắc khen mãi, Huyền Đức đem biếu ngay, Biểu mừng lắm,
cưỡi về.
Khoái Việt trông thấy, hỏi. Biểu nói:
- Của Huyền Đức cho.
Việt nói:
- Xưa nay anh tôi là Khoái Lương xem ngựa rất giỏi. Tôi cũng
võ vẽ chút ít. Con ngựa này dưới mắt có “chỗ trũng chứa nước mắt”, cạnh trán lại
có điểm trắng, gọi là giống ngựa “đích lư”, dùng nó thì hại chủ. Trương Vũ cũng
vì ngựa này mà chết, chúa công không nên cưỡi.
Biểu tin ngay. Hôm sau Biểu mời Huyền Đức đến ăn tiệc, nhân
nói rằng:
- Hôm qua hiền đệ cho con ngựa rất tốt, tôi xin cảm tạ; nhưng
hiền đệ thỉnh thoảng phải đi chinh chiến, xin trao lại để hiền đệ dùng.
- Hiền đệ ở lâu đây, sợ sao lãng việc võ. Nay có huyện Tân Dã
thuộc ấp Tương Dương, đầy đủ lương thực, hiền đệ nên dẫn quân mã bản bộ ra đấy
đóng đồn. Hiền đệ thấy thế nào?
Huyền Đức vâng theo, hôm sau vào từ biệt Lưu Biểu rồi dẫn
quân bản bộ đến Tân Dã.
Vừa ra khỏi thành thấy một người đứng đón, vái rạp xuống tận
đất, nói rằng:
- Con ngựa của ông, không nên cưỡi.
Huyền Đức nhìn ra là Y Tịch, mạc tân Kinh Châu tên tự là Cơ
Bá, quê ở Sơn Dương, Huyền Đức vội xuống ngựa hỏi, Tịch nói:
- Hôm trước, tôi nghe thấy Khoái Việt nói với Lưu Kinh Châu rằng
ngựa này là giống “đích lư”, cưỡi thì hại chủ, nên Lưu Kinh Châu trả lại ông.
Ông còn cưỡi làm gì?
Huyền Đức nói:
- Xin thành thật cảm ơn lòng tốt của ông. Nhưng người ta sống
chết có mệnh, con ngựa hại thế nào được!
Tịch Phục là cao kiến, từ đấy thường hay đi lại thăm hỏi.
Huyền Đức từ khi đến Tân Dã, quân dân đều vui mừng. Việc
chính trị đổi mới hẳn.
Mùa xuân năm Kiến An thứ mười hai, Cam phu nhân sinh được Lưu
Thiện. Đêm hôm đó có một con hạc trắng bay đến đậu trên nóc nhà, kêu to hơn bốn
mươi tiếng rồi bay về phía tây. Lúc trở dạ, mùi thơm toả khắp phòng. Cam phu
nhân trước khi có mang, thường nằm chiêm bao thấy ngửa mặt lên trời nuốt sao bắc
đẩu nên đặt tên là A Đẩu.
Hồi ấy, Tào Tháo đang đem quân đi đánh phương bắc, Huyền Đức
bèn đến Kinh Châu nói với Lưu Biểu:
- Nay Tào Tháo đem hết quân đánh phương bắc, Hứa Xương bỏ ngỏ.
Nhân dịp này, ta đem quân Kinh, Tương đến đánh úp, nhất định sẽ thắng lợi.
Biểu nói:
- Ta ngồi giữ chín châu cũng đủ rồi, còn cần mưu đồ chi nữa?
Huyền Đức ngồi lặng yên.
Biểu mời vào nhà uống rượu. Rượu ngà ngà say, Biểu thở dài một
tiếng, Huyền Đức hỏi:
- Huynh trưởng có việc chi mà thở dài?
Biểu nói:
- Ta có việc riêng khó nói ra lắm.
Huyền Đức đang định hỏi thêm, thì ngay lúc ấy Sái phu nhân nấp
sau bình phong bước ra, Lưu Biểu không nói gì nữa. Một lát tiệc tan, Huyền Đức
lại về Tân Dã.
Đến mùa đông năm ấy, nghe tin Tào Tháo từ Liễu Thành về, Huyền
Đức rất tiếc Biểu không nghe lời mình.
Một hôm, Biểu sai sứ mời Huyền Đức đến Kinh Châu họp mặt. Huyền
Đức theo sứ về, Lưu Biểu tiếp đón và mời vào nhà trong dự tiệc. Nhân bảo Huyền
Đức rằng:
- Mới đây, nghe Tào Tháo trở về Hứa Đô, uy thế ngày càng mạnh,
tất muốn thôn tính Kinh, Tương. Ta rất ăn năn trước kia không nghe lời hiền đệ,
bỏ lỡ mất cơ hội tốt.
Huyền Đức nói:
- Thời buổi này, thiên hạ chia xẻ, chiến tranh nổ ra càng nhiều,
cơ hội bao giờ hết được? Nếu biết ứng phó sau này thì cũng không đáng tiếc lắm.
Biểu nói:
- Lời hiền đệ thật chí lý!
Hai người cùng nhau chén tạc chén thù. Rượu say, Lưu Biểu tự
nhiên ứa nước mắt, Huyền Đức hỏi vì cớ gì. Biểu nói:
- Ta có việc tâm sự, trước dây đã toan nói với hiền đệ, nhưng
chưa thuận tiện.
Huyền Đức nói:
- Huynh trưởng có việc gì khó giải quyết? Nếu cần đến dù chết
em cũng không từ.
Biểu nói:
- Con trưởng tôi là Kỳ, do vợ trước là Trần thị sinh ra. Nó
hiền lành nhưng nhu nhược lắm, xem chừng không coi nổi việc nước. Con thứ tên
là Lưu Tôn, vợ sau Sái thị sinh ra; thằng này tư chất thông minh hơn. Ta có ý
muốn bỏ trưởng lập thứ, nhưng lại sợ trái với lễ pháp; muốn lập con trưởng thì
lại sợ tôn tộc họ Sái đều nắm binh quyền, sau tất sinh loạn. Do đó ta lo nghĩ
mãi chưa quyết.
Huyền Đức nói:
- Xưa nay, bỏ con trưởng lập con thứ vẫn là rước lấy những
chuyện rối ren. Nếu huynh trưởng lo họ Sái quyền to, thì nên dần dần tước bới
đi, chứ không nên quá yêu mà lập con thứ.
Biểu nín lặng.
Nguyên Sái phu nhân vẫn có ý nghi Huyền Đức. Hễ thấy Huyền Đức
nói chuyện với chồng thì thế nào cũng rình nghe cho kỳ được. Lúc ấy, chính mụ nấp
sau bình phong; nghe thấy Huyền Đức nói câu đó, mụ rất căm tức.
Huyền Đức biết mình lỡ lời, liền đứng dậy đi tiểu. Nhân đó
trông thấy thịt vế mập ra, tự nhiên thương cảm ứa nước mắt. Một lát Huyền Đức lại
trở vào, Biểu thấy Huyền Đức nét mặt rầu rầu, ngạc nhiên hỏi làm sao. Huyền Đức
thở dài nói:
- Từ trước đến nay, em không lúc nào rời yên ngựa, bắp thịt
chân thường sắt lại; lâu nay không cưỡi ngựa, thịt lại đẫy ra; ngày tháng trôi
qua, già đến nơi rồi mà chưa làm nên trò trống gì. Bởi thế nên em thương cảm mà
khóc.
Biểu nói:
- Ta nghe trước kia hiền đệ ở Hứa Xương, cùng Tào Tháo uống
rượu nồng với mơ xanh mà bàn luận anh hùng. Hiền đệ kể hết tên danh sĩ thời
nay, nhưng Tháo không công nhận một ai, mà nói thẳng ngay rằng: “Thiên hạ anh
hùng duy chỉ có sứ quân với Tháo”. Xem đó, quyền thế lừng lẫy như Tào Tháo, còn
chửa dám nhận là hơn hiền đệ; hiền đệ lo gì không dựng nên nghiệp bá.
Huyền Đức đang lúc tửu hứng buột miệng đáp rằng:
- Nếu em có cơ sở, thì chẳng cần đếm xỉa gì đến những bọn tầm
thường trong thiên hạ cả.
Biểu nghe nói ngồi lặng yên.
Huyền Đức biết mình lỡ lời, mượn cớ đứng dậy, về khách xá nghỉ.
Đời sau có thơ khen rằng:
Tào công tính đốt kể từng người
Thiên hạ anh hùng có Bị thôi
Thịt vế mập đầy từng cảm thán
Chia ba thiên hạ tự đây rồi.
Lại nói Lưu Biểu nghe mấy lời của Huyền Đức miệng tuy không
nói, lòng như không vui, liền từ biệt Huyền Đức trở vào nhà trong.
Sái phu nhân nói:
- Mới rồi, thiếp ở sau bình phong, nghe thấy những lời Lưu Bị
nói khinh người thậm tệ, đủ biết hắn có ý nuốt Kinh Châu. Nếu không trừ trước, ắt
sinh hậu hoạn.
Biểu không nói, chỉ lắc đầu.
Sái thị triệu ngay Sái Mạo vào bàn việc ấy, Mạo nói:
- Chị để em ra ngoài nhà khách giết hắn, rồi báo với chúa
công sau.
Sái thị đồng ý. Mạo liền ra điểm quân.
Lại nói, Huyền Đức ở trong nhà khách đốt đèn ngồi chơi. Độ cuối
canh ba, sắp sửa đi ngủ, bỗng có một người đẩy cửa vào, trông ra là Y Tịch.
Nguyên Tịch biết Sái Mạo định hại Huyền Đức, nên đang đêm đến báo tin giục Huyền
Đức cấp tốc lánh đi. Huyền Đức nói:
- Chưa từ biệt Cảnh Thăng, đi sao cho tiện.
Tịch nói:
- Ông mà đến từ biệt tất bị Sái Mạo nó hại.
Huyền Đức tạ ơn Y Tịch rồi gọi ngay tuỳ tùng nhất tề lên ngựa,
đang đêm chạy về Tân Dã.
Khi Sái Mạo đem quân đến, thì Huyền Đức đã đi rồi. Mạo tức lắm,
làm ngay một bài thơ viết ở trên tường, rồi vào nói với Biểu:
- Lưu Bị có ý làm phản, nên đề một bài thơ phản trên tường,
không từ biệt mà đi ngay.
Biểu không tin, thân ra tận nhà khách, quả nhiên thấy bốn câu
thơ:
Khốn đốn lâu nay giữ phận hèn
Ngồi buồn coi ngắm nước non quen
Rồng đâu phải giống trong ao nhỏ
Cưỡi sấm lên trời cũng có phen!
Lưu Biểu đọc xong giận lắm, tuốt gươm ra, nói:
- Ta thề giết chết bọn bất nghĩa này!
Đi được vài bước, lại sực nghĩ ra:
- Ta cùng ở với Huyền Đức một thời gian dài, không thấy hắn
làm thơ bao giờ. Đây tất là âm mưu chia rẽ của kẻ nào đây.
Nghĩ xong lại trở vào, lấy mũi gươm cạo sạch bài thơ ở tường,
vứt gươm rồi lên ngựa về.
Sái Mạo trình rằng:
- Quân sĩ đã điểm sẵn, xin cho đến Tân Dã bắt Lưu Bị.
Biểu nói:
- Không nên vội vàng, để ta nghĩ kỹ đã.
Sái Mạo thấy Lưu Biểu dùng dằng không quyết, bèn lẻn vào bàn
với Sái thị:
- Nên mở ngay đại hội các quan ở Tương Dương, rồi nhân dịp giết
ngay Lưu Bị ở đây.
Hôm sau, Mạo vào bẩm Lưu Biểu:
- Mấy năm nay được mùa, nên họp các quan ở Tương Dương để tỏ
sự săn sóc của chúa công. Xin mời chúa công đến dự.
Biểu nói:
- Ta mấy hôm nay có bệnh đau tức, không sao đi được. Nên mời
hai công tử làm chủ để tiếp khách.
Mạo nói:
- Công tử còn ít tuổi lắm, sợ không quen lễ nghi.
Biểu nói:
- Thế thì sang Tân Dã mời Huyền Đức đến.
Sái Mạo thấy Biểu trúng mẹo mình, lập tức sai người đi mời
Huyền Đức đến Tương Dương.
Huyền Đức từ khi chạy về Tân Dã, biết rằng mình lỡ lời rước vạ,
chưa kịp nói chuyện với ai, thì chợt có sứ giả tới mời sang Tương Dương.
Tôn Càn nói:
- Hôm nọ thấy chúa công ở Kinh Châu về có dáng buồn. Tôi chắc
bên ấy có xảy ra việc rủi ro gì. Nay tự dưng lại thấy mời chúa công đến hội, phải
nên thận trọng.
Lúc ấy, Huyền Đức mới kể lại chuyện trước. Vân Trường nói:
- Từ khi xảy ra chuyện lỡ lời đến nay, Lưu Kinh Châu không hề
trách móc gì hết, những tiếng đồn ngoài vội tin sao được. Vả Tương Dương cách
đây không xa, nếu anh không đến họ sẽ sinh nghi.
Huyền Đức nói:
- Lời Vân Trường đúng lắm.
Trương Phi nói:
- Tiệc chẳng ra tiệc, hội chẳng ra hội. Thà đừng đi.
Triệu Vân nói:
- Tôi xin đem ba trăm quân mã đi theo, có thể bảo vệ chúa
công vô sự.
Huyền Đức nói:
Rồi cùng Triệu Vân ngay hôm ấy sang Tương Dương. Lưu Kỳ, Lưu
Tôn dẫn văn võ bách quan ra đón. Sái Mạo cũng ra khỏi thành đón rất là kính cẩn.
Huyền Đức thấy có cả hai công tử nên không nghi ngờ gì nữa.
Hôm ấy Huyền Đức tạm nghỉ ở nhà khách, Triệu Vân dẫn ba trăm
quân bảo vệ xung quanh. Vân mặc giáp đeo gươm, không rời Huyền Đức nửa bước.
Lưu Kỳ thưa với Huyền Đức:
- Cha tôi bị bệnh đau tức, không thể đi lại được, nên sai mời
chú sang tiếp khách và phủ dụ các quan thú mục các nơi.
Huyền Đức nói:
- Lẽ ra tôi không dám đảm nhiệm, nhưng anh đã sai không dám từ
chối.
Hôm sau, người vào báo các quan chức trong chín quận, bốn
mươi hai châu, đã đến đông đủ.
Sái Mạo mời Khoái Việt đến bàn:
- Huyền Đức là kẻ kiêu hùng đời nay, cho hắn ở lâu sau tất
làm hại ta. Nên nhân hôm nay giết đi.
Việt nói:
- Sợ mất lòng dân.
Mạo nói:
- Ta đã vâng mật lệnh của chúa công rồi.
Việt nói:
- Có phải như thế thì nên chuẩn bị trước.
Mạo nói:
- Cửa đông, đại lộ Nghiễn Sơn, cửa nam, cửa bắc đã có các em
ta là Sái Hoà, Sái Trung và Sái Huân canh giữ. Chỉ còn cửa tây không cần phải
giữ, vì trước mặt có suối Đàn Khê chắn ngang, dù chục vạn quân cũng khó vượt
qua được.
Việt nói:
- Tôi thấy Triệu Vân không rời Huyền Đức phút nào, sợ khó hạ
thủ.
Mạo nói:
- Ta sẽ huy động năm trăm quân mai phục sẵn trong thành.
Việt nói:
- Nên sai Văn Sính, Vương Uy đặt một tiệc riêng ngoài sảnh
chiêu đãi các võ tướng, hãy mời Triệu Vân ra trước rồi mới hành động được.
Mạo theo kế ấy.
Hôm đó, giết bò mổ ngựa, mở tiệc rất to. Huyền Đức cưỡi ngựa
Đích lư đến chầu, sai đắt ngựa buộc trong vườn sau; các quan lại đã đông đủ ở
công đường, Huyền Đức ngồi chủ trì giữa, hai công tử ngồi hai bên, còn quan lại
cứ ngồi theo thứ tự.
Triệu Vân đeo gươm đứng cạnh Huyền Đức, Văn Sính, Vương Uy
vào mời Triệu Vân ra ngoài dự tiệc, Vân từ chối. Huyền Đức bảo Vân, Vân miễn cưỡng
vâng theo.
Sái Mạo ở ngoài bố trí bao vây kín như rào sắt, rồi cho ba
trăm quân lui về nhà khách, chỉ đợi tiệc đến nửa chừng thì hạ thủ.
Rượu được ba tuần, Y Tịch đứng dậy cầm chén đến trước mặt Huyền
Đức đưa mắt nói sẽ:
- Xin ông thay áo!
Huyền Đức biết ý, lập tức đứng dậy ra nhà tiêu. Y Tịch mời rượu
xong, đi nhanh vào vườn sau, rỉ tai Huyền Đức nói:
- Sái Mạo bày kế hại ông. Ba mặt thành đều có quân mã canh giữ,
chỉ còn cửa tây bỏ ngỏ, ông trốn ngay đi.
Huyền Đức sợ hãi, vội cưỡi ngựa Đích lư, mở cửa vườn dắt ra,
nhảy phắt lên yên, phi một mạch về phía cửa tây, không kịp hỏi đến bọn tuỳ
tùng.
Lính gác hỏi, Huyền Đức không đáp, ra roi chạy miết. Lính gác
chặn lại không được, vội phi báo với Sái Mạo. Mạo lập tức đem năm trăm quân đuổi
theo.
Lại nói Huyền Đức ra khỏi cửa tây, đi được vài dặm, trước mặt
có một suối lớn chắn ngang. Suối Đàn Khê này rộng độ vài trượng, chảy ra Tương
Giang mạnh quá, sóng vỗ rất to. Huyền Đức đến sát bờ, thấy không thể qua được,
gò ngựa trở lại, nhìn về phía tây thành, bụi bốc mù mịt, quân đuổi theo sắp đến
nơi. Huyền Đức nói: “Phen này chắc chết!”, rồi quay ngựa lại bờ suối. Lúc ấy
quân đuổi đã kéo đến nơi, Huyền Đức hoảng sợ, quất ngựa xuống suối. Đi được vài
bước, ngựa ngã quỵ hai chân trước, ướt hết cả áo bào, Huyền Đức liền giơ roi hô
lớn:
- Đích lư! Đích lư! Nay mi hại ta rồi!
Huyền Đức vừa dứt lời, con ngựa bỗng rún mình nhảy vọt cao ba
trượng sang bờ phía tây. Huyền Đức như vừa bay bổng lên mây.
Về sau, Tô học sĩ (tức Tô Đông Pha) có làm một bài cổ phong vịnh
việc ấy. Thơ rằng:
Tuổi già vui cảnh xuân tàn,
Ngẫu nhiên lần tới khe Đàn qua chơi.
Ngẩn ngơ dừng ngựa đứng coi,
Bông hoa trước mặt tả tơi cánh hồng,
Nhớ xưa vân Hán đã cùng,
Nào hùm đua sức, nào rồng trọi nanh,
Tương Dương mở tiệc linh đình,
Không may Huyền Đức thình lình gặp nguy!
Cửa tây trốn nạn ra đi,
Sau lưng đã thấy quân truy đến gần.
Mông mênh mặt suối cách ngần,
Nước sâu thăm thẳm muôn phần khó thay.
Vó câu rẽ sóng như bay,
Lưng trời gió cuốn một roi vẫy vùng…
Tai nghe tiếng kỵ dè chừng,
Hai rồng cất cánh giữa dòng bay lên.
Rõ ràng chân chúa Tây Xuyên,
Người này ngựa ấy phỉ nguyền vua tôi.
Khe Đàn cuốn nước ra khơi,
Chúa hiền ngựa tốt nay thời ở đâu?
Nhìn sông luống ngẩn ngơ sầu,
Bóng chiều bảng lảng phơi đầu núi không…
Tam phân một giấc mơ màng,
Chỉ còn vết tích ghi trong cõi đời.
Huyền Đức sang đến bờ bên kia, ngoảnh lại đã thấy Sái Mạo dẫn
quân đến nơi, gọi to rằng:
- Sao sứ quân bỏ tiệc mà đi thế?
Huyền Đức đáp:
- Ta cùng ngươi không thù không oán, sao muốn hại ta?
Mạo nói:
- Tôi đâu có mưu ấy, sứ quân đừng tin lời người ta nói.
Huyền Đức thấy Mạo sửa soạn cung tên, liền quất ngựa chạy về
phía tây nam. Mạo bảo với tả hữu rằng:
- Người ấy có thần nào giúp vậy?
Mạo sắp sửa trở về thành thì thấy Triệu Vân đem ba trăm quân
từ trong cửa tây ruổi tới.
Thế là:
Long câu cứu chủ vừa qua suối
Hổ tướng đem quân rắp báo thù.
Chưa biết Sái Mạo phen này sống chết thế nào, xem hồi sau mới
rõ.
Chú thích:
1. Đồng Tước: chim sẻ bằng đồng.
Hồi 35:
Huyền Đức qua Nam Chương, gặp người ẩn dật
Đan Phúc đến Tân Dã, tiếp chúa anh minh
Lại nói Sái Mạo đang định quay về thì Triệu Vân đem quân đuổi
tới. Nguyên Triệu Vân đang ngồi uống rượu, bỗng nghe có tiếng người ngựa xôn
xao, vội chạy vào xem, không thấy Huyền Đức. Vân giật mình ra ngay nhà khách,
được tin Sái Mạo dẫn năm trăm quân ra cửa tây. Vân cấp tốc đem ba trăm quân cầm
giáo cưỡi ngựa rượt theo, gặp ngay Sái Mạo. Vân hỏi:
- Chúa ta đâu?
Mạo nói:
- Sứ quân bỏ tiệc trốn, không biết đi dâu.
Triệu Vân là người cẩn thận, không hay hấp tấp, liền tế ngựa
lên trước, trông xa thấy một cái suối rộng không còn đường nào khác, liền quay
ngựa lại, thét hỏi Sái Mạo:
- Ngươi mời chúa ta đến dự tiệc, cớ sao lại dẫn quân đuổi
theo?
Mạo đáp:
- Quan chức chín quận, bốn mươi hai châu huyện đều họp ở đây.
Ta là thượng tướng, sao lại không đi tuần tra bảo vệ?
Vân lại hỏi:
- Ngươi bức chúa ta chạy đi đâu?
Mạo nói:
- Nghe nói sứ quân cưỡi ngựa chạy ra cửa tây, tôi đến đây chẳng
thấy đâu cả.
Vân còn hoài nghi chưa biết thế nào, lại đến bên suối đứng ngắm
mãi, thấy bờ bên kia có vệt ướt, bụng bảo dạ:
- Chẳng lẽ cả người lẫn ngựa nhảy qua được suối này?
Liền sai ba trăm quân tản ra bốn phía tìm kiếm cũng chẳng thấy
dấu tích gì. Khi Vân quay ngựa lại thì Sái Mạo đã vào thành rồi. Vân tóm bọn
lính gác tra hỏi chúng nói Lưu sứ quân tế ngựa ra cửa tây. Vân định vào thành,
nhưng sợ có mai phục, liền đem quân về Tân Dã.
Lại nói, từ lúc nhảy qua suối, Huyền Đức bàng hoàng như người
ngây dại, tự nhủ: “Suối rộng thế mà nhảy qua được, há chẳng phải lòng trời?” Rồi
cứ lần theo đường Nam Chương ruổi ngựa đi. Lúc mặt trời sắp lặn, gặp một chú bé
chễm chệ ngồi trên lưng trâu, miệng thổi cây sáo, đương tiến lại. Huyền Đức
than rằng:
- Chú bé kia thật sướng hơn ta!
Rồi dừng ngựa lại đứng xem. Chú bé chăn trâu cũng họ trâu lại,
hạ sáo xuống nhìn kỹ Huyền Đức một hồi rồi hỏi rằng:
- Có phải ngài là Lưu Huyền Đức phá giặc Khăn vàng ngày xưa
không?
Huyền Đức lấy làm lạ, hỏi lại rằng:
- Cháu là trẻ nhỏ thôn quê, sao cũng biết tên họ ta?
Chú bé thưa:
- Trước cháu cũng không được biết. Nhân nhiều khi đứng hầu thầy
tiếp khách, thấy nhiều người nói có ông Lưu Huyền Đức, mình dài bảy thước năm tấc,
tay dài quá đầu gối, mắt trông thấy được tai, là người anh hùng đời nay. Nay gặp
ngài đây, thấy hình dạng như đúc, cháu chắc ngài là ông Huyền Đức.
Huyền Đức hỏi:
- Thầy cháu là ai?
Chú bé đáp:
- Thầy cháu là Tư Mã Huy, tự là Đức Tháo, người ở Dĩnh Châu,
đạo hiệu là Thuỷ Kính tiên sinh.
Huyền Đức hỏi:
- Thầy cháu hay kết bạn với ai?
Cháu bé đáp:
- Thầy cháu thường chơi với hai người ở Tương Dương là Bàng Đức
Công và Bàng Thống.
- Bàng Đức Công và Bàng Thống là người thế nào?
Chú bé đáp:
- Là hai chú cháu. Bàng Đức Công, tự Sơn Dân, hơn thầy cháu
mười tuổi; Bàng Thống, tự là Sĩ Nguyên kém thầy cháu năm tuổi. Một hôm thầy
cháu đương hái dâu ở trên cây, gặp Bàng Thống lại thăm, hai người ngồi chơi nói
chuyện dưới gốc cây, cả ngày không biết mệt. Thầy cháu yêu Bàng Thống lắm, gọi
là anh em.
Huyền Đức hỏi lại:
- Thầy cháu bây giờ ở đâu?
Chú bé chỉ tay, đáp:
- Nhà ở trong rừng trước mặt kia kìa.
Huyền Đức nói:
- Ta chính là Lưu Huyền Đức đây. Cháu đưa ta vào yết kiến thầy
cháu.
Chú bé dẫn Huyền Đức đi. Ước được hơn hai dặm đến đầu nhà,
Huyền Đức xuống ngựa, bước vào đến cửa trong, nghe có tiếng đàn du dương. Huyền
Đức bảo chú bé đừng báo vội, đứng lắng tai nghe. Bỗng tiếng đàn im bặt, một người
bước ra tươi cười nói:
- Tiếng đàn đương êm dịu, bỗng nảy lên tiếng cao, tất có người
anh hùng nghe trộm.
Chú bé trỏ tay và nói với Huyền Đức:
- Đây là Thuỷ Kính tiên sinh, thầy cháu đấy!
Huyền Đức ngắm kỹ thấy người dáng tùng, vóc hạc, dáng điệu thật
là tiên cách vội vàng bước lên thi lễ. Lúc ấy quần áo Huyền Đức vẫn còn ướt.
Thuỷ Kính nói:
- Ông hôm nay thoát được nạn to!
Huyền Đức rất lấy làm lạ.
Chú bé lại nói:
- Thưa thầy, đây là Lưu Huyền Đức.
Thuỷ Kính mời vào nhà, chủ khách cùng ngồi, Huyền Đức thấy
trên giá chất đầy sách vở, ngoài cửa sổ um tùm không trúc, một cái đàn để trên
sập đá: một bầu thanh khí lâng lâng.
Thuỷ Kính hỏi:
- Minh công ở đâu đến?
Huyền Đức đáp:
- Tôi ngẫu nhiên đi qua chỗ này, may gặp tiểu đồng chỉ dẫn,
được vào hầu ngài, lấy làm hân hạnh lắm.
Thuỷ Kính cười, nói:
- Ông không nên giấu, chính ông chạy nạn đến đây.
Huyền Đức liền thuật lại đầu đuôi vụ Tương Dương. Thuỷ Kính
nói:
- Trông sắc mặt ngài, tôi biết cả rồi.
Lại nói Huyền Đức rằng:
- Tôi nghe đại danh đã lâu, sao đến nay vẫn còn long đong?
Huyền Đức đáp:
- Số tôi vất vả, mới đến nỗi này.
Thuỷ Kính nói:
- Không phải thế. Vì bên cạnh còn thiếu nhân tài đó thôi.
Huyền Đức nói:
- Bị tuy không có tài, nhưng văn thì có Tôn Càn, My Chúc, Giản
Ung; võ thì có bọn Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, hết lòng phù tá, tôi cũng nhờ
được sự giúp đỡ của họ nhiều.
Thuỷ Kính nói:
- Quan, Trương, Triệu đều là những người có võ nghệ địch nổi
muôn người cả, nhưng chỉ tiếc không có người biết sử dụng những nhân tài ấy.
Còn như bọn Tôn Càn, My Chúc là hạng bạch diện thư sinh, không có tài kinh luân
tế thế gì.
Huyền Đức nói:
- Tôi thường vẫn khiêm tốn để cầu người hiền trong các nơi rừng
núi, nhưng chưa gặp được ai thì làm thế nào?
Thuỷ Kính đáp:
- Ông Khổng Tử nói rằng: “Trong một cái ấp chừng mười nóc nhà
thể nào cũng có người trung tín”. Sao ông lại bảo là chẳng có ai?
Huyền Đức nói:
- Bị này ngu dốt không hiểu, xin ngài chỉ bảo cho.
Thuỷ Kính nói:
- Ông có được nghe những câu ca dao của trẻ con ở các quận
Kinh, Tương không? Ca dao nói rằng:
Khoảng năm tám chín vận lung lay
Năm thứ mười ba sạch mảy may
Hết thảy mệnh trời đã định trước
Rồng ẩn trong bùn cất cánh bay.
Ca dao ấy xuất hiện từ năm Kiến An thứ nhất. Đến năm thứ tám
(hai trăm lẻ ba sau Thiên chúa), vợ trước Lưu Biểu mất, gia đình sinh ra lục đục,
thế là ứng vào câu đầu: “Vận lung lay”. Câu thứ hai: “Sạch mảy may”, nghĩa là
Lưu Cảnh Thăng sắp mất, văn võ tan vỡ, mỗi người một nơi, không còn gì cả. Hai
câu sau: “Mệnh trời đã định trước” và “Rồng cất cánh bay” là ứng vào tướng quân
đó.
Huyền Đức nghe nói giật mình, tạ rằng:
- Tôi đâu dám nhận câu đó!
Thuỷ Kính nói:
- Nay những bậc kỳ tài trong thiên hạ đều ở miền này. Ông nên
đến tìm.
Huyền Đức vội hỏi:
- Kỳ tài ở đâu?
Thuỷ Kính đáp:
- Phục Long, Phượng Sồ, chỉ cần một trong hai người ấy cũng đủ
bình định thiên hạ.
Huyền Đức hỏi:
- Phục Long, Phượng Sồ là người thế nào?
Thuỷ Kính vỗ tay, cười rộ nói:
- Được! Được!
Huyền Đức hỏi thêm. Thuỷ Kính nói:
- Bây giờ tối rồi, xin tướng quân hãy tạm nghỉ chân ở đây,
ngày mai tôi sẽ nói chuyện.
Liền sai tiểu đồng làm cơm khoản đãi, dắt ngựa vào tàu. Huyền
Đức ăn uống xong, vào nghỉ ở gian phòng bên cạnh; đêm nằm nghĩ lời Thuỷ Kính,
trằn trọc mãi không ngủ được. Tới khuya, bỗng có tiếng người gõ cửa phòng giữa,
đi vào, rồi nghe tiếng Thuỷ Kính hỏi:
- Nguyên Trực từ đâu đến?
Huyền Đức trở dậy nghe trộm, thấy tiếng người khách đáp:
- Lâu nay, tôi nghe nói Lưu Biểu là người yêu người thiện,
ghét kẻ ác. Tôi đến yết kiến, té ra chỉ có hư danh thôi; vì hắn tuy biết yêu
người thiện mà không biết dùng, biết ghét kẻ ác mà không biết bỏ. Cho nên tôi để
lại thư từ biệt rồi đến đây.
Thuỷ Kính nói:
- Ông là ngưòi có tài vương tá, nên chọn người mà theo, sao lại
khinh thân đến gặp Lưu Biểu làm gì? Vả anh hùng hào kiệt ở ngay trước mắt,
chính ông không biết đấy thôi.
Người đó nói:
- Tiên sinh dạy phải lắm!
Huyền Đức nghe thấy thế, mừng lắm, nghĩ thầm người này chắc
là Phục Long, Phượng Sồ đây, chỉ muốn ra gặp ngay, nhưng lại e hấp tấp quá.
Đợi đến sáng, Huyền Đức vào hỏi Thuỷ Kính:
- Đêm qua ai đến chơi đây?
Thuỷ Kính đáp:
- Bạn tôi đó.
Huyền Đức xin gặp. Thuỷ kính nói:
- Người ấy đã đi nơi khác tìm minh chủ rồi.
Huyền Đức hỏi tên họ người ấy, Thuỷ Kính chỉ cười ồ lên, nói:
“Được! Được!” Huyền Đức lại hỏi đến Phục Long, Phượng Sồ, Thuỷ Kính cũng chỉ cười,
nói “Được! Được!” Huyền Đức lại mời Thuỷ Kính ra giúp cùng phò nhà Hán, Thuỷ
Kính nói:
- Tôi là người ở rừng núi, xưa nay chỉ chơi dông dài không
đáng cho đời dùng. Đã có người khác tài gấp mười tôi đến giúp ông, ông nên đi
tìm.
Đương nói chuyện, thấy bên ngoài có tiếng người ngựa xôn xao.
Tiểu đồng vào báo có một tướng dẫn vài trăm quân đến nhà, Huyền Đức nghe nói rụng
rời, vội ra xem ai, thì là Triệu Vân. Huyền Đức mừng lắm. Vân xuống ngựa đi
vào, nói:
- Đêm qua tôi về huyện không thấy chúa công, suốt đêm đi tìm.
Hôm nay hỏi thăm mãi mới đến được đây. Chúa công nên về ngay, sợ có người đến
đánh huyện.
Huyền Đức từ biệt Thuỷ Kính, cùng Triệu Vân lên ngựa về Tân
Dã.
Đi chưa được vài dặm, thấy một toán quân đã kéo đến, trông ra
thì là Vân Trường và Dực Đức; gặp nhau ai cũng mừng rỡ.
Huyền Đức kể lại chuyện nhảy qua suối Đàn Khê, mọi người đều
kinh ngạc.
Về đến huyện, Huyền Đức cùng bọn Tôn Càn bàn bạc. Càn nói:
- Nên đưa thư nói việc ấy cho Cảnh Thăng biết.
Huyền Đức nghe lời sai ngay Tôn Càn mang thư sang Kinh Châu.
Lưu Biểu gọi vào hỏi:
- Ta mời Huyền Đức đến hội ở Tương Dương, cớ sao đương giữa
tiệc lại bỏ trốn đi?
Càn trình thư lên và thuật lại đầu đuôi việc Sái Mạo lập mưu
ám hại, Huyền Đức nhờ được ngựa nhảy qua Đàn Khê mới chạy thoát.
Biểu giận lắm, cho đòi Sái Mạo đến mắng:
- Sao mi dám hại em ta?
Rồi thét lôi ra chém. Sái phu nhân ra van khóc xin tha, Biểu
vẫn chưa nguôi giận. Tôn Càn thưa:
- Nếu minh công giết Sái Mạo, tôi e Lưu Huyền Đức khó lòng ở
được chốn này.
Biểu trách mắng Sái Mạo thậm tệ, rồi mới tha tội; lại sai con
trưởng là Lưu Kỳ cùng Tôn Càn sang Tân Dã xin lỗi Huyền Đức.
Kỳ vâng lệnh đến Tân Dã, Huyền Đức tiếp đón, mở tiệc thết
đãi. Rượu ngà say, Kỳ tự nhiên khóc; Huyền Đức hỏi vì cớ gì, Kỳ nói:
- Kế mẫu cháu là Sái thị thường vẫn có ý muốn hại cháu, cháu
không tìm được kế nào để tránh vạ, xin thúc phụ dạy bảo cho.
Huyền Đức khuyên “Nên ở cho trọn đạo hiếu, tất không lo gì”.
Hôm sau, Lưu Kỳ khóc lóc từ biệt, Huyền Đức cưỡi ngựa ra tận
ngoài thành, nhân tiện trỏ vào con ngựa đang cưỡi nói:
- Nếu không có con ngựa này, ta đã là người dưới suối rồi!
Kỳ nói:
- Đó không phải là sức ngựa, chính là phúc lớn của thúc phụ.
Nói rồi, hai người chia tay, Kỳ rỏ nước mắt mà đi. Huyền Đức
quay ngựa về thành, ngang qua chợ thấy một người đội khăn cát bá, mặc áo vải,
thắt lưng thâm, đi giày đen, vừa đi vừa hát:
Thuở trời đất gặp cơn phản phúc
Lửa Viên Lưu đương lúc suy tàn
Lâu đài sắp sửa lật nghiêng
Một cây há dễ chống nên được nào?
Non sông có bậc anh hào
Muốn tìm minh chúa, chúa nào biết ta?
Huyền Đức nghe xong, nghĩ thầm rằng:
- Có lẽ Phục Long, Phượng Sồ đây chăng?
Liền xuống ngựa gặp mặt, mời về huyện, hỏi họ tên. Người ấy
đáp:
- Tôi là người Dinh Thượng, họ Đan, tên Phúc, lâu nay vẫn
nghe nói sứ quân có ý thu nạp những kẻ hiền sĩ muốn đến theo hầu; nhưng chưa
dám vội vàng, nên đi rong chợ hát nghêu ngao để động đến tai ngài.
Đan Phúc nói:
- Xin phép cho xem con ngựa ngài cưỡi vừa rồi.
Huyền Đức sai dắt đến, Đan Phúc nói:
- Đây có phải là ngựa Đích lư không? Tuy là thiên lý mã nhưng
hay hại chủ, không nên cưỡi.
Huyền Đức nói:
- Việc ấy đã xảy ra rồi!
Lại đem chuyện Đàn Khê ra thuật cho Đan Phúc nghe.
Đan Phúc nói:
- Thế là cứu chủ chứ không phải hại chủ. Sau này thể nào nó cũng
hại một chủ. Tôi có phép giải được cái tật ấy.
Huyền Đức hỏi phép gì, Đan Phúc nói:
- Ngài hãy đem ngựa này tặng cho người nào mà ngài vẫn thù
ghét, đợi khi nó hại người ấy rồi, ngài sẽ cưỡi, tất không việc gì nữa.
Huyền Đức biến ngay sắc mặt nói:
- Ông mới đến đây, chưa dạy ta điều gì chính đạo, đã vội
khuyên ta ngay một việc ích kỷ hại nhân. Bị đây không thể nào theo được.
Đan Phúc cười, xin lỗi:
- Lâu nay tôi vẫn nghe tiếng sứ quân là người nhân đức, nhưng
chưa dám tin, nên mới đem lời ấy ra thưa.
Huyền Đức cũng bình tĩnh lại, đứng dậy xin lỗi:
- Bị đâu đã có nhân đức đối với mọi người, nay nhờ tiên sinh
đến dạy bảo cho.
Đan Phúc nói:
- Tôi từ Dinh Thượng đến đây, nghe thấy người Tân Dã có câu
hát rằng:
Tân Dã mục,
Lưu hoàng thúc.
Từ khi đến đây,
Dân được sung túc.
Thế mới biết nhân đức sứ quân lan truyền trong mọi người.
Huyền Đức cử Đan Phúc làm quân sư, để rèn luyện quân mã.
Lại nói, từ khi ở Ký Châu về Hứa Đô, Tào Tháo vẫn có ý muốn lấy
Kinh Châu; Tháo sai Tào Nhân, Lý Điển cùng hàng tướng Lã Khoáng, Lã Tường lĩnh
ba vạn quân đóng ở Phàn Thành, để uy hiếp Kinh, Tương và dò xét tình thế.
Một bữa, Lã Khoáng và Lã Tường về bẩm với Tào Nhân:
- Nay Lưu Bị đóng quân ở Tân Dã, chiêu binh mãi mã, tích luỹ
lương thảo, chí hắn không nhỏ đâu. Cần phải trừ ngay mới được. Hai chúng tôi, từ
khi hàng thừa tướng, chưa lập được chút công nào. Nay xin lĩnh năm nghìn tinh
binh sang lấy đầu Lưu Bị về dâng.
Tào Nhân giao ngay cho hai anh em năm nghìn tinh binh kéo
sang đánh Tân Dã. Thám mã phi báo Huyền Đức, Huyền Đức mời Đan Phúc đến bàn.
Phúc nói:
- Không nên để giặc vào đến cõi: Phải sai Quan Công dẫn một đạo
quân từ mé tả đi ra đánh đường giữa quân giặc; Trương Phi đem quân từ mé hữu đi
ra đánh đường sau, còn chúa công đem Triệu Vân ra mặt trước đón đánh; nhất định
phá được quân Tào.
Huyền Đức nghe theo, liền cho Quan, Trương đi trước, còn mình
cùng Đan Phúc, Triệu Vân dẫn hai nghìn quân mã ra cửa ải đón đánh. Đi chưa được
vài dặm, đã thấy phía sau núi bụi bay mù mịt, Lã Khoáng, Lã Tường kéo quân đến.
Hai bên dàn thành thế trận, Lưu Bị ra ngựa dưới cửa cờ, gọi to rằng:
- Kẻ nào dám xâm phạm vào đất ta?
Lã Khoáng ra ngựa đáp:
- Ta là đại tướng Lã Khoáng, vâng mệnh thừa tướng lại đây bắt
sống mi.
Huyền Đức nổi giận, sai Triệu Vân ra. Hai bên vừa giao chiến
vài hiệp. Triệu Vân đâm Lã Khoáng một nhát chết ngay dưới ngựa. Huyền Đức thúc
quân ập vào đánh chém. Lã Tường địch không nổi, dẫn quân chạy; đến nửa đường, một
cánh quân xông ra đi đầu là đại tướng Vân Trường; đánh giết một hồi, quân Tường
chết mất nửa, cướp đường chạy thoát. Chạy chưa được mười dặm, lại một cánh quân
nữa chặn lối, đi đầu là đại tướng Trương Phi, chống xà mâu hét lớn:
- Có Trương Dực Đức ở đây!
Phi nhảy đến đâm Lã Tường. Tường trở tay không kịp, bị Trương
Phi đâm trúng chết ngay. Quân Tào vỡ chạy tán loạn. Huyền Đức đem quân đuổi
theo, bắt được quá nửa, rồi thu quân về huyện, trọng đãi Đan Phúc, khao thưởng
ba quân.
Bọn bại quân về gặp Tào Nhân báo tin hai họ Lã đã bị giết,
quân sĩ bị bắt rất nhiều. Tào Nhân giật nảy mình, bàn với Lý Điển. Điển nói:
- Hai tướng chết vì khinh địch. Nay nên đóng quân lại, đừng
điều động vội, rồi về báo thừa tướng đem đại quân đi đánh mới được.
Nhân nói:
- Không được. Nay hai tướng bị chết, quân mã lại thiệt hại nặng,
ta nhất định phải báo thù. Liệu cái đất Tân Dã nhỏ như lỗ mũi này có cần phải
phiền đến đại quân của thừa tướng?
Điển nói:
- Lưu Bị là bậc hào kiệt, chớ nên coi thường.
Nhân nói:
- Sao ông nhát thế?
Điển nói:
- Trong binh pháp có câu “Biết người biết mình, thì đánh trăm
trận được cả trăm”. Tôi không nhát đâu chỉ sợ đánh không nổi thôi.
Nhân nổi giận, nói:
- Ngươi hai lòng sao? Ta quyết bắt sống Lưu Bị!
Lý Điển nói:
- Nếu tướng quân đi, tôi xin ở lại giữ Phàn Thành.
Nhân nói:
- Nếu ngươi không đi thì thật là hai lòng rồi!
Điển bất đắc dĩ phải cùng Tào Nhân điểm hai vạn rưỡi quân mã
qua sông đến Tân Dã.
Thật là:
Phó tướng khinh thường đã bỏ xác
Tướng quân rửa hận lại ra quân.
Chưa biết phen này Tào Nhân, Lý Điển, được thua thế nào, xem
hồi sau sẽ rõ.
Hồi 36:
Huyền Đức dùng mẹo đánh úp Phàn Thành
Nguyên Trực tế ngựa tiến cử Gia Cát
Lại nói, Tào Nhân tức giận, dẫn binh mã cấp tốc vượt qua
sông, định san phẳng Tân Dã.
Đan Phúc thắng trận, về huyện bàn với Huyền Đức rằng:
- Tào Nhân đóng quân ở Phàn Thành, nếu biết hai tướng bị giết,
tất huy động đại quân đến báo thù.
Huyền Đức hỏi:
- Nên dùng kế gì bây giờ?
Đan Phúc nói:
- Nếu hắn đem hết quân sang đây, Phàn Thành bỏ ngỏ, ta có thể
thừa cơ đánh úp.
Huyền Đức hỏi kế. Phúc ghé vào tai Huyền Đức nói nhỏ mấy câu.
Huyền Đức hớn hở, truyền lệnh chuẩn bị sẵn sàng.
Chợt có thám mã báo Tào Nhân đã dẫn đại quân sang sông kéo đến
nơi. Đan Phúc nói:
- Tôi đoán không sai.
Rồi mời Huyền Đức đem quân nghênh địch.
Trận thế dàn xong, Triệu Vân ra ngựa, gọi tướng giặc nói chuyện.
Tào Nhân sai Lý Điển ra giao chiến với Triệu Vân. Được độ vài chục hiệp, Lý Điển
biết sức không cự nổi, quay ngựa chạy về. Vân tế ngựa đuổi theo, nhưng quân Tào
bắn chặn lại. Đôi bên cùng thu quân về trại.
Lý Điển về gặp Tào Nhân nói:
- Quân giặc tinh nhuệ lắm, không nên coi thường. Chi bằng hãy
rút quân về Phàn Thành.
Tào Nhân cả giận, nói:
- Lúc chưa xuất quân, ngươi đã làm ngã lòng quân sĩ ta. Nay lại
giả tảng thua, tội đáng chém. Đao phủ đâu, lôi ra chặt đầu nó đi.
Các tướng xúm lại can mãi, Điển mới khỏi chết. Rồi, Nhân tự dẫn
binh đi tiền bộ, cho Lý Điển đi hậu quân. Hôm sau đánh trống tiến binh, bày
thành thế trận, sai người hỏi Huyền Đức rằng:
- Có biết thế trận của ta không?
Đan Phúc trèo lên chỗ cao, ngắm một hồi, rồi xuống nói với
Huyền Đức:
- Đây là trận “Bát môn kim toả”. Có tám cửa là: hưu, sinh,
thương, đỗ, cảnh, tử, kinh, khai. Nếu nhắm các cửa sinh, cửa cảnh, cửa khai mà
đánh vào thì thắng, vào các cửa thương, kinh, hưu, thì bị thiệt hại; vào cửa đỗ,
cửa tử, thì chết hết. Tám cửa tuy bố trí chỉnh tề, nhưng chỉ thiếu lực lượng chủ
chốt ở giữa. Nếu ta tiến váo cửa sinh góc đông nam, rồi đánh sang cửa cảnh góc
tây thì trận này phải tan vỡ.
Huyền Đức truyền lệnh cho quân sĩ giữ vững lấy góc trận và
sai Triệu Vân đem năm trăm quân từ mặt đông nam tiến vào, lướt qua cửa tây mà
ra ngoài trận.
Được lệnh, Vân lập tức vác giáo lên ngựa, đem quân thắng đến
góc đông nam, hò reo đánh vào giữa trận. Tào Nhân lui chạy về phía bắc. Vân
không đuổi theo, đánh xộc ra cửa tây, rồi lại từ cửa tây đánh sang góc đông
nam. Quân Tào đại loạn.
Huyền Đức thúc quân đánh ùa vào: Quân Tào Nhân thua to chạy
trốn. Đan Phúc truyền lệnh không đuổi theo, thu quân về.
Tào Nhân bị thua trận ấy, mới tin lời Lý Điển, bèn cho mời Điển
đến bảo rằng:
- Trận mới rồi mà cũng phá được, trong quân Lưu Bị tất có người
giỏi.
Lý Điển nói:
- Tôi tuy ở đây nhưng bụng vẫn còn lo Phàn Thành.
Tào Nhân nói:
- Đêm nay ta đến cướp trại; nếu thắng ta sẽ liệu kế khác; nhược
bằng thua, bấy giờ ta sẽ rút về Phàn Thành.
Lý Điển nói:
- Không nên, Huyền Đức chắc có phòng bị.
Nhân nói:
- Đa nghi như vậy thì dùng binh thế nào được?
Rồi Nhân không nghe lời Lý Điển, tự dẫn quân đi tiền đội, sai
Lý Điển đi hậu ứng, canh hai đêm hôm ấy đến cướp trại Huyền Đức.
Đan Phúc đang ngồi bàn bạc với Huyền Đức ở trong trại, bỗng
có cơn gió giật đùng đùng nổi lên. Phúc nói:
- Đêm nay Tào Nhân tất đến cướp trại đây!
Huyền Đức nói:
- Ta lấy gì địch lại?
Đan Phúc nói:
- Tôi đã bố trí cả rồi.
Đến canh hai, Tào Nhân kéo đến gần trại, thấy bốn mặt lửa
cháy ngùn ngụt. Nhân biết trong trại có phòng bị, vội vã rút lui. Triệu Vân đuổi
theo. Nhân không kịp thu quân về trại, tất tả chạy về phía bắc sông. Đến bờ
sông, đang hoang mang tìm đò, thì một toán quân kéo đến, tướng đi đầu là Trương
Phi. Tào Nhân liều chết đánh nhau. Lý Điển bảo vệ Tào Nhân xuống được thuyền
sang sông. Quân Tào chết đuối quá nửa.
Tào Nhân sang khỏi sông, chạy ngay về Phàn Thành sai người gọi
cửa. Bỗng trên thành một hồi trống nổi rồi một tướng xông ra, thét lớn:
- Phàn Thành vào tay ta đã lâu rồi!
Quân Tào giật mình, nhìn ra thì là Vân Trường.
Tào Nhân rụng rời, quất ngựa chạy. Vân Trường đuổi đánh. Tào
Nhân lại thiệt một số quân nữa, vội vã chạy về Hứa Xương. Dọc đường, Nhân mới được
tin Huyền Đức có Đan Phúc làm quân sư, bày mưu đặt kế.
Đây nói Huyền Đức toàn thắng, kéo quân vào Phàn Thành.
Quan huyện lệnh Lưu Bật ra đón, Huyền Đức vào thành, phủ dụ
dân chúng xong, Lưu Bật rước về nhà mở tiệc khoản đãi. Bật cũng là tôn thân nhà
Hán, quê ở Trường Sa. Trong tiệc Huyền Đức thấy một người đứng hầu, tư thế hiên
ngang, liền hỏi Bật:
- Người này là ai?
Bật thưa:
- Đó là Khấu Phong, con họ Khấu ở La Hầu, cháu gọi tôi bằng cậu,
vì cha mẹ chết cả, nên đến ở với tôi.
Huyền Đức tỏ vẻ yêu mến, muốn nhận làm con nuôi, Lưu Bật mừng
rỡ nhận lời ngay và bảo Khấu Phong ra lạy Huyền Đức làm cha nuôi, đổi tên họ là
Lưu Phong, Huyền Đức dẫn về, sai lạy Vân Trường, Dực Đức làm chú.
Vân Trường cười:
- Anh đã có con rồi, hà tất phải nuôi con nuôi, sau này chắc
sinh loạn!
Huyền Đức nói:
- Ta đãi nó như con, tất nó phải thờ ta như cha. Việc gì mà
loạn?
Vân Trường tỏ vẻ không bằng lòng. Huyền Đức bàn với Đan Phúc,
sai Triệu Vân đem một nghìn quân giữ Phàn Thành, còn mình thì dẫn quân về Tân
Dã.
Lại nói Tào Nhân, Lý Điển về Hứa Đô, vào ra mắt Tào Tháo,
khóc lạy xuống đất xin chịu tội và thuật đầu đuôi việc hao binh tổn tướng. Tháo
nói:
- Được thua là chuyện thường của nhà binh, nhưng không biết
ai bày mưu cho Lưu Bị?
Tào Nhân nói là mẹo của Đan Phúc. Tháo hỏi:
- Đan Phúc là người thế nào?
Trình Dục nói:
- Người ấy không phải là Đan Phúc. Thuở nhỏ hắn tập múa gươm.
Cuối năm Trung Bình (đời vua Linh đế) hắn giết người để báo thù cho kẻ khác, rồi
xoã tóc bôi nhọ mặt đi trốn. Bị nha lại tóm được, hắn không nói họ tên, liền bị
trói bỏ lên xe, đem đi rong chợ, đánh trống gọi loa cho dân phố nhận mặt. Cũng
có người biết, nhưng không ai dám nói. Sau được các bè bạn đánh tháo, cứu thoát
hắn ra. Hắn mới thay tên đổi họ, đi lánh nạn, gắng sức học hành, tìm kiếm danh
sư khắp nơi. Hắn thường đi lại đàm luận với Tư Mã Huy. Hắn quê ở Dĩnh Châu, tên
là Từ Thứ, tự là Nguyên Trực, Đan Phúc chỉ là họ tên giả của hắn thôi.
Tháo lại hỏi:
- Tài của Từ Thứ so với ngươi thế nào?
Dục thưa:
- Người ấy mười phần, Dục không lấy được một.
Tháo nói:
- Đáng tiếc hiền sĩ đều về với Lưu Bị cả; vây cánh y đã
thành, biết làm thế nào?
Dục đáp:
- Từ Thứ tuy ở với Lưu Bị, nhưng nếu thừa tướng muốn dùng, gọi
về cũng dễ.
Tháo hỏi:
- Làm thế nào dụ hắn về được?
Dục thưa:
- Từ Thứ là người chí hiếu. Bố mất sớm, chỉ còn mẹ già ở nhà.
Hiện nay em là Từ Khang đã mất, mẹ già không ai phụng dưỡng, thừa tướng nên sai
người lừa mẹ hắn đến Hứa Xương, rồi bắt mụ ấy viết thư gọi con về đây, chắc Từ
Thứ thế nào cũng phải nghe theo.
Tháo mừng lắm, sai người cấp tốc đi bắt mẹ Từ Thứ. Chẳng bao
lâu, quân bắt được mẹ Từ Thứ dẫn về. Tháo đối đãi rất tử tế, rồi bảo Từ mẫu rằng:
- Ta được biết Từ Nguyên Trực, con trai bà, là bậc kỳ tài
trong thiên hạ. Nay y ở Tân Dã, giúp tên nghịch thần Lưu Bị, phản bội triều
đình. Có khác nào viên ngọc quý rơi trong vũng bùn, thật đáng tiếc! Nay ta muốn
nhờ bà viết thư gọi y về Hứa Đô, ta sẽ tâu lên thiên tử, nhất định y sẽ được trọng
thưởng.
Rồi sai tả hữu lấy nghiên bút, giấy mực lại, bảo Từ mẫu viết
thư.
Từ mẫu hỏi:
- Lưu Bị là người thế nào?
Tháo đáp:
- Là một kẻ hèn mọn ở Bái Quận, mạo xưng là “hoàng thúc”, vốn
chẳng có tín nghĩa gì. Có thể nói ngoài vỏ là người quân tử, mà trong ruột là một
đứa tiểu nhân.
Từ mẫu đùng đùng nổi giận:
- Ngươi xảo quyệt đến thế là cùng! Từ lâu ta đã biết Huyền Đức
là con cháu Trung Sơn Tĩnh vương, cháu chắt Hiếu Cảnh hoáng đế. Ông ấy khiêm tốn,
quý trọng hiền sĩ, kính cẩn đãi người, tiếng nhân đức lừng lẫy khắp thiên hạ. Từ
già đến trẻ, từ kẻ chăn trâu đến người kiếm củi, ai cũng biết ông là một bậc
anh hùng đời nay. Con ta phò tá người ấy, thật là xứng đáng. Còn ngươi, tuy là
tướng nhà Hán, nhưng thực là giặc nhà Hán, lại còn dám bảo Huyền Đức là nghịch
thần? Ngươi định đẩy con ta bỏ chỗ sáng vào hang tối, há chẳng biết nhục lắm
sao?
Nói xong bà cầm ngay nghiên mực đá quẳng vào mặt Tào Tháo.
Tháo giận lắm, thét võ sĩ lôi Từ mẫu ra chém. Trình Dục vội can rằng:
- Từ mẫu nói xúc phạm đến thừa tướng, là cốt để tìm đường chết.
Nếu thừa tướng giết đi, không những mang tiếng bất nghĩa, mà lại đề cao cái đức
của Từ mẫu. Mẹ chết rồi, Từ Thứ tất đem hết tài trí ra giúp Lưu Bị để trả thù.
Chi bằng không giết, làm cho Từ Thứ thân ở một nơi, lòng nghĩ một nơi, dù có
giúp Lưu Bị cũng không tận sức. Hơn nữa, để Từ mẫu sống, Dục sẽ có kế lừa Từ Thứ
về đây giúp thừa tướng.
Tháo nghe lời, tha chém Từ mẫu và đem nuôi nấng ở riêng một
nhà. Trình Dục ngày ngày đến thăm hỏi, nói dối là anh em kết nghĩa với Từ Thứ,
ân cần phụng dưỡng chẳng khác mẹ đẻ. Thường thường Dục đem biếu Từ mẫu thứ nọ
thứ kia, lại kèm theo danh thiếp, Từ mẫu cũng gửi thiếp đáp lại. Dục bắt chước
đúng được lối chữ của Từ mẫu, liền viết một bức thư giả, sai người tâm phúc đem
sang Tân Dã, tìm đến hành dinh Đan Phúc.
Quân sĩ dẫn vào gặp Từ Thứ, Thứ biết tin có thư của mẹ vội gọi
vào và hỏi. Người đó thưa:
- Tôi là người hầu ở nhà khách, vâng lời của lão phu nhân,
mang trình ngài một phong thư.
Thứ bóc ra xem. Thư rằng:
“Gần đây, em con đã mất, mẹ thành tứ cố vô thân. Đang cơn sầu
thảm, không ngờ Tào thừa tướng đánh lừa đưa đến Hứa Xương, nói rằng con theo phản
Nguỵ, bắt mẹ giam cầm. May nhờ có bọn Trình Dục, mẹ mới được an toàn. Nếu con về
hàng, mẹ sẽ thoát chết. Nhận được thư này, con hãy nhớ ơn đức cù lao, gấp rút tới
đây cho toàn đạo hiếu. Rồi dần dà sẽ tính việc về quê cày cấy làm ăn, khỏi mắc
tai vạ. Tính mạng mẹ lúc này chẳng khác nghìn cân treo sợi tóc, chỉ mong chờ cứu
viện. Thư chẳng hết lời”.
Từ Thứ xem xong, nước mắt chứa chan, đem thư vào yết kiến Huyền
Đức, nói rằng:
- Tôi vốn người Dĩnh Châu, tên là Từ Thứ, tự Nguyên Trực, vì
lánh nạn phải đổi tên là Đan Phúc. Khi trước, nghe thấy Cảnh Thăng chiêu hiền nạp
sĩ cũng đã đến gặp, nhưng khi bàn việc, mới biết hắn là đồ vô dụng, nên viết
thư từ biệt. Đêm nọ, đến chơi nhà ông Thuỷ Kính, có kể lại chuyện ấy; Thuỷ Kính
trách tôi là người không biết chủ, và nói có Lưu Dự Châu ở đây, sao không đi
theo. Bởi thế, tôi mới đi hát rong ở chợ để động đến tai sứ quân, nay được sứ
quân tin dùng. Không ngờ lão mẫu bị Tào Tháo bày mưu lừa đến Hứa Xương sắp đem
sát hại. Mẹ tôi có viết thư lại gọi, tôi không thể không về. Không phải tôi
không muốn đem tài khuyển mã để báo đáp sứ quân, nhưng vì thân mẫu bị bắt,
không thể làm sao được. Nay xin từ biệt và mong có cơ hội gặp sứ quân sau.
Huyền Đức nghe nói, khóc rống lên:
- Tình nghĩa mẹ con là tính trời, Nguyên Trực đừng có nghĩ ngợi
gì đến Bị nữa. Đợi sau khi gặp lão phu nhân rồi, có thể Bị lại được nghe lời chỉ
bảo.
Từ Thứ lạy tạ muốn đi ngay. Huyền Đức nói:
- Xin hãy sum vầy một đêm, mai sẽ đi sớm.
Tôn Càn mật bảo Huyền Đức:
- Nguyên Trực là kỳ tài thiên hạ, lại ở Tân Dã đã lâu, tình
hình quân ta thế nào đều biết rõ cả. Nay nếu hắn về với Tào Tháo tất nhiên được
trọng dụng, nguy cho ta lắm. Chúa công phải cố lưu lại đừng cho đi. Tào Tháo thấy
hắn không đến tất đem giết mẹ hắn. Hắn biết mẹ chết, chắc phải báo thù, sẽ cố sức
đánh Tào Tháo.
Huyền Đức nói:
- Không được. Mượn tay người khác giết mẹ người ta để ta dùng
con là bất nhân; giữ người ta lại không cho đi để cắt đứt cái đạo mẹ con là bất
nghĩa. Ta thà chết chứ không khi nào làm những việc bất nhân bất nghĩa.
Ai nấy đều thán phục.
- Nay mẹ tôi còn ở trong ngục, dù nước vàng rượu ngọc cũng
không sao trôi vào cổ họng được.
Huyền Đức nói:
- Bị thấy ông sắp đi, như mất cả tay phải tay trái, dù gan rồng
tuỷ phượng, ăn cũng không ngon.
Hai người ngồi nhìn nhau, nước mắt tầm tã, chờ sáng. Các tướng
đã bày tiệc tiễn đưa ở ngoài cõi.
Huyền Đức, Từ Thứ cùng lên ngựa, hai ngựa sóng đôi ra ngoài
thành.
Đến cuối tràng đình, hai người xuống ngựa từ biệt nhau. Huyền
Đức bưng một chén rượu bảo Từ Thứ rằng:
- Bị nay phận mỏng duyên hèn, không được cùng tiên sinh tụ hội,
chúc tiên sinh khéo thờ chủ mới để chóng nên công danh.
Từ Thứ khóc, nói:
- Tôi tài nhỏ trí mọn, đội ơn sứ quân trọng dụng, nay chẳng
may nửa đường phải từ biệt, chỉ vì mẹ già mà thôi. Dù Tào Tháo có ép nài tôi
cũng thề trọn đời không bày một mưu kế gì cho y cả.
Huyền Đức đáp:
- Tiên sinh ra đi. Bị này cũng sẽ liệu đường tránh ẩn vào nơi
rừng rú.
Thứ nói:
- Tôi sở dĩ muốn cùng sứ quân mưu đồ nghiệp vương bá, là nhờ ở
tấm lòng này. Nay vì việc mẹ già, lòng tôi bối rối, dù cố gắng ở lại, cũng vô
ích. Sứ quân nên cầu người hiền khác cũng toan nghiệp lớn, việc gì mà đã vội
ngã lòng.
Huyền Đức thở dài nói:
- Cao hiền trong thiên hạ, còn có ai hơn tiên sinh!
Từ Thứ nói:
- Tôi tài trí tầm thường, không dám nhận lời khen ấy.
Lúc sắp đi, Từ Thứ ngoảnh lại nói với các tướng:
- Xin các ông hết lòng thờ sứ quân để tên tuổi ghi vào tre lụa[1],
sự nghiệp nêu trong sử xanh, đừng có như Thứ này là người hữu thuỷ vô chung.
Các tướng ai cũng thương cảm.
Huyền Đức không nỡ chia tay, tiễn hết cung đường này đến cung
đường khác.
Từ Thứ nói:
- Không dám phiền sứ quân đi tiễn xa quá. Đến đây, Thứ xin cáo
biệt.
Huyền Đức ngồi trên ngựa, cầm tay Từ Thứ nói:
- Tiên sinh chuyến này đi, mỗi người một phương trời, biết
ngày nào lại được gặp nhau?
Nói xong, nước mắt tuôn xuống như mưa. Thứ cũng khóc rồi cáo
biệt.
Huyền Đức dừng ngựa bên rừng, trông theo Từ Thứ và bọn tuỳ
tùng vội vã kéo đi, khóc mà nói:
- Nguyên Trực đi rồi, ta làm thế nào bây giờ?
Huyền Đức gạt nước mắt trông theo, lại bị rặng cây trước mặt
che khuất bèn lấy roi trỏ vào rừng, nói:
- Ta muốn chặt hết cây cối chỗ này đi!
Các tướng hỏi vì cớ gì? Huyền Đức nói:
- Cánh rừng này che khuất Nguyên Trực của ta.
Huyền Đức đang trông theo, chợt thấy Từ Thứ cưỡi ngựa quay lại.
Huyền Đức mừng rỡ, nghĩ thầm:
- Nguyên Trực quay lại, có lẽ không muốn đi chăng?
Liền hớn hở tế ngựa lên trước đón hỏi:
- Tiên sinh trở lại, hẳn là không định đi nữa?
Thứ ghìm ngựa nói với Huyền Đức:
- Lúc tôi ra đi, ruột rối bời bời, quên bẵng đi một việc:
Trong vùng này có một bậc kỳ tài ở tại Long Trung, cách Tương Dương hai mươi dặm,
sứ quân nên đến mà tìm.
Huyền Đức nói:
- Dám phiền Nguyên Trực mời giúp người đó ra cho Bị.
Thứ nói:
- Người đó không thể gọi ra được, sứ quân phải thân đến mà mời.
Nếu được người đó, không khác gì nhà Chu được Lã Vọng[2] nhà Hán được
Trương Lương[3].
Huyền Đức lại hỏi:
- Tài đức người đó so với tiên sinh thế nào?
Thứ đáp:
- Tôi mà so với người đó, khác nào ngựa hèn sánh với kỳ lân,
quạ đen sánh với phượng hoàng. Người đó thường ví mình với Quản Trọng[4], Nhạc
Nghị[5]. Cứ như ý tôi, Quản, Nhạc còn kém xa. Người đó có tài ngang trời dọc đất,
thiên hạ chắc chỉ có một không hai.
Lưu Bị mừng, hỏi:
- Xin cho biết tên họ người đó?
Thứ đáp:
- Người ấy quê ở Dương Đô, quận Lang Nha, họ Gia Cát tên Lượng,
tự Khổng Minh; vốn là dòng dõi nhà quan Tư lệ hiệu uý Gia Cát Phong ngày xưa.
Cha tên là Khuê, tự là Tử Cống, nguyên làm quận thừa ở Thái Sơn, mất sớm. Lượng
theo chú là Huyền, Huyền cùng với Lưu Biểu quen biết nhau, nên đến nương tựa, rồi
dựng nhà ở Tương Dương. Đến khi Huyền mất, Lượng mới cùng em là Gia Cát Quân ra
cày cấy, làm ăn ở Nam Dương, thường hay ngâm bài “Lương phủ ngâm” (Nhạc phủ).
Chỗ ở có trái núi Ngoạ Long Cương, nhân thế tự gọi là Ngoạ Long tiên sinh. Người
đó là bậc kỳ tài đệ nhất đời nay. Sứ quân phải chịu hạ mình đến đó mà gặp. Nếu
được ngưòi ấy giúp cho thì lo gì việc thiên hạ không định xong!
Huyền Đức nói:
- Ngày trước, Thuỷ Kính tiên sinh đã nói với Bị rằng: “Phục
Long, Phượng Sồ chỉ cần được một trong hai người cũng đủ định thiên hạ”. Nay
theo lời ông có phải người ấy là Phục Long hay Phượng Sồ không?
Thứ nói:
- Phượng Sồ là Bàng Thống ở Tương Dương, còn Phục Long chính
là Gia Cát Khổng Minh đó.
Huyền Đức mừng cuống lên, nói:
- Hôm nay mới hiểu được tiếng Phục Long, Phượng Sồ. Ngờ đâu đại
hiền ở ngay trước mắt, nếu tiên sinh không nói thì Bị có mắt cũng như mù.
Người đời sau có thơ khen Từ Thứ ruổi ngựa tiến Gia Cát.
Thơ rằng:
Rất tiếc cao hiền không tái ngộ
Trên đường từ biệt lệ tuôn đầy…
Một lời như sấm mùa xuân dậy
Thúc giục rồng nằm cất cánh bay.
Từ Thứ tiến cử Khổng Minh, rồi từ biệt Huyền Đức quay ngựa
đi.
Huyền Đức nghe theo Từ Thứ nói mới hiểu những lời của Tư Mã Đức
Tháo, lúc ấy như tỉnh được giấc ngủ mê, giải được cơn say rượu. Về đến nhà vội
vàng sắm lễ vật rất hậu, cùng Quan, Trương đến Nam Dương mời Khổng Minh.
Lại nói Từ Thứ từ biệt Huyền Đức, cảm tình lưu luyến, lại sợ
Khổng Minh không chịu ra giúp, nên đi thẳng đến Ngoạ Long Cương, vào lều tranh
gặp Khổng Minh. Khổng Minh hỏi đến làm gì. Thứ nói:
- Thứ muốn hết lòng thờ Lưu Dự Châu, chẳng may, mẹ già bị Tào
Tháo bắt giam, đưa thư đến gọi, nên phải bỏ mà đi. Lúc chia tay, tôi có tiến cử
tiên sinh. Thế nào nay mai Huyền Đức cũng đến đây yết kiến, mong tiên sinh đừng
từ chối, hãy trổ hết đại tài ra giúp Huyền Đức, Thứ cũng được cảm tạ muôn phần.
Khổng Minh nghe nói, ra vẻ giận, nói:
- Thế ra ngươi coi ta như là vật dùng để cúng tế có phải
không?
Nói xong, rũ vạt áo đi vào.
Từ Thứ bẽn lẽn đi ra, lên ngựa ruổi thẳng đến Hứa Xương gặp mẹ.
Một lời dặn bạn, vì yêu chủ
Ngàn dặm thăm nhà, bởi nhớ thân.
Chưa biết việc sau thế nào, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Chú thích:
1. Đời xưa chưa có giấy, thường ghi tên
tuổi những người có công đức vào mảnh tre hay vuông lụa.
2. Lã Vọng: tướng tài thời Tây Chu, giúp
Chu Vũ vương diệt nhà Thương.
3. Trương Lương: mưu sĩ nhà Hán.
4. Quản Trọng: nhà chính trị nước Tề, thời
Xuân thu.
5. Nhạc Nghị: thượng tướng quân nước
Yên, thời Chiến quốc.
La Quán Trung
Người dịch: Hồng Việt
Theo https://www.sachhayonline.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét