Thứ Sáu, 3 tháng 4, 2020

Thủy hử 2

Thủy hử 2
Hồi 6:
Hoa Hòa Thượng nhổ bậc gốc thùy dương
Báo Tử Đầu toạ vào nhà Bạch Hổ
Bấy giờ Trương Tam, Lý Tứ bị Trí Thâm đá lăn vào thùng phân, đầu tóc mặt mũi bẩn thỉu be bét, toan ngóc đầu để lên, nhưng không sao mà lên được. Trí Thâm quát lũ kia mà bảo rằng:
- Chúng bây túm vào lôi hai đứa ấy lên, thì ta tha cả cho.
Lũ kia vâng lời, chạy ra lôi hai anh em nọ lên, anh nào anh nấy hôi hám dơ bẩn, không sao mà chịu được. Trí Thâm trông thấy bật cười mà bảo rằng:
- Bây hãy đi tắm rửa sạch sẽ, rồi vào đây ta bảo.
Trương Tam, Lý Tứ liền đi ra cái ao gần đấy, tắm rửa xong rồi, anh em đưa quần áo khác, cho mặc vào hầu sư.
Bấy giờ Trí Thâm gọi tất cả vào trong Giải Vũ mà bảo rằng:
- Lũ nhãi con, sức chúng bây được bao nhiêu, mà dám đến đây xấc láo với ta.
Lũ Trương Tam, Lý Tứ quỳ xuống mà kêu rằng:
- Bẩm sư phụ, chúng con từ đời ông cha ở đây đã lâu, xưa nay chỉ cờ bạc kiếm ăn, cái vườn này tức là cơm áo của chúng con đó. Trước đây chùa Đại Tướng Quốc đã mấy phen sai người đến cấm đoán chúng con không được, ngày nay sư phụ đến đây, thực chúng con chưa được biết uy ngài, xin ngài tha tội cho.
Trí Thâm nói:
- Bây không biết, ta đây là Đề Hạt phủ Kinh Lược Diên An khi trước, chỉ vì giết người nhiều quá, cho nên mới tình nguyện đi tu. Ta chính là nhà sư Lỗ Trí Thâm ở Ngũ Đài Sơn, mới đến đây vậy. Bây phải biết trong đám muôn quân ngần ngựa, ta đây cũng ra vào đánh giết như chơi, huống chi lũ trẻ nhép chúng bây, độ vài mươi đứa thì đã thấm vào đâu. Từ nay phải liệu hồn mới được.
Lũ kia vâng dạ, rồi lạy tạ ra đi, ngày hôm sau tụi Trương Tam, Lý Tứ bàn định với nhau mua được bình rượu, mổ một con lợn đem đến Giải Vũ để mời đãi Trí Thâm.
Bấy giờ Trí Thâm ngồi giữa, tụi kia ngồi làm hai bên hầu rượu, Trí Thâm liền hỏi:
- Các anh bày biện làm chi thế này thêm tốn?
Lũ kia nói:
- Chúng con nay nhờ được có sư phụ ở đây, xin người làm chủ để dạy bảo cho, có chi mà ngại tốn.
Trí Thâm nghe nói cũng hơi hả lòng, cất chén cùng bọn Trương Tam, Lý Tứ cũng uống rượu cho vui. Khi chén đã ngà say rồi, kẻ thì vỗ tay, kẻ thì nói chuyện, kẻ thì nghiêng ngả vui cười rất là huyên náo.
Chợt nghe có kêu tiếng oa oa ở ngoài, lũ kia liền lắng tai nghe, rồi bảo nhau rằng:
- Điều lành thì ở, điều dữ thì đi.
Trí Thâm nghe nói không hiểu đầu đuôi ra sao liền hỏi:
- Các anh nói câu gì thế?
- Bẩm ngài, ở ngoài kia có tiếng quạ kêu, e khi lại có sự khẩu thiệt gì chăng?
Khi đó có người làm vườn cười mà nói rằng:
- Khẩu thiệt gì? Trên cây dương liễu ở góc tường kia, có một tổ quạ mới làm, nó kêu suốt ngày như thế đấy.
Chúng nghe liền bàn với nhau rằng:
- Nếu thế thì ta vác thang ra phá cái tổ quạ ấy đi cho rảnh.
Nói xong đứng dậy cùng đi ra ngoài vườn, Trí Thâm bấy giờ đã chếnh choáng hơi men, thấy chúng đứng dậy, thì cũng cao hứng chạy ra xem chơi.
Khi ra tới nơi quả nhiên thấy trên cành dương liễu có một tổ quạ rất to, chúng liền kẻ thì toan lấy thang để trèo, vói lên để bẻ. Trí Thâm không đợi chúng, bèn hăm hăm đi đến gốc cây, cởi phăng áo ra, tay hữu với xuống nắm dưới gốc cây dương liễu, tay tả giơ lên nắm về phía trên, rồi xoay lưng vặn đi một cái thật manh, nhổ cây lẫn gốc lên như chơi.
Chúng thấy vậy, sụp lạy cả xuống một lượt mà kêu rằng:
- Sư phụ thực là La Hán hiện thân không ai có sức mạnh được như thế!
Trí Thâm cười đáp rằng:
- Thế đã thấm vào đâu, để hôm nào ta diễn võ cho các anh xem.
Nói đoạn lại cùng vào uống rượu đến chiều mới tan.
Từ đấy trở đi chúng càng khâm phục Trí Thâm, cứ hàng ngày lại đem rượu thịt mời Trí Thâm ăn uống, rồi lại xem diễn võ đánh quyền.
Cách ít lâu Trí Thâm thấy chúng thiết đãi luôn, mà không trả lại bữa nào thì không tiện, liền sai người mua dê lợn rượu và các thức hoa quả về để thiết đãi lũ kia, hôm ấy đương vào dạo tháng ba, khí trời bức nóng, Trí Thâm bèn sai trải chiếu dọn rượu ở dưới gốc cây hòe, mà mời bọn kia đến quây quần đánh chén.
Khi ăn uống đã no say,chúng nói với Trí Thâm rằng:
- Từ khi sư phụ đến đây, anh em vẫn phục ngài là bậc vô địch ở đời, nhưng hiềm vì chưa được xem ngài diễn lại bài roi gậy bao giờ? Vậy tiện đây xin sư phụ rộng phép cho xem thì thực là may mắn.
Trí Thâm gật đầu ưng thuận, liền vào phòng lấy cây thuyền trượng dài 5 thước, nặng 62 cân ra, đưa cho chúng xem. Chúng xem đến đều kinh ngạc mà nói:
- Nếu hai cánh tay mà không khỏe bằng sức con trâu lớn, thì vác làm sao nổi cái trượng này?
Trí Thâm cầm lấy cây trượng ra chỗ rộng, múa lên đánh xuống, một lúc lâu trông vun vút như gió bay mây cuốn, anh nào anh ấy vỗ tay khen ngợi luôn mồm. Đương khi ngọn gậy xuống lên, rất khoái hoạt, thì bỗng thấy có người reo bên đường nói lên rằng:
- Gậy múa giỏi thực.
Trí Thâm nghe nói, bèn dừng tay gậy lên, rồi nom ra thấy một người, đầu đội khăn xéo xanh, đằng sau gáy cài vòng bạch ngọc, mình mặc áo chiến bào đơn, mầu lục, lưng thắt đai bạc chạm một dải lưng rùa, chân đi đôi hài mõm vuốt, tay cầm cái quạt Tứ Xuyên, đầu báo mặt tròn, râu hùm, hàm én thân cao tám thước, tuổi ngoại ba mươi, đương đứng góc tường khuyết dòm sang. Người ấy thấy Trí Thâm ngẩng cổ lên thì cười mà nói rằng:
- Sư phụ đánh gậy xuất sắc lắm, không ai bằng được.
Lũ kia nghe thấy người ấy nói, thì bảo nhau rằng:
- Giáo Đầu đã khen thì tất không phải tầm thường.
Trí Thâm quay lại hỏi chúng rằng:
- Người ấy là ai?
- Người ấy là ông Giáo Đầu Lâm Xung, dạy 80 vạn cấm binh ở Đông Kinh đó.
Trí Thâm nghe nói là Giáo Đầu liền bảo chúng rằng:
- Sao các ngươi không mời ông ấy sang đây?
Vừa nói dứt lời thì Lâm Giáo Đầu đã vượt tường sang đến chỗ Lỗ Trí Thâm đứng, chắp tay chào mà nói:
- Kính chào sư phụ, chẳng hay sư phụ ở đâu mới tới đây, pháp hiệu ngài là gì mà chúng tôi không được biết?
Trí Thâm cũng vái chào mà đáp rằng:
- Tôi là Trấn Quang Tây Lỗ Đạt mới đến tu hành ở đây, khi tôi còn nhỏ qua tới Đông Kinh cũng có được biết quan Lâm Đề Hạt sinh ra ngài ngày trước.
Lâm Xung nghe nói cả mừng liền bái kết anh em mà tôn Lỗ Trí Thâm làm đàn anh.
Trí Thâm lại hỏi Lâm Xung rằng:
- Hôm nay Giáo Đầu đi đâu mà lại tới đây?
- Thưa ngài, hôm nay nhân tôi cùng đàn bà nhà tôi đi ra lễ ở nhạc miếu gần đây, sau nhác trông thấy sư huynh múa gậy lấy làm thích mắt bèn để cho đàn bà nhà tôi đi vào miếu với con đỏ, mà lẻn ra đây để bất đồ được gặp sư huynh thực là may quá.
- Tôi mới đến đây chưa quen biết với ai, chỉ có các anh này ngày làm bạn cho vui, nay lại được Giáo Đầu có lòng chiếu cố, mà kết làm anh em, thì còn gì hơn nữa?
Nói xong lại rót rượu mời Lâm Xung Giáo Đầu cùng uống.
Vừa khi uống được ba chén, thì đã thấy đứa con hầu đỏ bừng mặt mũi đứng ở góc tường khuyết bên kia mà kêu lên rằng:
- Xin ngài đứng dậy mau, bà đương cãi nhau ở trong miếu kia.
Lâm Xung nghe nói, vội hỏi rằng:
- Cãi nhau ở chỗ nào?
- Bẩm ở trên lầu Ngũ Nhạc Miếu đi xuống, thì gặp người nào giữ lại, rồi cãi nhau ở đấy luôn.
Lâm Xung mải mốt đứng dậy vái Trí Thâm mà rằng:
- Xin sư huynh tha lỗi cho, tôi phải sang bên kia một lúc.
Nói xong nhảy tót ra bên kia tường, cùng với con hầu, đi thẳng sang lầu Ngũ Nhạc. Khi tới nơi thấy mấy người đứng dưới ở vòng bao lơn, một người thiếu niên thì đang đứng giữa thang ngăn vợ Lâm Xung lại mà bảo rằng:
- Nàng hãy lên trên lầu, để tôi nói chuyện đã.
Bấy giờ mặt mũi vợ Lâm Xung đỏ tím lại hẳn mà kêu lên rằng:
- Đương lúc thanh bình thế giới, mà dám đùa bỡn với vợ con nhà tử tế, là thế nào?
Lâm Xung thấy vậy, dùng dằng tức giận chạy lên thang lầu nắm lấy vai anh chàng thiếu niên mà giật một cái rồi bảo rằng:
- Anh dám đùa bỡn vợ con nhà tử tế, thì có đáng tội hay không?
Chàng nói xong vừa mới giơ tay toan đánh, bất đồ trông đến mặt, thì té ra chính là cậu ấm Cao, con nuôi Cao Thái Úy nhà mình, liền chùn tay lại mà không đánh nữa. Nguyên Cao Cầu mới phát tích được làm Thái Úy, mà con cái chưa có, bèn nuôi con người em là Cao Tam làm con, để sớm ngày bè bạn cho vui. Nhân thế Cao Cầu rất là yêu quý, cho nên cậu ấm cứ ỷ quyền cậy thế, mà phóng túng, chơi bời gặp vợ con ai cũng là đùa bỡn, người ta đã thường gọi là Hoa Hoa Thái Tuế xưa nay.
Khi đó cậu ấm Cao, thấy Lâm Xung dừng tay không đánh, nhưng cũng chưa biết người đàn bà ấy là vợ Lâm Xung, liền quay cổ lại mà hỏi rằng:
- Lâm Xung có việc gì đến ngươi, mà ngươi lôi thôi vào đây?
Những người ở gần đấy thấy vậy, thì xúm nhau đến khuyên giải Lâm Xung rằng:
- Thôi Giáo Đầu đừng nói nữa, cậu ấm không biết cho nên mới lỡ ra như thế.
Cậu ấm nghe tới đó mới biết là vợ Lâm Xung, và lại bị người ta khuyên giải cản ngăn, mới bất đắc dĩ, phải ra miếu lên ngựa mà về.
Lâm Xung tuy vậy trong lòng vẫn còn tức giận, trừng mắt nhìn theo cậu ấm một lúc rồi mới đưa vợ ra về.
Vừa đi tới cửa thì đã thấy Lỗ Trí Thâm tay cầm thuyền trượng, cùng với hai ba mươi tên đãng tử kia đi sồng sộc vào miếu. Lâm Xung liền hỏi:
- Sư huynh đi đâu đấy?
Trí Thâm đứng dừng lại mà đáp rằng:
- Tôi định đi đến đấy, xem đứa nào láo, thì giúp anh mà đánh cho nó một mẻ đấy.
- Có phải ai đâu, đấy là cậu ấm con quan Thái Úy, vì không biết là vợ con tôi, cho nên mới vô lễ như thế, tôi đã toan đánh cho một trận, nhưng lại sợ đối với Cao Thái Úy, có điều không tiện, cho nên phải thôi.
- Bác sợ Thái Úy nhà bác, chứ tôi sợ gì, giá tôi mà gặp nó thì hãy đãi cho nó vài trăm cái thuyền trượng này cho biết tay đã.
Lâm Xung thấy Trí Thâm hơi có dáng say, liền cười mà đáp rằng:
- Sư huynh nói cũng phải, nhưng tôi bây giờ bị người ta can ngăn cho nên hãy tạm tha cho nó đấy.
- Nếu sau có việc gì, xin cứ đến bảo tôi, tôi sẽ đi với.
Bây giờ lũ kia thấy Trí Thâm ra bộ say sưa thì cũng gạt rằng:
- Thôi xin sư huynh hãy về, để lần sau sẽ liệu cho nó.
Trí Thâm nghe nói, liền giơ gậy lên bảo vợ Lâm Xung rằng:
- Bà chị đừng cười tôi nhé!
Nói xong bái biệt Lâm Xung, rồi cùng bọn kia, trở về Giải Vũ.
Nói về Cao Nha Nội (tức cậu ấm Cao) từ khi dẫn lũ nhân đãng đi chơi, trông thấy vợ Lâm Xung nhan sắc đẹp đẽ, lại bị Lâm Xung ngăn trở tự do, thì trong bụng sinh ra mê mẫn bồn chồn, mà khi về phủ cứ băn khoăn khó chịu.
Cách mấy hôm sau lũ nhàn hán đến hầu Nha Nội, thấy nét mặt có vẻ buồn bã, thì anh nào cũng ngờ vực, không hiểu vì lẽ làm sao, rồi lại tan cả hội họp. Duy có một tay thân mật là Cao Ô Đầu Phú An, có biết được tâm sự của Nha Nội, liền nhân khi vắng vẻ một mình, lẻn vào trong phủ mà bảo Nha Nội rằng:
- Mấy hôm nay trông nhan sắc có phần hơi kém tất là ở trong bụng có điều gì không vuui, xin Nha Nội cho tôi được biết?
Nha Nội liền hỏi:
- Tại sao mà ngươi biết?
- Bẩm tôi đoán chắc như thế hẳn.
- Vậy ngươi thử đoán xem, tại việc gì mà ta không vui?
- Bẩm có lẽ Nha Nội lại chỉ tơ tưởng về chữ "Song Mộc"mà thôi.
Nha Nội nghe nói mỉm cười mà rằng:
- Sao ngươi đoán đúng thế? Nhưng ta không biết làm cách gì được đây?
- Nha Nội tưởng có gì là khó, Lâm Xung tuy là một tay hảo hán, nhưng còn thuộc quyền Thái Úy đây, bảo sao phải nghe vậy, nếu phật ý Thái Úy, nhẹ ra thì cũng bị đày ải đi nơi xa, mà nặng ra thì mất mạng, chớ chẳng chơi đâu. Bởi thế tôi có kế này, làm cho Nha Nội, khả dĩ gặp người ấy được.
- Ta từ xưa gặp con gái cũng nhiều, nhưng chưa thấy có ai mà ta lại mê như người ấy, vì thế cho nên vẫn buồn bã không yên, nay nếu ngươi có kế gì làm cho ta gặp mặt, thì sau này ta sẽ trọng thưởng cho ngươi.
- Bẩm ngài, Lục Ngu Hầu Lục Khiêm là người tâm phúc ở trong phủ mà nhà ở liền đây, xưa nay chơi với Lâm Xung thân lắm, vậy Nha Nội chỉ nên dặn Lục Ngu Hầu mời Lâm Xung đánh chén một nơi rất kín, ở Phàn Lâu, rồi nhất diện sai người bày tiệc ở gác nhà Ngu Hầu, để Nha Nội vào nấp ở trong đó, chờ cho hai bác kia đi được hồi lâu, sẽ sai người đến nhà nói với vợ Lâm Xung, là chồng uống rượu ở nhà Ngu Hầu bị cảm nặng, chết ngất ra đó, thì tất nhiên phải đến cứu đỡ, khi tới nơi lên gác rồi, Nha Nội sẽ ở đấy mà dỗ dành ngon ngọt, là hắn phải nghe. Vả chăng đàn bà vốn Thủy Tính xưa nay, mà lại trông thấy Nha Nội trẻ trung sang trọng, như thế có lẽ nào cầm lòng cho đặng, vậy kế ấy Nha Nội nghĩ sao?
Cao Nha Nội nghĩ một lúc, vỗ tay cười mà nói rằng:
- Diệu kế! Diệu kế! Nếu vậy chiều nay ta phải tìm Ngu Hầu vào dặn bảo, rồi mai thi hành mới được.
Nói đoạn sai người sang gọi Lục Ngu Hầu sang, bảo rõ đầu đuôi cho biết. Ngu Hầu tuy chơi với Lâm Xung cũng có phần thân mật, song đến điều sở thích của Nha Nội, thì cũng phải bỏ tình bè bạn chiều chuộng cho xong, liền vâng lời về sắp sửa, để sáng hôm sau thi kế.
Lâm Xung từ khi gặp Cao Nha Nội vô lễ tới nay thì trong lòng tức giận, không muốn đi tới đâu. Chợt hôm ấy đương ngồi ở nhà, thì thấy ngoài cửa có người đến bảo rằng:
- Lâm Giáo Đầu có ở nhà không?
Lâm Xung nghe nói mải miết chạy ra xem, thì là người anh em bạn thân là Lục Ngu Hầu, liền vái chào mà hỏi:
- Ngu Hầu đi đâu đến đây thế? 
Ngu Hầu cười mà đáp rằng:
- Mấy hôm nay mong mỏi, sao mà không thấy quan bác đi chơi đâu?
- Mấy hôm nay trong bụng không được vui, nên không muốn đi đâu cả.
- Bây giờ mời quan bác sang tôi chơi, uống mấy chén rượu cho đỡ buồn đi.
- Quan bác hãy vào đây uống tạm chén nước rồi sẽ đi.
Khi uống xong rồi, hai người đứng dậy ra đi, Lục Ngu Hầu lại quay lại nói với vợ Lâm Xung rằng:
- Thưa bác tôi đoán bác trai sang nhà tôi uống mấy chén rượu, rồi đi về ngay.
Nói xong, hai người cùng ra đi vòng quanh trong phố một lát, rồi Ngu Hầu bảo Lâm Xung rằng:
- Bây giờ ta đừng về nhà nữa, cứ đến Phàn lâu đánh chén, có lẽ thú hơn.
Lâm Xung vâng lời, cùng nhau đến gác Phàn Lâu, tìm nơi tĩnh mịch để ngồi, gọi tửu bảo lấy rượu và thức nhắm lên để cùng uống.
Trong khi uống rượu, thỉnh thoảng Lâm Xung lại thở dài một tiếng, Ngu Hầu nghe thấy liền hỏi:
- Chẳng hay về việc gì mà bác thở dài như thế?
- Tôi nghĩ làm thằng con trai ở đời, tài sức chẳng kém gì ai, thế mà không gặp được người minh chủ, đành phải khuất dưới kẻ tiểu nhân, rồi lại bị người ta trêu tức, thì có khó chịu hay không?
- Hiện nay ở Đông Kinh, đã có mấy người Giáo Đầu tài sức như bác, vả quan Thái Úy cũng có lòng coi như người ta, vậy còn ai trêu tức bác được nữa?
Lâm Xung liền đem chuyện Cao Nha Nội ở Nhạc Miếu hôm trước, nói cho Ngu Hầu nghe, Ngu Hầu nghe nói, liền gạt đi rằng:
- Tưởng chuyện chi, cứ như việc ấy chắc là Cao Nha Nội không biết, cho nên mới lỡ ra thế thôi, có việc gì mà bác lo nghĩ cho phiền! Ta cứ phó mặc tự nhiên mà uống rượu có hơn không?
Lâm Xung uống xong mười chén rượu, rồi đứng dậy bảo Ngu Hầu rằng:
- Bác hãy xơi rượu, để tôi vào rửa mặt, rồi lại xin ra tiếp ngay.
Nói xong toan chạy đi phía ngõ bên đông.
Vừa khi Lâm Xung bước tới đầu ngõ, thì thấy đứa trẻ ở nhà, chạy hất hải bảo rằng:
- Quan Nhân ơi! Sao ngài lại ở đây, làm cho tôi tìm mãi?
Lâm Xung lấy làm ngạc nhiên, hỏi vội lên rằng:
- Việc gì?
- Vừa rồi ngài đi với Ngu Hầu được một lúc, thì có một anh chạy lật đật đến bảo với bà tôi rằng: "Ngài uống rượu ở nhà Ngu Hầu, không biết vì cớ gì mà bỗng dưng ngã vật xuống, bà phải sang ngay xe sao mới được". Bà nghe vậy, vội vàng gửi nhà Vương Bà coi giúp, rồi cùng tôi được đến thẳng nhà Ngu Hầu, khi lên đến gác, chỉ thấy bàn rượu bày ra chững chạc ở đó, mà ngài thì chẳng thấy đâu, bà tôi liền vội vàng quay xuống thì ai ngờ bị người thiếu niên ở Nhạc Miếu hôm nọ, ngờ đâu đâm bổ ra mà bảo rằng: "Bà hãy ngồi đây, ông ấy đến bây giờ đấy." Đoạn rồi tôi bước xuống khỏi thang, thì nghe tiếng bà tôi kêu "giết người", ầm ĩ cả lên. Bởi vậy tôi vội vàng đi tìm mãi mà chẳng thấy ngài đâu, sau gặp Trương Tiên Sinh bảo rằng: Ngài đương ngồi uống rượu với ai ở Phàn Lâu, tôi liền chạy mãi đến đây tìm ngài, xin ngài đi đến mau xem sao mới được.
Lâm Xung nghe nói, rụng rời kinh ngạc, không đợi con trẻ cùng đi, mà chạy ba chân bốn cẳng, đến ngay nhà Ngu Hầu trèo lên trên gác để xem. Khi tới nơi thì cửa gác đã đóng chặt, mà vẫn có tiếng đàn bà kêu gọi ở trong rằng:
- Đời thuở nhà ai, mà dám đem vợ con nhà tử tế nhốt vào đây không?
Đoạn rồi lại nghe thấy tiếng Cao Nha Nội nói khẽ rằng:
- Xin nương tử thương tôi với, nương tử có phải là gỗ đá đâu, mà tôi nói thế nào cũng không chuyển được?
Lâm Giáo Đầu nghe rõ từng lý, liền nổi giận xung thiên quát lên rằng:
- Mở cửa cho ta.
Trong kia người đàn bà nghe tiếng biết là chồng mình đã đến liền cố bứt chạy ra mở cửa, còn cậu ấm Cao biết thế nguy hiểm đến nơi thì mở cửa sổ nhảy qua tường trốn thoát.
Lâm Xung lên đến gác, tìm Cao Nha Nội, thì đã mất rồi, sau hỏi đến vợ cặn kẽ, mới biết là trúng kế gian nhân, mà cũng may chưa hề phạm tới, song trong lòng thì căm tức Ngu Hầu vô hạn, liền đập phá nhà Ngu Hầu tan nát cả, rồi đưa vợ cùng con trẻ ra về.
Khi đưa về đến nhà rồi, Lâm Xung lại vác đao, đi thốc đến Phàn Lâu, tìm Ngu Hầu, nhưng Ngu Hầu đã trốn đi đâu mất, chàng lại đến tận cổng để đón đánh, mà suốt ngày hôm ấy cũng không thấy đâu cả.
Lúc về nhà Lâm Xung vẫn còn căm tức, nhưng vợ gạt đi mà can rằng:
- Tôi tuy mắc lừa, song cũng chưa đứa nào dám phạm đến, thì còn sinh sự làm chi?
Lâm Xung cứ khẳng khái mà rằng:
- Quân súc sinh mồm thì xoen xoét nào anh nào tôi, ai ngờ nó lại đánh lừa như thế? Tất nhiên ta phải trị ngay nó mới được!
Vợ Lâm Xung thấy chồng mình hăng hái, thì cố sức can ngăn mà giữ riết ở trong nhà, không cho đi đâu, còn Ngu Hầu thì cũng trốn ở trong phủ Thái Úy, mà không dám về đến nhà nữa.
Cách ba bốn hôm sau, Lỗ Trí Thâm đến chơi nhà Lâm Xung mà hỏi rằng:
- Chẳng hay mấy hôm nay vì cớ gì, mà không thấy quan anh đến chơi vậy?
Lâm Xung nói:
- Tiểu đệ vì bận chút việc riêng, cho nên không đến chơi với sư huynh được, nay sư huynh quá bộ đến đây, giá mời ngài ở chơi xơi chén rượu thì phải, nhưng ngặt vì trong nhà không được sẵn sàng, vậy xin đón sư huynh ra chơi ngoài phố, rồi ta tìm cái hàng nào uống mấy chén rượu cho vui, sư huynh nghĩ sao?
Lỗ Trí Thâm cười mà đáp lại rằng:
- Cũng được.
Nói đoạn hai người cùng đi ra phố, tìm vào hàng rượu với nhau, rồi lại hẹn hò đến mấy hôm sau tương hội. Từ đó ngày nào Lâm Xung cũng đi chén với Trí Thâm, dần dần khuây khỏa nỗi lòng, mà không nghĩ đến gì nữa.
Nói về Cao Nha Nội khi còn ở nhà Ngu Hầu, bị một phen kinh sợ, phải nhảy qua tường mới thoát được nạn, về tới nhà không dám nói với Cao Thái Úy, rồi cứ tấm tức trong lòng, mà ngơ ngẩn thành bệnh.
Lục Khiêm và Phú An thấy vậy liền hỏi Cao Nha Nội rằng: - Chẳng hay Nha Nội vì sao mà tinh thần bỗng kém đi làm vậy?
- Không dấu gì các ngươi, chỉ vì hai lần không được gặp giai nhân, lại bị một phen kinh sợ, cho nên đau đớn trong lòng mà sinh bệnh đó thôi.
- Việc ấy xin Nha Nội cứ an tâm, thế nào chúng tôi cũng có thể làm cho kỳ được, chỉ trừ ra có tự tử mất thì thôi.
Đương khi nói chuyện, thì có tên Đô Quản già, cùng vào thăm Nha Nội ở đó. Đô Quản hỏi thăm bệnh thế qua loa rồi, vừa quay ra thì thấy Lục Khiêm, Phú An dắt đến chỗ vắnh vẻ mà bảo nhau rằng:
- Bây giờ ta muốn cho Nha Nội được khỏi bệnh, thì tất nhiên phải làm sao tán hót với Thái Úy kết quả anh Lâm Xung đi, rồi đem vợ hắn về cho Nha Nội, thế là diệu hơn. Bằng không thì tính mạng Nha Nội tất là không toàn được nữa.
Lão Đô Quản nghe nói liền đáp lại rằng:
- Việc gì, chứ việc ấy thì dễ lắm, để chiều hôm nay lão sẽ bẩm với Thái Úy là được.
- Chúng tôi đã định kế sẵn rồi, nếu bác kêu với Thái Úy được, thì tôi sẽ nói. Lão Đô Quản nhận lời mà lui ra.
Chiều hôm ấy lão Đô Quản lên so vai rụt cổ tâu với Thái Úy rằng: 
- Bẩm ngài, bệnh của Nha Nội, có vì cớ gì đâu, chỉ vì người vợ Lâm Xung đó thôi.
Cao Cầu đã biết nết đứa con nuôi liền hỏi:
- Nó gặp vợ Lâm Xung từ bao giờ?
- Bẩm Nha Nội được gặp ở Nhạc Miếu hôm 28 tháng trước, đến nay đã được hơn một tháng rồi.
Nói đoạn liền đem chuyện Nha Nội lập kế đến nhà Ngu Khiêm, rồi bị một trận kinh hoàng, kể hết cho Thái Úy nghe.
Thái Úy nghe xong nhăn nhó mặt, ra vẻ nghĩ ngợi mà bảo rằng:
- Như thế thì làm thế nào được, nếu tiếc một thằng Lâm Xung, thì tính mệnh con ta tất là nguy mất? Nghĩ sao cho tiện đây?
- Bẩm, Lục Khiêm và An Phú đã có kế thi hành, vậy ngài thử đòi hỏi xem sao?
Thái Úy gật đầu bảo Đô Quản đi gọi Phú An và Lục Khiêm đến.
Khi hai tên ấy đến, Cao Thái Úy liền trỏ bảo rằng:
- Nha Nội đương bị bệnh như thế, các ngươi có kế gì khiến Nha Nội khỏi được bệnh ngay, thì ta sẽ cất nhắc lên cho.
Lục Khiêm so vai rụt cổ bẩm rằng:
- Việc ấy trừ phi như thế...như thế...thì không có thể được.
- Đã như thế, thì ngày mai các ngươi phải làm ngay đi mới được.
Lũ kia vâng dạ, mà xin ra để thi hành.
Lâm Xung từ khi có Lỗ Trí Thâm, cứ ngày ngày chè rượu làm vui, thì trong lòng khuây khỏa phó mặc chuyện ngoài không nghĩ, chợt một hôm hai người đương đi ở trên phố Duyệt Võ, thì thấy một người to lớn, đầu đội khăn mỏ rìu, mình mặc áo chiến bào cũ, tay cầm cây đao có bao lưỡi cẩn thận, đương đứng ở trên phố mà nói lảm nhảm một mình rằng:
- Uổng phí cả thanh bảo đao của mình, không có một ai biết cả!
Lâm Xung nghe thấy vậy, cứ điềm nhiên, chỉ cúi đầu cúi cổ, cùng với Trí Thâm vừa chuyện vừa đi, mà không nhìn thèm đến. Người kia cứ đi theo đằng sau, mà nói luôn miệng nói rằng:
- Thanh bảo đao tốt như thế này, mà không biết đến, đáng tiếc chưa?
Lâm Xung lại mặc kệ đi ngoắt vào trong ngõ; người kia cũng lại theo sau, mà cứ nói một mình rằng:
- Quái lạ! Cả một chỗ kinh đô rộng lớn như thế này, mà không có ai biết đến đồ dùng binh hay sao?
Lâm Xung nghe nói đến câu ấy, thì phải quay đầu nom lại xem. Anh kia biết ý liền tuốt thanh đao sáng nhoáng ra cầm ở tay.
Lâm Xung trông thấy choáng mắt, liền bảo người ấy rằng:
- Đem lại đây tôi xem.
Người kia cầm đao đưa đến, Lâm Xung cầm lấy, cùng với Trí Thâm xem ngắm hồi lâu, bất giác buột miệng khen rằng:
- Thanh đao tốt thực anh định bán bao nhiêu?
Người kia nói:
- Đao này đáng giá 3000 quan, nhưng thực ra 2000 quan tôi mới bán.
- Phải, đáng giá 2000 quan, nhưng mấy ai đã biết được? Nếu anh có chịu bán 1000 quan thì tôi mua cho?
- Tôi bây giờ đương cần tiền tiêu, vậy nếu ông định mua, thì xin ông bớt đi 500 quan, còn ông phải trả 1500 quan mới được.
- Chỉ có 1000 quan, có bán thì tôi cố mua vậy.
Người kia thở dài đáp rằng:
- Thôi cần tiền đành bán rẻ vậy, nhưng phải trả đủ tiền mới được.
- Đi, anh theo tôi về nhà lấy tiền.
Lâm Xung nói xong, quay lại bảo Lỗ Trí Thâm rằng:
- Quan bác hãy đến Xái Phòng đợi tôi, rồi chốc tôi xin đến.
Trí Thâm nói:
- Thôi để tôi về, sáng mai ta lại gặp.
Đoạn hai người chào nhau, Lâm Xung đưa người bán đao về nhà lấy tiền.
Khi trả tiền xong, Lâm Xung lại hỏi người bán đao rằng:
- Thanh đao này anh làm gì mà có? 
- Nguyên của ông cha tôi để lại cho, nhưng đến nay túng kiết, mới phải bán đi.
- Ông cha anh người trước thế nào?
- Thưa ngài, tôi nói ra bây giờ lại thêm tủi thân lắm thôi. Lâm Xung nghe nói vậy, thì để mặc hắn đi, mà không hỏi nữa. Bấy giờ lại cầm thanh đao ngắm nghía luôn tay, mà khen ngợi một mình rằng: 
-  Cái đao này tốt thực, trong phủ Thái Úy cũng có một thanh đao báu, xưa nay vẫn làm bộ không cho ai xem đến, để rồi ta thử đem đọ xem sao?
Chàng khen lấy khen để, rồi xem đi xem lại mãi đến đêm mới treo lên vách mà đi nghỉ. Sáng hôm sau lại đến trông ngắm thanh đao mà khen mãi không thôi.
Trưa hôm ấy chợt thấy hai tên lính, chạy đến bảo với Lâm Xung rằng:
- Quan Thái Úy nghe nói Giáo Đầu mới mua được thanh đao tốt, ngài truyền chúng tôi ra bảo ông đem vào để đọ xem. Thái Úy hiện đang đợi ở trong phủ đó.
Lâm Xung nghe nói, thì lẩm nhẩm trong bụng rằng:
- Thằng ranh nào lại bợm thế! Nó đã mỏng môi tâu nộp được ngay rồi.
Nghĩ đoạn mặc áo đội khăn vác thanh đao đi theo hai tên lính.
Khi đi đường Lâm Xung hỏi hai tên lính rằng:
- Các ngươi có ở trong phủ, mà sao ta chưa biết mặt bao giờ?
Hai tên lính nói:
- Chúng tôi hầu ở nhà trong, cho nên ông ít khi gặp.
Vừa nói dứt câu chuyện, thì đã đi tới nhà công đường phủ Thái Úy, Lâm Xung liền đứng dừng lại đấy.
Hai tên lính nói:
- Quan Thái Úy ngồi đợi ở nhà trong, mời ông đi vào.
Lâm Xung đi thẳng vào nhà trong, không thấy quan Thái Úy, lại đứng dừng lại. Hai tên lính lại giục:
- Ở nhà trong nữa, mời ông cứ đi vào đi.
Lâm Xung lại theo hai tên lính được quanh co mấy lần cửa, đến một chỗ xung quanh toàn thị lan can tím. Hai tên lính đưa Lâm Xung đến ở thềm mà rằng:
- Ông đứng đợi ở đây, để tôi vào bẩm Thái Úy ra đây.
Hai tên lính nói xong liền quay trở vào, Lâm Xung đứng đợi mấy phút đồng hồ, không thấy ai đến, trong bụng hơi nghi, liền ngó cổ vào trong rèm nom thấy cái biển viết ba chữ: "Bạch Hổ Đường"xanh xanh, thì giật nẩy mình nghĩ ra rằng:
- Đây là chổ thương nghị quân cơ đại sự, mà sao nó tự nhiên vô cố, nó lại dắt ta vào đây? Chết nỗi! Có phép đâu được thế!
Chàng nghĩ như vậy, vừa toan quay bước trở ra, thì đã thấy tiếng giày lẹt xẹt ở ngoài đi vào, liền ngẩng cổ lên nom, thì chính là Cao Thái Úy đến đó. Lâm Xung thấy Cao Thái Úy vào, thì mải mốt cắp thanh đao, rồi chắp tay vái chào Thái Úy.
Thái Úy làm bộ ngạc nhiên quát lên mà hỏi dồn luôn rằng:
- Có ai sai bảo gì, mà vào Bạch Hồ Đường như thế? Ngươi có biết pháp luật gì không mà cầm đao vào đây? Hay là định mưu hại ta chăng? Có người nói với ta rằng: Mấy hôm nay ngươi vẫn vác đao, đến chực chõm ở trước phủ. Chắc là có bụng phản trắc chi đây?
Lâm Xung cúi mình bẩm rằng:
- Bẩm ân tướng, vừa rồi có hai tên lính, truyền gọi Lâm Xung đem đao vào để ân tướng đọ xem, cho nên hạ nhân mới dám tới đây.
- Lính nào? Đâu?
- Bẩm hai tên đi vào nhà trong rồi?
- Nói lạ! Lính nào dám vào phủ đường ta? Tả hữu đâu trói tên nầy lại cho ta.
Nói chưa dứt lời, thì thấy mấy mươi tên lính ở đâu đổ ra bắt Lâm Xung mà trói lại.
Cho hay:
Mấy người trí dũng xưa nay,
Trời làm chi đến nỗi nầy thì thôi;
Lạ cho là giống ở đời;
Đỉnh chung sao để những nòi bất nhân?
Bắc thang lên hỏi hồng quân.
Xưa nay tay Tạo cầm cân thế nào?
Xây chi những cuộc ba đào?
Nước non luống để anh hào biết gan?
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi này dụng bút viết ra rất khó, vì sau trước khác nhau, nếu trước sau tả xuôi một việc, thì có dư bút mà lây sang một việc kia, cũng nhân việc này mà nảy ra việc khác. Nay hồi này tả Lâm Xung mới nhận được Lỗ Đạt, thân nhiệt khác ra, liên tiếp một việc Nha Nội, đấu khí khác ra, nay chỉ tả Lỗ Đạt, thì tạm gác một bên câu chuyện Nha Nội, mà tả Nha Nội, thì tạm gác một bên câu chuyện Lỗ Đạt, thực là thấy trong sự diễn tả, cũng đôi đường tiến thoái lưỡng nan. Huống chi trong sự tả Nha Nội, lại cốt chia hai lần, một lần chép ở nhà họ Lâm (mua đao), một lần ở phủ họ Cao, tả Cao Phủ thì nhằm vào họ Lâm, mà tả họ Lâm nhằm vào Cao Phủ, trong lúc tả lắm chuyện như thế, lại thêm một anh chàng vườn rau, luôn luôn lui tới, nếu anh chàng vườn rau như mọi người thì khác hẳn, đàng này lại là một tay hảo hán, lúc nào cũng sẵn sàng can thiệp những chuyện bất bằng, ngay gữa đường đi, đã từng đánh ba quyền chết Trấn Quan Tây ở nơi Châu Vị, nếu tả Lỗ Đạt biết đến chuyện ở nhà Ngu Hầu, thì tác giả tả làm sao cho hết câu chuyện mưu toan thâm ác của đám quân phiệt, như Cao Cầu vốn bất chính lại nuông con làm trắng trợn hơn? Đọc tới đây không phục tài tác giả, thì chưa xem nổi văn chương diễn tả của người xưa, khéo léo dùng bút.
Hồi này nhiều bút pháp lạ lùng, như vợ Lâm Xung chịu nhục, ắt phải làm cho Lâm Xung tức khí, rồi người khác khuyên thôi, xảy đâu Lỗ Đạt hùng hùng hổ hổ, lại đến Lâm Xung khuyên thôi, đó là một chuyện; Đến chuyện bán đao ở phường Duyệt Võ, anh chàng cứ khích khí cho người ta, mua đao, Lâm Xung, Lỗ Đạt chỉ nói chuyện phiến, cang làm cho kẻ bán đao thở ra những giọng tiếc cho đao, mà Lâm, Lỗ vẫn đưa ra câu chuyện phiến coi thường, càng thấy kẻ kia coi thường, lại càng than tiếc, khác nào hai ngọn núi đối nhau, thế rồi đi đến gặp nhau, đó là hai chuyện; Khi trả tiền đao, xong việc thì thôi, lại tả Lâm Xung quý mến bảo đao, thế rồi hỏi đến căn đoạn của kẻ có đao, chàng bán đao sẽ nói là ai???
Nên Lâm Xung hỏi đến, khéo tả thoái thác, rằng nói đến tổ phụ với bảo đao này thêm nhục, câu đó làm cho độc giả đoán ra văn tứ lâm ly đến thấy đó là ba chuyện vậy; Bạch Hổ Tiết Đường, không nên tới vậy, nay Lâm Xung vào lầm, đó là xuất kỳ bất ý, bị dỗ dẫn vào, rồi dừng gót, lần tới bình phong hậu đường, lại dừng gót nữa, thế rồi lần lượt đưa đến Tiết Đường (Bạch Hổ) đó là bốn chuyện vậy, kỳ văn đến thế, thì dù Tư Mã Thiên viết sử phục sinh, cũng không hơn thế được.
Hồi 7:
Đất Thương Châu Lâm Giáo Đầu chịu nhục;
Rừng Dã Trư Hoa Hòa Thượng xung gan.
Bấy giờ lũ kia đổ xô vào trói Lâm Xung, rồi Cao Thái Úy thét quân lính dàn hàng, để đem Lâm Xung ra chém.
Lâm Xung kinh sợ kêu là oan uổng, thì Cao Thái Úy lại quát lên rằng:
- Oan gì? Ngươi tự tiện đi vào Bạch Hổ Đường có việc chi? Bây giờ trong tay vẫn cầm đao đấy, không phải là ngươi định hại ta hay sao?
- Bẩm Thái Úy không cho đòi, thì khi nào tôi dám vào? Hiện có hai tên dẫn tôi vào đây lúc nãy.
- Trong phủ ta có lính nào ta chả biết, ta sai đi hay không, ta lại không biết à? Tả hữu đâu? Hãy đem nó ra phủ Khai Phong, bảo quan Phủ tra xét việc này thế nào rồi sẽ xử quyết cho nó.
Nói xong sai một người thân mật lấy thanh đao của Lâm Xung phong vào cẩn thận, rồi giải ra phủ Khai Phong. Tên người nhà giải Lâm Xung và thanh đao ra phủ Khai Phong, lại đem lời Thái Úy bẩm cho quan Phủ biết.
Quan Phủ nghe nói liền hỏi Lâm Xung rằng:
- Lâm Xung làm chức Giáo Đầu, sao không biết pháp luật, mà cầm đao đi vào Bạch Hổ Đường như thế? Tội có đáng chết hay không?
Lâm Xung chấp tay kêu rằng:
- Xin ân tướng xét cho, việc này thực là oan ức, chúng tôi dốt nát thô lỗ, song cũng biết đôi chút pháp luật có đâu dám thiện tiện vào Bạch Hổ Đường như thế? Việc này chẳng qua vì một lẽ riêng, chúng tôi có thể đoán ra rằng, xin ân tướng xét kỹ cho.
- Vì lẽ chi ngươi cứ nói?
Lâm Xung bèn thuật đầu đuôi từ khi Cao Nha Nội gặp vợ mình ở Nhạc Miếu, cho đến khi lập kế ở nhà Ngu Hầu, lại đến lúc mua thanh đao, và hai tên lính gọi vào trong phủ Thái Úy, rồi vì sao mà đến thế này, nhất nhất phải kể cho Phủ Doãn nghe.
Phủ Doãn nghe xong, nhất diện viết công văn về trình Thái Úy, rồi nhất diện hãy cho gông cổ Lâm Xung, mà giam vào ngục.
Vì đâu nên nỗi nước này!
Anh hùng trái vận đắng cay chăng trời?
Bên kia bố vợ Lâm Xung là Trương Giáo Đầu, biết tin con rể mắc nạn liền kiếm tiền của đến nói với người tra án, để châm chước giúp cho. Người này họ Tôn tên Định, vốn tính hiếu thiện, xưa nay hay che chở giúp đỡ cho người, nhân thế người ta thường gọi là Tôn Phật Nhi.
Tôn Định biết đầu đuôi là Lâm Xung oan khuất, liền kêu với quan Phủ rằng:
- Việc này xét ra Lâm Xung thực là oan khuất, xin quan lớn che chở cho hắn thì hơn.
Quan Phủ lắc đầu mà phán rằng:
- Tội này là hắn làm ra, quan Thái Úy đã phê chấp vào tội "vô cố cầm đao tới Bạch Hổ Đường định sát hại quan trên" như thế, còn che chở sao được?
- Bẩm ngài, nếu vậy thì phủ Khai Phong đây, đã thuộc về nha tư của quan Thái Úy họ Cao, chứ không phải thuộc về triều đình nữa hay sao?
- Nói lạ!
- Xưa nay ai không biết rằng Cao Thái Úy đã ỷ quyền ỷ thế, làm lắm điều xằng, thế mà phủ Khai Phong lại hùa vào làm đảng nữa, thôi thì bảo giết là giết, bảo mổ là mổ, như vậy há không phải phủ nha riêng của Thái Úy sao?
- Đành vậy, nhưng việc nầy biết làm thế nào cho được?
- Cứ ý chúng tôi xem ra thì Lâm Xung vô tội, nhưng chỉ có một điều là bây giờ không bắt đâu được hai tên lính dẫn hắn vào Bạch Hổ Đường thì cũng hơi khó lòng một chút, vậy chỉ nên khép tội cho hắn là cầm đao đi lầm vào Bạch Hổ Đường, thì phạt 20 trượng, và bắt đi xung quân ở một nơi xa, thế là đủ rồi.
Phủ Doãn nghe nói có lẽ, liền đem việc ấy vào bẩm cho Cao Thái Úy biết. Cao Thái Úy nghe lời Tri Phủ nói, cũng biết là việc mình làm xằng hụt lý, và cũng hơi e lòng Tri Phủ, nên ưng lời mà phê phó ngay.
Hôm đó Tri Phủ trở về Phủ, cho đòi Lâm Xung lên tháo các đồ gông ra, đánh phạt 20 trượng, rồi gọi thợ thích chữ vào mặt, rồi lại gông vào cẩn thận, mà viết công văn trao cho hai tên công sai giải tù, sang đài ở Thương Châu. Hai tên công sai là Đổng Siêu và Tiết Bá, vâng lĩnh giấy má rồi đem Lâm Xung ra khỏi phủ Khai Phong. Bấy giờ hàng xóm láng giềng, cùng bố vợ Lâm Xung là Trương Giáo Đầu, cùng đến cửa phủ, để đón tiếp, rồi đưa cả nhau vào một cái hiệu ở bên cầu để nói chuyện.
Lâm Xung phàn nàn với Trương Giáo Đầu, rồi lại nói rằng:
- May nhờ Tôn Phật Nhi có lòng che chở giúp đỡ, cho nên đòn cũng đỡ đau, chứ không thì có lẽ không đi được nữa.
Trương Giáo Đầu nghe nói nửa cảm nửa thương, liền gọi tửu bảo lấy rượu ra đãi hai người giải tù cùng uống cho vui. Rượu được vài tuần, thì Trương Giáo đầu lấy ra mấy lạng bạc đưa cho tên công sai, rồi dặn dò để trông nom giúp đỡ.
Bấy giờ Lâm Xung đứng dậy chấp tay nói với trượng nhân rằng:
- Con chẳng may gặp ngày xung tháng hạn, bỗng dưng nên nổi nước này, vậy con có mấy lời tâm sự xin trượng nhân thương đến, từ khi vợ chồng con sum họp với nhau, đến nay đã được ba năm, tuy rằng trời chưa cho con một chút con nào, song sự ăn ở với nhau, thực chưa hề có điều gì là trái ý, tới nay con phải đi đày ải xa khơi, sau này mất còn chả biết, nếu mà để vợ con ở góa một mình, thì thực trong lòng không ổn! Vả chăng vợ chồng con cũng còn đương trạc thanh xuân, e khi ở lại trong nhà, lỡ bị Cao Nha Nội lại đem lòng ức hiếp, thì bấy giờ sẽ xử ra sao? Việc ấy quyết nhiên không nên vì con mà để mất con đường thân thế, vậy tiện đây đông đủ xóm giềng, con xin viết tờ giấy hưu thư, để cho vợ con tùy tiện lấy chồng, như thế thì con mới yên lòng đi được.
Trương Giáo Đầu gạt đi rằng:
- Chết nỗi! Sao hiền tế lại nói như vậy. Bây giờ chẳng may gặp phải cơn đang vận túng, đành hãy đến Thương Châu mà lánh nạn ít lâu, rồi sau này tất nhiên trời kia thương lại, cũng còn vợ chồng sum họp với nhau, chứ có điều chi mà ngại! Nhà lão đây nghèo cũng còn kiếm được để nuôi hai thầy trò nó, trong năm ba năm mà đợi khi sắc cầm tái hợp về sau. Còn như Cao Nha Nội có ý lôi thôi, thì ta sẽ cấm con gái ta ở nhà, còn gặp ở đâu mà sinh sự được nữa. Việc ấy hiền tế cứ an tâm, đi sang Thương Châu ở đó, rồi thỉnh thoảng viết giấy về cho ta, quần áo ta đây sẽ chu cấp gửi sang, chớ nghĩ quanh quẩn, làm cho thêm khổ?
- Đành vậy, con xin cảm tạ trượng nhân song không thể nào yên tâm để cho vợ con lỡ làng như thế được! Nếu trượng nhân có lòng thương tôi, mà nhận lấy lời cho, thì tôi chết đi mới được yên hồn nơi chín suối, xin với trựơng nhân biết cho.
Trương Giáo Đầu nghe vậy lại càng cảm động, nhất định không ưng lời, đoạn rồi xóm làng túm vào mà khuyên can, không nên như thế.
Lâm Xung quả quyết đáp rằng:
- Nếu trượng nhân không nghe lời tôi, thì sau này có được về đây, tôi quyết không đoàn tụ với nhau được nữa!
Trương Giáo Đầu nghe nói, không biết trả lời ra sao, liền bảo Lâm Xung rằng:
- Nếu vậy tùy ý hiền tế, muốn viết sao cứ viết, nhưng tôi đây không gả chồng cho con gái tôi thì thôi.
Nói đoạn sai tửu bảo lấy bút và mượn người đến viết hộ. Trong thư viết như sau:
- Tôi là Lâm Xung làm chức Giáo Đầu ở Đông Kinh, nhưng vì mắc tội phải đi đày ở Thương Châu, sau nầy sống chết thế nào chưa biết! Vậy nhân lập hưu thư tình nguyện cho vợ là Trương Thị trở về xuất giá, từ nay không can thiệp điều chi? Việc này tự ý định làm, không ai bức bách, sợ sau không tiện, nên viết để làm tin...
Ngày...tháng...năm...Lâm Xung ký tên và in tay ở dưới.
Vừa khi Lâm Xung ký xong, toan đưa cho Trương Giáo Đầu, thì thấy người vợ vừa gào vừa khóc, ở đâu đi đến lại có cả con trẻ cắp gói quần áo đi theo sau nữa. Lâm Xung trông thấy, liền quay ra bảo vợ rằng:
- Nàng ơi! Tôi có một câu chuyện, đã thưa với trượng nhân rồi, hiện nay tôi bị vận nạn thế này, chưa biết về sau còn sống chết hay không, vậy nàng còn đương xuân xanh tuổi trẻ, phải nên sớm liệu mà kiếm chỗ để nương thân, tôi đã viết bức hưu thư ở đây, nàng giữ lấy làm tin, không nên vì tôi để lỡ độ xuân xanh mới được.
Trương Thị nghe nói lại khóc nức nở mà rằng:
- Trời ơi! Tôi có điều chi thậm tệ, mà phu quân nỡ bỏ tôi như thế?
Lâm Xung an ủi rằng:
- Đó là lòng tốt của tôi, không muốn để cho bó buộc làm lỡ cả nhau, chuyện nên mới viết bức thư này, xin nàng cứ an tâm, đừng nghĩ nữa thêm phiền.
Trương Giáo Đầu quay lại bảo với con gái rằng:
- Thôi, con cứ lặng yên, để cho chồng con viết, sau đây ta không gả chồng cho con nữa thì thôi, mà vạn nhất chồng con nó không về đây nữa, thì sau nầy ta sẽ kiếm kế sinh nhai, cho con yên ấm một đời mà yên lòng thủ tiết, thế là cũng được chứ sao?
Trương Thị nghe nói đã cay đắng trong lòng, lại trông thấy phong thư ở đó, thì khóc lên một tiếng mà ngã ngất ra đây. Than ơi!
Vì đâu mưa gió bất bình
Để ai chia rẽ gánh tình vì ai?
Ngán thay là kiếp ở đời,
Anh hùng khi cũng thua trời mới căm!
Trương Giáo Đầu cùng Lâm Xung thấy vậy, thì đổ xô vào kêu gọi, hồi lâu mới tỉnh, đoạn rồi những đàn bà hàng xóm, cùng túm vào khuyên giải, mà dìu dắt Trương Thị ra về.
Bấy giờ Trương Giáo Đầu lại bảo Lâm Xung rằng:
- Hiền tế đi chuyến này, phải bảo trọng lấy thân, nếu có cơ hội gì, thì phải về đây mới được, còn vợ con ở nhà, thì tôi sẽ đem về cùng ở với tôi, để chớ khi tái hợp, hiền tế chớ nên phiền nghĩ làm chi. Nếu có ai đi về thì hiền tế năng gửi thư luôn cho tôi được biết.
Nói đoạn thì Lâm Xung lạy từ nhạc phụ Trương Giáo Đầu cùng lân bang, rồi khoác khăn gói, theo hai tên công sai ra đi. Hai tên công sai dẫn Lâm Xung về tới phòng Sứ Thần ký giam ở đó, rồi cùng nhau về nhà để sửa soạn hành lý. Khi đó hai tên công sai là Đổng Siêu và Tiết Bá đều người nào trở về nhà ấy, để sắp sửa đồ hành trang, có một tên tửu bảo ở tửu điếm gần đó, chạy đến nhà Đổng Siêu mà nói rằng:
- Có một vị quan nhân người ở hàng tôi, bảo mời ông đến chơi nói chuyện.
Đổng Siêu hỏi:
- Ai thế?
- Bẩm không biết là ai, ông ấy bảo cứ mời ông đến chơi thì biết.
Đổng Siêu nghe nói, liền theo tên tửu bảo, đi đến tửu điếm xem ai. Khi tới một gian gác ở tửu điếm ấy, thì thấy người kia ra vái chào Đổng Siêu mà nói rằng:
- Xin mời ông vào ngồi chơi.
Đổng Siêu thấy lạ mặt liền hỏi:
- Tôi trông ngài hình như chưa được quen biết bao giờ? Chẳng hay ngài có việc chi mà cho gọi đến đây?
Người kia cười mà đáp rằng:
- Xin ông cứ ngồi chơi, rồi một lát sẽ biết.
Nói xong kéo Đổng Siêu ngồi xuống một bên, sai tửu bảo gọi rượu và thức nhắm lên, rồi lại nói luôn rằng:
- Không biết rằng ở nhà ông Tiết Bá ở đâu?
Đổng Siêu đáp:
- Ở ngay ngõ trước kia.
Người kia nghe nói, liền sai tửu bảo chạy ba chân bốn cẳng đi mời Tiết Bá đến. Khi Tiết Bá đến nơi, Đổng Siêu liền quay ra bảo rằng:
- Vị quan nhân nầy mời chúng ta đến đây, không biết rằng nói chuyện gì?
Người kia nghe nói biết ngay rằng Tiết Bá, liền đứng lên mời ngồi.
Tiết Bá hỏi:
- Chúng tôi xin hỏi khí không phải, quý hiệu ngài là chi xin cho biết.
- Xin ông hãy ngồi xơi rượu với tôi rồi sẽ biết.
Nói đoạn sai tửu bảo rót rượu ba người cùng uống. Một lát người ấy móc túi ra lấy 10 lạng bạc, để ra bàn mà nói rằng:
- Món tiền này xin hai bác nhận cho, tôi có câu chuyện muốn phiền hai ông đây.
Đổng Siêu, Tiết Bá thấy vậy đều ngạc nhiên, không hiểu mà nói rằng:
- Chúng tôi không có được biết ngài, đau mà dám nhận tiền của ngài?
- Có phải hai ông sắp đi Thương Châu nay mai đó không?
- Vâng, chúng tôi vâng lời quan sắp giải Lâm Xung đến đấy.
- Bởi vậy tôi muốn phiền hai ông một chút, tôi là Lục Ngu Hầu người nhà quan Cao Thái Úy đây.
- Chết nỗi! Nếu vậy sao chúng tôi dám ngồi uống rượu với ngài?
- Không hề chi, các ông có hiểu việc Lâm Xung đối với quan Thái Úy thế nào không? Bây giờ ngài sai tôi đưa món tiền này để biếu các ông, các ông cứ nhận mà hết sức giúp cho. Cứ đến chỗ nào vắng vẻ, thì các ông giết phăng tên Lâm Xung ấy đi, rồi sau đi phủ Khai Phong, nếu có việc gì, thì quan Thái Úy sẽ đảm nhận cho, không ngại chi cả.
Đổng Siêu nghe nói liền đáp rằng:
- Việc ấy chỉ sợ không làm được! Vì trong công văn của phủ, chỉ nói là giải sang Thương Châu, chứ không nói gì đến sự giết hắn cả. Vả chăng ông ta còn đương khỏe mạnh, có thể nào hạ thủ ngay được, ngộ vạn nhất có xảy ra thế nào thì không tiện lắm.
Tiết Bá nói:
- Lão Đổng ơi! Lão vớ vẫn quá! Quan Thái Úy bảo thế nào mà ta không phải theo? Huống chi ngài đã ủy Ngu Hầu ra bảo mình, và lại cho tiền ở đây, thì anh còn từ nan thế nào được. Thôi anh em ta cứ chia lấy mà nhận lời thì hơn.
Nói đoạn hai người chia nhau lấy mười lạng bạc, rồi bảo Lục Khiêm rằng:
- Được, xin ngài cứ an tâm, chỉ trong mấy độ đường, là chúng tôi liệu ngay thôi.
Lục Khiêm cả mừng nói rằng:
- Hễ khi các ông làm xong, thì mang cái kim ấn ở mặt Lâm Xung về đây, để cho tôi biết làm tin. Gọi là có mấy lạng bạc đấy, các ông đừng chê ít mà cố sức cho, tôi xin đợi ở nhà đó.
Đoạn ba người lại uống một lúc nữa, bấy giờ Lục Khiêm mới trả tiền hàng, mà cùng nhau từ giả chia đường.
Khi đó Đổng Siêu, Tiết Bá đem tiền về giao để ở nhà, rồi khoác khăn gói hành lý, mỗi người vác một thanh gậy đến phòng Sứ Thần đem Lâm Xung giải đi.
Đời nhà Tống có lệ, phàm những quân lính giải tù, đi đến đâu ngủ trọ đều không phải trả tiền. Hôm ấy hai người đi hơn 30 dặm đường thì trời sắp tối, liền tìm vào một hàng cơm để trọ, rồi sáng hôm sau lại ăn uống mà đi thực sớm.
Bấy giờ đương độ tháng 6, tiết trời nóng bức lạ thường, mấy hôm trước Lâm Xung mới bị đòn, còn chưa việc gì, tới nay mới được vài hôm, bị khí trời nung nóng, làm cho các chỗ bị đánh đều sưng tất cả lên, đau đớn quá đỗi không làm soa đi được.
Tiết Bá thấy Lâm Xung đi chậm thì mắng rằng:
- Từ đây tới Thương Châu những 2000 dặm đường, mà đi như thế, thì bao giờ cho tới nơi được!
Lâm Xung phàn nàn rằng:
- Tôi chỉ vì bị mấy chục trượng, bây giờ trời nóng phát lên, cho nên không thể nào mà đi nhanh được, xin các ông thứ cho.
Đổng Siêu thấy vậy thì bảo rằng:
- Thôi thong thả vậy, không nói làm gì nữa.
Tiết Bá thì vừa đi vừa chưởi rủa, lảm nhảm xuốt cả ngày không thôi, khi trời đã sắp tối, vào một cái hàng kia, Lâm Xung biết thân phải giở khăn gói lấy ra ít tiền, bảo nhà hàng dọn rượu, để mời hai anh kia cùng uống. Bấy giờ hai anh đổ rượu cho Lâm Xung uống thật say, nằm vật xuống một xó, rồi Tiết Bá đi đun một nồi nước sôi, đổ ra cái chậu rửa chân, đem đến gọi Lâm Xung dậy mà bảo rằng:
- Giáo Đầu hãy dậy rửa chân đã rồi hãy ngủ.
Lâm Xung nghe nói toan dậy, song bị cai gông làm vướng không sao mà co mình dậy được, Tiết Bá liền bảo rằng:
- Để tôi rửa chân hộ cho vậy.
Lâm Xung vội gạt mà rằng:
- Có đâu dám thế!
Tiết Bá nói:
- Chỗ lữ thứ này cần gì, để tôi rửa đỡ cho.
Lâm Xung tin thực, thò chân cho Tiết Bá rửa hộ, Tiết Bá cầm chân Lâm Xung dúng vào một cái trong chậu nước sôi. Lâm Xung giật mình kéo cẳng lên, thì đã bỏng hai bàn chân, liền rên rỉ mà kêu rằng:
- Như thế thì sống sao được?
Tiết Bá làm bộ nói rằng:
- Xưa nay người có tội phải hầu công sai chứ, công sai phải hầu người có tội bao giờ? Bây giờ người ta đã có lòng tốt rửa chân cho tử tế, lại còn ỏe họe nước nóng nước lạnh, thực là làm phúc phải tội là thế.
Nói đoạn lại lẩm nhẩm mắng nhiếc suốt đêm, Lâm Xung không dám mở miệng nói câu gì cả. Sáng hôm sau Tiết Bá dậy sớm giục nhà hàng làm cơm ăn, Lâm Xung thì đau đớn nằm vật ra đấy, mà không ăn được, khi hai người ăn cơm xong, thấy Lâm Xung không đi được, thì Đổng Siêu đưa cho một đôi giầy đay để đi, Lâm Xung bất đắc dĩ phải xỏ chân vào giầy, rồi tính tiền tả tiền hàng, mà theo hai người lên đường.
Bấy giờ vào khoảng trống canh năm, Lâm Xung mới đi được chừng vài ba dặm đường, thì hai bên chân đi đôi giầy mới sát vào toạc hẳn cả ra, rồi máu chảy đầm đìa, đành chỉ kêu gọi ầm ĩ mà không sao đi được nữa.
Tiết Bá quay lại mắng rằng:
- Có đi thì đi mau, mà không thì gậy đánh vào đít bây giờ đấy.
Lâm Xung kêu vang rằng:
- Khốn nạn! Tôi dám lười đâu! Vì hai chân đau quá, không sao đi được nữa, xin các ông xét cho.
Đổng Siêu nói:
- Nếu vậy để tôi dắt cho mà đi.
Nói xong đến dắt Lâm Xung đi, khi đi được độ 4, 5 dặm đường, thì xem chừng Lâm Xung lại mỏi mệt quá, không sao mà bước đi được nữa. Bấy giờ trông đằng trước đằng sau đã có mấy khu rừng lớn cây cối um tùm, khói mây mờ mịt, tục gọi tên là Dã Trư Lâm, là một nơi rất hiểm ác quạnh hiu, xưa nay những kẻ vô lương, thường đút tiền cho đám không sai để kết quả tính mệnh biết bao tay hảo hán ở đó.
Khi ấy hai tên công sai cố dìu dắt cho Lâm Xung đi đến khu rừng ấy rồi Đổng Siêu thở dài mà nói rằng:
- Đi suốt cả ngày không được mươi dặm đường, thì bao giờ cho đến Thương Châu?
Tiết Bá nói:
- Tôi cũng mệt lắm không sao đi được nữa, hãy ngồi đây nghỉ một lát vậy.
Nói đoạn ba người cùng vất khăn gói hành lý xuống gốc cây, rồi mằm vật xuống để nghỉ. Vừa đi nằm chợp được một tí, thì bỗng thấy hai tên công sai kêu to lên một tiếng, mà nhảy choàng dậy, Lâm Xung thấy vậy, thì hỏi:
- Các ông làm sao thế?
Tiết Bá, Đổng Siêu bảo Lâm Xung rằng:
- Chúng tôi đương chợp mắt toan nghỉ một tí, nhưng lại sợ không có khóa xích gì, lỡ bác trốn mất thì sao?
- Tôi là thằng hảo hán ở đời, đã bị thế này, thì chịu vậy chứ có khi nào thèm chạy trốn mà chi!
Tiết Bá nói:
- Đành vậy, nhưng chúng tôi không yên tâm, muốn rằng trói bác vào đây thì mới tiện.
- Tùy ý các ông, muốn trói thì trói, chứ tôi có nói gì đâu?
Tiết Bá liền lấy thừng trói Lâm Xung vào gốc cây cẩn thận, rồi cùng với Đổng Siêu vớ lấy gậy, cầm ở tay giơ thẳng cánh lên nhắm ở giữa ót Lâm Xung để đánh. Hỡi ơi!
Hóa nhi thực có nỡ lòng,
Đang tay vùi dập anh hùng mà chơi!
Lấy ai xoay đất chuyển trời,
Trăm năm càng thấy chuyện đời càng đau!
Cây xanh lá biếc một màu,
Hỏi hồn nghĩa hiệp về đâu bây giờ?
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi này gồm hai đoạn văn tự, tả Lâm giáo sư với sự hưu thư, và tả Dã Trư Lâm với sự roi vọt, một đoạn thấy rõ nhi nữ tình thâm, và một đoạn thấy rõ anh hùng khí đỏan, hãy xem tác giả tả văn, những chỗ khác nhau.
Hồi 8:
Mở cánh cổng Sài Tiến đón tân khách
Thử ngón gậy Lâm Xung hạ Giáo Đầu.
Khi đó Tiết Bá giơ gậy nhằm giữa đầu Lâm Xung để đánh, thì bỗng dưng thấy một người thét như sấm ở đằng sau, rồi thấy thanh thuyền trượng đánh vút một cái bắn phăng ngay gậy của Tiết Bá đi lăng lắc đâu mất, đoạn rồi có một vị hòa thượng ở đâu hiện thân đến mà quát rằng:
- Tao ở rừng nầy, nghe hai chúng bây nói đã lâu.
Nói đoạn múa thuyền trượng giơ giới đao, toan đánh hai công sai.
Bấy giờ Lâm Xung mở bừng mắt ra trông thấy vị hòa thượng mình mặc áo trắng, một tay cầm giới đao, một tay cầm thuyền trượng, thì nhận ra ngay là Lỗ Trí Thâm, liền kêu lên rằng:
- Sư huynh hãy khoan tay đừng đánh vội, để tôi nói câu nầy đã.
Trí Thâm nghe nói, dừng tay đao trượng, rồi trừng hai con mắt nhìn Đổng Siêu, Tiết Bá bằng một cách nghiêm khắc đáng kinh. Hai anh ấy thấy vậy thì đứng nhũn người ra, không còn cựa quậy được nữa.
Lâm Xung nói:
- Việc nầy là tại Cao Thái Úy bảo Lục Ngu Hầu sai họ giết tôi, chứ không phải tội tự họ đâu? Nếu sư huynh giết họ thì oan cho họ lắm!
Trí Thâm liền quay sang cắt thừng trói ra, mà dắt Lâm Xung dậy rồi kể chuyện rằng:
- Từ khi tương biệt ở chỗ mua bảo đao rồi, sau nghe bác bị Cao Cầu ức hiếp, bắt đi đày ở Thương Châu, tôi liền đến phủ Khai Phong để tìm mà không gặp. Đến lúc biết tin bị giam ở phòng Sứ Thần, thì tôi đã toan đến đấy, song lại thấy có một tên tửu bảo, đi tìm hai đứa công sai này, để đến bàn thì thầm, to nhỏ với một người nữa tôi liền có bụng ngờ, chắc là nó toan hại bác, cho nên phải cố đi theo. Tối hôm qua vào hàng cơm, thấy hai thằng ăn mày này nó làm trời làm đất, nhúng chân bác vào chậu nước sôi, tôi cũng biết cả, đã tính giết ngay lúc bấy giờ, nhưng lại sợ hàng quán đông người không tiện, cho nên phải thôi. Sáng hôm nay lúc đầu trống canh năm, bác sắp ra đi tôi đã đến đây trước, đoán chắc đến đây tất nhiên quân này nó hại bác, thì tôi sẽ giết đi, ai ngờ quả nhiên thế thực. Giá tôi không sớm ở đây, thì tính mạng bác còn đâu với nó được nữa! Bác cứ yên lặng để tôi giết phăng chúng nó là xong.
- Thôi bây giờ sư huynh đã cứu được tôi rồi, còn giết người ta làm gì nữa.
Trí Thâm quát bảo hai tên công sai rằng:
- Nếu ta không nể anh em bạn, thì ta xé xác chúng bay ra làm mắm đấy.
Nói xong bỏ giới đao vào bao và ra lệnh rằng:
- Hai thằng ăn mày này phải dắt bạn ta đi theo ta mới được.
Hai tên công sai nghe nói cúi đầu cúi cổ nhặt lấy khăn gói cho Lâm Xung rồi hai người lại cùng đỡ Lâm Xung, để đi theo Lỗ Trí Thâm.
Khi ra khỏi rừng được ba bốn dặm đường, thấy có một hàng rượu con con ở đó, Trí Thâm liền dẫn bầy người vào nghỉ. Đoạn gọi tửu bảo lấy bánh và rượu thịt lên để cùng nhau ăn uống.
Bấy giờ hai tên công sai mới khép nép mà hỏi rằng:
- Bẩm sư phụ, người trụ trì ở chùa nào, chúng con chưa được biết?
Lỗ Trí Thâm cười mà đáp rằng:
- Các anh hỏi ta làm gì, định về tâu nộp với Cao Cầu phải chăng? Ta nói thiệt, ai sợ hắn, chứ ta đây không sợ gì đâu? Nếu ta có gặp hắn, thì ta cũng đãi hắn mấy trăm cái thuyền trượng nầy đã.
Hai tên công sai nghe vậy thì câm như miệng hến, không dám nói năng gì nữa. Được một lát cơm rượu xong rồi, liền cùng tính trả tiền hàng, mà cùng nhau trở ra, Lâm Xung hỏi Lỗ Trí Thâm rằng:
- Sư huynh định đi đâu bây giờ?
Trí Thâm đáp rằng:
- Giết người phải lấy máu, cứu người thì phải tới nơi, vậy tất nhiên tôi phải đưa bác sang đến tận Thương Châu, chứ không đành lòng mà để bác đi một mình được.
Hai tên công sai nghe thấy vậy, thì cay đắng trong lòng, chắc rằng mưu kế của mình không thi hành được nữa, nhưng cũng đành chịu vậy thôi. Từ đó các cụ nhất nhất theo ở Trí Thâm, bảo đi thì đi, bảo đứng thì đứng, tử tế ra thì mắng nhiếc, láo xấc ra thì roi vọt, không anh nào dám ho he gì cả. Cách ít lâu thuê được cỗ xe, Trí Thâm để cho Lâm Xung ngồi trên xe mà mình đi đất với hai tên công sai.
Trong khi đi đường, Lỗ Trí Thâm thường mua các thứ rượu thịt cho Lâm Xung ăn, và cả hai tên công sai được ăn ké vào đó. Duy mỗi khi đến hàng quán để nghỉ, thì Trí Thâm lại bắt hai tên công sai phải thổi cơm, hầu hạ luôn cạnh không anh nào dám cưỡng.
Thỉnh thoảng hai anh lại bàn thầm với nhau rằng:
- Việc nầy, khi ta trở về đến Đông Kinh, mà Cao Thái Úy hỏi đến, thì ta biết nói làm sao cho được?
Tiết Bá bàn định một kế rằng:
- Mới đây nghe nói ở vườn rau Giải Vũ thuộc chùa Tướng Quốc, có một lão sư mới đến, tên gọi Lỗ Trí Thâm, có lẽ chính là anh nầy đây hẳn. Nếu quả vậy thì khi ta trở về, ta cứ nói thực với Thái Úy rằng:
- "Chúng tôi định giết Lâm Xung ở rừng Dã Trư, nhưng chẳng may bị lão sư ấy nó ngăn cản, mà nó lại đưa sang đến tận Thương Châu, cho nên không sao mà hạ thủ được". Đoạn rồi hai ta trả lại 10 lạng bạc cho Lục Khiêm cũng được chứ gì.
Hai anh bàn định cẩn thận với nhau, rồi lại chăm chăm theo Lỗ Trí Thâm, mà không hề có một điều gì cưỡng trái.
Khi đi được 17, 18 ngày đường, Lỗ Trí Thâm dò biết là ở đó cách Thương Châu còn có dăm bảy dặm nữa, mà lại toàn là nơi đông đúc sầm uất, chứ không vắng vẻ như trước, thì trong bụng đã hơi yên vững, liền tìm vào một chỗ ngồi nghỉ và bảo với Lâm Xung rằng:
- Từ đây đến Thương Châu đường xá đã đông vui, mà cũng không còn xa mấy nữa, vậy tôi xin từ biệt bác, để rồi khi khác sẽ gặp nhau.
Lâm Xung bồi hồi cảm tạ mà nói rằng:
- Bây giờ sư huynh có về, thì xin nói chuyện đi đường cho nhà tôi được biết, còn tôi đây nếu trời còn cho sống, thì tất nhiên có ngày trả nghĩa sư huynh.
Trí Thâm lại lấy ra mấy lạng bạc đưa cho Lâm Xung, và lại đưa cho đám công sai mấy lạng mà dặn rằng:
- Lũ bây đáng lẽ ta chém cổ đi rồi, nhưng vì ta nể mặt anh em bạn mà tha cho đấy, vậy từ đây trở đi, chúng bay phải nên cẩn thận, đừng trở bụng chó má ấy ra nữa, mà nguy hiểm đến thân nghe chưa?
Hai tên công sai giơ tay ra đỡ lấy tiền, và đáp rằng:
- Bẩm ngài, đó là quan Thái Úy bắt như vậy, chứ chúng tôi đây có bao giờ đem lòng tàn nhẫn mà cư xử với ai!
Nói đoạn vừa mới toan chia tiền với nhau, thì Lỗ Trí Thâm lại trừng mắt nhìn hai tên công sai, rồi lại trông sang gốc cây thông gần đó mà hỏi rằng:
- Đầu chúng bây có rắn bằng cây gỗ thông này không?
- Bẩm ngài, đầu chúng con là thịt da cha mẹ sinh thành, có đâu mà rắn như thế được.
Lỗ Trí Thâm phăm phăm vác cây thuyền trượng đánh vào gốc thông một cái thật mạnh, sâu vào đến hai ba tấc gãy răng rắc xuống một lượt, rồi quay ra thét bảo hai tên công sai rằng:
- Bây trông đó, nếu mà mang tâm phản trắc, thì ta cho đầu chúng bây cũng như cây thông ấy.
Lũ công sai thấy vậy, thì hoa mặt choáng người, mà không dám thở nữa.
Đoạn rồi Trí Thâm đeo đao vác trượng, từ biệt Lâm Xung mà quay trở về. Lâm Xung thấy Trí Thâm quay về rồi, liền bảo đám công sai rằng:
- Bây giờ chúng ta đi đi thôi.
Bấy giờ hai tên công sai vừa tỉnh hồn, định mắt lại mà hỏi Lâm Xung rằng:
- Gớm, nhà sư ấy sao mà khỏe đến thế, đánh gãy hẳn cây thông dễ như bỡn vậy.
- Thế đã thấm vào đâu, đến như cây liễu ở chùa Tướng Quốc ông ấy còn nhổ được cả gốc lẫn rễ lên nữa.
Đổng Siêu, Tiết Bá nghe nói lại trông nhau, lắc đầu le lưỡi mà kinh sợ vô cùng. Đoạn ba người cùng kéo nhau đi.
Trưa hôm ấy đến một tửu điếm ở gần bên cạnh đường cái quan, Lâm Xung bèn mời Đổng Siêu, Tiết Bá vào nghỉ. Khi vào tới nơi, thấy hai ba tên tửu bảo rót rượu mang thịt, đưa hến nơi này đến nơi khác, mà chỗ Lâm Xung ngồi, thì không ai nhìn đến. Lâm Xung đợi mãi một hồi lâu, cũng không thấy gì cả, lấy làm sốt ruột, liền đập tay xuống bàn mà hỏi rằng:
- Chủ nhân đâu? Ngươi khinh ta là kẻ phạm nhân mà không thèm tiếp đến là nghĩa lý gì? Ta có ăn quịt của nhà ngươi đâu?
Chủ nhân nghe nói liền đáp:
- Các ngươi không biết, tôi có lòng tử tế đãi các người đấy.
- Tử tế gì? Khách đến không thèm tiếp, còn gì là tử tế.
- Để tôi nói cho mà nghe: Trong thôn kia có một ông đại tài chủ, tên gọi là Sài Tiến, ở đây thường gọi là Sài Đại Quan Nhân, mà đám giang hồ thì vẫn gọi là Tiểu Đoàn Phong Sài Tiến, vốn là con cháu Sài Thế Tôn nhà Đại Chu khi trước. Từ khi Trần Kiều binh biến nhường ngôi cho Thái Tổ rồi. Vũ Đức hoàng đế mới sắc phong cho thề thư thiết khoán ở nhà ông ta, vì thế mà không ai dám khinh rẻ. Ông ta thích chiêu hào những hảo hán trên đời, cho nên trong nhà lúc nào cũng nuôi đến năm bảy mươi người ở đó! Lại thường dặn ở nhà tôi, nếu thấy những người nào mắc tội đày ải qua đây, thì đưa vào để ông ta giúp đỡ, bởi vậy nên tôi không dám bán rượu cho các người, sợ khi uống rượu đỏ mặt vào, mà tới nơi, thì ông ta lại cho là phong lưu, mà không giúp đỡ nữa chăng!
Lâm Xung nghe nói quay lại bảo với Đổng Siêu, Tiết Bá rằng:
- Khi tôi còn làm Giáo Đầu ở Đông Kinh, vẫn thường nghe thấy tiếng Sài Đại Quan Nhân, nhưng ngày nay mới biết là ở đây, vậy bất nhược ta thử vào đấy xem sao?
Đổng Siêu, Tiết Bá nghĩ một lát rồi nói:
- Như vậy có thiệt hại gì đến ta mà không đi.
Nói đoạn liền thu thập hành lý, mà đến hỏi chủ hàng rằng:
- Nhà Sài Đại Quan Nhân ở chỗ nào, xin chỉ giúp cho, chúng tôi đương tìm đến đấy.
Chủ hàng trỏ về phía trước mặt mà bảo rằng:
- Cách đây độ hai ba dặm đường, đi qua cái cầu đá lớn, rồi đến một chỗ góc đường gần quanh, thì có một nơi trang viện lớn, tức là ở đó.
Lũ Lâm Xung bèn tạ chủ nhân rồi cùng nhau theo lối ấy mà đi. Quả nhiên đi độ 2, 3 dặm đường thì đến một tòa cầu đá lớn, đoạn rồi thấy đường rộng thênh thang, chẳng khác gì một nơi quan lộ, gần trông có một đám tơ liễu xanh rì, hiện ra một tòa trang viện rất to, chung quanh toàn là hào rãnh đào sâu, mà trên bờ trồng tinh dương liễu. Ba người dẫn nhau đi theo con đường lớn, vòng quanh sang mặt tả, thì đến một nơi cầu nhỏ cổng trong.
Bấy giờ có ba bốn tên trang khách, đương ngồi hóng mát ở đó. Lâm Xung cùng hai tên công sai liền vái chào mà nói rằng:
- Dám chào các ông, xin phiền các ông vào nói với Quan Nhân rằng: "Có tên Lâm Xung là phạm nhân ở Đông Kinh qua đây, xin chào yết kiến".
Lũ trang khách nghe nói thì đáp rằng:
- Các ông hôm nay thực là đen lắm, giá có gặp Quan Nhân ở nhà, thì ít ra cũng phải có rượu thịt tiền nong để đãi, nhưng tiếc vì ngài lại mới đi săn sáng hôm nay rồi.
- Bẩm ngài đi săn bao giờ mới về?
- Cái đó không biết đâu là chừng, chỉ sợ ngài lại đi sang nghĩ bên Đông Trang, thì khó lòng gặp được!
Lâm Xung thở dài mà than rằng:
- Nếu vậy, thì chúng tôi kém phúc đức quá! Thôi, xin chào các ông, chúng tôi đi vậy!
Nói xong ba người thui thủi đi ra.
Dặm nghìn nước thẳm non xa,
Tiền đồ man mác ai là tương tri?
Lạ thay trong lúc gian nguy?
Cơn đen đen cả đường đi lối về.
Bấy giờ trong bụng Lâm Xung hơi có phần buồn bã, trách thương cho số phận long đong, đi đến đâu cũng lỡ làng không gặp. Chợt đâu vừa đi được nửa dặm đường, thì thấy một bọn đương cưỡi ngựa ở quãng rừng xa trở lại, đằng trước có một người sang trọng, vào trạc ngoài 30 tuổi, lưng đeo một cây cung, một túi tên, cưỡi con ngựa trắng lông quăn, mà dẫn lũ sau đi về trang viện.
Lâm Xung thấy vậy trong bụng đã đoán chắc là Sài Đại Quan Nhân về đó, song còn ngờ ngợ chưa dám hỏi ngay.
Đương lúc trù trừ chưa quyết, thì đã thấy người ấy phóng ngựa đến trước mặt Lâm Xung mà hỏi rằng:
- Người đeo gông là ai đó?
Lâm Xung thấy hỏi liền cúi đầu chào mà đáp rằng:
- Tôi là Cấm Quân Giáo Đầu Lâm Xung ở Đông Kinh, bị quan Cao Thái Úy ức hiếp, bắt đi đày sang Thương Châu, nhân qua đây thấy nói có quan Sài Đại Quan Nhân là tay hảo hán, hay chiêu hiền nạp sĩ xưa nay, cho nên muốn vào yết kiến, nhưng chẳng may lại không được gặp.
Lâm Xung vừa nói dứt lời, thì người kia vội nhảy xuống ngựa đi gần đến tận nơi mà nói rằng:
- Nếu vậy thì tôi xin lỗi, không nghênh tiếp được ngài, xin ngài tha thứ cho.
Nói xong cúi rạp xuống đất mà lạy, đoạn rồi dắt Lâm Xung đi vào trang viện.
Khi vào tới nhà khách, Sài Tiến mời Lâm Xung ngồi chơi rồi nói:
- Chúng tôi được nghe danh Giáo Đầu đã lâu, nay ngài lại đến đây cho tôi được thừa tiếp, thì thực là thỏa lòng khát vọng vô cùng.
- Lâm Xung tôi vẫn biết tiếng Quan Nhân, khắp trong bốn bể ai ai cũng có lòng kính phục, nhưng hiềm vì chưa có dịp nào mà bái yết tôn nhan, nay vì bước oan khổ lưu ly, mà lại được tới đây để hầu ngài như thế, thì thực may lắm.
Sài Tiến khiêm tốn hồi lâu, rồi gọi trang khách sai dọn rượu để uống.
Lâm Xung có ý từ chối mà rằng:
- Quan Nhân có lòng hạ cố như thế là quá đáng, còn đâu dám phiền nhiễu làm chi!
Sài Tiến nhất định không nghe, đáp rằng:
- Mấy khi Giáo Đầu đến đây, có lẽ nào lại vô lễ như thế được.
Nói đoạn thúc trang khách lấy rượu lên, rót luôn ba chén mời Lâm Xung. Lâm Xung uống ba chén, lại rót ba chén để tạ lại Sài Tiến. Đoạn rồi Sài Tiến tháo cung bỏ tên, đưa người nhà cất đi, mà ngồi tiếp rượu Lâm Xung. Sài Tiến nhường Lâm Xung ngồi khách vị mà tự mình ngồi chủ vị, còn hai tên công sai thì ngồi dưới Lâm Xung. Được một lát mặt trời đã lặn non tây, người nhà lại bày các thực phẩm la liệt trên bàn, nào là hải vị sơn hào, không gì là không có.
Sài Tiến cất chén mời Lâm Xung uống rượu, lấy các món nhắm rồi giở chuyện giang hồ, đàm luận với nhau rất là vui thú.
Đương khi chén tạc chén thù, thì thấy trang khách vào báo rằng:
- Có Hồng Giáo Sư sang chơi.
Sài Tiến quay bảo trang khách rằng:
- Bây mời vào đây, uống rượu một thể cho vui.
Đoạn rồi sai người kê thêm bàn ghế, để ngồi tiếp vào đó.
Khi Hồng Giáo Sư vào, Lâm Xung đoán chắc là thầy dạy Sài Tiến liền đứng dậy cúi đầu mà chào rằng:
- Tôi Lâm Xung kính chào Giáo Sư.
Hồng Giáo Đầu nghe thấy Lâm Xung chào, thì cứ lặng yên không chào lại, mà cũng không thèm để mắt tới. Lâm Xung thấy vậy, thì cúi mặt xuống mà không dám ngẩng đầu lên. Sài Tiến trỏ vào Lâm Xung mà bảo Hồng Giáo Đầu rằng:
- Ông này là Lâm Xung Giáo Đầu, dạy 80 vạn cấm quân ở Đông Kinh đấy, xin giới thiệu để ngài biết.
Lâm Xung thấy Sài Tiến nói xong, liền cúi rạp xuống đất, lạy chào Hồng Giáo Sư. Bấy giờ Hồng Giáo Sư cũng không đáp lễ, mà chỉ nói một câu rằng:
- Thôi đừng lạy nữa.
Sài Tiến thấy vậy, trong lòng có ý không thích, song cũng không dám nói ra, Lâm Xung lạy xong rồi, nhường Hồng Giáo Sư ngồi lên trên, mà lui xuống ghế dưới, Hồng Giáo Đầu cũng cứ ngồi phăng ghế trên, mà không khiêm tốn một chút gì cả, Sài Tiến thấy vậy, trong lòng lấy làm khó chịu, không bằng lòng chút nào cả, song không muốn nói ra.
Hồng Giáo Sư ngồi một lát rồi mới hỏi Sài Tiến rằng:
- Hôm nay làm sao Đại Quan Nhân lại hậu đãi một kẻ đi đày như thế?
Sài Tiến nói:
- Ông nầy là Giáo Đầu dạy 80 vạn Cấm binh ở Kinh Sư, chứ chẳng phải là người thường đâu?
- Chết nỗi! Đại Quan Nhân lầm rồi, vì ngài hay thích chơi võ nghệ, cho nên bao nhiêu bọn tù tội qua đây, cũng nói hươu nói vượn, mượn tiếng Giáo Đầu mà kiếm chén đó thôi, Quan Nhân tưởng họ là thực hay sao?
Lâm Xung nghe vậy, cứ ngồi lặng yên, không nói gì hết cả.
Sài Tiến bảo Hồng Giáo Đầu rằng:
- Người ta giả mạo sao được, ông chớ coi khinh nữa, mà...
Hồng Giáo Đầu nghe đến đó, thì đứng phắt ngay dậy mà nói rằng:
- Tôi chẳng khinh ai, nhưng nếu hắn có dám đi với tôi một bài gậy, thì mới có thể biết là Giáo Đầu hay không được.
Sài Tiến cả cười mà rằng:
- Tốt lắm! Tốt lắm! Lâm Võ Sư nghĩ sao?
Lâm Xung ra dáng khiêm tốn mà đáp rằng:
- Chúng tôi có đâu dám thế.
Hồng Giáo Đầu thấy vậy, đoán chắc là Lâm Xung không biết gì, liền làm bộ thách thức già lên. Bấy giờ Sài Tiến vừa phần muốn xem võ nghệ của Lâm Xung, có giỏi hay không, vừa phần thì cũng muốn Lâm Xung đánh đổ Hồng Giáo Đầu, để cho hết múa mép, liền nói lên rằng:
- Được lắm! Hãy xin uống rượu đã, để chốc nữa trăng mọc rồi sẽ hay.
Nói xong hai người cùng ngồi uống rượu. Khi uống được năm bảy chén, thì bóng Nga đã vằng vặc rạng soi trước cửa, Sài Tiến liền đứng dậy mà nói rằng:
- Bây giờ hai vị Giáo Đầu, thử đấu một ngọn xem sao?
Lâm Xung nghe nói, cũng muốn đấu chơi, nhưng lại e khi đánh ngã ông Giáo Sư ấy, thì dối với Sài Tiến có điều gì không tiện, nên đành phải ngồi im, không dám nói gì cả.
Sài Tiến biết Lâm Xung có ý trù trừ, liền nói lên rằng:
- Hồng Giáo Sư cũng mới đến ở đây, song vùng này không có ai là địch thủ, vậy Lâm Võ Sư đấu thử xem sao? Không có điều chi mà ngại! Vả tôi cũng muốn nhân đây được xem võ nghệ của các ngài một thể, xin ngài chớ từ nan.
Lâm Xung nghe Sài Tiến nói câu ấy, mới hiểu rõ ý tứ, liền muốn đứng dậy để đánh thử ngay. Bấy giờ Hồng Giáo Đầu lại đứng lên trước mà thách thức rằng:
- Nào, mau lên, thử đấu với ta một bài xem sao!
Nói xong nhảy ra sân cởi áo ngoài ra, rồi lấy một cây gậy múa may xoay xở, mà kêu lên rằng:
- Ra đây, mau, mau!
Sài Tiến thấy Hồng Giáo Đầu ra dáng cấp bách, liền nói với Lâm Xung rằng:
- Võ Sư cứ thử đi một bài có ngại chi!
Khi đó Lâm Xung làm ra dáng rụt rè mà nói:
- Xin Quan Nhân chớ cười mới được.
Nói xong liền lấy một cây gậy chạy ra sân, bảo Hồng Giáo Đầu rằng:
- Xin ngài tha lỗi cho.
Hồng Giáo Đầu thấy Lâm Xung bước ra, thì trong bụng tức giận, muốn nuốt sống được ngay mới thích, liền vác gậy đến đấu luôn, mà không nói năng gì cả. Hai người mới quần nhau được độ năm bảy hiệp, thì Lâm Xung bỗng nhảy ra ngoài mà kêu lên rằng:
- Hãy khoan!
Sài Tiến thấy vậy, chạy đến hỏi Lâm Xung rằng:
- Sao Võ Sư đương đấu lại thôi thế?
- Thưa ngài, có lẽ tôi thua mất.
- Có lẽ đâu vừa đánh mấy hiệp mà đã thua ngay thế được.
- Thưa ngài, vì tôi còn bị gông trói vướng mắc, tất nhiên không thể nào đấu được.
Sài Tiến nghe vậy, liền cười mà nói rằng:
- Trời ôi! Tôi quên đi mất đấy, được có khó gì đâu.
Nói đoạn sai người lấy 10 lạng bạc liền đưa cho đám công sai mà bảo rằng:
- Thế nầy thì không phải, tôi phiền hai ông làm ơn hãy tạm tháo gông cho Lâm Giáo Đầu một lúc. Rồi sáng mai đi, sẽ lại lắp vào tử tế, nếu có xảy chuyện gì, trách nhiệm tôi xin chịu cả? Mười lạng bạc đây xin bác nhận lấy cho.
Đổng Siêu, Tiết Bá thấy Sài Tiến là tay lỗi lạc phi thường, thì cũng không dám trái ý, vả chăng lại được 10 lạng bạc bỏ túi, mà Lâm Xung cũng không có lẽ trốn ngay đi đâu được, vậy thì làm gì không nhận cho xong, liền nhận ngay lấy tiền, mà tháo gông cho Lâm Xung lập tức.
Sài Tiến cả mừng mà reo lên rằng:
- Nào bây giờ hai ông Giáo Sư thử một keo xem sao?
Khi đó Hồng Giáo Đầu thấy tay gậy của Lâm Xung lúc trước cũng hơi có vẻ rối loạn, thì trong bụng đã coi thường, mà cho là không thấm vào đâu, liền xăm xăm chạy toan ra để đánh.
Sài Tiến lại dìu Hồng Giáo Đầu khoan lại, rồi gọi trang khách lấy lên 25 lạng bạc, mà nói rằng:
- Món tiền này gọi là tạm làm tặng vật, vậy nếu ngài nào được, thì xin thu lấy cả cho.
Hồng Giáo Đầu thấy vậy, lại múa mang đầu gậy diễn ra một thế "Bả hỏa siêu thiên" để nạt Lâm Xung kinh sợ, bên kia Lâm Xung hiểu ý Sài Tiến muốn cho mình được, nên mới quăng tiền ra như vậy, liền cũng múa gậy mà diễn thế "Bát thảo tâm sà"một lúc.
Bấy giờ Hồng Giáo Đầu thét lên một tiếng, rồi vác gậy xông vào đánh Lâm Xung, Lâm Xung lùi về đằng sau một bước, Hồng Giáo Đầu sấn lên một bước, rồi giơ gậy vụt luôn một cái nữa.
Lâm Xung xem những cách tiến thoái của Hồng Giáo Đầu hơi loạn, liền giơ gậy lia từ mặt đất lia lên một cái rất mạnh, Hồng Giáo Đầu không kịp giở tay đỡ, bị đầu gậy của Lâm Xung đánh vào đầu một cái nên thân, đoạn rồi bật hẳn cây gậy ở trong tay đi, mà ngã xuống đất.
Sài Tiến thấy vậy mừng reo lên, rồi gọi người lấy rượu ra rót mừng Lâm Xung một chén, còn Hồng Giáo Đầu thì ngã xuống sân mà gượng mãi không sao dậy được, chúng thấy thế ai cũng cười ầm cả lên, rồi túm vào để đỡ Hồng Giáo Đầu dậy. Hồng Giáo Đầu bò được dậy lấy làm hổ thẹn quá chừng vội lẻn cút đi lúc nào, không ai biết nữa.
Bấy giờ Sài Tiến dắt tay Lâm Xung vào nhà trong, mời ngồi đánh rồi lại sai đem tiền thưởng cho Lâm Xung, Lâm Xung từ chối không được, sau bất đắc dĩ phải cảm ơn, mà nhận lấy cho xong. Đoạn rồi Sài Tiến lưu Lâm Xung ở luôn trong trại năm bảy hôm nữa, thiết đãi rất là long trọng. Sau đám công sai thấy lưu luyến quá lâu, bèn có ý thúc giục, để cho Lâm Xung ra đi.
Sài Tiến biết thế không lưu được, liền đặt tiệc tiễn hành, và viết hai phong thư đưa cho Lâm Xung mà dặn rằng:
- Quan Đại Doãn ở Thương Châu đối với tôi rất là tử tế, mà thấy người Quản doanh hay là Sai Bát ở đấy thì lại là thân mật với tôi lắm, vậy tôi gửi hai phong thư này, xin ngài cứ đưa cho họ, tất là họ phải biệt nhãn đãi ngài.
Nói đoạn lấy 25 lạng bạc đưa tặng Lâm Xung, và lấy 5 lạng bạc tặng lũ công sai một thể. Sáng hôm sau cơm nước xong rồi, Sài Tiến sai trang khách quảy hành lý đi theo ba người, bấy giờ Lâm Xung lại đeo gông như trước, và từ biệt Sài Tiến để lên đường.
Sài Tiến tiễn chân ra đến cổng trang, mà dặn rằng:
- Bây giờ ngài sang đây phải bảo trọng lấy thân, rồi đến mùa đông thì tôi xin đưa quần áo rét sang để ngài dùng cẩn thận.
Lâm Xung bái tạ mà rằng:
- Tấm lòng nhân hậu của Quan Nhân, bao giờ tôi báo được.
Đoạn rồi hai tên công sai cũng bái tạ Sài Tiến mà đi.
Ân cần trong lúc chia tay,
Anh hùng ly biệt cho hay khác thường!
Trưa hôm ấy, ba người đi tới thành Thương Châu, liền cho đám trang khách trở về, rồi ba người cùng mang lấy khăn gói hành lý mà vào chầu nha để đệ trình công văn.
Khi Châu Doãn xem xong, rồi phê một đạo hồi văn giao cho hai tên trở về Đông Kinh, còn Lâm Xung thì giao xuống phòng đề lao để đợi lệnh.
Lâm Xung bước vào phòng đợi ở đề lao, đã thấy bao nhiêu những tội nhân, lao xao chạy đến, bảo với Lâm Xung rằng:
- Ở đây có một người Quản Doanh và một người Sai Bát, đều là những tay ghê gớm bất nhân cả. Nếu có tiền nong đút lót thì họ còn cho được tử tế, bằng không thì họ đút ngay vào nhà hầm làm cho khốn nạn không sao mà chịu được nữa. Lại còn có một cách, nếu mình có tiền cho họ, thì khi bắt đầu vào đỡ phải chịu 100 roi ra oai, chỉ nói dối là có bệnh cũng được, thế mà không có tiền, thì làm thế nào họ cũng đánh đủ 100 roi ấy, dẫu có sống được cũng đến tồi tàn đau đớn mới thôi.
Lâm Xung nghe nói liền hỏi:
- Như vậy thì phải đưa bao nhiêu tiền mới xong?
- Muốn được cho tử tế, thì hai người ấy, tất phải đưa mỗi người 5 lạng bạc mới xong.
Đương khi nói chuyện, thì đã thấy tên Sai Bát đến hỏi rằng:
- Tên nào là tên phạm tội sung quân mới đến? Đâu?
Lâm Xung thấy hỏi vậy, bèn đứng lên nói rằng:
- Thưa chúng tôi đây ạ.
Sai Bát thấ Lâm Xung nói vậy, mà không có tiền nong gì đưa ra, liền biến hẳn sắc mặt đi, rồi trỏ vào Lâm Xung mà mắng rằng:
- Thằng nầy gớm thực, sao mầy trông thấy tao mà mầy không lạy? Mầy có biết khi ở Đông Kinh làm nên tội ác thế nào? Thế mà đến đây mầy còn lên mặt với tao à? Tao nom mặt thằng nầy xám xì lại, như thế là đời mầy không có lúc nào mà ngóc cổ lên được đâu? Mầy là đồ băm không đứt, đánh không chết, mà lại lạc vào tay ta, để rồi chốc nữa ta cho mầy biết.
Sai Bát vừa nói vừa mắng, tháo thốc luôn một hồi, mắng lấy mắng để làm cho Lâm Xung muốn nói cũng không biết nói vào đâu được nữa! Lũ tội nhân đương đứng quanh đấy, thấy vậy thì lảng vảng cút cả mỗi anh một nơi.
Bấy giờ còn một mình Lâm Xung đứng lại, đợi cho hết cơn gắt, liền lấy ra 5 lạng bạc đưa cho tên Sai Bát rồi làm bộ vui cười mà nói rằng:
- Thưa bác, tôi có 5 lạng bạc gọi là có chút lòng thành xin bác nhận giúp cho.
Sai Bát trông thấy 5 lạng bạc liền hỏi:
- Cái này là đưa cho ông Quản Doanh với tôi nữa đây, có phải không?
- Không, đây là tôi kính tặng riêng ngài, còn ông Quản Doanh thì tôi đã có mười lạng bạc đây, để tôi phiền bác đưa giúp hộ cho.
Bấy giờ tên Sai Bát nhìn Lâm Xung rồi cười mà bảo rằng:
- Lâm Giáo Đầu, tôi nghe tiếng Giáo Đầu đã lâu, thực là một tay hảo hán ở đời, chẳng qua Cao Thái Úy thù hằn mà hãm hại đấy thôi, nhưng thế nào mặc lòng, sau này tất nhiên cũng khá, vì một người tướng mạo đường đường, mà lại có tiếng tăm lừng lẫy như Giáo Đầu thì làm chi mà chẳng phen chức trọng quyền cao uy quyền to tát... !
Lâm Xung nghe đến đó đã chán cả tai, liền nói lên rằng:
- Vâng, thôi trăm sự nhờ ở bác cả, đây tôi có bức thư Sài Đại Quan Nhân gửi đến, phiền bác làm ơn đưa cho ông Quản Doanh giúp hộ.
Nói đoạn đưa bức thư ra cho viên Sai Bát.
Sai Bát nói:
- Được lắm, có bức thư của Sài Đại Quan Nhân, thì cũng như thêm 10 lạng bạc nữa rồi còn ngại điều chi? Nhưng nếu lát nữa Quản Doanh có đến đây, gọi đánh 100 roi ra oai, thì Giáo Đầu cứ bảo là mới ốm dậy, để rồi tôi nói đỡ cho, như thế thì người khác họ khỏi ngờ.
Nói xong nhận lấy thư và tiền rồi đi ra.
Lâm Xung thấy thế thì thở dài, than một mình rằng:
- "Tha hồ nghĩa nặng tình sâu, Anh em máu mủ chẳng đâu bằng tiền" thế gian nói không sai câu gì cả!
Bấy giờ tên Sai Bát nhận 10 lạng bạc và một bức thư của Lâm Xung, thì chàng ăn xén đứt đi 5 lạng, chỉ còn có 5 lạng, đưa lên cho Quản Doanh, mà tán tỉnh Lâm Xung là tay giỏi tay tài, chỉ vì Cao Thái Úy giá vạ vừa oan, chứ chẳng có tội chi là nặng, vả chăng lại có thư của Sài Đại Quan Nhân gửi đến đây, thì tất nhiên phải xử lý cho khác người ta mới được.
Quản Doanh xem thư xong, rồi cho người đòi Lâm Xung lên điểm danh. Khi Lâm Xung lên tới nơi Quản Doanh bảo ngay rằng:
- Anh là phạm nhân ở bên Đông Kinh mới đến đây phải không? Theo như luật cũ có đức Thái Tổ Vũ Đức Hoàng Đế, phàm người nào mới đến sung quân, tất phải chịu 100 roi đòn ra oai trước đã, vậy tả hữu đâu, đem tên phạm mới ra đánh cho ta!
Lâm Xung nhớ lời Sai Bát dặn liền kêu lên rằng:
- Bẩm, chúng tôi đi đường xa bị bệnh chưa được khỏi, xin hãy cho tạm khất ít bữa, sẽ xin theo lệnh.
Tên Sai Bát đứng bên đỡ lên rằng:
- Người y hiện đương có bệnh thực, xin ngài hãy khoan thứ cho hắn.
 Quản Doanh nghe nói truyền rằng:
- Hiện nay người khán thủ ở Thiên Vương Đường mắc hạn đã lâu, vậy để cho Lâm Xung sang thay người đó.
Quản Doanh cũng ưng thuận liền, phê giấy cho Sai Bát đưa Lâm Xung sang Thiên Vương Đường. Sai Bát dẫn Lâm Xung vào phòng đề lao, lấy hành lý rồi cùng ra đi mà bảo rằng:
- Giáo Đầu ôi! Tôi thực là hết lòng hết sức, mới để cho Giáo Đầu ở Thiên Vương Đường này, chỉ sớm khuya quét tước dầu đèn, rất là nhàn hạ. Giáo Đầu thử xem những người khác xem, có phải là làm vất vả cả ngày, mà không được yên không? Lại còn những anh không có gì, thì còn đút vào trong hầm đất, chết không ra chết, sống không ra sống, thế thì khổ biết bao nhiêu!
Lâm Xung nghe nói thì cảm ơn, rồi đưa mấy lạng bạc nữa cho Sai Bát mà bảo rằng:
- Phiền bác làm ơn giúp tôi thế nào cho tôi được tháo gông ra một thể?
Sai Bát vâng lấy vâng để, rồi về kêu với Quản Doanh, mà tháo gông cho Lâm Xung ngay lập tức.
Từ đó Lâm Xung coi giữ ở Thiên Vương Đường, sớm hôm chỉ đèn hương quét tước trong nhà, không có việc chi là khó nhọc. Quản Doanh với Sai Bát, anh nào cũng đã vớ được ít tiền của Lâm Xung đút lót, cho nên cũng phó mặc tự do mà không sai khiến đến. Thỉnh thoảng Sài Đại Quan Nhân lại gửi sang cho ít quần áo tiền nong, để Lâm Xung chi dụng, thành ra đôi khi Lâm Xung lại được dư dật, mà cứu đỡ cho bọn tù túng thiếu đói chung quanh.
Sớm hôm thay đổi, ngày tháng lân la, cái thân hào hiệp giang hồ dẫu bó buộc vào nơi cương tỏa, nhưng một mình ăn ở ra vào, cũng chẳng có điều cho là thúc bách băn khoăn, bởi thế mà hạ hết đông sang, cảnh trời đã xoay chuyển thế nào không biết.
Một hôm vào khoảng giữa buổi trưa, Lâm Xung lững thững ra ngoài cửa đình, đi bách bộ chơi, chợt thấy có người gọi ở phía sau mà hỏi rằng:
- Lâm Giáo Đầu! Ngài đi đâu mà lại ở đây?
- Lâm Xung nghe gọi lấy làm ngạc nhiên, không hiểu là ai, liền quay đầu lại xem.
Ngậm ngùi nước thẳm non xa,
Nào ai quen biết đâu mà hỏi han?
Chẳng hay con Tạo đa đoan
Còn mang oan nghiệt mà toan ghẹo người?
Thôi thôi chấp hết chuyện đời
Gan già nuốt lệ gượng cười đã quen
Bốn phương trăng gió giáp gìn,
Đi đâu mà chẳng là duyên giang hồ?
Lời bàn của Thánh Thán:
Văn chương là một thứ lạ, ví như mây mái trên trời non sông dưới đất, hoa cỏ thú cầm...thiên hình vạn trạng, biến ảo khôn lường...Hỡi ôi văn chương diễn đạt hay là sáng tác, nếu không như muôn hình biến ảo thì không bao giờ lộ ra hết những cái hay cái thú của văn chương?
Ta nói thế là sao? Như chuyện đánh Lâm Xung ở giữa rừng, mà Trí Thâm tới cứu, nhà sư đâu đến như ở trên trời xuống vậy. Nay xem phép tả thuật, sao mà thấy biến ảo như thế? Đoạn thứ nhất, mới thấy thuyền trượng đưa đến, đoạn thứ hai, một hòa thượng nhảy ra, đoạn thứ ba, nhà sư áo trắng dùng thuyền trượng giới đao, đoạn thứ tư mới rõ là Trí Thâm. Nếu đem họ Công Cốc, Đại Đái hai nhà danh sử viết ra, cũng nói từ thuyền trượng, đến nhà sư...song chưa bằng ở đây chép ra rất đột ngột, mà có thứ tự, đương lúc nguy nan của truyệïn nhân, chợt đâu một chuyện diễn ra, hoãn lại, khiến độc giả cũng kinh tâm loạn mục huống chi lũ công sai khi ấy khiếp sợ không dám hỏi tên họ, bút pháp đến thế rất là biến ảo.
Lại như hồi trên tả Lâm Xung, không thể không gác chuyện Trí Thâm vì về bước sinh ly của Lâm Xung phải tả luôn cho thấy thống khổ. Đó là cái khéo của phép hành văn, cho đến hồi này mới tả theo miệng Trí Thâm thuật lại, là kể từ lúc Lâm Xung gặp nạn đúng như lời thuật của Trí Thâm đã dự biết rồi khác nào mưa rừng theo gió vậy.
Lại lúc công sai tức giận Trí Thâm, lẽ nào chẳng hỏi, vừa hỏi đã bị ngay Trí Thâm chặn họng không dám hỏi nữa. Độc giả cũng không biết rõ là ai. Cho đến lúc Trí Thâm khoe thuyền trượng, Lâm Xung nhân đó nói ra như người ấy đã nhổ cây dương liễu tại chùa Đại Tướng Quốc đã trả lời gián tiếp công sai hỏi từ trước, mà không được trả lời, một nhân sự đâu tới biết rằng phải hỏi đến thì không nói, thế mà sau không hỏi, lại có sự nói ra, khác nào Rồng ở trên cây, thấy giải đằng đông thấy móng đằng tây, thật là ngòi bút kỳ diệu!
Lại như Hồng Giáo Đầu muốn đấu võ, lại gặp Sài Quan Nhân mời uống rượu, đấy đã một lần nhụt lại khiến người ta trong bụng không vui, mà Lâm Võ Sư ngần ngừ chưa dám, đến lúc đấu võ, được bốn năm hiệp, Lâm Giáo Đầu nhảy ra, nói rằng còn bị đóng gông, xin ngừng lại tháo gông, khiến Sài Tiến xin tháo gông xong đã, hai ba lần nhụt lại thò ra, khiến độc giả bút phép viết lên kỳ tuyệt.
Lại như lúc Hồng Giáo Đầu vào tỷ thí, một phần tả Hồng Giáo Đầu, một phần tả Lâm Giáo Sư, một phần tả Sài Đại Quan Nhân, có thể gọi là rất phức tạp và rất vội vàng, thế mà trung gian còn tả thêm hai người công sai, thì tác giả phải tĩnh tâm nhanh việc mới nổi.
Lại như Sai Bát nói ra mấy lời lật mặt, sau tiếp tả luôn Sai Bát mấy lời vui vẻ biết người, văn tự so lên, trở nên hài hước, đó là ba lan của văn chương, cần ỡ sự xẩy ra gần mới hay, nếu xảy ra xa nhau, không lấy gì làm thú! Nếu như bỗng dưng thấy thuyền trượng xẩy đến, rồi sau thuyền trượng ra đi, ba lan chỉ ở một thiên đầu với cuối; Lâm Xung khi đến, Sài Tiến đi săn, Lâm Xung ra đi, Sài Tiến trở về, chỉ trong một truyện từ đầu tới cuối. Đó lại là một điều nhận ra như thế.
Những chuyện như thế, đều như máy mài, non sông, cỏ hoa, cầm thú...kia biến ảo khôn lường, truyện Thủy Hử phép văn như vậy, nên xét cho ra.
Trong một hồi này, ngoài chính văn ra, tả đến bàng văn, xem chuyện đút của, mấy lần chí ý; như Lục Ngu Hầu lót cho công sai 10 lạng bạc còn hứa khi xong việc, thì thêm 10 lạng nữa, 1 lần đáng ngán; Ôi! Lục Ngu Hầu là người thế nào, mà lót 10 lạng bạc, mà 10 lạng bạc có đáng kể đâu, mà cần có một người tới đút, khiến Lỗ Trí Thâm biết mà cứu tới nơi, công sai không làm gì nổi, 2 lần đáng ngán: Ôi 10 lạng bạc, toan tính với nhau, mà tính mạng Lâm Xung chẳng kể, rồi hai người bàn bạc đánh trả lại 10 lạng bạc cho xong, 3 lần đáng ngán; Bốn người ở trong hàng mà hai người tính vụng ngoài 10 lạng bạc, không có việc gì hơn hỏi thăm Sài Tiến đi vắng, trang khách cũng không nói săn đón, lại rằng: Các ông chẳng may, nếu Sài Quân ở nhà, thì phải có cơm rượu tiền nong đối đãi, 4 lần đáng ngán; Rượu thịt tiền nong, đối với tiểu nhân mới nên nói rủi may, mà Hồng Giáo Đầu khinh miệt Võ Sư, cũng rằng đến gạt rượu cơm tiền nong, 5 lần đáng ngán; Ôi tiểu nhân khinh miệt quân tử chẳng phải vật chất, mà thôi, Võ Sư muốn tháo gông, Sài Tiến lót 10 lạng bạc, công sai cũng bằng lòng, 6 lần đáng ngán; Bạc kia để sẵn, phép luật triều đình, cũng đến nể nang, mà Hồng Giáo Đầu thua cuộc, đoạn Đại Quan Nhân đem 25 lạng bạc khiến nên, 7 lần đáng ngán; Của sẵn để đấy, thân phận danh dự không tiếc, Sài Tiến nêu ra, do 25 lạng bạc, 8 lần đáng ngán; Dẫu rằng thánh hiền hào kiệt, có tâm sự quang minh, cũng phải do đấy kính yêu, nếu bằng không thì rất là nhạt nhẽo, hai công sai cũng vì 5 lạng bạc, cho nên ra khỏi, Lâm Võ Sư tạ ơn, hai công sai cũng tạ ơn, 9 lần đáng ngán; Có của ấy thì thù ghét cũng thân, thú vật cũng mến, hết sức ra ngoài thân phận, Sai Bát tranh lấy, đã tranh của Quản Doanh 5 lạng bạc, thế mà khi chửa đưa, thì ra mặt chửi mắng khi đã đưa tiền, thì giở mặt khen lao, 10 lần đáng ngán; Ngần xưa tin nhau, không đổi lòng ngay, Võ Sư lót 10 lạng bạc cho Quản Doanh, Sai Bát ngắt 5 lạng, chỉ đưa 5 lạng, 11 lần đáng ngán; Có của thì cái gì mà chẳng trọn vẹn, không có của còn ai giúp sức, bọn tù được Lâm Xung giúp đỡ, 12 lần đáng ngán, chỉ vì có của cho người, mà cảm Lâm Xung ân nghĩa, ai cũng ngợi khen, tiếng khen đoạn của tạo nên thì kẻ sĩ thường nghèo, chẳng dám ở nhà học đạo, mà theo với thế gian thì chẳng biết gì thời vụ, há chẳng đáng thương thay!
Hồi 9:
Một mũi dao, moi gan quân tàn ác;
Ba chén rượu, say tít cả giang sơn
Bấy giờ Lâm Xung thấy người gọi, liền quay lại xem, thì nhận ra là Lý Tiểu Nhị, ở Đông Kinh khi trước, liền hỏi lên rằng:
- Kìa Tiểu Nhị! Nhà ngươi cũng ở đây sao?
Nguyên tên Tiểu Nhị khi trước còn làm công cho một tửu điếm ở Đông Kinh, thỉnh thoảng lại được Lâm Xung giúp đỡ cho ít nhiều, sau tên ấy ăn cắp tiền của chủ, bị người ta bắt được đem đến nộp quan, Lâm Xung lại che chở cho, rồi cho tiền để đến hồi thoát nạn. Đến khi tên ấy không muốn ở Đông Kinh nữa, thì Lâm Xung lại cho tiền nong làm vốn, để đi kiếm chỗ khác mà làm ăn.
Khi ấy Lý Tiểu Nhị thấy Lâm Xung quay lại hỏi; liền cúi xuống lạy chào mà rằng:
- Thưa ân nhân, từ khi được ân nhân cứu vớt cho đi, sau lại bị lênh đênh không gặp, mà lần lữa đến mãi Thương Châu, tìm vào một tửu điếm họ Vương để ở, khi ở đấy được ít lâu, thì hàng quán một ngày một phát đạt, mà khách hàng ăn ai cũng đến khen là làm ăn sạch sẽ. Bởi vậy chủ nhân có lòng yêu dấu mà gả con gái và bắt gửi rể ở luôn ngay đó. Tới nay hai ông bà ấy chết đi rồi, mà con trai không có, cho nên vợ chồng con được thừa hưởng ngôi hàng ấy mà buôn bán ở đây, vậy dám hỏi ân nhân có việc gì, mà cũng đến đất này như thế?
Lâm Xung trỏ lên cái kim ấn ở trên mặt mà đáp rằng:
- Ta chỉ vì lão Cao nó không bằng lòng, cho nên nó sinh sự bắt sung quân ở đây, hiện nay quan sai ta giữ Thiên Vương Đường đó.
Lý Tiểu Nhị nghe nói, liền mời Lâm Xung về tửu điếm, bắt vợ ra lạy chào mà nói:
- Vợ chồng chúng tôi ở đây đương buồn về nỗi không có ai là người thân thích, thế mà nay lại được ân nhân đến đây, thì thực là hạnh phúc vô cùng.
Lâm Xung thấy vậy liền đáp rằng:
- Tôi bây giờ đương cơn hoạn nạn thế này, chỉ e có điều làm giảm mất danh giá của vợ chồng anh thôi.
- Sao ngài dạy thế, tiếng ngài lừng lẫy khắp cả mọi nơi, còn ai không biết đến bao giờ, nay ngài ở gần đây, nếu có quần áo gì, xin cứ đưa ra ngoài này, để nhà tôi vá khâu giặt giũ, không hề dám quản công.
Nói đoạn liền dọn rượu ra thiết đãi Lâm Xung, rồi mãi đến tối mới đưa về Thiên Vương Đường để nghỉ. Từ đó Lý Tiểu Nhị thỉnh thoảng lại mời Lâm Xung ra chơi uống rượu, hoặc khi lại đưa các thức ăn uống vào trại cho Lâm Xung, còn các thức quần áo giặt giũ, vá may đều nhờ ở tay vợ chồng Tiểu Nhị, nhân thế Lâm Xung cũng được thư nhàn dễ chịu, mà đôi khi có được đồng nào lại đưa cho vợ chồng Tiểu Nhị, để thêm làm vốn buôn.
Tháng ngày thấm thoát, một hôm vào giữa mùa đông, Lý Tiểu Nhị đương đứng ở cửa, chợt trông thấy có một người đi vào trong hàng ngồi đó, rồi lại có một người nữa nối gót theo vào sau. Người đi trước trông ra dáng một viên chức quan quân, mà người đi sau thì ra vẻ tên lính hầu chi đó.
Khi hai người vào cùng ngồi ở một bàn, Lý Tiểu Nhị liền hỏi:
- Các ngài xơi cơm rượu chăng?
Người kia đưa ra một lạng bạc cho Lý Tiểu Nhị mà bảo rằng:
- Bác hãy cất tiền này đi, rồi cho tôi bốn bình rượu ngon ra đây, rồi lúc nào có khách sẽ bày các món ăn lên, không cần phải hỏi.
- Ngài định mời ai đến đây?
- Tôi phiền bác vào trong dinh mời giúp ông Quản Doanh và ông Sai Bát ra đây giúp. Nếu các ông ấy có hỏi là ai mời thì bác cứ nói rằng: "Có Quan Nhân ngồi đợi có việc cần"nhé.
Lý Tiểu Nhị vâng lời, một lát hai người cùng đến.
Khi tới nơi hai người kia đứng lên chào Quản Doanh và Sai Bát, rồi mời ngồi. Quản Doanh có ý rụt rè mà hỏi rằng:
- Chẳng hay các ngài ở đâu tới, chúng tôi không được biết?
- Xin các ngài hãy ngồi chơi, rồi một lát ngài xem thư đây sẽ biết.
Nói xong quay ra báo Tiểu Nhị lấy rượu, và bày các thứ lên. Đoạn rồi rót rượu mời hai người kia uống, rồi quay lại bảo Lý Tiểu Nhị rằng:
- Thôi anh cứ đi chỗ khác, để đây còn nói chuyện riêng, nếu có việc gì đây sẽ gọi.
Tiểu Nhị vâng lời, rồi quay ra ngoài cửa, sẽ bảo với vợ rằng:
- Hai người nầy ta lấy làm lạ lắm.
- Sao mà lấy làm lạ?
- Ta xem hai người cùng nói tiếng Đông Kinh, mà cũng biết đến Quản Doanh và Sai Bát cả. Sau khi ta vào rót rượu, thì chỉ nghe Sai Bát nói câu gì lại có ba chữ "Cao Thái Úy" ở đấy? Chẳng hay việc này có quan hệ đến Giáo Đầu Lâm Xung chăng? Để ta ở đây, đằng ấy thử ra lối sau nghe lóng xem sao?
- Hay là gọi Lâm Giáo Đầu ra đây, để nhận xem có phải không?
- Chết nỗi. Ôâng ấy nóng tính, hơi một tí là đốt nhà giết người ngay, nếu bây giờ ông ấy ra đây, mà quả là người đối thủ với ông ấy, thì tất nhiên là sinh sự lôi thôi lụy cả đến mình chứ không chơi. Thôi cứ vào đấy nghe xem sao đã.
Người vợ lấy làm phải, liền chạy vào nghe ngóng một lúc, rồi chạy ra bảo với Tiểu Nhị rằng:
- Ba bốn anh đó nói thì thầm gì, không nghe được câu nào cả, về sau người kia đưa ra một gói bạc cho Quản Doanh và Sai Bát, ý hẳn tiền nong cho đó. Rồi thấy Sai Bát gật gù bảo rằng:
- Được, việc ấy cứ để mặc tôi, thế nào tôi cũng kết quả được tính mạng nó.
Vừa nói đến đó, thì đã thấy trong kia gọi món ăn lên, Lý Tiểu Nhị chạy vào đưa món nấu lên, thì thấy trong tay Quản Doanh hãy còn cầm một phong thư ở đó. Bấy giờ mấy người quay ra ăn cơm xong tính tiền hàng đưa trả cẩn thận rồi, Quản Doanh, Sai Bát đứng dậy về trước, còn hai người kia đi ra sau.
Vừa đi được một lát, thì Lâm Xung ở đâu chạy đến. Tiểu Nhị liền mời vào điếm ngồi chơi, rồi đem các câu chuyện vừa rồi kể rõ từng ly từng tý cho Lâm Xung nghe, rồi lại nói rằng:
- Việc ấy nghe chừng có quan hệ đến ân nhân, cho nên tôi đương định tìm để nói cho ân nhân biết.
Lâm Xung nghe nói liền hỏi Tiểu Nhị rằng:
- Người ấy tướng dạng ra thế nào?
- Bẩm người ấy vào trạc 30 tuổi, tướng ngũ đoản, mặt trắng bệch, mà không có râu ria gì cả.
Lâm Xung nghe nói kinh ngạc mà rằng:
- Nếu vậy thì chính thằng Lục Ngu Hầu rồi, thằng ăn mày ấy lại muốn đến đây hại ta hay sao? Trời ơi! Nếu ta gặp nó bây giờ, thì phải làm cho nó nát thịt tan xương nó mới yên được! Nói xong hằm hằm đứng dậy mà đi ra phố, mua một con dao găm rồi giắt vào lưng, rồi đi khắp các nơi để tìm Lục Ngu Hầu.
Vợ chồng Tiểu Nhị thấy vậy lấy là kinh sợ, mà nghe ngóng suốt ngày hôm ấy, cũng không thấy tin tức gì cả.
Sáng hôm sau Lâm Xung lại dậy sớm, giắt dao đi lùng khắp cả mọi nơi tìm Ngu Hầu không thấy mà trong dinh cũng không có điều chi là khác, liền chạy ra hàng bảo với Tiểu Nhị rằng:
- Đến hôm nay cũng chưa việc gì là làm sao?
Tiểu Nhị nói:
- Nếu vậy, thì càng hay lắm, ân nhân cứ phóng tâm mặc đấy là xong.
Sau Lâm Xung lại đi tìm Lục Ngu Hầu đến ba bốn hôm luôn, mà cũng không thấy đâu, thì trong bụng đã nguôi nguôi dần mà không nghĩ đến nữa.
Chợt đến hôm thứ sáu, Quản Doanh gọi Lâm Xung đến mà bảo rằng:
- Ngươi ở đây đã lâu, mà Sài Đại Quan Nhân cũng không tiến cử cho ngươi được, vậy có một chỗ Thảo Đường ngoài cửa Đông Môn 15 dặm, xưa nay vẫn nộp cỏ tháng để lấy tiền, có một tên lính già coi giữ ở đó, nay ta muốn đài cử cho ngươi ra thay, để lão lính già lại về ở Thiên Vương Đường, vậy ngươi nên thu xếp, rồi ta sẽ bảo Sai Bát đưa ra.
Lâm Xung vâng lời, rồi đi ra ngoài phố bảo với vợ chồng Lý Tiểu Nhị rằng:
- Hôm nay lão Quản Doanh cắt ta ra coi ở thảo trường, là ý làm sao?
Tiểu Nhị nói:
- Ở đó lại tốt hơn ở Thiên Vương Đường, vì mỗi khi thu cỏ, thì lại được tiền thường lệ để tiêu. Xưa nay nếu không đút lót cho họ, thì bao giờ lại được làm những việc như thế?
- Họ không mưu hại ta, mà lại sai ta ra chỗ tốt, là nghĩa làm sao?
- Cái đó cũng cần phải nghĩ, ân nhân cứ đi, hễ không việc gì là tốt rồi, duy có một điều là ân nhân đi xa thế, thì chúng tôi lại không năng được hầu hạ mà thôi.
Nói đoạn dọn rượu ra mời Lâm Xung uống, Lâm Xung uống rượu xong, lại trở về Thiên Vương Đường, lấy khăn gói và hành lý, giắt dao găm vào lưng rồi vác một cây gậy con mà theo Sai Bát đi ra thảo trường.
Bây giờ đương độ nghiêm đông lưng trời mây kín, gió bấc đìu hiu, mưa tuyết âm thầm, rất chiều lạnh lẽo. Lâm Xung theo Sai Bát đến thảo trường, thấy ở ngoài đắp toàn tường đất, giữa có cổng lớn đi vào. Khi vào tới nơi thấy có bảy tám gian lá, xung quanh xếp toàn cỏ ngựa, giữa có hai gian thảo sanh, người lính già đương đốt lửa sưởi ở trong đó.
Khi đó Sai Bát bảo với tên lính già rằng:
- Quản Doanh sai tôi dẫn Lâm Xung ra đây để thay cho lão về coi ở Thiên Vương Đường, lão lập tức đi ngay.
Lão già nghe nói, liền lấy chìa khóa, dẫn Lâm Xung đi khắp nơi, mà giao phó rằng:
- Trong kho đây có quan biển ký, mà mấy đống có đều có số hiệu cả, tôi xin giao đủ từng ly, và tất cả các chìa khóa đây nữa.
Nói xong đếm mấy đống cỏ chỉ cho Lâm Xung biết rồi trở vào thảo sảnh thu thập gói áo để đi. Khi sắp ra đi lại bảo với Lâm Xung rằng:
- Ở đây có đủ các thức mâm bát, nồi niêu và hỏa lò, tôi xin để đây cho ông dùng.
Lâm Xung vâng, nhận rồi bảo lão già rằng:
- Bên Thiên Vương Đường tôi cũng có đủ, ông đến đấy lại xin dùng những thứ của tôi.
Lão già lại trỏ lên cái bầu lớn treo ở vách mà rằng:
- Nếu khi uống rượu, thì cứ đi về phía đông cách đây chừng 2, 3 dặm thì có hàng rượu ở đó.
Nói xong rồi từ biệt Lâm Xung, mà cùng với Sai Bát ra về.
Bấy giờ Lâm Xung cổi để các đồ chăn áo, vào ngồi một nơi, rồi ngồi bên cạnh đống lửa để sưởi. Một mình trông trước trông sau thấy nhà cửa tồi tàn dột nát mà mỗi khi gió thổi, thì lại chuyển đi ầm ầm, liền nói lẩm bẩm rằng: "Cái nhà này khó lòng mà giữ cho qua được mùa đông, vậy khi nào hết tuyết ta phải vào trong thành tìm anh thợ đất nó sửa lại ngay cho mới được."
Nói đoạn lại quay vào đống lửa để sưởi, Khi được một lát, thấy trong mình hãy còn rét lạnh, lại nhớ đến lời dặn của lão già khi nãy; có thể mua rượu được, liền xăm xăm dậy, đậy đống lửa lại, lấy một ít tiền giắt vào lưng, rồi đeo bầu khoác nón bước ra nhoài cổng, khóa chặt cửa lại mà đi sang bên phía đông.
Khi ấy gió lạnh căm căm, Lâm Xung dày đạp đống tuyết mà đi, chẳng khác gì ngọc vỡ châu rơi ở trên đường vậy. Vừa đi được nửa dặm đường thấy có một tòa miếu làm ngay đó, Lâm Xung bèn đứng lại cúi đầu lễ mà khấn thầm rằng:
- Dám xin thần minh phù hộ cho tôi, rồi sau tôi xin đốt vàng lễ tạ.
Khấn xong lại đi một lúc nữa, đã đến một chỗ có nhà cửa đông đúc, Lâm Xung liền tìm một hàng rượu đi vào.
Khi tới nơi chủ hàng hỏi Lâm Xung rằng:
- Khách ở đâu đến đây?
Lâm Xung trỏ vào cái bầu mà nói rằng:
- Nhà ngươi có nhớ cái bầu này không?
Chủ hàng xem ra cái bầu mà nói:
- Cái này của lão quân ở trong thảo trường phải không?
- Chính phải đó.
- Nếu vậy thì xin mời ông ngồi đây uống rượu mấy chén cho đỡ lạnh đã.
Nói xong lại thái một đĩa thịt bò ra, rót một hồ rượu nóng lên mời Lâm Xung. Lâm Xung ăn uống xong lại mua thêm một miếng thịt, và một bầu rượu nữa, rồi tính tiền trả chủ hàng mà về.
Bấy giờ gió càng to, mưa tuyết xuống lại càng nhiều lắm. Lâm Xung đi lật đật về tới thảo trường, mở khóa cổng đi vào thì bỗng ngạc nhiên mà kêu lên rằng: "Trời ơi! Cái thảo trường kia đổ mất rồi, ta ở vào đâu cho được!"Đoạn rồi lại e đống lửa ở trong chưa tắt, mà lỡ ra bốc cháy thì nguy, liền lách tay vào sờ xem, thì thấy nước tuyết tưới vào lạnh như tro tàn vậy, Lâm Xung lại lần vào sờ lên giường kéo được một cái chăn khoác lên trên mình, thì thấy mặt trời sắp tối, bèn nghĩ vẫn vơ một mình, không biết nghỉ đâu cho tiện?
Đương cơn nhà nát vách tan
Đem thân mưa gió tồi tàn thêm nguy!
Mới hay vận mạng bất kỳ
Phút nào được mấy họa thì đến luôn
Lâm Xung đương ngần ngại lo âu, chợt nhớ đến tòa miếu ở bên đường, thì nghĩ ngay ra một cách đến nằm tạm một đêm, liền chống gậy khoác khăn vác cả đồ đạc rồi khóa cổng lại tử tế, mà đi đến đó. Khi tới nơi bước vào trong cổng miếu, thấy bên cạnh có một hòn đá lớn, chàng liền vần hòn đá lại, đè chặt cánh cổng mà đi vào trong miếu.
Trong miếu có một tòa Sơn Thần Tượng, ngồi ở bên điện, hai bên có hai vị Phán Quan, và một tên tiểu quỷ đứng hầu, lại có giấy vàng bỏ lung tung một đống ở đó, Lâm Xung để gậy và bầu rượu lên trên đống giấy, rồi giũ sạch tuyết ở trên mình, cổi bỏ áo ngoài và nón ra, mà để lên trên bàn thờ. Nói đoạn ngồi xuống đó kéo chăn đắp nửa chân dưới mà lấy rượu thịt ra đánh chén.
Đêm khuya tuyết giá, trời đông,
Rượu bầu lạnh ngắt lửa lòng nóng gan
Cơn say say cả giang san,
Hỏi chi họa phúc tuần hoàn uổng công!
Đương khi Lâm Xung uống rượu một mình, thì bỗng nghe tiếng nổ lốp bốp ở gần đấy, chàng liền ngó cổ ra chỗ vách miếu để xem, thì thấy bên thảo trường lửa cháy rần rật bốc lên, chẳng khác gì trận Xích Bích hỏa công, mà Tào Tháo bị khốn với Chu Lang vậy.
Chàng thấy vậy liền vớ cây gậy chạy ra cổng, toan mở cửa để đi cứu hỏa, bất đồ lại nghe thấy có tiếng người nói lao xao ở đằng kia đi đến, chàng liền nấp ở trong cổng để nghe xem sao? Bấy giờ nghe kỹ thấy tiếng chân ba người đi đến trước cổng miếu, đẩy cổng toan vào nhưng lại bị hòn đá đè chặn ở trong, cho nên đẩy mấy lần cũng không được liền cùng nhau đứng ở thềm cổng, mà xem lửa ở bên thảo trường.
Đoạn rồi nghe thấy có một người ở trong đám ấy nói rằng:
- Làm mẹo thế có kỳ diệu hay không?
Lại có người nói rằng:
- Cái đó là nhờ Quản Doanh và Sai Bát, có lòng chịu khó giúp cho, mới được như thế, để về Đông Kinh tôi sẽ kêu Thái Úy cho ngài được thăng chức chuyến này.
Lại có kẻ nói rằng:
- Phen này thì Lâm Giáo Đầu tất chết, chứ chẳng sai, thế là bệnh Nha Nội có thể khỏi được rồi đó.
Anh kia lại nói:
- Thằng Trương Giáo Đầu gớm lắm, ba bốn phen nhờ người đến nói, nó nhất định không nghe! Nay con rể chết rồi, thì phỏng có giữ được không? Ấy cũng chỉ vì lão Trương Giáo Đầu không thuận mà bệnh thế Nha Nội càng ngày càng nặng, cho nên chúng tôi mới phải sang đây, nhờ đến các ngài đó.
Một anh thì lại nói:
- Bây giờ tôi nhảy vào trong tường, cứ mỗi đống củi lại cho một bó lửa, tính tất cả đến mười mấy bó lửa, rồi còn chạy đi đâu được nữa?
Anh kia lại ra dáng đắc ý mà rằng:
- Có trốn được thoát hôm nay thì cái tội đốt thảo trường cũng đến chết thôi.
Bấy giờ một anh nói rằng:
- Thôi bây giờ chúng ta đi về trong thành đi.
Một anh lại giữ lại mà rằng:
- Khoan, ta hãy xem một lúc nữa, rồi ta nhặt một vài cái xương của nó đem về, để cho Thái Úy biết là chúng ta thạo việc.
Khi đó Lâm Xung nghe rõ tiếng ba người, biết là một tên Sai Bát, cùng Lục Ngu Hầu và Phú An ở đó, thì trong bụng tự nghĩ rằng:
- Gớm thực, quân nầy định sát hại ta đây. Nếu nay trời không thương ta, mà cái nhà kia không đổ, thì có lẽ ta bị quân này đốt chết chẳng chơi. Quân súc sinh nầy để nó làm chi làm hại thế gian nữa?
Nghĩ đoạn, sẽ vần hòn đá đè chặn cánh cổng, để ra một bên, rồi cầm gậy mở cánh cổng bước ra, mà quát lên rằng:
- Quân súc sinh nầy, mầy chạy đi đâu được nữa không?
Ba anh kia nghe thấy vậy, thì kinh chạy, nhưng lại cuống cẳng không sao chạy được, Lâm Xung liền giơ gậy đánh cho Sai Bát một cái gậy ngã quay ra đấy. Lục Ngu Hầu kinh sợ rụng rời kêu xin tha tội, còn tên Phú An thì giơ cẳng chạy cho mau để thoát. Bất đồ chạy được mươi bước, thì Lâm Xung đã nhảy theo, đánh cho một gậy ngã lăn xuống đất, rồi quay lại quát Lục Ngu Hầu rằng:
- Thằng xỏ lá kia, mầy chạy đi đâu?
Nói xong, xông đến dí đầu gậy vào bụng Lục Ngu Hầu ngã sóng soài ra đất, rồi lấy chân đè chận lên bụng, rút thanh dao găm ra trỏ vào mặt mà mắng rằng:
- Đồ khốn nạn nầy, ta với mầy có thù hận gì, mà mầy làm hại ta đến thế? Mầy phải biết giết người còn có thể tha được, chứ cái lòng độc ác ấy không thể nào mà dung thứ được đâu?
Lục Ngu Hầu rên rỉ kêu rằng:
- Ngài ôi! Việc ấy là Thái Úy sai tôi, chứ bỗng dưng tôi đâu dám thế?
Lâm Xung cả giận mắng rằng:
- Quân chó đểu nầy, ta chơi với mày từ thuở bé đến giờ, nay sao nỡ mưu kế hại ta, thế mà còn chối xoen xoét là không phải tại mầy... được mầy hãy nếm con dao ta xem.
Nói đoạn liền cởi phăng áo Lục Ngu Hầu ra, rồi đưa dao sả từ trên bụng sả xuống, rồi lấy ruột gan ra cầm ở tay.
Khi nom thấy Sai Bát cựa cạy toan chạy, Lâm Xung lại cầm dao đến bảo rằng:
- Thằng nầy nữa, mày cũng hùa đảng vi nó, để ta cho một dao nhân thể.
Đoạn rồi giơ dao cắt đầu Sai Bát bêu lên trên gậy, rồi lại quay lại cắt cả đầu Phú An, và đầu Lục Ngu Hầu, mà buộc túm tóc ba cái đầu vào với nhau, xách vào để ở bàn thờ trong miếu. Bấy giờ Lâm Xung lại mặc áo đội nón, đem rượu ở trong bầu rót ra uống hết, rồi vất bầu và chăn ra đấy, mà vác gậy giắt đao đi ra.
Vừa đi được 2, 3 dặm, thì thấy thôn dân đương lao xao kẻ thừng người gậy, kẻ câu liêm đổ xô ra thảo trường để chữa cháy, Lâm Xung gặp bọn ấy liền bảo rằng:
- Các ngươi cứ đến đấy mà chữa cháy để ta đi báo quan.
Nói đoạn vác gậy chạy đi thực nhanh. Bấy giờ mưa tuyết càng ngày càng mạnh, Lâm Xung cắm đầu cắm cổ đi mãi về phía đông, ước chừng gần hai trống canh, nghe trong mình lạnh rét quá chừng, liền đứng dừng quay cổ lại xem, thì đi cách thảo trường đã xa lắm rồi. Vời trông đằng trước hãy còn một khu rừng cây cối um tùm, trong đó có mấy gian nhà lá, bị tuyết đè xiêu vẹo, lại có bóng đèn ở trong vách soi ra.
Lâm Xung mải mốt chạy đến đấy, đẩy cửa bước vào thấy một lão nhà quê già, cùng dăm ba đứa trẻ ngồi quây quần xung quanh đống lửa để sưởi, chàng lại chạy đến gần mà nói rằng:
- Xin chào các ngài, tôi là lính ở trong Thương Thành, đi qua đây bị tuyết mưa ướt lạnh, xin vào ngồi nhờ, để hơ nóng một chút, xin các ngài rộng cho.
Lão nhà quê nói:
- Bác cứ ngồi đấy mà hơ nóng, có ai cấm đâu.
Lâm Xung liền ngồi gần lại vào đống lửa để vừa sưởi vừa hơ áo. Được một lúc trông thấy bên cạnh đống tro để một vò rượu, hơi bốc sặc cả lên, Lâm Xung liền nói với lão nhà quê rằng:
- Tôi có tiền lẻ đây, nhờ ngài để cho ít rượu để uống.
Lão già không thuận mà đáp rằng:
- Ở đây chúng tôi phải thay đổi nhau để canh kho thóc, trời rét mướt như thế này, mà có bằng ấy rượu, đến chúng tôi cũng không đủ uống, còn lấy đâu để lại được nữa.
Lâm Xung lại vật nài mà nói rằng:
- Cụ bớt ra cho tôi vài ba chén rượu uống qua loa cho đỡ rét vậy.
- Lão nhà quê nhất định không nghe mà bảo Lâm Xung rằng:
- Thôi, ông đừng lôi thôi nữa tôi không để lại được đâu.
Bấy giờ Lâm Xung thấy hơi rượu xông lên mũi, thì trong bụng thèm quá, lại hỏi luôn lão nhà quê rằng:
- Thế thì các ông không để lại cho tôi thực à?
- Quái lạ cái bác này, người ta đã tử tế cho vào sưởi ở đây, lại còn đòi rượu uống sao?
Có đi ngay ra không, không thì chúng tôi kéo ra bây giờ đấy.
Lâm Xung nghe nói, nổi giận mà rằng:
- Các anh này vô lễ thực.
Nói xong giơ gậy, lấy thanh củi đương cháy, giơ vào mặt lão già, làm cho râu ria cháy nhẵn nhụi cả một lượt. Lũ nhà quê thấy vậy, thì đứng ùa cả lên, Lâm Xung liền vung gậy đánh rối tít mù làm cho anh nào anh nấy đều chen nhau mà chạy tháo cả. Lâm Xung thấy bọn ấy chạy rồi, thì nói một mình rằng: "Được lắm, chúng bay chạy cả, thì ông mang rượu ra uống một mình vậy". Nói đoạn trông lên vách có hai cái gáo dừa treo ở đó, liền với lấy xuống một cái, rồi nghiêng vò múc rượu ra uống một mình. Uống một lúc còn thừa một nửa, lại bỏ lại đấy, rồi chân cao chân thấp, vác gậy ra cửa mà đi. Đi được hai dặm đường, thì hơi rượu ngấm ra mà say sưa mê mệt, lại bị cơn gió bấc thổi mạnh quá, làm cho chàng ngã lăn xuống khe núi, mà không động đậy được nữa.
Bấy giờ lũ trẻ nhà quê chạy đi lấy được roi gậy về, mà không thấy Lâm Xung đâu nữa, liền đổ xô nhau đi tìm. Khi tìm đến chỗ khe núi, thấy anh chàng đương nằm khô khoăm ở đó, mà gậy thì vất ra một bên; lũ nhà quê liền reo ầm lên, rồi đem thừng đến trói Lâm Xung, mà bảo nhau đi giải nộp chủ nhân. Mới hay:
Bước chân chưa thoát nạn kia
Mà đâu nạn nọ đã kề tới nơi!
Ông xanh nghĩ cũng nực cười,
Công đâu đùa bỡn với đời mãi rượu?
Buồn tênh cho lũ thôn phu
Trông non Thái cũng như gò cỏn con
Hùm thiêng khi nấp mạn cồn.
Vùng cơn tỉnh dậy phỏng còn xác chăng?
Lời bàn của Thánh Thán:
Trong phép văn chương diễn tả, há phải chỉ tả luôn một  mạch của một việc mà thôi, có việc trước gợi mối ra sau, có việc đi qua cũng gợi mối ra sau, như thế há đâu chỉ nói ra một việc. Ôi! Văn tả từ trước, nhằm đích về sau, thì phải biết văn này đương gợi mối văn sau, chẳng phải riêng của hồi này vậy. Đoạn văn còn rớt sau, mà nhằm theo đích trước, thì phải biết văn trước chưa hết, thuộc của tiền văn, chẳng phải hậu văn, có như thế khiến trong lòng độc giả xét thấy như có kim có chỉ mà tin tác giả đã biến ra hai ba việc được, tả việc nào đứt đi việc ấy, thì sao thấy sâu xa, của sự diễn tả trong phép văn chương?
Như vợ chồng tên Lý Tiểu Nhị, đâu phải gặp ngay Lâm Xung trong lao thành, một sự tình cờ được ngộ cố tri, đi lại thân mật, cũng chỉ chú ý ở lúc đứng nghe trộm đằng sau, câu chuyện của đám khách nói, một đoạn kỳ văn, chẳng thể chẳng viết trước ra làm cái mối đầu, đó là việc trước mà gợi ra sau vậy.
Như ở trang gia chẳng chịu về ngay; lại còn uống rượu, khi uống rượu xong thấy cháy thảo trường, thế rồi phải tìm vào miếu nghỉ, để nghe ra manh mối, ứng với câu chuyện hoài nghi bấy nay, và rõ tin tức ở Đông Kinh qua lời Lục Khiêm nói, để từ trong miếu giết bỏ kẻ thù, đấy là đoạn văn tả việc đương xẩy mà gợi mối sau.
Lục Khiêm, Phú An, Quản Doanh, Sai Bát bốn người, bàn việc trong quán hàng, không rõ nói gì, tường chẳng được tường, bỏ đi không thể bỏ đi, nay ở trong tai mắt vợ chồng Tiểu Nhị, chỉ nghe lỏm ba tiếng Cao Thái Úy, đã nhằm vào một đích gì đây, lại thấy hẹn nhau biếu tiền, sau Tiểu Nhị đem thức ăn lên, lại thấy trong tay Quản Doanh cầm một phong thư, nửa kín nửa hở, nửa giấu nửa phô...như văn cảm, không thể vạch ra, như chữ bia tàn, không thể đọc được, nhưng thâm tâm con nhà hiếu cổ, có thể lấy ý ngoài mà xét nổi, như một đoạn ấy, có thể bảo là Thánh làm văn, và qủy làm văn vậy.
Khi giết tù trong cửa miếu ra, đã dùng gậy đánh ngã Sai Bát, tiếp tả Lục Khiêm, tả giết Lục Khiêm chưa xong, tả ngay đánh luôn Phú An hai đứa đã ngã, quay lại rượt Lục Khiêm để giết, vừa mổ xong bụng Lục Khiêm, thấy Sai Bát cựa dậy, mới cắt luôn đầu Sai Bát, treo trên đầu gậy, quay lại cắt cổ luôn Lục Khiêm, Phú An, như thế ba bốn lần để giết ba người, rất có thứ tự, rất có cách quãng, và rất có phương pháp, khúc chiết chẳng hoang mang, chẳng thiếu sót..., đó là Thánh làm văn và quỷ làm văn.
Chuyện xưa nói lại, khi trời oi bức treo tranh mùa rét, khi trời mùa lạnh, treo tranh mùa bức, khiến khách ngồi chơi xem đến mà có ảnh hưởng, thực câu chuyện đáng buồn cười! Nhưng chưa thần kỳ bằng một hồi này, Thi Nại Am tác giả, tả một bức tranh vừa nóng lại vừa lạnh, tả tuyết thì rét thấu xương, tả lửa thì nóng rát mặt, khác nào xưa có vị sư đau bệnh, khi chúng tăng hỏi đến khí hậu thế nào, thì rằng: Khi hàn thì bằng giết Đồ Lê, khi nóng thì cũng bằng giết Đồ Lê (tên nhà sư), nay đọc thiên này, tả hàn cũng hàn bằng giết độc giả, mà tả nhiệt cũng nhiệt bằng giết độc giả, một đoạn văn chương, thực là kỳ tuyệt trong rừng văn nghệ.
Sau vách nhà hàng, nghe bốn người nói, không nghe được kỹ càng rất khéo ở chỗ không nghe được kỹ càng; Trong miếu sơn thần, nghe ba người nói, nghe được kỹ càng, rất khéo ở chỗ nghe được kỹ càng, tuy rằng sau vách nhà hàng, trong miếu sơn thần, hai phen nghe chuyện, đều nghe ra cả, cũng đáng cho đời thấy lối bí của oan gia, thế mà đời nay có bao kẻ ngu khuất mặt nói xấu người ta, thì đâu phải riêng bọn Lục Khiêm này mưu kế.
Trong văn tả tình tả cảnh, nên nhận xét kỹ xem, như hai lần lửa cháy thì rõ chẳng phải lỗi làm cháy tự Lâm Xung, chỉ mang chăn áo đến ở, thấy rõ Lâm Xung phải đến thảo trường vì tính kế một đêm ấy, để vừa tội giết người, đó là ý tứ của người viết chuyện.
Hồi 10:
Giả dạng giao du; thoát người hảo hán
Đề thơ cảm khái; kết bạn Lương Sơn
Lũ nhà quê đem Lâm Xung giải đến một nơi trang viện, rồi bảo trang khách vào báo với chủ nhân. Bấy giờ chủ nhân còn ngủ chưa dậy, lũ nhà quê bèn đem Lâm Xung đến chỗ bóp gác mà để nằm ở đó. Đến lúc Lâm Xung tỉnh rượu, mở bầng mắt trông ra thấy mình nằm một nơi trang viện rất lớn, thì lấy làm lạ quá mà kêu lên rằng:
- Đứa nào mang ta đến đây thế nầy?
Lũ nhà quê thấy Lâm Xung kêu, thì cầm gậy đến mà bảo rằng:
- Liệu hồn, mầy còn to mồm nữa kia à?
Bấy giờ có cả lão già bị đốt râu cũng ở đấy, mặt hằm hằm bảo với chúng rằng:
- Nói lôi thôi với nó làm gì, cứ đánh thật lực đi, để chốc nữa quan nhân dậy, sẽ hỏi tội nó.
Nói xong túm vào đánh lấy đánh để, làm cho Lâm Xung không thể nào cựa quậy được nữa. Đương khi nguy cấp, khốn đốn, thì bỗng thấy một tên trang khách kêu lên rằng:
- Quan nhân đã đến đây kia.
Lâm Xung nghe nói, thì lờ mờ nom thấy một vị quan nhân, đương khoanh tay ra sau lưng mà lững thững đi đến, rồi hỏi lũ kia:
- Bây đánh ai thế?
Lũ nhà quê bẩm rằng:
- Đêm hôm qua chúng con bắt được thằng ăn cắp nầy, xin đem đến để nộp ngài.
Vị quan nhân ấy đi gần tới nơi trông thấy Lâm Xung thì ngạc nhiên kinh lạ, vội thét đuổi lũ kia, mà tự đến cởi trói cho Lâm Xung rồi hỏi rằng:
- Chết nỗi! Giáo Đầu đi đâu, mà bị chúng đem đến đây như thế?
Lũ kia thấy quan nhân xử sự như vậy, thì bảo nhau bỏ đấy mà chạy cút, mỗi đứa mỗi nơi. Bấy giờ Lâm Xung mới liếc mặt nom lên, thì chính là Tiểu Toàn Phong Sài Tiến ở đó liền nói:
- Đại quan nhân cứu tôi với.
Sài Tiến lại hỏi:
- Tại làm sao mà Giáo Đầu lại đi đến đây để đến nỗi chúng làm như thế được?
- Thưa ngài, chuyện tôi nói ra dài lắm, vậy xin ngài hãy cho vào nhà trong, xin kể ngài nghe.
Nói đoạn, Sài Tiến mời Lâm Xung vào trong nhà, ngồi chơi. Lâm Xung liền đem câu chuyện đầu đuôi, từ khi Lục Ngu Hầu cùng mưu với Quản Doanh, Sai Bát để đốt thảo trường cho đến khi chạy trốn đến đây, thuật rõ cho Sài Tiến nghe.
Sài Tiến nghe rõ căn nguyên liền thở dài mà rằng:
- Nếu vậy thì vận quan anh còn bĩ lắm. Nay trời xui khiến lại cho tiểu đệ được gặp quan anh đây, thì xin tạm ở với tiểu đệ ít lâu, rồi ta sẽ liệu đường tiến thủ.
Nói đoạn sai trang khách lấy áo xiêm sạch sẽ ra cho Lâm Xung thay, rồi thiết đãi rượu chè, mà cho Lâm Xung ở đó. Bên kia Quản Doanh dò biết câu chuyện Lâm Xung, liền lập mưu vào báo với Châu Doãn, là chính tay Lâm Xung đã giết Sai Bát, Lục Ngu Hầu, và Phú An, rồi đốt thảo trường mà trốn đi đâu mất.
Châu Doãn nghe báo cả kinh, lập tức cho vẽ hình kê tên, treo thưởng 3.000 quan, để thưởng người bắt được Lâm Xung, rồi phái các viên thám tử đi khắp các chốn thành thị thôn quê để dò la tầm nã rất là cấp bách, bấy giờ Lâm Xung ở nhà Sài Tiến được dăm bảy hôm, bỗng nghe tin thì trong lòng nóng nảy băn khoăn mà nói với Sài Tiến rằng:
- Quan nhân có lòng tốt lưu cho tiểu đệ ở đây, thực tiểu đệ lấy lòng vui lắm, song ngặt vì ngày nay quan quân đương hết sức tầm nã, để truy bắt, ngộ vạn nhất họ lần mò dò bắt ở đây, thì lại thêm phiền lụy đến quan nhân không tiện, vậy tiểu đệ muốn rằng quan nhân sẽ lấy lòng quảng đại mà giúp cho ít tiền, để tiểu đệ tìm đi nơi khác là hơn, ngày sau trời cho có còn sống được, tiểu đệ xin làm thân trâu ngựa, mà đền nghĩa trúc mai.
- Nếu Giáo Đầu có ý e ngại, mà không muốn ở đây, thì tôi có một phong thư để giới thiệu sang một chỗ kia có được không?
- Ngài có lòng tốt như thế, thì còn gì bằng! Nhưng chẳng hay ngài định giới thiệu cho ở đâu?
- Ở Tế Châu thuộc quận Sơn Đông, có một chỗ gọi là Lương Sơn Bạc. Vừng quang rộng hơn 800 dặm, khoảng giữa có thành Uyển Tử và vùng Liễu Nhi; Hiện nay có ba người hảo hán là Bạch Y Tú Sĩ, Vương Luân làm đầu, Mô Tước Thiên Đỗ Thiên làm thứ hai, và Vạn Lý Kim Cương Tống Vạn làm thứ ba, tụ họp có tới bảy tám trăm lâu la ở đấy. Xưa nay thường có những người nặng tội phạm, trốn tránh vào đấy, thì họ đều dung nạp cả? Bọn ba người ấy đối xử với tôi, cũng hơi có lòng trung hậu, nếu tôi viết thư để quan bác vào đấy, thì tất là được ngay, ngài nghĩ sao?
Lâm Xung gật đầu đáp rằng:
- Ngài có lòng tốt như thế còn gì hơn nữa.
Sài Tiến lại nói:
- Có một điều hơi khó là hiện nay quan quân truy nã bắt ngặt, mà ở chỗ cửa quan con đường đây đi sang châu khác, thì lại có hai viên quan canh cửa giữ tra hỏi luôn luôn, như thế thì khó lòng đi cho lọt được.
Sài Tiến nói xong cúi đầu nghĩ một lát mà ngẩng lên mà bảo rằng:
- Được rồi, tôi có kế này, khả dĩ thoát cho quan bác đi được.
Nói đoạn gọi một tên trang khách lên sai mang một gói hành lý đi trước, ra khỏi cửa quan, đi một quãng xa đứng đợi ở đấy, rồi la sai mấy chục con ngựa và sắp sửa các đồ cung tên để đi săn. Đoạn rồi bảo Lâm Xung cưỡi lên mình ngựa, cùng đi lẫn vào đám đi săn, mà theo Sài Tiến đi ra quan ải. Khi đến cửa quan mấy viên quan coi giữ ở đó, vốn quen biết Sài Tiến đã lâu, liền đứng lên chào hỏi Sài Tiến mà rằng:
- Quan Chầu lại đi săn hôm nay phải không?
Sài Tiến xuống ngựa cúi chào rồi lại hỏi luôn rằng:
- Các ngài có việc chi mà phải canh giữ cẩn thận ở đây?
- Chúng tôi vâng lệnh quan trên Châu Doãn ở đây để tra bắt tên Lâm Xung, phàm các thương khách đi qua đều phải khám hỏi tất cả.
Sài Tiến thấy vậy, liền cười mà bảo rằng:
- Trong bọn tôi cũng có tên Lâm Xung đây, sao các ngài không nhận ra mà bắt lấy.
Hai viên quan liền cùng cười mà đáp rằng:
- Ngài là người biết pháp luật, có bao giờ lại làm như thế! Xin các ngài cứ đi đi cho.
Sài Tiến lại cười mà nói rằng:
- Các ngài lại có lòng tin tôi như thế thì hay lắm, để tôi đi săn có được con gì, xin đem đến biếu các ngài.
Nói xong bái biệt mà lên ngựa, dẫn lũ sau cùng đi.
Khi ra ngoài cửa quan ước chùng mươi lăm dặm thì đã thấy tên trang khách vác khăn gói đứng đợi ở đấy. Sài Tiến liền bảo Lâm Xung xuống ngựa, thay bộ quần áo đi săn, rồi mặc bộ quần áo thường, đội nón dắt dao găm khoác khăn gói, vác thanh đao lớn trên vai, đoạn rồi hai người từ biệt cùng nhau, để Sài Tiến quanh đi săn, mà Lâm Xung thì lên đường trốn sang Tế Châu.
Một lời đã biết đến nhau,
Trăm ngàn nguy hiểm dễ hầu tiếc công?
Bâng khuâng lòng những giận lòng,
Nước non biết mẹo anh hùng này chưa
Trời đông tuyết giá, dặm khách thân cô, từ khi bái biệt Sài Đại quan nhân rồi một mình vơ vẫn trên đường, sớm nghỉ tối đi, trong mười mấy ngày trời, rất là buồn bã. Một hôm trời đã chiều hôm, Lâm Xung đi gần đến một khoảng hồ rộng, chợt trông thấy bên cạnh hồ có một hàng rượu thập thò trong ánh tuyết, chàng liền mải mốt tìm vào để trọ.
Khi vào tới nơi, chàng vừa mới giũ sạch tuyết bám trên áo, bỏ nón và hành lý ra, dựng thanh đao vào một bên, để đặt mông xuống ngồi, thì đã thấy một tên tửu bảo chạy đến mà hỏi rằng:
- Ngài xơi rượu phải không?
- Phải, lấy hai nai rượu ra đây?
Tửu bảo vâng lời lấy hai nai rượu ra, Lâm Xung lại hỏi:
- Có gì nhắm không?
Tửu bảo đáp rằng:
- Có thịt bò tươi, thịt bò chín và thịt ngỗng béo gà non, ngài muốn xơi gì?
- Hãy thái hai cân thịt bò chín ra đây.
Tửu bảo chạy vào một lát, mang ra một miếng thịt bò tướng, và các thứ rau quả để lên trên bàn, rồi rót rượu ra chén. Lâm Xung uống mấy chén rằng rồi đưa mắt trông vào thấy một người, đương khoanh tay đàng lưng, lững thững ở trong đi ra cửa xem tuyết, rồi hỏi tửu bảo:
- Người nào uống rượu ở đấy?
Lâm Xung nghe nói lặng yên, ngồi uống luôn mấy chén rượu nữa, rồi bảo tên tửu bảo rằng:
- Ngươi đến đây uống một chén với ta cho vui.
Tửu bảo cám ơn, uống một chén rượu rồi, Lâm Xung lại hỏi rằng:
- Từ đây đến Lương Sơn Bạc còn xa hay gần.
- Bẩm, đây đi Lương Sơn Bạc, chỉ còn có dặm đường nữa, nhưng phải đi đường thủy, chứ không có đường bộ. Nếu ngài có muốn đi thì phải dùng thuyền mới được.
- Ngươi có thể tìm cho ta một chiếc thuyền không?
- Bẩm ngài, trời sắp tối, mà tuyết xuống ầm ầm thế kia, thì tìm đâu được thuyền?
Lâm Xung nói:
- Ta đưa nhiều tiền đây, người cố tìm cho ta một chiếc thuyền để ta đi.
Tửu bảo nhất định từ nan mà rằng:
- Bây giờ thực là không tìm đâu được.
Lâm Xung nghe nói trong bụng lấy làm khó chịu, lại cất rượu uống luôn mấy chén nữa. Bấy giờ một mình nghĩ trông trước trông sau, càng thấy buồn tênh buồn ngắt, đoạn rồi lại nghĩ ngẫm mà tự ân hận rằng: "Khi trước ta ở kính sư, làm chức Giáo Đầu, cứ hàng ngày lại đi rong chơi phường phố, chè chén vui cười, biết bao nhiêu là thú vị! Thế mà ai ngờ ngày nay lại bị thằng cọp già Cao Cầu kia nó hãm hại ta, làm cho đến nỗi phải chạm dấu vào mặt, đày ải phương xa, rồi lại lênh đênh đến tận chốn này, khiến cho ta có nước không được về, có nhà không được ở, đem ngày những âm thầm mà chứa chất kể biết bao cay đắng, thế thì có đáng giận hay không?" Nghĩ đoạn liền gọi tửu bảo mượn bút với nghiêng rồi nhân khi tửu hứng, giơ lên vách vôi, mà viết tám câu thơ rằng:
Khẳng khái thay! Lâm Xung,
Trung nghĩa dốc một lòng
Giang hồ từng nổi tiếng,
Thiên hạ khét anh hùng.
Thân thế thường chìm nổi.
Công danh ngán bấp bông!
Ngàn sau như thỏa chí,
Lừng lẫy Thái Sơn Đông. 
Viết xong vất bút xuống rồi lại ngồi uống rượu ngẫm nghĩ một mình. Chợt đâu thấy người xem tuyết lúc nãy chạy vào, cầm cánh tay Lâm Xung mà nói rằng:
- Bác này to gan thực! Bác ở Thương Châu, làm ra những tội tày đình, hiện quan tư còn đương thưởng tiền để bắt, thế mà lại dám đến đây à?
Lâm Xung quay lại hỏi rằng:
- Bác biết tôi là ai?
- Bác là Báo Tử Đầu Lâm Xung chứ ai!
Lâm Xung tảng lờ đáp rằng:
- Không phải tôi là họ Trương kia mà.
Người kia cười mà rằng:
- Thôi, bác đừng nói lòe tôi nữa, tên bác vừa mới viết trên vách, hãy còn kim ấn đây kia, bác chối sao được.
Lâm Xung biết thế không thể chối được, liền hỏi:
- Anh bắt tôi hay sao?
Người kia lại cười mà đáp:
- Tôi bắt bác để làm gì, bác hãy tôi theo vào trong Thủy Đình này, ngồi chơi rồi sẽ nói chuyện.
Nói xong lại gọi tửu bảo thắp đèn trong Thủy Đình, rồi mời Lâm Xung vào cùng ngồi mà nói rằng:
- Vừa rồi tôi thấy quan bác muốn thuê thuyền đi vào Lương Sơn Bạc, nhưng ở đấy là một cái trại của đám cường hào, quan bác định đến để làm gì?
- Không dấu gì bác, tôi bây giờ bị quan trên truy riết, không trốn vào đâu được, cho nên tôi phải vào đấy mà nhập bọn với họ cho xong.
- Đành vậy, nhưng tất là có ai tiến cử cho bác đây hẳn?
- Có người bạn cũ của tôi ở quân Hoàng Hải, thuộc về Thương Châu tiến cử cho tôi đến đó.
- Có phải là ông Tiểu Toàn Phong Sài Tiến chăng?
- Sao ngài lại biết ông ấy?
- Nguyên ông ấy với các Đại Vương ở trong trại cũng chơi thân với nhau, thỉnh thoảng lại có thư từ đi lại luôn luôn, ngày trước khi Vương Luân mới thi hỏng về, có cùng với ông Đỗ Thiên đến ở nhà ông Sài Tiến được ít lâu, rồi đến lúc đứng dậy ra đi, ông ấy lại tặng đãi tiền nong tử tế.
Lâm Xung nghe nói đến đó, đoán chắc rằng người kia cũng là một tụi ở Lương Sơn, liền hỏi bằng cách lễ phép rằng:
- Thưa ngài tôi thực là có mắt mà không trông thấy Thái Sơn xin ngài tha lỗi, mà cho biết đại danh là gì?
Người kia vội đáp lễ mà rằng:
- Thưa ngài, tôi là thủ túc của Vương Đầu Lĩnh, tên là Chu Quý, nguyên người ở phủ Nghi Châu, huyện Nghi Thủy, đám giang hồ thường gọi tôi là Hãn Địa Hốt Luật xưa nay. Nay trong sơn trại cắt tôi ra giả danh mở một ngôi hàng ở đây, chỉ cốt để thám thính những kẻ qua người lại, ai có tiền của thì lên báo với sơn trại, mà ai côi cút không có gì thì để mặc cho đi, kẻ nào có của cải đến đây, nhẹ ra thì cho uống thuốc mê, mà nặng ra thì tất phải kết quả tính mạng, rồi thái thịt phơi khô mà lấy mỡ đốt đèn ngay lập tức. Vừa rồi vì thấy ngài hỏi thăm đường vào Lương Sơn Bạc, cho nên không dám hạ thủ, sau thấy ngài viết tên lên vách, bấy giờ tôi mới biết ngài là bậc anh hùng có tiếng đã lâu, cũng may mà tôi được gặp ở đây, thực là vạn phúc. Vả chăng lại có Sài Đại Quan Nhân tiến cử, thì ngài tới nơi, tất là được trọng dụng chớ chẳng chơi.
Nói xong sai tửu bảo lại dọn rượu thiết đãi Lâm Xung. Hai người cùng ngồi ở Thủy Đình uống rượu hồi lâu, rồi Lâm Xung hỏi Chu Quý rằng:
- Bây giờ làm sao có thuyền mà đi vào Lương Sơn Bạc được?
- Ngài cứ nghỉ ngơi đây một tối, rồi sáng mai khắc có thuyền để tôi cùng đi với.
Đoạn rồi hai người cùng đi nghỉ. Sáng hôm sau vào khoảng trống canh năm, Chu Quý đã gọi Lâm Xung dậy, súc miệng rửa mặt rồi cùng nhau uống dăm ba chén rượu, ăn qua loa một chút điểm tâm. Lúc bấy giờ trời còn lờ mờ chưa sáng thực, Chu Quý đi ra Thủy Đình, mở cánh cửa rồi lấy một cái cung, đặt tên nhắm vào thẳng một đám lau lách ở trong bến nước mà bắn ra một phát. Lâm Xung thấy vậy, hỏi Chu Quý rằng:
- Bắn như thế là ý gì?
- Đó là hiệu tên của sơn trại ở đây, bắn thế một lát có thuyền bây giờ.
Được một lát, quả nhiên có năm bảy tên lâu la nhỏ, chèo một cái thuyền đến bên cạnh Thủy Đình, Chu Quý liền vẫy Lâm Xung mang các đồ đao trượng hành lý mà xuống thuyền. Thuyền chèo vào vũng Kim Sơn, mà đi đến bến, Chu Quý cùng Lâm Xung bước lên trên bờ để mấy đứa tiểu lâu la, đeo khăn gói vác đao trượng đi theo sau lên sơn trại, còn mấy đứa tiểu lâu la, chèo thuyền tấp về một chỗ.
Lâm Xung lên đến bờ, nom hai bên toàn thị cây lớn đẫy ôm, rồi thấy một tòa Đoạn Kim Đình ở ngay lưng chừng núi. Đi một lát nữa đến một tòa cổng lớn, mặt trước bày dàn các đồ gươm giáo cung nỏ mác phạng roi...toàn xếp những gỗ súc đá đạn rất là oai vệ. Hai bên lối đi dàn các hiệu cờ đội ngũ, rồi lại đi qua hai lần cổng nữa, mới tới cửa trại. Bấy giờ Lâm Xung nhìn khắp bốn mặt non cao, ba tòa cửa rộng, lại có miếng đất phẳng lỳ như mặt kính, chu vi chừng ba bốn trăm trượng. Ở giữa, ngay giữa chỗ khe núi vào là tòa cửa chính còn hai cái phòng xép ở ra hai bên, Chu Quý đưa Lâm Xung đi qua cửa vào đến Tụ Nghĩa Sảnh, thấy khoảng giữa kê một cái ghế chéo, Bạch Y Tú Sĩ Vương Luân ngồi đấy. Bên tả cũng một cái ghế chéo, Mô Tước Thiên Đỗ Thiên ngồi, còn bên hữu một cái ghế nhỏ, Vận Lý Kim Cương Tống Vạn ngồi. Chu Quý đưa Lâm Xung đến trước mặt chào ba người, rồi Lâm Xung đứng bên cạnh Chu Quý.
Chu Quý nói với ba người kia rằng:
- Ông này là ông Lâm Xung làm chức Giáo Đầu dạy 80 vạn Cấm Quân ở bên Đông Kinh, tên hiệu Báo Tử Đầu Lâm Xung vì Cao Thái Úy hãm hại, phải đi đày sang Thương Châu, rồi lại bị người lập kế đốt mất thảo trường, cho nên bất đắc dĩ phải giết chết ba người mà đi trốn vào nhà ông Sài Tiến. Nay ông Sài Tiến có đưa thư tiến cử để nhập đảng vào đây, xin trình để chư huynh biết...
Lâm Xung thấy Chu Quý nói liền lấy thư đưa ra, Vương Luân cầm lấy thư bóc xem rồi, mời Lâm Xung ngồi vào ghế thứ tư, còn Chu Quý thì ngồi vào ghế thứ năm. Nhất diện lại sai tiểu lâu la đem rượu lên rót ba tuần rồi mới hỏi thăm đến chuyện Sài Đại quan nhân.
Lâm Xung thấy hỏi đáp rằng:
- Sài Đại quan nhân chỉ ngày ngày đi ra ngoài nội săn bắn làm vui, không có việc chi là lạ.
Vương Luân hỏi han hồi lâu, rồi tự nghĩ một mình rằng:
- Mình là một anh học trò thi hỏng, chỉ vì bực chí mà dắt Đỗ Thiên lên đây lạc thảo, rồi sau mới có Tống Vạn đem được ít binh mã mà tụ họp thêm vào. Nhưng khốn vì mình đây võ nghệ cũng chẳng biết gì, mà Đỗ Thiên, Tống Vạn thì cũng loàng nhoàng chẳng được bằng ai, vậy mà lại rước một anh này đến đây, trước anh ta đã làm chức Giáo Đầu, tất cao cường võ nghệ, ngộ sau này biết thóp mà tranh chiếm chúng mình, thì cự địch làm sao cho nổi? Âu là ta chối phắt cho hắn đi chỗ khác là hơn. Như thế thì cũng có điều hơi ngại với Sài Đại quan nhân, mà mang tiếng là thằng bội bạc, song cũng không thể nào mà dung được hắn ở đây.
Nghĩ đoạn liền sai đặt tiệc để thiết, Lâm Xung cùng các bạn hảo hán trên trại. Khi ăn tiệc xong, Vương Luân sai tiểu lâu la lấy một cái mâm 50 lạng bạc, và cây lụa lên, rồi đứng dậy mà nói với Lâm Xung rằng:
- Không mấy khi Sài Đại quan nhân lại giới thiệu cho Giáo Đầu đến tiểu trại chúnh tôi, để vào đảng, thực chúng tôi lấy làm may mắn. Song hiềm vì chúng tôi ở đây trại nhỏ, lương ít, nhà cửa chật hẹp, sức vóc yếu đuối, sợ sau này lại lỡ mất đường tiến thủ của ngài. Vậy nay gọi có chút lễ mọn xin ngài chấp nhận lấy, và ngài liệu đi tìm chỗ khác mà lập chí, thì có lẽ tiện hơn. Xin ngài chớ lấy làm lạ mà ngờ bụng chúng tôi.
Lâm Xung nghe nói liền từ chối mà rằng:
- Chúng tôi nghìn dặm tìm danh nhân, muôn dặm tìm minh chủ, nay nhờ được Sùài Đại quan nhân tiến cử đến đây, để cùng các ngài theo đuổi, vậy chúng tôi tuy tài hèn mọn, cũng xin hết sức bình sinh, không có điều chi siểm nịnh, dám xin các ngài rộng lòng cho ở lại đây. Chúng tôi thực không phải là cốt đến đây để lấy tiền tặng của các ngài, xin Đầu Lĩnh xét cho.
- Hãy hay rằng vậy, nhưng ở đây nhỏ hẹp thế này, để ngài ở làm sao được. Ngài chớ nghĩ chúng tôi có bụng gì đâu.
Chu Quý nghe Vương Luân nói liền can rằng:
- Dám thưa Ca Ca tôi nói câu này, xin Ca Ca thứ lỗi cho, trong trại ta đây lương thực tuy ít, cũng có thể lấy thêm được ở các nơi, nhà cửa tuy không chỉnh đốn, cũng có thể lấy gỗ lạt trong rừng mà làm thêm được. Vậy thì Sài Đại quan nhân đã tiến cử Lâm Giáo Đầu sang đây, có lẽ lại để người đi đâu cho tiện? Vả lại Sài Đại quan nhân trước đã có ơn với sơn trại ta đây, nay nếu làm như vậy, mà quan nhân biết ra tất là mang tiếng không hay. Huống chi Lâm Giáo Đầu lại là một người giỏi về võ nghệ, ở đây hẳn cũng làm được việc hay, vậy có điều chi mà ngại?
Đỗ Thiên cũng nói rằng:
- Trong sơn trại ta hẹp gì một người mà không thu lưu được! Nếu Ca Ca làm thế, e khi Sài Đại quan nhân biết đến, thì tất là đeo điều bội nghĩa vong ân. Phương chi ngày trước ta nhờ vả cũng nhiều, thế mà ngày nay tiến cử một người đến đây, mà ta lại thoái thác không nhận, thì nghe sao cho xuôi?
Tống Vạn cũng khuyên Vương Luân rằng:
- Ta nên nể lòng Sài Đại quan nhân mà lưu Lâm Giáo Đầu làm chức Đầu Lĩnh ở đây là phải, nếu không thì bọn giang hồ người ta tất nhiên cười ta là lũ vô nghĩa không ra gì.
Bấy giờ Vương Luân quay ra bảo các người cùng đảng rằng:
- Anh em không biết, người ta ở Thương Châu, đã gây ra những tội tầy trời, nay lại lên sơn trại ta đây, ngộ nhỡ ra không phải là người tâm phúc, mà định đến để dò xét thực hư, thì ta làm thế nào?
Lâm Xung nói:
- Tôi vì phạm tử tội, trốn tránh đến đây một mình, còn có điều chi mà các ngài lấy làm ngờ nữa.
Vương Luân nói:
- Nếu quả thực là có lòng vào đảng với chúng tôi, thì xin nộp một đầu danh trạng để làm tin.
- Vâng, chúng tôi cũng biết vọc vạch được dăm ba chữ, xin cho đem giấy bút đây, để tôi viết đầu danh trạng.
Chu Quý nghe nói cười bảo Lâm Xung rằng:
- Không phải thế, Lâm Giáo Đầu ơi! Phàm đám hảo hán muốn nhập bọn với nhau, tất phải có đầu danh trạng, đầu danh trạng này là xuống núi giết được một người mà lấy thủ cấp lên đây, cho mọi người đều tin theo bụng mình, chứ có phải là giấy đầu danh đâu?
Lâm Xung nói:
- Cái đó thì cũng dễ, để tôi xuống núi, xem có ai là tôi làm được ngay, nhưng chỉ sợ không có ai đi qua lại thì làm thế nào?
Vương Luân ra lệnh rằng:
- Tôi hẹn cho ông trong ba ngày, nếu có đầu danh trạng, thì xin lưu lại ở đây, bằng không thì ông đừng trách chúng tôi nữa.
Lâm Xung cúi đầu vâng lời. Đêm hôm ấy chè chén, xong rồi, Chu Quý lại trở về tửu điếm, còn Lâm Xung thì đem các đồ hành lý đao trượng mà đến ngủ ở phòng khách.
Sáng hôm sau Lâm Xung dậy cơm nước xong, rồi gọi một tên lâu la chở thuyền đưa ra ngoài núi, đến một chỗ đường con vắng vẻ để đợi khách qua lại, mà lấy đầu danh trạng. Đợi suốt từ sáng đến tối, không có một người nào qua lại ở đó, Lâm Xung lấy làm buồn bã, lại phải cùng tiểu lâu la mà cùng trở về sơn trại.
Khi về tới trại, Vương Luân hỏi rằng:
- Đầu danh trạng ở đâu?
Lâm Xung đáp:
- Ngày hôm nay không có một ai qua lại, cho nên chưa làm sao lấy được.
- Nếu ngày mai không có nữa, thì khó lòng mà ở đây được.
Lâm Xung nghe vậy, thì không dám nói gì, song trong lòng hơi buồn bực không vui.
Sáng hôm sau cơm nước xong, lại cùng tên tiểu lâu la xuống núi, tiểu lâu la lại đưa Lâm Xung sang mạn núi bên nam, nấp ở trong rừng, đợi suốt từ sáng đến trưa, cũng không thấy một ai cả.
Mãi sau có bọn tới 300 người, liền lũ với nhau qua đó, Lâm Xung thấy vậy, đành giương mắt nhìn họ đi mà không dám hạ thủ. Đoạn rồi lại rình mãi đến tối, cũng không có một người nào đi qua nữa.
Lâm Xung lấy làm bực dọc, bảo với tiểu lâu la rằng:
- Vận ta đen quá, đến nỗi hai ngày hôm nay không có một mống nào, đi lẻ loi ở đây cả, như thế biết làm sao bây giờ?
Tiểu lâu la nói:
- Ngài hãy cứ khoan tâm, còn một ngày mai nữa, tôi xin đưa ngài sang mạn núi bên đông kia, thì may ra có thể kiếm được.
Nói đoạn cùng trở về sơn trại.
Khi về tới nơi, Vương Luân lại nói rằng:
- Hôm nay thế nào, đầu danh trạng đâu?
Lâm Xung chỉ biết thở dài, mà không biết trả lời làm sao được. Vương Luân lại cười mà bảo rằng:
- Ngày nay lại không có rồi! Thôi tôi hẹn ba ngày, mà nay đã hết hai rồi, còn một ngày mai nữa, nếu không có, thì xin ngài cứ đi đâu cho, chứ không nên gặp nhau nữa.
Lâm Xung nghe thấy vậy, thì trong lòng lấy làm phiền não, chỉ trông trời mà than thở một mình. Hết một đêm hôm ấy, lại đến sáng hôm sau, Lâm Xung lại ăn qua loa một ít cơm, rồi sắp cả khăn gói vào lưng, và vác cây thanh đao lớn, cùng với tiểu lâu la đi xuống phía núi bên đông để đón.
Khi tới sườn núi, đứng nấp ở bên trong khu rừng, ước từ sáng đến trưa, tịch không một ai qua lại.
Bấy giờ gặp buổi tuyết tàn mới tạnh, bóng ác sáng soi, Lâm Xung bảo với tiểu lâu la:
- Vận ta thế nầy đen thực, còn mặt mũi nào trở lại sơn trại nữa. Vậy bất nhược ngay bây giờ mặt trời chưa tối, ta tiện đây thu lấy hành lý, mà đi tìm nơi khác là hơn!
Vừa nói dứt lời, thì thấy tên tiểu lâu la trỏ tay ra mà bảo rằng:
- Kia kìa! Có phải có một người đi đến kia không?
Lâm Xung quay ra nom, thì quả nhiên có một người đang lừ lừ ở góc núi đàng xa đi đến, chàng liền thở dài một tiếng, ra dáng bất đắc dĩ trong lòng, rồi vác đao nhảy xổ ra.
Người đi đường trông thấy Lâm Xung nhảy ra, thì kêu một tiếng rồi vất gánh xuống đường mà vùng chạy tháo thân? Lâm Xung vội vàng đuổi theo đến chỗ góc núi, thì anh kia chạy ngoắt đi đâu mất không sao bắt được. Bấy giờ Lâm Xung quay lại bảo với tên lâu la rằng:
- Ngươi xem vậy ta thế có ngán không? Đợi ba ngày mới gặp một người, thì nó lại chạy mất, còn làm thế nào được nữa?
Tiểu lâu la nói:
- Không hề chi ngài dẫu không giết được người, nhưng đã có gánh lụa đây cũng có thể thay vào được.
- Nếu thế thì ngươi gánh về trại trước, để ta đứng đây đợi lúc nữa xem sao?
Tiểu lâu la vâng lời, gánh gánh lụa đi về trại trước. Chợt đâu lại có một người to lớn vác một thanh đao ở đâu lù lù đến, Lâm Xung đã mừng thầm trong bụng: "Chắc là trời giúp cho ta phen này hẳn? "
Vừa nghĩ vậy, thì người kia cầm thanh đao đi đến, quát lên như sấm vang rằng:
- Đồ ăn cướp kia, muốn sống thì đem trả hành lý của ta. Chính ta đương muốn bắt chúng bây, nay chúng bây lại còn muốn nhổ râu hùm nữa sao?
Nói đoạn giơ đao nhảy sấn vào mà đánh Lâm Xung, mới hay:
Già gan mới biết gan già,
Giang hồ vùng vẫy ai mà kém ai?
Tuốt gươm đứng dậy hỏi trời:
Nam nhi này chịu thua thời được sao
Không gan ai gọi anh hào,
Không lên, ai biết non cao mấy trùng
Dấn thân trong đám bụi hồng
Một liều bảy, tám, chín lung lung ta quyết liều.
Lời bàn của Thánh Thán:
Toàn Phong là gió dữ, sức nó quay tròn từ đất nổi lên, mới đầu thì những bụi than hợp lai, dần dần làm cho đá chạy cát bay, khiến trời đất tối tăm, người vật đều kinh khiếp, mới gọi là toàn, tức cơn gió Lốc, ý nói gió Lốc vơ những thứ ác dơ bẩn, quét đi một nơi như thế vậy. Bến nước có một số người, cũng từ Lâm Xung tới vậy. Mà vợ Lâm Xung về Bến Nước, thì ra sức của Sài Tiến làm nên. Xét tên của Sài Tiến gọi là Toàn Phong, thì thấy lời kia dữ lắm, thế mà lại cho làm Tiểu (Toàn Phong) là sao? Ví Sài Tiến đối với đám người Bến Nước, cũng ví như một cánh bèo, rồi đến Lý Quỳ cũng vào Bến Nước, khiến trên dưới phân ngôi, làm cho nhật nguyệt đôi vầng không sáng láng, cho nên lấy làm dữ dội những cơn gió, mà gọi là Hắc Toàn Phong (tên Lý Quỳ) nay một kẻ kia là Hắc, thì Sài Tiến lại là Tiểu vậy, mới gọi Sài Tiến làm Tiểu Toàn Phong.
Hồi này một nửa về trước, chỉ bình thường không lạ, song chép việc cũng đơn giản đủ ý, đến nửa hồi sau, tả Lâm võ sư uống rượu trong hàng nét bút như qủy lạ, tự đầu muốn lại vồ người, dẫu ngồi trong lầu gác đọc qua, cũng không thể chẳng vỗ bàn mà kêu khóc vậy.
Tiếp tay tả Vương Luân ghen ghét, đó cũng là thói quen của lũ ấy, chẳng nói làm chi, chỉ duy chỗ ba ngày sang sông, mỗi ngày một tả khác, văn bút như vậy, cũng thấy ly kỳ! Rất kỳ là ngày thứ nhất không thấy bóng người qua; Ngày thứ nhì có đám 300 người qua, làm không đám động tay; Ngày thứ ba sao thấy một người, lại bị chạy mất, phải đợi đến lần thứ hai, mới nảy ra một tay đại hán, đều là những đoạn văn kỳ ảo đặc biệt, không thể bỏ qua. Trong văn có từng chỗ tả tuyết, khéo điểm xuyết ly kỳ...
Ta đọc trong đoạn văn ngày thứ ba, đến chỗ đánh cướp lấy gánh hàng, với câu trời còn chưa tối, thấy rằng Nại Am là một bậc tài tử chính đáng, độc giả đời sau, xem nên lưu ý, cho rõ lối hành văn.
Thi Nại Am
Dịch giả: Á Nam Trần Tuấn Khải
Theo https://www.sachhayonline.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nguyễn Huy Thiệp - Con sông vẫn "Thao thiết" chảy

Nguyễn Huy Thiệp - Con sông vẫn "Thao thiết" chảy Cuốn Anh hùng còn chi của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp vừa được NXB Hội Nhà văn ph...