Hồi 1:
Vương Giáo Đầu, phủ Duyên lánh gót
Cửu Văn Long, thôn sử ra tay
Về đời nhà Tống, Triết Tôn Hoàng Đế làm vua, cách với đời của
vua Nhân Tôn Hoàng Đế đã xa; Giữa phủ Khai Phong, ở ngay Đông Kinh, thuộc khu của
thành Tuyên Vũ Quân nảy nồi một tên con nhà lông bông mất dạy, là dòng họ Cao,
bày hàng đứng vào thứ hai. Anh ta thuở nhỏ không chịu làm ăn, chỉ thích múa
thương đánh gậy, và đá cầu rất giỏi, bởi thế trong Kinh Sư gọi anh ta là Cao Cầu,
đổi gọi Cao Nhị. Đoạn chữ cầu có chữ Mao là lông ở bên cạnh, sau phát tích khá
lên, mới đổi chữ Cầu có chữ Nhân là người đứng cạnh.
Anh chàng này lại giỏi thổi sáo múa bộ, chơi bời nghịch ngợm
đủ lối, mà còn học đòi thơ phú, võ vẽ sách vở, nhưng nói đến Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí, Tín, hạnh trung lương, thì tuyệt nhiên không hiểu chút gì.
Suốt ngày anh ta chỉ ở trong thành ngoài thành Đông Kinh, bám
vào những tay du thủ du thực, đánh đu với một anh con trai Sinh Thiết Vương
Viên Ngoại, để kiếm tiền tiêu xài, đĩ bợm với nhau.
Bất đồ không bao lâu bị Viên Ngoại có đơn thưa kiện Cao Cầu
trong phủ Khai Phong, quan Phủ cho bắt Cao Cầu kết án phạt đánh 20 trượng, trục
xuất ra khỏi Đông Kinh, cấm nhân dân ở trong thành không ai được dung túng ở
trong nhà.
Cao Cầu vô kế khả thi, đành phải đi sang miền Hoài Tây, chạy
vào bám ở một nơi sòng bạc của Liễu Đại Lang gần đó. Anh này nguyên tên là Liễu
Thế Quyền, bình sinh chỉ quen kết nạp những hạng bơ biếng phỉnh phờ, bao nhiêu
hạng dông dài bợm bãi đâu đâu, cũng đều chứa chấp hết thẩy.
Cao Cầu tới đó được tới ba năm, nhân gặp khi Triết Tôn Thiên
Tử đi lễ Nam Giao, cảm thấy mưa hòa gió thuận, gia ơn đại xá cho các tội tù,
Cao Cầu cũng dự vào hạng ấy.
Được tin ân xá, Cao Cầu nhân muốn trở về Đông Kinh, liền nói
cho Thế Quyền hay. Liễu Thế Quyền vốn có một người bà con, tên là Đổng Trương Sĩ
mở hàng thuốc sống ở phía cầu Kim Lương trong Đông Kinh liền viết một phong thư
và thu xếp ít tiền lộ phí, giới thiệu cho Cao Cầu sang ở với Đổng.
Cao Cầu được thư giới thiệu, từ giã Liễu Đại Lang đeo khăn
gói tìm lối quay về Đông Kinh, thẳng đến cầu Kim Lương, kiếm hàng thuốc Bắc Đổng
Sinh, đưa thư trình diện.
Đổng Trương Sĩ trông thấy Cao Cầu, lại thấy bức thư của Liễu
Thế Quyền, trong bụng nghĩ thầm:
Thằng cha Cao Cầu này, nhà ta dung làm sao được. Nếu phải hắn
là người có chí hướng thành thực, thì cũng có thể cho ở đây, quanh quẩn ra vào,
kèm dạy cho mấy đứa nhỏ... Nhưng hắn lại là một tay du thu du thực, con nhà mất
dạy, không một chút tín nghĩa gì, hơn nữa trước đây đã phạm tội phát phối, thì
chứng cũ đã chừa sao được?
Nay ta để luôn trong nhà, không khỏi con trẻ tập theo những
thói vô loại, rồi đây biết làm sao kịp? Mà nếu không dung hắn ở đây, thì đối với
Liễu Đại Lang cũng hơi có điều bất tiện...
Nhân thế phải làm ra bộ vui vẻ tươi cười, hãy lưu Cao Cầu ở lại
trong nhà, và hằng ngày cung đốn rượu chè rất là tử tế.
Cách 10 hôm sau, Đổng Trương Sĩ chợt nghĩ được ra một kế liền
sắm sửa quần áo mới, viết một phong thư rồi bảo Cao Cầu:
- Nhà đệ ở đây, như ánh sáng của con đom đóm, không thể soi
rõ được người, chỉ sợ sau này lầm lỡ cho túc hạ, nay tôi xin tiến túc hạ sang
chỗ quan Học Sĩ Tiểu Tô, sau này sẽ có đường xuất thân cho túc hạ chẳng hay túc
hạ nghĩ sao?
Cao Cầu nghe nói mừng rỡ mà cảm tạ Trương Sĩ, Trương Sĩ liền
trao quần áo cho Cao Cầu mặc, và sai người mang thư sang phủ Học Sĩ.
Khi tới nơi môn lại vào báo cho Học Sĩ ra, sau khi trông thấy
Cao Cầu, và đọc qua bức thư, Học Sĩ hiểu Cao Cầu là hạng người phù phiếm phỉnh
phờ, liền nghĩ thầm:
- Nhà ta đây dụng hạng này thế nào được? Chi bằng ta lưu chút
nhân tình, tiến cử anh ta sang phủ Phò Mã Vương Tấn Khanh, để làm người hầu
thân tùy. Ông này vẫn thường gọi là Tiểu Vương, Đô Thái Úy, tất là ông ta ưa
thích những hạng người này... "Liền viết thư trả lời cho Đổng Trương Sĩ, rồi
lưu Cao Cầu ở trong phủ một đêm.
Sáng hôm sau, viết một bức trình, sai một tên gia nhân mẫn
cán đưa dẫn Cao Cầu sang phủ Tiểu Vương Đô Thái Úy.
Vị Thái Úy này nguyên là chồng của bà chị Triết Tôn Hoàng Đế,
và là phò mã vua Thần Tôn khi trước vốn là người thích những bọn phong lưu
phóng đãng xưa nay, khi nhận được thư Học Sĩ đưa Cao Cầu đến, thì trong lòng lấy
làm mừng rỡ liền viết thư trả lời quan Học Sĩ, mà lưu Cao Cầu ở phủ, để cho hầu
hạ trân trọng.
Từ đó Cao Cầu được Đô Úy tin dùng, khi ăn ở lúc ra vào, chả
khác chi người nhà thân mật vậy.
Một hôm gặp ngày sinh nhật Đô Thái Úy, trong phủ bày đặt yến
tiệc để mời Đoan Vương sang dự tiệc. Đoan Vương là con trai thứ II vua Thần
Tôn, là em vua Triết Tôn, và là em vợ Đô Thái Úy, hiện giữ chức Đông giá, bài
hiệu là Cửu Thiên Vương, vốn là người thông minh tuấn tú, am hiểu mọi cách chơi
bời, những sự du nhàn, không gì là không thích, các ngón cầm kỳ, thi, họa, ca
vũ, thanh âm, cùng là ngón múa gậy đá cầu là ngón chơi sở thiùch nhất cả.
Hôm đó Đoan Vương sang dự tiệc ở phủ Đô Thái Úy, khi rượu đã
vài tuần rồi, đứng dậy chạy vào thư viện để xem. Chợt trông thấy trên bàn sách
có một đôi sư tử chặn giấy làm bằng thứ ngọc dương chi rất là tinh hảo, liền cầm
tay ngắm nghía hồi lâu mà luôn mồm khen ngợi.
Vương Đô Úy thấy Đoan Vương có ý ưa thích liền nói:
- Ở đây có một cái giá bút rồng bằng ngọc, cũng một người thợ
ấy chế ra, để mai xin đem sang dâng ngài dùng. Đoan Vương mừng rỡ tạ ơn, rồi lại
cùng nhau quay ra dự tiệc, mãi đến chiều tan tiệc mới lui về vương phủ.
Ngày hôm sau, Tiểu Vương Đô Thái Úy, lấy đôi sư tử và cái giá
bút rồng bằng ngọc, bỏ vào cái hộp nhỏ bằng vàng, lấy lụa bọc ngoài, và viết một
phong thư sai Cao Cầu đưa sang vương phủ.
Cao Cầu vâng lệnh đem các lễ vật sang phủ Đoan Vương.
Khi tới cổng, báo cho người canh cổng vào bẩm báo với Đoan
Vương.
Người canh cổng vào một lúc rồi chạy ra bảo Cao Cầu rằng:
- Có phải là ngươi bên phủ Phò Mã, thì cứ vào trong sân điện
kia, ngài đương đánh cầu ở đấy.
Cao Cầu nghe nói, liền nhờ dẫn vào.
Khi tới sân điện, thấy Đoan Vương đầu đội mũ Sài Tiến, mình mặc
áo long bào hoa tía, lưng thắt đai văn vũ, tay cầm một bên áo xốc lên, chân đi
đôi giày bít gót, thêu phượng bay bằng kim tuyến, cùng với năm bảy tiểu môn đá
cầu, Cao Cầu thấy vậy đứng núp đàng sau đám hoàng môn mà không dám thò mặt ra.
Chợt khi ấy quả cầu ở trên không rơi xuống đất. Đoan Vương
đón không được, lại bắn đến bên cạnh Cao Cầu, chàng ta liều gan đá luôn một quả
về cho Đoan Vương, Đoan Vương lấy làm thích, gọi đến gần mà hỏi là: Ngươi ở
đâu?
Cao Cầu quì xuống đất kêu rằng:
- Con là người bên phủ Đô Thái Úy, sai đưa sang mấy bộ đồ ngọc,
và bức thư sang dâng đại vương.
Nói đoạn liền lấy thư đưa lên, Đoan Vương xem xong mỉm cười
ra dáng vui mừng, không kịp xem đến các đồ ngọc ngoạn, vội sai quân hầu đem cất
đi, và lại hỏi luôn Cao Cầu rằng:
- Nhà ngươi tên là gì? Cũng biết đá cầu hay sao?
Cao Cầu cung kính bảo rằng:
- Con tên là Cao Cầu, thủa nhỏ cũng có học đôi chút.
Đoan Vương cười mà bảo rằng:
- Nếu vậy ngươi thử đá chơi với ta một chút xem sao?
- Con đâu dám vô lễ.
- Việc chơi phải như thế mới vui, cho phép ngươi cứ đá thử ngại
chi?
Cao Cầu từ chối năm bảy lượt, Đoan Vương nhất định không
nghe, sau bất đắc dĩ phải xin lỗi để vào đá.
Cao Cầu vừa mới đá luôn được mấy quả, Đoan Vương đã vỗ tay
khen giỏi.
Bây giờ chàng mới giở hết tài bình sinh đá đông đỡ tây, tung
cao hứng thấp, làm cho quả cầu kia hết lên lại xuống hết dọc lại ngang, con mắt
nhanh nhẹn đến đâu cũng không theo kịp; Đoan Vương reo to lên lấy làm thích
chí, rồi giữ riết Cao Cầu ở đấy mà không cho trở về nữa.
Về phần Đô Thái Úy từ khi sai Cao Cầu đi rồi mong mỏi suốt
ngày hôm ấy, cũng không thấy về, trong lòng lấy làm nghi ngại, không hiểu cớ
làm sao?
Chợt thấy sáng hôm sau, người nhà Đoan Vương đưa giấy đến mời
sang vương phủ.
Đô Thái Úy thấy vậy vội vàng dóng ngựa đi ngay. Khi tới nơi
Đoan Vương mừng rỡ đón chào, trước hết tạ ơn về những tặng đãi ngọc ngoạn, rồi
sau mời vào dự tiệc.
Chè chén hồi lâu, Đoan Vương nói với Đô Thái Úy rằng:
- Tên Cao Cầu ở bên quý phủ có tài đá cầu rất giỏi, ý tôi muốn
lưu hắn ở lại đây, để sớm khuya thưởng thức cho vui, chẳng hay Thái Úy có ưng
thế cho chăng?
Đô Thái Úy vui cười đáp rằng:
- Nếu điện hạ bằng lòng cho hắn ở đây thì tôi đâu lại không
thuận vậy từ nay xin cho hắn theo hầu.
Đoan Vương nghe nói tỏ lòng mừng rỡ, cảm ơn Đô Thái Úy, rồi
cùng nhau chè chén, mãi khi mặt trời lặn mới tan.
Từ đó Đoan Vương để cho Cao Cầu hầu hạ thân mật ở trong cung
cấm, ngày đêm một bước không rời, cái cảnh tao tế của cậu đãng tử ngày xưa, nay
đã bội phần vinh hạnh.
Được ngót hai tháng sau, vì Triết Tôn Hoàng Đế không có con
trai, các quan trong triều thương nghị lập Đoan Vương lên làm Thiên Tử, xưng đế
hiệu là Huy Tôn, gọi là Ngọc Thành Giáo Chủ, Vi Diệu Hoàng Đế.
Sau khi đã lên ngôi Thiên Tử, liền triệu Cao Cầu đến mà bảo rằng:
- Trẫm cũng muốn đãi ngươi lên quan chức, song tất phải đợi
có công lao mới được, nay trẫm hãy giao cho viện Khu Mật, biên tên ngươi vào
danh sách tùy giá thiên chuyển, rồi sẽ liệu thăng dần.
Nhân thế mới trong nửa năm trời, Cao Cầu đã thăng lên chức Điện
Súy Thái Úy, liền chọn ngày lành tháng tốt để đến phủ nhận việc quan.
Khi đó các hàng nha thuộc cùng các quân lính mã bộ đều hết thẩy
phải vào bái yết quan Điện Súy mới.
Quan Điện Súy tra kiểm các hàng đủ mặt, duy còn thiếu tên
Giáo đầu là Vương Tiến vì mắc bệnh hơn nửa tháng nay không thể vào hầu được.
Điện Súy ra oai giận dữ sai Bài Hầu đi bắt Vương Tiến đến
ngay.
Bài Hầu vâng lệnh đến báo cho Vương Tiến biết, và giục phải
vào hầu ngay, nếu không thì Điện Súy tất là quở trách.
Vương Tiến bây giờ tuy yếu đau mới khỏi, song thấy mệnh lệnh
thúc bách như vậy, phải gượng vào soái phủ để yết kiến.
- Tên nầy có phải là con Vương Thắng, làm đồ quân Giáo Đầu
không?
- Bẩm vâng.
Cao Cầu quát to lên rằng:
- Mầy là đồ bán thuốc múa lao ở đầu đường xó chợ, còn biết võ
nghệ gì, các quan trước đã suy cử xằng cho mầy làm chức Giáo Đầu, thế mà nay mầy
dám khinh bỉ ta, không chịu đến đây để kiểm duyệt là nghĩa làm sao?
Mầy cậy thần thế ai mà dám tự do như vậy?
Vương Tiến cúi đầu kêu rằng:
- Con đâu dám thế, thực là con bị bệnh chưa khỏi.
Cao Thái Úy không đợi nói hết, vội ngắt mắng ngay rằng:
- Mày đã đau bệnh chưa khỏi, sao mày còn đi được đến đây?
- Bẩm thấy lệnh cho đòi, nên con đã cố gượng dậy để đến hầu.
Cao Thái Úy không phân biệt phải trái, vội nổi giận thét tả hữu
lôi cổ Vương Tiến đánh mấy chục roi, bấy giờ các nha tướng cùng các quân chính
tư, thấy Thái Úy toan đánh Vương Tiến, liền đổ xô đến can rằng:
- Ngày hôm nay là ngày Thái Úy mới đến phó nhậm ở đây, xin
ngài hãy rộng tha cho Giáo Đầu để được trọn sự vui mừng buổi mới.
Thái Úy thấy nhiều người khuyên giải thì gượng nguôi giận mà
bảo Vương Tiến rằng:
- Ta nể mặt các tướng khuyên can, hôm nay ta hãy tạm tha cho
người rồi mai sẽ liệu.
Vương Tiến lạy tạ, ngẩng đầu lên trông rõ mặt Điện Súy, thì bỗng
ngạc nhiên run sợ, vừa bước chân lui ra vừa lẩm bẩm thở dài một mình:
- Trời ơi! Tưởng rằng Cao Điện Súy là ai, té ra chính là bác
Cao Cầu ngày xưa, bác ta học múa gậy, bị phụ thân ta đánh cho một gậy, nằm sệt
mãi đến ba bốn tháng không dậy được, vì thế bác ta sinh ra hiềm khích với nhà
mình? Nay không biết bác ta vì cớ chi mà bác ta đã làm tới chức Điện Súy như thế?
Nếu vậy thì tất là tính mệnh ta khó lòng mà chu toàn với hắn ta được.
Nhân thế trong lòng lo âu phiền muộn, lững thững về đến nhà
lúc nào không biết. Vương Tiến vốn không có vợ con, chỉ có một bà mẹ già đã
ngoài sáu mươi cùng ở.
Khi đó chàng về tới nhà, liền đem đầu đuôi câu chuyện thuật
cho bà mẹ nghe, hai người lấy làm ách vận đến nơi, khó lòng mà thoát khỏi.
Bà mẹ sụt sùi than khóc hồi lâu, rồi bảo Vương Tiến rằng:
- Con ơi. Ba mươi sáu chước, chước nào là hơn? Bất nhược mẹ
con ta trốn trước là ổn.
- Vâng, có lẽ kế ấy là tiện hơn cả.
- Đành vậy, nhưng con ơi biết tránh vào đâu bây giờ?
- Thưa mẹ, có quan Kinh Lược ở phủ Duyên An, các hàng quan
quân của ngài, thường khi qua tới kinh sư, vẫn thích cái lối võ nghệ của con, vậy
nay thử liều sang ở đó thì may ra cũng có cơ an thân mà lập nghiệp được.
Bà mẹ lấy làm phải, quyết kế trốn sang phủ Duyên An, nhưng lại
nghĩ đi nghĩ lại mà bảo con rằng:
- Ở đây có hai tên Bài Quân là Trương và Lý là do Điện Súy cắt
ra để hầu, nay nếu ta muốn đi, mà lở hai tên ấy biết thì làm thế nào cho thoát.
Vương Tiến cười mà đáp rằng:
- Cái đó con đã có cách xử trí, xin mẫu thân chớ lo.
Chiều hôm ấy, Vương Tiến gọi tên Trương Bài lên cho ăn cơm
trước mà bảo rằng:
- Dạo trước ta yếu, có đến cầu Nhạc Miếu tại ngoài của Toan Tảo,
ngày nay bệnh khỏi ta định sáng mai đi trả lễ, vậy ngươi ăn song phải đến đó
trước, bảo Thủ Từ quét tước sạch sẽ, và làm lễ tam sinh để sáng mai ta ra lễ tạ.
Trương Bài vâng lời, cơm nước xong rồi, đi đến Nhạc Miếu trước.
Đêm hôm ấy hai mẹ con Vương Tiến sửa soạn hành lý; gói ghém
tiền nong buộc làm hai túi rất to, chờ đến canh năm Vương Tiến gọi Lý Bài dậy,
phân phó rằng: Ngươi mang lạng bạc này đến Nhạc Miếu, cùng với Trương Bài mua lễ
tam sinh, làm cho sạch sẽ cẩn thận, để chờ ở đó, rồi ta đến sau.
Nói đoạn đưa tiễn cho Lý Bài đi, vào khoảng giữa trống canh
năm trời còn sẩm tối, Vương Tiến soạn xong hành lý, khoác hai túi vào hai bên
mình ngựa, buộc bịu cẩn thận đâu đấy, còn các đồ vật nặng nề, bỏ lại ở nhà,
khóa chặt cửa lại, rồi dắt mẹ lên ngựa. Mình thì gánh một gánh hành lý nhỏ lén
ra cửa Tây Hoa, trông đường đi về hướng Duyên An Phủ.
Sáng hôm sau hai tên bài quân Trương và Lý sắm các lễ vật sẵn
sàng, đợi Vương Giáo Đầu mãi gần trưa cũng không thấy tới, tên Lý Bài lấy làm sốt
ruột, mới chạy về nhà để tìm Vương Tiến.
Khi tới nơi thấy cửa đóng then cài, mà kiếm đâu cũng không ra
Vương Tiến. Được một lát Trương Bài cũng sốt ruột ra về.
Sáng hôm sau hai tên quân bài lại đến khắp các nhà thân thích
để tìm kiếm mẹ con Vương Tiến, song bóng hồng đã tếch tềnh tang, còn biết đâu
là tung tích.
Sau bất đắc dĩ hai tên quân bài phải vào báo cho Điện Súy biết
là mẹ con Vương Tiến đã khoá cửa bỏ nhà, mà trốn đi đâu mất.
Cao Thái Úy nghe báo cả giận mà rằng:
- Quân này gớm thật, để ta xem rõ nó trốn đi đâu?
Nói đoạn, sai viết văn thư tư đi các châu, để truy nã hai mẹ
con Vương Tiến.
- Về phần Vương Tiến sau khi đi khỏi Đông Kinh thì đêm ngủ trọ
ngày lên đường, dãi gió dầm sương, hai mẹ con rất là vất vả.
Đường đi được hơn một tháng, nghe chừng gần tới Duyên An, hai
mẹ con lấy làm vui mừng, mãi nói chuyện với nhau, bất giác trời tối lúc nào
không biết. Khi quay ra toan tìm chỗ trọ thì độ đường đã lỡ, không còn hàng
quán đâu đây, trong bụng đã có phần lo sợ. May đâu chợt thấy đàng xa có khu rừng
con, lại có bóng đèn sáng chiếu lập lòe, chắc rằng ở đó có nhà trọ được, liền
cùng nhau rảo bước đến xem.
Tới nơi, quả nhiên là một trang viện lớn, có tường đất bao bọc
chung quanh ngoài trồng toàn liễu, có tới ba bốn trăm cây, xanh biết chẳng khác
chi một khu rừng tùng vậy.
Bây giờ hai người lần đến trang viện, gọi cửa hồi lâu, mới thấy
người chạy ra hỏi.
Vương Tiến hạ gánh hành lý ở trên vai xuống, chắp tay vào người
kia mà nói rằng:
- Thưa người, bà con tôi chẳng mai đi mất lỡ mất độ đường,
không có quán hàng để trọ, vậy chúng tôi muốn phiền người cho vào ngủ trọ ở đây
một tối, sáng mai xin nộp tiền trọ cẩn thận, có được chăng?
Người kia nói:
- Để tôi vào nói trang chủ xem sao, nếu được thì sẽ mời vào
nghỉ.
Nói rồi vào trong nhà một lát chạy ra bảo Vương Tiến rằng:
- Ông chủ tôi đã ưng lời rồi, xin cứ vào trong nhà.
Vương Tiến quảy gánh lên vai, dắt ngựa đi theo người kia, vào
bên cạnh chỗ nhà lúa, đặt gánh xuống rồi đỡ mẹ xuống ngựa, và dắt ngựa ra buộc
gốc cây liễu gần đó. Đoạn cùng vào thảo đường để chào chủ nhân. Chủ nhân này đã
ngoài sáu mươi tuổi, râu tóc bạc phơ, mình mặc áo rộng, chân mang giầy da,
trông ra giống một ông trưởng giả, khi thấy mẹ con Vương Tiến tới nơi liền mời
ngồi tử tế và hỏi tên họ.
Vương Tiến nói dối là người họ Trương, vốn ở kinh sư, vì buôn
bán thua lỗ, phải đi tìm bà con ở phủ Duyên An để nương nhờ, nhân lỡ bước xin
vào để trọ.
Người chủ nghe nói cũng yên chí cho là thực, liền sai người dọn
cơm cho mẹ con Vương Tiến ăn.
Cơm nước xong rồi, chủ nhân đưa hai người sang phòng để nghỉ,
Vương Tiến nói với chủ nhân rằng:
- Có con ngựa của mẹ tôi cưỡi, nhờ người bảo người nhà cho ăn
uống cẩn thận, tôi xin tạ ơn sau.
Chủ nhân cười và đáp rằng:
- Được, nhà tôi cũng có ngựa để tôi bảo nó dắt ra chuồng cho
ăn uống một thể.
Nói đoạn đi vào phòng nghỉ.
Sáng hôm sau khi mặt trời mọc đã cao, mà chưa thấy mẹ con
Vương Tiến dậy, sau người chủ đi đến phòng khách, thấy tiếng mẹ Vương Tiến kêu
rên mà cửa phòng chưa mở, liền hỏi lên rằng:
- Trời sáng đã lâu rồi mà các ngài chưa dậy hay sao?
Vương Tiến nghe tiếng hỏi, vội vàng chạy ra vái chủ nhân mà
nói rằng:
- Thưa ngài chúng tôi dậy đã lâu, nhưng mẹ tôi đi đường mỏi mệt,
hôm qua sinh chứng đau bụng, cho nên tôi chưa dám mở cửa đi ra.
Trang chủ nghe nói liền bảo Vương Tiến rằng:
- Nếu thế thì ông nói với cụ cứ yên tâm ở lưu lại đây mấy
hôm, để tôi tìm thầy thuốc đến chữa.
Vương Tiến vui mừng cảm tạ, rồi lưu mẹ ở đó để phục thuốc,
cách năm sáu hôm bệnh của mẹ đã khỏi.
Vương Tiến liền thu thập hành lý để sắp sửa ra đi. Khi ra
ngoài tầu nom ngựa, thì thấy có một chàng thiếu niên cởi trần mặc quần đùi, to
béo phục phịch, đương múa roi một mình ở sau sân.
Vương Tiến đứng xem một lát, bất giác bật miệng nói lên rằng:
- Roi múa đã khá lắm. Nhưng còn nhiều chỗ hớ hên, chưa có thể
gọi là hảo hán được.
Người thiếu niên nghe nói, ngẩng lên thấy Vương Tiến, bỗng nổi
giận quát:
- Anh là người nào, dám chê võ nghệ của ta? Ta đi học võ đã bảy
tám ông thầy, có lẽ lại không bằng anh hay sao? Có giỏi vào đây đánh thử với ta
vài hiệp xem sao?
Đương khi quát tháo ầm ĩ, thì thấy trang chủ ở đâu chạy ra mắng
thiếu niên rằng:
- Mầy không được vô lễ thế.
Người thiếu niên nói:
- Anh ta là người nào, mà dám chê võ nghệ của con?
Trang chủ quay lại hỏi Vương Tiến rằng:
- Khách cũng biết đánh roi gậy chăng?
Vương Tiến đáp:
- Tôi có biết đôi chút nhưng thiếu niên kia là người nào?
- Thưa hắn là con của lão đấy.
- Nếu vậy thì tôi xin sửa giúp cho cậu ấy, nhưng không biết cậu
ấy có bằng lòng hay không?
Trang chủ nói:
- Ngài có lòng như thế, thì còn gì hơn nữa?
Nói xong liền gọi chàng thiếu niên ấy đến bái chào Vương Tiến
làm sư phụ. Thiếu niên nhất định không nghe, lại ra dáng tức giận mà rằng.
- Cha đừng nghe anh ta nói liều, nếu anh ta giỏi. Thì xin ra
đây hãy đánh với con vài hiệp, có được thì con xin bái làm sư phụ ngay.
Vương Tiến đáp luôn rằng:
- Được. Nếu cậu muốn thi tài, thì có khó gì.
Chàng thiếu niên nghe Vương Tiến nói, liền múa vung roi chạy
thẳng tới chổ Vương Tiến mà nói rằng:
Vương Tiến thấy chàng ta hăng hái quá vậy, chỉ cười không nói
gì.
Sau trang chủ quay sang nói với Vương Tiến:
- Nếu ngài có lòng bảo giúp cháu, thì xin ngài cứ thử cho nó
biết tay, có ngại gì.
- Nhưng tôi e lỡ ra không tiện cho cậu ấy.
- Xin ngài cứ thử xem, nếu nó có gẫy chân gẫy tay, thì cũng
là tại nó; còn kêu ai được nữa đây.
Vương Tiến bất đắc dĩ, phải ra chỗ giá cắm gậy, rút lấy một
cây roi, đi ra giữa sân, múa qua mấy vòng cho thiếu niên xem.
- Chàng thiếu niên xem một lát, rồi cũng cầm roi xông ra
đánh, Vương Tiến chạy giật lùi, rồi giơ tay ra đỡ, chứ không đánh lại.
Chàng thiếu niên lại sấn đến gần Vương Tiến. Vương Tiến liền
giơ roi ra bộ đánh rất mạnh, chàng thiếu niên giơ roi vội lên đỡ, Vương Tiến lại
trở đầu roi dí vào bụng thiếu niên, đẩy một cái thật mạnh, làm cho thiếu niên
không kịp phòng bị, ngã một cái rất nên thân, Vương Tiến vội vất roi ra đất, chạy
lại nâng người thiếu niên dậy, cười nói khuyên giải mấy câu.
Người thiếu niên bị một ngọn roi ấy, mới phục tài Vương Tiến,
lóp ngóp bò dậy, vái lấy vái để mà rằng:
- Thưa ngài, thực là tôi đã uổng công học tập bao thầy, mà
rút cục không thấm vào đâu với sư phụ cả. Vậy xin ngài tha lỗi mà dạy bảo cho?
Vương Tiến cười mà rằng:
- Tôi đến đây quấy quá cũng nhiều, không biết lấy gì đền ơn
cho được. Nếu cậu muốn học tập thêm thì tôi xin hết lòng bảo giúp, không dám tiếc
chi.
Trang chủ nghe nói cũng lấy làm mừng, bắt con trai đi theo
Vương Tiến vào trong nhà, rồi sai gia nhân giết dê và dọn rượu, thiết đãi mẹ
con Vương Tiến. Trong khi dự tiệc, trang chủ cất tiếng mời Vương Tiến rồi hỏi rằng:
- Tôi xem ngài võ nghệ cao cường như vậy, tất là ngài đã làm
chức Giáo Đầu thì phải? Bố con nhà tôi thực là có mắt mà không trông thấy núi,
xin ngài xá lỗi cho.
Vương Tiến cười mà đáp rằng:
- Chẳng dám dấu chi cụ, tôi nay thực không phải là người họ
Trương, mà chính là Giáo Đầu Vương Tiến dạy tám mươi vạn Cấm Binh ơ Đông Kinh.
Chỉ suốt ngày múa đao cầm gậy, còn kém chi ai. Nay nhân vì Cao Thái Úy mới đến
nhậm chức có lòng thù ghét với tôi. Tôi tự nghĩ mình không địch lại nổi, cho
nên hai mẹ con phải bất đắc dĩ trốn sang phủ Duyên An, để vào hầu quan Trung
Kinh Lược. Bất đồ lỡ bước tới đây nhờ được lão nhân có lòng hậu đãi, lại mời thầy
chữa bệnh cho mẹ tôi, như thế thật là nghĩa nặng ơn sâu, biết lấy gì báo đáp. Nếu
công tử nhà có muốn học tập cho hoàn toàn, thì tôi xin bảo giúp cho, còn như những
ngón gậy đó, chẳng qua chỉ trông cho đẹp mắt, chứ đến khi ra trận, thì chẳng
vào đâu.
Trang chủ nghe nói càng bội phần trân trọng, gọi con trai bảo
rằng:
- Nếu vậy con phải lạy tạ sư phụ lần nữa mới được?
Chàng thiếu niên đứng dậy lạy tạ Vương Tiến rồi lại cùng ngồi
dự tiệc.
Trang chủ kể chuyện lại với Vương Tiến rằng:
- Nguyên tổ phụ tôi từ xưa vẫn ở địa hạt huyện Hoa Âm này,
đàng trước có dãy núi Thiếu Hoa, thôn này tên gọi là Sử Gia Thôn, có tới bốn
trăm nhà ở, đều là họ Sử ở cả. Nhà tôi chỉ được thằng cháu đây, nhưng tính nó
du đãng, không chịu cày cấy làm ăn, chỉ thích múa côn đánh gậy, mẹ nó ngăn mãi
không được, thành ra lo quá mà chết, còn tôi đây cũng phải chìu lòng nó vậy. Từ
xưa đến nay phí tổn kể biết bao nhiêu tiền, để đón thầy học võ, rồi lại thuê thợ
chế cho một chiếc áo giáp, đằng trước có thêu chín con rồng rực rỡ, nhân thế ở
quanh đây, ai cũng gọi nó là Cửu Văn Long Sử Tiến. May nay lại được ngài quá bộ
đến đây, vậy xin ngài làm phúc dạy dỗ giúp cho, lão tôi xin hết lòng cảm tạ.
Vương Tiến cả mừng đáp rằng:
- Vâng cụ đã dạy thế, thì từ nay tôi xin lưu lại đây, để bảo
giúp cho cậu ấy thành tài, rồi tôi sẽ xin từ biệt.
Khi cơm rượu xong, trang chủ lưu hai mẹ con Vương Tiến ở lại
đó, để cho con học tập.
Từ đó, hàng ngày Vương Tiến bắt Sử Tiến học tập mười tám thứ
võ nghệ, giảng dạy kỹ càng, luật phép nghiêm chỉnh, thắm thoát trong nữa năm trời,
không gì mà không tinh không kín đáo.
Được ít lâu Vương Tiến thấy Sử Tiến khá rồi, mọi môn đều giỏi
cả, tự nghĩ mình ở đây lưu luyến mãi thì không tiện, liền ngỏ lời với trang chủ
và Sử Tiến cáo từ, để sang Duyên An Phủ kiếm kế lập thân.
Trang chủ cùng con là Sử Tiến cố ý vật nài lưu lại, song
Vương Tiến nhất định không nghe, bất đắc dĩ phải đặt tiệc tiễn hành, và đưa ra
mấy tấm vải đoạn cùng hai trăm lạng bạc, để tặng Vương Tiến lên đường.
Sáng hôm sau Vương Tiến sửa soạn hành lý, chỉnh đốn cung ngựa,
từ giã hai bố con Sử Tiến ra đi, Sử Tiến bắt người gánh đồ hành lý, hết trong một
ngày, đưa chân mẹ con thầy học, ra khỏi 10 dặm rồi mới bái biệt trở về.
Sử Tiến từ khi sư phụ đi rồi, thì ngày ngày luyện tập một
mình, hết đao lại thương, hết cung lại ngựa, có khi nửa đêm diễn võ ở vườn sau,
có lúc ban ngày múa chơi ở sân trước, tháng ngày lẩn thẩn, cơ hồ quên cả tấm
thân.
Cách nửa năm sau, trang chủ bị cảm rất nặng Sử Tiến sai người
đi đón thầy thuốc khắp mọi nơi, chữa chạy không thiếu gì phương cách, nhưng
mình già tuổi yếu, bệnh thế triền miên, được mấy hôm thì ông về nơi tiên giới.
Sử Tiến đau đớn khóc thương, nhất diện sắm sanh khâm niệm quách quan, nhất diện
đón thầy về làm chay cúng Phật, cho tĩnh độ siêu sinh, rồi chọn tháng tốt ngày
lành, làm lễ mai táng ở ngọn núi bên tây.
Từ đó Sử Tiến trong lòng buồn bã, lại càng không thiết đến
công việc nông, chỉ đêm ngày lẩn thẩn tìm ngươi đấu võ thi tài làm thích.
Một hôm vào khoảng trung tuần tháng sáu, trời đang bức nực lạ
thường, Sử Tiến vác cái ghế ra gốc cây liễu ở gần cạnh bục thóc để ngồi hứng
mát. Chợt thấy ở dưới gốc cây tùng bên kia, có người ngấp nghé nom dòm, chàng lấy
làm ngạc nhiên quát hỏi lên rằng:
- Quái! Anh nào nom dòm nhà ta thế kia?
Hỏi đoạn, đứng dậy chạy ra xem, thì thấy tên Lý Cát, là tay
đi săn đương đứng ở đó. Sử Tiến lại hỏi luôn rằng:
- Lý Cát! Ngươi nấp nom gì đấy? Hay là muốn thử võ với ta
chăng?
Lý Cát dạ! Mà đáp lại rằng:
- Thưa cậu, tôi đến đây để săn mấy con cầy, để kiếm rượu,
nhưng thấy cậu ngồi đó, nên tôi không dám vào.
- Sao dạo trước săn bắn được cái gì, anh cũng mang đế đây
bán, tôi chưa từng chịu tiền của anh bao giờ? Thế mà lâu nay không thấy mang đến
đây bán cho tôi nữa. Hay là anh khinh tôi không có tiền chăng?
- Có đâu dám thế, vì dạo này săn không được cái gì, cho nên
không dám đến đây thôi.
Sử Tiến quát lên rằng:
- Anh nói cuội, núi Thiếu Hoa rộng lớn như vậy, mà lại không
có con vật gì hay sao.
Lý Cát nói rằng:
- Thưa cậu, Nguyên ở núi Thiếu Hoa bây giờ, có một bọn cướp đến
đóng, người đầu đảng là Thần Cơ quân sư Chu Vũ, tự xưng làm Đại Vương; người thứ
hai là Khiếu Giản Hổ Trần Đạt; còn người thứ ba là Bạch Hoa Sà Dương Xuân, tụ đến
năm bảy trăm lâu la, và mấy trăm cỗ ngựa, để đi cướp bóc kiếm ăn. Quan huyện
Hoa Âm cấm mãi không được, phải treo giải ba nghìn quan tiền để thưởng người bắt
cướp, nhưng nào có ai dám đụng đến chúng nó đâu? Bởi thế lâu nay chúng tôi
không dám lên núi, nên không kiếm được gì.
Sử Tiến lắc đầu nói rằng:
- Ta cũng thấy nói có bọn cướp ở đấy, nhưng không ngờ nó hống
hách như vậy. Lý Cát ôi! Hôm nay nếu có kiếm được cái gì, thì ngươi phải mang đến
đây bán cho ta mới được.
Lý Cát vâng dạ luôn mồm rồi đi.
Sử Tiến quay vào nhà trong suy nghĩ một mình:
Bọn cướp nó lộng hành như vậy, thì tất nhiên có phen quấy rối
đến chỗ ta, vậy bất nhược ta phải phòng bị ngay mới được.
Chàng nghĩ như vậy, liền sai người nhà mổ thịt hai con trâu,
rồi cho mời mấy trăm nhà trong thôn đến chén.
Khi dưới trên đã tề tựu cả rồi, Sử Tiến cất chén rượu mời,
nói với hàng thôn rằng:
- Tôi nghe thấy trộm cướp đến đóng trên núi Thiếu Hoa, đây
quân gia có tới năm bảy trăm người, sức mạng người đông, không ai cản nổi thế tất
sau này phải quấy nhiễu đến ta, vậy tôi muốn mời đồng dân đến đây, để bàn kế
phòng bị, kẻo lỡ khi nguy hiểm đến nơi, khó lòng tránh khỏi. Từ nay các nhà ở
trong hàng thôn, ai ai cũng phải phòng bị khí giới, và đặt mõ làm hiệu, nếu có
động dạng gì cứ đánh mõ lên, thì các nhà khác phải đổ đến ứng cứu cho mau.
Các thôn dân nghe nói, đều đồng thanh rằng:
- Chúng tôi là nông dân, không biết chút gì, vậy các việc xin
nhờ Đại Lang tất cả, hễ có động dạng ở đâu, chúng tôi xin vâng lời đến cứu.
Khi chè chén xong rồi, các dân thôn đâu đấy về nhà, sửa soạn
võ khí theo như lời Sử Tiến đã dặn, còn Sử Tiến thì sửa sang cổng ngõ ngăn ngừa
giậu vách, và sắp sẵn các đồ đai giáp cung ngựa, để dự bị chống giặc.
Nguyên bọn giặc này, đến đóng ở núi Thiếu Hoa, có ba người
làm trùm, một người tên là Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ, vốn người ở đất Định Viễn,
sai khiến hai cây song đao, võ nghệ dẫu không ra gì, song cũng biết ít nhiều trận
pháp, lại mưu lược cũng hơi thông. Một người tên là Trần Đạt; quê ở Nghiệp
Thành, vốn hay dùng cây cương sang để ra trận; còn một người thứ ba tên là
Dương Xuân, người đất Bồ Châu, huyện Giải Lương, thường cầm một thanh đại đao rất
lớn.
Một hôm Chu Vũ bảo với Trần Đạt, Dương Xuân rằng:
- Nghe nói huyện Hoa Âm có treo giải ba nghìn quan tiền để thưởng
người tróc nã bọn ta, vậy thì bất nhật tất có quan quân kéo đến, thế mà trong
trại ta lương thảo không có là bao, chỉ e khi binh hỏa đến nơi, thì khó lòng chống
cự. Nay nhân khi nhàn hạ, sao ta không liệu kế đi tảo vác lấy lương thảo đem về
mà phòng bị, sẵn sàng cho vững dạ.
Khiêu Giản Hổ Trần Đạt gật đầu đáp rằng:
- Phải lắm, bất nhược ta đến huyện Hoa Âm mượn ngay họ một ít
lương thảo, xem họ xử trí ra sao đã.
Bạch Hoa Sà Dương Xuân gạt ngay đi rằng:
- Ta không nên đến huyện Hoa Âm cứ kéo vào Bồ Thành có lẽ lại
thanh thỏa hơn.
Trần Đạt nói:
- Huyện Bồ Thành người thưa lương ít, lấy được bao nhiêu, chi
bằng đến huyên Hoa Âm nhân dân giàu có, tiền thóc sẵn sàng, có thú hơn không?
Dương Xuân nói:
- Đành vậy, nhưng anh phải biết rằng, đường đi Hoa Âm, tất phải
qua thôn Sử gia, ở đấy có anh Cửu Văn Long Sử Tiến cũng là một tay đại bợm, nếu
không trừ được nó, thì sao nó để cho đi.
- Sao chú bé mật thế; một thằng nhãi con còn sợ, thì địch thế
nào nổi với quân quan.
Dương Xuân nói:
- Anh chớ nên khinh người ấy mới được.
Chu Vũ nói:
- Tôi cũng nghe thấy nói hắn ta anh hùng mà võ nghệ rất giỏi,
có lẽ đừng nên phạm vào đấy thì hơn.
Trần Đạt có ý không bằng lòng:
- Các ông thật là chỉ biết tâng bốc chí khí người ta, mà làm
nhụt mất cả uy phong của mình, nó bất quá là người, chứ có ba đầu sáu tay gì mà
sợ.
Nói đoạn, thét ngay đám lâu la:
- Chúng bay sắp ngựa đem đến đây, ta hãy phá thôn Sử Gia rồi
lấy huyện Hoa Âm cho mà xem.
Chu Vũ và Dương Xuân thấy vậy, tỏ ý can ngăn, song Trần Đạt
nhất định không nghe, vác thương lên ngựa, dẫn hơn một trăm lâu la, đánh trống
khua chiêng, thẳng vào thôn họ Sử. Sử Tiến đương khi chuẩn bị sẵn sàng để chờ
giặc đến, bỗng nghe tin báo, thì khua mõ ra lệnh cho thôn dân đổ đến.
Khi thôn dân nghe tiếng hiệu, thì ba bốn trăm nhà đều tay
gươm tay gậy bảo nhau kéo đến cứu ứng, tới nơi thấy Sử Tiến đầu đội khăn chữ nhất,
mình mặc áo giáp hồng, chân đi giày tía, lưng thắc dây da, trước sau ngực đều
có kính yểm tâm, lưng đeo bao tê, tay cầm cây đao ba mũi, rất là oai vệ. Bấy giờ
người nhà dắt ra một con ngựa đỏ, Sử Tiến nhảy lên mình ngựa, đàn trước có hơn
bốn mươi gia nhân tráng kiện dàn hàng, lại có tám chín mươi người thôn trang khỏe
mạnh đi kèm hai bên, còn bao nhiêu thôn dân đi theo sau cùng kéo ra cửa thôn. Vừa
đi tới chỗ sườn núi đã thấy Trần Đạt đầu đội khăn hồng, mình mặc áo giáp sắt bọc
vàng, chân đi đôi giày ống, cưỡi con ngựa trắng cao đầu, tay vác thanh cương
mâu, dẫn lâu la kéo tới.
Sử Tiến trông thấy quát lên hỏi rằng:
- Các ngươi ở đâu dám đến đất này quấy nhiễu lương dân? Tội ấy
cũng đã đáng chết, nay còn muốn cả gan xâm phạm đến chỗ ta ở hay sao?
Trần Đạt ngồi trên mình ngựa đáp rằng:
- Vì trong trại chúng tôi thiếu ăn, muốn sang huyện Hoa Âm để
vay lương thực, đường đi qua quý thôn đây, muốn phiền ngài cho đi nhờ, khi trở
về tôi xin hậu tạ.
Sử Tiến nghe dứt lời quát lên rằng:
- Các ngươi nói dễ chưa, ta đây đương tính đi tróc nã các
ngươi, nay mi tự dẫn đến đây, tất là không thể nào tha ra được.
Trần Đạt lại nói:
- Ngài ơí! Trong bốn bể đều là anh em hết cả, hẹp chi mà ngài
không cho chúng tôi mượn lối để đi?
Sử Tiến cười đáp:
- Đành vậy, nhưng có một vật kia, nó không chịu cho các ngươi
mượn đường để đi, ngươi thử hỏi xem nó có bằng lòng, thì ta sẽ dung cho các
ngươi.
Trần Đạt nghe nói cả giận mà rằng:
- Anh này giỏi, anh bảo ta hỏi ai?
- Ngươi hỏi thanh đao trong tay ta đây này, xem nó có bằng
lòng không?
Trần Đạt hầm hầm không đợi nói dứt lời, vội múa cương sang
xông vào, đánh thẳng. Bên kia Sử Tiến cũng giơ đao, xông ngựa ra chống cự.
Đôi bên đánh lộn bậy hồi lâu, Sử Tiến giả cách hớ hênh, Trần
Đạt liền cầm thương nhằm Sử Tiến đâm một nhát thật mạnh. Sử Tiến quất ngựa nhảy
rất nhanh, để tránh mũi thương, rồi quay ngoắt ngay vào Trần Đạt, Trần Đạt còn
luống cuống toan quay đầu để đỡ bỗng bị Sử Tiến quăng dây nhợ quấn chặt lấy
mình, giật ngã xuống ngựa. Bọn lâu la thấy chủ tướng đã thua, đứa nào đứa nấy đều
thục thân mà chạy cả. Sử Tiến hô tụi thôn trang khiêng Trần Đạt về trói ở sân,
để đợi khi bắt được hai tên kia, thì sẽ giải quan một thể, đoạn rồi đem rượu thịt
khao thưởng tại thôn trang rất là vui vẻ.
Bên kia Chu Vũ, Dương Xuân từ khi Trần Đạt đem lâu la ra đi,
trong lòng vẫn áy náy không yên, hai người còn đương bàn bạc nghĩ ngợi, thì bỗng
thấy một lũ lâu la hớt ha hớt hải, chạy về đem chuyện Trần Đạt bị bắt, giải bày
cho nghe.
Chu Vũ nghe nói biến sắc mặt kêu lên rằng:
- Hắn không nghe lời ta, quả nhiên tai họa tới nơi, còn làm
sao cho kịp?
Chu Vũ lắc đầu mà rằng:
- Khó lòng, Sử Tiến không phải là người vừa, anh em ta địch
làm sao nổi?
- Bây giờ tôi có một khổ kế này, nếu mà không cứu được Trần Đạt
ra thì tôi với anh cũng là chịu chết cả thôi.
- Khổ kế là thế nào?
Chu Vũ ghé vào tai Dương Xuân nói thầm mấy câu, rồi lại bảo rằng:
- Trừ phi như thế, thì may ra có thể được mà thôi.
Dương Xuân hơi có dáng mừng mà rằng:
- Nếu vậy thì ta phải mau lên, chứ trì hoãn làm sao được nữa?
Nói đoạn hai người cùng đi.
Bấy giờ Sử Tiến khao thưởng trong thôn, vừa đoạn, trong lòng
đương nóng nảy mong bắt được hai tên kia, để cùng đem với Trần Đạt giải quan một
thể. Bỗng thấy tráng đinh vào báo rằng:
- Có hai người đến ngoài cổng, nói là Dương Xuân, Chu Vũ đến
hầu.
Sử Tiến nghe nói cả mừng rằng:
- "Nếu vậy thì ta thành công rồi, hai thằng ấy có lên trời
cũng không thoát được" đoạn nhất diện sai người đánh hiệu cho dân thôn kéo
đến, nhất diện sai lấy ngựa để ra cổng trại xem sao? Đương khi sắp sửa cung ngựa,
thì đã thấy Dương Xuân cùng Chu Vũ đi bộ bước vào hiên trại, quỳ xuống đất khóc
sướt mướt mà không nói gì?
Sử Tiến thấy vậy quát hỏi:
- Các ngươi định làm kế sách gì ở đây? Chu Vũ sụt sùi nói rằng:
- Thưa ngài: Ba anh em chúng tôi chỉ vì nhiều khi bị quan
trên ức hiếp, bất đắc dĩ phải đem nhau đi cướp bóc kiếm ăn. Kỳ thủy có nguyện với
nhau, không cầu được cùng một ngày sống, mà chỉ cầu sao được cùng chết một ngày,
tình thân ái của ba chúng tôi không dám đâu ví với Đào Viên Tam Nghĩa, song sự
tử sinh cố kết, thì cũng hơi giống như nhau. Nay em Trần Đạt chúng tôi, chỉ vì
không nghe lời tôi bảo, thuận tiện tới đây, phạm đến uy ngai, để ngài bắt được,
sự ấy tự nó làm ra, đành là tự thân phải chịu, không còn kêu thán được ai. Vì vậy
chúng tôi xin đến đây để nộp thân cho ngài, ngài nghĩ đến tình cố kết cùa chúng
tôi mà cho đem nộp quan trên tất cả, để anh em chúng tôi được cùng trông thấy
nhau, tức là hạnh phúc cho chúng tôi lắm. Chúng tôi được chết về tay một người
anh hùng như ngài, không dám có một điều chi là hối hận.
Sử Tiến nghe nói, tự nghĩ một mình:
- Ừ ba thằng này nó có nghĩa khí với nhau như thế, nay nếu ta
đem bắt mà giải quan, thì tất nhiên bọn hảo hán ở đời phải cười ta là người hẹp
lượng, xưa nay thường nói, làm đấng anh hùng phải dung kẻ dưới, việc này có lẽ
ta phải xử trí sao đây?
Nghĩ đoạn liền bảo hai người kia rằng:
- Các ngươi đi theo ta vào trong này,
Chu Vũ, Dương Xuân ung dung đi theo Sử Tiến vào đến nhà sau;
rồi lại quì xuống mà kêu xin chịu trói. Sử Tiến đôi ba phen bảo cứ đứng dậy,
xong hai người nhất định không nghe, cứ chăm chăm quì nguyên như trước.
Sử Tiến thấy vậy trong lòng rất cảm động không yên, liền sẽ bảo
hai người rằng:
- Các ngươi đã có nghĩa khí đối đãi với nhau như thế, ta đây
cũng không nỡ bắt làm chi? Vậy ta muốn tha cho Trần Đạt trở về, thì các ngươi
nghĩ sao?
Chu Vũ nói:
- Có đâu chúng tôi lại để lụy anh hùng như thế? Thà rằng xin
ngài cứ giải chúng tôi mà lấy thưởng còn hơn.
Sử Tiến nghe nói, lại càng mủi lòng, liền kéo hai người đứng
dậy, rồi tha trói cho Trần Đạt, sai người đem rượu thịt ra cho ba người cùng uống
và hứa cho về.
Khi uống rượu say sưa, ba người cùng ân cần tạ ơn Sử Tiến rồi
quay về trại. Tới trại, Chu Vũ bảo hai người kia rằng:
- Nếu ta không làm cái khổ kế như vậy, thì khó lòng mà cứu được
tính mạng cho toàn. Nhưng thế nào mặc lòng, Sử Đại Lang cũng là một tay nghĩa
khí lạ thường, cho nên mới đãi chúng ta như thế. Vậy nay mai ta phải kiếm lễ vật
gì, mà tạ ơn người ấy mới được.
Cách mươi hôm sau, Chu Vũ sai mấy tên lâu la, vào hồi chập tối,
mang ba mươi nén vàng đến để tạ ơn Sử Tiến. Thoạt tiên, Sử Tiến thấy vậy còn từ
chối không nhận. Sau thấy tên lâu la kêu nài thảm thiết, thì cũng cảm lòng tốt
mà thu lấy. Đoạn, sai lấy cơm rượu cho tên lâu la ăn uống, mà thưởng tiền cho về.
Vào khoảng nửa tháng sau, lũ Chu Vũ kiếm được một hạt minh
châu rất lớn, cũng lại sai người đến dâng Sử Tiến.
Sử Tiến nhận minh châu trong lòng lấy làm nghĩ ngợi: Ba người
này thành thực trọng đãi ta như thế, nếu ta không có gì xử lại với họ thì tất
nhiên họ không tâm phục vớí mình.
Nghĩ đoạn liền sai người nhà đi mua gấm, đặt may ba cái áo, để
tặng ba người. Cách mấy hôm sau áo đã may xong, Sử Tiến lại mua ba con dê béo,
quay chín tử tế rồi cho tên Vương Tứ đem áo gấm và dê béo vào trại, để tặng bọn
Chu Vũ, Dương Xuân, vương tứ là một tay người nhà rất thông thạo ở trong trang
viện, nhân thế Sử Tiến mới tin dùng mà sai đến những việc bì mật như vậy.
Vương Tứ tới sơn trại, bọn Chu Vũ nhận được lễ vật mừng rỡ cảm
tạ, đoạn rồi cũng sai lấy rượu ngon thịt béo cho Vương Tứ ăn, và lại thưởng cho
mươi lạng bạc đem về.
Từ đó Sử Tiến cùng với bọn Chu Vũ thường tặng đưa lễ vật cho
nhau, tình ý xem ra cũng hơi có chiều thân mật.
Ngày đi tháng lại, mọt hôm gần đến tết Trung thu, Sử Tiến muốn
tìm bọn Chu Vũ đến để nói chuyện cho vui, liền viết một bức thư sai Vương Tứ
đưa sang sơn trại, hẹn với Chu Vũ, Dương Xuân và Trần Đạt, đến hôm giữa tết
Trung thu, thì cùng đến thôn trang để trông trăng đánh chén. Chu Vũ nhận được
thư, trong lòng mừng rỡ vô cùng, liền viết thư đáp, xin đến hôm ấy thì cả ba
anh em cùng y lời phó ước. Viết xong thư đưa cho Vương Tứ, sai lấy rượu cho uống,
và thưởng cho năm nén bạc rồi mới cho về. Vương Tứ bỏ phong thư vào túi vái tạ
ba người. Vừa ra đến cổng bỗng gặp một tên lâu la vẫn hay đưa lễ vật sang trang
viên xưa nay. Tên ấy trông Vương Tứ thì vội mừng hớn hở, lôi kéo vào hàng rượu
con con ở gần đấy để thiết đãi, Vương Tứ vừa mới uống rượu của bọn Chu Vũ thưởng
xong, lại bị tên lâu la ép luôn mươi chén nữa, thì thấy chếnh choáng muốn say,
liền đứng dậy từ giã lâu la vội vã ra về.
Khi đi được mấy bước, thấy hơi rượu ngày càng bốc, dần dần
choáng váng ngả nghiêng như muốn ngã, Vương Tứ cố gượng toan đi về đến nhà. Bất
đồ mới đi độ mươi dặm được, đến một khu rừng con gần đó, thì mê mệt say sưa, nằm
vật ngay xuống, không biết trời đất chi nữa.
Bấy giờ có tên Lý Cát đương đi săn ở khu rừng ấy, khi thấy động,
chạy đến xem, thì biết ngay Vương Tứ là người nhà của Sử Tiến, liền cố sức dìu
dậy muốn đưa về, song dù làm thế nào, cũng không dìu dắt đi được, bất đắc dĩ phải
đành mặc đấy. Dè đâu Vương Tứ say quá đến nỗi có mấy lạng bạc của bọn Chu Vũ
cho, và bức thư trả lời của bọn họ cũng đánh rơi cả ra mà không biết. Lý Cát bất
thình lình nom thấy, liền tự nghĩ trong bụng: " Ta làm gì một lúc mà được
bằng nầy tiền, bất nhược gặp cơ hội này, ta thủ phăng của anh nầy, để mà chè
chén, có thú hơn không? "Nghĩ xong nhặt lấy tiền đút vào túi, rồi lại cất
lấy phong thư để xem. Lý Cát cũng hơi võ vẽ được năm ba chữ, mở thư ra xem thấy
trên đề: "Chúng tôi Chu Vũ, Dương Xuân và Trần Đạt, ở Thiếu Hoa Sơn, kính
thưa ông Sử Tiến..."Còn ở dưới, liên chi hồ điệp, không hiểu là chữ nghĩa
gì, trong bụng nghĩ thầm, nói lẩm bẩm một mình:" Cái này chắc ba chú ở Thiếu
Hoa Sơn lại kết giao với Sử Tiến, mà thông tin tức cho nhau đây hẳn? Ưø Sử Tiến,
hôm nọ ta đến qua sơn trang hắn còn giậm dọa quát tháo với ta, ai ngờ chính hắn
lại thông đồng với bọn giết người lấy của, mà nạt chúng ta? Được lắm; ta cứ giữ
nghề thả lưới mò trăng mãi, thì đến bao giờ cho phú quý? Âu là đương dịp quan
trên đương thưởng tiền bắt cướp, ta đem bức thư ra tố giác, họa may có cơ hội tốt
thì cũng nên". Nghĩ đoạn liền đút luôn bức thư vào túi, đi ngay lên huyện
Hoa Âm để tố cáo.
Khi Vương Tứ cựa mình tỉnh dậy, mở mắt trông thấy trăng sáng
lờ mờ, bốn bên toàn là cỏ cây rừng núi, bấy giờ mới biết là mình bị chén đã quá
say, mà nằm ở đó, liền đứng dậy sờ đến túi, thì tiền không thấy mà giấy cũng
không. Trong bụng bàng hoàng tìm khắp chung quanh không còn tăm hơi chi cả?
" Trời ơi! Không biết đứa nào tinh khôn đến thế, ai xui cho nó đến đây mà
lấy cả của mình? Ừ thì tiền nong mất chẳng cần chi, nhưng còn bức thư kia, ngộ
nhỡ ra đứa nào biết đến thì sao?
Vương Tứ nghĩ vậy, vò đầu vò tóc, tính quẩn toan quanh, chợt
nghĩ ra một kế: "Nếu bây giờ ta nói thực với Sử Đại Lang thì tất là không
yên được, vậy bất nhược ta phải nói phăng là không có thư từ gì cả là
xong"
Định kế xong rồi, đi thẳng một mạch, vào khoảng đầu trống
canh năm về tới nhà, vào báo cho Sử Tiến biết, Sử Tiến thấy Vương Tứ về liền hỏi:
- Sao ngươi đi lâu lắm vậy?
- Dạ! Bẩm cậu, con đi vào đến đó, ba ông ấy còn lưu lại cho
con uống rượu thật say, cho nên bây giờ con mới về được.
- Có giấy má gì không?
- Bẩm không! Các ông ấy toan viết thư trả lời, nhưng sợ lỡ đi
đường say rượu, mà đánh rơi mất thì khốn. Vì thế con bảo các ông ấy cứ dặn miệng
thôi cũng được, vậy các ông ấy có dặn con nói để cảm tạ Đại Lang, và hẹn rằng
hôm ấy thế nào cũng đến sớm.
Sử Tiến khen rằng:
- Anh tinh lắm, nếu thế thì không phụ lòng ta tin cậy thực;
nhưng đã vậy, thì mai sớm phải đi lên huyện mà sắm sửa hoa quả, và các thức rượu
chè sẵn cho ta.
Vương Tứ vâng lời lui ra, cách mấy hôm đến ngày Rằm tháng
tám, khí trời mát mẻ, cảnh vật em đềm, lũ Chu Vũ, Dương Xuân và Trần Đạt, giao
việc trại cho bọn lâu la coi sóc, rồi đem mấy người thân tín đều dắt đỏan đao
thủ thân mà cùng sang Sử thôn phó ước.
Buổi chiều hôm ấy, ở nhà Sử Tiến đã bày tiệc sẵn sàng để đợi.
Khi bọn Chu Vũ tới nơi, Sử Tiến rất mừng rỡ, đón rước mời chào, cùng nhau đàm đạo
hồi lâu, rồi mới rước vào dự tiệc. Bấy giờ vừa khi sẩm tối, bốn bên mây tạnh trời
quang, bóng Hằng Nga vằng vặc ở phương đông đã lù lù kéo đến, soi sáng vào bàn
tiệc Trung thu, Sử Tiến cùng bọn Chu Vũ, Dương Xuân cất chén thù tạc với nhau,
rất là đắc chí, chợt đâu có tiếng người ồn ào, ở phía ngoài tường, đoạn rồi thấy
đóm đuốc sáng quắc tứ bề, Sử Tiến ngạc nhiên kinh lạ, đứng dậy bảo với ba người
kia rằng: - Ba bác hãy ngồi đây xơi rượu, để tôi chạy ra xem việc chi
huyên náo thế kia? Nói xong chạy ra quát người nhà đóng chặt cổng người ngõ lại,
rồi lấy thang trèo lên tường nom, thì thấy quan Huyện Úy huyện Hoa Âm đương ngồi
trên mình ngựa, dẫn hai tên Đô Đầu, Đốc Xuất và ba bốn trăm thổ binh vây bọc
quanh nhà mình, Sử Tiến thấy vậy, chạy vào báo cho ba người kia biết, ai nấy đều
kinh hoàng sợ hãi, chưa biết định kế ra sao?
Rượu còn chếnh choáng,
Người đã xôn xao,
Vì không tỏ mặt anh hào,
Bỗng nhưng đâu có lụy vào đến thân?
Đã nên có dũng có nhân,
Nặng lòng nghĩa hiệp, nhẹ cân bạc tiền,
Nước non đã vực anh tài,
Sá chi luồn cuối thiệt đời bồng tang;
Tiếng hào còn để làm gương,
Trăm năm thẹn chết những phường tham ngu.
Lời bàn của Thánh Thán:
Một bộ sách lớn gồm bảy mươi hồi, sắp tả ra một trăm linh tám
anh hùng. Khi mới mở đầu câu chuyện không thề tả ngay ra hết, hãy tả một người
Cao Cầu như khởi điểm. Nếu chẳng tả Cao Cầu, lại tả ngay một trăm linh tám vị
anh hùng, thì ra mối loạn bắt đầu tự lũ dưới. Nay chẳng tả ngay lũ anh hùng ấy,
mà tả Cao Cầu trước, thì thấy mối loạn sinh ra vốn tự người trên. Xét loạn tự
lũ dưới sinh ra, sao dung thứ được? Đó là điều kiêng kị của tác giả đối với mọi
chuyện. Nay mối loạn tự người trên sinh ra, không nên để cho to lớn, đó cũng là
điều lo sâu của tác giả đối với mọi chuyện. Một bộ sách lớn bảy mươi hồi, mở đầu
thấy tả Cao Cầu mới viết vậy.
Cao Cầu trở lại Đông Kinh đắc dụng, khiến Vương Tiến bỏ quan
chức trốn đi, Vương Tiến kia là bậc thế nào? Vốn người chẳng bỏ nghiệp cha,
khéo nuôi chí mẹ, tức là con hiếu đấy! Khiến ta càng nhớ đến câu: Muốn cầu tôi
trung, phải xem ở đám con hiếu. Như thế Vương Tiến cũng bậc tôi trung, từ xưa
con hiếu tôi trung, được coi như tường lân oai phượng, hay như ngọc bích tròn,
với ngọc khuê vuông, tìm khắp bốn bể chưa lấy nổi một người, thế mà đánh sịch một
cái lại có đây, thì đáng tôn quý, đáng vinh dự lắm chứ? Sao mà sinh sự oán
ghét, lại toan đánh mắng, đến điều muốn giết chết, bức bách cho phải bỏ đi, thế
là tại đâu? Đó là Vương Tiến bỏ đi, đem lại một trăm linh tám người tới vậy.
Như thế Cao Cầu khởi xướng cho một trăm lẻ tám người sinh
chuyện. Vì sau Vương Tiến bỏ đi, lại tiếp đến Sử Tiến, chữ Sử là họ kia cũng chữ
sử là sách sử vậy, ý nói quan Tỳ Sử cũng chỉ chép sử. Hỡi ơi! Từ xưa có sử để
mà chép mọi việc, thì nay quan Tỳ Sử chép gì, hãy chép việc của một trăm lẻ tám
người vậy, chép đám người ấy, cũng cho là sử ư? Cho là sử vì lời bàn của dân
chúng, cũng là sử được, kể ra dân chúng đâu dám cãi bàn việc nước, bấy lâu nay
dân chúng đâu dám cãi bàn, một khi dân chúng chẳng dám cãi bàn, mà lại cứ dám
cãi bàn, thì tại đân nhỉ? Theo như thiên hạ có đạo, thì dân nào dám cãi bàn,
thì cũng đủ biết thiên hạ không còn đạo nữa! Cũng như Vương Tiến phải bỏ đi, vì
Cao Cầu được trở lại vậy.
Họ Sử cũng như sách sử vậy, vốn có chuyện vậy, còn Tiến thì
nghĩa sao đây? Xét rằng kẻ kia vốn tự hứa ra tên, dù chẳng phải quan Tỳ Sử chép
truyện, song đã tiến dẫn thành sử vậy, ngươi Sử Tiến để tiến dẫn truyện thành
ra sử, vốn có vậy. Còn Vương Tiến là nghĩa làm sao? Xét rằng phải được người
như thế, ngõ hầu bậc thánh ở ngôi vua, để dạy dân tiến lên vương đạo, phải là
như người Vương Tiến, rồi dạy dân tiến lên vương đạo, thế thì một trăm lẻ tám
người kia, theo vương đạo phải đem giết bỏ.
Một trăm lẻ tám người kia, theo vương đạo phải đem giết bỏ,
sao còn cho hiện lẫn ra một Vương Tiến đáng là dân của bậc thánh minh? Xét rằng
Vương Tiến chẳng bỏ nghiệp cha, khéo nuôi chí mẹ, đáng xuất hiện trung gian, để
làm gương lắm? Thế rồi chẳng hiện ở trung gian như điểm danh chẳng tới, chẳng
thấy từ đâu diễn mãi ra, trốn một bước Diên An; Lại chẳng thấy hiện ra sau cuối
nữa, chả có từ đầu tới cuối, cũng như con thần long đó ư? Để cho một trăm lẻ
tám người kia, đều hiện ra hết, ta thấy rằng họ khỏi với tội chết vậy, nhưng vẫn
chưa bằng Vương Tiến, một trăm tám người kia, xét chưa bằng ấy, vậy sau mới biết
khó làm nổi như Vương Tiến. Xét, chẳng hiện làm đầu, để bảo cho người ta, đời
loạn nên ẩn, chớ xuất đầu ra; Xét chảng hiện ra cuối nữa cũng bảo cho người ta,
đời loạn quyết không thu tàn cục.
Một bộ sách bảy mươi hồi, với một trăm lẻ tám người, theo 36
vị Thiên cương, thì ngôi sao Tống Giang làm chủ; mà khi trước làm trộm cướp vậy,
lại theo 72 vị Địa Sát, có ngôi sao Chu Vũ, dẫu rằng bút lục tung hoành của tác
giả rất khéo, song cũng ngược với đạo trời mà làm ra vậy.
Thứ diễn đến Khiêu Giản Hổ Trần Đạt, Bạch Hoa Sà Dương Xuân
là ẩn nhiên bao quát một bộ sách bảy mươi hồi, có một trăm lẻ tám người đều như
hùm, như rắn, chả quý gì mà biết tới. Đã biết sự ẩn quát một bộ sách bảy mươi hồi,
với trăm lẻ tám người, thì dùng để làm gì? Nói rằng đấy là Khế Tử, để diễn ra một
bộ sách, mà Thợ Trời hoá hiện, mới có một rắn một hùm, khiến độc giả thấy Trần
Đạt, Dương Xuân, làm danh hiệu bao gồm một trăm lẻ tám vị anh hùng hảo hán vậy.
Hồi 2:
Sử Đại Lang nửa đêm đốt trại
Lỗ Đề Hạt giữa chợ giết người
Sử Tiến hỏi Chu Vũ rằng:
- Bây giờ các bác tính làm sao cho tiện?
Chu Vũ đứng lên nói:
- Ngài là một người lương thiện vô tội, chỉ vì chúng tôi làm
cho liên lụy đến người, vậy xin ngài cứ trói ba chúng tôi đem nộp cho quan Huyện,
thế là không còn lôi thôi nữa?
Sử Tiến lắc đầu đáp rằng:
- Nếu làm thế, thì ra tôi đánh lừa đến đây, để bắt các bác mà
lấy thưởng hay sao? Đại trượng phu ở đời có đâu như thế, mà để tiếng chê cười
cho thiên hạ hậu thế, vậy bây giờ chỉ có là sống cùng sống, mà chết cùng chết
là hơn, được các bác cứ ngồi đó, để tôi ra hỏi lại xem sao, rồi chúng ta sẽ liệu.
Nói đoạn chạy ra bờ tường, trèo lên thang quát hỏi:
- Bớ các ngươi, đêm hôm khuya khoắt, các ngươi định đến đây
cướp phá nhà ta đó, hay sao?
Hai tên Đô Đầu ở ngoài thấy tiếng Sử Tiến liền đáp:
- Đại Lang ơi! Đại Lang không cần hỏi, đã có tên nguyên cáo
là Lý Cát ở đây.
Sử Tiến quát lên rằng:
- Tôi có biết gì đâu? Nhân hôm nọ tôi nhặt được cái thư của
Vương Tứ, đánh rơi ở trong rừng, tôi vội đem lên nộp quan, thì ngài sai tôi dẫn
đến đây để bắt đấy thôi.
Sử Tiến nghe nói cả giận, quay lại quát hỏi Vương Tứ rằng:
- Sao ngươi bảo với ta, không có thư trả lời, mà bây giờ lại
xảy ra như thế?
Vương Tứ luống cuống trả lời:
- Đại Lang tha lỗi cho tôi, hôm ấy vì say rượu đánh rơi mất
thư lúc nào không biết.
- Quân súc sinh này, như thế còn tin cậy được việc gì nữa?
Rồi quay ra bảo với lũ Đô Đầu ở ngoài rằng:
- Nếu vậy thì hãy cứ đợi ở ngoài, để tôi sẽ trói phạm nhân
đem ra nộp vậy.
Ngoài kia hai tên Đô Đầu sợ uy thế của Sử Tiến, cũng đành phải
vâng lời đứng ở ngoài, không ai dám ho he gì cả.
Sử Tiến nói xong, quay xuống gọi Vương Tứ ra vườn sau, đưa
cho một nhát dao vào cổ, chết thẳng còng queo, rối trở vào gọi người nhà thu xếp
các đồng tiền nong tế nhuyễn, gói lấy một ít vào tay nải, còn thì vất để nguyên
cả đó. Đoạn rồi cùng với bọn Chu Vũ, mỗi người dắt một con dao sau lưng, sai
các gia nhân đều cầm dao cầm gậy, khoác tay nải lên vai, lấy lửa đốt trang viện,
rồi mở thẳng cổng xông ra. Sử Tiến đi trước, Chu Vũ, Dương Xuân đi giữa, còn Trần
Đạt cùng với bọn lâu la và gia nhân đi chặn sau. Vừa ra khỏi cổng, thì bắt gặp
ngay hai tên Đô Đầu và Lý Cát đương luống cuống ở đó, Lý Cát thất kinh toan chạy,
bị Sử Tiến đưa một dao chém làm hai đoạn. Còn hai tên Đô Đầu cũng bị Dương
Xuân, Chu Vũ tặng cho mỗi kẻ một đao kết quả hai tính mạng.
Huyện Úy thấy vậy, sợ hãi kinh hoàng, tế ngựa chạy trốn,
không dám quay cổ lại nữa, bọn dân thổ cũng tản mác chạy mau cho thoát mạng nốt?
Sử Tiến cùng bọn Chu Vũ chạy về trại Thiếu Hoa Sơn để nghỉ.
Khi về tới trại, Chu Vũ sai lâu la giết dê trâu làm tiệc ăn mừng, rồi lưu Sử Tiến
ở đó, Sử Tiến ở được mấy hôm, chợt trong bụng nghĩ: "Mình chỉ vì cứu ba
người này, mà nhất đán đốt mất cả cửa nhà cơ nghiệp, lại gây vạ với thổ quan,
thì bây giờ ở đây, sao cho tiện". Nhân nói với Chu Vũ rằng:
- Tôi có ông sư phụ là Vương Giáo Đầu, hiện theo ở bên phủ
Kinh Lược Châu Quan Tây, tôi định ý đi tìm đã lâu, song ngặt vì phụ thân mới mất,
cho nên tôi chưa quyết định xong, tới nay đã xảy ra câu chuyện thế này, dẫu muốn
không đi không được. Vậy tôi xin từ giã anh em để đi tìm sư phụ.
Chu Vũ va hai người kia đều có ý muốn lưu lại:
- Xin quan bác hãy tạm ở đây ít bữa để bàn định xem sao? Nếu
quan bác không thích cái nghề lạc thảo này, thì xin đợi khi yên lặng rồi, chúng
tôi sẽ theo về sửa sang trang viện để liệu cách làm ăn có được không?
Sử Tiến nói:
- Đành vậy, nhưng bây giờ tôi nóng lòng muốn tìm thấy ngay sư
phụ, mà kiếm xem có kế gì xuất thân, để được hả lòng một chút.
- Vậy thì quan bác ở đây làm ông Trại Chủ, lại chẳng khoát hoạt
lắm sao? Chỉ e trại đây nhỏ hẹp, không đủ cho quan bác ở thôi.
- Có lẽ nào thế? Ông cha tôi khi xưa vốn là người lương thiện,
nay tôi đem thân đến đây, làm cho ô nhục hay sao? Cái đó xin đừng nói đến nữa.
Bọn Chu Vũ thấy vậy cũng không dám lưu lại, Sử Tiến để cho bọn
trang đinh ở lại đó, còn mình thu thập hành lý gói vào khăn gói mà sắp sửa đi
tìm Vương Tiến. Bấy giờ Sử Tiến đầu đội mũ dương chiên lớn, có cái mào đỏ ở
trên, mình mặc áo chiến bào, lưng thắt dây đay đỏ rất lớn, chân đi đôi giày
gai, đeo khăn gói lên vai, giắt dao lưng vào mình, rồi từ biệt Chu Vũ, Dương
Xuân và Trần Đạt mà lên đường. Lũ Chu Vũ đưa chân đến tận dưới núi, gạt hai
hàng nước mắt, bái biệt mà về.
Sử Tiến đi đường được nửa tháng trời, tới đất Vị Châu, ở đấy
cũng có dinh quan Kinh Lược, Sử Tiến ngờ là sư phụ Vương Giáo Đầu ở đó, liền
tìm vào một hàng nước, để tạm nghĩ và thăm hỏi dò la. Sử Tiến vào tìm ngồi một
chỗ bàn ghế sạch sẽ, gọi nhà hàng pha nước uống rồi hỏi:
- Phủ Kinh Lược đây ở vào phía nào?
Nhà hàng đáp:
- Ở phía đàng trước mặt.
- Trong phủ Kinh Lược, có ông Giáo Đầu tên là Vương Tiến phải
không?
- Trong đó có nhiều ông Giáo Đầu mà cũng có tới ba bốn ông họ
Vương, nhưng không hiểu ông nào là Vương Tiến.
Nhà hàng vừa nói dứt lời, thì có một người lực lưỡng ở ngoài
đi sồng sộc bước vào, Sử Tiến ngẩng lên trông người ấy, mặt tròn tai lớn, mũi
thẳng mồm vuông, hai bên mép có một hàng râu xoăn xoắn, mình cao tám thước, vai
rộng đẫy ôm, cách ăn mặc ra đàng một tay quan võ.
Người ấy vừa vào đến trong, thì nhà hàng vội trỏ vào bảo Sử
Tiến rằng:
- Nếu ngài muốn hỏi viên Giáo Đầu nào, thì cứ hỏi ông Đề Hạt
đây sẽ biết.
Sử Tiến nghe vậy, vội vàng đứng dậy chấp tay vái chào mà nói:
- Xin rước ngài vào ngồi xơi nước.
Người ấy thấy Sử Tiến mặt mũi khôi ngô, sức lớn mình cao, võ
vẻ đường đường hảo hớn, thì cũng chấp tay đáp lễ, rồi cùng ngồi uống nước một
bên. Sử Tiến hỏi:
- Tôi thế này là không phải, nhưng xin dám hỏi cao tính đại
danh ngài là gì?
Người kia đáp:
- Tôi họ Lỗ, tên là Đạt Tư, hiện làm Đề Hạt ở phủ Kinh Lược gần
đây, vậy dám hỏi quan bác là thế nào?
- Tôi họ Sử tên Tiến muốn đi tìm sư phụ là ông Vương Tiến,
trước đã từng làm chức Giáo Đầu, dạy tám vạn quân ở đất Đông Kinh, ngày nay
không biết rằng có ở trong phủ Kinh Lược đây không?
Lỗ Đề Hạt ân cần ra ý hỏi:
- Chẳng hay có phải ngài là Cửu Văn Long Sử Đại Lang ở Sử Gia
Thôn đó chăng?
Sử Tiến cúi đầu đáp:
- Vâng! Chính tôi đây.
Lỗ Đề Hạt vội mừng cung kính mà nói rằng:
- Người ta thường nói, nghe tên không bằng thấy mặt, thấy mặt
gấp mấy nghe tên, nay mới biết quả nhiên như thế. Nhưng nay ngài muốn tìm ông
Vương Tiến, có phải là ông Vương Tiến bị quan Cao Cầu Thái Úy ở Đông Kinh ghét
đó chăng?
- Chính phải!
- Tôi cũng nghe danh ông ấy, nhưng mà không có ở đây. Nghe
nói ông ấy hình như ở bên phủ Kinh Lược Lão Trung ở Diên An thì phải, chứ dinh
quan Kinh Lược Tiểu Trung tôi đây không có.
Đoạn rồi bảo Sử Tiến rằng:
- Ngài đã là Sử Đại Lang, tôi thường nghe ngài là tay hảo hán
vậy mời ngài ra phố uống với tôi vài chén rượu đã.
Nói đoạn dắt tay Sử Tiến đi ra, bảo nhà hàng rằng:
- Tiền nước để đó, rồi sau ta sẽ trả.
Nhà hàng vâng dạ, ï mà bảo rằng:
- Xin Đề Hạt cứ tự nhiên cho.
Hai người dắt tay nhau ra phố, ước chừng dăm ba mươi bước,
thì chợt một đám người đứng bao bọc xúm xít vào một chỗ, Sử Tiến bảo với Lỗ Đề
Hạt rằng:
- Ta thử vào đây xem họ làm gì?
Nói đoạn gạt rẽ đám đông mà vào thì thấy có một người, tay cầm
một nắm gậy, trên mặt đất bảy mươi thứ thuốc cao, lại có một cái bàn dán đặc giấy
giao hàng ở đó.
Sử Tiến trông thấy nhận nhận ra là một người, tên gọi Đả Hổ
Tướng Lý Trung, vẫn xưa nay múa gậy bán thuốc dong duổi giang hồ, mà trước kia
đã từng dạy cho mình học võ, liền đứng ở ngoài mà gọi lên rằng:
- Sư phụ ơi! Sao lâu nay không được gặp thế?
Lý Trung nghe tiếng ngẩng đầu lên nom, bỗng hớn hở mà rằng:
- Kìa; Hiền Đệ đi dâu mà lại tới đây?
Đề Hạt đứng bên cạnh, thấy hai người nhận nhau là sư đệ, thì
bảo rằng:
- Nếu có phải ông là sư phụ Sử Đại Lang thì xin mời cùng đi với
chúng tôi, xơi vài chén rượu cho vui.
Lý Trung đáp:
- Vâng! Xin để cho tôi bán ít thuốc cao, kiếm lấy ít tiền, rồi
xin theo Đề Hạt cùng đi.
- Ai mà đứng đây đợi được, có đi thì xin đi một thể cho vui.
- Đành vậy, nhưng cơm áo của tiểu đệ, trông cậy vào đâu, xin
mời Đề Hạt cứ đi trước, tôi sẻ tìm đến sau, Sử Tiến hiền đệ cứ theo Đề Hạt đi
trước đi.
Lỗ Đạt nghe nói nóng ruột, không sao chịu được, vội gạt đuổi
những người đứng xem chung quanh mắng rằng:
- Chỉ tại lũ thối thây này, xúm xít vào đây. Ta lại đánh tuốt
cho một mẻ bây giờ.
Bọn người đứng xem thấy vậy đều tránh gạt đi mất, còn Lý
Trung thấy Đề Hạt ra dáng hung tợn, thì cũng hơi có ý giận, song không dám nói
ra, chỉ cười gượng nói rằng:
- Đề Hạt nóng tính quá.
Đoạn rồi thu thập thuốc men gói gấp gửi để một nơi cẩn thận,
mà cùng với Lỗ Đề Hạt và Sử Tiến, đến phố Châu Kiều. Khi tới nơi Lỗ Đề Hạt đưa
vào nhà tửu điếm họ Phan, là một hàng rượu có tiếng ở đó, tìm một gian sạch sẽ
để cùng ngồi.
Lỗ Đề Hạt ngồi chủ vị, Lý Trung ngồi đối diện, còn Sử Tiến
thì ngồi vai dưới, tên tửu bảo trông thấy bọn khách Đề Hạt tới nơi, thì vội vội
vàng vàng đến bẩm rằng:
- Kính chào đề Hạt, dùng bao nhiêu rượu?
Lỗ Đạt nói:
- Hãy lấy bốn chai rượu, và các rau quả đến đây!
Tửu bảo lại hỏi:
- Các quan xơi cơm gì?
Lỗ Đạt gắt mà rằng:
- Hỏi gì lắm thế? Có thì cứ mang đây, ăn rồi ta trả tiền chứ
sao, mày lắm điều quá.
Tửu bảo cúi cổ đi ra, một lát đem rượu thịt bày la liệt trên
bàn, rồi ba người cùng nhau đánh chén, rượu được vài tuần, ai nấy có vẻ chếch
choáng hơi men, bây giờ mới giở các món côn quyền ra khoe lẫn với nhau rất là đắc
chí.
Bỗng đâu bên kia vách, ở gần bàn rượu có tiếng người rền rỉ
khóc than, Lỗ Đề Hạt nghe thấy lấy làm bực mình, liền cầm ngay chén rượu còn
đang uống, mà vất xuống sàn gác, đánh soảng một cái.
Tửu bảo nghe tiếng vội vang chạy đến, nom thấy Đề Hạt có ý hầm
hầm giận dữ, thì đem giọng ngọt mà hỏi rằng:
- Quan muốn truyền mua thức gì, để nhà hàng tôi đem đến.
Lỗ Đạt quát lên rằng:
- Ta muốn thức gì? Ngươi không biết ta hay sao? Sao dám cho đứa
nào đến bên kia khóc lóc, làm nhiễu cả cuộc rượu anh em ta thế? Xưa nay ta có
thiếu tiền không?
Tửu bảo vội lễ phép nói rằng:
- Chúng tôi đâu dám xuôi ai đến đây khóc, để quấy nhiễu đến
tai ngài, đây chẳng qua là hai cha con đứa hát bên kia, nó không biết có ngài ở
đây, cho nên nó thở than khóc lóc với nhau, xin ngài tha lỗi cho.
Lỗ Đề Hạt trừng mắt nói:
Tửu bảo vâng lời đi, một lát đã thấy dẫn một người con gái chừng
18- 19 tuổi đi theo một ông lão già, vào trạc 60 tuổi, tay cầm bộ phách, cùng đến
đó.Người con gái trông cũng tầm thường không lấy gì nhan sắc cho lắm, khi đến
trước mặt Đề Hạt, thì lấy tay lau nước mắt, rồi cúi chào Vạn Phúc; Đề Hạt hỏi:
- Bây người ở đâu, làm gì ở đây khóc lóc như thế? Người con
gái nói:
- Bẩm ngài, nguyên chúng tôi là người ở Đông Kinh theo cha mẹ
sang Vị Châu để tìm người họ, bất đồ sang tới nơi thì người họ đã dọn sang ở
Nam Kinh mất, đoạn rồi mẹ tôi bị bệnh giữa đường mà chết, thành ra hai cha con
tôi phải lưu lacï đến đây, khi đến đây trót nhờ ông tài chủ là Trấn quan Tây Trịnh
đại nhân giúp đỡ ít chút, sau ông ấy thấy tôi còn trẻ tuổi, có ý muốn ép làm lẽ
liền bắt cha tôi viết bức văn tự bán tôi là 3.000 quan, mà sau rút cục không đồng
tiền nào cả, sau bắt tôi ở đấy được non ba tháng, bị người vợ cả ghen tuông quá
đỗi, bắt duổi tôi phải đi nơi khác, mà không cho lẩn quẩn trong nhà, đoạn rồi
đem văn tự ra đòi tiền cho kỳ được, cha tôi đã già yếu, không có kế chi chống lại
được với y, vả chăng khi trước không nhận được của y một đồng tiền nào, thì
ngày nay lấy đâu mà trả được. May sao thuở xưa cha tôi có dạy cho tôi một vài bản
hát, nay bất đắc dĩ phải tìm đến tửu lâu bên kia, để quanh co hát xướng, kiếm lấy
ít tiền, mà trả bớt cho người ta, còn thì cha con đùm bọc lấy nhau, nhưng chẳng
may, mấy ngày hôm nay khách hàng thưa vắng, không sao kiếm được đồng nào, chỉ sợ
đến hẹn mà không có tiền đưa trả, thì phải khổ với người ta, bởi vậy cha con
tôi lo khóc, không ngờ lại xúc phạm đến uy ngài, xin ngài rộng ơn mà tha thứ.
Lỗ Đạt lại hỏi:
- Tên họ nhà ngươi là gì? Ở Tửu điểm nào? Trấn quan Tây Trịnh
đại nhân là người nào? Ở đâu?
Lão già khép nép thưa lên:
- Chúng tôi tên là Kim Nhị, con cháu tên là Thúy Liên, trọ ở
hàng rượu đối diện bên đông kia, còn Trịnh đại nhân tức ông Trịnh Đồ, bán hàng
thịt ở dưới cầu Trạng Nguyên.
Lỗ Đạt nghe nói tắc lưỡi mà rằng:
- Ta vẫn tưởng Trịnh quan nhân nào; té ra chính là thằng Trịnh
Đồ bán hàng thịt lợn. Thằng gớm thực? Nó nhờ thế quan Kinh Lược ta được mở cái
hàng thịt lợn ở đó, ai ngờ nay dám lộng quyền đến láo quá chừng.
Nói đoạn quay lại bảo Lý Trung, Sử Tiến rằng:
- Các ông hãy ngồi đây, đợi tôi một lát, tôi đi sửa cho thằng
này một trận, rồi lại xin đến đây ngay.
Sử Tiến, Lý Trung đều dìu lại mà khuyên rằng:
- Quan bác hãy nguôi giận, để sáng mai sẽ hay.
Hai người khuyên giải đến năm bảy lượt rồi, Lỗ Đạt mới chịu
thôi, lại quay bảo bố con Kim Nhị rằng:
- Tôi đãi tiền cho lão già, ngày mai về Đông Kinh được không?
Hai bố con Kim Nhị nói:
- Nếu ngài cứu cho được về cố hương, thì thực ơn bằng cha mẹ,
song làm thế nào được chủ hàng cơm cho đi, và nếu khi Trịnh đại nhân theo đuổi
đòi tiền thì biết làm sao?
Lỗ Đề Hạt nói:
- Cái đó không cần, tôi sẽ có cách xử trí cho.
Nói đoạn móc tay vào túi lấy ra lạng bạc, để trên bàn, rồi bảo
Sử Tiến rằng:
- Tôi có ít tiền quá, quan bác có đấy cho tôi mượn thêm một
ít, rồi sáng mai tôi xin trả lại.
Sử Tiến cười mà rằng:
- Có thì bác lấy, đáng bao nhiêu mà nói chuyện trả.
Nói xong, lấy một đỉnh bạc ra để trên bàn, Đề Hạt lại trông
Lý Trung mà bảo rằng:
- Bác có cho mượn thêm đây mới đủ.
Lý Trung móc túi mãi, mới được có hai lạng đưa ra. Lỗ Đạt cầm
lấy đưa cho Kim lão 15 lạng bạc mà bảo rằng:
- Tiền này cha con giữ để tiêu dùng, rồi thu xếp hành lý cẩn
thận, để sáng mai tôi đến đây sớm, tôi sẽ bảo cách cho mà đi, xem đứa nào giữ lại
được nữa?
Hai cha con Kim lão nhận tiền rồi, lạy tạ mà lui ra, Lỗ Đạt
đưa hai lạng bạc trả lại cho Lý Trung, rồi lại cùng nhau uống rượu một lúc lâu
rồi mới tan. Khi đứng dậy Lỗ Đạt lại gọi nhà hàng đến mà bảo rằng:
- Tiền rượu để sáng mai ta sẽ trả.
Chủ hàng vâng lời rằng:
- Xin Đề Hạt để đến bao giờ cũng được.
Đoạn ba người dắt tay đi chơi phố, hồi lâu Lý Trung, Sử Tiến
mới từ giã Lỗ Đạt mà đi tìm chỗ trọ riêng.
Cha con Kim lão từ khi nhận được món tiền của Lỗ Đề Hạt, liền
trở về trang trải tiền cơm nước vặt vãnh, rồi lại ra ngoài thành thuê một cỗ
xe, và sắp sửa các đồ hành lý, để sáng hôm sau đi sớm.
Sáng hôm sau vào khoảng đầu trống canh năm, thì hai cha con
Kim lão trở dậy ăn cơm nước xong xuôi, rồi đợi Lỗ Đề Hạt đến, thì sẽ cất gói ra
đi. Khi trời vừa tảng sáng, đã thấy Lỗ Đề Hạt ở đâu sồng sộc bước vào, gọi tên
hầu ở nhà hàng mà bảo rằng:
- Kim lão trọ ở phòng nào?
Tiểu nhị nghe tiếng, vội vàng gọi Kim lão, mà bảo ra tiếp ứng.
Kim lão nghe nói, liền mở cửa phòng, rồi mời Lỗ Đề Hạt vào ngồi chơi.
Đề Hạt ra dáng vội vàng mà nói:
- Thôi, cần chi ngồi chơi, cha con nhà ông có đi thì đi ngay
chứ, còn chờ đợi đến bao giờ nữa.
Kim lão vâng lời quảy hành lý lên vai, rồi dắt con gái ra bái
tạ Đề Hạt mà đi ra. Vừa bước chân tới cữa thì tên tiểu nhị giữ lại mà hỏi rằng:
- Kim lão đi đâu bây giờ thế?
Lỗ Đề Hạt thấy vậy mà quát hỏi:
- Lão ấy còn thiếu tiền trọ của ngươi hay sao?
- Bẩm, tiền trọ thì hôm qua ông ta tính trả rồi, song ông ta
còn nợ của Trịnh đại quan nhân đàng kia, ngài có giao cho tôi để đòi hỏi cho
nên tôi phải giữ lại ở đây.
Lỗ Đề Hạt mắng rằng:
- Tiền của Trịnh Đồ để rồi ta trả nó, mày cứ để cho lão ấy đi
mới được.
Tên tiểu nhị dùng dằng không chịu cho Kim lão đi, Lỗ Đề Hạt cả
giận giơ tay tát tiểu nhị một cái hộc máu mồm ra, rồi lại tát luôn cho vài cái
nữa, gãy phăng mất hai cái răng cửa; tiểu nhị thấy vậy kinh sợ chạy lủi vào
trong nhà, không dám thò mặt ra ngoài để ngăn trở, hai cha con Kim lão liền thừa
thế chạy thẳng ra thành, lên xe đi cho mau thoát.
Lỗ Đề Hạt thấy Kim lão đi rồi, lại e khi tên tiểu nhị ở điếm
còn tức mà đuổi theo, để quấy nhiễu, liền bắc ghế trước cửa điếm ngồi giữ ở đó,
ước chừng khi Kim lão đi xa rồi, mới đứng dậy mà đi sang cầu Trạng Nguyên, để
tìm vào nhà Trịnh Đồ.
Bây giờ Trịnh Đồ đương đứng ở bên quầy, để trông nom cho mấy
đứa đồ tể bán thịt, chợt nghe tiếng Lỗ Đề Hạt đến nơi, liền quay ra ra chào hỏi,
rồi kéo ghế mời vào ngồi chơi nói chuyện.
Lỗ Đề Hạt ngồi phịch xuống ghế bảo Trịnh Đồ rằng:
- Ta thừa lệnh quan Kinh lược truyền ra lấy 10 cân thịt nạc,
thái nhỏ ra từng miếng, mà phải không có một tý mỡ nào dính vào mới được.
Trịnh Đồ vâng lời, rồi sai gọi lũ đồ tể ra cắt thịt. Đề Hạt
không nghe mà nói:
- Không để cho chúng nó được, ngươi phải đứng lên cắt ngay
cho ta. Trịnh Đồ không dám trái lời, phải đứng dậy đi thái 10 cân thịt. Bây giờ
tiểu nhị ở hàng cơm kia, dương lon ton chạy lại nhà Trịnh Đồ, toan báo chuyện
Kim lão cho Trịnh Đồ biết, bất đổ vừa đến cửa đã trông thấy Lỗ Đề Hạt, ngồi chễm
chệ ở đó, liền đứng thụt ở bên ngoài, mà không dám thò mặt vào nữa.
Khi Trịnh Đồ cắt thịt xong, rồi lấy lá sen gói bọc cẩn thận,
đem đến đưa Lỗ Đề Hạt mà nói:
- Thịt đây xin Đề Hạt cho mang về.
Lỗ Đạt nói:
- Mang đi đâu? Phải cắt lấy 10 cân thịt mỡ nữa, rồi cũng thái
nhỏ ra, nhưng không dính một tý thịt nạc nào mới được.
Trịnh Đồ lấy làm lạ mới hỏi:
- Trong phủ dùng thịt nạc để nấu nướng thì tốt, chứ thịt mỡ
dùng sao được?
Đề Hạt trừng mắt nói:
- Tướng công truyền như vậy, ai dám vào đấy mà hỏi được.
Trịnh Đồ đành phải vâng lời, lại đi ra thái 10 cân thịt mỡ,
gói bọc tử tế rồi gọi người nhà bảo cầm theo Đề Hạt để đưa vào trong phủ.
Lỗ Đạt lại quát lên rằng:
- Lấy mười cân sườn nữa thái nhỏ ra, không cho một tý thịt
nào bám được.
Trịnh Đồ thấy vậy liền hỏi rằng:
- Chẳng hay Đề Hạt đùa tôi hẳn?
Lỗ Đạt nghe nói vội đứng dậy, tay cầm hai gói thịt, rồi trợn
mắt nhìn Trịnh Đồ nói:
- Ta lại đùa với lũ ngươi hay sao?
Nói xong cầm hai gói thịt ném toét vào mặt Trịnh Đồ. Trịnh Đồ
bừng bừng nổi giận không sao chịu được, liền với lên bàn thịt cầm lấy con dao
nhọn, nhảy sả vào toan đâm, Lỗ Đề Hạt thấy vậy lùi bước đi thẳng ra ngoài phố,
hai bên phố xá cùng bọn đồ tể ở trong không ai dám bén mảng đến can ngăn gì cả,
bao nhiêu những khách bộ hành đều đứng lại để xem, còn tên tiểu nhị ở hàng cơm
đến đấy cũng kinh sợ vô cùng.
Trịnh Đồ tay hữu cầm dao, tay tả thì níu lấy Lỗ Đạt chạy theo
toan đánh. Lỗ Đạt thừa thế nắm lấy tay tả Trịnh Đồ, đá vào bụng dưới một cẳng
chân ngã lăn xuống phố, rồi lại xông vào giở quả đấm ra hiệu mà bảo rằng:
- Tao đây theo hầu quan Kinh lược Đại tướng, làm đến chức
quan tây Ngũ Lộ Liêm Phóng Sứ mới được gọi là Trấn Quan Tây, còn như mày chỉ là
một đứa cầm dao bán thịt, thân danh như một con chó, thế mà cũng học đòi gọi Trấn
quan tây, rồi lại lừa đảo ép nài bố con Thúy Liên là nghĩa làm sao?
Nói đoạn đánh cho một đấm vào giữa mũi, vẹo về một bên, máu
chảy ra lênh láng. Trịnh Đồ không sao bò dậy được, bỏ vất con dao ra mặt đất,
trong mồm chỉ lẩm bẩm nói:
- Được lắm! Đánh giỏi!
Lỗ Đạt mắng luôn rằng:
- Mày lại há miệng ra nữa đấy à?
Nói xong lại đánh cho một đấm chính giữa mí mắt, lòi cả con
ngươi ra ngoài, rồi lại đấm vào thái dương một cái rất mạnh.
Đoạn thấy Trịnh Đồ nằm sóng soạt ra đất, chỉ thở hơi ra,
không hít vào được nữa, Lỗ Đạt liền nói tảng đi rằng:
- Mày giả cách chết à? Ông đánh cho một chập nữa bây giờ.
Dè đâu trông sắc mặt Trịnh Đồ càng ngày càng tái nhợt mãi đi.
Lỗ Đạt biết là tất chết, trong bụng nghĩ:
- Ta chỉ định đánh cho đau đớn, ai ngờ mới có ba cái đấm, mà
nó đã chết hay sao? Nếu thế thì ta bị quan Tư giam chấp, thì lấy ai đưa cơm nước
cho ta? Âu là bất nhược ta liệu trước là xong.
Nghĩ đoạn, rảo bước ngoắt đi, lại còn quay lại trỏ vào xác Trịnh
Đồ mà nói rằng:
Lỗ Đạt miệng thì tức mắng, chân thì cất gót cho mau, phố xá
xóm giềng không ai còn dám đến ngăn cản nữa. Khi về tới nhà trọ, thu nhặt tiền
nong gói vào một gói. Tay cầm một cái gậy đỏan rồi lén bước ra cửa Nam môn rồi
cút đi thẳng.
Lũ đồ tể thấy Lỗ Đạt đi rồi, liền cùng với tiểu nhị và xóm
làng, túm vào khua gọi Trịnh Đồ mà đỡ dậy. Không ngờ kêu gọi đến nửa ngày trời
cũng không thấy tỉnh, than ôi!
Biết đâu cái đánh vô tình
Xuôi hồn biển tử tan tành như chơi!
Các người lân bang thấy vậy, vội làm đơn đi trình quan Phủ.
Quan Phủ xem đơn trình, biết Lỗ Đề Hạt là người nhà quan Kinh
Lược, không dám thiện tiện bắt ngay, bèn lên kiệu vào phủ Kinh lược để trình.
Quan Kinh Lược nghe lời trình của quan Phủ, thì giật mình
kinh lạ mà tự nghĩ:
- Lỗ Đạt tuy võ nghệ giỏi, nhưng tính tình vẫn thô mãng xưa
nay, nay lại xảy ra có việc án mạng thế này, thì ta che chở làm sao cho tiện, bất
nhược ta cứ giao mặc cho tra hỏi là xong.
Liền bảo với quan Phủ rằng:
- Tên Lỗ Đạt vốn là quân quan ở bên dinh Kinh Lược phụ thân
tôi, nhưng vì tôi thiếu người sai dùng, cho nên mượn hắn sang đây để làm chức Đề
Hạt, nay chẳng may lại phạm việc án mạng như thế, xin cứ theo phép công mà đòi
hỏi, xem hắn khai báo ra sao? Rồi sẽ định tội. Nhưng thế nào cũng phải cho phụ
thân tôi biết trước, rồi mới quyết đoán được, kẻo nhất lỡ sau này phụ thân tôi
cho gọi đến hắn thì thêm rầy.
Quan phủ vâng lời mà rằng:
- Chúng tôi xin tra hỏi căn do, đệ trình lên quan Lão Kinh Lược
tướng công, rồi mới dám thi hành, chứ có đâu chúng tôi lại tự xử ngay được.
Quan Phủ Doãn chào quan Kinh Lược, rồi lên kiệu về nha, sai
thảo công văn giao cho bọn bộ tập đi bắt Lỗ Đạt. Bấy giờ Vương Quan Sát lĩnh
công văn dẫn hai mươi tên công sai, đi đến nhà trọ của Lỗ Đạt, thì thấy chủ nhà
nói rằng:
- Lỗ Đạt vừa mới khoác khăn gói, cầm gậy đỏan ra đi lúc nãy.
Chúng tôi vẫn tưởng là có công sai gì, cho nên không dám hỏi han đến nữa.
Vương Quan Sát sai phá cửa phòng của Lỗ Đạt ra xem, thì chỉ
thấy có một ít quần áo tồi tàn, và chiếu chăn còn bỏ lại ở đó, liền bắt chủ
hàng dẫn đi các nơi để tìm bắt, nhưng nào có thấy tung tích ở đâu? Vương Quan
Sát bất đắc dĩ phải bắt hai tên lân bang, cùng chủ trọ của Lỗ Đạt mà đem về giải
phủ.
Quan Phủ Doãn ra hỏi đầu đuôi xong, nhất diện phái người khám
xét tử thi Trịnh Đồ, nhất diện làm thành án văn, viết tên tuổi tướng mạo Lỗ Đạt
cho đi dán khắp nơi, nếu ai bắt được phạm nhân sẽ thưởng tiền 2.000 quan, còn
các nguyên cáo cùng xóm giềng đều cho về cả.
Lỗ Đạt từ khi đi khỏi Vị Châu rồi, vội vàng hất hải, đi đến
chỗ nọ chỗ kia, không biết nơi đâu là định sở, thực là đói không chọn cơm, rét
không chọn áo, lạc không chọn đường, nghèo không chọn vợ, tình cảnh bấy giờ thật
là nan bách. Mê man vơ vẫn vừa nửa tháng trời mới tới Huyện Nhạn Môn, bước chân
vào trong thành thấy phố phường náo nhiệt, xe ngựa tưng bừng, các hàng quán bán
buôm rất là tề chỉnh, tuy là một chốn huyện thành, mà lại có phần hơn mọi châu
phủ.
Lỗ Đạt đương đi lững thững một mình, bỗng thấy một đám đông
người xô lại vào bên đường, để xem bảng yết thị, nên cũng len bước vào xem.
Lỗ Đạt tuy không biết chữ nhưng cũng lắng tai nghe thấy người
ta đọc rằng:
- "Châu huyện Nhạn Môn, vâng lệnh quan phủ Thái Nguyên,
yết thị cho nhân dân biết: Tên Lỗ Đạt tức là viên Đề Hạt ở phủ quan Kinh Lược Vị
Châu, phạm tội đánh chết Trịnh Đồ, rồi trốn mất, ai mà chứa chấp trong nhà,
quan trên bắt tội sẽ xử tội như phạm nhân, bằng ai bắt được đem ra nộp thì sẽ
được thưởng 1.000 quan... "
Lỗ Đạt vừa nghe đến đó, chợt thấy đàng sau lưng có người kêu
to lên rằng:
- Trương Đại Ca ôi! Bác đi đâu đến đây?
Đoạn rồi người ấy ôm lưng Lỗ Đạt mà kéo đi ra khỏi đám người
đông đúc. Mới hay:
Anh hùng tiếng đã gọi rằng.
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.
Bốn phương đâu chẳng là nhà.
Sao cho thảo mộc sơn hà biết tên?
Chắc đâu là họa là duyên,
Chắc đâu oán trả ơn đền là đâu?
Ở đời thấm thoát bao lâu,
Biết nhau tế độ cho nhau mới là...
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi này vừa tả xong Sử Tiến anh hùng, tiếp tay tả luôn Lỗ Đạt
anh hùng. Vừa tả xong Sử Tiến thô tháo; Tiếp tay tả luôn Lỗ Đạt thô tháo. Vừa tả
xong Sử Tiến quên Lợi, tiếp tay tả luôn Lỗ Đạt quên lợi; Vừa tả xong Sử Tiến
nóng nảy, tiếp tay tả luôn Lỗ Đạt nóng nảy. Tác giả gặp chỗ bí chạy theo đường
nghẽn, cho rõ tài bút lục của mình, độc giả cũng nên xem xét từng chỗ, để phân
định hai kẻ khác nhau, không phải chỉ tả một thứ con người, mới khỏi phụ lòng
khốn khổ của nhà viết nên sử!
Một trăm lẻ tám vị anh hùng, kể đầu từ Sử Tiến, một kẻ xuất
danh lãnh chúng sau này. Thế mà tác giả chép ở Thiếu Hoa Sơn, một đoạn văn đặc
biệt, rằng: "Ông cha tôi khi xưa, vốn là người lương thiện, có đâu tôi đem
thân đến đây, mà làm ô nhục hay sao?... " Điều đó há phải sơ tâm riêng một
con người như Sử Tiến sự thực cũng là sơ tâm của một trăm lẻ tám người kia. Chỉ
vì một tay tài điệu, không chỗ giở ra một thân khí lực, không nơi dùng đến, mà
tíng con thuồng luồng đâu chịu chết khô trên ruộng cạn, lại thêm những cái oán
của đời gian giảo, mới nổi lên một đám với nhau, như vậy con nhà lương thiện đã
chả được dùng đến, phải đành chịu tiếng nhơ ở trong thanh giá, cũng chả tiếc được
nữa, khiến một trăm lẻ tám người, lạc cả vào Bến Nước. Hỡi ôi! Những tài điệu
kia, đều tài điệu của triều đình, những khí lực kia, đều khí lực cho chiến trận,
đã phải bất đắc dĩ sa vào Bến Nước (Thủy Hử),đó là lỗi tại ai???
Chủ đề về Sử Tiến hồi này, cốt tìm tới chốn Lão Trung quan Tướng
Công Kinh Lược, để hỏi thăm sư phụ Vương Tiến, chợt đâu biến thể, trật ra ngoài
nơi Lão Trung Kinh Lược Tướng Công, mà chuyển sang chốn Tiểu Trung Kinh Lược Tướng
Công, ngoài sự tìm sư phụ Vương Tiến, lại hóa hiện ra một sư phụ Lý Trung, đọc
đến đây thấy như bức mây đỏ trên vòm trời biến hiện muôn hình vạn trạng, chả phải
cứ nhìn theo một con mắt, mà để nhận ra đâu.
Tả cái chỗ làm người của Lỗ Đạt, một bầu máu nóng phát ra,
càng thẹn cho những kẻ thư sinh ăn bám của người, chưa dám thò tay liều giúp ai
một việc. Đức Khổng Tử nói:Đọc Kinh Thi có thể nổi lên, thì ta với các Tỳ quan,
cũng thấy hay lắm vậy!
Đánh chết Trịnh Đồ, thực vội vàng lắm thay, chỉ thêm vào từng
chỗ tên tiểu nhị báo tin, làm cho sốt ruột, thấy một lần đầu tiểu nhị nói ra, lần
thứ hai ngoài tiểu nhị ra, lại thêm sự mua thịt nữa, lần thứ ba lại thêm ra những
kẻ đi đường... Không ngờ tình văn như lụa, tình sự lại như gương, khiến ta muốn
vạch ra mà xem tới trong lòng vậy.
Hồi 3:
Triệu Viên Ngoại sửa lại Văn Thù Viện
Lỗ Trí Thâm khua động Ngũ Đài Sơn
Lỗ Đạt thấy người ôm mình mà kéo đi, liền quay lại xem thì té
ra chính là Kim Lão, gặp ở tửu quán đất Vị Châu khi trước.
Kim Lão kéo Lỗ Đạt ra quãng vắng mà bảo rằng:
- Sao ân nhân to gan thế? Người ta đương yết thị thưởng tiền
để bắt mình, mà mình lại đứng đây xem bảng, ngộ lỡ ra quan quân biết đến thì
sao?
Lỗ Đạt nói:
- Chẳng dấu gì ông lão, chỉ vì việc của ông lão hôm ấy, mà
thành ra tôi đến dưới cầu Trạng Nguyên, gặp tên Trịnh Đồ, đánh cho hắn có ba
quyền chết tươi thẳng cẳng, rồi thì tôi phải trốn tránh đến đây.Còn ông lão thì
làm sao không về Đông Kinh, mà lại cũng gặp ở đây như thế?
Kim Lão đáp:
- Từ phen được ân nhân cứu thoát, cha con thuê một cỗ xe, định
về Đông Kinh, song lại e nhất lỡ bọn kia theo đuổi, mà ân nhân không có ở đấy,
thì nguy hiểm không chơi, vì thế tôi phải rẽ đường sang bắc, may sao gặp được
người hàng xóm cũ, buôn bán ở đây, liền dắt cha con tôi về cùng ở, rồi sao làm
mối cho con cháu một ông Viên Ngoại họ Triệu kia, nhà rất phong lưu phú quý, vì
thế sự ăn tiêu chi phí không thiếu thức gì. Ông ta cũng thích nghề quyền võ, một
đôi khi con cháu nó kể đến chuyện ân nhân, thì ông ta lại thán phục, mà mong
sao được gặp mặt một lần mới thỏa, vậy tiện đây xin đón ân nhân hãy tạm đến nhà
tôi nghỉ đó mấy hôm sau rồi sẽ liệu.
Nói xong rồi, dẫn Lỗ Đạt cùng đi.
Đường đi ngót nửa ngày trời, khi tới nơi, Kim Lão bước vào cửa
cuốn mành mành lên, gọi con gái ra bảo rằng:
- Ân nhân đến đấy con ạ.
Bấy giờ người con gái ăn mặc lịch sự ở trong nhà chạy ra đón
Lỗ Đạt vào. Lỗ Đạt vừa vào, đặt xuống ngồi, thì người con gái thụp lạy sáu lạy,
mà nói rằng:
- Nếu không có ân nhân cứu vớt, thì cha con tôi đâu lại có được
như ngày nay.
Nói xong mời Lỗ Đạt lên gác để nghỉ.
Lỗ Đạt nói rằng:
- Tôi không ở đây lâu được, phải sắp sửa đi thôi.
Kim Lão không bằng lòng mà nói:
- Ân nhân đã đến đây, có lẽ nào chúng tôi lại để đi ngay.
Đoạn rồi đem khăn gói và gậy lên gác, mà mời Lỗ Đạt lên.
Bây giờ Kim Lão cho con gái ngồi tiếp chuyện Lỗ Đạt, rồi tự
mình xuống đem đầy tớ đi chợ, để mua các đồ hoa quả rượu chè, về làm cơm. Khi
cơm rượu xong dọn lên bàn rồi, hai bố con rót rượu, ngồi tiếp Lỗ Đạt.
Rượu được vài tuần, bỗng Kim Lão đứng dậy thụp xuống lạy, Lỗ
Đạt ngạc nhiên nói rằng:
- Sao lão nhân làm như thế, thực tôi không bằng lòng chút nào.
Kim Lão nói:
- Chẳng dám dấu gì ân nhân, từ khi cha con tôi đến ở đất này,
vẫn cảm đến ơn cứu sống của ngài, mà làm bài vị tên ngài bằng mảnh giấy hồng, để
sớm khuya đèn hương khấn vái, vậy mà ngày nay được trông thấy ngài, thì có lẽ
nào không lạy tạ ân nhân?
Nói xong lại ngồi lên tiếp rượu. Ba người ung dung chén tạc
chén thù, mãi đến khi trời đã xế hôm, thì chợt nghe có tiếng ồn ào dưới cửa. Lỗ
Đạt chạy ra cửa sổ gác để nom, thấy ở dưới lầu có tới ba mươi người tay roi tay
gậy, lại có một người ra dáng quan nhân, cưỡi trên mình ngựa mà quát to lên rằng:
- Chớ để cho quân giặc chạy thoát.
Lỗ Đạt nghe nói, biết là sự không hay, liền quay vào vớ lấy
cái ghế, toan ném xuống, Kim Lão thấy vậy, vội vàng đứng dậy xem rồi can lại mà
bảo rằng:
- Xin ngài chớ động vội.
Nói xong đi thẳng xuống dưới gác, đứng bên cạnh người cưỡi ngựa,
mà bảo thầm chi đó? Đoạn rồi thấy người ngồi trên mình ngựa vui cười, mà thét bảo
bọn kia đi hết. Người ấy xuống ngựa đi vào trong nhà, rồi cho mời Lỗ Đạt xuống,
vái lạy mà nói:
- Nghe tiếng sao bằng thấy người, thấy người bằng mấy nghe tiếng,
dám xin nghĩa sĩ nhận lễ cho.
Lỗ Đạt không hiểu sao, liền hỏi Kim Lão:
- Quan nhân đây là ai, từ xưa chưa quen biết bao giờ; mà lạy
chào như thế?
Kim Lão đáp:
- Thưa ngài. Chính đây là Triệu Viên Ngoại, bạn với con cháu
nhà tôi đó, vừa rồi hắn vẫn tưởng là anh nào chè chén ở đây, cho nên toan đem
trang khách đến để đánh, nhưng sau nghe nói là ngài đến đây, thì lấy làm vui mừng
quá đỗi.
Nói xong lại mời Lỗ Đạt lên trên lầu, sai người nhà thay các món
ăn để TriệuViên Ngoại cùng ngồi bồi tiếp.
Triệu Viên Ngoại mời Lỗ Đạt ngồi cánh trên, Lỗ Đạt nhất định
không nghe. Triệu Viên Ngoại cố ý nhường Lỗ Đạt ngồi trên mà nói:
- Tôi nghe tiếng ngài là một người anh hùng hào hiệp, trong
lòng hâm mộ đã lâu, nay trời xanh run rủi được gặp ở đây, thực là may lắm!
Lỗ Đạt cười đáp rằng:
- Tôi là một người thô lỗ vô tài, lại đương mắc tội, trốn
tránh đến đây, nếu Viên Ngoại có rộng lòng mà kết làm tương thức, thì sau đây
có cần đến việc chi, tôi xin hết sức.
Triệu Viên Ngoại cả mừng, hỏi thăm về việc đánh chết Trịnh Đồ,
rồi lại kể các nghề côn kiếm, trò chuyện chè rượu, mãi đến nủa đêm mới tan.
Sáng hôm sau Triệu Viên Ngoại dậy sớm nói với Lỗ Đạt rằng:
- Ở đây tai mắt rất nhiều có khi không tiện, vậy xin đón Đề Hạt
về ở trong nhà tôi ít bữa, có lẽ cẩn thận hơn.
- Nhà Viên Ngoại có gần đây không?
- Chỗ tôi ở là Thất Bảo Sơn, cách đây 10 dặm đường.
- Nếu vậy thì tiện lắm.
Triệu Viên Ngoại liền sai người về lấy thêm con ngựa nữa, để
mời Lỗ Đạt đi. Trưa hôm ấy có ngựa tới nơi, Viên Ngoại sai người nhà mang khăn
gói của Lỗ Đạt, rồi hai người từ giã bố con Kim Lão, mà lên ngựa ra về.
Khi tới nơi Triệu Viên Ngoại cùng Lỗ Đạt xuống ngựa, rồi dắt
tay mời vào thảo đường, nhất diện sai người làm cơm thiết đãi.
Lỗ Đạt ở đó được dăm bảy ngày, một hôm cùng với Triệu Viên
Ngoại đang ngồi ở thư viện, nói chuyện với nhau, thì bỗng thấy Kim Lão đến
chơi.
Kim Lão có dáng cấp bách, nhằm lúc vắng người mà nói rằng:
- Dám thưa ân nhân, hôm nọ ân nhân qua đến nhà tôi, vì Triệu
Viên Ngoại không biết đầu đuôi, vội đem người nhà đến toan vây bắt, làm ồn ào
cho phố xá ai cũng có lòng ngờ vực, cho nên đến hôm qua có mấy tên công sai lảng
vảng dò la xem chừng khẩn lắm, vì sợ khi họ biết ngài ở đây mà đến bắt, thì
không tiện cho ân nhân.
Lỗ Đạt nói:
- Nếu vậy thì tôi xin đi chỗ khác cho rảnh.
Viên Ngoại có dáng ân cần mà nói:
- Bây giờ giữ Đề Hạt ở đây, cũng e có điều không tiện thực,
song nếu cho ngài đi, thì chúng tôi lại càng không phải lắm, vậy tôi có một kế
này, có thể tạm yên mà lánh nạn được, nhưng chẳng hay Đề Hạt có ưng ý hay
không?
- Tôi bây giờ đang lúc tội nợ đến nơi, nếu lại được chỗ yên
thân, thì còn gì mà không ưng ý?
- Nếu như vậy thì hay lắm, cách đây vào khoảng 30 dặm, có một
tòa núi gọi là Ngũ Đài Sơn, trong có viện Văn Thù tức là chùa Đạo Tràng văn Thù
Bồ Tát, có năm bảy trăm vị sư tu hành ở đó. Trước đây các cụ tôi bỏ tiền ra tu
bổ chùa ấy, công đức rất to mà sư cụ chùa ấy ở đây là Trí Chân Trưởng Giả, lại
chính là anh em thân thích với tôi, vậy nếu Đề Hạt có bằng lòng sang ấy, mà cắt
tóc đi tu, thì bao nhiêu phí tổn chi tiêu, tôi xin chịu tất.
Lỗ Đạt nghĩ một lúc rồi nói:
- Bây giờ tôi cũng không biết đi đâu cho được, vậy đành phải
theo kế ấy là hơn.
Đêm hôm ấy bàn soạn xong rồi, sắm sửa các đồ hành trang lễ vật,
rồi đến sáng hôm sau hai người cùng đi sang Văn Thù Viện. Vào khoảng trưa hôm
sau đi đến chân núi Ngũ Đài, Lỗ Đạt và Triệu Viên Ngoại đi kiệu lên núi, sai đầy
tớ vào chùa báo cho sư cụ biết.
Sư cụ nghe tin vội vàng dẫn đồ đệ đi ra tiếp đón. Khi vào đến
phương trượng, sư cụ mời Triệu Viên Ngoại ngồi trên khách vị, còn Lỗ Đạt thì ngồi
ở ghế một bên đối diện với sư cụ.
Triệu Viên Ngoại gọi Lỗ Đạt đến bên cạnh bảo thầm rằng:
- Ông định xuất gia, sao lại ngồi đối diện với sư cụ thế?
Lỗ Đạt nói:
- Nào tôi có hiểu ra thế nào ở đâu?
Nói xong, chạy đến ngồi ở phía dưới Triệu Viên Ngoại, còn các
vị sư Giám Tự và Thư ký trong chùa, đều theo thứ tự mà ngồi cả hai bên.
Bấy giờ người nhà Triệu Viên Ngoại đem các thứ lễ vật đến bày
ở trên mặt án, trước chỗ sư cụ ngồi. Sư cụ trông thấy cười bảo Viên Ngoại rằng:
- Sao người cho lễ vật luôn như thế, thực là phiền cho người lắm.
- Gọi là có chút lễ mọn xin Hòa thượng nhận cho, có chi mà
dám nói là nhiều, vả lại tôi có một việc muốn sang kêu với ngài, xin ngài từ mẫn
đi cho. Nguyên là tôi có một người biểu đệ họ Lỗ, trước đây đã theo đòi việc
quân ở Quan nội, vì nay thấy chuyện đơiø man mác lắm nỗi đắng cay, muốn tình
nguyện để xuất gia đầu Phật. Vậy dám mong Hòa thượng lấy lòng từ bi quảng đại
mà chấp nhận cho, còn các việc phí tổn thế nào, tôi xin cáng đáng.
- Nếu vậy cũng là vẻ vang cho cửa Phật, lão sư tôi xin vui
lòng nghinh tiếp ngay, bây giờ xin mời các vị xơi nước đã.
Uống nước xong rồi, sư cụ gọi lũ Giám Tự và Thư Ký, đến bàn
chuyện cho người vào đầu Phật, và sai dọn cơm chay để thiết đãi hai người.Khi ấy
chư tăng bàn vụng với nhau:
- Anh chàng này trông hai con mắt hung ác thế kia thì tu hành
sao được? Ta nên vào bẩm với sư cụ để người xét kỹ xem sao.
Đoạn rồi chư tăng cử một người vào mời Triệu Viên Ngoại và Lỗ
Đạt ra ngồi ở khách sạn, rồi cùng vào bẩm riêng với sư cụ rằng:
- Người vừa rồi trông dáng dữ tợn hung hăng, mặt mũi thô bỉ
như thế, nếu sư cụ cho ở chùa này, chỉ e sau đây sinh sự khó chịu gì chăng?
Sư cụ nói:
- Người ấy là anh em của Triệu Viên Ngoại, công đức ở chùa
ta, có lẽ nào mà không nhận được, các ngươi cứ an tâm, để ta xem thử ra sao?
Nói xong thắp một nén hương, ngồi xếp bằng tròn, miệng đọc mấy
câu thần chú, rồi nhắm mắt ngồi im một lúc, đến khi cháy hết nén hương, mới mở
mắt bảo chư tăng rằng:
- Được rồi, các ngươi không ngại, người ấy tuy bây giờ trông
dáng hung hăng như thế, song trên ứng với Thiên Tinh mà giữ lòng ngay thẳng,
sau này chứng quả rất to, có lẽ các ngươi không bằng được, vậy chớ nên trở ngại
làm chi?
Chư tăng nghe vậy, không dám nói năng gì nữa, sư cụ liền sai
dọn cơm lên mời khách thụ trai, thụ trai xong rồi, Viên Ngoại bỏ tiền ra sai người
sắm sửa lễ vật, và may mũ áo, sắm giầy dép nhà chùa cho Lỗ Đạt.
Ngày hôm sau các vật liệu đã chuẩn bị sẵn sàng, chư tăng ăn mặc
lễ phục, đội mũ pháp giới, mặc áo cà sa, ngồi sắp hàng hai bên pháp tọa, còn sư
cụ thì ngồi trước Phật đài, bày các đồ lễ phẩm lên trên, rồi thỉnh chuông niệm
Phật mà đọ sớ dâng hương, khi đọc sớ xong, đạo đồng dẫn Lỗ Đạt đến trước pháp tọa,
bỏ khăn mũ đi rồi, đạo đồng lấy dao cắt tóc.
Bấy giờ Lỗ Đạt đã thấy đầu trọc lóc, duy còn mấy cái râu cong
ngược ở mép về cằm, thì ra dáng đắc chí mà rằng:
- Phải, để mấy cái râu này cho mỗ thì thú lắm?
Chư tăng nghe nói buồn cười đến chết, song có sư cụ ở trên,
cho nên không ai dám hở răng nữa.
Sư cụ cùng chư tăng lại đồng thanh đọc mấy câu kệ, rồi đạo đồng
cắt xoẹt cả râu ria Lỗ Đạt, không còn để lại chút gì.
Đoạn rồi sư cụ đặt pháp danh Lỗ Đạt là Trí Thâm, và giao cho
các đồ pháp giới cà sa cùng gậy, giầy nhà Phật.
Trí Thâm ăn bận nhà chùa tử tế, rồi Giám Tự dắt vào trước
pháp tọa, sư cụ làm phép mà đọc rằng:
- Phép tu hành: Điều thứ nhất, phải noi theo Phật tính; Điều
thứ nhì, giữ gìn khuôn phép; Điều thứ ba, phải theo bạn theo thầy; thế gọi là
Tam quy. Còn như ngũ giới thì: Một là không được giết loài sống; Hai là không
được trộm cắp; Ba là không được tà dâm; Bốn là không được ham rượu; Năm là
không được nói càn, năm điều ấy có giữ được không?
Trí Thâm bỏm bẻm trả lời:
- Đã, tôi nhớ rồi.
Chư tăng ai cũng bật cười không nhịn được.
Bấy giờ các lễ đã xong, Triệu Viên Ngoại mời tất cả các chư
tăng ra chỗ Vân Đường rồi đồ tự dẫn Trí Thâm, đi chào các sư huynh sư đệ khắp cả
một lượt đến chiều mới xong.
Sáng hôm sau Triệu Viên Ngoại sắp sửa ra về, sư cụ cùng tất cả
tăng đồ đều đưa chân xuống cửa núi, Viên Ngoại quay lại nói với chư tăng rằng:
- Em Trí Thâm xưa nay vốn tính thô mãng ăn nói tục tằn vậy,
trong khi ở đây ăn mày lộc Phật, lỡ có điều không phải, dám xin hòa thượng, và
dưới các sư phụ đều lấy lòng từ mẫn thương đến tôi, mà tha thứ tội đi cho, thì
tôi được đội ơn vạn bội.
Sư cụ đáp:
- Viên Ngoại cứ yên tâm, tiểu tăng tôi xin hết lòng uốn nắn dần
dần mới được.
Viên Ngoại lại gọi Trí Thâm ra dưới gốc cây tùng, mà dặn nhỏ
rằng:
- Hiền đệ ở đây không phải chỗ bình thường, phàm việc gì cũng
nên cẩn thận chớ để lỡ ra mà khó xử trí về sau. Còn tiền nong áo xống, thì tôi
khắc xin chu tất cả cho.
Trí Thâm gật đầu nói:
- Việc ấy quan bác không phải dặn, tôi đây xin y lời được cả.
Khi đó Triệu Viên Ngoại bái từ sư cụ cùng các tăng đồ, và Trí
Thâm mà trở về nhà.
Lỗ Trí Thâm thấy viên ngoại về rồi, một mình vơ vẫn đi vào Phật
đài, nằm vật xuống sập mà ngủ ngay một giấc.
Các tăng đồ thấy vậy, thì túm đến dựng dậy mà bảo rằng:
- Đã xuất gia thì phải học ngồi, chứ nằm thế này không được.
- Việc ta ta ngủ, có can gì đến các ngươi?
Nói xong lại nằm vật xuống ngủ, không ai còn ngăn cản được.
Sáng hôm sau bọn tăng đồ toan lên mách với Hòa thượng, nhưng
có một người gạt đi mà rằng:
- Sư cụ đã nói về sau tất hắn hơn cả chúng ta vậy ngày nay có
nói cũng vô ích thôi mặc quách hắn là xong.
Trí Thâm không thấy ai nói đến càng tự do hơn trước, cứ chưa
tối thì đã nằm sóng sượt ra sập để ngủ, tiếng gáy ầm ầm như sấm động, rồi lại
phóng uế ra khắp cả đằng sau điện, làm cho bẩn thỉu không ai chịu được. Lũ tăng
bất đắc dĩ phải vào bẩm với sư cụ.
Sư cụ gạt đi rằng:
- Thôi, nên nể mặt Triệu Viên Ngoại, cứ để cho hắn ở đây, rồi
sau hắn phải sửa đổi dần đi.
Từ đó không ai dám nói đến Trí Thâm nữa.
Lỗ Trí Thâm ở Ngũ Đài Sơn được 4, 5 tháng trời, rất lấy làm
khó chịu, một hôm gặp buổi mát trời, chàng ta mặc áo thắt đai chân vận đôi giày
thầy chùa, đi lững thững ra mái đình, ở lưng chừng sườn núi, ngồi chơi vơ vẫn một
mình. Trong bụng chợt nghĩ:
"Ta mọi khi vẫn cứ rượu ngon thịt béo ăn uống luôn mồm,
thế mà bỗng dưng dắt ngay vào đây làm một bác thầy chùa, ăn không được ăn, uống
không được uống, như thế có tức hay không? Lão Triệu Viên Ngoại mấy hôm nay
cũng không thấy sai người đưa gì đến đây, cho ta chén cả, không biết làm cách
gì có rượu uống cho đỡ thèm bây giờ?".
Đương nghĩ vẫn vơ như vậy, thì thấy một anh chàng quẩy hai
thùng rượu ở chân núi đi lên, miệng hát nghêu ngao:
Non xa có phải chiến trường?
Mục đồng nhặt ngọn gươm tàn ngày xưa.
Gió dồn ngọn nước sông ô,
Nỉ non như tiếng Ngu Cơ biệt chồng.
Lỗ Trí Thâm thấy anh chàng đi vừa hát, khi lên đến mái đình,
thì đặt gánh xuống ngồi nghỉ, liền cất tiếng hỏi rằng:
- Anh kia gánh những gì trong thùng đó?
- Thưa tôi gánh rượu đây?
- Rượu bao nhiêu tiền?
- Hòa thượng hỏi đùa làm gì thế?
- Ta lại đùa với ngươi hay sao? Ta hỏi thực đó.
- Rượu này tôi gánh lên trên núi, để bán cho đám kiệu phu,
đám nhà bếp, cùng các nàng quán họ mua, chứ như ở trong chùa, thì sư cụ đã có lệnh
cấm, nếu ai bán rượu cho các vị sư, tất là bị phạt tất cả tiền rượu, mà còn bị
đuổi đi ngay lập tức, vậy hòa thượng hỏi làm chi?
Lỗ Trí Thâm cáu lên mà rằng:
- Thế thì ngươi không bán cho ta hay sao?
- Hòa thượng giết, tôi cũng không dám bán.
- Ta không giết ngươi để làm gì, ta chỉ hỏi mua rượu của
ngươi để uống thôi.
Anh kia xem chừng núng thế, không cự nổi được hòa thượng, liền
nhắc gánh lên vai mà chạy, Trí Thâm vùng dậy đuổi theo, nắm lấy gánh rượu, rồi
đá cho anh chàng kia một cái, ngã lăn queo xuống đất, rồi hai tay xách hai
thùng rượu, đi lên mái đình, ngồi khật khà khật khưỡng một mình múc rượu mà uống.
Được một lát uống hết hẳn một bên thùng rượu, liền gọi tên bán rượu mà bảo rằng:
- Rượu ta mới uống có một thùng, sáng mai đến đây mà lấy tiền.
Bấy giờ anh kia mới lóp ngóp bò dậy, vừa đau đớn vì bị đá, vừa
phần sợ sư cụ biết, thì khổ tới thân, đành phải im hơi.
Khi ấy Lỗ Trí Thâm nghe trong mình đã say sưa nóng nảy, liền
cổi áo bỏ mũ cho mát, rồi khệnh khạng đi thẳng về chùa.
Vừa khi lên tới cổng chùa, hai tên canh cửa cầm roi chạy ra
ngăn lại mà cự rằng:
- Anh là người tu hành, mà sao lại say sưa như thế? Sư cụ đã
ra lệnh cho các hòa thượng, nếu ai phá giới uống rượu thì phạt đánh 40 roi, bằng
những người canh cổng để cho các sư say rượu vào chùa thì cũng phải phạt đòn một
chục. Vậy anh đi xuống ngay đi, thì tôi tha cho mấy chục roi đòn ấy.
Lỗ Trí Thâm vừa bước chân vào cửa thiền môn, tính cũ vẫn còn
hăng hái, nay nghe thấy lũ kia nói vậy, thì trừng mắt lên mà nói rằng:
- A! Quân này gớm thực, bây muốn đánh nhau, thì ta đánh nhau,
cho mà xem.
Hai tên kia thấy vậy, thì một tên chạy vội vào trong chùa,
còn một tên giả cách giơ roi ra để giữ Trí Thâm lại. Trí Thâm sốt ruột sấn vào
gạt hất đầu roi đi, rồi tát cho tên kia một cái, lộn chúi vào trong cổng. Tên
kia vừa ngóc đầu toan dậy, lại bị Trí Thâm đánh cho một quyền ngã gục xuống đất,
kêu ám ỹ cả, rồi Trí Thâm vừa vội vội vàng vàng vừa chạy vào chùa, vừa quay lại
nói rằng:
- Ông hãy tha cho mầy đấy.
Trong kia Giám Tự nghe thấy tên canh cửa vào bảo, thì vội
vàng gọi những tên nhà bếp cùng là phu kiệu, tất cả tới hai ba mươi người đều cầm
roi vác gậy đổ ra ngăn cản Trí Thâm.
Trí Thâm thấy vậy thét lên một tiếng như sấm vang trên núi rồi
phóng bộ vào toan đánh. Đám kia thấy Trí Thâm ra dáng hung tợn thì ai nấy đều sợ
hãi cùng nhau nấp vào trong điện mà khép cửa lại. Trí Thâm đẩy sấn vào trong điện
đánh cho anh nào anh ấy chạy tháo chân không kịp. Giám Tự thấy nguy cấp đến
nơi, hớt hải chạy vào báo cho sư cụ biết.
Sư cụ nghe nói mải mốt, dẫn mấy tên đồ đệ chạy đến chỗ Lỗ Trí
Thâm mà nạt rằng:
- Trí Thâm không được vô lễ ở đây.
Lỗ Trí Thâm tuy bấy giờ say rượu, nhưng cũng biết sợ sư cụ một
chút liền chạy đến gần trước mặt vái chào sư cụ rồi trỏ xuống dưới điện mà thưa
rằng:
- Trí Thâm nầy uống có mấy hớp rượu, cũng không chọc ghẹo đến
ai thế mà họ lại kéo nhau đến đánh là nghĩa gì vậy?
Sư cụ kiếm lời đấu dịu mà rằng:
- Ngươi hãy nghe lời ta mà đi ngủ đi, rồi đến mai sẽ hay.
Trí Thâm vâng lời rồi nói một mình rằng:
- Nếu ta không nể lời sư cụ thì tất là đánh chết chúng bây mới
thôi.
Nói đoạn sư cụ sai đồ đệ đưa Trí Thâm về tăng phòng để nghỉ.
Bấy giờ chư tăng lại phàn nàn với sư cụ rằng:
- Hôm nay sư cụ nghĩ thế nào? Phỏng có dung người ấy ở trong
chùa để làm loạn thanh quý nữa hay không?
- Bây giờ vẫn biết rằng như thế, nhưng sau này làm thế nào hắn
cũng có ứng quả to, vả chăng mình cũng phải nể mặt ông Triệu Viên Ngoại, mà hãy
dung thứ cho hắn, rồi mai ta sẽ dặn bảo hắn thì tất là hắn cũng tỉnh ra dần dần.
Chư tăng nghe nói ai cũng cười thầm, mà không dám nói gì.
Sáng hôm sau sư cụ sai người gọi Lỗ Trí Thâm đến mà bảo rằng:
- Triệu Viên Ngoại đưa ngươi đến đây, để ăn chay niệm Phật,
ta đã răn bảo các lẽ, phàm nhà tu hành là không được sát sinh, hai là không được
trộm cướp, ba là không tà dâm, bốn là không được ham rượu, năm là không được
nói càn, có giữ được năm điều ấy, mới là đắc đạo; nay ngươi mới tới đây được ít
lâu, mà đã rượu chè be bét, đánh hết người này đến người kia, làm cho ầm ĩ cả
chùa lên, như thế là nghĩa làm sao?
Trí Thâm quỳ xuống mà đáp rằng:
- Từ nay không dám như thế nữa.
Sư cụ lại nghiêm trách rằng:
- Một người xuất gia đầu Phật, mà rượu chè be bét, làm hại đến
thanh quý như thế, nếu ta không nể lòng Triệu Viên Ngoại, thì ta không dung ở chùa
này nữa, vậy từ nay ngươi hãy liệu thân mà chừa đi mới được.
Trí Thâm cung kính vâng lời mà đoan rằng:
- Không bao giờ dám làm như thế nữa.
Đoạn rồi sư cụ lưu Trí Thâm ở phương trượng, cho cùng ngồi ăn
cơm, mà lấy lời khuyên bảo mơn man, khiến cho trong lòng tự hối mà tỉnh ngộ ra
dần. Cho hay:
Cương cường bạo ác đến đâu,
Nước mưa đạo đức tưới lâu cũng mềm.
Lỗ Trí Thâm từ khi phải một bữa say hôm ấy, rồi đến ba tháng
trời không hề dám bước chân ra khỏi cửa chùa nữa. Chợt có một hôm chiều trời ấm
áp, đương độ tháng hai, một mình ngồi buồn bã ở chốn tăng phòng, liền lững thững
dạo ra chơi mát. Khi đi đến sườn núi Ngũ Đài đương đứng xem phong cảnh làm vui,
bỗng nghe thấy tiếng lóp đóp lát chát ở đàng xa đưa đến, Trí Thâm vội về tăng
phòng, lấy thêm ít tiền bỏ vào túi rồi lững thững ra đi.
Một mình vơ vẫn đi mãi đến núi Ngũ Đài thì thấy cửa nhà đông
đúc, hàng quán xôn xao, uyển nhiên là một nơi thành thị, Trí Thâm tự nghĩ tự bụng:
- Nếu ta sớm biết đây có phố xá hàng quán thế này, thì những
khi cao hứng phải xuống đây đánh chén, can chi mà phải cướp rượu của ai.
Bụng nghĩ chân đi, vừa đến trước một cửa hàng thợ rèn, có mấy
người đương ngồi đánh rèn tại đó, Trí Thâm liền đi thẳng vào trong hàng quán mà
hỏi rằng:
- Các anh làm thợ rèn ở đây, có thép tốt hay không?
Anh thợ rèn ngẩng trông lên thấy Lỗ Trí Thâm, tuy ăn mặc lối
nhà chùa, song mặt mũi dữ tợn, mà mái tóc lại giở ngắn giở dài, trong bụng cũng
có phần kinh sợ, bèn mời Trí Thâm ngồi mà hỏi rằng:
- Chẳng hay hòa thượng muốn đánh vật gì để dùng?
- Ta muốn đánh một cây thuyền trượng, và một thanh giới đao,
nhưng không biết rằng có thép tốt hay không?
- Bẩm có, hòa thượng định dùng bao nhiêu cân, để đánh thuyền
trượng?
- Ta muốn đánh cây thuyền trượng nặng 100 cân, có thép tốt
hay không?
Phó rèn cười mà đáp rằng:
- Bạch hòa thượng, thế nào mà tôi đánh không được, nhưng chỉ
sợ hòa thượng không dùng nổi mà thôi, đến như cây đại đao của đức Thánh Quan
ngày trước, cũng chỉ có 80 cân nữa là...
Trí Thâm cau trán mắng rằng:
- Ta đây lại không bằng Quan Công à? Hắn cũng là người chứ
gì?
- Cứ như ý chúng tôi, chỉ đánh vào khoảng 40, 50 cân, cũng nặng
lắm rồi.
- Ừ thôi ta cũng nghe lời anh, cứ đánh 80 cân và nặng bằng
cây đao của Quan Công cũng được.
Phó rèn nghĩ một lát rồi nói:
- Tôi thiết tưởng sư phụ to béo như thế, mà cầm cái cây gậy nặng
quá thì không tốt, vậy tôi xin chọn thứ thép tốt đánh độ 62 cân cũng được, còn
thanh giới đao thì tôi hiểu rồi, bất tất phải nói nữa.
Trí Thâm gật đầu nói:
- Cũng được, tất cả hai cái ấy, ngươi lấy bao nhiêu tiền?
- Tôi không nói thách, xin sư phụ cứ cho đủ năm lạng bạc mới
được.
Trí Thâm đưa tiền mà nói:
- Được, 5 lạng ta cũng trả cho anh, nếu anh đánh được tốt,
thì ta thưởng thêm cho.
Phó rèn nhận tiền rồi nói:
- Chúng tôi xin đánh cẩn thận cho sư phụ.
Lỗ Trí Thâm lại bảo với phó rèn rằng:
Phó rèn nghe nói từ chối rằng:
- Tôi bận việc làm ăn, không thể hầu rượu ngài được, vậy xin
sư phụ cứ tự tiện cho.
Trí Thâm đứng dậy, ra khỏi nhà lò rèn, được dăm ba mươi bước
thì thấy có hàng rượu ở đó liền bước rảo cẳng, vào hỏi mua rượu để uống.
Nhà hàng thấy vậy, không dám bán mà nói rằng:
- Sư cụ trên chùa đã truyền lệnh, chúng tôi không được bán rượu
cho cho các vị sư, nếu mà bắt được bán vụng thì tất phải phạt, mà tịch ký cả tiền,
vậy xin sư phụ tha lỗi cho, không khi nào chúng tôi dám như thế.
Trí Thâm thấy vậy, đành phải ra đi, tìm hàng khác. Ngờ đâu đi
đến dăm bảy hàng, mà không hàng nào bán cả, Trí Thâm lấy làm tức giận, lẩm bẩm
nói một mình rằng:
- Ta không nghĩ được kế gì mà uống rượu lấy một bữa, thì tức
quá.
Chợt đâu trông thấy phía cuối chợ đằng xa, phảng phất có Hạnh
Hoa Thôn ở đó, Trí Thâm nghĩ ngay ra một kế, rồi xăm xăm đến hàng rượu vắng vẻ
quạnh quẽ bước vào ngồi ở gần cạnh cửa sổ gọi chủ hàng mà bảo rằng:
- Tôi ở đằng xa qua tới chốn này, muốn mua rượu uống chơi,
xin chủ nhân bán cho tôi một ít.
Chủ hàng nhìn Trí Thâm một lượt rồi hỏi rằng:
- Hòa thượng ở đâu mới tới đây?
- Tôi là người tăng lữ ở đường xa đi qua đây thôi.
- Nếu có phải người tu hành ở trên chùa Ngũ Đài, thì tôi
không bán.
- Không phải, cứ đem rượu ra đây bán cho tôi.
Chủ hàng nhận kỹ Trí Thâm, vừa phần lạ mặt, vừa phần lạ tiếng
thổ dân thì cũng tin cho là thực, liền hỏi ngay rằng:
- Người định lấy bao nhiêu rượu?
- Không cần phải hỏi, hãy cứ mang cho tôi mấy be lớn đã.
Chủ hàng đem rượu đến, Trí Thâm uống luôn mấy mươi be một lúc
rồi quay ra hỏi chủ hàng rằng:
- Ở đây có thịt thà gì đem bán cho tôi một thể?
Chủ hàng nói:
- Thưa ngài, sáng hôm nay hàng tôi vẫn có thịt bò nhưng bây
giờ bán hết cả rồi.
Vừa nói xong thì Lỗ Trí Thâm ngửi thấy mùi thịt thơm xông đặc
lên mũi, liền đứng dậy chạy vào sân trong, thấy bên cạnh tường có nồi thịt chó
đương nấu bèn bảo với chủ hàng rằng:
- Trong nhà có thịt chó sao bác không bán cho tôi?
- Thưa ngài, tôi sợ những người xuất gia không xơi được thịt
chó, cho nên không dám bán cho ngài.
Trí Thâm nói:
- Tôi có tiền đây, sao lại không ăn được?
Nói xong liền lấy tiền đưa cho chủ hàng mà bảo rằng:
- Tiền đây hãy bán cho tôi nửa quầy.
Chủ hàng mãi mốt lấy nửa quầy thịt chó mang ra để trước mặt
bàn. Trí Thâm trông thấy cả mừng giơ tay cầm lấy đùi chó vừa xé vừa ăn, lại vừa
uống hết mươi be rượu nữa. Khi ấy trong bụng hãy còn thòm thèm liền gọi chủ
hàng ra để mua thêm.
Chủ hàng có ý ngần ngại mà từ chối rằng:
- Bạch ngài chỉ còn có ngần ấy mà thôi.
Trí Thâm nghe nói tức giận quắc mắt lên mà hỏi:
- Ta ăn không của ngươi hay sao? Mà ngươi hạn cho ta có bằng ấy?
Chủ hàng nghe giọng hòa thượng đã có hơi rượu thì không dám
dùng dằng, liền hỏi ngay rằng:
- Ngài định mua bao nhiêu nữa?
- Ngươi cứ đem một thùng nữa ra đây.
Chủ hàng bất đắc dĩ lại phải mang một thùng rượu nữa ra. Trí
Thâm gật gù ngồi uống mãi đến hết cả thùng rượu mới thôi. Bấy giờ còn thừa lại
nửa quầy thịt nữa, Trí Thâm lại đút túi để mang về. Khi ra đến cửa còn quay lại
mà bảo chủ hàng rằng:
- Ngày mai nếu có tiền, thì tôi lại đến đây nhé?
Nói xong quay gót sồng sộc đi thẳng về lối Ngũ Đài Sơn, chủ
hàng trông thấy chỉ lắc đầu le lưỡi mà không dám nói làm sao cả.
Trí Thâm đi về đến mái đình ở lưng chừng núi ngồi đó một hồi,
nghe hơi rượu đã bốc lên nồng nực, liền đứng dậy mà nói một mình:
- Ta lâu nay không đi bài côn bài quyền nào, nghe trong mình
không được khỏe mạnh, bây giờ tiện đây thử giở vài ngón xem sao?
Nói đoạn đi xuống sân đình, xắn hai tay áo lên, rồi đánh bên
nọ đánh bên kia, hắt lên đá xuống, lấy sức lấy gân, múa may một mình, đoạn rồi
chạy lên đánh vào các cột ở góc đình một quyền rất mạnh, làm cho các cột gãy hẳn
ra đôi đoạn, mà một bên góc mái đình cũng đổ khịu xuống.
Bấy giờ bọn canh cổng ở trên nghe thấy tiếng đánh sầm giữa
lưng chừng núi, ngó cổ ra nom thì thấy Lỗ Trí Thâm đương chân thấp chân cao đi
sồng sộc lên núi, bèn cùng lắc đầu mà bảo nhau rằng:
- Khổ chưa! Thằng súc sinh hôm nay lại say quá chén nữa rồi,
chúng ta phải đóng cổng lại mới được.
Nói đoạn họ khép hai cánh cổng chùa, khóa chặt lại tử tế, rồi
cùng đứng vào chỗ khe cửa mà nom ra, thì thấy Lỗ Trí Thâm vừa đi tới nơi giơ
tay đập cửa mà gọi ầm ầm lên như hổ thét.
Lũ canh cỗng cứ đứng yên đó, không ai dám mở cổng ra.
Trí Thâm lại đập gõ hồi lâu không ai chịu mở, quay cổ ra phía
cổng bên tả, thấy có pho tượng Kim Cương ở đó, liền quát lên rằng:
- Thằng quái này to lớn như thế, mày không mở cử cho ta, lại
còn giơ quyền để dọa ta à? Nói thiệt ta đây không sợ mày đâu?
Nói dứt lời rồi nhảy tót lên bệ, vớ thanh củi nhằm cẳng tượng
mà vụt lấy vụt để, bao nhiêu những phấn son sơn nhựa, đều long bật ra cả.
Lũ canh cổng nom thấy vậy cả kinh, mải mốt bảo nhau chạy vào
báo với sư cụ.
Ngoài kia Trí Thâm đứng đợi hồi lâu, không có ai ra mở cửa, lại
quay cổ nom sang bên hữu cũng thấy pho tượng Kim Cương ở đó, rất tức giận quát
to lên rằng:
- Lại thằng này cũng há hốc miệng mà cười ta nữa hay sao?
Đoạn rồi cũng nhảy lên bệ, đá luôn vào cẳng pho tượng mấy cái
đổ lăn đùng xuống đất, mà đứng cười ha hả một mình.
Khi đó lũ canh cổng chạy vào báo với sư cụ, thì sư cụ gạt đi
mà bảo rằng:
- Thôi các ngươi cứ ra đi, để đấy mặc hắn.
Vừa nói xong thì lại thấy lũ Giám Tự và Thủ Tự chạy mải mốt
vào mà bạch rằng:
- Thằng khốn nạn hôm nay lại say rượu quá, hắn đã đánh đổ cả
mái đình, và đương phá hủy hai pho tượng Kim Cương ở ngoài kia.
Sư cụ nghe nói vậy, cũng chỉ ung dung mà đáp lại rằng:
- Xưa nay đến ông Thiên Tử còn sợ thằng say rượu, huống chi
chỉ là lũ thầy chùa? Còn như hai pho tượng Kim Cương cùng mái đình kia, nếu hắn
có đánh hỏng ở đâu, thì đã có Triệu Viên Ngoại làm đền ở đấy, can chi mà nói
cho phiền.
Chư tăng có ý không bằng lòng mà nói:
- Pho tượng Kim Cương là chúa tể ở cửa rừng cửa núi, có lẽ
nào mà thay đổi dễ dàng như thế được?
Sư cụ lại cười mà đáp:
- Cứ gì pho tượng Kim Cương, cho đến hắn phá hỏng ngay tòa Phật
Tam Thế cũng mặc lòng hắn vậy, chứ còn biết làm sao được? Các ngươi không nhớ
chuyện hung tợn bữa trước hay sao?
Lỗ Trí Thâm đứng ở ngoài đợi mãi không có ai mở cửa cho thì
nóng tiết mà quát:
- Đồ ăn mày kia, không mở cửa cho ta vào, thì ta cho một mồi
lửa đốt tiệt cả chùa chiền bây giờ.
Chúng tăng nghe thấy vậy, thì anh nào anh nấy đều phải kinh sợ
gọi người canh cổng bắt mở cửa cho Trí Thâm vào.
Lũ canh cửa cũng rung sợ khiếp kinh, sẽ rón rén đến rút cái
then khóa ra, rồi bỏ mặc cửa khép đấy mà chạy trốn mất cả.
Bấy giờ chúng tăng cũng bỏ mà chạy trốn cả, Lỗ Trí Thâm sốt
ruột không thể nào đợi được, liền giơ hai tay mà đẩy cửa một cái thật mạnh. Dè
đâu then cửa ở trong đã tháo ra rồi, cho nên vừa đẩy tay vào một cái thì cánh cổng
mở tung hẳn làm cho Trí Thâm ngã ngay sấp mặt vào trong cổng, đoạn rồi lại mải
mốt đứng dậy, mà xoa đầu xoa mặt, chạy sộc vào trong phòng.
Khi ấy có mấy vị sư đương ngồi ở trai đường với nhau, bỗng thấy
Trí Thâm ở đâu lập cập bước vào, mặt đỏ bầng bầng như nước tượng sơn son, thì
ai nấy kinh ngạc đều cúi đầu xuống, mà không dám ngẩng đầu lên nhìn, đoạn rồi
thấy Trí Thâm chạy vào đến giường nằm vật xuống đấy, mà ghé cổ ra đất nôn mửa
thốc tháo; làm cho mọi người ngồi đấy, đều bưng mũi lắc đầu không sao nhịn được.
Trí Thâm nôn mửa hồi lâu, rồi lại ngồi chổm lên giường cởi áo
bỏ mũ, bứt đứt cả thắt lưng, rồi lại lấy quầy thịt chó giắt ở trong bọc ra, mà
nói một mình rằng:
- Tốt lắm! Bây giờ bụng lại đương đói đây, ta đem ra mà nhắm
đi thôi.
Nói xong vừa xé thịt chó vừa ăn nhồm nhoàm ở miệng, rồi quay
trước quay sau trông thấy mấy vị sư đương lấy vạt áo bịt mũi ngồi gần ở đó, liền
giơ miếng thịt chó sang một bên kia mà bảo rằng:
- Các bác có ăn thịt chó không?
Vị sư ấy mải mốt nhảy xuống giường toan chạy, bất đồ bị Trí
Thâm nắm tay kéo lại mà nhét cả vào mũi vào mồm không sao cựa được. Các sư kia
thấy vậy túm đến để gỡ ra, thì Trí Thâm giơ ngay cẳng tay đánh vung xích chó,
làm cho chư tăng và các khách nhà chùa đều chạy tán loạn.
Giám Tự thấy vậy, không đợi nói cho sư cụ biết, liền cho gọi
tất cả nhà bếp phu kiệu, cùng các vị chức vụ ở trong chùa, có tới hai trăm người
đều cầm côn gậy đi vào tăng đường để chống cự lại.
Trí Thâm trông thấy thế, thì thét lên một tiếng rất to, rồi
chạy ngay vào Phật đường, vớ ngay cái án thư ở trước điện, mà bẻ lấy hai cái
chân án làm khí giới xông ra để đánh, chư tăng thấy khí lựcTrí Thâm mạnh tợn
quá chừng, thì anh nào cũng chùn tay lại, mà không dám địch; Trí Thâm thừa thế
đuổi tràn cho đến pháp đường, mà đánh vung cả lên, không còn nể sợ điều chi.
Vừa khi ấy thì thấy sư cụ ở pháp đường quát lên rằng:
- Trí Thâm không được vô lễ thế! Các sư cũng phải im đi.
Chư tăng nghe sư cụ nói, thì tản mát mỗi người đi mỗi nơi,
không dám vẫn vơ quanh đấy. Còn Trí Thâm thấy chúng tăng đã tản mát rồi, cũng vất
vả hai cái chân án xuống mà nói rằng:
- Xin sư cụ làm chứng cho tôi.
Bấy giờ sư cụ thấy Trí Thâm đã hơi có dáng tỉnh rượu, liền bảo
rằng:
- Ngươi là phiền lụy ta quá! Mới hôm nọ say rượu làm ầm cả
lên, ta phải gửi giấy cho Triệu Viên Ngoại để viết thư sang tạ lỗi với chúng
tăng, thế mà hôm nay lại say sưa làm loạn đến thanh quý đánh gãy cả tượng Kim
Cương, đổ cả mái đình ở ngoài núi, rồi lại đánh nhau với chư tăng, như thế thì
tội ác biết đâu mà kể! Đạo Tràng Văn Thù Bồ Tát ở núi Ngũ Đài đây, là một nơi
hương lửa thanh tĩnh biết mấy ngàn năm trời, nay có thể nào dung một người bậy
bạ như thế mãi được! Ngươi hãy theo ta vào đây, rồi ta liệu cho ngươi ở một chỗ
khác mới được.
Trí Thâm theo sư cụ vào trong phương trượng, sư cụ liền nhất
diện sai gọi khách nhà chùa cho đâu vào đấy, nhất diện sai gọi chư tăng đi yên
nghĩ hẳn hoi, rồi giữ Trí Thâm ngủ ở đó một tối.
Sáng hôm sau sư cụ mưu cùng chư tăng, viết thư sang kể hết đầu
đuôi cho Triệu Viên Ngoại biết, và hứa xin cho Trí Thâm đi một nơi khác.
Triệu viên Ngoại tiếp được thư của sư cụ, liền viết giấy trả
lời, hẹn xin các nơi phá hoại đều sẽ xuất tiền tu bổ đền, còn Trí Thâm thì tùy
ý sư cụ xử cho.
Sư cụ xem thư của Triệu Viên Ngoại, liền sai đồ đệ lấy ra mấy
bộ mũ áo của nhà sư, và 10 lạng bạc, rồi gọi Lỗ Trí Thâm đến mà bảo rằng:
- Ngươi ở đây đã mấy phen say sưa chè rượu, lỗi đạo tu hành
như thế, ta không thể nào dung túng được nữa, song ta cũng nể chút lòng Triệu
Viên Ngoại bên kia, vậy ta cho ngươi một bức thư này, để đi tìm một chỗ mà yên
thân, từ sau phải tỉnh hối dần đi mới được. Đây ta có câu đoán trước để về sau
ngươi sẽ nghiệm dần.
Cho hay:
Cửa thiền vừa thuở vui chơi,
Cũng toan chợp mắt sự đời bỏ qua,
Hay đâu trần hải phong ba,
Lửa lòng hồ dễ ai mà tưới tan?
Một bầu nhiệt huyết chan chan,
Thân nầy nợ với giang san còn nhiều,
Sá chi mặt nước cánh bèo,
Nam nhi hồ thỉ biết liều mới gan...
Lời bàn của Thánh Thán:
Xem sách cần phải tinh ý, không thể đọc qua văn rồi chẳng
nghĩ đến. Như hồi này tả Lỗ Đạt gặp Kim Lão, rồi xoay đến vào chùa Ngũ Đài Sơn.
Xét Kim Lão làm gì đưa nổi Lỗ Đạt đến Ngũ Đài Sơn? Đấy là sự bất đắc dĩ, chỉ cậy
vào thân phận của Thúy Liên, mà nảy ra một Triệu viên Ngoại. Sở dĩ có Triệu
Viên Ngoại, cốt làm cho Lỗ Đạt đi Ngũ Đài Sơn, chứ phải đâu ở huyện Nhạn Môn Đại
châu, lại có một Viên Ngoại tốt đến như thế? Cho nên trong văn tự phải quay lại
phía Lỗ Đạt mà xuất hiện ra, tả chỗ Viên Ngoại rất yêu chuộng những tay côn quyền
mà nghĩa khí mới được. Phải xét đến đoạn văn Kim Lão cho biết, cháu gái thường
thường nói với Viên Ngoại, về ân nhân là người như thế nào, khiến Triệu Viên
Ngoại kính mến. Đó chỉ là dụng tình một ái thiếp, mà nên như vậy. Đoạn văn sau
Lỗ Đạt làm loạn Ngũ Đài Sơn, Viên Ngoại không nói câu gì phàn nàn thấy tấm lòng
Viên Ngoại đã hết sức. Độc giả nếu không xét tới, thì chả còn biết ngựa
trâu, cái đực thế nào?
Tả nhà Kim Lão chỉ là phụ, tả Ngũ Đài Sơn lại là chính, thực
là bút Sử mã phục sinh.
Tả Lỗ Đạt hai lần dùng rượu, cho rõ ra bản ngã con người, viết
làm sao chương cú không ai ngờ tới? Thực khó lắm thay? Thế mà tác giả tả nổi,
việc rất khó ở trong rất khó kia, khéo tả hai lần dùng rượu tiếp liên, phải làm
cho cách quãng, nếu không tả cách quãng, thì Lỗ Đạt chỉ ngày ngày dùng được rượu
hay sao? Nay làm cho độc giả đã thấy một lần bị cấm, lại thấy một lần sau nữa
hiện ra, khiến cho tai mắt không tưởng tượng nổi, vậy phải tả cách quãng, liệu
bút chép ra, vì Chân Trí Trưởng Lão thường khuyên Lỗ Đạt theo cấm giới của kẻ
tu hành, nay đột nhiên trật ra ngoài đề, tưởng không còn uống được nữa, thế mà
xuống núi Ngũ Đài Sơn, lại sinh ra chuyện uống rượu, mới hay tác giả bút lực
tài tình.
Hồi 4:
Chàng bé gan kinh hồn nơi ngọc trướng
Chàng to bụng ra sức xóm đào hoa.
Bấy giờ Trí Thâm đang đứng trước mặt sư cụ mà nói rằng:
- Sư phụ dạy sao, cũng xin theo mệnh, nhưng không biết rằng
sư phụ cho ở nơi đâu?
Sư cụ nói:
- Ta có một người anh em, gọi là Trí Thanh thiền sư, hiện
đương trụ trì ở chùa Đại Tướng Quốc bên Đông Kinh, vậy ta cho ngươi cầm một
phong thư này, sang đó rồi ở đấy mà tu hành mới được. Còn bốn câu kệ ta đọc ra
đây, ngươi nên nhớ lấy, mà suy nghiệm về sau.
Nói xong liền đọc bốn câu kệ rằng:
"Gặp rừng thì dấy,
Thấy núi thì giầu,
Qua non thì mau,
Đến sông thì khá."
Trí Thâm nghe bốn câu kệ, nhận thuộc lòng tử tế, rồi lạy từ tạ
sư cụ thu thập khăn gói hành lý, và từ giã chúng tăng mà đi xuống núi Ngũ đài.
Bâng khuâng giã cảnh, giã thầy,
Trời cao đất rộng thân nầy bốn phương
Các sư ở chùa thấy Trí Thâm đi rồi, thì ai nấy cũng có vẻ mừng.
Cách đấy vài hôm Triệu Viên Ngoại đem tiền nong thợ thuyền đến núi Ngũ Đài để sửa
chữa lại mái đình, và sửa sang hai pho tượng Kim Cương cho được hoàn nguyên như
cũ.
Còn về phần Trí Thâm sau khi đã từ biệt, giã cảnh, giã chùa,
liền xăm xăm đi xuống nhà thợ rèn ở dưới chân chùa, để lấy giới đao cùng thuyền
trượng. Khi thợ rèn đã đánh xong rồi, Trí Thâm mua một cái bao dao để bỏ giới
đao vào đó, và lại mua sơn để sơn thuyền trượng cho cẩn thận, đoạn rồi thưởng
tiền cho thợ rèn, và khoác khăn gói, vác đao trượng đi sang Đông Kinh.
Trong nửa tháng trời Trí Thâm đi đường không hề vào một nhà
nào để trọ, chỉ đến bữa ăn thì tìm vào hàng rượu hàng thịt, mà chén no say rồi
lại một mình thui thủi ra đi. Một khẩu giới đao, một thanh thuyền trượng, bốn
phương non nước như đón khách tang bồng, cái cảnh nhà sư bây giờ thật là thỏa
chí, không bó buộc như lúc ở chùa.
Một hôm Trí Thâm đi lững thững trên đường, trông ra bốn bên một
mầu nước biếc non xanh rất nên ngoạn mục, bèn vừa đi vừa ngắm một mình, mà mặt
trời sắp lặn non tây không biết. Bấy giờ mới hoảng hốt đi tìm chỗ trọ, nhưng đường
xa quãng vắng, chung quanh lạnh ngắt hơi người, không biết vào đâu cho được, bất
đắc dĩ lại phải cố đi để tìm nơi khác. Chàng đi tới hai ba mươi dặm đường, qua
một cái cầu, rồi đến một nơi trang viện, xung quanh cây cối um tùm, mà đằng sau
toàn là non núi.
Trí Thâm đi đến trước cửa trang viện, thấy những người ở
trong đó đang rộn rịp tưng bừng, như là nhà đám, liền vào tận cổng, gọi trang
khách ra để hỏi.
Vừa khi cất mồm toan hỏi, thì đã thấy trang khách nói trước
lên rằng:
- Nhà sư đi đâu mà tối tăm lần mò đến đây?
Trí Thâm chống cây trượng xuống đất mà đáp rằng:
- Tôi đi đến đây lỡ độ đường, xin vào ngủ trọ một tối.
- Trong trang tôi có việc, không thể vào trọ được.
- Tôi chỉ trọ một tối, rồi sáng mai lại đi, sao mà không được?
- Thôi nhà sư đi tìm chỗ khác, chứ ở đây không trọ được đâu,
trọ để mà chết hay sao?
- Nói lạ? Trọ một đêm mà chết cái gì?
Trang khách gắt lên rằng:
- Có đi thì đi đi, không thì trói vào kia bây giờ.
Trí Thâm nghe nói tức mình sấn cổ lên mà mắng rằng:
- Thằng nhà quê này vô lý quá, ta làm gì mà mi bảo trói ta?
Lũ trang khách thấy vậy, thì đổ xô đến, đứa thì mắng đứa thì
đuổi, đứa thì khuyên bảo nên đi. Bấy giờ Trí Thâm đã cáu tiết, toan giơ thuyền
trượng để đánh, chợt có ông lão trạc ngoài 60 tuổi, chống một cái gậy rất dài, ở
trong nhà đi ra hỏi lũ trang khách rằng:
- Chúng bây làm gì ầm ầm lên thế?
Trang khách đáp rằng:
- Bẩm có lão sư nào toan đến đánh chúng tôi ở đây.
Trí Thâm không đợi dứt lời, liền nói ngay rằng:
- Tôi là sư ở Ngũ Đài Sơn đi sang Đông Kinh có việc, nhân trời
tối qua đây ngủ nhờ quý trang một tối, ai ngờ đám người nhà vô lễ, cứ toan những
trói với đánh là nghĩa lý làm sao?
Ông lão nghe vậy bèn bảo Trí Thâm rằng:
- Nếu người có phải là ở bên Ngũ Đài Sơn, thì xin mời vào
trong nầy.
Nói xong dẫn Trí Thâm vào trong nhà mời ngồi rồi nói rằng:
- Xin sư phụ tha lỗi cho, lũ người nhà chúng nó ngu si, không
biết cho nên xấc láo như vậy, chứ chúng tôi đây xưa nay vẫn kính phật thờ trời,
có đâu dám thế. Ngày nay dẫu trong nhà tôi đây có việc, song để sư phụ nghỉ
chơi một tối cũng chẳng hại gì.
- Chẳng hay quý trang đây là nơi nào?
- Thưa người, tôi đây là người họ Lưu, đây gọi xóm Đào Hoa,
cho nên người ta thường gọi tôi là Đào Hoa Trang Lưu Thái Công. Vậy dám hỏi sư
phụ pháp hiệu là gì?
- Tôi nguyên người họ Lỗ, sau theo sư cụ Trí Chân tôi ở chùa
Ngũ Đài, cho nên người đặt pháp hiệu là Lỗ Trí Thâm.
- Bây giờ đã tối, xin sư phụ ngồi nghỉ, rồi xơi cơm, nhưng chẳng
hay sư phụ có dùng được đồ mặn hay không?
- Tôi đây bất cứ là chay hay mặn, hễ có rượu thì thịt trâu bò
tôi ăn cũng được.
- Nếu vậy thì tôi xin bảo người nhà, dọn rượu sư phụ xơi.
Nói đoạn gọi trang khách lấy rượu thịt và các thứ rau quả cơm
nước lên, để thiết đãi nhà sư.
Trí Thâm bỏ tay nải, cổi bao đao ra để một bên, rồi gắp thịt
ăn uống tự do một lúc, hết sạch cả cơm rượu và một mâm thịt, làm cho Lưu Thái
Công trông thấy phải kinh sợ.
Được một lát Lưu Thái Công bảo trang khách, dọn một trang
phòng ở bên ngoài, để cho Trí Thâm nghỉ mà dặn rằng:
- Sư phụ cứ đi nghỉ nếu đêm nay ở đây có xẩy ra huyên náo,
thì sư phụ cũng mặc đấy mới được.
Lỗ Trí Thâm liền hỏi:
- Vậy thì ở quý trang có việc chi làm vậy?
- Việc đó các ngài đã tu hành, thì không nên hỏi đến làm chi?
Trí Thâm lại hỏi:
- Tôi trông Thái Công làm sao mà không được vui vẻ như thế?
Chẳng hay vì tôi đến đây phiền nhiễu đến Thái Công, thì sáng mai tôi sẽ tính tiền
trả lại Thái Công.
- Sư phụ nói làm gì vậy? Nhà tôi đây thiết đãi chư tăng cũng
nhiều, có đâu một mình ngài lại không chu tất nổi hay sao? Tôi đây sở dĩ phiền
muộn là chỉ vì hôm nay gả chồng cho đứa con gái đó thôi.
Trí Thâm cười mà đáp rằng:
- Lạ chưa? Con trai lớn thì lấy vợ, con gái lớn thì lấy chồng,
đó là lẽ thường trong trời đất, can chi mà cụ phải lo?
- Đành vậy, nhưng việc hôn nhân này, có phải là tôi ưng thuận
ở đâu?
Trí Thâm lại cười mà nói rằng:
- Ông cụ này mới lạ chứ! Đã không bằng lòng, thì sao lại gả
chồng cho nó?
Nguyên tôi chỉ có một đứa con gái, năm nay 19 tuổi, chưa dám
gả chồng. Nhân gần đây ở trên núi Đào Hoa Sơn, có hai ông Đại Vương đến đóng trại
ở đó, tụ đến năm bảy trăm người để cướp bóc dân gian, mà quan quân trị mãi
không nổi. Sau có một người biết nhà tôi có đứa con gái, liền đưa sang đây 20 lạng
vàng, và mấy tấm lụa, mà bắt ép phải gả, đã hẹn đến hôm nay là làm lễ thành
hôn. Tôi đã định từ chối, song thế mình yếu đuối không làm gì được, đành phải
chịu vậy, vì thế cho nên tôi phiền não thế thôi.
Trí Thâm nghe dứt lời liền nói:
- À! Té ra câu chuyện như thế đấy, nếu vậy thì tôi có cách để
khuyên giải, cho người ấy hồi tâm hướng đạo được. Cụ ơi! Cụ đừng lo nghĩ thêm
phiền!
- Chết nỗi! Khuyên giải chi? Hạng ấy họ ăn thịt người không
tanh, làm thế nào làm cho họ hồi tâm hướng đạo được?
- Tôi ở Ngũ Đài Sơn, nhờ sư phụ tôi dạy được một phép mầu, dẫu
đến sắt đá cũng có thể chuyển được chẳng lo là người. Bây giờ cụ cứ bảo cho cô
dâu ẩn đi một chỗ khác, còn trong phòng cứ mặc cho tôi vào đây, rồi tôi sẽ có
cách khuyên giải người kia.
Lưu Thái Công hơi có vẻ mừng mà rằng:
- Nếu vậy thì hay lắm! Nhưng chỉ sợ chạm phải râu hùm, thì
hơi nguy hiểm mà thôi.
- Không hề chi! Cụ cứ để mặc tôi, tôi sẽ xử được.
Bây giờ trang khách đứng đấy, đều lấy làm kinh lạ. Đoạn rồi
Lưu Thái Công lại nói với Trí Thâm rằng:
- Nếu vậy thì nhà tôi thực có phúc, mới gặp được đức Phật
giáng thế mà cứu độ cho; Nhưng chẳng hay sư phụ có xơi cơm nữa hay không?
- Cơm thì không cần nữa, nhưng có rượu cho tôi một ít cũng
hay.
Lưu Thái Công vâng dạ luôn mồm, rồi sai trang khách lấy một
con thịt quay và một bình rượu lớn lên cho Trí Thâm uống.
Trí Thâm ngồi xuống hai ba mươi bình rượu, lại ăn hết cả con
vịt quay, rồi đứng dậy hỏi Thái Công rằng:
- Cụ đã cho cô con gái đi trốn chưa?
- Bẩm đã.
- Nếu vậy thì cụ cho dẫn tôi vào phòng đợi tân lang đến.Nói
đoạn sai người nhà vác khăn gói và tự cầm đao trượng đi theo Thái Công vào trong
phòng. Khi tới nơi Lỗ Trí Thâm bảo cho Thái Công trở ra; để một mình ở trong
phòng, đoạn rồi đem các bàn ghế về một bên để đao với trượng lên giường, rồi cổi
quần áo nhảy lên giường để ngồi chồm chổm ở đó.
Ngoài kia Lưu Thái Công, vừa mới bày biện bàn tiệc xong thì
đã xa trong thấy đèn đuốc sáng trưng, người ngựa tấp nập, ở đằng xa kéo đến, liền
mải mải mốt mốt chạy ra cổng để đón. Khi toán ấy gần tới nơi thì thấy cờ quạt
phất phới, sáng choang, một lũ tiểu lâu la đầu đội khăn đỏ lưng thắt dây đỏ, cầm
hai hàng đèn lồng đi trước, rồi đến vị Đại Vương cưỡi con ngựa trắng lông quăn
đi giữa.
Lưu Thái Công thấy Đại Vương xuống ngựa, thì vội vàng quỳ
ngay xuống đất, rồi rót rượu để dâng.
Đại Vương thấy vậy chạy đến nắm tay Thái Công dắt dậy mà rằng:
- Bây giờ cụ là nhạc phụ tôi, sao lại quỳ như thế?
Lưu Thái Công nói:
- Thưa ngài tôi là thuộc hạ của ngài, có đâu dám vô lễ được?
Bấy giờ Đại Vương hơi có dáng say, liền bảo Thái Công rằng:
- Cụ được người con rể như tôi, tưởng không còn gì hơn nữa?
Nói xong uống luôn ba chén rượu, rồi đi thẳng vào trong nhà
ngồi nghỉ, và gọi lũ lâu la đến trước thềm, để hòa nhạc khua trống làm vui. Đại
Vương hỏi Lưu Thái Công rằng:
- Dám thưa trượng nhân, phu nhân nhà tôi đâu?
- Thưa ngài, cháu nó còn thẹn, chưa dám ra đây nghinh tiếp.
Đại Vương cười nói rằng:
- Đem rượu đây, để ta mời trượng nhân đã.
Nói đoạn tay cầm chén rượu đưa mời Thái Công mà nói:
- Xin phép trượng nhân, để tôi vào chào phu nhân, rồi sẽ ra
đây uống rượu.
Bấy giờ trong bụng Thái Công đương chăm chăm mong cho Đại
Vương đến mau, để nhà sư khuyên giải hộ, liền tay cầm lấy cây nến, rồi đưa Đại
Vương đi qua bức bình phong, thẳng tới phòng cô dâu mới.
Khi tới nơi Thái Công trỏ lối cho Đại Vương vào trong phòng rồi
cầm cây nến chạy ngoắt ra ngoài để trốn, chưa biết hay, dở, dữ, lành ra sao?
Đại Vương đẩy cửa phòng đi vào, thì thấy tối mịt như bưng
không có đèn đuốc chi cả, liền nói:
- Quái lạ! Sao ông cụ lại không cho thắp đèn đóm, mà để cho
phu nhân ta phải ngồi chỗ tối tăm như vậy? Ngày mai ta bảo lâu la mang sang một
thùng dầu để thắp mới được.
Khi ấy Lỗ Trí Thâm ngồi yên ở trong màn, nghe nói thì cố bấm
bụng nhịn cười mà không dám nói.
Đại Vương sờ lần tới màn rồi hỏi:
- Phu nhân ở đâu, sao không ra đón tiếp ta? Có việc gì mà thẹn,
ngày mai đã là một bà phu nhân áp trại rồi.
Đại Vương vừa nói vừa giơ tay vén màn lên, rồi lần mò sờ soạng
vào trong giường. Vừa hay cái tay vô tình kia, sờ ngay vào bụng Trí Thâm, Trí
Thâm liền nắm lấy khăn và đai, mà giật ngã xuống bên giường, đánh cho một đấm
mà mắng rằng:
- Quân ăn cướp nầy!
Nói xong lại đấm luôn cho mấy đấm nữa vào giữa mang tai, Đại
Vương kinh hoảng mà kêu lên rằng:
- Sao lại đánh ông như thế?
Trí Thâm cũng đáp lại rằng:
- Bà làm cho biết tay bà đấy.
Đoạn rồi vật ngã Đại Vương ra bên giường, đánh đã luôn mấy
cái nữa, làm cho Đại Vương phải gào to lên, kêu người cầu cứu!
Lưu Thái Công ở ngoài nghe thấy vậy, thì rụng rời sợ hãi,
không hiểu nhà sư giảng thuyết ra sao, mà lại có tiếng người kêu cứu như vậy liền
hất hơ hất hải đưa đám lâu la cầm đèn đuốc vào xem. Khi vào tới nơi thấy một
ông sư phệ bụng cổi trần truồng, đương cưỡi trên bụng Đại Vương, thì ai nấy
kinh sợ tức giận mà thét nhau vào cứu Đại Vương.
Trí Thâm thấy bọn lâu la đều vác gậy vác giáo xông vào, thì bỏ
Đại Vương đấy, mà vớ lấy thuyền trượng bổ ra để đánh.
Lũ lâu la thấy thế lực nhà sư hung tợn như thế, thì đổ xô
nhau chạy không anh nào dám sấn vào nữa. Đại Vương thừa thế được chạy thoát ra
ngoài, liền vội vàng ra cổng bẻ một cành liễu, nhảy tót lên mình ngựa toan chạy,
ngờ đâu khi đã bước lên mình ngựa, đánh lấy đánh để mấy chục roi, mà ngựa cứ
quanh co không chạy được, Đại Vương lấy làm kinh sợ chắc rằng:
- Vận mệnh đến nơi, cho nên ngựa cũng khinh người mà mà không
chạy nữa!
Than ôi!
Ví không vướng chút nợ tình
Thời chi đến nỗi dẫn mình chông gai?
Sau Đại Vương xem rõ mới biết là tại cái dây buộc ngựa vẫn
chưa cởi ra, cho nên người ngựa không sao chạy được. Đại Vương thấy vậy, mải mốt
bứt đứt cả dây ra, mà quất roi cho ngựa chạy tế về sơn trại. Khi đi đường,
trong bụng vẫn oán thầm Lưu Thái Công là người phản trắc, nhất định có phen báo
lại mới nghe.
Về phần Lưu Thái Công thấy Đại Vương đi rồi, liền bảo Lỗ Trí
Thâm rằng:
- Sư phụ làm như thế thì khổ cho nhà tôi lắm!
Trí Thâm cười mà nói rằng:
- Xin cụ tha lỗi cho tôi, để tôi mặc quần rồi xin thưa chuyện.
Thái Công để Lỗ Trí Thâm mặ quần áo xong rồi, kéo đi ra ngoài
mà bảo rằng:
- Trước tôi vẫn tưởng rằng: Sư phụ khuyên bảo thế nào, ai ngờ
sư phụ lại đánh hắn như thế, tất nhiên hắn về sơn trại mang thêm quân ngựa đến
đây, giết hết nhà tôi mất.
Trí Thâm ung dung đáp:
- Cụ ơi! Cụ chớ có ngại, tôi đây chính là Lỗ Đề Hạt ở dinh
quan Kinh Lược đất Vị Châu, vì đánh chết người mới phải xuất gia đầu Phật đây.
Lũ nó dẫu có tới một hai nghìn binh mã tới đây, tôi cũng không coi vào đâu cả,
nếu không tin thì xin nhắc thử cây thuyền trượng kia sẽ biết.
Lũ trang khách nghe nói, anh nào anh ấy, cũng chạy lại nhắc
thử cây trượng xem sao, nhưng không ai nhắc nổi, đến lúc Trí Thâm cầm lên tay,
thì nhẹ nhõm tựa hồ một cây bấc vậy. Thái Công thấy thế, lấy làm mừng rỡ mà nói
rằng:
- Nếu thế thì sư phụ hãy ở đây cứu giúp tôi mới được.
- Cái đó chắc hẳn rồi, khi nào dám bỏ cụ mà đi ngay.
Lưu Thái Công hớn hở vui cười mà rằng:
- Bây giờ tôi xin bảo lấy rượu để sư phụ xơi, nhưng ngài chớ
uống say quá chén mà nguy mất.
Trí Thâm nói:
- Cụ không biết tính tôi, tôi uống một phần rượu thì khỏe một
phần, chứ uống mười phần rượu lại khỏe thêm lên mười phần, có say bao giờ mà sợ.
- Thế thì còn gì hơn nữa, nhà tôi đây còn rượu thịt, xin sư
phụ cứ xơi cho.
Lưu Thái Công nói xong, liền sai người dọn thêm rượu thịt ra,
để Trí Thâm đánh chén.
Bên kia Đại Vương phóng ngựa chạy về đến sơn trại, trông thấy
Đại Đầu Lĩnh, liền xuống ngựa mà kêu lên rằng:
- Đại Ca ơi! Đại Ca có cứu tôi không?
- Người Đầu Lĩnh trông ra thấy Đại Vương, đầu không khăn,
lưng không giải, bơ phờ hoảng hốt như người mất vía liền hỏi:
- Làm sao mà như thế?
Anh kia đem đầu đuôi thuật lại cho nghe, rồi bảo với Đại Đầu
Lĩnh rằng:
- Anh phải nghĩ cách làm sao mà cứu cho tôi mới được.
Đại Đầu Lĩnh nghe nói nổi giận mà rằng:
- Nếu vậy anh em cứ nghỉ ở nhà, để tôi đi bắt thằng ấy đến
đây mới được.
Nói xong quay ra gọi lâu la, đóng ngựa sắp thương để đi, Đại
Đầu Lĩnh nhảy lên mình ngựa, tay cầm ngọn thương thét lâu la trong trại, phải
nhất tề đi xuống trang viện, uy thế ầm ầm như bể sôi núi chuyển, ai cũng phải
kinh. Bấy giờ Lỗ Trí Thâm đương ngồi đánh chén một mình, bỗng thấy trang khách
vào báo rằng:
- Đại Đầu Lĩnh ở núi Hoa Đào hiện đã dẫn các lâu la đến kia.
Trí Thâm nghe báo thì bảo với trang khách rằng:
- Các ngươi cứ im lặng để ta đánh ngã được đứa nào, thì các
ngươi trói lại để giải quan lấy tiền thưởng. Các ngươi mang giới đao đây cho
ta.
Nói đoạn đứng dậy chống thuyền trượng cắp giới đao ra đi, khi
gần tới cổng đã thấy đóm đuốc sáng trưng, một tên Đại Đầu Lĩnh cưỡi ngựa cầm
thương ở ngoài quát rằng:
- Đứa nào giỏi nấp ở trong ấy, ra đây quyết trận với ta xem
sao?
- Bay chửa biết ta sao? Để ta đánh cho một trận mà xem.
Đoạn rồi múa thuyền trượng xông ra toan đánh. Bỗng Đại Đầu
Lĩnh bên kia dừng thương lại mà bảo rằng:
- Hòa thượng hãy khoan tay, nói tên họ cho tôi biết, tôi nghe
thấy tiếng hòa thượng quen lắm.
- Ta đây chính là Đề Hạt Lỗ Đạt ở dinh quan Kinh Lược ngày
trước đây.
Người kia nghe nói liền cười to lên mà rằng:
- Tưởng là ai té ra Lỗ Đại Ca đó.
Nói xong xuống ngựa vất thương ra, rồi chấp tay lạy chào mà hỏi
rằng:
- Chẳng hay lâu nay đại các có khỏe không? Ai ngờ nhị đệ nhà
tôi lại chạm phải tay ngài, thực là nực cười quá.
Trí Thâm nghe nói vẫn còn ngờ ngợ chưa tin, liền đứng lui vào
mấy bước, rồi nhìn kỹ ra mới biết là tên Đả Hổ Tướng Lý Trung, gặp ở Vị Châu
khi trước.
Lý Trung chào Lỗ Trí Thâm xong rồi, liền đến gần mà hỏi rằng:
- Sao quan bác lại xuất gia ăn mặc như thế? Làm cho tôi khó
lòng mà nhận được.
Trí Thâm đáp rằng:
- Chuyện tôi còn dài, hãy vào trong này ngồi chơi, rồi tôi sẽ
nói.
Nói xong dắt tay Lý Trung vào nhà.
Bấy giờ Lưu Thái Công thấy Lỗ Trí Thâm lại cùng vào một bọn
như thế thì trong lòng rất là sợ hãi, không dám thò mặt ra để ứng tiếp. Trí
Thâm đưa Lý Trung vào nhà mời ngồi, và gọi Thái Công ra để nói chuyện.
Thái Công sợ hãi lúng túng không dám bước ra, Trí Thâm liền
nói:
- Chúng tôi cũng là anh em cả, xin cụ cứ ra chơi, đừng ngại.
Thái Công thấy nói là anh em, thì lại càng sợ hãi, nhưng
không ra tiếp đãi thì không được, đành phải rón rén bước ra, mà ngồi hầu tiếp
chuyện. Lỗ Trí Thâm ngồi ung dung đem chuyện mình từ khi từ giã Lý Trung, cho tới
cái mục đích ngày nay, kể cho hai người nghe, rồi lại hỏi Lý Trung rằng:
- Chẳng hay anh chàng đã gặp tôi lúc nãy là ai, mà sao anh lại
ở đây với hắn?
Lý Trung nói:
- Từ ngày tiểu đệ từ biệt Ca ca ở tửu điếm Vị Châu, rồi lại
cùng Sử Tiến chia tay mỗi người một nơi; Sau nghe tin Đại Ca đánh chết Trịnh Đồ,
tiểu đệ muốn tìm Sử Tiến để bàn kế cứu nhau, song không biết hắn đâu mà tìm được
nữa. Kế đến lúc nghe tin quan quân truy nã lạ thường, đệ lại bỏ Vị Châu đi nơi
khác. Khi tới qua núi Đào Hoa đây, bị Tiểu Bá Vương Chu Thông, chính là anh
chàng lúc nãy, đem người xuống đón đường đánh cướp, đệ liền ra oai đánh cho hắn
ta thua một trận; Hắn thấy vậy bèn mời đệ lên sơn trại, mà nhường quyền coi giữ
quân lương, bởi thế mà tiểu đệ mới làm chủ trại ở đó.
Trí Thâm cười mà bảo rằng:
- Nếu có phải là anh em ta ở đấy, thì cái việc hôn nhân đây tất
phải thôi đi. Ôâng cụ đây chỉ có một người con gái để dưỡng lão về sau, nếu ta
ép uổng lứa đôi, thì thân già ấy còn trông cậy vào đâu được?
Lưu Thái Công nghe nói cả mừng, liền sai dọn rượu thiết đãi
hai người, và thưởng cho bọn lâu la ăn uống.
Khi ăn uống xong Thái Công mang số tiền ra, để gửi nộp Chu
Thông, Trí Thâm bảo với Lý Trung rằng:
- Số tiền bác hãy nhận lấy mà mang về, còn việc hôn nhân là ở
tay bác đấy.
Lý Trung nhận món tiền rồi nói:
- Vâng việc ấy không ngại gì, bây giờ hãy đón Đại Ca lên chơi
qua trại tôi, và Lưu Thái Công cũng nên lên chơi một thể.
Thái Công vâng lời, sai người mang đao trượng và hành lý cho
Lỗ Trí Thâm, rồi hai người đi hai cỗ kiệu, mà theo Lý Trung lên núi. Bấy giờ trời
mới sáng, thì ba người đã cùng đến sơn trại, Lý Trung xuống ngựa đón Trí Thâm
và Thái Công vào chơi trong dinh, rồi gọi Chu Thông lên nói chuyện.
Chu Thông chạy đến trông thấy nhà sư ở đấy, thì cả giận mà bảo
Lý Trung rằng:
- Sao bác không báo thù cho tôi, mà lại mời người ta đến đó?
Lý Trung cười mà hỏi rằng:
- Chú không biết vị hòa thượng nầy hay sao?
- Nếu tôi có biết, thì không đến nỗi bị đánh.
- Thôi, phàn nàn làm chi. Vị hòa thượng này tức là người đánh
ba cẳng tay chết anh Trần Quan Tây Trịnh Đồ mà tôi vẫn nói với chú đấy.
Chu Thông nghe nói xoa đầu xoa óc thở dài một tiếng, chấp tay
cúi chào Trí Thâm.
Trí Thâm cũng đáp lễ lại rồi nói rằng:
- Tôi trót lỡ xin ngài thứ tội cho.
Bấy giờ ba bốn người cùng ngồi, rồi Lỗ Trí Thâm bảo với Chu
Thông rằng:
- Bác Chu ơi! Việc hôn nhân ở nhà Lưu Thái Công, không nên ép
nữa, vì ông ta chỉ có một người con gái dưỡng lão, mà nếu mình ức hiếp lấy ngay
thì thực là bất tiện, vậy bất nhược ta lấy lại tiền, mà tìm đám khác thì hơn,
bác nghĩ sao?
Chu Thông nói:
- Ngài đã dạy thế, thì tôi xin vâng lời, không dám nghĩ đến nữa.
Trí Thâm nói:
- Đại trượng phu ở đời, đã làm việc gì không nên nói đi nói lại,
thế mới hay.
Chu Thông liền bẻ mũi tên để thề, đoạn rồi Lưu Thái Công nộp
lại số tiền cưới, mà bái tạ ra về. Lý Trung, Chu Thông sai giết trâu dê làm tiệc,
rồi đưa Trí Thâm đi xem phong cảnh trong trại. Non cao cây rậm, hình thế cheo
leo, bốn chung quanh toàn là hiểm tuấn, Trí Thâm xem xong lấy làm khen ngợi vô
cùng.
Được năm ba hôm, Lỗ Trí Thâm xem chừng bọn Lý Trung, cũng
không phải là người khẳng khái, mà tính khí nhiều điều biển lận khó chịu, liền
từ giã xin đi. Lý Trung, Chu Thông lưu lại không được liền nói:
- Nếu quan bác không chịu ở đây, thì xin cố lưu đến mai, để
chúng tôi đi xoay xem có được chút gì sẽ đưa lại lộ phí.
Sáng hôm sau Lý Trung, Chu Thông đặt rượu tiễn hành, đem các
đồ chén ngọc đĩa vàng ra để bày tiệc.Đương khi chén tạc chén thù, thì bỗng có
lâu la vào báo:
- Có mấy mươi người đương áp hộ hai cổ xe, đương đi dưới chân
núi.
Hai người nghe báo, vội vàng cắt một tên lâu la ở lại để hầu
Lỗ Trí Thâm và nói rằng:
- Xin quan bác hãy cứ ngồi uống rượu, để cho chúng tôi đi xuống
núi tảo ít lộ phí, để tặng quan bác đã.
Nói xong hò lũ lâu la cùng đi, Lỗ Trí Thâm thấy hai người đi
rồi, thì tự nghĩ rằng:
- Hai thằng này láo thực, chúng nó có biết bao nhiêu đồ ngọc ở
đây, thế mà còn phải đợi kiếm được của đâu, rồi mới tặng mình, thành ra của thế
gian đãi người ngoan thiên hạ, chẳng qua chỉ khổ sở kẻ khác mà thôi. Vậy bất
nhược tiện đây, ta hãy làm cho nó một mẻ xem sao?
Nghĩ đoạn gọi tên lâu la đứng hầu, đến gần trước mặt, mà đánh
cho một cái ngã lăn queo xuống, rồi lấy giẻ nhét vào mồm, mà trói lại để đó. Đoạn
rồi mở khăn gói hành lý ra, bọc các đồ vàng đồ bạc vào gói, đeo thẳng lên vai,
rồi lấy đao lấy trượng lẻn ra đi trốn. Khi ra đến sau trại trông thấy thế núi
tuy hiểm hóc, nhưng cũng có thể mà nhảy ra được, Trí Thâm liền tháo khăn gói,
và đao trượng mà vất xuống trước, rồi cất mình nhảy một cái thật mạnh xuống
sau. Nhờ được bãi cỏ ở chân núi cho nên Trí Thâm nhảy xuống không bị đau đớn
chi cả, chàng liền mải mốt lại khoác khăn gói cầm đao trượng, mà cút đi cho chóng.
Bấy giờ Lý Trung, Chu Thông dẫn lâu la, xuống đến chân núi
thì vừa gặp bọn người áp tải đi đến, anh nào cũng có khí giới trong tay, hai
chàng liền múa thương xông tới, bọn kia cũng giơ khí giới lên đỡ, rồi cùng Lý
Trung đánh nhau có tới mười mấy hiệp không chịu thua. Chu Thông thấy vậy sốt ruột,
thét bọn lâu la hò reo ầm lên, rồi kéo sang để đánh. Bên kia biết thế không địch
nổi, bèn bỏ các đồ đạc xe cộ mà chạy tháo lấy thân, song cũng mất đến 7, 8 người
thiệt mạng.
Lý Trung, Chu Thông đắc thắng cả mừng, sai các lâu la khuân
đem đồ đạc về trại. Hay đâu về đến trại, thì chỉ thấy tên lâu la bị trói nằm cò
quăm ở đất, trông trên bàn thì chén ngọc đĩa vàng đều biến đi đâu mất hết, mà Lỗ
Trí Thâm cũng chẳng thấy đâu; Hai người đều lấy làm kinh ngạc, cổi trói cho tên
lâu la, mà hỏi hết đầu đuôi. Sau biết rõ Trí Thâm đã thâu các đồ bảo vật, mà nhảy
đi lối sau trốn đi mất rồi thì Chu Thông lấy làm căm tức, mà bảo với Lý Trung rằng:
- Sơn trại của ta kín đáo như thế, mà lão ta còn nhảy ra được
thì gớm thật, bây giờ ta biết làm sao?
Lý Trung nói:
- Chúng ta phải đi đuổi hắn, mà làm cho hắn xấu hổ một phen mới
được.
- Thôi không ăn thua, mình đuổi thế nào được nó, mà nếu có đuổi
được nó, nhưng nó không trả thì làm sao? Như thế có phải sinh câu chuyện lôi
thôi mà khổ đến mình, vậy bất nhược đề cho hắn, dễ làm một chút về sau mà lại
hóa hay.
Nói xong đem các đồ vật cướp được, chia ra làm ba phần, Lý
Trung, Chu Thông mỗi người một phần, còn một phần thì chia thưởng cho các lâu
la. Lý Trung từ chối rằng:
- Vì tôi dắt lão sư lên đây, để đến nỗi thiệt hại mất nhiều,
thì cái phần này của tôi, tôi xin nhường bác cả.
Chu Thông nói:
- Tôi với bác đã thề với nhau rằng, cùng sống cùng chết, có
khi nào tôi lại nhận phần như thế?
Nói xong chia làm ba phần tử tế, mà cùng nhận bằng nhau.
Mới hay:
Đã thề cốt nhục tử sinh.
Tấm xương tuy trắng chút tình dám sai;
Thế gian mấy mặt làng chơi,
Xưa nay trọng nghĩa khinh tài được bao?
Hỏi ai chung đỉnh ra vào,
Trông gương thiên cổ nghĩ sao bây giờ?
Lời bàn của Thánh Thán:
Trí Thâm nhận thư của Trí Chân Trưởng Lão, nếu cứ đi đường một
tháng, sớm tới chùa Đại Tướng Quốc ở Đông Kinh thì ở luôn trong chùa làm một
ông hòa thượng, còn chỗ nào thấy cái tài rồng hổ nhảy và nằm? Câu chuyện có gì
làm thú; Hồi này chép xẩy chuyện giữa đường, vì sự vào ngủ trọ, chợt vào buồng
của tân hôn, không thành một ông thầy chùa nữa, nếu không chuyện vào buồng của
một cô dâu, thì tác giả tả làm sao ra tài rồng hổ nhảy và nằm, có đâu những
chuyện lý thú? Hỡi ôi! Thi Nại Am một bậc người tài tử chân chính vậy. Trong
lòng chân chính tài tử kia, há phải thường tình mà dòm thấy được đâu? Mà hồi
này gặp Lý Trung, hồi sau gặp Sử Tiến, đều dùng một lối bút pháp, chia ra
chương pháp hai thiên, khiến độc giả thấy hai lối sự tình, hai phần cục diện,
bút lực đến thế, không thể nào nói ra cho hết.
Làm một cô gái, là một sự đùa, đã làm đùa hòa thượng tự Ngũ
Đài Sơn mà dẫn tới đây, khi đã thành hòa thượng xuống núi, lại làm một cô gái,
lại từng phen đóng vai đùa chơi, hỡi ôi! Con gái chẳng phải con gái, Lỗ Đạt
không ngờ; đùa với chẳng đùa, Lỗ Đạt đâu ngờ trước được? Hòa thượng chẳng ra
hòa thượng, Lỗ Đạt cũng không ngờ, cho đến lên non với xuống non, Lỗ Đạt đều
không biết nữa? Chỉ biết rằng: Gặp rượu thì uống, thấy việc thì làm, gặp yếu
thì bênh, gặp mạnh (dữ) thì đả, như thế mà thôi, chứ có biết đâu bỗng nhiên làm
hòa thượng, bỗng nhiên làm cô dâu, ngày trước bỡn mà lên núi, ngày nay xuống
núi, cũng bỡn mà ra.
Lỗ Đạt với Võ Tòng hai chuyện, trong ý tác giả, viết cách
nhau để đối với nhau, cho nên chép chuyện, cũng nhiều chỗ giống nhau mục đích,
như Lỗ Đạt cứu nhiều cô gái, Võ Tòng giết nhiều cô gái? Lỗ Đạt say rượu phá Kim
Cương, Võ Tòng say rượu đánh mãnh hổ; Lỗ Đạt đánh chết Trấn Quan Tây, Võ Tòng
đánh chết Tây Môn Khánh; Lỗ Đạt ở chùa Ngõa Quan thử thiền trượng, Võ Tòng ở
núi Ngô Công thử giới đao; Lỗ Đạt đánh Chu Thông, vừa say vừa có bổ phận, Võ
Tòng đả Tưởng Môn Thần, cũng vừa say vừa có bổn phận; Lỗ Đạt lên núi Đào Hoa, lấy
lén tửu khí, nhảy xuống núi đi, Võ Tòng lên lầu Uyên Ương, lấy lén tửu khí nhảy
xuống thành đi... đều một mục đích mà làm ra độc giả chẳng phải chẳng biết.
Còn có chi tiêu, phải lấy lén đồ dùng, cần phải trốn đi, phải
nhảy liều xuống núi, người đời cho rằng: Đường đường một đấng trượng phu, sao đến
nỗi lấy lén của dùng nhảy xuống núi trốn? Xét ra một xử sự này, thì đường đường
trượng phu, có ngại gì lấy lén của dùng, và nhảy xuống núi trốn, càng thấy Lỗ Đạt
đạt lý khác thường, xem một hồi này, thấy Lỗ Đạt làm hòa thượng, nên rằng từng
chỗ nhận ra, như ngồi ở trong trướng cô dâu, và nhảy xuống bãi cỏ ở núi, sáng
suốt nhận ra làm một người như thế, thực là kỳ diệu không thể nói hết được ra.
Lỗ Đạt lấy lén tửu khí, rồi trốn luôn đi, tiếp tả luôn những
lời của hai người Lý, Chu chia của, đại nhân với tiểu nhân thế nào, dù đàn bà
con trẻ xem tới, cũng thấy rõ ra, tác giả tả ra thấy hết thần diệu.
Ở đời đại nhân làm việc đại nhân, tự biết rằng thiên hạ đời
sau xét tới; tiểu nhân làm việc tiểu nhân, chỉ cần tự trong mồm khôn khéo nói
ra, dù chơi với đồng bói, cũng thò tay mặt đặt tay trái, để giữ lấy phần, xem ở
việc Lỗ Đạt lấy lén của, và Lý, Chu chia của, chẳng thấy thú ư?
Hồi 5:
Rừng Xích Tòng, Cửu Văn Long ra oai,
Chùa Ngõa Quan, Lỗ Trí Thâm phóng lửa.
Lỗ Trí Thâm từ khi bước chân khỏi núi Đào Hoa một mình mải miết
đi từ sáng đến trưa có tơi năm sáu mươi dặm đường, trong bụng đã hơi hơi đói,
muốn tìm vào một hàng quán ăn cơm, nhưng trông xung quanh không thấy. Chợt đâu
nghe có tiếng leng keng gần đó, chàng liền đoán chắc là tất có chùa chiền cung
quán chi đây; liền vơ vẫn loanh quanh tìm kiếm, vừa qua một cái sườn núi kia,
chợt trông thấy có một khu rừng thông lớn, lại có một con đường núi đi vào.
Chàng ta theo con đường núi ấy, được chừng nửa dặm, ngẩng trông lên thì thấy có
một cái toà chùa cũ kỹ tồi tàn, bị gió thổi rung rinh ở đó. Lại gần tới cổng,
có treo một bức biển sơn son thiếp vàng đề ba chữ "Chùa Ngõa Quan",
đã mờ cũ rích. Chàng lại đi mươi bước nữa, qua một cái cầu đá con vào đến cửa
Tam Quan, thì thấy cánh cửa không có, mà vắng ngắt vắng tanh không ai cả. Chàng
lấy làm ngạc nhiên, "một chùa lớn mà sao bỏ tồi tàn như thế? "Liền lững
thững đi vào phương trượng thì thấy ngổn ngang bẩn thỉu, toàn là cứt chim, mà
khóa cửa thì chăng toàn tơ nhện.
Bấy giờ Trí Thâm lấy thiền trượng đập xuống đất mà kêu lên rằng:
- Có ai trong ấy cho sư tôi vào trọ.
Chàng kêu đến mấy tiếng đồng hồ, cũng không thấy ai thưa, bèn
lững thững đi mãi cho vào đến bếp. Vào thấy nồi niêu không có, đầu rau đầu lóc
cũng không, vắng ngắt như chùa Bà Đanh vậy. Trí Thâm bèn cởi khăn gói ra để xuống
trước mặt bàn thờ Giám Trai Sứ Giả, rồi xách cây trượng đi lùng khắp cả mọi
nơi.
Khi đến đằng sau chùa, thấy một gian nhà cỏ, có mấy vị sư già
đương ngồi, trông mặt người nào người ấy vàng vọt xanh xao, bất thành hình thể.
Trí Thâm liền quát lên rằng:
- Các sư ở đây vô lý quá, tôi gọi mãi sao không ai thèm trả lời
cả?
Lũ sư ấy tay vẫy mà bảo rằng:
- Chớ nói to.
Trí Thâm nói:
- Tôi là sư nhà chùa ở xa đến đây, có việc gì mà sợ?
- Chúng tôi ba hôm nay không có hạt cơm nào vào bụng, còn lấy
đâu mà đãi người.
- Tôi ở tận Ngũ Đài Sơn sang đây, nếu có cháo lão gì, cho tôi
một bát cho đỡ đói vậy.
- Người qua đến đây, lẽ ra chúng tôi phải thiết cơm là phải,
người ngặt vì trong chùa chúng tôi các sư bỏ đi mất cả, không còn có một hột
lương nào, cho nên chúng tôi cũng phải nhịn đói đến ba hôm rồi đấy.
- Các sư nói lạ? Một cảnh chùa to thế này, mà lại không có
lương thực hay sao?
- Đây vẫn đã đành không phải một cảnh tầm thường, nhưng mới
đây bị một ông hòa thượng, dẫn một người đạo nhân đến phá hoại mất cả, rồi đuổi
những chúng tăng đi, duy còn mấy chúng tôi già yếu, cho nên chịu nằm chết đói ở
đây mà thôi.
- Không có lẽ một ông sư với một đạo nhân, thì làm sao được?
Sao các sư lại không lên quan mà tố cáo tội họ?
- Người không rõ, ở đây xa phủ xa huyện, quan quân cũng không
cấm nổi họ, cho nên chỉ đánh giết ức người ta, hiện bây giờ đương ở đằng sau
phương trượng đó.
- Tên tuổi họ là gì?
Ông sư đó tên là Thôi Đạo Thành, pháp hiệu Sinh Thiết Phật,
còn đạo nhân tên là Khưu Tiểu Ất, hiệu là Phi Thiên Đích Thoa, hai người ấy chẳng
qua là mượn tiếng nhà chùa, che mắt thế gian để cướp bóc thế thôi.
Trí Thâm đương nghe chuyện, thì thấy có mùi thơm thoang thoảng
liền vác trượng đi đến lối sau, chợt thấy trên bếp có cái nồi đậy lá, hơi nước
bốc lên ngùn ngụt, bèn mải mốt cất lên để xem, thì té ra cháo đương hầm ở đó.
Trí Thâm cả giận mắng rằng:
- Các sư tệ quá, vừa rồi nói rằng: Ba hôm nay không được ăn,
sao mà nồi cháo ở đó? Người tu hành mà dám ăn không nói có như thế sao?
Lũ sư thấy vậy thì luống cuống kêu cứu, rồi vội vàng vác bát
vác thùng đến mà cướp cháo đi.Trí Thâm không biết làm sao được, nhìn quanh nhìn
quẩn thấy một cái chậu vỡ bỏ ở bên cạnh bếp, liền chạy vào nhặt nắm lá lau sạch
cái chậu rồi bưng nồi cháo mà trút tuộc cả vào đấy. Các sư kia chạy đến tranh
múc, thì bị Trí Thâm đá lộn cả ra ngoài, rồi vừa bưng chậu cháo lên, vừa hút
sùm sụp. (soàn soạt).
Lũ sư thấy vậy phàn nàn rằng:
- Nhịn đói ba ngày trời, nay mới kiếm được mấy hột gạo nấu
cháo, mà người ta lại ăn cả như thế, thì thực khổ cho chúng tôi.
Trí Thâm vừa húp được mấy húp, nghe thấy các sư phàn nàn như
thế, liền đặt xuống mà không ăn nữa.
Chợt ở phía ngoài có tiếng hát nghêu ngao, Trí Thâm bèn lau
tay sạch sẽ, cầm lấy cây trượng, chạy xoăn xoăn ra chỗ tường thủng để nom, thì
thấy một đạo nhân gánh một cái gánh, một bên có cái rổ thò con cá ra ngoài và
có gói thịt để ở trên, còn một bên là bình rượu đậy cái lá sen cẩn thận. Đạo
nhân vai thì gánh, miệng thì lên bổng xuống trầm, vừa đi vừa hát rằng:
"Đấy đông, đây ở bên tây,
Đấy thì không vợ, đây nay không chồng.
Con trai không vợ đã xong
Con gái không chồng buồn lắm em ơi!"
Bấy giờ lão sư cũng ở trong đổ xô ra, lấy tay trỏ mà bảo Trí
Thâm rằng:
- Người đạo nhân ấy chính là Phi Thiên Đích Thoa đó.
Trí Thâm nghe nói liền vác gậy chạy theo sau đạo nhân, đạo
nhân không biết, cứ xăm xăm đi vào tường phía sau phương trượng, Trí Thâm lẻn
vào thì có một cái bàn, kê dưới gốc cây hòe, trên bàn mấy món đồ ăn, ba cái
chén ba đôi đũa, một vị hòa thượng to béo ngồi ở giữa, một người con gái trẻ ngồi
bên, còn một bên thì đạo nhân, đặt gánh rồi ngồi ở đó. Khi ấy hòa thượng trông
ra thấy Lỗ Trí Thâm, giật mình đứng dậy nói rằng:
- Xin mời sư huynh ngồi chơi một thể uống rượu cho vui.
Trí Thâm giở thuyền trượng ra, mà bảo nhà sư kia rằng:
- Sao nhà ngươi lại dám phá hoại chùa chiền đây như thế?
- Xin sư huynh đây hãy bớt giận, ngồi chơi tiểu tăng kể chuyện
người nghe.
Trí Thâm trợn mắt hỏi:
- Chuyện sao, ngươi nói mau?
- Nguyên trước chùa đây vẫn là sang trọng, mà ruộng đất cũng
nhiều, sau chẳng may bị lũ sư già, đương ngồi dưới chùa kia, chỉ uống rượu nuôi
gái, sư cụ cấm họ không nổi, rồi họ tức mình đuổi cả sư cụ đi. Bởi thế chư tăng
bỏ đi mất cả, còn chùa chiền ngày một tan hoang, ruộng đất cũng không còn nữa,
hiện nay tiểu tăng cùng đạo nhân này đến đây, là cốt mong để sửa lại đó mà
thôi.
- Vậy thì người đàn bà nầy là thế nào? Mà lại uống rượu ở
đây?
- Thưa sư huynh người đàn bà nầy là con gái ông Vương Kim Hữu
ở làng gần đây, nguyên trước ông ta bố thí vào chùa rất nhiều, nay chẳng may
nhà cửa sa sút, mà chồng nàng lại bị đau ốm, cho nên nàng phải chạy sang đây
vay gao. Vì thế chúng tôi cũng nghĩ đến công đức ngày xưa, mà mời xơi chén rượu,
chứ không có điều chi khác cả, xin sư huynh đừng có nghe lũ súc sinh kia, họ
thêm đặt nói càn dở lắm.
Trí Thâm thấy nhà sư nói năng ra vẻ thực thà, cẩn thận thì
cũng hơi có lý, thì lại xăm xăm vác gậy mà quay sang lối nhà bếp, để đi tìm lũ
sư già.
Bấy giờ lũ sư già vừa mới ăn cháo xong còn ngồi ở đó, Trí
Thâm hằm hằm đi đến trỏ vào mặt mà nói rằng:
- Té ra chính lũ các anh phá hoại chùa nầy, thế mà các anh
còn nói dối ta đó.
Lũ sư già cả kinh nói rằng:
- Chết nỗi! Sư huynh chớ nghe lão sư ấy, chính lão ta đương
nuôi người con gái ở trong chùa ấy. Vừa rồi sư huynh đến nơi mà họ không dám
làm gì, là vì họ trông thấy khẩu giới đao, và cây thuyền trượng, mà trong tay họ
không sẵn khí giới đấy thôi, không tin sư huynh thử đến lần nữa xem sao? Vả
chăng bọn họ còn có thật thà chè chén như thế, chứ chúng tôi đây cháo cũng
không có mà ăn, còn lấy đâu mà phung phí.
Trí Thâm nghe nói, cho là bọn này nói phải, liền mải mốt vác
trượng đến chỗ cũ xem sao? Quả nhiên khi tới nơi thì cửa đã đóng chặt, không
sao mà mở ra được.Trí Thâm cả giận lấy chân người đạp một cái, tung hẳn cửa ra
rồi bước thẳng vào.
Bấy giờ Sinh Thiết Phật Thôi Đạo Thành, thấy Trí Thâm vào, liền
chống thanh đao từ dưới gốc cây hòe hiện ra để chống cự.
Trí Thâm thét lên một tiếng rất to giơ trượng lên đánh, đôi
bên địch nhau có tới 14, 15 hiệp, bên kia Thôi Đạo Thành biết thế không thể địch
nổi, chỉ che đỡ quanh co thừa cơ chạy thoát, Khưu Đạo Nhân thấy vậy, liền vác
đao xông ra đằng sau Trí Thâm để đánh.
Trí Thâm nghe có tiếng người chạy ra đằng sau, liền quay lại
nom thấy Đạo Nhân thì quát lên " Được " rồi lại múa gậy đánh nhau với
cả hai người, có tới 10 hiệp nữa.
Bấy giờ Lỗ Trí Thâm vừa phần trong bụng đương đói, vừa phần
đường sá mệt nhọc, lại vừa phần đối địch với hai người đương sức, thì khó lòng
mà thắng được, liền thừa cơ quay trượng đỡ lui trở ra.
Hai người kia vác đao đuổi đến cổng ngoài, Trí Thâm quay lại
đánh nhau mấy hiệp nữa, rồi chạy, hai tên kia lại đuổi mãi đến Cầu Đá mới thôi.
Trí Thâm chạy được quãng xa, thì tinh thần đã hơi yên định, thì chợt nghĩ đến
cái khăn gói còn để ở chỗ bàn thờ Giám Trai Sứ Giả, nếu không lấy được, thì tất
là nguy hiểm đến nơi, mà nếu trở lại thì khó lòng mà sống thoát được, với hai
tay ấy.
Chàng vừa nghĩ vừa đi lững thững qua mấy dặm đường, đến một
khu rừng lớn, trông rất rậm rạp gớm ghê, liền đứng dừng lại để xem. Chợt trông
thấy có người nom dòm, ở trong rừng mà khạc ra một tiếng to, rồi lại đi ngoặt
trở vào; Trí Thâm thấy vậy, liền tự nghĩ một mình rằng:
- Thằng cha này có lẽ nó nấp nom để cướp bóc ở đây, nhưng nom
thấy ta là nhà sư thì chả ăn thua gì, cho nên khạc nhổ đây hẳn? A được! Ta
đương bực xả trong mình, nó gặp ta thì hay lắm, để ta vào thử xem sao?
Nghĩ xong vung cây trượng đi thẳng vào trong rừng, quát to
lên mà hỏi rằng:
- Thằng nào ở trong rừng ấy ra đây!
Anh chàng nọ ở trong rừng nghe thấy tiếng hỏi, thì cả cười mà
bảo rằng:
- Ta đã im tiếng, thế mà nó lại còn tìm đến ta à? Được lắm!
Nói xong vác đao sồng sộc đi ra, rồi cũng quát lên rằng:
- Thằng kia! Mầy tất chết, tự nhiên vô cớ thế, mà mầy tìm đến
tao, chứ tao không tìm đến mầy nhé!
Trí Thâm nge nói liền vác trượng xông vào đánh, mà nói rằng:
- Rồi mầy sẽ biết tay tao.
Bên kia cũng đưa đao ra đỡ, song lại hơi có ý rụt rè mà bảo rằng:
- Tôi nghe tiếng nhà sư quen lắm, không biết rằng tên họ là
chi?
Trí Thâm cáu lên mà nói rằng:
- Ta hãy đấu với ngươi 300 hiệp đã, rồi hãy nói tên.
Anh kia cũng phát giận, múa đao đánh luôn không nể, đôi bên
đánh nhau độ 10 hiệp, thì anh kia kêu lên rằng:
- Hãy khoan, tôi nói câu này đã.
Nói xong hai người cùng nhảy xa nhau, rồi anh chàng kia lại hỏi:
- Anh tên họ là gì, tôi nghe tiếng quen lắm, anh hãy nói cho
nghe.
Bấy giờ Trí Thâm kể đến tên họ cho anh kia nghe, anh kia liền
vất đao xuống đất vái chào mà nói rằng:
- Quan bác có nhận được Sử Tiến đây không?
Trí Thâm nghe nói cả cười mà bảo rằng:
- Tưởng là ai; té ra Sử Đại Lang đấy à?
Đoạn rồi vái chào Sử Tiến, và hai người cùng dắt vào rừng mà
nói chuyện.
Trí Thâm hỏi:
- Từ khi ở Vị Châu tương biệt, rồi quan bác đi đâu thế?
Sử Tiến đáp:
- Hôm đó từ biệt với ngài, rồi nghe nói hôm sau ngài đánh chết
Trịnh Đồ, mà đảng công sai lại dò hỏi có tình nghi cho tôi, vậy phải bỏ đất Vị
Châu mà sang Diên An Phủ. Bất đồ đi tới Diên An không gặp sư phụ tôi ở đó, lại
đành phải sang Bắc Kinh, ở được ít lâu, thì tiền lương cạn hết, nên phải đến
đây kiếm lợi. Còn về chuyện quan bác thì sao?
Trí Thâm liền kể đầu đuôi chuyện mình, nói cặn kẽ cho Sử Tiến
nghe.
Sử Tiến nghe nói biết rằng Trí Thâm hiện chưa có cơm ăn, liền
đem thịt khô bánh nướng đưa cho Trí Thâm ăn mà bảo rằng:
- Ăn xong ta sẽ vào chùa mà lấy khăn gói về, bằng lũ kia có
ngăn trở thì ta kết quả ngay cho nó một lượt là xong.
Trí Thâm gật gù khen phải, liền cùng ngồi ăn bánh với Sử Tiến.
Khi ăn uống xong, hai người đều mang theo khí giới đi thẳng đến chùa Ngõa Quan.
Vừa tới chỗ cầu Đá, đã thấy Thôi Hòa Thượng và Khưu Đạo Nhân còn ngồi ở đó. Trí
Thâm liền quát lên rằng:
- Chúng bây đến đây, bây giờ ta quyết sống mái với chúng bây
một phen.
Thôi Hòa Thượng nghe nói thì cười mà đáp rằng:
- Ngươi chính là đứa bại tướng trong tay ta, thế mà dám về
đây nữa à?
Nói vừa dứt lời, thì Trí Thâm đã múa trượng xông lên cầu đẻ
đánh, bên kia hòa thượng cũng chạy xuống múa đao để đỡ. Bấy giờ Trí Thâm vừa phần
có Sử Tiến đi đón, lại vừa phần bụng đã hơi no, cho nên tinh thần khí lực hăng
hái hơn trước, anh kia không thể nào địch nổi được nữa.
Đánh nhau độ 8, 9 hiệp, Thôi Hòa Thượng nghe thế hơi núng,
toan giật lùi để kiếm đường mà tháo. Bấy giờ Khưu Đạo Nhân thấy vậy liền múa
đao ra đánh cứu Thôi Hòa Thượng, bất đồ bên này Sử Tiến đương đứng nấp ở gốc
cây, nhảy bổ ra thét lên rằng:
- Đánh chết hai thằng nầy đi.
Nói xong múa đao đến đanh Khưu Đạo Nhân, Trí Thâm được Sử Tiến
ra giúp, gắng sức thét lên một tiếng, rồi vung tay đánh cho Thôi Hòa Thượng một
thuyền trượng ngã lăn xuống cầu. Khưu Đạo Nhân thấy hòa thượng bị ngã, thì
trong bụng hơi núng, không có ý ham đánh, liền thừa cơ toan nhảy ra để chạy, bất
đồ bị Sử Tiến thét lên, đâm một nhát vào lưng ngã lăn xuống đất. Đằng kia Trí
Thâm thấy hòa thượng bị ngã lăn xuống cầu, thì mải mốt chạy theo, đánh xuống
cho mấy gậy nữa, chết cứng ra đấy mới thôi.
Mới hay:
Những quân tàn ác trên đời,
Mình làm mình chịu tội trời ai mang?
Gươm hùng còn vết sáng choang,
Nghìn thu khiến kẻ vô lương kinh hồn!
Bấy giờ Trí Thâm cùng Sử Tiến trói hai cái xác vô lương kia vất
xuống khe núi, rồi hai người cùng đi vào chùa, thẳng xuống dưới bếp lấy tay nải,
khoác lên vai mà quảy ra đi, tìm vào chỗ gốc cây hòe trước.
Khi vào tới nơi thì người đàn bà lúc nãy đã đâm đầu xuống giếng
tự tử. Đoạn hai người đi lần vào tới một chỗ 7, 8 gian nhà bỏ không vắng vẻ,
thì chỉ thấy mấy đống xống áo vất lung tung ra ờ giường. Sử Tiến giở gói ra
xem, thấy toàn thị áo xiêm vàng bạc ở trong, bèn chọn lấy một gói cẩn thận, rồi
quay vào gian bếp ở đây, lục lấy cá thịt và mọi thứ đem ra nấu nướng ăn uống với
nhau.
Ăn uống xong rồi, hai người đem lửa ra đốt cháy chùa Ngõa
Quan, làm sáng rực góc trời, vì sơn tự tồi tàn, bị những ác tăng lui tới làm bậy,
nên đốt bỏ không tiếc, rồi hai người kéo nhau ra ngoài, mỗi người một gói,
khoác lên vai, đi khỏi sơn tự.
Đêm khuya nước thẳm non sâu,
Thanh gươm cây trượng biết đâu là nhà?
Hai người lần mò suốt đêm hôm ấy, mãi tới lúc trời tảng sáng
mới đến một nơi xóm làng kia, liền tìm vào một tửu điếm ở bên cầu để trọ, khi
vào tửu điếm liền sai tửu bảo đem rượu thịt lên, hai người ngồi đánh chén nói
chuyện với nhau.
Ăn uống xong rồi, Trí Thâm hỏi Sử Tiến:
- Bác định đi đâu bây giờ?
- Tôi bây giờ có lẽ lại phải về Thiếu Hoa Sơn ở với đám Chu
Vũ, Dương Xuân ít bữa, rồi thế nào sẽ liệu về sau.
Trí Thâm nghe nói, liền mở khăn gói, lấy ít đồ vàng bạc đưa
thêm cho Sử Tiến, rồi trả tiền hàng mà cùng nhau ra đi. Ước chừng dăm bảy dăm
đường, mới tới một nơi ngã ba gần đó, Trí Thâm đứng dừng lại bảo Sử Tiến rằng:
- Đến đây là nơi chia bước, tôi sang Đông Kinh lối này, mà
bác về Thiếu Hoa Sơn lối ấy, vậy sau đây nếu có cơ hội gì, ta sẽ thông tin cho
nhau cùng biết.
Sử Tiến liền bái biệt Trí Thâm, rồi mỗi người chia tay một ngả.
Cho hay là kiếp giang hồ,
Nay tan mai hợp hẹn hò biết đâu?
Từ khi Lỗ Trí Thâm chia tay cùng Sử Tiến, rồi đi 7, 8 ngày đường
nữa mới tới Đông Kinh, liền hỏi thăm vào chùa Đại Tướng Quốc, để đưa thư lên yết
kiến sư cụ.
Khi vào tới chùa, Tri Khách Tăng, trông thấy Trí Thâm mặt mũi
hung tợn, vác một cây thuyền trượng bằng sắt, đeo một thanh giới đao, khoác một
khăn gói rất lớn, trong bụng đã gờm gờm kinh sợ liền hỏi:
- Sư huynh ở đâu tới đây?
Trí Thâm đặt khăn gói thuyền trượng xuống, rồi vái chào mà
nói rằng:
- Tôi ở Ngũ Đài Sơn có giấy của sư cụ Trí Chân tôi gửi sang,
để xin việc sư cụ ở đây!
- Nếu có giấy của sư cụ Trí Chân, thì xin mời sư huynh vào
trong phương trượng.
Nói đoạn dẫn Trí Thâm vào phương trượng.
Tới nơi Trí Thâm cổi khăn gói lấy bức thơ ra cầm ở tay để đợi
sư cụ đến. Tri Khách Tăng thấy vậy, bảo Trí Thâm rằng:
- Bây giờ sư cụ đã sắp đến, sao sư huynh không cởi bỏ giới
đao ra, mà cầm hương ở tay cho có phép.
Trí Thâm nghe nói mới mải mốt cởi giới đao ra, để vào một chỗ
lấy hương ra đốt cầm ở tay mà đứng đợi. Khi sư cụ Trí Thanh đến phương trượng,
Tri Khách Tăng liền đưa Trí Thâm đến trước mặt bảo quỳ xuống mà đưa thư lên. Sư
cụ cầm lấy thư, bốc ra xem thấy trong thư kể đầu đuôi công việc Lỗ Trí Thâm, và
xin thế nào cũng cho một việc làm ở trong chùa đó.
Sư cụ Trí Thanh xem thư xong, quay ra bảo Trí Thâm rằng:
- Nhà sư hãy ra nghĩ ờ tăng đường ăn cơm nước đã.
Trí Thâm nghe nói lạy tạ sư cụ, rồi vác khăn gói và giới đao,
thuyền trượng, theo đạo đồng đi ra tăng đường.
Bấy giờ sư cụ Trí Thanh cho gọi chư tăng, đến tất cả phương
trượng mà đem tình ý trong thư, và nguyên ủy chuyện Trí Thâm, thuật kỹ cho chư
tăng nghe và nói:
- Việc nầy nếu ta không nhận, tất là không tiện với sư huynh
Trí Chân, mà nếu nhận ra thì làm sao cho ổn? Trong thư sư huynh kể hết lỗi của
Trí Thâm, khi còn ở Kinh Lược thì giết người như ngóe, đến khi xuất gia tu
hành, thì lại say sưa rượu chè, mấy phen náo động chúng tăng, nhưng lại dặn đi
dặn lại nhờ ta thế nào cũng phải thu nạp mới xong, vậy thì các ngươi định sao?
- Cứ như con xem dáng anh ấy, không có chút gì ra vẻ tu hành
hết thẩy, như vậy thì chùa ta dung làm sao được?
Đô Tự lại nói:
- Chúng con thiết nghĩ: Hiện nay ở nhà Giải Vũ ngoài cửa Toan
Tảo, có một khu vườn rau của nhà chùa, xưa nay thường bị đám quân lính ở trong
dinh, cùng hai mươi mấy đứa vô loại ở đây quấy nhiễu đuổi dê ngựa ra phá hoại
cũng nhiều, nhà sư già ở đây khó lòng mà giữ nổi. Vậy bất nhược sư cụ sai người
này đến ở đấy, thì có lẽ được việc chăng?
Sư cụ Trí Thanh khen phải, liền cho người xuống tăng đường,
triệu Trí Thâm lên. Khi Trí Thâm cơm nước vừa xong, thì đã thấy đạo đồng đến gọi,
liền mải mốt lên hầu sư cụ.
Lên tới phương trượng, sư cụ gọi Trí Thâm đến mà bảo rằng:
- Ta vâng lời sư huynh bên ấy giới thiệu, cho ngươi sang đây
để làm việc, vậy hiện nay chùa ta có một vườn rau lớn ở bên kia nhạc miếu ngoài
cửa thành, ta cho ngươi ra đấy coi giữ, cứ mỗi ngày bắt đám trồng vườn, phải nộp
vào đây mười gánh rau, bao nhiêu thì để cho ngươi chi dụng, ngươi nghĩ sao?
Trí Thâm nói:
- Sư cụ cho tôi sang đây, sao người không cho tôi một chức Đô
Thủ, Giám Tự gì, mà lại bắt tôi làm đứa coi vườn như thế?
Bấy giờ một vị sư đứng bên cạnh đỡ lời sư cụ rằng:
- Sư huynh không biết! Sư huynh mới đến đây chưa có công lao
gì, đã làm chức Giám Tự, Đô Thủ sao được?
- Đành vậy, nhưng tôi không muốn làm anh coi vườn, dẫu chót nữa
cũng làm chức Đô Thủ, Giám Tự thì mới thích.
- Sư huynh ở đó một năm có khá, thì mới được thăng làm chức
Tháp Đầu, rồi một năm nữa có khá, mới thăng Dục Thủ, lại một năm nữa có khá mới
thăng làm Giám Thị.
Trí Thâm gật đầu nói:
- Nếu quả có ngày xuất thân được, thì tôi cũng chịu khó làm vậy.
Sư cụ thấy Lỗ Trí Thâm đã ưng thuận liền lưu ở phương trượng,
rồi sai người viết bảng yết thị ra ngoài Giải Vũ để hôm sau bàn giao công việc.
Sáng hôm sau sư cụ viết thiếp pháp giao cho Lỗ Trí Thâm rồi
sai hai nhà sư, đưa ra vườn sau ngoài Giải Vũ gần nơi cửa thành.
Về phía bên tả vườn rau có 2, 3 tên du đãng cờ bạc, vẫn lẫn
khuất loanh quanh để ăn cắp rau mà nuôi thân, chợt hôm ấy sang ăn cắp rau,
trông thấy bảng yết thị: "Trong chùa Tướng Quốc sẽ cắt vị sư mới là Lỗ Trí
Thâm ra trụ trì coi giữ, bắt đầu từ ngày mai trở đi, cấm không ai được ra vào đấy
nữa". Liền tụ nhau lại mà bàn định rằng:
- Lão sư này mới đến, tất phải làm cho nó một trận rất kịch
liệt, hễ thò ra là phải đánh ngay, để cho nó phục chúng ta mới được.
Trong bọn đó có anh nói rằng:
- Tôi có một cách nầy rất dịu, hắn mới đến đây, không lẽ nào
mà kéo hắn ra đánh ngay được, vậy chúng ta cứ lặng yên tử tế, dụ hắn ra cạnh
thùng phân, giả cách chào lạy tử tế, rồi chạy đến nắm cẳng dúng xuống thùng
phân, thế là nhanh nhẹn nhất.
Trong đảng nghe nói đều vỗ tay cho là phải, liền dự bị với
nhau, để đợi khi Lỗ Trí Thâm tới.
Khi Trí Thâm ra đến Giải Vũ, mang đồ hành lý và đao trượng cất
vào một phòng, rồi các người làm vườn đều đến chào hỏi, mà giao các chìa khóa
và các đồ vật cho Trí Thâm nhận lấy. Đoạn rồi hai vị sư đưa đường cho Trí Thâm,
cùng các vị sư trụ trì ở đấy trước, đều từ giã đi về mà lưu Trí Thâm ở lại.
Bấy giờ một mình Trí Thâm đi lững thững ra vườn dạo nom phong
cảnh, chợt có 2, 3 mươi người, kẻ cầm rượu người cầm rau, tươi cười hớn hở mà
nói với Trí Thâm rằng:
- Chúng tôi ở gần xóm đây, nghe tin người mới tu hành ở cảnh
chùa vậy anh em rủ nhau đến chào mừng sư phụ.
Trí Thâm nghe nói, không biết là kế thuật gì, liền bảo rằng:
- Các anh có lòng tốt đến chào, thì xin mời vào trong Giải Vũ
nói chuyện.
Khi đó hai tên đầu đảng đám kia, là Nhai Lão Thử Trương Tam,
và Thanh Thảo Sà Lý Tứ đứng gần chỗ thùng phân, sụp xuống đất lạy, và mong cho
Lỗ Trí Thâm đến đỡ dậy, là thi hành cách kia.
Lỗ Trí Thâm thấy vậy, trong lòng hơi ngờ mà nghĩ thầm rằng:
- Quân nầy lạ? Nó chào ta mà không đến gần ta, chẳng hay nó
muốn vuốt râu hùm đây chăng? Nếu vậy thì ta thử đến xem sao, rồi sẽ liệu cho một
mẻ, để nó biết tay mới được.
Nghĩ đoạn liền xăm xăm đi đến chỗ gần thùng phân. Bấy giờ
Trương Tam, Lý Tứ cả mừng nói rằng:
- Anh em chúnh tôi lại mừng sư phụ xin sư phụ chứng giám cho.
Hai anh vừa nói vừa sán gần vào, anh thì bá chân bên nọ, anh
thì bá tay bên kia, toan vật nhau xuống hố. Bất đồ hai anh chưa kịp giở chân
tay đã bị Trí Thâm đá một cái, Lý Tứ ngã xuống thùng phân trước, còn Trương Tam
co cẳng toan chạy, cũng bị Trí Thâm đá một cái nữa xuống sau, đầy sùng sục ở
trong thùng phân như bọ vậy.
Lũ kia trông thấy vậy, đều sợ hết hồn toan kéo nhau để chạy,
Trí Thâm quát lên rằng:
- Hễ đứa nào chạy là ta ném cả xuống thùng phân.
Bọn kia nghe thấy thế đều đứng im, không dám cựa quậy chi nữa.
Tấm thân trải mấy ba đào
Những phường ruồi nhặng ra vào sá chi?
Mấy phen sấm sét ra uy,
Chờ cho biết mặt Từ Bi mới là,
Rồi đây muôn dặm một nhà,
Tao phùng còn lắm phồn hoa còn nhiều
Cửa thiền gió thổi thông reo
Tòa sen ai có đợi chiều ai không!
Lời bàn của Thánh Thán:
Tôi nói trước tả hai hồi này, không muốn cho liên tiếp ở đám
bụi rừng, nhân biến ảo ra chuyện trong phòng cô dâu, để cách quãng ra vậy. Tác
giả e ngại rằng tả hai hồi xẩy chuyện liên tiếp ở trong rừng, thì phải có một hồi
với nhiều đoạn văn chẳng ở trong rừng, để cách quãng ra, đó là cái tài của tài
tử viết ra văn vậy? Nếu cứ tả hai hồi liên tiếp chuyện xẩy ra lại không một hồi
ở quãng giữa khác đi, thì đâu phải cái tài của tài tử? Xét một hồi này thấy tài
bút pháp của tác giả Thi Nại Am trước sau đều tả chuyện xẩy trong rừng, lại
khéo lánh đi, không để phạm đến nhau có xem kỹ mới biết là khéo vậy.
Ta đọc một thiên tả chùa Ngõa Quan, khôn xiết ngán ngao mà
thán phục! Hỡi ôi! Việc của thế gian, cũng như thế ư? Nại Am bỗng dưng tả ra
chùa Ngõa Quan, khiến độc giả ngàn sau đọc đến, ai không biết đến Ngõa Quan; Nại
Am lại bỗng dưng tả đốt chùa Ngõa Quan, khiến độc giả ngàn sau đọc đến, ai
không biết đến cảnh thiêu chùa Ngõa Quan? ? ? Thế mà một hồi không bao nhiêu
trang giấy, vì đâu có chuyện Ngõa Quan, lại vì đâu hết chuyện Ngõa Quan chỉ
trong phút chốc mấy đời cũng trong tấn kịch đó ư! Lại như cầm sách này để ở
trên bàn, ngồi ghế mà đọc, chỗ ngồi xem truyện với chỗ để truyện, có cách bao
xa khi xem thế bỗng dưng thấy chuyện Ngõa Quan tráo trở đến như không, thì non
sông cũng trong giấc mộng đó ư! Hỡi ôi! Đem sách của họ Đại Hùng vậy phàm nhân
đọc thì bảo rằng câu "Hương phong lăng hoa",khá đem vào thi liệu; Đem
sách Bắc Tây Sương, cho thánh nhân xem, thì bảo rằng khúc "Lâm Khứ Thu
Ba",tỉnh ngộ trùng huyền...Hỡi ơi! Bậc hiền với kẻ ngu, dụng ý khác nhau,
trong khi xem sách đã phân biệt như thế, thì sách của Thi Nại Am, cũng tùy người
mà đọc nổi vậy.
Suốt thiên này chỉ tả bước hành trình của Lỗ Đạt, mà đột
nhiên thấy Sử Tiến ở đâu bay lại, rồi đột nhiên Sử Tiến lại bay đi, chẳng phải
Lỗ Đạt sức làm không nổi, phải nhờ đến sức Đại Lang, chỉ vì trước kia ở Cao Lâu
Châu Vị, ba người chia tay, mãi đến nay đều không biết đi đâu hết cả, vừa rồi
tuy ở núi Đào Hoa, gặp được Lý Trung, song Lý Trung với Đại Lang còn kẻ trọng với
người khinh, nào phải cách nhau gang tất, thì Lý Trung đã được gặp rồi, còn Đại
Lang ở góc trời kia, đối với nước Tống mênh mông, tìm đâu cho thấy ra ngay? Huống
chi qua đây một lượt tới Đông Kinh, lại có một chuyện của Báo Tử Đầu Lâm Xung xẩy
tới nữa, nên tác giả hồi này, khéo điểm xuyết thêm, chứ không rỗi bút rỗi lòng,
cùng tả hết lượt, mà bất đắc dĩ cho hiện ra ở chùa Ngõa Quan một chút. Hỡi ôi!
Ai bảo rằng viết sử dễ dàng, như tả 108 vị anh hùng chuyện này, lần lượt diễn
ra thấy khó!
Trí Chân Trưởng Giả nói: Dù hắn có phá tới tòa Tam Bảo, lão
tăng cũng phải thôi đi...Hay thay! Đại Đức! Thực đáng gọi là sáng suốt đến tướng
phúc tội, soi thấu mười phương, khác hẳn Trí Thanh Trưởng Lão, thì nói rằng: Nếu
để hao thiệt vườn rau thì không thể được...Hỡi ôi! Lấy vườn rau làm của chùa, lấy
chúng sinh làm oan gia, con người như thế cũng đòi làm sư trong đám tu hành,
thì cũng quái thực? Xét tòa Phật Tam Bảo đối với vườn rau, thì cách nhau xa
quá, Tam Bảo Phật cũng thôi đi, thì đủ biết cái gì mà chẳng bỏ được? Nay vườn
rau cố giữ, thì Trí Thanh Trưởng Lão còn dám đi đâu một mẩy lông? Tác giả dụng
ý ở hồi này vậy, với hai việc Ngũ Đài Sơn và Tướng Quốc Tự cho hiện ra một Pháp
sư thanh lương và một quang côn náo nhiệt, cách nhau một vực một trời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét