Tam quốc chí diễn nghĩa 5
Hồi 25:
Đóng Thổ Sơn, Quan Công giao ước ba việc
Cứu Bạch Mã, Tào Tháo thoát khỏi vòng vây
- Vân Trường sức địch muôn người, phi dùng mưu trí không sao
đánh nổi. Nay nên sai một số quân của Lưu Bị mới hàng vào Hạ Phì ra mắt Quan
Vũ, nói dối là trốn về được, cho phục ở trong thành làm nội ứng; rồi dử Quan Vũ
ra đánh nhau, ta giả cách thua chạy, dử hắn ra nơi khác, đem tinh binh chẹn hẳn
đường về, bấy giờ mới có thể dụ hắn quy hàng.
Tháo theo kế ấy, cho ngay vài chục hàng binh đến Hạ Phì vào
hàng Quan Công. Quan Công cho là quân cũ, không hồ nghi gì cả.
Hôm sau Hạ Hầu Đôn lĩnh năm nghìn quân đến thách đánh. Quan
Công không ra. Đôn sai quân ở dưới thành sỉ nhục mắng nhiếc. Quan Công mới nổi
giận dẫn ba nghìn quân ra ngoài thành giao chiến. Đánh được hơn mười hiệp, Hạ Hầu
Đôn quay ngựa chạy. Quan Công đuổi miết, Đôn vừa đánh vừa chạy.
Quan Công đuổi được độ hai mươi dặm, sợ Hạ Phì không có ai giữ
nổi, kéo quân trở về. Bỗng nghe một tiếng pháo nổ, bên tả có Từ Hoảng, bên hữu
có Hứa Chử, hai đạo quân chẹn ngang đường đi. Quan Công cứ cắm đầu chạy về,
quân phục hai bên lại đổ ra, nỏ cứng trăm chiếc bắn tên như châu chấu. Quan
Công không thể nào đi được, phải quay ngựa lại. Từ Hoảng, Hứa Chử lại đón đánh.
Quan Công cố hết sức đánh lui hai người, đang định dẫn quân về Hạ Phì, Hạ Hầu
Đôn lại đánh chặn lại. Quan Công đánh mãi đến chiều, không có đường về, phải
lên quả núi đất đóng quân tạm nghỉ. Quân Tào kéo đến, lần lượt vây vòng quanh
quả núi đất.
Quan Công đứng trên ngọn núi, trông xa về Hạ Phì, thấy trong
cửa thành lửa cháy ngùn ngụt. Đó là những quân trá hàng mở trộm cửa thành, Tào
Tháo dẫn quân vào, rồi lại đốt lửa lên để làm cho Quan Công trông thấy rối ruột.
Quan Công thấy thành Hạ Phì lửa cháy, trong lòng lo sợ, đang
đêm mấy lần xông xuống núi đều bị tên bắn phải quay lại.
Đến sáng, đang sắp sửa xông xuống chân núi, chợt có một tướng
tế ngựa trèo lên, nhìn ra là Trương Liêu.
Quan Công đón hỏi:
- Văn Viễn đến đây định đánh nhau với ta chăng?
Liêu đáp:
- Đâu phải thế! Liêu này nghĩ tình cố nhân ngày xưa, lên đây
gặp nhau đó thôi.
Nói rồi bỏ đao xuống ngựa, thi lễ xong, ngồi trên đỉnh núi
nói chuyện.
Quan Công nói:
- Văn Viễn đến dụ mỗ chăng?
Liêu đáp:
- Không phải thế! Ngày trước nhờ anh cứu em, ngày nay sao em
lại không cứu anh?
Quan Công nói:
- Thế Văn Viễn đến đây định giúp ta chăng?
Liêu nói:
- Cũng không phải.
Quan Công nói:
- Nếu không giúp ta, thì đến làm gì?
Liêu nói:
- Huyền Đức không biết còn hay mất; Dực Đức không biết sống
hay chết. Đêm qua Tào công đã phá được Hạ Phì, quân dân đều an toàn. Tào công lại
sai người giữ gìn gia quyến Huyền Đức, cấm không cho ai vào quấy nhiễu, đối đãi
thực tử tế, em đến để báo tin cho anh biết.
Quan Công giận nói:
- Thế là đến dụ ta, nay tuy hết đường đất, ta vẫn coi cái chết
như không. Ngươi đi ngay, ta sẽ xuống chân núi đánh nhau bây giờ.
Trương Liêu cười nói:
- Anh nói thế, không sợ thiên hạ người ta cười cho à?
Quan Công nói:
- Ta vì trung nghĩa mà chết, thiên hạ sao lại cười ta?
Liêu nói:
- Anh chết bây giờ thì mắc ba tội.
Quan Công hỏi:
- Ba tội là những tội gì?
Liêu nói:
- Khi trước Lưu sứ quân cùng anh kết nghĩa, có thể với nhau
cùng sống thác. Nay sứ quân vừa mới thua, mà anh đi đánh liều cố lấy cái chết,
nếu sứ quân hãy còn, muốn tìm anh mà không tìm thấy, chẳng hoá ra phụ lời thề
năm trước ru? Thế là một tội. Lưu sứ quân đem vợ con phó thác cho anh, anh nay
liều mình chịu chết, hai phu nhân nương tựa vào đâu, há chẳng phụ lời phó thác
của Lưu sứ quân ru? Thế là hai tội. Đại huynh võ nghệ siêu quần, tinh thông
kinh sử, không nghĩ cùng sứ quân giúp nhà Hán, lại tự nhảy vào nước sôi lửa
cháy, mua lấy cái tiếng mạnh bạo của một kẻ vũ phu, sao gọi là nghĩa? Thế là ba
tội. Anh mắc ba tội ấy nên em phải bảo.
Quan Công ngồi nghĩ một lúc, rồi nói:
- Ngươi nói ta ba tội ấy, thế ngươi muốn bảo ta phải làm thế
nào?
Liêu nói:
- Nay bốn mặt đều là quân Tào công vây kín cả. Nếu anh không
hàng thì phải chết. Chết mà vô ích thì hãy hàng đi, rồi sẽ nghe ngóng tin tức
Lưu Huyền Đức. Khi biết được sứ quân ở đâu, bấy giờ lại đi theo, một là bảo
toàn được hai phu nhân, hai là không trái ước vườn đào, ba là lưu lại được cái
thân hữu dụng. Có ba điều tiện như thế, xin anh nghĩ lại cho kỹ.
Quan Công nói:
- Anh nói ba điều tiện, tôi cũng có ba điều giao ước. Nếu thừa
tướng nghe cho, tôi xin lập tức cởi giáp lại hàng; nhược bằng không nghe, tôi
đành chịu ba tội mà chết.
Liêu nói:
- Thừa tướng đại lượng khoan hồng, thế nào chắc ngài cũng
nghe, xin cho biết ba điều ước.
Quan Công nói:
- Một là: ta đã cùng hoàng thúc xin thề cùng nhau giúp nhà
Hán, nay ta chỉ hàng vua nhà Hán, không hàng Tào Tháo. Hai là: hai chị dâu ta
phải được cấp dưỡng theo bổng lộc của hoàng thúc, nhất thiết người ngoài không
ai được đến cửa. Ba là: hễ ta nghe thấy hoàng thúc ở đâu, không quản trăm dặm
nghìn dặm, lập tức ta cáo từ, rồi đi theo. Ba điều ấy nếu thiếu một điều ta nhất
định không hàng, xin Văn Viễn mau mau về trình với thừa tướng.
Trương Liêu thưa vâng, lên ngay ngựa về gặp Tào Tháo, trước hết
nói việc hàng Hán không hàng Tháo. Tháo nói:
- Ta là tướng nhà Hán, Hán tức là ta. Việc ấy theo được.
Liêu lại xin cho hai phu nhân được hưởng lộc của hoàng thúc
và không ai được vào đến cửa.
Tháo nói:
- Ta sẽ cấp cho gấp hai lương bổng của hoàng thúc. Còn như việc
nghiêm cấm trong ngoài, vốn là gia pháp phải thế, việc gì phải nói nữa.
Liêu mới nói đến khoản thứ ba: hễ khi nào biết tin Huyền Đức ở
đâu, dù xa thế nào cũng đi theo ngay.
Tháo lắc đầu nói:
- Thế thì ta nuôi Vân Trường để làm gì? Việc này khó theo đấy.
Liêu nói:
- Thừa tướng không nhớ lời bàn chúng nhân và quốc sĩ của Dự
Nhượng[1] ngày xưa hay sao? Như Huyền Đức đãi Quan Vũ chẳng qua chỉ lấy hậu
ân mà thôi. Nay thừa tướng đối đãi thật hậu hơn, lo gì Quan Vũ chẳng phục?
Tháo nói:
- Văn Viễn nói chí phải. Ta ưng cả ba điều.
Liêu vội lên núi bảo cho Quan Công biết, Quan Công nói:
- Đã đành như thế rồi, xin thừa tướng hãy tạm lui binh, để
tôi vào thành bẩm với hai chị, rồi sau mới xin hàng.
Liêu về bẩm lại, Tháo liền truyền lệnh lui quân ba mươi dặm.
Tuân Úc nói:
- Không nên, e nó nói dối.
Tháo nói:
- Vân Trường là người nghĩa sĩ, chắc không thất tín.
Rồi cứ truyền lệnh rút quân.
Quan Công dẫn binh vào thành, thấy nhân dân yên ổn cả, đến
ngay vào phủ, vào yết kiến hai chị. Cam, My, hai phu nhân nghe Quan Công đã về,
vội ra đón vào. Quan Công lạy ở dưới thềm, nói:
- Để cho hai chị sợ hãi ấy là tội em.
Hai phu nhân hỏi:
- Hoàng thúc bây giờ ở đâu?
Quan Công nói:
- Không biết ở đâu.
Hai phu nhân lại hỏi:
- Bây giờ chú định thế nào.
Quan Công nói:
- Em ra thành đánh nhau, bị vây ở trên núi, Trương Liêu
khuyên em ra hàng, em có ước ba điều, Tào Tháo nghe cả ba, nên mới rút quân, để
em vào thành. Em chưa được biết ý định của hai chị, chưa dám tự tiện.
Hai phu nhân hỏi:
- Ba điều ước là những điều gì?
Quan Công thuật rõ lại ba điều ước. Cam phu nhân nói:
- Hôm trước quân Tào vào thành, chúng tôi tưởng là chết cả,
ai ngờ cái tơ cái tóc không động đến; một đứa quân cũng không dám vào cửa. Nay
chú đã hứa với người, không cần phải hỏi lại chúng tôi. Chỉ sợ Tào Tháo về sau
không để cho chú đi tìm hoàng thúc thôi.
Quan Công nói:
- Xin hai chị yên tâm, em đã có chủ ý.
Hai phu nhân nói:
- Chú cố lo liệu, bất tất phải hỏi bọn đàn bà chúng tôi.
Quan Công từ tạ trở ra, dẫn vài mươi tên kỵ mã đến ra mắt Tào
Tháo; Tháo ra ngoài nha môn tiếp vào. Quan Công xuống ngựa vào lạy, Tháo vội
vàng đáp lễ, Quan Công nói:
- Tôi là bại tướng, không bị giết, đội ơn ngài nhiều lắm.
Tháo nói:
- Tôi vốn mến Vân Trường là người trung nghĩa, nay được trông
thấy, thực là hả lòng mong mỏi bấy nay.
Quan Công nói:
- Văn Viễn bẩm cho ba việc, đã được thừa tướng ưng thuận, chắc
là thừa tướng không sai lời.
Tháo đáp:
- Ta đã nói quyết không thất tín.
Quan Công lại thưa:
- Nếu tôi biết được hoàng thúc ở đâu, dù lên thác xuống ghềnh,
lăn sông, qua lửa cũng phải đi theo. Bấy giờ sợ không kịp bái từ, xin thừa tướng
lượng thứ cho.
Tháo đáp:
- Huyền Đức nếu còn sống, ông cứ đi theo. Nhưng chỉ sợ Huyền
Đức mất trong loạn quân rồi. Ông cứ yên tâm, nghe ngóng xem đã.
Tháo mở tiệc yến khoản đãi. Hôm sau rút quân về Hứa Xương.
Quan Công thu xếp ra trượng, mời hai chị lên xe, tự mình đi hộ vệ. Khi đi đường,
nghỉ ở xá, Tháo muốn làm rối loạn lễ vua tôi, để Quan Công và hai chị dâu cùng ở
một nhà. Quan Công cầm đuốc đứng hầu ngoài cửa, tự tối đến sáng, sắc mặt không
lúc nào có dáng mỏi mệt. Tào Tháo thấy thế lại càng kính phục. Về đến Hứa
Xương, Tháo sai sửa sang ngay thừa phủ để Quan Công ở. Quan Công chia một nhà
làm hai viện, viện trong sai mười người lính già canh cửa. Quan Công thì ở nhà
ngoài. Tháo dẫn Quan Công vào chầu vua Hiến đế. Vua cho làm thiên tướng quân;
Quan Công tạ ơn rồi về.
Hôm sau, Tháo mở tiệc lớn, hội cả mưu thần võ sĩ, lấy lễ
khách đãi Quan Công, mời đến ngồi trên; lại tặng gấm vóc và những đồ vàng bạc,
Quan Công đem về nhờ hai chị thu giữ.
Từ khi Quan Công đến Hứa Xương, Tháo đãi rất hậu. Ba ngày một
tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn; lại đưa mười người con gái đẹp để hầu. Quan
Công đều đưa vào nhà trong để hầu hai chị. Cứ ba ngày một lần đứng cửa ngoài chắp
tay kính cẩn, hỏi thăm sức khoẻ hai chị.
My phu nhân hỏi thăm về tin tức hoàng thúc, bao giờ hỏi xong
cũng nói: “Chú cứ tuỳ tiện”. Bấy giờ Quan Công mới dám lui về.
Tháo nghe thấy thế càng kính phục lắm.
Một hôm thấy Quan Công mặc áo chiến bào bằng gấm xanh, đã cũ
bạc, Tháo truyền ngay lệnh đo người Quan Công, may một chiếc khăn chiến bào bằng
gấm thực quý để tặng. Quan Công lĩnh lấy, mặc vào trong, rồi lại lấy áo cũ mặc
phủ ra ngoài.
Tháo cười mà nói rằng:
- Vân Trường hà tiện quá!
Quan Công đáp:
- Bẩm không phải là hà tiện. Áo cũ của Lưu hoàng thúc cho,
tôi mặc ở ngoài như nhìn thấy mặt anh, dám đâu vì cái mới của thừa tướng vừa
ban cho mà đã quên cái cũ của anh tôi đã cho từ trước, nên phải mặc áo cũ ra
ngoài là thế.
Tháo khen:
- Thực là nghĩa sĩ!
Miệng tuy khen, nhưng Tháo không bằng lòng.
Một bữa Quan Công đang ở trướng phủ, chợt có người báo:
- Hai phu nhân ở nhà trong, tự dưng khóc lăn cả xuống đất, mời
tướng quân vào ngay.
Quan Công mặc áo tử tế, vào quỳ ngoài cửa nhà trong, hỏi:
- Hai chị có việc chi mà than khóc?
Cam phu nhân nói:
- Đêm hôm qua tôi mơ thấy hoàng thúc bị hãm ở dưới hố đất, tỉnh
dậy bàn với My phu nhân, e rằng hoàng thúc đã ở dưới chín suối, cho nên thương
khóc.
Quan Công nói:
- Việc mộng mị không nên tin. Vì hai chị tưởng nhớ, nên mơ thấy
thế, xin hai chị đừng lo nghĩ.
Đương chuyện trò, có sứ Tào Tháo đến mời Quan Công vào phủ ăn
yến.
Quan Công cáo từ hai chị, đến gặp Tào Tháo. Tháo thấy Quan
Công có ngấn nước mắt, hỏi cớ làm sao. Quan Công nói:
- Hai chị tôi nhớ anh tôi mà than khóc, cho nên tôi cũng động
lòng.
Tháo cười, lấy lời khuyên giải, mời uống rượu luôn. Quan Công
uống say, vuốt râu nói:
- Sống không báo được ân nhà nước, lại phụ cả anh, cũng là
người bỏ đi.
Tháo hỏi:
- Râu Vân Trường ước được bao nhiêu sợi?
Quan Công thưa:
- Được độ vài trăm sợi, cứ mỗi năm đến mùa thu lại rụng mất
dăm ba cái; đến mùa đông phải lấy cái túi the thâm bọc lấy, để cho nó đỡ rụng.
Tháo sai ngay lấy gấm may một cái túi, biếu Quan Công để bọc
râu.
Sáng sớm hôm sau Quan Vũ vào chầu vua.
Vua thấy trước ngực đeo một cái túi gấm, phán hỏi. Quan Công
tâu rằng:
- Râu tôi hơi dài, thừa tướng cho túi để bọc lại.
Vua sai đứng trước điện mở ra vuốt xem, thì thấy râu dài quá
bụng. Vua phán rằng:
- Thực là ông tốt râu!
Từ đấy ai cũng gọi Quan Công là “Ông tốt râu”.
Một hôm Tháo mời Quan Công ăn yến. Lúc tiệc tan, tiễn Quan
Công ra đến cửa tướng phủ, thấy ngựa Quan Công gầy quá, Tháo hỏi:
- Ngựa ông sao gầy thế?
Quan đáp:
- Người tôi hơi nặng, ngựa không mang nổi, bởi thế nên nó gầy.
Tháo sai tả hữu ra chọn một con ngựa. Một lát dắt đến. Con ngựa
ấy sắc đỏ như lửa, trông dáng rất hùng dũng. Tháo trỏ ngựa hỏi:
- Ông biết con ngựa này không?
Quan Công nói:
- Bẩm có phải là ngựa Xích thố của Lã Bố vẫn cưỡi khi xưa
không?
Tháo nói:
- Chính phải!
Rồi truyền thắng đủ yên cương, đưa tặng Quan Công. Quan Công
lạy hai lạy tạ ơn. Tháo không bằng lòng nói:
- Ta mấy lần đem con gái đẹp, vàng, bạc tặng ông, ông không lạy
tạ bao giờ. Nay ta cho con ngựa lại tạ ta hai lạy. Sao lại khinh ngươi khinh của
mà quý một con súc vật thế?
Quan Công đáp:
- Tôi biết ngựa này một ngày đi được nghìn dặm, nay thừa tướng
cho tôi, nếu biết được anh tôi ở đâu, có thế một ngày được thấy mặt nhau.
Tháo nghe nói, ngạc nhiên, nghĩ lại mà hối.
Quan Công cáo từ ra về.
Đời sau có thơ rằng:
Lẫy lừng ba nước tiếng anh hào,
Một viện chia đôi nghĩa khí cao.
Gian tướng uổng công chiều chuộng hão,
Biết đâu Quan Vũ chẳng hàng Tào?
Tháo hỏi Trương Liêu:
- Ta đãi Vân Trường rất hậu, sao hắn vẫn có bụng muốn đi?
Liêu xin đến dò xem tình ý ra sao. Hôm sau đến gặp Quan Công,
Liêu hỏi:
- Từ khi tôi tiến cử anh lên thừa tướng, không khi nào bị người
bạc đãi…
Quan Công đáp:
- Tôi rất cảm ơn sâu của thừa tướng, nhưng người ở đây mà bụng
lúc nào cũng nhớ hoàng thúc, không bao giờ quên.
Liêu nói:
- Anh nói sai, ở đời không cân nhắc bên trọng bên khinh,
không phải là trượng phu. Huyền Đức đãi đại huynh chưa chắc đã hậu hơn thừa tướng,
sao anh cứ muốn đi?
Quan Công đáp:
- Tôi vẫn biết Tào công đãi tôi hậu lắm, nhưng tôi đã chịu hậu
ơn của hoàng thúc, thề cùng sống chết không thể nào phụ lời được. Tôi quyết
không ở mãi đây. Nhưng trước hết phải lập công để báo ơn thừa tướng, rồi sau mới
đi.
Liêu lại hỏi:
- Phỏng như Huyền Đức chết mất rồi, thì đại huynh về với ai?
Quan Công đáp:
- Xin theo xuống dưới đất!
Liêu biết không thể nào giữ được Quan Công, bèn về bẩm lại với
Tào Tháo.
Tháo than:
- Thờ chúa không quên gốc, thật là nghĩa sĩ trong thiên hạ!
Tuân Úc nói rằng:
- Hắn nói lập công rồi mới đi chi bằng ta không sai đi lập
công, vị tất hắn đã đi được.
Tháo cho là phải.
Nay nói chuyện Huyền Đức ở chỗ Viên Thiệu, sớm tối buồn rầu.
Viên Thiệu hỏi:
- Huyền Đức sao lo buồn thế?
Huyền Đức nói:
- Hai em không biết tin tức, vợ con lại bị hãm trong quân
Tào, trên không báo được nước, dưới không giữ được nhà, làm thế nào không lo được?
Thiệu hỏi:
- Ta muốn tiến quân vào Hứa Đô đã lâu. Nay đương mùa xuân ấm
áp, nên cất quân đi.
Liền họp bàn mưu kế đánh Tào Tháo. Điền Phong can rằng:
- Trước Tào Tháo đánh Từ Châu, Hứa Đô bỏ trống chẳng nhân lúc
ấy tiến quân; nay Từ Châu bị phá, thế Tào đang mạnh, không nên khinh địch.
Không bằng thong thả, đợi lúc nào có dịp tốt hãy hay.
Thiệu nói:
- Để ta nghĩ đã.
Nhân hỏi Huyền Đức:
- Điền Phong khuyên ta cố thủ, ông nghĩ thế nào?
Huyền Đức nói:
- Tào Tháo là giặc dối vua, nếu minh công không đánh, sợ mất
nghĩa lớn với thiên hạ.
Thiệu nói:
- Huyền Đức nói phải lắm!
Rồi muốn khởi binh ngay, Điền Phong lại can.
Thiệu giận nói:
- Các ngươi hợm văn khinh võ, để làm tao mất nghĩa lớn hay
sao?
Điền Phong dập đầu xuống đất nói:
- Nếu không nghe lời nói phải của tôi, phen này xuất quân tất
bất lợi.
Thiệu nổi giận toan chém Điền Phong, Huyền Đức cố can mới
thôi, nhưng bắt Điền Phong bỏ ngục.
Thư Thụ thấy Điền Phong phải giam vào ngục, bèn họp cả họ
hàng phân tán hết gia tài và nói:
- Tôi chuyến này theo đi đánh giặc, được thì oai danh lừng lẫy,
thua thì một chân cũng khó giữ được vẹn toàn.
Họ hàng ai cũng rỏ nước mắt đi tiễn.
Thiệu sai đại tướng là Nhan Lương làm tiên phong, tiến quân
lên đánh xứ Bạch Mã. Thư Thụ can rằng:
- Nhan Lương tuy là tướng khoẻ, nhưng tính khí hẹp hòi, không
nên cho đi một mình.
Thiệu nói:
- Thượng tướng của ta, các ngươi biết gì!
Khi đại quân tiến đến Lê Dương, thái thú ở Đông Quận là Lưu
Diên cáo cấp về Hứa Đô.
Tào Tháo kịp bàn đem quân ra địch. Quan Công nghe tin, vào
ngay tướng phủ thưa với Tào Tháo:
- Nghe thừa tướng khởi binh, tôi xin đi làm tiền bộ.
- Tôi chưa dám phiền đến tướng quân, nay mai có việc, sẽ lại
mời.
Quan Công lui về.
Tháo dẫn mười lăm vạn quân chia ra làm ba đội xuất phát. Đi
đường lại tiếp liền mấy lá thư cấp báo của Lưu Diên. Tháo đem năm vạn quân đi
trước, thẳng đến Bạch Mã dựa vào núi đất đóng quân, trông xa thấy cả một cánh đồng
rộng, mười vạn tiền bộ tinh binh của Nhan Lương đều đã dàn thành trận thế.
Tháo khiếp sợ, ngoảnh lại bảo Tống Hiến (nguyên là tướng của
Lã Bố trước):
- Ta nghe ngươi là tướng giỏi của Lã Bố, nay nên thử ra đấu với
Nhan Lương.
Tống Hiến dạ một tiếng, vác giáo lên ngựa, xông thẳng ra trận.
Nhan Lương cầm ngang giáo, cưỡi ngựa ra thẳng cửa trận. Thấy ngựa Tống Hiến đến,
Lương quát to một tiếng, rồi tế ngựa ra đánh. Chưa được ba hiệp, Lương đã đâm
chết Tống Hiến ở trước trận.
Tào Tháo thất kinh nói:
- Thật là dũng tướng!
Nguỵ Tục nói:
- Lương giết người bạn của tôi, xin ra đánh báo thù.
Tháo cho đi. Tục ra đến nơi chỉ đánh nhau mới được một hiệp,
cũng bị Lương chém chết.
Tháo hỏi:
- Ai dám ra địch lại?
Từ Hoảng nghe nói, ra ngay đánh nhau với Nhan Lương. Được hai
mươi hiệp thua chạy về. Các tướng đều ghê sợ cả. Tào Tháo thu quân, Nhan Lương
cũng lui quân về.
Tháo thấy mất liền hai tướng một lúc, trong lòng lo buồn.
Trình Dục nói:
- Tôi xin cử một người địch nổi Nhan Lương.
Tháo hỏi ai. Dục nói:
- Phi Quan Vân Trường, không ai đánh nổi.
Tháo nói:
- Ta chỉ sợ hắn lập được công rồi đi mất.
Dục nói:
- Thừa tướng đừng lo. Lưu Bị nếu còn sống thì tất ở bên Viên
Thiệu. Nay sai Vân Trường phá quân Thiệu, Thiệu tất nghi Lưu Bị mà giết đi. Lưu
Bị chết rồi, Vân Trường còn đi đâu nữa?
Tháo mừng lắm, sai người mời Quan Công.
Quan Công vào từ hai chị. Hai phu nhân nói rằng:
- Chuyến này chú đi, nên thăm dò tin hoàng thúc.
Quan Công vâng lời, đi ra, cắp thanh long đao, cưỡi ngựa Xích
thố, dẫn vài người tuỳ tùng đi thẳng đến Bạch Mã, vào ra mắt Tào Tháo. Tháo
nói:
- Nhan Lương vừa giết liền hai tướng, không ai địch nổi, nên
mời Quan Công đến bàn.
Quan Công nói:
- Vâng, để tôi xem.
Tháo đặt cuộc rượu khoản đãi. Chợt có người báo Nhan Lương lại
đến khiêu chiến. Tháo dẫn Quan Công lên núi đất đứng xem.
Tháo cùng Quan Công ngồi, các tướng đứng hầu chung quanh. Tào
Tháo trỏ xuống thế trận của Nhan Lương ở dưới núi, cờ xí đỏ ối, gươm giáo sáng
quắc, trận bày cực kỳ nghiêm chỉnh, mà bảo Quan Công:
- Quân mã Hà Bắc hùng tráng lắm nhỉ!
Quan Công nói:
- Tôi coi chẳng khác gì gà bằng đất, chó bằng ngói!
Tháo lại trỏ bảo:
- Kìa! Ở dưới cái lọng, người mặc bào vóc, giáp vàng, cầm dao
cưỡi ngựa là Nhan Lương đó.
Quan Công liếc mắt trông xuống, rồi nói với Tào Tháo:
- Tôi trông bộ nó, như là cái đầu cắm trên cái sào để đem bán
vậy!
Tháo nói:
- Không nên khinh thường!
Quan Công nói:
- Tôi tuy bất tài, xin lấy đầu hắn trong đám vạn quân kia,
đem về dâng thừa tướng.
Trương Liêu nói:
- Trong quân không nói đùa, Vân Trường chớ nên khinh thị.
Quân Công nhảy phắt lên ngựa, cắp ngược thanh long đao, tế xuống
núi, mắt phượng trợn lên, mày tằm dựng ngược, xông thẳng vào trận bên kia, đi đến
đâu quân Hà Bắc tự rẽ như sóng dưới nước. Quan Công đến thẳng chỗ Nhan Lương.
Lương đang đứng dưới lọng, thấy Quan Công đến, vừa muốn hỏi thì ngựa Xích thố
chạy mau đã đến trước mặt. Nhan Lương trở tay chưa kịp, Quan Công đưa một lưỡi
đao, Lương chết ngay dưới chân ngựa. Quan Công liền nhảy xuống đất, chặt lấy đầu,
buộc vào cổ ngựa, rồi lên ngựa cầm đao từ trong trận phi ra như đi chỗ không
người. Binh tướng Hà Bắc kinh hoảng, chưa đánh đã rối loạn. Quân Tào thừa thế
đuổi đánh, giết hại không biết bao nhiêu; ngựa, khí giới, quân Tào cướp được rất
nhiều.
Quan Công tế ngựa lên núi, các tướng đều khen ngợi. Quan Công
đem đầu Nhan Lương đặt trước mặt Tào Tháo. Tháo nói:
- Tướng quân thực là một người thần!
Quan Công đáp:
- Tôi thấm vào đâu. Em tôi là Trương Dực Đức còn có thể ở
trong đám quân trăm vạn lấy đầu thượng tướng dễ như lấy vật gì trong túi.
Tháo nghe cả sợ, ngoảnh lại dặn các tướng:
- Từ nay về sau có gặp Trương Dực Đức ở đâu, thì chớ có khinh
địch.
Và sai các tướng viết vào vạt áo để ghi nhớ.
Quân Nhan Lương thua, chạy về đến nửa đường gặp Viên Thiệu,
báo là có một tướng mặt đỏ râu dài, cầm đại đao, một mình cưỡi ngựa vào trận,
chém chết Nhan Lương rồi, cho nên thua to.
Thiệu giật mình hỏi:
- Người ấy là ai?
Thư Thụ thưa:
- Hẳn là Quan Vân Trường, em Huyền Đức.
Thiệu nổi giận trỏ vào Huyền Đức nói:
- Thế ra em ngươi chém chết tướng yêu của ta, ngươi tất thông
mưu, vậy để ngươi ở đây làm gì?
Liền thét đao phủ lôi Huyền Đức ra chém.
Ấy mới là:
Vừa là khách quý ngồi trên ghế
Thoắt đã thằng tù đứng dưới sân
Chưa biết tính mệnh Lưu Bị làm sao, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Chú thích:
1. Dự Nhượng người đời Chiến quốc, trước
thờ họ Phạm, sau bỏ đi theo Trí Bá. Trí Bá bị Triệu Tương tử giết; Dự Nhượng định
giết Tương tử để báo thù cho Trí Bá, nhưng bị Tương tử bắt được. Tương tử hỏi:
“Ngươi đã thờ cả hai người, sao chỉ báo thù cho một người?” Dự Nhượng nói: “Họ
Phạm đãi ta như người thường, cho nên ta lấy người thường đáp lại; còn Trí Bá
đãi ta như quốc sĩ, cho nên ta lấy quốc sĩ đáp lại”.
Hồi 26:
Viên Bản Sơ hao binh tổn tướng
Quan Vân Trường treo ấn gói vàng
Viên Thiệu toan chém Huyền Đức. Huyền Đức khoan thai bước lên
nói:
- Minh công chỉ nghe một lời mà muốn dứt tình ngay? Bị từ khi
ở Từ Châu thất tán, em là Quan Vũ không biết còn hay mất; thiên hạ người giống
mặt nhau không ít, chắc đâu tướng mặt đỏ râu dài là Vân Trường, minh công sao
không xét cho kỹ?
Viên Thiệu vốn là người hay do dự, nghe Huyền Đức nói bèn
trách Thư Thụ:
- Tý nữa ta nghe lời ngươi, giết mất người hiền.
Rồi lại mời Lưu Bị lên trướng ngồi, bàn cách báo thù cho Nhan
Lương. Dưới trướng có một người tiến lên nói:
- Nhan Lương với tôi như anh em, nay Lương bị giết, tôi phải
rửa hận.
Người ấy mình cao tám thước, mặt như mặt con giải trũi[1] tên
Văn Sú, là danh tướng ở Hà Bắc. Thiệu mừng nói:
- Phi người không ai báo được thù cho Nhan Lương. Ta cho đem
mười vạn quân, qua ngay Hoàng Hà, đuổi giết quân Tào.
Thư Thụ nói:
- Không nên. Nay nên đóng quân ở bến Diên Tân rồi chia một nửa
sang bên Quan Độ, mới thực là thượng sách. Nếu đem cả binh sang sông, phỏng thử
có điều gì, thì rút về làm sao được?
Thiệu mắng:
- Chỉ vì các ngươi làm trì hoãn lòng quân, kéo dài ngày tháng
để lỡ việc lớn đó thôi. Ngươi há lại không biết câu: “Binh quý thần tốc” hay
sao?
Thư Thụ trở ra, than rằng:
- Người trên thì kiêu căng, kẻ dưới thì tham công; nước sông
Hoàng Hà chảy cuồn cuộn, ta cũng đành liều chăng!
Rồi cáo bệnh, không ra bàn việc quân nữa.
Huyền Đức nói:
- Bị đội ơn lớn, chưa lấy gì báo đáp, nay muốn cùng đi với
Văn tướng quân, trước là để báo đáp minh công, sau là để dò xem tin tức Vân Trường.
Thiệu ưng ý, sai Văn Sú cùng Huyền Đức lĩnh tiền bộ, Sú nói:
- Huyền Đức là tướng bị thua luôn, cho ra quân không lợi. Nay
chúa công muốn cho ông ấy cùng đi, tôi xin chia ba vạn quân để ông ta đi sau
làm hậu bộ.
Bởi thế Văn Sú lĩnh bảy vạn đi trước, Huyền Đức lĩnh ba vạn
đi sau.
Đây nói Tào Tháo từ khi thấy Quan Công chém được Nhan Lương,
lại càng kính trọng lắm, làm biểu tâu lên triều đình, phong cho Vân Trường là
Hán Thọ đình hầu, đúc ấn giao cho Quan Công.
Chợt có tin báo: Viên Thiệu lại sai đại tướng là Văn Sú sang
sông Hoàng Hà, hiện đã đóng quân ở bến Diên Tân.
Tháo sai người đem dân cư ở đó dời sang phía tây sông, rồi
đem quân ra đánh, truyền lệnh lấy hậu quân làm tiền quân, lấy tiền quân làm hậu
quân, lương thảo cho đi trước, binh lính kéo đi sau.
Lã Kiền hỏi:
- Lương đi trước, quân đi sau là ý làm sao?
Tháo nói:
- Lương thảo đi sau, bị cướp mất nhiều, nên cho đi trước.
Kiền lại hỏi:
- Thế lúc giặc đến, thì làm thế nào?
Tháo nói:
- Bấy giờ sẽ liệu.
Kiền trong bụng nghi hoặc, không hiểu. Tào Tháo cứ sai chở
lương thảo và các xem đồ đi men sông đến Diên Tân. Tháo ở hậu quân, nghe thấy
tiền quân reo hò, vội cho người ra xem, mọi người đều báo:
- Văn Sú dẫn binh lại, quân ta đều bỏ cả lương thảo, bốn mặt
chạy tán loạn, hậu quân thì ở xa, bây giờ làm thế nào?
Tháo lấy roi trỏ vào hai cái gò đất ở phía nam, bảo:
- Chỗ kia có thể tạm tránh.
Người, ngựa vội vàng chạy cả lên gò đất.
Tháo truyền cho quân sĩ cởi áo giáp, ngồi nghỉ, thả hết cả ngựa
ra.
Quân Văn Sú kéo ập ngay đến. Các tướng nói:
- Giặc đã đến, xin cho thu ngựa lại rồi kéo về Bạch Mã.
Tuân Du vội vàng ngăn lại:
- Chính là để dử giặc, sao lại lui!
Tháo đưa mắt cho Tuân Du mà cười. Du biết ý, không nói nữa.
Quân Văn Sú đã lấy được lương thảo xa trượng, lại tranh nhau cướp ngựa. Quân sĩ
nhốn nháo mất cả hàng ngũ.
Bấy giờ Tháo sai quân, tướng xuống đánh. Quân Văn Sú rối loạn.
Quân Tào vây bọc lại. Văn Sú một mình chống chọi, quân sĩ giày xéo lẫn nhau mà
chạy. Văn Sú ngăn cấm không được, cũng phải quay ngựa chạy nốt. Tháo đứng trên
nói trỏ xuống bảo:
- Văn Sú là danh tướng Hà Bắc, ai có thể bắt cho ta?
Trương Liêu, Từ Hoảng hai ngựa cùng xông ra, gọi to:
- Văn Sú đừng chạy nữa.
Văn Sú ngoảnh lại, thấy hai tướng đuổi theo, cắp vững ngọn
giáo, giương cung đặt tên, định bắn Trương Liêu. Từ Hoảng kêu to lên:
- Tướng giặc không được bắn trộm.
Trương Liêu cúi đầu vội tránh, mũi tên cắm ngay vào cái chỏm
mũ, đứt phăng dải mũ, Liêu cố sức đuổi. Văn Sú lại bắn phát nữa trúng ngay giữa
trán ngựa. Ngựa gục hai chân trước, Liêu ngã xuống đất. Văn Sú quay ngựa trở lại,
Từ Hoảng tay cầm búa lớn, giơ lên đánh chặn đường. Quân Văn Sú ở mặt sau kéo đến.
Hoảng liệu địch không nổi, quay ngựa chạy về. Văn Sú cứ men sông đuổi theo. Chợt
thấy hơn mười quân kỵ mã, cờ hiệu phấp phới, một tướng đứng đầu, cầm long đao tế
ngựa đến, chính là Quan Vũ.
Quan Công quát to một tiếng: “Tướng giặc đừng chạy!” rồi xông
lại đánh Văn Sú. Chưa được ba hiệp, Văn Sú thấy núng liền quay ngựa chạy. Ngựa
Quan Công chạy nhanh, sấn kịp ngay sau lưng Văn Sú, Quan Công đưa một nhát đao,
Văn Sú ngã chết ngay dưới chân ngựa.
Tào Tháo ở trên gò đất thấy Quan Công chém được Văn Sú, thúc
quân sĩ ùa cả ra đánh. Quân Hà Bắc ngã xuống sông chết quá nửa. Lương thảo và
ngựa lại bị quân Tào cướp lại được cả.
Quan Vũ dẫn vài mươi quân kỵ mã tả xông hữu đột. Giữa lúc
đánh nhau dữ dội, Huyền Đức dẫn ba vạn quân theo sau vừa kéo đến. Thám tử đi
trước trở về báo:
- Lần này lại là tướng đỏ mặt râu dài chém chết Văn Sú rồi.
Huyền Đức vội vàng tế ngựa lên xem, cách sông trông thấy một
đội quân mã, đi lại như bay, trên lá cờ viết bảy chữ “Hán Thọ đình hầu Quan Vân
Trường”.
Huyền Đức tạ thầm trời đất:
- Em ta quả nhiên còn ở bên Tào Tháo!
Huyền Đức định gọi sang chào hỏi, nhưng quân Tào kéo đến, Huyền
Đức phải thu quân về.
Viên Thiệu đem quân tiếp ứng đến Quan Độ hạ trại. Quách Đồ,
Thầm Phối nói:
- Phen này lại là Quan Vũ giết chết Văn Sú, thế mà Lưu Bị còn
giả cách không biết.
Viên Thiệu nổi giận mắng:
- Thằng giặc tai to, sao dám như thế?
Một lát Huyền Đức vào. Thiệu thét lôi ra chém.
Huyền Đức nói:
- Tôi có tội gì?
Thiệu nói:
- Mày lại cố ý sai em mày giết mất của tao một viên đại tướng
nữa, sao lại nói là vô tội?
Huyền Đức nói:
- Xin để tôi giãi bày một lời rồi hãy giết: Tào Tháo vốn ghét
tôi, nay biết tôi ở chỗ minh công, sợ tôi giúp minh công, nên sai em tôi giết
hai tướng. Minh công biết, tất nhiên giận tôi. Thế là Tháo muốn mượn tay minh
công để giết tôi đó. Xin minh công nghĩ lại.
Viên Thiệu nói:
- Huyền Đức nói phải lắm! Tý nữa các ngươi để ta phải chịu
cái tiếng giết người hiền.
Nói rồi, quát tả hữu lui ra và mời Huyền Đức lên ngồi trên
trướng. Huyền Đức nói:
- Bị nay đội ơn khoan hồng của minh công, không biết lấy gì
báo đáp. Nay muốn sai một người tâm phúc đem mật thư đưa cho Vân Trường, cho biết
tin tôi ở đây. Em tôi tất phải đi suốt ngày đêm đến ngay giúp minh công, cùng
đánh Tào Tháo, để báo thù cho Nhan Lương, Văn Sú, minh công nghĩ thế nào?
Viên Thiệu mừng nói:
- Ta được Vân Trường tức là được một viên tướng giỏi gấp mười
lần Nhan Lương, Văn Sú.
Lưu Bị viết thư, chưa tìm được người được sai đi. Thiệu truyền
lui quân về Võ Dương, hạ trại liên tiếp vài mươi dặm, đóng quân lại, không ra
đánh nữa.
Tháo sai Hạ Hầu Đôn đem quân chặn cửa ải Quan Độ, còn mình
thì rút quân về Hứa Đô, mở đại yến mời các quan và mừng công Vân Trường. Nhân bảo
Lã Kiền:
- Hôm trước ta cho lương thảo đi trước, quân đi sau, là mẹo để
dử giặc. Bấy giờ duy chỉ có Tuân Du biết ý ta.
Mọi người đều thán phục.
Đương ăn yến, chợt có người báo:
- Đất Nhữ Nam có giặc Hoàng Cân là Lưu Tích, Cung Đô rất là
ngang tàn, Tào Hồng đánh mãi không được, xin cho quân ra cứu.
Vân Trường nghe nói, tiến lên thưa:
- Tôi xin đem hết sức khuyển mã phá giặc Nhữ Nam.
Tháo nói:
- Vân Trường vừa có công to, chưa kịp trọng thưởng được, ta
sao lại để Vân Trường đi đánh giặc phải chịu khó nhọc?
Quan Công nói:
- Tôi nhàn rỗi lâu nay hay sinh bệnh tật. Xin cho tôi đi một
chuyến.
Tào Tháo khen là có chí khí, điểm năm vạn quân, sai Vu Cấm,
Nhạc Tiến làm phó tướng, hôm sau đi liền.
Tuân Úc thầm bảo Tháo:
- Vân Trường vẫn có lòng về với họ Lưu, nếu biết có tin ở
đâu, thì y đi ngay, không nên sai đi đánh luôn.
Tháo nói:
- Lần này để y lập công, lần sau không sai đi nữa.
Quan Công lĩnh binh đến gần Nhữ Nam, dừng quân đóng trại.
Đang đêm bỗng bắt được hai người đi do thám. Quan Công trông trong hai người,
nhận được một người là Tôn Càn, liền đuổi tả hữu ra, rồi hỏi Càn rằng:
- Từ khi tan vỡ, không nghe thấy tin tức gì, sao ông lại ở
đây?
Càn nói:
- Tôi từ khi trốn nạn, xiêu dạt sang Nhữ Nam, may gặp được
Lưu Tích cho vào nương tựa ở đó. Nay tướng quân sao lại ở bên Tào Tháo? Thế còn
Cam, My hai phu nhân thì thế nào?
Quan Công đem hết cả chuyện đầu đuôi thuật lại cho Tôn Càn nghe.
Càn nói:
- Mới đây tôi nghe tin ông Huyền Đức ở bên Viên Thiệu, muốn
sang theo, chưa có dịp nào tiện. Nay Lưu Tích, Cung Đô hai người đã hàng Thiệu,
cùng giúp đánh Tào. May đâu lại gặp tướng quân đến đây, nên mới sai quân dẫn đường,
tôi giả làm quân do thám đến báo để tướng quân biết. Ngày mai, Lưu Tích, Cung
Đô hai người ra đánh giả cách thua tướng quân một trận. Ông đem hai phu nhân đến
chỗ Viên Thiệu để gặp Huyền Đức.
Quan Công nói:
- Anh ta đã ở bên Viên Thiệu, thế nào sớm tối ta cũng sang
ngay. Nhưng ta đã chém mất hai tướng của Viên Thiệu, sợ có việc biến xảy ra.
Càn nói:
- Để tôi đến đó xem hư thực ra sao, rồi sẽ về báo lại.
Quan Công nói:
- Ta được trông thấy anh ta, dù có chết cũng không từ. Nay ta
về Hứa Đô, từ giã Tào Tháo đã.
Rồi đang đêm ngầm tiễn Tôn Càn đi.
Hôm sau, Quan Công dẫn quân ra, Cung Đô mặc áo giáp ra trận,
Quan Công hỏi:
- Chúng bay sao dám làm phản triều đình?
Đô đáp:
- Mày là đứa phản chủ, còn trách gì ta?
Quan Công hỏi:
- Ta thế nào là phản chủ?
Đô đáp:
- Lưu Huyền Đức ở bên Viên Bản Sơ, sao mày lại đi theo Tào
Tháo?
Quan Công không trả lời, quất ngựa múa đao xông vào. Cung Đô
bỏ chạy ngay. Quan Công đuổi theo. Đô ngoảnh lại bảo Quan Công rằng:
- Ân nghĩa chủ cũ, không nên quên. Ông cứ cho quân tiến nhanh
lên, ta nhường Nhữ Nam cho.
Quan Công biết ý, thúc quân xông vào. Lưu Tích, Cung Đô cùng
giả làm thua, chạy tản ra bốn mặt. Quan Công cướp được châu quận, yên dân xong,
rút quân về Hứa Xương.
Tào Tháo ra ngoài quách đón, khao thưởng quân sĩ. Ăn yến
xong, Vân Trường về nhà, vào thăm hai chị, đứng ở ngoài cửa. Cam phu nhân hỏi:
- Hai lần chú ra quân, có nghe tin hoàng thúc ở đâu chưa?
Quan Công đáp:
- Thưa chưa!
Rồi trở ra. Hai phu nhân hu hu khóc, nói:
- Hoàng thúc dễ thường mất rồi. Chú sợ hai chị em ta buồn rầu,
nên giấu không nói thật chứ gì?
Đương khóc, có một người lính già đứng hầu ngoài cửa, nói:
- Xin hai phu nhân đừng khóc. Chúa công hiện ở bên Hà Bắc với
Viên Thiệu.
Hai bà hỏi:
- Sao nhà ngươi biết?
Người lính thưa:
- Tôi theo Quan tướng quân đi đánh giặc, có người ở trên trận
nói chuyện.
Hai bà gọi ngay Vân Trường đến trách:
- Hoàng thúc chưa từng phụ ngươi bao giờ, nay ngươi được chịu
ân Tào Tháo, quên cả nghĩa cũ, không lấy sự thực bảo chúng ta là cớ làm sao?
Quan Công cúi đầu nói:
- Anh nay thực ở Hà Bắc, em chưa dám để hai chị biết, là sợ
việc lỡ ra tiết lộ, không lợi. Việc này nên lo tính thong thả, không nên vội
vàng.
Cam phu nhân nói:
- Chú nên lo tính cho mau.
Quan Công lui về, nghĩ cách nên đi thế nào, đứng ngồi không
yên.
Nguyên là Vu Cấm dò biết Lưu Bị ở Hà Bắc, đã báo với Tào
Tháo. Tháo sai Trương Liêu đến dò ý Quan Công. Quan Công hôm ấy đương ngồi buồn,
Trương Liêu vào mừng:
- Nghe anh khi ra trận, đã biết tin Huyền Đức, nên em đến mừng.
- Chủ cũ tuy ở đó, nhưng chưa được gặp, đã có chi đáng mừng.
Liêu lại hỏi:
- Anh kết thân với Huyền Đức, so giữa anh với tôi, bên nào
thân hơn.
Quan Công nói:
- Tôi với anh là nghĩa bầu bạn; tôi với Huyền Đức bầu bạn mà
là anh em, anh em mà lại là vua tôi, hai đường ví với nhau thế nào được?
Liêu mới hỏi:
- Nay Huyền Đức ở Hà Bắc, anh có đi theo không?
Quan Công nói:
- Lời nói ngày trước, sao lại trái được! Nhờ Văn Viễn hết
lòng trình bày hộ tôi với thừa tướng.
Trương Liêu đem lời Quan Công về nói lại với Tào Tháo. Tháo
nói:
- Ta đã có cách giữ lại.
Quan Công đương ngồi nghĩ ngợi, chợt thấy báo có người bạn cũ
đến hỏi thăm. Quan Công mời vào, thì là người không quen bao giờ. Quan Công hỏi:
- Ông là ai?
Người lạ đáp:
- Tôi là Trần Chấn, người ở Nhữ Nam, bộ hạ của Viên Thiệu.
Quan Công giật mình, vội vàng bảo tả hữu lui ra, rồi hỏi:
- Tiên sinh lại đây chắc có việc gì?
Chấn đưa ra một phong thư, Quan Công mở ra xem thì là thư của
Huyền Đức, đại lược trong thư nói:
“Bị cùng túc hạ, kết nghĩa vườn đào, thề cùng sống thác, nay
sao nửa đường bỏ nhau, cắt đứt ân nghĩa? Túc hạ nếu muốn lập công danh, toan đường
phú quý, Bị xin đem đầu dâng túc hạ để túc hạ lập nên công lớn. Thư nói không
xiết, chịu chết ngồi chờ lệnh”.
Quan Công xem xong thư, khóc to nói:
- Tôi không phải không muốn tìm anh, chỉ vì chẳng biết anh ở
đấy, chớ đâu dám cầu phú quý mà quên lời thề cũ.
Trần Chấn nói:
- Huyền Đức mong đợi ông lắm. Ông đã không trái ước cũ, nên
đi nhanh đến gặp Huyền Đức.
Quan Công nói:
- Làm người sinh trong trời đất, không có thuỷ chung, không
phải là quân tử. Ta lúc lại đây phân minh, thì lúc ở đây đi cũng phải phân
minh. Nay tôi viết thư, nhờ tiên sinh đem về cho anh tôi biết trước, để tôi từ
giã Tào Tháo, sẽ đem cả hai chị về gặp anh tôi sau.
Chấn nói:
- Ngộ Tào Tháo không nghe thì làm thế nào?
Quan Công đáp:
- Ta thà chết, chớ sao chịu ở lại đây!
Chấn nói:
- Ông mau viết thư trả lời, để Lưu sứ quân khỏi mong đợi.
Quan Công viết thư đáp lại:
“Trộm nghĩ: đã là nghĩa thì không bao giờ phụ lòng; đã là
trung thì không bao giờ sợ chết. Vũ này từ thuở nhỏ bé đọc sách, hơi biết lễ
nghĩa. Xem truyện, Dương Giốc Ai và Tả Bá Đào[2] thường than thở hai ba lần,
mà sa nước mắt.
“Khi trước giữ thành Hạ Phì, trong lòng không có thóc chứa,
ngoài chẳng có viện binh, đã toan liều chết, nhưng vì có trọng trách đối với
hai chị, không dám quyên sinh để phụ lòng uỷ thác của anh, cho nên còn tạm
nương náu đây, mong có ngày cùng nhau tụ hội.
“Mới đây em đến Nhữ Nam, mới biết tin anh. Xin lập tức từ giã
Tào công, đem hai chị về. Em bằng có bụng khác, thần người cùng giết. Moi gan rạch
mật, bút giấy nói không hết lời, bái kiến có ngày, xin nhủ lòng soi xét”.
Trần Chấn mang thư về, Quan Công vào nhà trong nói với hai chị,
rồi vào ngay tướng phủ để từ biệt Tào Tháo. Tháo đã biết trước, sai treo một
cái biển “hồi tỵ”[3] ở ngoài tướng phủ. Quan Công đành lủi thủi trở về,
sai những người tuỳ tùng cũ, thu xếp xe ngựa sẵn sàng, lại dặn bảo trong nhà:
phàm bao nhiêu những đồ Tào Tháo cho, đều để cả lại, cái tơ cái tóc cũng không
được mang đi.
Hôm sau Quan Công lại đến tướng phủ để từ tạ. Ngoài cửa vẫn
có biển “hồi tỵ”. Quan Công đến luôn mấy lần, đều không được vào, bèn đến nhà
Trương Liêu để nói chuyện. Liêu cũng cáo ốm không ra. Quan Công nghĩ:
- Đây là Tào thừa tướng có ý không cho ta đi. Chí ta đã quyết,
há lại còn dùng dằng ở lại nữa sao?
Bèn viết một phong thư từ tạ Tào Tháo. Thư như sau:
“Tôi từ trước đã thờ hoàng thúc, thề cùng sống chết, trên: trời
cao, dưới: đất dày, đều đã chứng giám; ngày nọ thất thủ Hạ Phì, tôi xin ba điều,
đã được thừa tướng chấp nhận. Nay được tin chủ cũ ở bên Viên Thiệu, tôi nhớ lại
lời thề ngày trước há dám sai trái? Ơn mới tuy hậu, nghĩa cũ khó quên, dâng thư
cáo từ, xin soi xét cho. Ơn còn thiếu chưa báo được hết, xin đợi khi khác”.
Viết xong, dán lại, sai người mang đến tướng phủ. Một mặt đem
những vàng bạc đã được tặng mấy lần trước gói hết cả lại bỏ vào kho, treo ấn
Hán Thọ đình hầu trên sảnh đường, rồi mời hai phu nhân lên xe.
Quan Công cưỡi ngựa Xích thố tay cầm thanh long đao, dẫn bọn
người tuỳ tùng cũ đi hộ tống xa trượng, đi tắt ra cửa thành. Lính canh cửa ngăn
lại, Quan Công trừng mắt, giơ long đao lên, quát to một tiếng, lính canh lẩn
tránh hết cả. Quan Công ra khỏi cửa thành dặn những người tuỳ tùng:
- Các ngươi hộ tống xa trượng đi trước. Ngộ có người đuổi
theo, đã có ta ở sau chống lại. Không được để hai phu nhân sợ hãi.
Quân hầu cứ theo đường cái quan, đẩy xe đi.
Tào Tháo đang ngồi cùng mọi người bàn tán chuyện Quan Công
thì có người mang thư của Quan Công vào trình.
Tháo mở ra xem, thất kinh nói:
- Vân Trường đi mất rồi!
Chợt lại có tướng giữ cửa bắc phi ngựa lại báo:
- Quan Công cướp cửa đi ra, xe ngựa đồ đạc hơn hai mươi người,
đi về phía bắc.
Lại có người ở nhà Quan Công đến báo:
- Quan Công gói hết cả các đồ vàng bạc của thừa tướng cho
ngày trước, để ở trong kho. Mười người mỹ nữ để ở nhà trong, ấn Hán Thọ đình hầu
thì treo ở nhà sảnh đường, những kẻ hầu người hạ của thừa tướng cắt đến đều
không đem đi, chỉ mang những người tuỳ tùng cũ và hành lý tuỳ thân đi ra cửa bắc.
Mọi người đều ngạc nhiên. Một viên tướng nhảy ra nói:
- Tôi xin đem ba nghìn quân thiết kỵ bắt sống Quan Vũ đem về
nộp thừa tướng!
Mọi người nhìn xem là ai, thì là Sái Dương.
Thế mới thực là:
Muốn xa muôn trượng hang rồng rắn
Lại gặp ba nghìn lính hổ lang
Chưa biết Sái Dương xin đi đuổi Quan Công thế nào, xem đến hồi
sau mới tỏ.
Chú thích:
1. Tên con thú kỳ dị trong truyện thần
thoại, biết phân biệt phải trái, hễ thấy hai người đánh nhau thì lấy sừng húc
vào người trái lẽ.
2. Dương Giốc Ai, Tả Bá Đào người nước
Yên ở thời Chiến quốc, hai người kết bạn thề cùng sống chết. Nghe tin vua nước
Sở quý trọng người hiền, hai người rủ nhau đến nước Sở. Đi đường trời rét,
lương thực ít, Bá Đào bảo Ai: “Anh giôi hơn tôi, anh đi thôi” bèn nhường cả quần
áo và lương thực cho Ai, rồi vào rừng chết.
3. Tránh xa, không được đến gần. Cái biển
của các quan lại đời phong kiến, thường dùng hoặc mang đi đường, hoặc treo trước
cửa, ra hiệu cho người ngoài đừng lai vãng đến.
Hồi 27:
Mỹ Nhiệm công [1] cưỡi một ngựa bay nghìn dặm
Hán Thọ hầu chém sáu tướng phá năm quan
Trong bọn bộ hạ Tào Tháo, ngoài Trương Liêu ra, có Từ Hoảng
là thân với Quan Vũ, còn các tướng ai cũng kính phục, duy chỉ có Sái Dương là
không phục, cho nên hôm ấy nghe tin Quan Công đi, Sái Dương xin đi đuổi bắt về.
Tháo nói:
- Không quên chủ cũ, lúc đến, lúc đi đều phân minh, thế mới
thực là trượng phu. Các ngươi nên bắt chước.
Nói rồi mắng Sái Dương, không cho đi đuổi.
Trình Dục nói:
- Thừa tướng đãi Quan Vũ rất hậu, nay không bái từ, tự tiện
đi, viết nhăng mảnh giấy gửi lại, khinh nhàm oai trên, là có tội lớn. Nếu tha
cho y về với Viên Thiệu, khác gì cho hổ thêm cánh, chi bằng đuổi giết đi, để dứt
vạ về sau.
Tháo nói:
- Trước ta đã hứa, không nên thất tín. Người ta đã vì chủ cũ,
không nên đuổi.
Nhân thế bảo Trương Liêu:
- Vân Trường gói vàng treo ấn, của cải không thay lòng, tước
lộc không đổi chí, những người như thế ta rất kính trọng. Bây giờ Vân Trường đi
cũng chưa xa, ta muốn ra kết thân với hắn, để lưu lại một chút tình về sau.
Ngươi nên cưỡi ngựa đi trước, mời hắn dừng lại, đợi ta ra tiễn, còn có lộ phí
và chiến bào đem tặng, để làm kỷ niệm.
Trương Liêu vâng lệnh, cưỡi ngựa đi trước, Tào Tháo dẫn vài
mươi kỵ mã đi sau.
Vân Trường cưỡi ngựa Xích thố, sức đi được nghìn dặm, giá có
một mình thì chẳng ai đuổi kịp, nhưng vì hộ tống xa trượng, phải đi thong thả.
Chợt nghe đằng sau có người gọi:
- Xin Vân Trường hãy đi chậm lại.
Quan Công ngoảnh lại, thấy Trương Liêu cưỡi ngựa đến. Quan Công
giục những người tuỳ tùng cứ đẩy xa trượng theo đường cái đi mau lẹ lên trước,
còn mình thì dừng ngựa lại tay cầm vững long đao, hỏi:
- Văn Viễn định đuổi theo bắt ta chăng?
Liêu thưa:
- Không phải thế, thừa tướng biết anh đi xa, muốn ra tiễn
chân, cho nên sai tôi lại đây, xin anh hãy dừng ngựa lại.
Quan Công nói:
- Dù đội thiết kỵ của thừa tướng kéo đến, ta xin quyết một trận
tử chiến.
Nói rồi dừng ngựa, đứng ở trên cầu trông lại, thấy Tào Tháo dẫn
vài mươi quân kỵ mã chạy đến, đằng sau có bọn Hứa Chử, Từ Hoảng, Vu Cấm, Lý Điển.
Tháo thấy Quan Công cầm đao cưỡi ngựa đứng trên cầu, liền truyền các tướng dừng
cả lại, đứng sắp hàng hai bên. Quan Công thấy các tướng đi tay không, bấy giờ mới
vững dạ.
- Trước tôi đã có lời thưa với thừa tướng. Nay chủ cũ tôi ở
Hà Bắc, thế tất tôi phải vội đi. Đã mấy lần đến phủ, không được vào hầu, cho
nên đã có bức thư để cáo từ, gói vàng bạc, ấn, nộp lại thừa tướng. Xin thừa tướng
đừng quên lời ước ngày trước.
Tháo nói:
- Ta còn muốn thủ tín với thiên hạ, sao lại phụ lời ước.
Nhưng sợ tướng quân đi đường thiếu dùng, nên đem ít đồ hành trang lại tiễn.
Nói xong sai một tướng xuống ngựa bưng một mâm vàng đến.
Quan Công nói:
- Tôi nhiều lần đội ơn thừa tướng ban thưởng, hãy còn đủ dùng.
Xin để lại số vàng này thưởng cho tướng sĩ.
Tháo nói:
- Quà nhỏ mọn thưởng công to lớn, sao tướng quân lại từ chối?
Quan Công nói:
- Chút công nhỏ mọn đáng kể chi!
Tháo cười nói:
- Quan Vân Trường là nghĩa sĩ trong thiên hạ, tiếc vì ta kém
phúc, không lưu lại được. Nay gọi là có chiếc cẩm bào để giãi bày tấm lòng
thành.
Nói rồi sai một tướng hai tay nâng tay áo cẩm bào dâng lên.
Vân Trường sợ có mưu kế gì, không dám xuống ngựa, dùng mũi
long đao khều lấy cẩm bào, quàng lên vai, gò cương ngựa quay đầu lạy tạ:
- Đội ơn thừa tướng cho áo. Có ngày sẽ gặp lại nhau.
Tạ rồi, xuống cầu nhằm phía bắc tế ngựa đi thẳng.
Hứa Chử nói:
- Kẻ đó thực vô lễ, sao không bắt lấy?
Tháo nói:
- Người ta một mình một ngựa, chúng ta hơn mười người, trách
nào người ta chẳng nghi? Ta đã có lời ước, không nên đuổi.
Nói rồi, cùng các tướng trở về. Tào Tháo vừa đi đường vừa
khen vừa tiếc Quan Công.
Quan Công tế ngựa chạy theo cho kịp xa trượng. Chạy ước được
ba mươi dặm, chẳng thấy xa trượng đâu, Quan Công liền tế ngựa tìm quanh cả bốn
mặt. Chợt nghe ở trên đỉnh núi có tiếng gọi:
- Quan tướng quân hãy đứng lại.
Quan Công ngẩng mặt lên trông, thì thấy một chàng trẻ tuổi,
khăn vàng áo gấm, vác giáo cưỡi ngựa, dưới cổ ngựa treo một cái đầu người, dẫn
hơn một trăm quân bộ, chạy lại.
Quan Công hỏi:
- Ngươi là ai?
Chàng trẻ tuổi bỏ giáo xuống ngựa, thụp lạy. Vân Trường sợ có
mưu mẹo gì, dừng ngựa cầm đao hỏi:
- Xin tráng sĩ cho biết tên họ.
Người ấy đáp:
- Tôi là Liêu tên Hoá, tự là Nguyên Kiệm, vốn người Tương
Dương, nhân thời loạn, lưu lạc giang hồ, tụ tập được hơn năm trăm người, cướp
bóc kiếm ăn. Mới rồi có người bạn là Đỗ Viễn, xuống núi tuần tiễu, nhỡ cướp phải
hai vị phu nhân đem lên núi. Tôi hỏi người theo hầu, mới biết là phu nhân của
Lưu hoàng thúc nhà Đại Hán. Lại nghe có tướng quân đi hộ tống, tôi muốn đưa
ngay hai phu nhân xuống núi. Đỗ Viễn ăn nói càn dỡ, tôi giết đi, đem đầu lại nộp
tướng quân, xin chịu tội.
Quan Công hỏi:
- Hai phu nhân ở đâu?
- Hiện ở trên núi.
Quan Công sai đem ngay xuống núi. Được một lúc hơn một trăm
người rước xa trượng ra. Quan Công xuống ngựa, đặt đao, chắp tay đứng trước xe
hỏi:
- Hai chị có bị sợ hãi gì không?
Hai phu nhân nói:
- May nhờ Liêu tướng quân cứu cho, chớ không thì đã bị Đỗ Viễn
nó làm nhục rồi.
Quan Công hỏi những người tuỳ tùng:
- Liêu Hoá làm thế nào cứu hai phu nhân?
Họ thưa:
- Đỗ Viễn cướp hai phu nhân đem lên núi, định chia với Liêu
Hoá mỗi người lấy một bà làm vợ. Hoá hỏi căn do làm sao, khi đã biết rồi, có bụng
kính nể, can Đỗ Viễn, Viễn không nghe, nên Liêu Hoá giết đi.
Quan Công nghe nói, liền tạ Liêu Hoá. Hoá xin đem bộ hạ đi
theo Quan Công. Quan Công nghĩ người ấy là dư đảng của Khăn Vàng, không nên cho
đi theo, bèn từ tạ không nhận. Liêu Hoá lại đem biếu vàng lụa, Quan Công cũng
không lấy. Liêu Hoá từ biệt, dẫn quân về núi.
Quan Công liền đem việc Tào Tháo ra tiễn, tặng bào, kể lại với
hai chị, rồi giục xe đi.
Đến chiều tối vào nghỉ trọ một nhà trong làng. Chủ nhà đầu
râu tóc bạc ra đón hỏi tên họ. Quan Công thi lễ nói:
- Tôi là Quan Vũ em Lưu Huyền Đức.
Chủ nhà lại hỏi:
- Ngài có phải là ông Quan Công đã chém Nhan Lương, Văn Sú
không?
Quan Công thưa:
- Phải, chính tôi.
Ông già mừng lắm, mời ngay Quan Công vào nhà.
Quan Công thưa:
- Còn hai vị phu nhân ngồi trên xe.
Ông già gọi vợ con ra đón vào trong nhà. Quan Công chắp tay đứng
hầu bên cạnh hai phu nhân. Ông già mời ngồi, Quan Công nói:
- Hai chị tôi đây, tôi không dám ngồi.
Ông già biết ý, bảo vợ con mời hai phu nhân vào nhà trong khoản
đãi, còn mình thì ở ngoài nhà tiếp Quan Công. Quan Công hỏi tên họ ông già, ông
già thưa:
- Tôi họ Hồ tên Hoa, đời vua Hoàn Đế từng làm nghị lang, về
sau từ quan về làng ở. Nay có con giai là Hồ Ban, làm tùng sự phủ quan thái thú
Huỳnh Dương tên là Vương Thực. Nếu tướng quân có đi qua đường ấy, nhờ đưa hộ một
phong thư cho con tôi.
Quan Công xin vâng.
Hôm sau, cơm sớm xong, Quan Công mời hai chị lên xe, nhận lấy
thư của Hồ Hoa, từ biệt nhau, rồi đi sang Lạc Dương. Đi đến một cửa quan là cửa
Đông Lĩnh, tướng giữ quan tên là Khổng Tú, đem năm trăm quân đóng trên ngọn
núi. Quân sĩ lên báo với Khổng Tú. Tú ra cửa quan tiếp đón. Quan Công xuống ngựa,
thi lễ. Tú hỏi:
- Tướng quân đi đâu?
- Tôi vừa cáo từ thừa tướng, sang Hà Bắc để tìm anh.
Tú nói:
- Viên Thiệu ở Hà Bắc, chính là kẻ đối đầu với thừa tướng, tướng
quân sang đấy, hẳn có giấy tờ của thừa tướng.
Quan Công đáp:
- Vì hành kỳ vội quá, không kịp xin giấy tờ.
Tú nói:
- Nếu không có giấy tờ, tôi phải sai người trình thừa tướng,
rồi mới dám để tướng quân đi.
Quan Công nói:
- Đợi phải bẩm báo, lỡ mất hành trình của tôi.
Tú đáp:
- Phép tắc bắt buộc, phải thế mới được.
Quan Công hỏi:
- Ngươi không cho ta qua cửa quan phải không?
Tú nói sẵng:
- Muốn đi thì phải để già trẻ lại đây làm con tin.
Quan Công nổi giận, cầm đao toan giết Khổng Tú. Tú chạy vào cửa
quan, nổi trống họp quân, mặc áo giáp, lên ngựa, kéo ra cửa quân quát to:
- Ngươi dám vượt cửa quan chăng?
Quan Công truyền xa trượng lui lại, rồi cầm long đao, giục ngựa
tiến thẳng vào đánh Khổng Tú. Tú vác giáo, nghênh địch. Hai ngựa đấu nhau chỉ
được một hiệp, Tú bị chém chết ngã dưới chân ngựa.
Quân sĩ chạy tan cả.
Quan Công gọi lại bảo:
- Quân sĩ đừng chạy, ta giết Khổng Tú là bất đắc dĩ. Việc này
không liên can gì đến các ngươi. Nhờ các ngươi thưa lại với thừa tướng: “Khổng
Tú muốn hại ta, nên ta phải giết đi”.
Quân sĩ đều thụp xuống lạy trước ngựa. Quan Công lại mời hai
phu nhân ra ngoài cửa quan, đi về đường Lạc Dương.
Có người báo thái thú Lạc Dương là Hàn Phúc biết tin, Phúc họp
ngay các tướng lại bàn. Nha tướng là Mạnh Thản nói:
- Không có giấy tờ của thừa tướng, tất là đi lén lút, nếu
không ngăn lại, tất bị tội lỗi.
Hàn Phúc nói:
- Quan Công dũng mãnh lắm. Nhan Lương, Văn Sú đều bị hắn giết.
Nay không thể dùng sức địch lại với hắn, chỉ nên dùng mưu mới được.
Mạnh Thản nói:
- Tôi có một kế: lấy chông chà rào kín cửa quan, đợi khi hắn
đến, tôi ra đánh nhau, rồi giả tảng thua chạy, dử cho hắn đuổi theo, ông đứng
núp một nơi, lấy tên mà bắn. Nếu bắn ngã ngựa, bắt giải về Hứa Đô, chắc được trọng
thưởng.
Vừa bàn định xong, quân vào báo xa trượng của Quan Công đã đến.
Hàn Phúc đeo cung cài tên, đem một nghìn quân mã dàn ngoài cửa quan, hỏi:
- Người đến kia là ai?
Quan Công ngồi trên ngựa, cúi mình nói:
- Hán Thọ đình hầu Quan mỗ xin nhờ đường đi qua.
Hàn Phúc hỏi:
- Có giấy tờ của thừa tướng không?
Quan Công đáp:
- Ta bận việc không kịp lấy.
Hàn Phúc nói:
- Ta phụng mệnh thừa tướng trấn thủ đất này, chuyên việc khám
xét kẻ gian đi lại. Nếu không có giấy tờ, tức là đi trốn.
Quan Công nói:
- Khổng Tú ở Đông Lĩnh không cho ta đi, vừa bị ta giết chết.
Ngươi cũng muốn chết à?
Hàn Phúc nói:
- Ai bắt lấy nó cho ta!
Mạnh Thản cưỡi ngựa ra, múa đôi đao đón đánh. Quan Công bảo
xa trượng lui lại, rồi tiến lên đánh Mạnh Thản. Đánh được ba hiệp, Mạnh Thản
quay ngựa chạy, chỉ mong dụ Quan Công đuổi theo, không ngờ ngựa của Quan Công
chạy nhanh quá, đến ngay sau lưng, Quan Công đưa một nhát dao, sả Thản làm hai
đoạn.
Quan Công quay ngựa trở lại, Hàn Phúc nấp ở trong cửa giương
cung bắn trộm, trúng vào cánh tay trái Quan Công. Quan Công lấy miệng cắn tên
rút ra, máu chảy không thôi, liền quay đầu xông thẳng đến Hàn Phúc đánh tan mọi
người. Hàn Phúc chạy không kịp bị Quan Công chém một nhát, đứt từ đầu tới vai.
Quân sĩ kinh hoảng tan cả.
Quan Công lấy lụa buộc chỗ bị thương. Giữa đường sợ có người
ngấm ngầm mưu hại, nên liền đêm hôm ấy, Quan Công đi ngay đến cửa quan Nghi Thủy.
Tướng giữ cửa quan ấy là người ở Tinh Châu, họ Biện tên Hỷ,
giỏi dùng dùi lưu tinh, nguyên là dư đảng Khăn Vàng, sau theo Tào Tháo, được
Tháo sai giữ cửa quan này.
Biện Hỷ nghe Quan Công sắp đến, bèn mai phục hơn hai trăm đao
phủ ở trong ngôi chùa Trấn Quốc, rồi dặn quân gõ chén làm hiệu, ồ ra giết Quan
Công.
Sắp đặt đâu đấy, Hỷ ra đón Quan Công. Quan Công thấy Biện Hỷ
ra đón, liền xuống ngựa chào hỏi. Hỷ nói:
- Tướng quân tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ, ai chẳng kính trọng.
Nay tướng quân lại tìm về với hoàng thúc, đủ rõ là người trung nghĩa.
Quan Công kể lại chuyện giết Khổng Tú và Hàn Phúc. Hỷ nói:
- Tướng quân giết đi là phải. Tôi gặp thừa tướng sẽ xin thay
tướng quân trình bày với thừa tướng hết mọi uẩn khúc.
Quan Công mừng lắm, cùng lên ngựa đi với Biện Hỷ qua cửa Nghi
Thuỷ. Đến trước chùa Trấn Quốc hai người xuống ngựa. Các sư đánh chuông ra đón.
Chùa Trấn Quốc vốn là chùa của vua Minh đế làm ra, vua thường
đến dâng hương ở đó. Trong chùa có hơn ba mươi sư tăng; trong bọn tăng lại có một
vị sư là người cùng làng với Quan Công, pháp danh là Phổ Tĩnh.
Phổ Tĩnh đã biết mưu Biện Hỷ, mới bước ra chào Quan Công và hỏi:
- Tướng quân rời Bồ Dương đã bao nhiêu năm nay?
Quan Công nói:
- Gần được hai mươi năm.
Phổ Tĩnh hỏi:
- Tướng quân còn nhận được bần tăng không?
Quan Công đáp:
- Tôi đi đã lâu, nên không nhớ được.
Phổ Tĩnh nói:
- Nhà tôi với nhà tướng quân chỉ cách nhau một con sông.
Biện Hỷ thấy Phổ Tĩnh kể tình quê hương, sợ tiết lộ âm mưu của
mình, liền mắng rằng:
- Ta mời tướng quân đến ăn yến, mi là nhà sư, sao được nói
lôi thôi?
Quan Công nói:
- Người làng gặp nhau, tài gì không kể lại chuyện cũ?
Phổ Tĩnh mời Quan Công vào nhà phương trượng xơi nước. Quan
Công nói:
- Hai vị phu nhân ngồi trên xe, nên dâng nước trước.
Phổ Tĩnh sai bưng hai chén nước ra mời hai phu nhân, rồi mời
Quan Công vào phương trượng. Phổ Tĩnh lấy giới đao đeo trong lưng giơ lên, đưa
mắt ra hiệu cho Quan Công. Quan Công hiểu ngay, sai tả hữu đeo đao đứng hầu.
Biện Hỷ mời Quan Công lên ngồi trên pháp đường ăn tiệc. Quan
Công hỏi ngay:
- Biện quân mời Quan mỗ đây là có ý tốt hay có ý gì không?
Biện Hỷ chưa kịp trả lời, Quan Công đã thấy ở trong buồng có
quân đao phủ đứng núp, liền quát mắng Biện Hỷ:
- Ta tưởng mi là người tốt, ai ngờ mi dám như thế!
Biện Hỷ biết việc đã lộ, thét lớn:
- Các ngươi hạ thủ ngay đi!
Quân phục chưa kịp trở tay đã bị Quan Công tuốt gươm chém giết,
chạy tan hết cả. Biện Hỷ chạy xuống thềm, chạy quanh hành lang. Quan Công bỏ
gươm, cầm long đao đuổi chém. Biện Hỷ ngầm dùng phi truỳ ném Quan Công. Quan
Công lấy long đao gạt đi, sấn vào chém một nhát, Biện Hỷ đứt làm hai khúc.
Quan Công quay lại xem hai chị. Quân sĩ đang vây đặc ở xung
quanh, thấy Quan Công đến, vội vàng chạy tan cả.
Quan Công thoát nạn đến tạ Phổ Tĩnh:
- Nếu không có sư phụ, tôi đã bị giặc hại rồi.
Phổ Tĩnh nói:
- Bần tăng cũng khó lòng ở đây được nữa, sẽ thu xếp y bát[2] đi
nơi khác, chúng ta sẽ có ngày gặp nhau. Xin tướng quân lên đường giữ gìn cẩn thận.
Quan Công lạy tạ, rồi hộ tống xa trượng đi sang Huỳnh Dương.
Thái thú Huỳnh Dương là Vương Thực, vốn là thông gia với Hàn
Phúc, nghe tin Phúc bị Quan Công giết, mới nghĩ kế hại ngầm. Khi Quan Công đến
nơi, Thực ra đón chào tử tế. Quan Công kể việc đi tìm anh.
Thực nói:
- Tướng quân đi đường vất vả, hai phu nhân trên xe mỏi mệt,
xin mời vào thành tạm nghỉ ở nhà khách một đêm, ngày mai sẽ lên đường.
Quan Công thấy Thực mời đón ân cần, bèn mời hai chị vào
thành.
Trong nhà khách xếp đặt chu tất. Thực mời Quan Công đi dự tiệc,
Quan Công cáo từ, Thực sai người đưa cỗ đến nhà khách. Quan Công vì đi đường nhọc
mệt, mời hai chị ăn cơm chiều xong, để hai chị nghỉ ở phòng chính; sai những
người tuỳ tùng đi nghỉ, cho ngựa ăn. Quan Công cũng cởi áo giáp nghỉ ngơi.
Thực mật gọi tùng sự Hồ Ban:
- Quan Công đi trốn, giữa đường lại giết thái thú và tướng giữ
quan, phạm tội đáng chết. Người ấy vũ dũng khó địch nổi. Đêm nay ngươi đem một
nghìn quân vây kín nhà khách, mỗi người một bó đuốc, đợi đến canh ba, nhất tề
phóng hoả. Không phân biệt ai, đốt chết hết. Ta tự đem quân ứng tiếp.
Hồ Ban vâng lời điểm quân sĩ, ngầm đem củi khô chất đầy chung
quanh nhà khách, hẹn giờ khởi sự.
Hồ Ban bụng nghĩ:
- Ta nghe tiếng Quan Vân Trường đã lâu nhưng chưa biết mặt, để
ta sẽ vào ghé dòm xem sao.
Bèn rón rén vào trong nhà khách, hỏi dịch lại:
- Quan tướng quân ngồi đâu?
Lại nói:
- Ngài đang ngồi trên sảnh đường xem sách.
Hồ Ban sẽ rón rén lại tận nơi, thấy Quan Công tay trái vuốt
râu đương ngồi dựa kỷ, chong đèn xem sách.
Ban thất kinh nói:
- Thực là người giời!
Quan Công nghe nói bèn hỏi:
- Ai đó?
Hồ Ban bước ngay vào thụp xuống lạy mà rằng:
- Tôi là Hồ Ban tùng sự quan thái thú Huỳnh Dương.
Quan Công hỏi:
- Có phải ngươi là con Hồ Hoa ở Hứa Đô không?
Ban thưa:
- Vâng.
Quan Công bảo người nhà mở khăn gói lấy thư đưa cho Ban. Ban
xem xong, than rằng:
- Tý nữa tôi hại nhầm người trung nghĩa.
Rồi mật báo:
- Vương Thực mang lòng bất nhân muốn hại tướng quân, đã sai
quân vây kín nhà khách, hẹn đến canh ba phóng hoả. Nay tôi xin đi trước mở cửa
thành, tướng quân nên thu xếp đi ngay.
Quan Công cả sợ vội vàng mặc áo giáp cầm đao lên ngựa, mời
hai chị lên xe. Vừa ra khỏi cửa, quả nhiên thấy quân sĩ mỗi đứa đã cầm một bó lửa
đứng chờ. Quan Công đến cửa thành, thấy mở cửa, giục xa trượng cấp tốc chạy ra
cho nhanh.
Bấy giờ Hồ Ban quay về phóng hoả.
Quan Công đi chưa được vài dặm, ngoảnh lại thấy lửa sáng rực,
đằng sau có ngựa đuổi theo. Vương Thực đi trước, gọi to:
- Quan Vũ đừng chạy!
Quan Công dừng ngựa lại mắng:
- Thằng đểu kia! Tao với mi có thù gì nhau, sao mi lại sai
người phóng hoả định hại ta?
Vương Thực vác giáo lại đánh, bị Quan Công chém ngang lưng đứt
làm hai đoạn. Người ngựa chạy tan cả.
Quan Công thúc xa trượng đi mau. Đi đường nghĩ cảm ơn Hồ Ban
mãi.
Quan Công đi đến đầu địa giới Hoạt Châu, có người báo với Lưu
Diên. Diên dẫn vài mươi quân kỵ ra ngoài thành đón.
Quan Công ngồi trên ngựa cúi mình nói:
- Quan thái thú lâu nay vẫn được mạnh khoẻ?
Diên nói:
- Nay ông định đi đâu?
Quan Công nói:
- Tôi từ biệt thừa tướng, đi tìm gia huynh.
Diên nói:
- Huyền Đức nay ở chỗ Viên Thiệu, Thiệu là kẻ thù của thừa tướng,
sao lại để ông đi?
Quan Công nói:
- Trước đã giao hẹn như thế.
Diên nói:
- Nay bến Hoàng Hà, bộ tướng của Hạ Hầu Đôn là Tần Kỳ coi giữ,
e không để ông qua đò.
Quan Công nói:
- Quan thái thú cho nhờ thuyền có được không?
Diên nói:
- Tuy tôi có thuyền nhưng không dám cho ông mượn.
Quan Công nói:
- Trước tôi giết Nhan Lương, Văn Sú giải vây cho túc hạ, nay
muốn mượn mấy chiếc thuyền mà không cho là cớ làm sao?
Diên nói:
- Chỉ sợ Hạ Hầu Đôn biết, sẽ bắt tội tôi.
Quan Công biết Diên là người vô dụng nên cứ cho đẩy xe đi thẳng.
Đi đến cửa sông Hoàng Hà, Tần Kỳ dẫn quân ra hỏi:
- Người đến kia là ai?
Quan Công nói:
- Hán Thọ đình hầu Quan mỗ.
Kỳ hỏi:
- Đi đâu?
Quan Công nói:
- Ta muốn sang Hà Bắc tìm anh là Lưu Huyền Đức, xin cho nhờ bến
đò.
Kỳ hỏi:
- Có công văn của thừa tướng không?
Quan Công nói:
- Ta không chịu quyền phép của thừa tướng, còn có công văn
gì?
Kỳ nói:
- Ta vâng lệnh Hà Hầu tướng quân giữ cửa ải này. Ngươi dù có
cánh cũng không bay qua được!
Quan Công nổi giận nói:
- Ta đã giết những đứa ngăn trở ta giữa đường, mi có biết
không?
Kỳ nói:
- Mi chỉ giết những đứa tướng hèn vô danh chứ mi dám giết ta
à?
Quan Công lại nói:
Tần Kỳ cả giận, tế ngựa lại đánh. Hai ngựa gặp nhau mới được
một hiệp, đao Quan Công vừa giơ lên, đầu Tần Kỳ đã rơi xuống.
Quan Công bảo quân sĩ:
- Kẻ ngăn ta đã chết rồi, các ngươi không có việc gì phải sợ
mà chạy. Kiếm ngay cho ta mấy chiếc thuyền để ta qua sông.
Quân sĩ vội vàng chở thuyền vào bờ. Quan Công mời hai phu
nhân xuống thuyền, qua sông Hoàng Hà. Từ đây thuộc về đất của Viên Thiệu.
Tính ra Quan Công đi quan có năm cửa quan, giết cả thảy sáu
tướng. Đời sau có thơ khen rằng:
Treo ấn phong vàng giã tướng Tào
Tìm anh dấn bước dạ xôn xao…
Xông pha nghìn dặm bon chân ngựa
Xung đột năm quan múa lưỡi đao
Trời đất chứa chan lòng tiết nghĩa
Núi non lừng lẫy tiếng anh hào.
Một mình chém tướng ai đương nổi?
Để vịnh xưa nay kể xiết bao!
Quan Công vừa đi vừa than:
- Ta nào muốn giết người ở dọc đường làm chi. Việc làm vừa rồi
đều là bất đắc dĩ cả. Nếu Tào công biết, tất trách ta là người phụ ân.
Đương đi, chợt thấy một người phi ngựa từ đằng bắc đến gọi
to:
- Vân Trường hãy đứng lại.
Quan Công dừng ngựa lại xem, thì là Tôn Càn.
Quan Công hỏi:
- Từ khi xa nhau ở Nhữ Nam, tin tức bấy nay thế nào?
Tôn Càn nói:
- Từ khi tướng quân rút quân về, Lưu Tích, Cung Đô lại cướp lại
Nhữ Nam, sai tôi sang Hà Bắc kết hiếu với Viên Thiệu, mời Huyền Đức cùng bàn kế
phá Tào Tháo. Không ngờ tướng sĩ Hà Bắc ghen ghét nhau. Điền Phong thì vẫn còn ở
tù, Thư Thụ thì bị bãi chức; Thẩm Phối, Quách Đồ thì tranh nhau quyền hành. Thiệu
tính hay ngờ vực, không có quyết đoán. Tôi cùng hoàng thúc bàn bạc phải tìm kế
thoát thân. Nay hoàng thúc đã sang Nhữ Nam hợp sức với Lưu Tích, Cung Đô rồi. Sợ
tướng quân chưa biết, lại đến chỗ Viên Thiệu, e bị hại chăng, nên hoàng thúc
sai tôi đi đón tướng quân, may gặp được ở đây, mời tướng quân về ngay Nhữ Nam gặp
hoàng thúc.
Quan Công đưa Tôn Càn đến chào hai phu nhân. Hai phu nhân hỏi
rõ tin tức. Tôn Càn nói:
- Hai lần Viên Thiệu toan giết hoàng thúc, nay may thoát thân
đã đến Nhữ Nam rồi. Hai phu nhân có thể đến gặp hoàng thúc ở đấy.
Hai phu nhân đều bưng mặt khóc.
Quan Công nghe lời Tôn Càn, không sang Hà Bắc, đi tắt về Nhữ
Nam. Đang đi, đằng sau cát bụi bay mù, một toán người ngựa đuổi theo, đi đầu là
Hạ Hầu Đôn. Đôn gọi to:
- Quan Vũ đừng chạy!
Ấy là:
Sáu tướng ngăn đường vừa chịu chết
Một quân theo đuổi lại đua gươm.
Muốn biết Quan Công thoát thân thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
Chú thích:
1. Ông tốt râu, chỉ Quan Công.
2. Hai thứ tuỳ thân của nhà sư. Y là áo
cà sa, bát là bát đựng cơm do tín đồ cung dưỡng (Theo tục lệ cũ, các nhà sư
mang bát lấy cơm của tín đồ gọi là “khất thực”).
Hồi 28:
Chém Sái Dương, anh em hòa giải
Hội Cổ Thành, vua tôi tụ nghĩa
Quan Công cùng Tôn Càn đưa hai phu nhân sang Nhữ Nam, không
ngờ Hạ Hầu Đôn đem ba trăm quân kỵ mã đuổi theo. Tôn Càn bảo vệ xa trượng đi
trước. Quan Công quay ngựa lại bảo Hạ Hầu Đôn:
- Mi lại đuổi ta làm mất cả lượng khoan hồng của thừa tướng!
Hạ Hầu Đôn nói:
- Thừa tướng không có công văn truyền báo. Mi đi dọc đường giết
người, lại giết cả bộ tướng của tao, rất là vô lễ. Phen này ta quyết bắt mi giải
về để thừa tướng xét xử.
Nói xong, tế ngựa vác giáo toan đánh Quan Công. Chợt thấy đằng
sau một người cưỡi ngựa chạy đến, nói to:
- Không được đánh nhau với Vân Trường!
Quan Công dừng cương ngựa lại. Sứ giả thò tay vào bọc lấy tờ
công văn ra, bảo Hạ Hầu Đôn rằng:
- Thừa tướng kính yêu Vân Trường là người trung nghĩa, sợ qua
các quan có việc ngăn trở, nên sai tôi đem công văn này báo khắp nơi.
Đôn hỏi:
- Thế Quan Vũ đi đường giết mấy tướng giữ ải, việc ấy thừa tướng
đã biết chưa?
Sứ thưa:
- Việc ấy thừa tướng chưa biết.
Đôn nói:
- Thế thì ta phải bắt sống nó đem về trình thừa tướng mới được,
rồi thừa tướng có tha thì tha.
Quan Công nói:
- Ta há sợ mi à?
Rồi vỗ ngựa cầm đao sấn vào đánh Đôn. Đôn cầm giáo nghênh địch.
Hai người đánh nhau được mười hiệp, lại có một người phi ngựa đến nói to:
- Hai tướng quân hãy dừng tay!
Đôn chống giáo hỏi:
- Thừa tướng bảo bắt Quan mỗ phải không?
Sứ giả thưa:
- Không phải! Thừa tướng sợ các tướng giữ cửa quan ngăn cản
Quan tướng quân, nên sai tôi đem công văn đến báo các nơi cứ để Quan tướng quân
đi.
Đôn lại hỏi:
- Thế việc nó giết người, thừa tướng đã biết chưa?
Sứ giả nói:
- Chưa.
Đôn nói:
- Nếu thừa tướng chưa biết thì không thể tha được.
Đôn chỉ huy quân sĩ vây lấy Quan Công. Quan Công giận lắm,
múa đao lại đánh. Hai bên sắp sửa giao chiến, bỗng sau trận có một người tế ngựa
lại gọi to:
- Vân Trường, Nguyên Nhượng đừng đánh nhau nữa!
Hai người cùng trông ra xem ai, thì là Trương Liêu. Hai bên đều
ghìm ngựa lại. Trương Liêu lại gần nói:
- Phụng chỉ thừa tướng: vì biết Vân Trường đi đường có vượt
qua mấy cửa quan giết mấy tướng, thừa tướng sợ Vân Trường đi đường bị ngăn trở,
nên sai tôi đi truyền dụ các ải cứ để cho Vân Trường đi.
Hạ Hầu Đôn nói:
- Tần Kỳ là cháu Sái Dương, hắn đem gửi ta, nay bị Quan mỗ giết,
Sái Dương sao chịu để yên?
Liêu nói:
- Tôi gặp Sái tướng quân, sẽ có cách phân giải. Thừa tướng đã
có lượng khoan dung để cho Vân Trường đi, ông không nên trái lệnh thừa tướng.
Hạ Hầu Đôn đành rút quân về.
Liêu hỏi Quan Công:
- Vân Trường nay muốn đi đâu?
Quan Công nói:
- Tôi nghe anh tôi bây giờ không ở chỗ Viên Thiệu nữa nên định
đi tìm khắp thiên hạ.
Liêu nói:
- Nếu chưa biết Huyền Đức ở đâu, hãy trở về gặp thừa tướng
đã, anh nghĩ thế nào?
Quan Công cười nói:
- Có lẽ đâu lại thế! Văn Viễn về gặp thừa tướng làm ơn tạ tội
hộ tôi.
Nói rồi vái chào Trương Liêu, từ biệt.
Trương Liêu và Hạ Hầu Đôn đem quân về.
Quan Công theo kịp xa trượng, nói chuyện lại với Tôn Càn. Hai
người giong ngựa ngang nhau cùng đi.
Đi được vài ngày, bỗng gặp cơn mưa to, hành trang ướt cả.
Trông xa bên chân núi chỉ có một cái trại. Quan Công dẫn xa trượng vào đó xin
nghỉ trọ.
Trong nhà một ông già ra đón. Quan Công kể rõ sự tình. Ông
già nói:
- Tôi họ Quách tên Thường, đời đời ở đây. Được nghe thấy tiếng
ngài đã lâu, nay được bái kiến thật là may mắn.
Nói rồi sai giết dê làm rượu thết đãi, mời hai phu nhân vào tạm
nghỉ ở nhà trong. Quách Thường ngồi tiếp Quan Công và Tôn Càn ở nhà ngoài uống
rượu. Một bên hơ đồ hành lý; một bên cho ngựa ăn uống.
Đến lúc trời sâm sẩm tối, thấy một chàng trẻ tuổi đem vào người
vào, đi thẳng lên nhà. Quách Tường gọi bảo:
- Con lại đây bái kiến tướng quân.
Nhân nói với Quan Công:
- Đây là con trai tôi.
Quan Công hỏi:
- Đi đâu về?
Thường nói:
- Cháu đi săn bắn mới về.
Người con trai chào qua Quan Công, rồi lại xuống thềm đi mất.
Quách Thường khóc nói:
- Nhà lão phu xưa nay chuyên nghề cày ruộng đọc sách, chỉ
sinh được một đứa con trai này, nó chẳng chăm lo việc nhà, chỉ mê chơi bời săn
bắn, thực không may cho nhà lão phu!
Quan Công nói:
- Nay đương thời loạn, nếu tinh thông nghề võ, cũng có thể lập
được công danh, sao lại gọi là không may?
Thường nói:
- Nếu nó chuyên tập nghề võ, thì là người có chí, nhưng nay
nó chỉ dông dài, lêu lổng, bởi thế lão phu rất lấy làm lo.
Quan Công nghe chuyện cũng ái ngại cho ông cụ.
Đến canh khuya, Quách Thường cáo từ đi ra. Quan Công cùng Tôn
Càn sắp đi ngủ, chợt nghe đằng sau nhà có tiếng ngựa hí người kêu.
Quan Công vội gọi người nhà, chẳng thấy ai thưa, liền cùng
Tôn Càn cầm gươm đi ra xem, thì thấy con Quách Thường ngã quay dưới đất, kêu la
rầm rĩ, người nhà thì đang đánh nhau với một bọn trang khách. Quan Công hỏi cớ
làm sao, người nhà thưa:
- Anh này toan lại ăn trộm ngựa Xích thố, bị ngựa đá ngã,
chúng tôi nghe thấy tiếng kêu, chạy lại xem, thì những người này lại đến đánh
chúng tôi.
- Đồ chuột nhắt sao dám trộm ngựa của ta?
Rồi toan lại đánh cho một trận. Quách Thường chạy đến kêu
van:
- Thằng con lão phu hư hỏng dám làm việc càn bậy này, tội nó
thực đáng chết. Nhưng vợ già tôi rất thương yêu nó, xin tướng quân rủ lòng nhân
từ tha tội cho nó.
Quan Công nói:
- Thằng bé này thực là hư hỏng, như lời ông vừa nói: thực
đúng với câu cổ ngữ: “Biết con không ai bằng cha”. Thôi nể ông tôi hãy tha cho
nó.
Bèn bảo người nhà trông ngựa cẩn thận, đuổi bọn trang khách,
rồi cùng Tôn Càn vào nhà khách nghỉ.
Hôm sau vợ chồng Quách Thường ra lạy ở dưới thềm, xin lỗi:
- Đứa con dại chúng tôi xúc phạm oai hùm, nhờ ơn tướng quân
tha thứ, chúng tôi cảm tạ vô cùng.
Quan Công bảo:
- Gọi nó ra đây để ta lấy lẽ phải dạy bảo nó.
Thường nói:
- Canh tư đêm hôm qua, nó cùng mấy đứa vô lại dắt nhau đi đâu
rồi.
Quan Công tạ biệt Quách Thường, mời hai chị lên xe cùng Tôn
Càn sánh ngựa bảo vệ xa trượng, đi theo đường núi.
Đi ước được ba mươi dặm, thấy đằng sau núi có hơn một trăm
người kéo ra, hai người đi đầu cưỡi ngựa, một người đầu đội khăn vàng, mình mặc
áo chiến; một người chính là con Quách Thường. Người khăn vàng nói rằng:
- Ta là bộ tướng của Thiên công tướng quân Trương Giác. Người
kia để ngựa Xích thố lại, thì ta tha cho đi.
Quan Công nghe nói cười to nói:
- Bọn giặc điên kia! Đã đi theo Trương Giác, hẳn có biết tiếng
ba anh em Lưu, Quan, Trương?
Người khăn vàng nói rằng:
- Ta chỉ biết tiếng người mặt đỏ râu dài là Quan Vân Trường,
nhưng ta chưa thấy mặt bao giờ. Mi là người nào?
Quan Công cắp đao, dừng ngựa, cởi túi râu ra, vuốt cho mà
coi. Người ấy vội vàng nhảy xuống ngựa, nắm đầu con Quách Thường, lôi lại nộp
trước ngựa Quan Công. Quan Công hỏi họ tên, người ấy thưa:
- Tôi họ Bùi tên là Nguyên Thiệu, từ khi Trương Giác chết đến
giờ, không có ai làm chủ, phải vào tụ tập trong núi rừng. Sớm hôm nay, thằng
này mách tôi rằng có một người khách cưỡi con ngựa đi nghìn dặm, ngủ trọ nhà
nó, nó rủ tôi đi ăn cướp ngựa. Không ngờ lại gặp được tướng quân.
Con Quách Thường cũng phục xuống lạy xin tha tội. Quan Công
nói:
- Ta nể mặt bố mày mà tha cho mày.
Con Quách Thường ôm đầu thui thủi đi mất. Quan Công hỏi
Nguyên Thiệu:
- Ngươi không biết mặt ta sao lại biết tiếng?
Nguyên Thiệu thưa:
- Cách đây hai mươi dặm, có núi Ngoạ Ngưu. Trong núi có một
người ở Quan Tây, họ Châu tên Thương, hai cánh tay nhắc nổi nghìn cân, bắp thịt
cứng, râu xồm, hình dáng dữ tợn, nguyên là bộ hạ Trương Bảo. Từ khi Trương Bảo
chết, Châu Thương tụ tập trong rừng, thường nói đến đại danh tướng quân, tiếc rằng
không có cách nào được gặp.
Quan Công nói:
- Rừng xanh không phải là nơi hào kiệt nương mình. Các ông từ
rày nên bỏ tà theo chính, đừng có tự làm phí mất thân mình.
Nguyên Thiệu lạy tạ.
Trong khi đang nói chuyện, thấy ở đằng xa có một toán quân
kéo đến. Nguyên Thiệu nói:
- Đó hẳn là Châu Thương.
Quan Công dừng lại, thấy một người mặt đen, mình cao lớn, cưỡi
ngựa vác giáo dẫn quân đến, trông thấy Quan Công vừa mừng vừa sợ, nói ngay rằng:
- Đây là Quan tướng quân rồi!
Rồi vội vàng xuống ngựa, thụp lạy bên đường, nói:
- Tôi là Châu Thương xin bái kiến tướng quân!
Quan Công nói:
- Tráng sĩ đã biết ta ở nơi nào vậy?
Châu Thương thưa:
- Khi xưa tôi theo giặc Khăn Vàng là Trương Bảo, đã được biết
tôn nhan, tiếc rằng mình trót theo giặc, không được theo hầu. Ngày nay may được
bái kiến ở đây, tướng quân đừng ruồng bỏ, cho làm lính bộ, sớm tối cầm roi theo
sau ngựa, dẫu chết cũng cam tâm.
Quan Công thấy Châu Thương lòng rất thành thực, hỏi:
- Ngươi theo ta, còn thủ hạ của ngươi thì làm thế nào?
Châu Thương nói:
- Ai muốn theo thì theo, bằng không thì tuỳ ý.
Mọi người đều xin đi theo cả. Quan Công vội vàng xuống ngựa,
đến trước xe bẩm hỏi hai chị. Cam phu nhân nói:
- Từ khi chú rời Hứa Đô, một mình đi đến đây trải bao nhiêu
gian nan, chưa từng cần có quân mã đi theo. Trước kia Liêu Hoá muốn đi theo,
chú cũng từ chối, nay sao lại cho quân Châu Thương đi theo? Đó là thiển kiến của
chị em đàn bà chúng tôi, xin tuỳ ý chú suy xét.
Quan Công nói:
- Chị nói rất phải.
Bèn bảo Châu Thương rằng:
- Không phải ta không có tình, nhưng vì hai phu nhân không
ưng, các ngươi hãy về núi, đợi khi nào ta tìm thấy anh ta, bấy giờ sẽ sai người
đi gọi.
Châu Thương dập đầu xuống đất nói:
- Châu Thương là một kẻ thô mãng, đã lỡ bước đi theo giặc;
nay được gặp tướng quân, khác nào được trông thấy trời và mặt trời, sao lại bỏ
lỡ cơ hội này? Nếu đông người đi theo không tiện, xin cho chúng ở lại với
Nguyên Thiệu, còn tôi chỉ xin một mình đi bộ theo tướng quân, dẫu đường xa muôn
dặm cũng không quản ngại.
Quan Công lại đem lời ấy bẩm với hai chị. Cam phu nhân nói:
- Một vài người theo thì được.
Quan Công sai Châu Thương giao cả quân cho Bùi Nguyên Thiệu.
Nguyên Thiệu nói:
- Ta cũng muốn theo Quan tướng quân.
Châu Thương nói:
- Nếu anh cũng đi, thì quân tan hết, chi bằng anh hãy tạm thống
lĩnh lấy, để tôi đi theo Quan tướng quân, hễ có đóng ở đâu, tôi sẽ về gọi anh.
Nguyên Thiệu bùi ngùi từ biệt.
Châu Thương theo Quan Công sang Nhữ Nam. Đi được vài ngày,
trông xa xa trên đỉnh núi, có một toà thành, Quan Công hỏi thổ dân là thành
nào? Thổ dân nói:
- Đây gọi là Cổ Thành. Mấy tháng trước có một tướng, tên gọi
Trương Phi, dẫn vài mươi quân kỵ đến, đuổi quan huyện đi, chiếm lấy thành trì,
mộ quân tậu ngựa, chứa cỏ tích lương, nay có đến năm ba nghìn quân mã. Chung
quanh đây không ai dám chống lại.
Quan Công nghe nói, mừng rỡ vô cùng:
- Em ta từ khi ở Từ Châu thất tán, lâu nay vẫn không biết ở
đâu, ai ngờ lại hoá ra ở đây!
Liền sai ngay Tôn Càn vào thành báo tin, bảo Trương Phi ra
đón hai chị.
Trương Phi từ khi trốn vào núi Mang Đãng, ở hơn một tháng. Một
bữa ra ngoài nghe ngóng tin tức Huyền Đức, chợt đi qua Cổ Thành, vào huyện vay
lương thực. Quan huyện không cho vay, Phi nổi giận đuổi ngay quan huyện đi, cướp
lấy ấn thụ, chiếm lấy thành trì, tạm lấy chốn nương thân.
Hôm ấy, Tôn Càn theo lệnh Quan Công vào thành ra mắt Trương
Phi, thi lễ xong, nói chuyện Huyền Đức đã bỏ Viên Thiệu sang Nhữ Nam, Vân Trường
thì ở Hứa Đô vừa đưa hai phu nhân đến đây. Rồi mời Trương Phi ra đón.
Phi nghe xong, chẳng nói năng gì, lập tức mặc áo giáp vác mâu
lên ngựa, dẫn một nghìn quân, đi tắt ra cửa bắc. Tôn Càn thấy lạ nhưng không
dám hỏi, cũng phải theo ra thành.
Quan Công trông thấy Trương Phi ra, mừng rỡ vô cùng, giao
long đao cho Châu Thương cầm, tế ngựa lại đón. Trương Phi mắt tròn xoe râu vểnh
ngược, hò thét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công.
Quan Công giật mình, vội tránh mũi mâu, hỏi:
- Hiền đệ cớ sao thế, há quên nghĩa vườn đào ru?
Trương Phi hầm hầm quát:
- Mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp tao nữa?
Quan Công nói:
- Ta làm sao mà bội nghĩa?
Trương Phi nói:
- Mày bỏ anh, hàng Tào Tháo được phong hầu phong tước, nay lại
đến đây đánh lừa tao! Phen này tao quyết liều sống chết với mày.
Quan Công nói:
- Chuyện này em không biết, ta cũng khó nói. May có hai chị ở
đây, em đến mà hỏi.
Hai phu nhân nghe thấy thế, vội vàng vén màn xe, gọi:
- Chú ba sao lại thế?
Phi nói:
- Xin hai chị hãy thong thả, để tôi giết thằng phụ nghĩa này
đã, rồi sẽ mời hai chị vào thành.
Cam phu nhân nói:
- Khoan đã chú ba, khoan đã! Chớ hấp tấp mà làm càn bây giờ.
Chú hai không biết tin tức mọi người ở đâu, nên phải tạm nương mình bên Tào.
Nay đã biết anh nhà ở Nhữ Nam, không ngại hiểm trở, đưa lũ ta đến đây. Chú
không được nghĩ lầm như thế.
My phu nhân nói:
- Chú hai trước ở Hứa Đô, thực là bất đắc dĩ.
Phi nói:
- Hai chị bị nói lừa dối đấy. Trung thần mà chịu chết không
chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ!
Quan Công nói:
- Hiền đệ đừng nói vậy, oan uổng cho anh quá!
Tôn Càn nói:
- Vân Trường đến đây là cốt để tìm tướng quân.
Trương Phi mắng:
- Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây là để bắt
ta đó!
Quan Công nói:
- Nếu ta đến bắt em, tất phải đem theo quân mã chứ!
Trương Phi trỏ tay đằng xa nói:
- Không phải quân mã là gì kia?
Quan Công ngoảnh đầu lại, quả nhiên thấy bụi bay mù mịt, một
toán quân mã kéo đến, cờ hiệu phấp phới chính là cờ Tào. Trương Phi nổi giận
nói:
- Bây giờ còn chối nữa thôi?
Rồi múa bát xà mâu hăm hở lại đâm Quan Công. Quan Công vừa đỡ
vừa can:
- Hiền đệ hãy khoan, xem ta chém tên tướng ấy, để tỏ lòng thực
của ta.
- Nếu mày có lòng thực, ta đánh ba hồi trống mày phải chém được
tên tướng ấy.
Quan Công nhận lời. Một lát quân Tào kéo đến. Sái Dương đi đầu,
vác đao tế ngựa chạy lại, quát to:
- Mày giết cháu tao là Tần Kỳ, lại trốn đến đây, tao phụng mệnh
thừa tướng đến bắt mày.
Quan Công chẳng nói một lời, múa long đao xô lại. Trương Phi
thẳng cánh đánh trống, chưa dứt một hồi, đầu Sái Dương đã lăn xuống đất.
Quân Tào chạy tan tác. Quan Công bắt một tên lính cầm cờ hiệu
hỏi chuyện đầu đuôi. Tên lính thưa:
- Sái Dương nghe tin tướng quân giết mất cháu ngoại là Tần Kỳ,
nổi giận đùng đùng, muốn sang Hà Bắc đánh nhau với tướng quân. Thừa tướng không
cho đi, nên sai Sái Dương sang Nhữ Nam đánh Lưu Tích, không ngờ đến đây lại gặp
tướng quân.
Quan Công sai tên lính kể chuyện ấy cho Trương Phi nghe. Phi
hỏi kỹ việc ở Hứa Đô, tên lính kể hết nông nỗi từ đầu đến cuối, bấy giờ Trương
Phi mới tin anh là thực.
Giữa lúc ấy, có quân đến báo:
- Ngoài cửa nam có vài mươi quân kỵ mã đi lại rất khẩn cấp,
không biết là những người nào?
Phi lấy làm hồ nghi, chạy ra cửa nam xem, quả thấy một toán
mươi quân kỵ mã đeo cung nhẹ, cài tên ngắn, chạy lại. Thấy Phi, chúng vội vàng
xuống ngựa. Phi nhìn ra thì là My Chúc và My Phương.
Trương Phi xuống ngựa chào hỏi, Chúc nói:
- Từ khi ở Từ Châu thất tán, hai anh em tôi trốn nạn về làng ở,
sai người đi dò thăm tin tức, biết Quan Vân Trường đã hàng Tào Tháo, chúa công
thì ở Hà Bắc; lại nghe nói Giản Ung cũng sang Hà Bắc rồi. Nhưng lại không biết
tướng quân ở đây. Bữa nọ, gặp một bọn khách đi đường, nói chuyện có một tướng họ
Trương, hình dáng như thế, chiếm cứ Cổ Thành. Anh em tôi đoán tất là tướng
quân, nên lại đây tìm hỏi. Thực là may quá!
Phi nói:
- Vân Trường cùng Tôn Càn vừa đưa hai chị đến đây. Anh ta bây
giờ ở đâu, ta cũng biết cả rồi.
Hai anh em họ My mừng rỡ vô cùng, cùng đến chào Quan Công, và
bái kiến hai phu nhân.
Phi mời hai chị vào thành.
Vào đến nhà, hai bà mới kể lại những việc Quan Công đã trải
qua. Trương Phi nghe hết chuyện, rỏ nước mắt khóc, thụp xuống lạy Vân Trường.
Hai anh em My Chúc, My Phương thấy vậy cũng động lòng thương cảm.
Trương Phi cũng đem chuyện mình từ khi xa nhau đến giờ ra kể,
rồi sai mở tiệc yến lớn ăn mừng.
Hôm sau Trương Phi muốn đi với Quan Công đến Nhữ Nam gặp Huyền
Đức.
Quan Công nói:
- Hiền đệ nên trông coi hai chị, tạm đóng quân ở thành này, đợi
tôi cùng Tôn Càn đi trước, thăm dò tin tức huynh trưởng đã.
Phi vâng lời. Quan Công cùng Tôn Càn dẫn vài mươi quân kỵ mã
đến Nhữ Nam.
Lưu Tích, Cung Đô ra đón. Quan Công hỏi:
- Hoàng thúc ở đâu?
Lưu Tích nói:
- Hoàng thúc đến đây ở được vài tháng, vì thấy quân ít lại
sang Hà Bắc thương lượng với Viên Bản Sơ.
Quan Công bực dọc không vui.
Tôn Càn nói:
- Việc gì tướng quân phải lo buồn? Tôi lại chịu khó đi một
phen nữa sang Hà Bắc, nói với hoàng thúc cùng đến Cổ Thành.
Quan Công nghe lời Tôn Càn, từ biệt Lưu Tích, Cung Đô, về Cổ
Thành, thuật chuyện lại với Trương Phi. Trương Phi lại đòi cùng sang Hà Bắc.
Quan Công nói:
- Duy có một thành này là nơi chúng ta yên thân, chưa nên bỏ
mà đi. Hiền đệ nên ở lại đây, để anh cùng Tôn Càn sang bên Viên Thiệu tìm huynh
trưởng về đây tụ họp. Hiền đệ nên giữ vững thành này.
Trương Phi nói:
- Anh đã chém mất Nhan Lương, Văn Sú của Viên Thiệu, nay lại
sang đó sao được?
Quan Công nói:
- Không ngại, anh đến đó, sẽ tuỳ cơ ứng biến.
Bèn gọi Châu Thương hỏi:
- Bùi Nguyên Thiệu ở núi Ngoạ Ngưu, có bao nhiêu quân mã?
Thương thưa:
- Ước được bốn năm trăm.
Quan Công nói:
- Nay ta đi tắt đường gần, tìm huynh trưởng. Ngươi nên về núi
Ngoạ Ngưu, bảo đem hết cả quân mã ở đây đi đường cái to đón ta.
Châu Thương lĩnh mệnh đi.
Quan Công cùng Tôn Càn đem hơn hai mươi quân kỵ mã đi tắt
sang Hà Bắc. Khi đến gần đầu địa giới, Tôn Càn nói:
- Tướng quân không nên vào vội, hãy tạm nghỉ ở đây, chờ tôi
ra mắt Hoàng thúc trước, rồi thế nào sẽ hay.
Quan Công y lời, để Tôn Càn đi trước. Rồi trông ở làng xa có
một cái trại, bèn cùng các người tuỳ tùng vào đó xin nghỉ trọ.
Trong nhà có một ông già chống gậy ra chào hỏi. Quan Công lấy
chuyện thực ra nói, ông già nói:
- Tôi cũng họ Quan tên Định, nghe thấy tiếng tăm của ngài đã
lâu, nay mới được bái kiến.
Ông già sai hai con ra lạy, mời Quan Công và các người tuỳ
tùng vào trong nhà khoản đãi tử tế.
Tôn Càn một mình vào Ký Châu, tìm được đến Huyền Đức nói rõ mọi
việc.
Huyền Đức nói:
- Giản Ung cũng ở đây. Nên mật mời đến cùng bàn.
Một lát Giản Ung đến. Chào hỏi xong, cùng bàn kế thoát thân.
Ung nói:
- Chúa công ngày mai gặp Viên Thiệu, nói xin sang Kinh Châu,
nhủ Lưu Biểu cùng đánh Tào Tháo, thế là có thể thừa cơ đi thẳng.
Huyền Đức hỏi:
- Kế ấy thực diệu, nhưng ông có đi theo được không?
Giản Ung thưa:
- Tôi sẽ có kế thoát thân.
Bàn định đâu đấy, hôm sau Huyền Đức vào gặp Viên Thiệu nói:
- Lưu Cảnh Thăng trấn giữ chín quận Kinh, binh mạnh lương nhiều.
Ta nên hẹn với y để cùng đánh Tào Tháo.
Thiệu nói:
- Ta sai sứ đến rủ hắn, nhưng hắn chưa chịu nghe.
Huyền Đức nói:
- Lưu Biểu vốn đồng tông với tôi, tôi xin đi nói, tất theo
ngay.
Thiệu nói:
- Được Lưu Biểu, hơn Lưu Tích nhiều.
Rồi sai Huyền Đức đi, Thiệu lại nói:
- Mới đây ta nghe Quan Vân Trường đã bỏ Tào Tháo, muốn đến Hà
Bắc. Ta phải giết đi để báo thù cho Nhan Lương, Văn Sú.
Huyền Đức nói:
- Minh công trước muốn dùng Quan Vũ, nên tôi gọi đến, nay sao
minh công lại muốn giết đi? Vả Nhan Lương, Văn Sú chẳng qua chỉ bằng hai con
hươu mà thôi. Quan Vũ bằng một con hổ. Mất hai hươu, được một hổ, minh công còn
hối hận gì?
Thiệu cười nói:
- Ta vốn vẫn yêu Vân Trường, ta nói đùa đó thôi. Ông lại nên
cho đi gọi một lần nữa, bảo đến cho nhanh.
Huyền Đức nói:
- Vâng, xin sai ngay Tôn Càn đi gọi
Thiệu mừng, theo lời ấy.
Khi Huyền Đức đi khỏi, Giản Ung bước lên thưa:
- Huyền Đức phen này đi, chắc không về nữa. Tôi xin cùng đi,
trước là để dụ Lưu Biểu, sau là để kìm giữ Huyền Đức.
Thiệu lấy làm phải, sai ngay Giản Ung cùng đi với Huyền Đức.
Quách Đồ can rằng:
- Lưu Bị đi dụ Lưu Tích chưa được việc gì, nay chúa công lại
sai cùng Giản Ung đến Kinh Châu, chắc là không trở về nữa.
Thiệu nói:
- Ngươi chớ đa nghi, Giản Ung là người hiểu biết đấy.
Quách Đồ thở dài trở ra.
Huyền Đức sai Tôn Càn đi trước về báo Quan Công rồi cùng Giản
Ung từ biệt Viên Thiệu, lên ngựa ra thành.
Huyền Đức đi đến đầu địa giới, Tôn Càn ra đón mời về nhà Quan
Định.
Quan Công ra cửa đón vào, hai người cầm tay nhau khóc lóc
mãi.
Quan Định đem hai con ra lạy chào. Huyền Đức hỏi họ tên nhà
chủ. Quan Công thưa:
- Người này cùng họ với em, có hai con trai: Con cả là Quan
Ninh, học nghề văn; con thứ là Quan Bình, học nghề võ.
Quan Định nói:
- Ý tôi muốn cho con thứ hai theo hầu Quan tướng quân, chưa
biết có được dung nạp không?
Huyền Đức hỏi:
- Quan Bình năm nay bao nhiêu tuổi?
Định thưa:
- Cháu năm nay mười tám tuổi.
Huyền Đức nói:
- Đa tạ nhã ý của bậc trưởng gia, em tôi chưa có con, nay muốn
xin cậu thứ hai làm con nuôi, trưởng gia nghĩ thế nào?
Quan Định mừng lắm, đem ngay Quan Bình ra lạy Quan Công nhận
làm bố, gọi Huyền Đức làm bá phụ.
Huyền Đức sợ Viên Thiệu cho người đuổi theo, vội vàng thu xếp
để đi. Quan Bình theo Quan Công cùng đi một thể. Quan Định đi tiễn một thôi đường
rồi trở về. Quan Công dặn đi theo đường đến núi Ngoạ Ngưu.
Đang đi chợt gặp Châu Thương dẫn vài mươi người bị thương đến.
Quan Công đem Châu Thương đến lạy Huyền Đức, rồi mới hỏi duyên cớ, Châu Thương
nói:
- Khi tôi chưa đến núi Ngoạ Ngưu có một tướng cưỡi ngựa qua
đó, đánh nhau với Bùi Nguyên Thiệu, chỉ một hiệp, đâm chết Nguyên Thiệu, chiêu
hàng quân sĩ chiếm giữ sơn trại. Khi tôi đến gọi quân sĩ ra, chỉ có mấy người
dám ra, còn thì đều sợ hãi, không dám rời bỏ sơn trại. Tôi giận lắm, cùng với
tướng ấy đánh nhau, tôi bị đâm ba vết thương, bởi vậy tôi chạy lại đây báo chúa
công biết.
Huyền Đức hỏi tướng ấy hình dạng thế nào, họ tên là gì thì
Châu Thương nói:
- Trông người rất hùng tráng, không biết tên họ là gì.
Quan Công thúc ngựa đi trước, Huyền Đức đi sau, đi tắt đến
núi Ngoạ Ngưu. Châu Thương đến đứng dưới núi, mắng chửi, tướng ấy mặc áo giáp,
vác giáo tế ngựa đem quân xuống núi.
Huyền Đức trông thấy quất ngựa ra ngay gọi to:
Tướng ấy thấy Huyền Đức, nhảy từ trên yên ngựa xuống đất, thụp
lạy ở bên đường: quả nhiên là Triệu Tử Long.
Huyền Đức, Quan Công cùng xuống ngựa, hỏi Tử Long căn do làm
sao lại ở đó, Tử Long thưa:
- Tôi từ khi giã biệt sứ quân đi theo Công Tôn Toản, không ngờ
Toản không chịu nghe lời phải, đến nỗi quân thua, phải tự đốt chết. Viên Thiệu
mấy lần cho gọi tôi. Tôi cho Viên Thiệu cũng không biết dùng người, nên cũng
chưa đến. Sau định sang Từ Châu theo sứ quân thì lại nghe Từ Châu đã thất thủ.
Vân Trường thì theo Tào Tháo; sứ quân thì thấy nói ở bên Viên Thiệu. Đã hai ba
lần muốn đến để tìm sứ quân, nhưng lại sợ Viên Thiệu ngờ vực, long đong bốn bề,
không có chỗ nào nương mình. Mới đi qua chỗ này, chợt gặp Bùi Nguyên Thiệu xuống
núi toan cướp ngựa của tôi, nên tôi giết đi, nhân thế mượn chỗ yên thân. Gần
đây nghe tin Dực Đức ở Cổ Thành, tôi cũng định đến đó, nhưng chưa biết thực hư
thế nào. Nay gặp sứ quân ở đây thật là may quá.
Huyền Đức mừng lắm, kể lại chuyện trước, Quan Công cũng thuật
lại những chuyện đã qua.
Huyền Đức lại nói:
- Từ khi ta mới gặp được Tử Long, đã có tình lưu luyến, không
bỏ được. Ngày nay lại được gặp, thực là may.
Triệu Tử Long nói:
- Tôi đã đi khắp bốn phương, chọn chủ để thờ, mà chưa từng thấy
ai bằng tướng quân. Nay được theo hầu thực là mãn nguyện bình sinh; dẫu rằng
gan góc lầm đất, cũng không hối hận gì.
Ngay hôm ấy đốt trại xuống núi, xuất lĩnh chúng quân theo cả
Huyền Đức đến Cổ Thành.
Trương Phi, My Chúc, My Phương ra đón vào thành, chào chào, hỏi
hỏi, mừng mừng, rỡ rỡ khôn xiết kể. Hai bà kể lại chuyện Quan Công, Huyền Đức
than thở mãi.
Bấy giờ giết bò mổ ngựa, trước bái tạ trời đất, sau khao thưởng
quân sĩ, Huyền Đức thấy anh em lại được sum họp một nơi, tướng tá chẳng thiếu người
nào, lại thêm được Triệu Tử Long; Quan Công lại mới được Quan Bình, Châu
Thương, vui mừng khôn xiết, yến tiệc liền mấy ngày. Đời sau có thơ rằng:
Ngán nỗi anh em cảnh biệt ly,
Biệt vô âm tín đã bao kỳ!
Vua tôi nay lại mừng sum họp,
Hổ gió rồng mây chính gặp thì.
Bấy giờ Huyền Đức, Quan, Trương, Triệu Vân, Tôn Càn, My Chúc,
My Phương, Quan Bình, Châu Thương thống lĩnh quân mã, cả thảy được bốn năm
nghìn người.
Huyền Đức muốn bỏ Cổ Thành sang Nhữ Nam. Vừa khi Lưu Tích,
Cung Đô sai người đến mời, bèn đem cả quân sang đóng ở Nhữ Nam, chiêu quân, tậu
ngựa, lo tính việc đi đánh dẹp.
Trong khi ấy, Viên Thiệu thấy Huyền Đức không về, giận lắm muốn
khởi binh đi đánh. Quách Đồ can rằng:
- Lưu Bị không đáng lo, Tào Tháo là kình địch phải trừ mới được.
Lưu Biểu tuy giữ ở Kinh Châu; nhưng sức còn yếu. Tôn Bá Phù ở Giang Đông, uy trấn
Tam Giang, đất liền sáu quận, mưu thần võ sĩ rất nhiều, nên sai người đến kết
hiếu để cùng đánh Tào Tháo.
Thiệu nghe lời, lập tức viết thư, sai Trần Chấn đem sang Giang
Đông gặp Tôn Sách.
Thế là:
Đất Hà Bắc anh hùng đi mất,
Xứ Giang Đông hào kiệt tìm ra.
Chưa biết sự thể về sau ra làm sao, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Hồi 29:
Tiểu Bá Vương giận chém Vu Cát
Ngô Tôn Quyền ngồi lĩnh Giang Đông
Tôn Sách từ khi nối nghiệp bá ở Giang Đông, binh mạnh lương
nhiều. Năm Kiến An thứ tư (199), đánh úp lấy Lư Giang, làm Lưu Huân bị thua,
Sách sai Ngu Phiên đưa tờ hịch đến Dự Chương, thái thú Dự Chương là Hoa Hâm xin
hàng. Từ đó thanh thế lừng lẫy, bèn sai Trương Hoành sang Hứa Đô, dâng biểu báo
công thắng trận. Tào Tháo biết thế Sách cường thịnh, than rằng:
- Con sư tử non này, khó lòng địch lại được!
Tháo hẹn gả con gái Tào Nhân cho em Tôn Sách là Tôn Khuông,
hai nhà thông gia với nhau, và lưu Trương Hoành ở lại Hứa Đô.
Bấy giờ thái thú Ngô Quận là Hứa Cống, mật sai sứ đến Hứa Đô,
dâng thư cho Tào Tháo, nói rằng: “Tôn Sách kiêu dũng, cũng như Hạng Vũ ngày
xưa, triều đình nên bề ngoài cho hầu được vinh sủng, gọi vào kinh đô không nên
để cho hắn ở ngoài, làm mối lo về sau”.
Sứ giả mang thư qua sông, bị tướng giữ sông bắt được, giải nộp
Tôn Sách. Sách xem thư, sai chém sứ giả rồi cho người giả tảng đi mời Hứa Cống
đến bàn việc! Cống đến nơi Sách đưa thư cho xem, mắng:
- Mày muốn đưa ta đến chỗ chết à?
Rồi sai quân sĩ đem thắt cổ cho chết.
Họ hàng Hứa Cống trốn đi cả. Có ba người gia khách muốn báo
thù cho Cống nhưng chưa gặp dịp nào thuận tiện.
Một hôm Tôn Sách đem quân đi săn ở Tây Sơn đất Đan Đồ. Có một
con hươu lớn chạy ra. Sách tế ngựa lên núi đuổi theo. Trong khi đang đuổi hươu,
thấy trong đám rừng rậm, có ba người cầm giáo đeo cung đứng rình, Sách dừng ngựa
lại hỏi:
- Các ngươi là ai?
Họ nói:
- Quân Hàn Đương săn hươu ở đây.
Sách vừa giựt cương ngựa sắp đi thì một người cầm giáo chạy lại,
đâm vào đùi Tôn Sách. Sách cả sợ vội vàng rút gươm ra chém, chẳng may lưỡi gươm
tụt rơi mất, chỉ còn cái vỏ trong tay. Một người giương cung bắn tên vào má
Sách. Sách nhổ cái tên ra, lấy cung bắn trả lại, người theo tiếng dây cung ngã
liền. Còn hai người kia vác giáo đến đâm Sách túi bụi và kêu to:
- Chúng tao là gia khách Hứa Cống, nay báo thù cho chủ đây
Sách tay không, chỉ lấy cung chống đỡ, vừa đỡ vừa chạy. Hai
người kia liều chết lăn vào đánh, không chịu lui. Mình Sách đã bị nhiều nhát
giáo, ngựa cũng bị thương.
Đương khi nguy cấp, Trình Phổ dẫn quân đến, Sách kêu to:
- Giết giặc!
Trình Phổ dẫn quân kéo cả vào, bọn gia khách Hứa Cống bị băm
nát như bùn.
Phổ nhìn Tôn Sách, thấy máu chảy đầy mặt, bị thương rất nặng,
bèn lấy dao cắt áo bào buộc chỗ bị thương lại, đem về Ngô Hội dưỡng bệnh.
Người sau có thơ khen ba gia khách họ Hứa:
Tôn lang nổi tiếng chẳng ai bì,
Săn bắn không may gặp nạn nguy,
Gia khách báo thù cho họ Hứa,
Ngày xưa Dự Nhượng chẳng hơn gì!
Tôn Sách về đến phủ, sai người đi mời Hoa Đà đến chữa thuốc.
Chẳng may Hoa Đà đi sang Trung Nguyên vắng, chỉ có học trò ở nhà, thay thầy đi
thăm bệnh. Người học trò nói:
- Đầu tên có thuốc độc, đã ngấm vào xương, phải nghỉ ngơi
trong một trăm ngày mới khỏi lo ngại. Nếu để cơn tức giận nổi lên, thì vết
thương sẽ khó chữa.
Tôn Sách vốn nóng nảy, chỉ muốn khỏi bệnh ngay lập tức.
Mới nghỉ ngơi được vài mươi ngày, chợt nghe có sứ giả của
Trương Hoành ở Hứa Đô về, Sách gọi đến hỏi. Sứ giả nói:
- Tào Tháo rất sợ chúa công, các mưu sĩ cũng đều kính phục,
duy có Quách Gia là không phục.
Sách hỏi:
- Quách Gia nói những gì?
Sứ giả không dám nói. Sách tức lắm, cố hỏi gặng cho được. Sứ
giả phải thưa thực:
- Quách Gia thường nói với Tào Tháo: “Chúa công không đáng sợ,
vì hay khinh thường không biết phòng bị, nóng tính mà ít mưu. Ấy là sức mạnh của
kẻ thất phu, thế nào cũng chết về tay bọn tiểu nhân mà thôi!”
Sách nghe nói giận lắm nói:
- Đứa thất phu sao dám chê ta! Ta thề lấy được Hứa Xương.
Bèn không đợi khỏi bệnh, muốn bàn khởi binh lập tức. Trương
Chiêu can:
- Thầy thuốc đã dặn chúa công phải tĩnh dưỡng trong một trăm
ngày. Nay vì cơn giận một lúc, mà chúa công khinh thường cái thân nghìn vàng,
sao nên?
Đương lúc ấy, chợt báo Viên Thiệu sai sứ giả là Trần Chấn đến.
Sách gọi vào hỏi việc gì. Chấn nói:
- Chủ tôi là Viên Bản Sơ muốn kết Đông Ngô làm ngoại ứng,
cùng đánh Tào Tháo.
Sách mừng lắm, ngay hôm ấy họp các tướng ở nhà lầu trên
thành, mở tiệc khoản đãi Trần Chấn.
Đương uống rượu, thấy các tướng thì thầm với nhau rồi rối rít
xuống lầu. Sách ngạc nhiên, hỏi cớ làm sao, tả hữu thưa:
- Có vị thần tiên họ Vu đi qua dưới lầu, các tướng muốn xuống
để lạy.
Sách đứng dậy, dựa bao lơn xem, thấy một đạo nhân, mình mặc
áo lông hạc, tay cầm gậy gỗ lê, đứng ở giữa đường, dân gian đốt hương quỳ lạy
dưới đất. Sách giận nói:
- Yêu nhân nào đó? Ra bắt vào đây cho ta.
Tả hữu thưa:
- Người ấy họ Vu tên Cát, ở phương đông, thường đi lại miền
Ngô Hội, cho bùa và nước phép cứu bệnh cho người, không ai là không khỏi. Người
ấy là thần tiên, không nên khinh nhờn.
Sách càng giận, quát to:
- Bắt ngay cho nhanh, ai trái lệnh sẽ bị chém!
Tả hữu bất đắc dĩ phải xuống dắt Vu Cát lên lầu.
Sách quát mắng:
- Quân tà đạo kia, sao dám làm mê hoặc lòng người?
Vu Cát thưa:
- Bần đạo vốn là đạo sĩ ở cung Lương Gia [1]. Đời vua Thuận đế
(126 - 144), bần đạo vào núi hái thuốc, được bộ sách thần trên suối Dương Khúc
tên là “Thái bình thanh lĩnh đạo” hơn trăm quyển, toàn là những phương thuốc chữa
các bệnh tật. Bần đạo được bộ sách ấy, chỉ chuyên thay trời cứu người, làm
phúc, chưa từng lấy của ai một mảy may gì, sao gọi là làm mê hoặc người được?
Sách hỏi:
- Nếu mày không lấy tiền của ai, thì cơm ăn áo mặc bởi đâu mà
có? Mày tức là bọn Trương Giác, nay nếu không giết đi, tất để lo về sau.
Sách quát tả hữu đem ra chém, Trương Chiêu can rằng:
- Vu đạo nhân ở Giang Đông mấy mươi năm nay, không hề làm điều
gì tội lỗi, xin chúa công đừng giết.
- Những hạng yêu nhân ấy, ta giết đi, khác nào giết chó giết
lợn.
Các quan ai cũng cố sức can, Trần Chấn cũng kêu van hộ. Sách
chưa nguôi giận, sai hãy đem giam vào ngục.
Các quan tan về, Trần Chấn cũng về nhà khách.
Tôn Sách về phủ, con hầu đã đem việc ấy nói với mẹ Sách là
Ngô thái phu nhân. Thái phu nhân mới gọi Tôn Sách vào hậu đường bảo:
- Mẹ nghe con đem Vu thần tiên bỏ ngục. Người ấy từng chữa khỏi
bệnh tật cho nhiều người, ai cũng kính trọng, con không nên giết.
Tôn Sách nói:
- Nó là yêu nhân, chỉ lấy yêu thuật dối người, không trừ
không được.
Phu nhân hai ba lần khuyên bảo. Sách nói:
- Xin mẹ đừng nghe người ta nói càn, con đã có cách cư xử.
Nói rồi trở ra, gọi ngục lại đem Vu Cát đến hỏi. Nguyên các
ngục lại ai cũng kính trọng Vu Cát, không ai dám gông xiềng gì cả, đến khi Sách
gọi, bấy giờ mới vội để Cát mang gông xiềng đi. Sách biết chuyện, quở mắng ngục
lại rất tệ, rồi lại sai gông Vu Cát lại bỏ ngục.
Bọn Trương Chiêu vài mươi người, cùng đứng tên làm giấy bảo
lĩnh cho Vu thần tiên.
Sách nói:
- Các ông đều là những người đã đọc sách cả, sao không đạt
lý? Ngày trước Trương Tần làm thứ sử Giao Châu, tin theo đồng cốt, gảy đàn thắp
hương, thường lấy khăn đỏ trùm đầu, cho là có thể giúp oai khi xuất quân, rồi
sau cũng bị quân địch giết chết. Những việc pháp thuật thật là vô ích, chỉ vì
các ông chưa hiểu đó thôi. Ta muốn giết Vu Cát cốt để cấm tà đạo và làm cho những
người mê tín tỉnh ngộ lại.
Lã Phạm nói:
- Tôi vốn biết Vu đạo nhân có thể cầu đảo được gió mưa, nay
trời đang đại hạn, sao chúa công không cho Vu đạo nhân ra đảo vũ để chuộc tội?
Sách nói:
- Ta hãy xem yêu nhân làm thế nào?
Liền sai đem Vu Cát ở trong ngục ra, tháo cả gông xiềng, cho
lên đàn đảo vũ.
Vu Cát lĩnh mệnh, lập tức tắm gội thay áo sạch, tự lấy thừng
trói mình, đứng phơi giữa trời nắng. Nhân dân đứng xem đầy đường lấp ngõ. Vu
Cát bảo những người xem rằng:
- Nay tôi cầu ba thước mưa ngọt để cứu muôn dân, nhưng tôi
cũng không tránh khỏi chết.
Chúng dân đều nói:
- Nếu đảo vũ linh nghiệm, chúa công tất nhiên phải tin phục.
Vu Cát nói:
- Số vận như thế, sợ không sao tránh khỏi được.
Được một lát, Tôn Sách đến chỗ lập đàn, hạ lệnh:
- Nếu đến giờ ngọ không mưa, ta đốt chết Vu Cát.
Rồi sai người xếp củi khô chực sẵn. Sắp đến giờ ngọ, cơn
giông bỗng nổi lên, mây đen mù mịt lấp trời.
Sách nói:
- Giờ ngọ sắp đến; chỉ có mây đen, không thấy mưa, thằng này
thực là yêu nhân.
Sách sai trói Vu Cát để trên đống củi, bốn mặt đốt lửa. Ngọn
lửa theo gió bốc lên ngùn ngụt. Chợt thấy một đám khói đen, bốc thẳng lên giữa
trời, rồi một tiếng vang động, vừa sấm vừa chớp, mưa xuống như trút nước. Trong
chốc lát, đường chợ thành sông, các khe ngòi đều đầy ứ, vừa được ba thước nước
mưa ngọt.
Vu Cát nằm tênh hênh trên đống củi, quát to một tiếng, tự
dưng mây tan, mưa tạnh, mặt trời lại ló ra.
Các quan và trăm họ vực Vu Cát từ trên đống củi xuống, cởi
dây trói, lạy hai lạy tạ ơn.
Tôn Sách thấy quan dân lạy la liệt, không quản chi bùn lầy nước
vũng, liền đùng đùng nổi giận, quát lên: “Giời mưa giời tạnh, đã có số định sẵn,
yêu nhân ngẫu nhiên gặp dịp, các ngươi sao lại mê hoặc như thế? Chúng bây đều
là một lũ ngu cả”.
Sách rút ngay bảo kiếm, truyền tả hữu chém ngay Vu Cát. Các
quan cố sức ngăn, Sách mắng:
- Các ngươi muốn theo Vu Cát làm phản chăng?
Các quan không ai dám nói gì nữa.
Sách quát võ sĩ đem chém Vu Cát, chỉ một nhát đao, đầu rơi xuống
đất, rồi thấy một luồng khói xanh bay vụt về mé đông bắc. Sách sai đem thây Vu
Cát bêu ở chợ để trị cái tội yêu tà.
Đêm hôm ấy mưa gió ầm ầm, đến sáng không thấy xác Vu Cát,
quân giữ thây vào báo Tôn Sách. Sách điên ruột, toan chém quân giữ thây. Chợt
thấy một người từ ngoài thong thả bước vào, trông ra thì là Vu Cát. Tôn Sách giận
lắm, toan rút gươm ra để chém, tự nhiên tối sầm mặt lại, ngã ngay xuống đất. Tả
hữu vội vàng vực Sách vào buồng trong, một lúc sau mới tỉnh lại.
Ngô thái phu nhân lại thăm, bảo Sách:
- Con giết oan thần tiên, cho nên có vạ này.
Sách cười, đáp:
- Từ thuở nhỏ đến giờ, con theo cha đi đánh giặc, giết người
như cắt gai, con chưa thấy ai oán bao giờ, nay giết yêu nhân, chính là để trừ vạ
lớn, đâu nó lại làm hại được con?
Phu nhân nói:
- Bởi con không chịu tin nên mới sinh ra thế. Nay nên cúng lễ
thì khỏi.
Sách đáp:
- Mệnh con tại trời, yêu nhân quyết không làm gì được, sao lại
phải cúng lễ?
Phu nhân biết là khuyên mãi Sách cũng không tin, cứ sai tả hữu
lập đàn cúng lễ.
Canh hai đêm hôm ấy, Tôn Sách đang nằm ở nhà trong, cơn gió lạnh
bỗng nổi lên, ngọn đèn lập loè sáng rồi lại tối. Dưới bóng đèn thấp thoáng,
Sách thấy Vu Cát đứng ngay đầu giường, Sách quát:
- Tao suốt đời đã thề giết quân yêu ma để yên thiên hạ. Mày
đã là ma, sao dám đến gần ta?
Sách cầm gươm ở đầu giường quăng ra thì chẳng thấy gì nữa.
Ngô thái phu nhân biết chuyện, lại thêm lo buồn. Tôn Sách tuy
bệnh nặng, phải gượng đứng dậy đi lại để yên lòng mẹ.
Ngô thái phu nhân bảo Sách:
- Đức thánh ngày xưa nói: “Đức quỷ thần thịnh lắm!” Lại có
câu: “Cầu khẩn thần thánh trên trời dưới đất”. Việc quỷ thần không thể không
tin. Con đã giết oan Vu tiên sinh, nên mới báo ứng ra thế. Nay mẹ đã sai người
làm chay ở miếu Ngọc Thanh trên quận, con nên thân hành đến lễ, tự nhiên sẽ khỏi
bệnh.
Sách không dám trái lời mẹ, phải miễn cưỡng lên kiệu ra miếu
Ngọc Thanh.
Đạo sĩ đón vào, mời Sách thắp hương, Sách đốt hương nhưng
không lễ tạ.
Bỗng nhiên trong lư hương, khói bốc lên không toả kết thành một
cái tán, ở trên thấy Vu Cát ngồi chễm chệ.
Tôn Sách vừa giận vừa mắng rồi chạy ra, thấy ngay Vu Cát đứng
ở giữa cung điện, trừng mắt nhìn Tôn Sách. Sách ngoảnh lại hỏi tả hữu:
- Các ngươi có trông thấy gì không?
Tả hữu nói không thấy gì cả.
Sách càng giận, rút gươm phóng vào chỗ Vu Cát đứng, một người
bị trúng ngã quay ra. Mọi người nhìn kỹ thì là tên lính đã chém Vu Cát hôm trước
nay bị gươm đâm vào đầu, bảy khiếu chảy máu mà chết.
Tôn Sách sai đem đi chôn. Đến khi ra cửa miếu, lại thấy Vu
Cát ở ngoài chạy vào.
Tôn Sách nói:
- Miếu này cũng là chỗ yêu tinh ẩn nấp.
Rồi ngồi ngay trước cửa quán, sai năm trăm võ sĩ phá đi. Võ
sĩ vừa dỡ ngói trèo lên, thì thấy ngay Vu Cát ngồi trên nóc nhà rút ngói ném xuống
đất. Sách giận quá, truyền lệnh đuổi các đạo sĩ ra ngoài, rồi đem lửa đốt miếu.
Lại thấy Vu Cát đứng trong ngọn lửa.
Sách tức lắm, trở về phủ, lại thấy Vu Cát đứng ngay trước cửa
phủ.
Sách không vào phủ nữa, điểm ngay ba quân, ra ngoài thành
đóng trại, cho gọi các tướng đến bàn, muốn khởi binh đi giúp Viên Thiệu để đánh
Tào Tháo cả hai mặt.
Các tướng can:
- Chúa công ngọc thể còn yếu, chưa nên khinh động. Xin đợi
khi nào khoẻ hẳn, cất quân cũng chưa muộn.
Đêm hôm ấy, Tôn Sách ngủ trong trại, bỗng thấy Vu Cát xoã tóc
đi vào. Sách chửi mắng không dứt miệng. Hôm sau, Ngô thái phu nhân cho gọi Tôn
Sách về phủ. Sách phải về. Phu nhân thấy Sách hình dong tiều tuỵ, khóc nói:
- Con ta đã thất sắc đi rồi!
Sách lấy gương soi, quả nhiên thấy hình dong đã mười phần sút
hẳn, bất giác kinh sợ hỏi tả hữu:
- Sao ta tiều tuỵ đến thế này?
Nói chưa dứt lời, chợt thấy Vu Cát đứng ở trong gương. Sách đập
ngay gương, thét to một tiếng. Vết đau ở chỗ bị thương vỡ ra, Sách ngã bất tỉnh
xuống đất.
Thái phu nhân sai vực Sách vào giường nằm. Được một lát, Sách
lại tỉnh dậy, than rằng:
- Ta không sống được nữa.
Rồi cho đòi bọn Trương Chiêu và em là Tôn Quyền đến trước giường
nằm dặn dò:
- Thiên hạ đương loạn, dùng dân chúng Ngô Việt ta ở, giữ vững
nơi hiểm yếu của ba con sông, có thể làm việc lớn được. Lũ Tử Bố cố hết lòng
giúp em ta.
Sách lấy ấn thụ trao cho Tôn Quyền và dặn:
- Cất quân Giang Đông, quyết được thua giữa trận ta và trận địch,
tranh hùng cùng thiên hạ, thì em không bằng anh, nhưng cất người hiền, dùng người
tài, khiến ai cũng hết sức giữ đất Giang Đông, thì anh không bằng được em. Em
nên nghĩ đến cơ nghiệp của cha anh đã khó nhọc mới gầy dựng nên, tự lo liệu cho
khéo.
Tôn Quyền khóc thương, lạy nhận ấn thụ.
Sách lại nói với mẹ:
- Số con đã hết, không thể thờ phụng mẹ nữa. Con đã giao ấn
thụ cho em Quyền, xin nhờ mẹ sớm chiều dạy bảo, những người cũ của cha, không
nên khinh đãi.
Phu nhân khóc nói:
- Sợ em con còn bé, không đương nổi việc lớn thì làm thế nào?
Sách nói:
- Tài em con gấp mười con, có thể gánh vác việc lớn. Về sau nếu
có việc trong không quyết thì hỏi Trương Chiêu, việc ngoài không quyết thì hỏi
Chu Du. Tiếc thay Chu Du không có ở đây để con dặn dò trước mặt.
Sách lại gọi các em đến dặn:
- Sau khi anh chết, các em phải hết sức giúp Trọng Mưu. Trong
tôn tộc, người nào dám có ý khác, các ngươi cứ giết đi. Trong anh em cốt nhục,
người nào dám làm điều loạn nghịch, khi chết không được táng vào đất mộ tổ.
Các em đều khóc, vâng lời dạy.
Sách lại gọi vợ là Kiều phu nhân và bảo:
- Ta cùng nàng chẳng may giữa đường phân ly, nàng nên hết
lòng phụng dưỡng mẹ ta. Nay mai em nàng có vào thăm, nên nhờ nói với Chu lang hết
lòng giúp em ta, chớ phụ cái tình tương tri từ trước.
Nói xong nhắm mắt chết.
Một tay gây dựng cõi Đông phương,
Ai cũng khen là Tiểu Bá Vương,
Thủ hiểm vững như hình hổ cứ,
Quyết cơ nhanh tựa thế ưng dương,
Ba sông phẳng lặng oai hùng dũng,
Bốn bể vang lừng tiếng vẻ vang,
Việc lớn dặn dò khi nhắm mắt,
Một lòng gắn bó cậy Chu lang.
Tôn Sách chết rồi, Tôn Quyền khóc phục xuống trước giường.
Trương Chiêu đến khuyên giải nói:
- Bây giờ không phải là lúc tướng quân khóc, một mặt nên sửa
sang việc tống táng, một mặt nên trông coi việc quân việc nước.
Quyền cố cầm nước mắt lại.
Trương Chiêu sai Tôn Tĩnh lo việc tang, mời Tôn Quyền ra công
đường để các quan văn võ vào lạy mừng.
Tôn Quyền người cằm vuông, miệng lớn, mắt biếc, râu tía. Khi
trước sứ nhà Hán, là Lưu Yển vào nước Ngô, trông thấy mấy anh em nhà họ Tôn, có
nói chuyện với người khác:
- Ta xem tướng cả mấy anh em họ Tôn, tuy rằng người nào tài
khí cũng giỏi giang khác thường, nhưng đều hưởng lộc không được bền. Duy chỉ có
Tôn Quyền, hình dong kỳ vĩ, cốt cách dị thường, thực là tướng đại quý, vả lại
hưởng được cao thọ, các anh em không người nào bằng.
Bấy giờ Tôn Quyền chịu mệnh anh, coi giữ Giang Đông, mọi việc
sửa sang chưa xong, có người báo:
- Chu Du từ Ba Khâu đã đem quân về.
Tôn Quyền mừng nói:
- Công Cẩn đã về, ta không lo chi nữa.
Nguyên Chu Du đóng giữ Ba Khâu, nghe tin Tôn Sách mắc bệnh, vội
vàng trở về hỏi thăm. Đi đến gần Ngô Quận, Du nghe tin Sách đã chết, cho nên đi
suốt ngày đêm về chịu tang.
Về đến nơi, Chu Du khóc lạy trước linh cữu. Ngô thái phu nhân
ra gặp, đem lời di chúc của Tôn Sách bảo lại Chu Du. Du lạy xuống đất nói:
- Tôi xin đem hết sức khuyển mã để đền đáp cho đến khi tôi chết
mới thôi!
Một lát, Tôn Quyền vào, Chu Du bái kiến xong, Tôn Quyền nói:
- Xin ông chớ quên những lời anh tôi dặn lại.
Du dập đầu xuống đất thưa:
- Tôi nguyện đem gan óc lầy đất để báo lại ơn tri kỷ.
Quyền hỏi:
- Nay tôi nối nghiệp cha, nên có mưu kế gì để giữ vững?
Du thưa:
- Xưa nay, được người hiền giúp thì nước thịnh, mất người hiền
thì nước mất. Chúa công nên cầu người cao minh viễn kiến để làm phụ tá, thì
Giang Đông sao chẳng vững bền?
Quyền nói:
- Anh tôi có dặn phàm việc trong thì nhờ Tử Bố, còn việc
ngoài nhờ Công Cẩn.
Du nói:
- Tử Bố là người hiền đạt, có thể đương nổi việc lớn. Còn tôi
bất tài, sợ phụ mất lòng tin cậy, nay xin tiến một người để giúp chúa công.
Quyền hỏi:
- Người nào?
Du nói:
- Người ấy họ Lỗ tên Túc, tự là Tử Kính, người ở Đông Xuyên,
quận Lâm Hoài. Người ấy có nhiều thao lược cơ mưu, mất bố từ thuở nhỏ, thờ mẹ rất
hiếu, nhà rất giàu, thường đem của cải giúp kẻ khốn khó. Khi tôi ở Cự Sào, đem
mấy trăm người đi qua Lâm Hoài, nhân thiếu lương ăn, nghe nhà Túc có hai vựa
thóc, mỗi vựa ba nghìn hộc. Tôi đến cầu giúp, Túc đem ngay một vựa ra cho. Người
ấy tính thực khảng khái. Ngày thường, Túc ham thích múa gươm, cưỡi ngựa, bắn
cung, nay ở Khúc A, vì bà mất, Túc về làm tang lễ ở Đông Thành. Đến đó, có một
người bạn là Lưu Tử Dương, muốn rủ Túc sang Sào Hồ theo Trịnh Bảo, Túc còn ngần
ngừ chưa đi. Chúa công nên sai người mời ngay đi.
Tôn Quyền mừng lắm, sai ngay Chu Du đi đón Lỗ Túc.
Chu Du đến nơi, chào hỏi xong, nói rõ lòng quý mến của Tôn
Quyền.
Túc nói:
- Tử Dương rủ sang Sào Hồ, tôi đang định đi.
Du nói:
- Ngày xưa Mã Viện nói với Quan Vũ rằng: “Đời này, không những
là vua chọn bầy tôi, bầy tôi cũng phải chọn vua”. Ngay Tôn tướng quân thân người
hiền, kính kẻ sĩ, dùng người kỳ lạ, ông không nên tìm nơi khác chỉ nên cùng tôi
sang giúp Đông Ngô là phải.
Túc theo lời, cùng Chu Du đến yết kiến Tôn Quyền. Tôn Quyền rất
kính trọng, cùng Túc đàm luận suốt ngày không chán.
Một hôm, các quan về, Quyền mời Túc ở lại uống rượu, đến tối,
nằm cùng giường, gác chân lên nhau. Nửa đêm, Quyền hỏi Túc:
- Nay nhà Hán suy yếu, bốn phương rối loạn, ta nối nghiệp cha
anh, muốn làm việc Hoàn, Văn[2], ông có mưu kế gì để dạy bảo ta không?
Túc nói:
- Xưa Cao tổ nhà Hán muốn tôn Nghĩa đế mà không làm được, là
vì Hạng Vũ làm trở ngại. Nay Tào Tháo cũng ví như Hạng Vũ, tướng quân làm thế
nào được việc Hoàn, Văn? Tôi nghĩ nhà Hán không thể phục hưng, Tào Tháo không
thể trừ được. Tướng quân chỉ nên giữ vững Giang Đông, đợi xem những sự biến cố
trong thiên hạ. Nay nhân phương Bắc lắm việc, hãy trừ Hoàng Tổ, đánh Lưu Biểu,
lấy hết các miền quanh Trường Giang, dựng hiệu đế vương để tính việc lớn. Đó là
sự nghiệp Hán Cao tổ.
Tôn Quyền mừng lắm, mặc áo, đứng dậy tạ ơn. Hôm sau, Quyền hậu
tặng Lỗ Túc và đưa những thứ áo chăn màn biếu mẹ Túc.
Túc lại đem một người nữa vào yết kiến Tôn Quyền; người ấy họ
là Gia Cát, tên là Cẩn, tự là Tử Du, học rộng tài cao, thờ mẹ rất hiếu. Gia Cát
Cẩn vốn người ở Nam Dương, quận Lương Gia. Tôn Quyền đãi làm khách quý.
Cẩn khuyên Tôn Quyền đừng kết hiếu với Viên Thiệu và hãy theo
Tào Tháo, rồi đợi lúc nào có cơ hội tốt sẽ tính toán sau.
Tôn Quyền nghe lời, cho Trần Chấn về, gửi thư khước từ Viên
Thiệu.
Bấy giờ Tào Tháo nghe tin Tôn Sách đã chết, muốn đem binh đi
lấy Giang Nam, thì ngự sử là Trương Hoành can:
- Nhân người ta có tang mà đánh, không phải là việc nghĩa. Nếu
đánh không được, tức là bỏ hoà hiếu mà gây oán thù, không bằng nhân dịp này mà
đối đãi tử tế với người ta.
Tháo nghe lời, tâu xin phong cho Tôn Quyền làm tướng quân,
lĩnh chức thái thú ở Cối Kê, cho Trương Hoành ra làm đô uý ở Cối Kê, đem ấn về
Giang Đông, giao cho Tôn Quyền.
Tôn Quyền mừng lắm, lại được Trương Hoành trở về Ngô, bèn sai
cùng Trương Chiêu trông coi chính sự.
Trương Hoành lại tiến một người, họ Cố tên Ung, tự là Nguyên
Thản, nguyên là học trò Sái Ung ngày xưa. Cố Ung người ít nói năng, không uống
rượu, nghiêm nghị chính trực. Quyền cho Ung làm quan thừa, coi việc thái thú.
Từ đó Tôn Quyền oai khắp cả đất Giang Đông, rất được lòng
dân.
Trong khi ấy thì Trần Chấn trở về ra mắt Viên Thiệu, kể lại
Tôn Sách đã mất, Tôn Quyền nối nghiệp, Tháo phong Quyền là tướng quân, kết Ngô
làm ngoại ứng.
Viên Thiệu nổi giận, lập tức khởi cả quân mã Ký, Thanh, U,
Tinh, cả thảy hơn bảy mươi vạn đi đánh Hứa Xương.
Thế là:
Binh lính Giang Nam vừa tạm nghỉ,
Can qua Ký Bắc lại vùng lên.
Chưa biết Viên Thiệu phen này được thua thế nào, xem đến hồi
sau sẽ phân giải.
Chú thích:
1. Tên một cung điện ở trên một quả núi ở
Sơn Đông dựng lên từ đời Tần Thủy Hoàng.
2. Đời Xuân thu, Hoàn công nước Tề, Văn
công nước Tấn đều làm bá chủ các chư hầu.
Hồi 30:
Đánh Quan Độ, Bản Sơ bại trận
Cướp Ô Sào, Mạnh Đức đốt lương
Viên Thiệu cất quân, đi đến bến Quan Độ, Hạ Hầu Đôn đưa thư về
cáo cấp. Tào Tháo khởi bảy vạn quân ra nghênh địch, để Tuân Úc ở lại giữ Hứa
Đô.
Khi quân Viên Thiệu sắp cất quân đi, Điền Phong ở trong ngục
dâng thư can:
- Nay nên giữ vững để đợi thời. Không nên khinh thường cất đại
binh đi, e có việc bất lợi.
Phùng Kỷ nói gièm:
- Chúa công dấy quân nhân nghĩa, sao Điền Phong lại nói lời
chẳng lành?
Thiệu giận lắm muốn chém Điền Phong. Các quan cố can.
Thiệu nói:
- Để ta phá xong Tào Tháo đã, rồi sẽ trị tội nó!
Nói rồi giục quân kéo đi, tinh kỳ rợp đất, giáo mác như rừng.
Đến Dương Võ, Thiệu hạ trại đóng quân. Thư Thụ nói:
- Quân ta tuy nhiều, nhưng dũng mãnh kém bên kia; quân kia
tuy tinh nhuệ, nhưng lương thảo kém ta. Bên kia không có lương, lợi ở sự đánh
nhanh; bên ta có lương, nên giữ lâu, nếu kéo dài được ngày tháng, quân địch chẳng
phải đánh cũng tất thua.
Thiệu giận mắng:
- Điền Phong đã làm nản lòng quân, ta còn để tội cho đến khi
về, nay sao mày cũng nói gở nốt?
Rồi thét tả hữu đem Thư Thụ giam ở trong quân, đợi lúc về trị
tội cùng Điền Phong một thể. Rồi hạ lệnh đem bảy mươi vạn quân dàn ra bốn phía
cắm trại, trại đóng liền nhau hơn chín mươi dặm.
Quân đi do thám Quan Độ về báo. Quân Tào mới đến, nghe tin đều
sợ hãi.
Tào Tháo cùng các mưu sĩ bàn bạc. Tuân Du nói:
- Quân Thiệu tuy nhiều, nhưng không đáng sợ. Quân ta tinh nhuệ,
một người có thể đánh nổi mười người, nhưng cần đánh ngay, nếu kéo dài ngày
tháng, lương thảo không đủ thì thật là đáng lo.
Tháo nghe nói truyền lệnh cho quân tướng đánh trống reo hò tiến
lên. Quân Thiệu đón đánh. Hai bên dàn thành thế trận. Thẩm Phối đem một vạn tay
nỏ, phục ở hai bên; năm nghìn tay cung phục ở trong cửa, hẹn nghe tiếng pháo
thì bắn ra. Đánh dứt ba hồi trống, Viên Thiệu đội mũ chỏm vàng, mặc áo giáp
vàng, bào gấm đai ngọc, cưỡi ngựa đứng trước trận. Đứng xếp hàng hai bên là bọn
Trương Cáp, Cao Lãm, Hàn Mãnh, Thuần Vu Quỳnh. Tinh kỳ, tiết việt rất nghiêm chỉnh
Bên kia, Tào Tháo cưỡi ngựa ra trước trận. Lũ Hứa Chử, Trương
Liêu, Từ Hoảng, Lý Điển đều cầm binh khí, hộ vệ trước sau.
Tào Tháo cầm roi trỏ vào Viên Thiệu bảo:
- Tao đã tâu thiên tử cho ngươi làm đại tướng quân, sao ngươi
lại mưu phản?
Thiệu đáp:
- Ngươi giả danh là tướng nhà Hán, thực là giặc phản nhà Hán,
tội ác đầy trời, hơn cả Mãng, Trác, lại còn vu cho ai làm phản?
- Ta phụng chiếu thiên tử ra đây đánh mi!
Thiệu đáp:
- Tao cũng phụng chiếu áo đai đánh giặc.
Tháo giận, sai ngay Trương Liêu cưỡi ngựa ra. Trương Cáp ra
nghênh địch. Hai tướng đánh nhau đến hơn năm mươi hiệp, không phân được thua.
Tào Tháo thấy vậy khen thầm là lạ, Hứa Chử múa giáo tế ngựa
ra đánh giúp Trương Liêu. Cao Lãm cầm giáo ngăn lại.
Bốn tướng đương quần nhau, Tào Tháo lại sai Hạ Hầu Đôn, Tào Hồng
mỗi người dẫn ba nghìn quân, cùng xông sang trận Viên Thiệu.
Thẩm Phối thấy quân Tào xông sang, liền sai đốt một tiếng
pháo hiệu, hai bên hàng vạn cái nỏ đều bắn ra, quân bắn cung cùng bắn ra một lượt
như mưa. Viên Thiệu thúc quân vào đánh giết. Quân Tào thua to phải lui về Quan
Độ.
Viên Thiệu cũng đem quân đến gần Quan Độ hạ trại.
Thẩm Phối nói:
- Nay nên sai mười vạn quân giữ ở Quan Độ, đến tận trước trại
Tào Tháo, đắp ụ đất, sai quân dòm xuống trại Tào mà bắn. Hễ ta chiếm được Quan
Độ thì Hứa Xương có thể phá được.
Viên Thiệu nghe theo, sai quân mang ngay mai cuốc quang thúng
đắp ụ gần bên trại Tào.
Tào Tháo thấy vậy, muốn ra để đánh không cho quân Viên Thiệu
đắp ụ, nhưng quân cung nỏ chặn giữ những đường xung yếu, quân Tào không tiến được.
Trong vòng mười ngày, quân Thiệu đắp được hơn năm mươi cái đồi
đất, trên dựng chòi cao, rồi quân cung nỏ đứng trên bắn xuống.
Quân Tào sợ hãi, người nào người ấy đội mộc đỡ tên. Trên đồi
cứ mỗi tiếng mõ, tên bắn xuống như mưa. Quân Tào đều nép vào mộc nằm rạp xuống
đất. Quân Thiệu reo lên cười.
Tào Tháo thấy quân rối loạn, họp các mưu sĩ hỏi kế. Lưu Hoa
nói:
- Nên làm xe bắn đá chống lại.
Tháo bảo Hoa vẽ kiểu xe, suốt đêm chế được vài trăm cỗ xe, đặt
bên trong tường, chiếu thẳng vào những chòi trên đồi. Đợi lúc quân cung nỏ sắp
bắn, đá bay lên đánh phá lung tung, người không chỗ nấp, quân cung nỏ chết vô số.
Quân Viên thiệu gọi xe ấy là xe sấm sét. Từ đấy quân Thiệu
không dám trèo lên cao bắn vào nữa.
Thẩm Phối lại hiến kế khác:
- Ta nên sai quân dùng thuổng cuốc lén đào đường ngầm, thẳng
vào trong trại Tào Tháo. Quân ấy gọi là quân đào hầm.
Quân Tào thấy quân Viên Thiệu đào cả sau những ụ đất, vào báo
với Tháo. Tháo hỏi Lưu Hoa. Lưu Hoa nói:
- Quân Viên đánh đường hoàng không được, định đánh lén, họ
đào đường ngầm dưới đất để theo đó mà tiến vào dinh ta.
Tháo hỏi:
- Vậy ta phải làm thế nào?
Hoa nói:
- Đào một cái hào chung quanh trại thì đường hầm của nó cũng
thành vô dụng.
Đêm hôm ấy Tào Tháo sai đào một cái hào rõ sâu.
Quân Viên đào đến cạnh hào, không đánh vào được, mất công khó
nhọc vô ích.
Tào Tháo giữ Quan Độ từ tháng Tám đến tháng Chín, quân lực
kém dần, lương thảo gần hết, ý muốn bỏ Quan Độ về Hứa Xương, nhưng ngần ngừ
chưa định, bèn viết thư sai người đem về hỏi Tuân Úc. Úc viết thư đáp lại.
Thư đại lược nói:
“Trộm nghĩ Viên Thiệu đem đại quân họp cả ở Quan Độ cùng minh
công quyết một trận được thua, minh công lấy yếu địch khoẻ, nếu không chống nổi,
tất bị nó đè tấn ngay: lúc này chính là một cơ hội lớn phải dùng mưu trí. Quân
Thiệu tuy nhiều, nhưng không biết sử dụng, minh công là bậc thần vũ minh triết,
xoay xở thế nào mà chẳng được. Nay quân lương dù ít, cũng chưa đến nỗi nguy khốn
như lúc Sở Hán đánh nhau ở Huỳnh Dương hay Thành Cao. Minh công vạch đất cố giữ,
chẹn cuống họng kẻ địch, không cho nó tiến, tình thế sẽ thay đổi, thể nào cũng
có biến, chính là lúc dùng mưu trí, xin minh công xét kỹ”.
Tào Tháo được thư, sai tướng sĩ cố sức giữ. Sau quân Thiệu phải
lui hơn ba mươi cặm. Tháo sai tướng đi tuần tiễu, trong khi đi tuần, có bộ tướng
của Từ Hoảng, tên là Sử Hoán, bắt được một tên do thám của Viên Thiệu, giải về
nộp, Từ Hoảng hỏi về việc quân bên Viên, tên ấy thưa:
- Nay mai đại tướng là Hàn Mãnh, đem lương đến tiếp tế, sai
tôi đi dò đường trước.
Từ Hoảng đi báo ngay cho Tháo biết, Tuân Du nói:
- Hàn Mãnh là một thằng vũ phu. Chỉ sai một người dẫn vài
nghìn khinh kỵ đón đường chẹn đánh, cướp được lương thảo, quân Viên Thiệu phải
vỡ.
Tháo hỏi:
- Nên sai ai?
Du nói:
- Nên sai ngay Từ Hoảng.
Tháo bèn sai Từ Hoảng đem Sử Hoán và bản bộ của mình đi trước;
lại cho Hứa Chử, Trương Liêu đi sau tiếp ứng.
Đang đêm, Hàn Mãnh đem vài nghìn xe lương đến trại Viên Thiệu.
Đi đến chỗ đầu núi, Từ Hoảng, Sử Hoán đem quân ra chẹn đường. Mãnh tế ngựa lại
đánh. Từ Hoảng đón đánh Hàn Mãnh, Sử Hoán đuổi tan những quân đi tải, rồi sai
phóng lửa đốt xe lương thảo. Hàn Mãnh thế địch không nổi, quay ngựa chạy về. Từ
Hoảng thúc quân vào đốt sạch cả mấy nghìn cỗ xe.
Quân Viên Thiệu trông mé tây bắc có ngọn lửa, còn đương hoảng
hốt, thì có quân chạy về báo việc Từ Hoảng cướp lương.
Thiệu sai Trương Cáp, Cao Lãm đi cứu. Vừa ra đến đường cái,
thì gặp ngay Từ Hoảng, Sử Hoán đã đốt hết xe lương, kéo quân trở về. Hai bên định
đánh nhau, thì Hứa Chử, Trương Liêu vừa đến. Hai mặt giáp công, đánh tan quân
Thiệu, họp binh kéo về Quan Độ. Tào Tháo mừng lắm, trọng thưởng cho các tướng
sĩ, rồi chia quân ra lập dinh ở trước trại mình để làm thế ỷ giốc.
Hàn Mãnh thua trận trở về. Viên Thiệu giận muốn đem chém, các
quan kêu mãi cho được thoát tội. Thẩm Phối nói:
- Đem quân đi, cốt có việc lương là trọng, việc phòng giữ
lương thảo không nên bất cẩn. Lương ta nay chứa cả ở Ô Sào, thế nào cũng phải
cho nhiều quân sĩ giữ gìn nơi ấy mới được.
Viên Thiệu nói:
- Việc ấy ta cũng đã tính đâu vào đấy rồi, nhưng ngươi cũng
phải về Nghiệp Quận đôn đốc, chớ để lương thảo thiếu thốn.
Thẩm Phối vâng mệnh đi. Viên Thiệu lại sai đại tướng là Thuần
Vu Quỳnh, bộ lĩnh đốc tướng là Mục Nguyên Tiến, Hàn Cử Tử, Lã Uy Hoàng và Triệu
Hiếu, dẫn hai vạn quân mã đến giữ Ô Sào.
Thuần Vu Quỳnh vốn là người nóng tính, hay rượu, quân sĩ ai
cũng sợ. Lúc đến Ô Sào, Quỳnh cả ngày chỉ cùng các tướng họp nhau uống rượu.
Bên quân Tào, lương thảo cũng cạn. Tháo sai về Hứa Xương, bảo
Tuân Úc phải trù liệu cho mau. Sứ đi chưa được ba mươi dặm, bị quân Viên Thiệu
bắt được, trói đem giải vào nộp mưu sĩ Thiệu là Hứa Du.
Hứa Du, tự là Tử Viễn, khi nhỏ vốn là bạn của Tào Tháo, bấy
giờ hiện đương làm mưu sĩ cho Viên Thiệu.
Khi bắt được sứ Tào Tháo mang thư đi giục lương, Hứa Du vào
nói với Viên Thiệu:
- Tào Tháo đóng quân ở Quan Độ, chống với quân ta đã lâu. Hứa
Xương tất nhiên bỏ trống. Ta nay nhiều binh, giả thử chia một nửa quân về đánh
úp Hứa Xương thì dễ như chơi. Lấy được Hứa Xương, tất rồi bắt được Tào Tháo.
Nay lương thảo quân Tào vừa cạn, ta nên thừa cơ đánh cả hai mặt.
Viên Thiệu nói:
- Tào Tháo rất nhiều quỷ kế, thư này là kế dụ địch đây.
Du đáp:
- Nay nếu không đánh ngay đi, về sau tất bị nó hại.
Đang nói chuyện, chợt thấy sứ ở Nghiệp Quân đến đem trình thư
của Thẩm Phối trước nói việc vận tải lương thảo, sau nói khi Hứa Du ở Ký Châu,
thường hà lạm của dân nhiều, lại dung túng con cháu quấy nhiễu dân. Trong thư lại
nói: con cháu Hứa Du, hiện đã bị bắt giam cả rồi.
Thiệu đọc thư xong, nổi giận đùng đùng, lại nhân không muốn
nghe kế Hứa Du vừa bàn, bèn mắng:
- Tên thất phu hà lạm kia! Còn mặt mũi nào bày mưu ở trước mặt
ta! Mày vốn quen Tào Tháo, chắc mày ăn đút của giặc Tào, làm do thám cho nó rồi
dử tao vào cạm phải không? Tội mày đáng chém, tao hãy gửi cái đầu ở trên cổ đó.
Bước đi cho mau, từ nay không được giáp mặt tao nữa!
Hứa Du trở ra, ngẩng mặt lên trời than:
- Lời nói phải dễ trái tai, bọn trẻ con không thể cùng bàn việc
lớn! Con cháu ta nay lại bị Thẩm Phối nó hại, ta còn mặt mũi nào trông thấy người
đất Ký Châu nữa!
Bèn rút gươm định tự vẫn. Người nhà giằng lấy gươm, can:
- Việc gì ông phải hoài phí cuộc đời như thế? Viên Thiệu
không nghe lời nói phải, rồi nó sẽ bị Tào Tháo bắt. Ông với Tào công là chỗ bạn
cũ, sao ông không bỏ chỗ tối mà đến chỗ sáng?
Mấy lời ấy làm cho Hứa Du tỉnh ngay. Du liền đi tắt đến trại
Tào Tháo.
Người sau có thơ rằng:
Bản Sơ hào khí khắp Trung Hoa
Quan Độ bất hoà uổng xót xa
Phỏng thử biết dùng mưu Tử Viễn
Nhà Tào đâu chiếm được sơn hà?
Hứa Du đến gần trại Tào Tháo, quân canh đường bắt được. Du
nói:
- Ta là bạn cũ của thừa tướng, vào bẩm ngay có Hứa Du ở Nam
Dương lại hầu.
Quân sĩ vội vàng vào bẩm. Tào Tháo bấy giờ đã sắp đi ngủ,
nghe thấy Hứa Du đến, mừng quá không kịp đi giày, cứ chân không chạy ra đón
vào. Trông thấy Hứa Du, Tháo vỗ tay vui cười rồi hai người dắt tay đi vào. Tháo
thụp xuống đất lạy trước, Du sợ hãi vội vàng đỡ lên nói:
- Ông là tướng nhà Hán, tôi là một người áo vải, sao lại
khiêm nhường quá thế?
Tháo nói:
- Ông là bạn của Tháo, há dám lấy tước vị phân biệt người
trên kẻ dưới!
Du nói:
- Tôi nay không biết chọn chủ, hạ mình đi thờ Viên Thiệu, nói
nó không nghe, bày kế nó không dùng, nay tôi bỏ nó đến gặp cố nhân, rất mong được
thừa tướng thu dụng.
Tháo mừng nói:
- Tử Viễn chịu đến với ta, việc gì của ta mà chẳng xong. Xin
bảo ngay cho kế phá Viên Thiệu.
Du đáp:
- Tôi đã từng khuyên Viên Thiệu nhân thừa tướng đóng cả quân ở
đây nên đem quân khinh kỵ đánh úp lấy Hứa Đô.
- Nếu Thiệu dùng mưu ấy, việc ta hỏng mất.
Hứa Du nói:
- Nay lương thảo của ông còn bao nhiêu?
Tháo nói:
- Có thể chi dùng một năm.
Du cười:
- Sợ rằng không thể được thế.
Tháo nói:
- Độ sáu tháng thôi!
Hứa Du rũ vạt áo, đứng phắt dậy, bước ra khỏi trướng nói:
- Tôi đã lấy bụng thực lại đây để giúp ông mà ông còn nói dối,
khá phải là điều mong thế hay sao!
Tháo nắm áo Du kéo lại nói:
- Xin Tử Viễn đừng giận, để tôi nói thực: Lương thảo quả thực
chỉ còn độ ba tháng nữa thì hết.
Du cười nói:
- Thiên hạ thường vẫn đồn Mạnh Đức là gian hùng, quả đúng thế!
Tháo cũng cười nói:
- Ông còn lạ gì, người ta đã có câu nói: “Binh bất yếm trá”
(Nghĩa là trong phép dùng binh tha hồ nói dối).
Rồi lại ghé vào tai Hứa Du nói thầm:
- Lương ăn chỉ còn đủ tháng này thôi!
Du nói to:
- Thôi đừng nói dối nữa, lương ông hết sạch rồi!
Tháo ngạc nhiên hỏi:
- Sao biết?
Hứa Du lấy ngay lá thư bắt được, đem cho Tháo xem và hỏi:
- Ai viết thư này?
Tháo sợ hỏi:
- Bắt được ở đâu?
Du kể lại việc bắt được người đưa thư, Tháo cầm tay Du nói:
- Tử Viễn đã có lòng nhờ đến bạn cũ mà lại đây, có mưu kế gì
xin bảo cho biết ngay.
Du nói:
- Minh công đem quân ít chống với kẻ địch đông mà không tìm
cách đánh mau cho được, ấy là con đường bại vong. Du nay có một kế, chỉ trong
ba ngày, chẳng đánh, quân trăm vạn của Viên Thiệu cũng vỡ, minh công có chịu
dùng không?
Tháo nói:
- Xin cho biết mưu hay đó!
Du nói:
- Lương thảo của Viên Thiệu chứa cả ở Ô Sào, nay sai Thuần Vu
Quỳnh coi giữ, Quỳnh chỉ ham uống rượu, không biết phòng bị gì cả. Ông nên cho
đem quân tinh binh đến Ô Sào, nói dối là Tưởng Kỳ tướng của Viên Thiệu, lĩnh
binh đến đó hộ vệ lương thảo, lừa dịp nào thuận tiện thì đốt hết, quân Viên Thiệu
chỉ trong ba ngày tất loạn ngay.
Tào Tháo mừng lắm trọng đãi Hứa Du, rồi mới lưu lại trong trại.
Hôm sau, Tháo kén năm nghìn quân mã bộ, chuẩn bị cho đi cướp
lương ở Ô Sào, Trương Liêu nói:
- Chỗ Viên Thiệu chứa lương, sao họ lại không phòng bị, thừa
tướng không nên khinh thường, lỡ mắc mưu Hứa Du.
Tháo nói:
- Không phải thế! Hứa Du về với ta, tức là trời khiến Thiệu
thua. Ta thiếu lương, không thể giữ lâu được, nếu không dùng mưu của Du là ngồi
bó tay mà chịu khốn. Nếu Du định lừa ta, sao chịu ở lại với ta? Vả ta muốn cướp
trại đã lâu rồi, nay cái mưu cướp lương nhất định phải thi hành, các người đừng
nghi ngờ gì nữa.
Liêu nói:
- Đành thế, nhưng cũng nên phòng Viên Thiệu thừa cơ đến đánh
úp trại ta.
Tháo nói:
- Ta đã tính kỹ rồi.
Liền sai Tuân Du, Giả Hủ, Tào Hồng cùng Hứa Du giữ trại lớn;
Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên lĩnh quân phục bên tả; Tào Nhân, Lý Điển, lĩnh quân phục
bên hữu để phòng việc bất trắc. Lại sai Trương Liêu, Hứa Chử đi trước, Từ Hoảng,
Vu Cấm đi sau, Tháo tự dẫn các tướng đi giữa, cả thảy năm nghìn quân mã, cầm cờ
hiệu Viên Thiệu, quân sĩ mỗi người mang một bó cỏ, đội một đội cũi; người thì
ngậm tăm, ngựa thì buộc mồm, sâm sẩm tối kéo sang Ô Sào.
Đêm hôm ấy sao sáng đầy trời.
Thư Thụ, bị Viên Thiệu giam ở trong quân, đêm thấy sao sáng bảo
cai ngục đưa mình ra sân, ngắm xem thiên văn. Chợt thấy sao Thái Bạch đi ngược,
xâm phạm vào phận sao Đẩu, sao Ngưu, Thụ giật nảy mình mà rằng:
- Vạ sắp đến nơi rồi!
Ngay đêm ấy, Thư Thụ xin vào ra mắtViên Thiệu.
Bấy giờ Thiệu uống rượu say, nghe thấy báo Thư Thụ có việc mật
vào nói, bèn cho gọi vào hỏi:
Thụ thưa:
- Tôi vừa xem thiên văn thấy sao Thái Bạch đi ngược đến vùng
sao Liễu, sao Quy, khi ánh sáng sang cả vùng sao Ngưu, sao Đẩu, e có việc quân
địch cướp trại. Ô Sào là chỗ chứa lương, cần phải đề phòng, xin sai mãnh tướng,
tinh binh đi tuần tiễu ở những chỗ đường tắt và chân núi để khỏi mắc mẹo Tào
Tháo.
Thiệu giận mắng:
- Mày là thằng có tội, sao được nói càn làm rối loạn lòng
quân!
Thiệu lại mắng người coi:
- Mày giữ nó sao lại dám thả nó ra?
Bèn sai chém người coi, gọi người khác ra coi giữ Thư Thụ, Thụ
trở ra, gạt nước mắt than:
- Quân ta sớm tối không biết mất lúc nào, nắm xương ta rồi
không biết chôn vào đâu!
Đời sau có thơ than rằng:
Lời thẳng ngang tai lại hoá thù
Trách vì Viên Thiệu ít cơ mưu
Ô Sào lương cạn, cây long gốc
Còn muốn khư khư giữ Ký Châu.
Tào Tháo đêm hôm ấy đem quân đi, qua trại quân Viên Thiệu,
lính trại ra hỏi quân nào.
Tào Tháo sai người ra nói là quân Tưởng Kỳ, phụng mệnh ra Ô
Sào giữ lương. Quân Viên thấy cờ hiệu nhà mình, chẳng nghi ngờ gì, đi qua mấy
chỗ đều nói dối là quân Tưởng Kỳ, trót lọt tất cả. Khi đến Ô Sào đã hết canh
tư, Tháo sai quân đem cỏ cất chung quanh đồn đốt lửa lên, rồi các tướng nổi trống
reo ầm kéo vào.
Bấy giờ Thuần Vu Quỳnh cùng các tướng vừa uống rượu say đã
vào nằm trong trướng, bỗng nghe thấy xôn xao, vội vàng trở dậy, hỏi việc gì. Quỳnh
chưa nói dứt câu đã bị ngay một lưỡi câu liêm lôi ngã xuống.
Mục Nguyên Tiến, Triệu Tuấn bấy giờ vừa tải lương về, trông
thấy trên đồn có lửa cháy, vội vàng lại cứu chữa.
Quân Tào vào báo với Tào Tháo có quân địch ở đằng sau, xin
chia binh để dánh, Tháo quát lên:
- Các tướng cứ đằng trước mà đánh, lúc nào quân địch đến đằng
sau, bấy giờ sẽ hay.
Được một hồi, lửa cháy ngùn ngụt, khói toả khắp trời. Mục,
Triệu hai tướng đem quân đến cứu, Tháo quay lại đánh, hai tướng không địch nổi
cùng bị giết cả lương thảo cháy hết sạch. Quỳnh bị bắt, Tháo sai cắt cả tai mũi
và mười ngón tay, trói vào mình ngựa rồi tha cho về trại Viên Thiệu để làm nhục
Viên Thiệu.
Viên Thiệu đang ở trong trướng, thấy báo mé chính bắc lửa
sáng rực trời, biết rằng Ô Sào có biến, vội vàng ra gọi các quan văn võ vào bàn
bạc, sai quân đi cứu. Trương Cáp nói:
- Tôi cùng Cao Lãm xin đi.
Quách Đồ nói:
- Không nên. Quân Tào đi cướp lương ta. Tháo tất thân hành
đi, trại hắn bỏ trống. Nên thả binh vào cướp trại. Tào Tháo tất phải bỏ Ô Sào về
Quan Độ. Ấy là mẹo Tôn Tẫn vây Nguỵ cứu Hán ngày xưa đó[1].
Trương Cáp nói:
- Tào Tháo lắm mưu, đi ra ngoài tất có phòng bị ở trong. Nay
nếu sang phá trại nó không được, lũ Quỳnh bị thua, chúng ta cũng sẽ bị bắt nốt.
Quách Đồ nói:
- Tháo chỉ chú ý đi cướp lương, còn nghĩ gì đến việc để quân
giữ trại.
Hai ba lần Quách Đồ xin đi cướp trại Tào. Thiệu bèn sai
Trương Cáp, Cao Lãm lĩnh năm nghìn quân sang Quan Độ phá trại Tào, rồi lại sai
Tưởng Kỳ dẫn một vạn quân đi cứu Ô Sào.
Tào Tháo đánh tan quân Thuần Vu Quỳnh, cướp hết được cả áo
giáp, cờ xí, lại giả làm quân Thuần Vu Quỳnh thua chạy về trại Viên Thiệu. Đi đến
một con đường nhỏ trong khe núi, vừa gặp cánh quân của Tưởng Kỳ. Quân Kỳ hỏi
xong cho là quân mình vừa thua ở Ô Sào chạy về, không nghi gì, cứ giục ngựa tiến
lên. Chợt thấy Trương Liêu, Hứa Chử thét lớn: “Tưởng Kỳ, đừng chạy!” Kỳ không kịp
trở tay, bị Trương Liêu chém chết.
Liêu giết sạch quân Tưởng Kỳ, rồi lại cho người về báo Viên
Thiệu: Tưởng Kỳ đã đánh tan quân Tào ở Ô Sào rồi.
Viên Thiệu được tin ấy, không sai quân cứu Ô Sào nữa chỉ sai
đem thêm quân sang Quan Độ.
Đây nói Trương Cáp, Cao Lãm đánh trại Tào Tháo. Bên tả Hạ Hầu
Đôn, bên hữu Tào Nhân, ở giữa Tào Hồng kéo ùa cả ra, ba mặt đánh ập lại. Quân
Viên Thiệu thua to. Khi quân tiếp ứng đến thì Tào Tháo ở Ô Sào về, bốn mặt vây
kín chặn đánh.
Trương Cáp, Cao Lãm cướp đường chạy thoát. Viên Thiệu thu nhặt
tàn quân ở Ô Sào về trại, thấy Thuần Vu Quỳnh mất cả tai, mũi, ngón tay. Thiệu
hỏi:
- Làm sao để mất Ô Sào?
Quân thưa:
- Quỳnh say rượu nên không chống được quân địch.
Thiệu lập tức sai đem chém Thuần Vu Quỳnh. Quách Đồ sợ Trương
Cáp, Cao Lãm thua về, đổ lỗi tại mình bèn nói gièm trước:
- Trương Cáp, Cao Lãm thấy chúa công thua trận này trong lòng
rất mừng.
Thiệu hỏi:
- Sao lại nói thế?
Quách Đồ thưa:
- Hai người vẫn có ý hàng Tào đã lâu, nay sai đi phá trại,
không có sức đánh đến nỗi làm thiệt mất nhiều quân.
Thiệu giận lắm, cho đòi hai người vào hỏi tội. Quách Đồ lại
cho người ra bảo trước với hai người:
- Chúa công định giết các ông đấy.
Lúc sứ giả đến, Cao Lãm hỏi:
- Chúa công gọi chúng tôi có việc gì?
Sứ giả nói:
- Không biết việc gì.
Lãm rút ngay gươm giết sứ giả, Cáp cả sợ, Lãm bảo Trương Cáp:
- Viên Thiệu hay nghe lời sàm nịnh, tất rồi cũng bị Tào Tháo
bắt được. Chúng ta há cứ chịu ngồi mà đợi chết? Chi bằng ta sang hàng Tào Tháo
có hơn không?
Cáp nói:
- Tôi có bụng ấy đã lâu.
Hai người bèn đem quân mã bản bộ sang trại Tào đầu hàng.
Hạ Hầu Đôn nói:
- Cao, Trương đến hàng, chưa biết thực hư thế nào?
Tháo nói:
- Ta đối đãi với người thực hậu, dù họ có bụng khác, sau cũng
phải thay đổi.
Nói rồi sai mở cửa dinh cho hai người vào. Trương Cao cởi áo
giáp, cầm ngược giáo, lạy phục xuống đất. Tháo nói:
- Nếu Viên Thiệu chịu nghe lời hai ông thì đâu đến nỗi thua.
Nay hai ông lại đây, khác nào Vi Tử bỏ nhà Ân, Hàn Tín về với nhà Hán khi xưa.
Tháo phong Trương Cáp làm thiên tướng quân, Đô đình hầu; Cao
Lãm làm thiên tướng quân, Đông lai hầu.
Hai người mừng lắm.
Viên Thiệu đã mất Hứa Du, lại mất Trương Cáp, Cao Lãm; lương
thảo tích ở Ô Sào cũng bị Tào Tháo đốt cướp mất cả, lòng quân rối loạn.
Hứa Du lại khuyên Tào Tháo tiến binh đánh mau. Trương Cáp,
Cao Lãm xin đi tiên phong.
Tháo sai Trương Cáp, Cao Lãm đem quân đi cướp trại Thiệu. Đêm
hôm ấy, quân Tào ba đường đến phá trại Viên Thiệu. Hai bên đánh nhau đến sáng,
quân Thiệu chết mất quá nửa.
Tuân Du lại hiến kế:
- Nay nên nói phao lên rằng; ta đang điều quân, một mặt đi lấy
Toan Táo, đánh Nghiệp Quận; một mặt đi lấy Lê Dương để chặn đường về của Viên
Thiệu. Viên Thiệu nghe tin, tất nhiên sợ hãi, chia quân đi chống hai nơi, ta
nhân dịp đánh ngay, có thể phá được.
Tháo nghe theo, sai các quân sĩ phao tin như thế.
Quân Thiệu được tin, về trại báo: Tào Tháo chia quân hai đường,
một đường đánh Nghiệp Quận, một đường đánh Lê Dương. Viên Thiệu cả sợ, sai ngay
Viên Thượng đem năm vạn quân đi cứu Nghiệp Quận, Tân Minh đem năm vạn quân đi cứu
Lê Dương, đương đêm đi ngay.
Tào Tháo biết Viên Thiệu đang động binh liền chia quân tám mặt
vào phá trại Viên Thiệu, quân Viên nản lòng, bốn mặt tan vỡ.
Viên Thiệu không kịp mặc áo giáp, chỉ khoác được cái áo đơn,
quấn khăn lên ngựa, con út là Viên Thượng đi theo.
Trương Liêu, Hứa Chử, Từ Hoảng, Vu Cấm, bốn tướng dẫn quân đuổi.
Thiệu vội sang sông, bỏ hết cả sổ sách, xa trượng, vàng bạc. Sang qua sông Thiệu
chỉ còn có tám trăm quân kỵ mã đi theo.
Quân Tháo đuổi không kịp, nhưng bắt được cả những đồ vật bỏ lại.
Hơn tám vạn người bị giết, máu chảy đầy sông. Quân sa xuống sông chết đuối,
không biết bao nhiêu mà kể.
Tháo được to, đem vàng bạc vóc nhiễu bắt được thưởng cho quân
sĩ.
Trong tập sổ sách Tháo bắt được một bó toàn là thư của những
ngưòi ở Hứa Đô và tướng sĩ thông với Viên Thiệu.
Tả hữu nói:
- Nên đối chiếu từng tên một, bắt mà giết đi.
Tháo nói:
- Đang lúc Thiệu mạnh, chính ta cũng chưa chắc đã giữ nổi
thân mình, huống hồ người khác.
Bèn sai đốt hết, không nhắc lại việc ấy nữa.
Quân Viên Thiệu bấy giờ thua chạy tán loạn cả, duy có Thư Thụ
bị giam, không chạy được, bị quân Tào bắt được đem nộp Tào Tháo.
Tháo vốn trước có quen Thư Thụ.
Thụ trông thấy Tháo, giơ tay xua đi và kêu to:
- Thụ không hàng đâu!
Tào Tháo nói:
- Bản Sơ vô mưu, không dùng lời ngươi, sao ngươi còn chấp nê
thế? Nếu ta được ngươi sớm, việc thiên hạ còn gì đáng lo.
Tháo đãi tử tế, lưu ở trong quân.
Một đêm, Thụ ăn trộm ngựa, định trốn về với Viên Thiệu. Tháo
giận, sai đem chém đi. Thụ đến chết, thần sắc không đổi. Tháo than rằng:
- Ta trót giết lầm người trung nghĩa!
Rồi sai làm lễ hậu, chôn ở cửa sông Hoàng Hà, đề vào mộ sáu
chữ: “Trung liệt Thư quân chi mộ”.
Đời sau có thơ than Thư Thụ rằng:
Hà Bắc nhiều danh sĩ
Trung trinh có Thư quân
Mắt trông hiểu trận pháp
Mặt ngẩng biết thiên văn
Đến chết lòng son sắt
Lâm nguy chí tựa vân
Tào công trọng vì nghĩa
Bia cao dựng trước phần.
Tào Tháo giết Thư Thụ rồi, hạ lệnh sang đánh Ký Châu. Thế rõ
thực:
Thế yếu chỉ vì nhiều mẹo được
Binh cường nhưng bởi ít mưu thua.
Chưa biết quân Tào phen này sang Ký Châu thế nào, xem hồi sau
mới rõ.
Chú thích:
1. Tôn Tẫn là danh tướng nước Tề (thời
Chiến quốc). Nước Nguỵ đánh nước Triệu, vua nước Tề sai Tôn Tẫn đem quân cứu nước
Triệu. Tôn Tẫn đem quân đánh ngay nước Nguỵ, quân Nguỵ phải quay về, bèn giải
vây cho nước Triệu.
La Quán Trung
Người dịch: Hồng Việt
Theo https://www.sachhayonline.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét