Hồi 6:
Giả Bảo Ngọc mới thử cuộc mây mưa
Lưu lão lão đến thăm phủ Vinh quốc
Sớm gõ cửa nhà giàu,
Nhà giàu cũng chưa đủ.
Tuy không tặng nghìn vàng,
Tình còn hơn máu mủ.
Tần thị nghe thấy Bảo Ngọc nằm mê gọi tên tục mình, bụng lấy
làm buồn, nhưng không tiện hỏi kỹ.
- Lúc này Bảo Ngọc vẫn còn mê man, bâng khuâng như mất cái gì. Mọi người bưng bát nước hoa quế đến, Bảo Ngọc uống hai ngụm mới đứng dậy sửa lại quần áo. Tập Nhân đến buộc hộ thắt lưng, vừa thò tay vào đùi Bảo Ngọc, thấy một đám dính như hồ lành lạnh, Tập Nhân giật mình co tay lại hỏi:
- Cái gì thế này?
Bảo Ngọc đỏ bừng mặt, bấm mạnh tay Tập Nhân một cái. Tập Nhân
là gái thông minh, hơn Bảo Ngọc hai tuổi. Gần đây cô ta cũng hơi biết mùi đời,
thấy thế trong bụng hiểu ngay một phần nào, tự nhiên má đỏ bừng lên, không hỏi
nữa, cứ thế sửa lại quần áo cho Bảo Ngọc rồi đưa đến chỗ Giả mẫu. Bảo Ngọc ăn
qua loa bữa cơm chiều, trở ngay về nhà. Gặp lúc vắng người hầu, Tập Nhân lấy
ngay quần lót cho Bảo Ngọc thaỵ Bảo Ngọc ngượng nghịu:
- Chị đừng cho ai biết nhé!
Tập Nhân cũng ngượng nghịu cười khẽ:
- Cậu mơ gì thế? Cái này ở đâu chảy ra thế?
- Không sao nói hết được.
Bảo Ngọc liền đem việc trong mộng kể lại tỉ mỉ cho Tập Nhân
nghe. Khi nói đến cuộc mây mưa mà tiên cô truyền cho, làm Tập Nhân xấu hổ, bưng
mặt gục đầu xuống cười. Bảo Ngọc xưa nay vẫn thích Tập Nhân có vẻ nhu mì, xinh
xắn, bèn nài Tập Nhân cùng mình diễn lại những việc nàng tiên Cảnh ảo đã chỉ dẫn
trong mộng. Tập Nhân biết Giả mẫu đã giao mình cho Bảo Ngọc, dù sao cũng không
vượt qua khuôn phép, nên bằng lòng, may không ai trông thấy cả.
Từ đấy, Bảo Ngọc biệt đãi Tập Nhân hơn hẳn mọi người. Tập
Nhân cũng hết lòng hầu hạ Bảo Ngọc hơn trước.
Nay nói đến phủ Vinh, người không đông lắm, tính trên dưới có
tới ba bốn trăm, việc không nhiều lắm, một ngày xử độ vài mươi vụ, rối beng như
mối tơ vò, không biết lần từ đâu. Vậy thì nên lấy việc gì, người nào làm đầu mối
mà viết truyện được.
Bỗng có một nhà tầm thường, nhỏ nhặt ở xa ngàn dặm, có bà con
họ hàng với phủ Vinh, hôm nay đến phủ thăm hỏi, nên nhân tiện xin bắt đầu câu
chuyện từ nhà ấy. Các vị ngẫm xem nhà ấy là ai, có bà con gì với phủ Vinh?
Nguyên cái nhà tầm thường ấy là họ Vương, người địa phương
này, đời ông làm chức quan nhỏ, trước có quen biết ông của Phượng Thư là bố
Vương phu nhân. Vì ham thế lợi nhà họ Vương nên ông ta đến nhận họ và xưng là
cháu.
Bấy giờ chỉ có bố Phượng Thư là anh cả Vương phu nhân và
Vương phu nhân ở Kinh mới biết có người họ xa này, còn không ai biết cả. Sau
đó, người ông mất sớm, chỉ có một con tên là Vương Thành. Vì nhà sa sút phải dọn
ra một cái xóm ngoại thành. Vương Thành cũng chết, có con là Cẩu Nhi, lấy vợ họ
Lưu, đẻ được một trai đặt tên là Bản, một gái là Thanh. Cả nhà bốn miệng ăn,
chuyên nghề làm ruộng. Cẩu Nhi phải đi làm ở ngoài, họ Lưu thì gánh nước, giã gạo,
bận rộn suốt ngày. Hai chị em con Thanh, thằng Bản không có người trông nom,
nên Cẩu Nhi mời mẹ vợ là già Lưu đến giúp hộ.
Già Lưu góa chồng từ lâu, không có con trai, sống nhờ vào hai
mẫu ruộng xấu. Nay con rể mời đến ở, lẽ nào lại không bằng lòng, vì thế già tận
tình giúp đỡ rể và con gái. Năm ấy cuối thu sang đông, trời sắp rét, trong nhà
chưa có đồ mặc ấm, Cẩu Nhi không khỏi buồn bực, uống vài chén rượu, đâm ra bẳn
gắt. Vợ không dám nói động đến. Già Lưu thấy vậy khó chịu mới khuyên:
- Này anh rể ơi! Anh đừng giận tôi lắm điều nhé! Chúng ta là
người nhà quê thực thà, hay ăn to nói lớn. Anh còn trẻ tuổi, nhờ bố mẹ ăn mặc đầy
đủ quen rồi, nên mới thấy thế đã khó chịu. Khi có tiền thì anh ăn tiêu bừa bãi,
lúc hết tiền đâm ra cáu kỉnh, như thế sao gọi là tài trai, là đại trượng phu được?
Chúng ta tuy xa thành thị, nhưng vẫn ở trong Kinh độ Thành Trường An này chỗ
nào chẳng kiếm ra tiền, chỉ tại mình không biết đấy thôi. Anh cứ ở nhà cáu kỉnh
thì được cái gì?
Cẩu Nhi nghe thấy thế vội nói:
- Bà chỉ ngồi xó bếp nói bừa! Bà bảo tôi đi ăn cướp à?
Già Lưu nói:
- Ai bảo anh đi ăn cướp. Chúng ta phải tìm cách gì để sinh sống,
nếu không, khi nào tiền nó chạy vào túi mình.
Cẩu Nhi cười nhạt:
- Nếu có cách kiếm tiền thì tôi chẳng đến nỗi này. Tôi không
có họ hàng với người thu thuế, bạn bè với người làm quan, thì lần đâu cho rả Họ
có đấy, nhưng ai thèm nghĩ đến chúng ta?
Già Lưu nói:
- Không phải thế, người ta chỉ biết lo việc, còn được hay
không là nhờ trời. Chúng ta cứ lo đi, may nhờ Phật phù hộ sẽ gặp dịp tốt cũng
chưa biết chừng. Tôi sẽ tìm cho anh một cách. Ngày trước nhà anh nhận họ với họ
Vương ở Kim Lăng. Hai mươi năm trước đây, họ đối với nhà anh cũng từ tế. Bây giờ
anh lại làm bộ không chịu đến thăm họ, thành ra xa hẳn đi. Nhớ lúc trước, mẹ con
tôi đã có lần đến đó. Cô thứ hai nhà ấy tính tình nhũn nhặn, không hay kênh kiệu,
rất rộng rãi đối với mọi người, giờ là phu nhân họ Giả ở phủ Vinh. Nghe đâu bà ấy
đã có tuổi, biết thương người già, kẻ khó, hay bố thí cho sư sãi. Hiện giờ họ
Vương được thăng quan ra ngoài biên rồi, nhưng chắc thế nào bà ấy cũng còn nhớ
chúng tạ Tại sao anh không chịu đến thăm? May ra bà ấy nghĩ đến người cũ, giúp
đỡ ít nhiều cũng chưa biết chừng. Chỉ cốt họ có lòng tốt, nhổ ra một sợi lông
măng còn to hơn cái lưng chúng ta.
Vợ Cẩu Nhi nói theo:
- Bà nói phải đấy. Nhưng anh ấy với tôi người ngợm thế này
thì làm sao đến nhà người ta được. Chỉ sợ người gác cửa không cho vào thôi.
Cẩu Nhi vốn nặng lòng danh lợi, vừa nghe mẹ vợ nói, trong
lòng đã ngứa ngáy. sau lại nghe vợ nói liền, cười nói:
- Bà nói phải đấy. Ngày trước đã có lần bà đến thăm bà ấy, thế
thì ngày mai bà nên đi một chuyến nữa, nghe ngóng ra sao?
Già Lưu nói:
- Chao ôi, người ta thường nói: “Cửa nhà quan sâu như bể.” Ta
là cái thá gì, lại không quen biết ai, thì đi cũng uổng công thôi.
Cẩu Nhi nói:
- Không sao, tôi sẽ bảo cách. Bà dắt cháu Bản đi. Trước hết
bà tìm đến Chu Thuỵ là người hầu bà Vương lúc mới về nhà chồng. Gặp được ông ấy,
ta sẽ có phần chắc đấy. Ngày trước, cha tôi có giúp ông ấy một việc, từ đấy hai
bên đi lại rất tử tế với nhau.
Già Lưu nói:
- Tôi hiểu rồi. Nhưng lâu nay mình không đến thăm, không biết
người ta thế nào, thành ra cũng khó nói. Anh là đàn ông, ăn nói lỗ mãng, cố
nhiên không nên đến. Vợ anh còn non trẻ cũng không nên xông xáo. Thôi, để gái
già này đành giơ mặt hứng lấy việc vậy. Nếu được may mắn thì cả nhà cũng có lợi
đấy.
Chiều hôm ấy bàn định xong, hôm sau, trời chưa sáng rõ, già
Lưu đã dậy rửa mặt, chải đầu, rồi dặn cháu Bản mấy câu. Đứa bé mới năm, sáu tuổi,
nghe nói được ra tỉnh chơi, mừng tíu lên, bảo gì cũng vâng.
Già Lưu dắt thằng Bản vào thành. Khi đến phố Ninh-Vinh, cạnh
con sư tử đá ở trước cửa phủ Vinh, thấy chật ních những ngựa và kiệu. Già Lưu đứng
lại, phủi quần áo, dặn cháu Bản mấy câu rồi chạy đến chỗ cửa nách. Thấy mấy người
đương ngồi trên ghế lớn, ưỡn ngực, phưỡn bụng, khoa chân múa tay, nói chuyện ba
hoa, già Lưu rón rén lại chào:
- Lạy các ông ạ!
Mọi người ngắm nghía một lúc rồi hỏi:
- Ở đâu đến đây?
Già Lưu cười đáp:
- Tôi cần hỏi ông Chu là người theo hầu Vương phu nhân, nhờ
ông mời ra hộ.
Không ai thèm để ý đến. Một lúc lâu họ mới trả lời:
- Hãy lại góc tường thật xa đằng kia mà chờ. Chốc nữa trong
nhà sẽ có người ra.
Trong bọn, có một người lớn tuổi, nói:
- Đừng làm người ta nhỡ việc.
Rồi ngoảnh lại hỏi già Lưu:
- Ông Chu đi sang bên Nam rồi. Nhà ở phía sau, chỉ có bà ấy ở
nhà thôi. Mụ đi vòng ra cửa sau mà vào.
Già Lưu cảm ơn, dắt cháu Bản đi vòng ra cửa sau. Thấy trước cửa
có nhiều gánh hàng bán thức ăn, bán đồ chơi, lại có mấy chục đứa trẻ đang đùa
nghịch ầm ỹ, già Lưu níu lấy một đứa hỏi:
- Hỏi cậu một tí, bà Chu có nhà không?
Đứa bé trừng mắt:
- Bà Chu nào? ở đây có ba bà Chu kia. Còn hai bà Chu nữa.
Không biết bà Chu nào?
- Bà ấy là người theo hầu Vương phu nhân.
- Thế thì dễ thôi. Bà cứ đi theo tôi.
Rồi nó lon xon dẫn già Lưu đến bên cạnh tường sau dinh, trỏ bảo:
- Đấy nhà bà ấy đấy.
Nói rồi lại gọi to:
- Bà Chu ơi, có bà già nào hỏi đấy.
Vợ Chu Thụy vội chạy ra hỏi:
- Bà nào đấy?
Già Lưu đon đả chạy lại cười nói:
- Bà chị có được khỏe không?
Vợ Chu Thụy nhìn một lúc rồi cười nói:
- À bà Lưu ! Bà vẫn khỏe đấy chứ! đã mấy năm nay không gặp,
thành ra tôi quên mất. Xin mời bà vào nhà chơi.
Già Lưu vừa đi vừa cười nói:
- Bây giờ bà sang rồi, hay quên là phải, còn nhớ gì đến chúng
tôi nữa.
Nói xong vào trong nhà.
Vợ Chu Thụy sai con bé pha trà uống, rồi hỏi:
- Cháu Bản đã lớn thế kia à?
Sau mấy câu chuyện kể lại trong khi xa nhau, bà Chu
hỏi già Lưu:
- Hôm nay bà đi qua tạt vào chơi, hay chủ ý đến đây có việc
gì?
Già Lưu nói:
- Hôm nay tôi chủ ý đến thăm bà chị, sau nữa muốn đến hầu cả
bà Vương. Nếu có thể đưa tôi đến được càng hay, bằng không thì nhờ bà chị nói
giúp.
Bà Chu nghe nói đã phần nào đoán được chủ ý của già Lưu. Vì
chồng bà Chu trước kia nhờ thế lực bố Cẩu Nhi mới mua tranh được ít ruộng đất.
Nay thấy già Lưu nói thế, bà Chu không tiện chối từ, mặt khác muốn tỏ ra là
mình có thể diện nên cười nói:
- Bà cứ yên tâm, ở xa thế mà cũng chịu khó đến đây, lẽ nào
tôi không dẫn đến chầu đức Phật bà. Cứ lẽ ra, những người đi lại đây không can
dự gì đến tôi cả. Mỗi người một việc. Ông nhà tôi một năm hai mùa đi thu tô,
lúc rồi thì dắt các cậu đi chơi, thế là hết. Còn tôi, chỉ có việc theo hầu các
bà các cô đi chơi thôi. Vì bà là người bà con với bà Hai, vả lại cần đến tôi,
tôi xin cố sức giúp hộ. Nhưng có một việc chắc bà không biết, ở đây không như
năm năm về trước nữa đâu. Hiện giờ bà Hai không nhìn đến việc gì, tất cả đều
giao cho mợ Liễn trông coi. Bà thử đoán xem mợ Liễn là ai? Tức là cháu gái bà
Hai, con gái nhà ông cậu, lúc nhỏ cứ gọi là cô Phượng đấy.
- Thế ra cô ấy đấy à? Không trách được! Trước tôi vẫn nói cô
ta khá lắm. Thế ra hôm nay tôi lại được gặp.
- Việc ấy cố nhiên rồi. Bây giờ bà Hai còn bận nhiều việc. Hễ
khách nào đến có thể đẩy được là đẩy cho mợ Phượng săn sóc tiếp đãi cả. Hôm nay
bà chưa nên gặp bà ấv vội, thế nào cũng phải gặp mợ Liễn, thì bà đi chuyến này
mới không đến nỗi uổng công.
- Ai di đà Phật! Thôi trăm sự nhờ bà chị.
- Sao bà lại nói thế? Tục ngữ nói rất đúng: “Giúp người tức
là giúp mình”. Tôi chỉ mất lời nói thôi chứ có tốn kém gì đâu.
Nói xong, bà Chu sai a hoàn lẻn lên nhà trên, dòm xem bên cụ
đã dọn cơm chưa. A hoàn đi rồi, hai người ở nhà nói chuyện phiếm. Già Lưu nói:
- Mợ Phượng năm nay chỉ độ hai mươi tuổi thôi, thế mà có tài
đảm đang trông coi tất cả công việc trong nhà, thật là ít có.
Bà Chu nói:
- Ái chà? Còn phải nói. Mợ ấy ít tuổi, nhưng đảm đang gấp mấy
người tạ Bề ngoài dáng điệu óng ả, tưởng chỉ là một cô gái đẹp, nhưng lại là
người có đến vạn con mắt, không chỗ nào là không nhìn thấy. Còn về ăn nói thì
chấp cả mười anh đàn ông mồm mép cũng phải thuạ Chốc nữa gặp, bà sẽ biết. Có điều
đối với người dưới hơi nghiệt thôi.
Một chốc a hoàn về báo:
- Bên nhà cụ đã dọn cơm xong. Mợ hai đương ở nhà Vương phu
nhân.
Bà Chu nghe nói, vội vàng đứng dậy giục già Lưu:
- Đi đi! Chốc nữa họ ăn cơm xong là có dịp rồi đấy, chúng ta
đến chờ trước đi. Nếu chậm một bước, nhiều người đến trình việc thì khó nói lắm.
Họ ăn xong lại đến giấc ngủ trưa, còn thì giờ nào nữa.
Hai người cùng xuống giường, sửa lại quần áo. Già Lưu nhắc lại
thằng Bản mấy câu, rồi theo bà Chu đi quanh đến nhà Giả Liễn. Khi đến buồng
ngoài, bà Chu để già Lưu ngồi chờ một chỗ, tự mình đi qua bức tường vẽ, tiến
lên cửa dinh. Biết Phượng Thư chưa ra, bà Chu tìm ngay Bình Nhi là một a hoàn hầu
cận của Phượng Thư, kể rõ lai lịch già Lưu rồi nói:
- Bây giờ già ấy ở xa đến thăm bà Hai. Vì ngày trước bà Hai
đã thường gặp, nên tôi dắt bà ấy đến đây. Chờ khi mợ xuống, tôi sẽ nói rõ đầu
đuôi, chắc mợ không mắng tôi là người lỗ mãng.
Bình Nhi nghe xong nói:
- Mời họ lên ngồi chỗ này đã.
Bà Chu ra dẫn bà cháu già Lưu đến thềm giữa. Bọn a hoàn nhỏ
vén rèm đỏ lên. Vừa bước vào nhà đã thấy mùi hương ngào ngạt. Già Lưu không biết
mùi gì, cứ như đứng ở trong đám mây vậy. Nhìn khắp nhà, đồ vật bày biện sáng
choang; làm cho ai nấy phải nhức đầu lóa mắt. Già Lưu bây giờ chỉ biết gật đầu
lẩm nhẩm niệm Phật, rồi đến gian nhà phía đông là buồng ngủ của con gái Giả Liễn.
Bình Nhi đứng cạnh bục ngắm nhìn già Lưu hỏi một câu và mời ngồi. Già Lưu thấy
Bình Nhi khắp người là lượt, trâm vàng, vòng bạc, dáng đẹp như hoa, mặt tròn
như trăng, tưởng là Phượng Thư, toan chào là “cô”, nhưng thấy bà Chu nói: “Đây
là cô Bình”. Lại thấy Bình Nhi gọi bà Chu là bà, già Lưu mới biết đấy chỉ là một
thị nữ hạng khá. Bình Nhi mời già Lưu và cháu Bản ngồi lên bục, bọn a hoàn nhỏ
pha trà mời uống.
Già Lưu nghe có tiếng lách tách như tiếng thanh la, nhìn ngược
nhìn xuôi, thấy trên cột có treo một cái hộp, dưới hộp có một cái gì như quả cầu.
cứ đưa đi đưa lại luôn. Già Lưu nghĩ bụng: “Nó là cái gì? Dùng nó để làm gì?”
đương lúc ngẩn ngơ suy nghĩ thì nghe “Keng” một tiếng như chuông vàng, khánh đồng
vậy. Sợ quá, già Lưu trên mắt lên nhìn, lại thấy “keng keng” tám chín tiếng liền,
già Lưu toan hỏi thì bọn a hoàn nhỏ chạy xô đến nói:
- Mợ sắp xuống đấy!
Bà Chu và Bình Nhi đứng dậy vội bảo già Lưu:
- Bà cứ ngồi đây chờ một lúc, tôi sẽ lại mời.
Nói rồi chạy ra ngoài.
Già Lưu ngồi im lặng lắng tai nghe ngóng. Chỉ thấy xa xa có
tiếng cười, chừng vài chục người đàn bà, quần áo sột soạt, lên thềm đi vào nhà.
Lại thấy hai ba người đàn bà cầm hộp sơn đỏ đứng đấy chờ. Rồi trong nhà có tiếng
gọi: “Dọn cơm”. Mọi người dần dần lui ra, chỉ còn một vài người ở lại bưng thức
ăn. Cả nhà im lặng không một tiếng động. Giờ lâu hai người khiêng cái mâm để
lên trên bục. Trên mâm bát đĩa đầy những thịt cá, nhưng chỉ mới khuyết qua loa
một vài thứ. Thằng Bản trông thấy đòi ăn, già Lưu tát nó một cái. Chợt thấy bà
Chu cười hì hì chạy đến vẫy tay gọi. Già Lưu biết ý, dắt thằng Bản xuống bục đi
lại gian giữa. Bà Chu đến thì thầm với già Lưu một lúc, rồi cùng rón rén vào
nhà trong. Vừa bước vào cửa, già Lưu nhìn thấy trên móc đồng treo một cái màn
hoa màu đại hồng, dưới cửa sổ hướng nam, kê một cái bục giải nệm màu đại hồng;
cạnh vách phía đông đặt cái nệm, tựa lưng bằng gấm thêu, một cái gối tựa và một
cái nệm ngồi cũng thêu bằng chỉ kim tuyến; bên cạnh có cái ống nhổ bằng bạc.
Phượng Thư ở nhà thường đội mũ Chiêu Quân lông điêu sắc tía, chung quanh có dây
giắt hạt châu, mặc áo hoa màu hồng điều, khoác áo choàng bằng da chuột, viền chỉ
tơ màu thạch thanh, mặc quần nền lụa đại hồng phấn son lộng lẫy, ngồi nghiêm chỉnh
ở đấy, tay đương cầm cái đũa bằng đồng gạt tro lồng ấp.
Bình Nhi đứng ở bên giường, bưng một cái khay sơn nhỏ, trong
có một chén trà. Phượng Thư không cầm lấy chén, không ngửng đầu lên, cứ tay gạt
tro, miệng thong thả nói: “Làm sao mãi không mời người ta lên?” Vừa lúc ngẩng
lên uống nước thì thấy bà Chu dẫn hai người đứng ở dưới đất. Phượng Thư toan đứng
dậy nhưng chưa đứng, vẻ mặt đã tươi cười hỏi han, lại quở bà Chu: “Tại sao
không báo sớm?”
Già Lưu đứng dưới đất lạy mấy lạy, hỏi thăm sức khỏe. Phượng
Thư nói:
- Chị Chu đỡ dậy, đừng để lạy nữa. Xin mời ngồi. Tôi còn ít
tuổi, chưa biết rõ thứ bậc họ hàng, không biết xưng hô thế nào?
Bà Chu nói:
- Đây là bà cụ tôi mới trình mợ lúc nãy.
Phượng Thư gật đầu.
Già Lưu đã ngồi vào mép bục bảo thằng Bản đến hàng trăm lần
ra chào mợ Hai, nó vẫn cứ nấp sau lưng, nhằng nhằng không chịu ra.
Phượng Thư cười nói:
- Chỗ họ hàng không năng đi lại, thành ra xa nhau. Người biết
ra thì bảo bà con hững hờ với nhau, không đến chơi luôn. Người không biết lại bảo
chúng tôi không coi ai ra gì.
Già Lưu vội nói:
- A di đà phật, nhà chúng tôi nghèo khó, không dám đến đây,
dù cô không nói gì, nhưng các ông quản gia cũng chẳng coi chúng tôi ra sao.
Phượng Thư cười nói:
- Đừng nói thế, chẳng qua nhờ tiếng ông cha làm một chức quan
kiết, chứ giàu có gì, chỉ là cái giá rỗng đấy thôi. Câu tục ngữ nói rất đúng:
“Nhà vua còn có ba họ nghèo” nữa là nhà chúng ta.
Nói xong lại hỏi bà Chu đã đến trình bà chưa. Bà Chu đáp:
- Còn chờ lệnh mợ.
Phượng Thư nói:
- Chị đi xem, nếu có ai ở đấy thì thôi, bằng không thì hãy
trình xem người bảo sao?
Bà Chu vâng lời đi ngaỵ Phượng Thư sai người lấy hoa quả cho
cháu Bản ăn. Vừa nói chuyện phiếm mấy câu, đã có nhiều người nhà đến trình việc.
Bình Nhi vào báo. Phượng Thư bảo:
- Ta bây giờ đương bận tiếp khách, bảo họ chiều hãy đến. Nếu
ai có việc cần thì cứ vào.
Bình Nhi ra một lúc rồi vào nói:
- Tôi đã hỏi, không có ai có việc gì cần cả. Tôi bảo họ về cả
rồi.
Phượng Thư gật đầu.
Bà Chu trở về nói với Phượng Thư:
- Bà nói, hôm nay không được rồi. Mợ tiếp cũng thế. Cảm ơn bà
ấy có lòng tốt đến hỏi thăm. Bà ấy đến chơi không thì thôi, nếu có việc gì muốn
nói thì cứ nói với mợ cũng được.
Già Lưu nói:
- Không có việc gì, tôi chỉ đến thăm bà cô và cô thôi, vì
tình bà con họ hàng với nhau.
Bà Chu nói:
- Không có việc gì thì thôi, nếu cần gì thì cứ nói với mợ
cũng như là nói với bà vậy.
Vừa nói bà Chu vừa đưa mắt cho già Lưu.
Già Lưu biết ý, chưa nói mặt đã đỏ bừng. định không nói.
Nhưng hôm nay đến đây làm gì. Bà đành ngượng nghịu nói:
- Hôm nay mới gặp lần đầu, đáng lẽ tôi không nên nói thì phải.
Nhưng vì từ xa đến đây, tôi không thưa cũng không được.
Vừa nói đến đây thì có bọn a hoàn vào trình:
- Có cậu cả Dung ở bên phủ Đông sang chơi.
Phượng Thư vội gạt tay nói:
- Bà không cần phải nói nữa.
Rồi ngoảnh mặt ra hỏi:
- Cậu cả Dung ở đâu?
Chợt nghe tiếng giày lẹp kẹp, một chàng trẻ tuổi độ mười bảy,
mười tám, mặt mũi thanh tú, khổ người mềm mại, ăn mặc lịch sự, áo cừu mỏng, đai
dát ngọc, từ ngoài đi vào. Già Lưu bấy giờ cuống quít đứng ngồi không tiện, chẳng
biết lánh chỗ nào. Phượng Thư cười nói:
- Bà cứ ngồi yên, cháu tôi đấy.
Già Lưu mới rụt rè ngồi ghé bên cạnh bục.
Giả Dung chào rồi cười nói:
- Cha cháu sai cháu đến nhờ thím một việc. độ trước bên bà
ngoại có cho thím cái bình phong pha lệ Ngày mai nhà cháu có khách xin thím cho
mượn về, xong cháu sẽ trả ngay.
Phượng Thư nói:
- Cháu đến chậm quá. Hôm nọ ta trót cho mượn mất rồi.
Giả Dung nghe nói cười hì hì, quỳ lom khom ở trên bục nói:
- Nếu thím không cho mượn, cha cháu sẽ bảo cháu không khéo
nói, lại bị một trận đòn thôi. Thím ơi! Thương cháu với.
- Không lẽ cái gì của nhà họ Vương cũng đều đẹp cả. Ở bên nhà
cháu bao nhiêu đồ đẹp, nhưng hễ thấy cái gì của ta là chỉ chực cuỗm thôi.
- Thôi xin thím cứ làm ơn cho.
- Nhưng hễ sứt sát một tý là ta xé xác đấy!
Rồi sai Bình Nhi lấy chìa khóa mở cửa lầu, gọi mấy người cẩn
thận lên khiêng bình phong đi. Giả Dung vội cười nói:
- Cháu sẽ tự dẫn người mang đi không dám làm sứt mẻ một tý.
Nói xong đứng dậy đi.
Phượng Thư chợt nghĩ đến một việc, vội ngoảnh ra cửa sổ gọi:
- Cháu Dung hãy trở lại đây.
Mấy người bên ngoài gọi theo:
- Cậu Dung hãy trở lại.
Giả Dung vội quay lại, buông thõng tay đứng đợi.
- Thôi cháu hãy về đi. Cơm chiều xong lại đây sẽ nói. Bây giờ
đương có người, ta chẳng bụng nào nghĩ đến nữa.
Giả Dung vâng một tiếng rồi lững thững đi ra.
Già Lưu lúc này mới yên dạ, bèn nói:
- Hôm nay tôi đem cháu cô đến, chẳng có việc gì khác cả. Chỉ
vì bố mẹ cháu ở nhà ăn cũng không có, trời lại rét, nên phải mang cháu đến đây.
Nói xong, lại giục thằng Bản:
- Ở nhà bố mày dặn mày đến nói những gì để bày tỏ hết tình cảnh
nhà tả Mày chỉ biết ăn thôi!
Phượng Thư biết ngay, thấy đứa bé không nói, liền cười bảo:
- Thôi, không cần nói nữa, tôi biết cả rồi.
Rồi lại hỏi bà Chu:
- Bà Lưu đã ăn cơm sáng chưa?
Già Lưu vội đáp:
- Trời vừa sáng tôi đã tất tưởi chạy đến đây, còn có thì giờ
đâu mà ăn nữa.
Phượng Thư bèn sai dọn cơm ngay.
Một lúc bà Chu gọi bưng một mâm cơm để ở gian nhà phía đông rồi
dắt già Lưu và thằng Bản sang ăn.
Phượng Thư nói:
- Chị Chu sang mời hộ, tôi không thể tiếp được.
Rồi lại gọi bà Chu đến hỏi:
- Vừa rồi chị đến trình bà, người bảo sao?
- Bà nói bà ấy không phải là người trong họ đâu. Trướcđây ông
nhà họ và ông nhà ta cùng làm quan một nơi, nên nhận họ cho thân đấy thôi. Đã mấy
năm nay họ không đến thăm nom gì. Trước đây mỗi lần họ đến, không lần nào về
không. Nay bà ấy đến thăm, cũng là có bụng tốt; đừng khinh rẻ người tạ Nếu cần
gì, mợ cứ việc định đoạt.
Phượng Thư nghe xong rồi nói:
- Không trách được! Bảo là người trong họ, sao ta lại chẳng
biết một tí gì?
Hai người đang nói chuyện, già Lưu đã ăn cơm xong, dắt thằng
Bản đến, liếm môi liếm mép, lắp bắp cám ơn.
Phượng Thư cười nói:
- Hãy ngồi xuống đây để tôi nói chuyện đã. Bà nói lúc nãy tôi
hiểu cả rồi. Đã là người trong họ, đáng ra không đợi bà đến đây tôi mới giúp đỡ.
Nhưng giờ nhà tôi nhiều việc, bà Hai đã có tuổi, không thể mỗi lúc nghĩ đến tất
cả họ hàng được. Nhà tôi tiếng tăm bề ngoài lừng lẫy thực, biết đâu cũng còn
nhiều việc khó khăn. Nói ra chưa chắc đã ai tin. Bà ở xa đến đây, lại lần đầu
giãi bày câu chuyện, lẽ nào tôi để cho bà về không. May sao vừa rồi mẹ tôi cho
hai mươi lạng bạc để may quần áo cho người nhà, hiện chưa dùng đến, nếu bà
không chê ít thì hãy đem về tiêu tạm vậy.
Già Lưu trước nghe nói khó khăn, tưởng không hy vọng gì,
trong lòng thậm thột. Sau thấy cho hai mươi lạng bạc thì hớn hở vui mừng, người
rạo rực lên, cười nói:
- Chúng tôi biết nhà ta bây giờ cũng khó khăn thực. Nhưng tục
ngữ nói: “Con lạc đà còm rúm, vẫn lớn hơn con ngựa”. Dù thế nào mặc lòng, nhà
ta chỉ nhổ một cái lông măng còn hơn cả cái lưng chúng tôi.
Bà Chu đứng bên, nghe già Lưu nói nhiều câu tục tằn, phải đưa
mắt bảo thôi. Phượng Thư cười, không để ý đến, sai Bình Nhi đem gói bạc ra và lấy
thêm một quan tiền nữa để cả trước mặt già Lưu. Phượng Thư nói:
- Hai mươi lạng bạc này hãy tạm cho lũ trẻ may áo rét. Hôm
nào bà lại đến chơi, thế mới là tình họ hàng. Bây giờ muộn rồi, không muốn mời suông.
Khi về nhà, ai nên hỏi thăm, nhờ bà hỏi hộ.
Nói rồi đứng dậy.
Già Lưu tay cầm tiền, mồm cám ơn lia lịa rồi theo bà Chu đi
ra.
Bà Chu nói:
- Cha mẹ Ơi, khi gặp mợ ấy sao bà nói vụng về thế? Cứ mở miệng
ra bà gọi thằng Bản là cháu cộ Tôi nói câu này bà đừng giận, ngay cháu ruột mợ ấy
cũng phải ăn nói cho nhã nhặn. Như cậu Dung mới thực là cháu, chứ đâu lại có thằng
cháu như thế này?
Già Lưu cười nói:
- Chị Ơi! Trông thấy mợ ấy tôi yêu quá đi mất, còn nói sao
nên lời nữa.
Hai người nói chuyện xong lại đến nhà bà Chu ngồi một lúc.
Già Lưu muốn để một lạng bạc cho con bà Chu ăn quà, nhưng bà Chu khi nào thèm để
mắt đến, nhất định không nhận.
Già Lưu cám ơn luôn mồm, rồi ra cửa sau về nhà. Thực là:
Để giúp đỡ trong khi hởi dạ,
Hơn bạn bè ở chỗ mang ơn.
Hồi 7:
Đem biếu cung hoa, Giả Liễn đùa Hy Phượng
Ăn yến Ninh phủ, Bảo Ngọc gặp Tần Chung
Bà Chu tiễn già Lưu về rồi, lên trình Vương phu nhân, không
thấy ở trong phòng, hỏi ra lũ a hoàn mới biết là sang chơi bên Tiết phu nhân.
Bà Chu liền ra cửa nách, qua nhà phía đông, đến viện Lệ hương. Vừa vào cửa, thấy
a hoàn của Vương phu nhân là Kim Xuyến cùng một a hoàn mới để tóc đang đùa với
nhau ở trên thềm. Trông thấy bà Chu, Kim Xuyến biết tất có việc gì liền hếch mồm
vào phía trong ra hiệu.
Bà Chu khẽ nâng rèm bước vào, thấy Vương phu nhân cùng Tiết
phu nhân đang nói chuyện lan man hết việc nhà đến việc người. Bâ Chu không dám
đánh động, rảo bước vào nhà trong, thấy Tiết Bảo Thoa mặc đồ thường, trên đầu
búi tóc trần, ngồi cạnh bục, cúi xuống bàn cùng a hoàn là Anh Nhi đang vẽ hoa.
Thấy bà Chu đến, Bảo Thoa bỏ bút xuống, quay người lại, đon đả cười nói:
- Mời chị Chu ngồi.
Bà Chu vội cười hỏi:
- Cô mạnh luôn chứ?
Rồi ngồi cạnh bục nói:
- Đã hai ba hôm nay không thấy cô sang bên kia chơi, hay là cậu
Bảo có điều gì trái ý đấy!
- Sao lại nói thế? Chỉ vì bệnh của tôi lại phát, nên phải ở
nhà tĩnh dưỡng mấy ngày.
- Thế à? Cô có bệnh gì? Nên mời thầy xem mạch cho thuốc. Còn
trẻ tuổi mà mắc bệnh không phải là chuyện chơi đâu!
- Thôi đừng nói chuyện ấy nữa, đã mời bao nhiêu thầy lang, tốn
thuốc, tốn tiền, rút cục chẳng thấy hiệu nghiệm gì. Sau có một vị hòa thượng
chuyên trị những bệnh không tên, không tuổi, tôi nhờ xem, người bảo tôi bị nhiệt
độc từ khi ở trong thai, may mà tiên thiên tốt, nên không việc gì. Thuốc thường
thì không ăn thua. Người có kê cho bài thuốc tên là “Hải thượng tiên
phương”(1), lại cho một gói thuốc bột để làm thuốc dẫn, mùi thơm lạ thường. Người
bảo: hễ thấy đau thì uống một liều là đỡ ngay. Kể cũng lạ thật, uống vào quả thấy
hiệu nghiệm.
- Phương thuốc gì, cô cho biết, để sau này có ai mắc bệnh như
thế tôi sẽ mách họ, cũng là một việc làm phúc.
- Đừng hỏi phương thuốc ấy còn hơn, nếu hỏi, có khi làm người
ta bực đến chết được. Các vị thuốc phải có đồng cân đồng lạng nhất định, khó nhất
là được hai chữ “Vừa khéo”. Phải có mười hai lạng nhụy hoa mẫu đơn trắng nở vào
mùa xuân, mười hai lạng nhụy hoa sen trắng nở vào mùa hạ, mười hai lạng nhụy
hoa phù dung trắng nở vào mùa thu, mười hai lạng nhụy hoa mai trắng nở vào mùa
đông. Đem bốn thứ này phơi vào ngày xuân phân(2) năm sau, rồi tán kỹ với thuốc
bột; lại phải có mười hai đồng cân nước hứng giữa trời đúng vào ngày vũ thủy.
- Ối chao! Mất ba năm mới thành thang thuốc! Nếu ngày vũ thủy
không mưa thì làm thế nào?
- Nếu không gặp được nước mưa vừa khéo thì đành lại chờ vậy.
Còn phải mười hai đồng cân nước móc vào ngày bạch lộ, mười hai đồng cân nước
sương vào ngày sương giáng, mười hai đồng cân tuyết vào ngày tiểu tuyết. Đem bốn
thứ này hòa với thuốc, thêm mười hai đồng cân mật ong, mười hai đồng cân đường
trắng, viên to bằng quả nhãn, để vào trong cái hũ sứ cổ, chôn ở gốc cây hoa,
khi nào ốm thì lấy một viên ra uống, sắc một đồng hai phân hoàng bá làm thang.
- A di đà Phật! Khéo chết người chưa? Chờ đến mười năm nữa
cũng chưa chắc đã tìm đủ được các vị thuốc!
- Cũng may, sau khi hòa thượng đi độ một hai năm, vừa khéo
tôi tìm đủ các vị để chế được một tễ. Giờ tôi mang từ nam lên, hiện chôn ở gốc
cây lê kia.
- Thuốc ấy có tên không?
- Có, hòa thượng bảo tên là Lãnh hương hòa(3).
Bà Chu nghe xong gật đầu hỏi:
- Cô ốm ra sao?
- Không biết thế nào, chỉ ho xuyễn thôi, uống một viên là khỏi
Bà Chu muốn nói nữa, chợt nghe Vương phu nhân hỏi:
- Ai ở trong ấy?
Bà Chu vội chạy ra trình việc già Lưu. Một lúc, thấy Vương
phu nhân không nói gì, bà Chu muốn lùi ra thì Tiết phu nhân cười bảo:
- Chị đứng lại đây. Tôi có cái này, nhờ chị mang đi hộ.
Nói xong, gọi: Hương Lăng!
Có tiếng rèm động, a hoàn bé hồi nãy chơi đùa với Kim Xuyến
tiến lên hỏi:
- Thưa mẹ bảo gì?
Tiết phu nhân bảo:
- Lấy chùm hoa ở trong hộp mang lại đây.
Hương Lăng vâng lời, mang hộp gấm nhỏ đến. Tiết phu nhân nói:
- Đây là mười hai cành hoa bằng lụa kiểu mới rất đẹp, ở trong
cung tết ra để cài đầu. Hôm qua tôi nghĩ: nếu cất đi nó cũ mất, thật đáng tiếc,
chi bằng đem ra cho các chị em chúng nó dùng. Tôi định đưa ngay, nhưng rồi lại
quên bẵng đi mất. Hôm nay chị đến vừa đúng, nhờ chị mang đi chia giúp. Ba cô
nhà, chị chia mỗi cô hai cành, còn sáu cành cho cô Lâm hai cành, cô Phượng bốn
cành.
Vương phu nhân nói:
- Sao không để cho cháu Bảo mà lại chia cho các cháu?
Tiết phu nhân nói:
- Chị không biết, con ranh ấy tính lạ lắm! Xưa nay nó có
thích hoa thích phấn bao giờ.
Bà Chu cầm hộp ra cửa. Thấy Kim Xuyến vẫn còn ngồi ngoại nắng,
bà Chu hỏi:
- Con Hương Lăng này có phải con bé mà người ta thường nói,
khi sắp vào Kinh mới mua nó, vì nó mà xảy ra vụ án mạng đấy không?
Kim Xuyến nói:
- Nó đấy, chứ còn ai nữa.
Đương nói, thấy Hương Lăng cười hì hì chạy đến, bà Chu kéo
tay nó lại gần, ngắm nghía nó một lúc rồi quay lại phía Kim Xuyến cười nói:
- Dáng điệu con này hơi giống chị Dung bên phủ Đông chúng ta.
Kim Xuyến nói:
- Tôi cũng bảo thế.
Bà Chu lại hỏi Hương Lăng:
Hương Lăng lắc đầu:
- Em chẳng nhớ gì cả.
Bà Chu và Kim Xuyến nghe nói than thở hồi lâu.
Một lúc sau, bà Chu đem hoa đến buồng Vương phu nhân. Nguyên
gần đây Giả mẫu có nói: “Lũ cháu gái bây giờ đông hơn trước, ở chung một chỗ
không tiện, nên chỉ để Bảo Ngọc và Đại Ngọc ở bên cạnh cho đỡ buồn thôi, còn
Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích xuân thì cho ở ba gian sau buồng của Vương phu
nhân và bảo Lý Hoàn sớm tối trông nom”. Bà Chu tiện đường đến đấy trước. Bọn a
hoàn nhỏ đang ngồi trong nhà nghe đợi sai gọi. A hoàn của Thám Xuân là Thị Thư,
a hoàn của Nghênh Xuân là Tư Kỳ đứng vén rèm, tay hãy còn bưng khay nước. Bà
Chu biết ngay là mấy cô đang ngồi chơi đấy, bèn đi vào buồng. Thấy Nghênh Xuân,
Thám Xuân đang đánh cờ dưới cửa sổ. Bà Chu đưa hoa và nói rõ là của Tiết phu
nhân cho. Hai cô dừng đánh cờ, đứng dậy gửi lời cám ơn, rồi bảo a hoàn cất đi.
Bà Chu vâng lời rồi nói:
- Cô Tích Xuân không ở nhà, có lẽ sang bên cụ.
A hoàn nói:
- Không sang bên ấy thì còn ở đâu.
Bà Chu nghe nói đi sang ngay, gặp Tích Xuân đang cười đùa với
sư cô Trí Năng ở am Thủy Nguyệt. Trông thấy bà Chu đến, Tích Xuân hỏi có việc
gì. Bà Chu mở hộp ra nói việc Tiết phu nhân sai đem hoa đến cho. Tích Xuân cười
nói:
- Tôi đương nói với Trí Năng, ngày mai sẽ cắt tóc theo cô ấy
đi tu. Rõ khéo chưa? Giờ lại mang hoa đến! đã cắt tóc thì còn cài hoa vào đâu nữa?
Mọi người cười ầm lên, Tích Xuân sai a hoàn cất hoa đi.
Bà Chu hỏi Trí Năng:
- Sư cô đến đây từ bao giờ? Sư phụ đầu trọc của cô đi đâu?
Trí Năng nói:
- Chúng tôi đến từ sớm. Sư phụ tôi đến thăm bà Hai, rồi sang
bên nhà ông Dư, bảo tôi chờ ở đây.
Bà Chu hỏi:
- Tiền hương đến ngày rằm đã lĩnh chưa?
Trí Năng nói:
- Tôi không biết.
Tích Xuân hỏi bà Chu:
- Tiền hàng tháng của các chùa, các miếu, ai trông nom?
Bà Chu đáp:
- Dư Tín trông nom.
Tích Xuân nghe xong cười nói:
- Thảo nào sư phụ khi mới tới, vợ Dư Tín đã đến thì thầm, chắc
cũng chỉ vì việc ấy.
Bà Chu nói chuyện với Trí Năng một lúc, rồi sang nhà Phượng
Thư. Đi đường cạnh nhà, ven qua cửa sổ nhà Lý Hoàn, rẽ sang tường hoa phía tây,
ra đến cửa nách thì đến nhà Phượng Thư. Đến thềm, a hoàn nhỏ là Phong Nhi đương
ngồi ở bực cửa, trông thấy, vội vẫy tay bảo đi sang phía đông. Bà Chu biết ý,
rón rén đi ngay đến đó, thấy vú em đương ru em ngủ. Bà Chu khẽ hỏi:
- Mợ đương ngủ trưa đấy à? Nên mời dậy hộ.
Vú em cười, bĩu môi lắc đầu. Ngay khi ấy nghe thấy ở trong có
tiếng cười, lại là tiếng Giả Liễn. Liền đấy có tiếng mở cửa. Bình Nhi mang cái
chậu đồng ra gọi người móc nước. Bình Nhi đi sang bên kia, thấy bà Chu liền hỏi:
- Bà lại đến đây làm gì thế?
Bà Chu vội vàng đứng dậy đưa cái hộp nói:
- Đem cho hoa đây.
Bình Nhi mở hộp lấy bốn cành hoa rồi quay người đi ngay, một chốc
cầm hai cành ra, gọi Thái Minh đến bảo: “Đưa sang cho mợ Dung ở phủ bên kia, rồi
bảo bà Chu về cám ơn hộ.”
Bà Chu vừa ở bên nhà Giả mẫu, đi qua xuyên đường, ngẩng đầu
lên, thấy con gái mình ăn mặc chải chuốt, vừa ở nhà mẹ chồng đến. Bà Chu vội hỏi:
- Mày đến đây làm gì?
- Mẹ vẫn khỏe chứ. Con ở nhà chờ suốt nửa ngày, không gặp. Mẹ
có việc gì bận mà không về. Chờ mãi không được, con đến thăm cụ. Bây giờ con lại
định đến thăm bà Hai đây. Mẹ còn bận việc chưa xong à? Tay cầm cái gì đấy?
- Ối chào! Hôm nay già Lưu đến, thành ra mình lại mua lấy việc,
vì bà ta mà tao phải chạy suốt nửa ngày. Vừa rồi, Tiết phu nhân lại sai đem mấy
cành hoa cho các cô. Đến bây giờ cũng chưa đưa hết! Hôm nay mày đến đây chắc là
có việc gì?
Người con gái cười nói:
- Mẹ khéo đoán thế! Nói thực với mẹ, con rể mẹ hôm trước say
rượu cãi nhau với người ta, không biết làm sao, bị người ta vu oan giá họa cho
là anh ấy lý lịch không rõ ràng, thưa quan bắt phải giải về nguyên quán. Vì thế
con đến nhờ mẹ bàn tính làm thế nào cho xong việc được?
- Tao biết rồi, lo gì việc ấy. Mày chỉ cuống lên thôi. Về nhà
trước đi để tao đến đưa hoa cho cô Lâm đã. Bây giờ bà và mợ Hai không rỗi đâu.
Người con gái thấy vậy quay về, lại nói:
- Mẹ về ngay nhé!
- Ừ, con nhà hèn, không từng trải việc, cứ cuống cuồng lên.
Nói xong đi đến buồng Đại Ngọc.
Khi ấy Đại Ngọc đương chơi Cửu liên hoàn(4) ở bên buồng Bảo
Ngọc. Bà Chu vào, cười nói:
- Thưa cô Lâm! Tiết phu nhân bảo tôi mang hoa lại biếu.
Bảo Ngọc nói:
- Hoa gì thế, đưa tôi xem nào.
Rồi vội giơ tay đỡ lấy cái hộp xem, thấy hai cành hoa giả làm
bằng lụa rất đẹp. Đại Ngọc ghé vào tay Bảo Ngọc xem và hỏi:
- Chỉ đưa cho mình tôi thôi, hay các cô khác cũng có cả.
Bà Chu nói:
- Các cô đều có, hai cành hoa này là của cô đấy!
Đại Ngọc cười nhạt:
- Tôi biết rồi, thừa người mới đến phần tôi.
Bà Chu chẳng dám nói lại câu gì. Bảo Ngọc hỏi:
- Chị Chu sang bên ấy làm gì?
- Vì bà ở bên ấy, tôi sang trình việc. Khi về Tiết phu nhân
tiện bảo tôi đem hoa cho các cô.
- Cô Bảo Thoa ở nhà làm gì? Làm sao mấy hôm nay không sang
chơi?
- Cô ấy trong mình hơi khó chịu.
Bảo Ngọc nghe nói, ngoảnh ra đám a hoàn nói:
- Có ai sang bên ấy nói là ta và cô Lâm sai sang hỏi thăm sức
khỏe bà dì và cô Bảo, lại hỏi xem cô ấy yếu làm sao? Uống thuốc gì? Lẽ ra ta phải
sang thăm tận nơi mới phải, nhưng vừa ở trường về, hơi bị lạnh, ngày khác ta sẽ
sang thăm.
Nghe dặn xong, Phiến Tuyết nhận lời đi ngay. Bà Chu cũng ra về.
Nguyên con rể Chu Thụy là Lãnh Tử Hưng, bạn thân với Giả Vũ
Thôn, vừa rồi nhân việc bán đồ cổ, bị kiện tụng lôi thôi, nên sai vợ đi chạy chọt.
Bà Chu cậy thế của chủ, không thèm để bụng đến việc ấy, cho là chỉ đến nhờ Phượng
Thư là xong.
Lúc lên đèn, Phượng Thư bỏ những đồ trang sức ra, đến phòng
Vương phu nhân thưa chuyện:
- Hôm nay nhà họ Chân mang biếu mấy thứ quà, con đã nhận cả rồi.
Nhân tiện bên ấy có thuyền sang đây, con cũng gửi biếu mấy thứ của nhà.
Vương phu nhân gật đầu. Phượng Thư lại nói:
- Lễ mừng sinh nhật cụ bà sinh ra Lâm An Bá, con đã sắm sửa đủ
cả rồi, mẹ định sai ai mang đi?
Vương phu nhân nói:
- Con xem những ai rỗi thì sai độ bốn nữ tỳ mang đi là đủ,
còn phải hỏi ta làm gì?
Phượng Thư lại cười hỏi:
- Hôm nay chị Trân mời con ngày mai sang chơi, vậy ở nhà có
việc gì không?
- Có việc hay không cũng chẳng cần gì, mỗi khi chị ấy mời cả
chúng ta thì con không được tự do. Nay không mời chúng ta chỉ mời một mình con,
đủ biết chị ấy có bụng tốt, muốn cho con được thoải mái hơn. Con chớ nên phụ
lòng người ta, sang chơi là phải.
Phượng Thư vâng lời. Chị em Lý Hoàn, Thám Xuân đến hỏi thăm
xong cũng đều về buồng mình.
Ngày hôm sau, Phượng Thư sắm sửa xong, đến trình Vương phu
nhân rồi lên trình Giả mẫu để đi. Bảo Ngọc nghe thấy cũng đòi đi theo. Phượng
Thư bằng lòng. Bảo Ngọc lập tức thay quần áo, rồi hai chị em ngồi cùng xe đi
sang phủ Ninh. Bấy giờ Vưu thị, vợ Giả Trân, cùng con dâu là Tần thị, vợ Giả
Dung đều dẫn tỳ thiếp ra cửa đón.
Vưu thị vừa trông thấy Phượng Thư, cười giễu một hồi, rồi dắt
tay Bảo Ngọc vào trong phòng ngồi. Tần thị pha nước, Phượng Thư nói:
- Chị và cháu mời tôi sang có việc gì? Có gì thì mang ra? Tôi
còn bận việc đây.
Vưu thị, Tần thị chưa kịp trả lời, thì bọn đàn bà hầu cười
nói:
- Hôm nay mợ không sang đây thì thôi, đã sang thì không thể về
ngay được.
Đương nói chuyện, Giả Dung ra chào, Bảo Ngọc nói:
- Anh Cả hôm nay đi vắng à?
Vưu thị nói:
- Hôm nay anh đi ra ngoài thành thăm bác.
Lại nói:
- Xem ra chó hơi buồn, ngồi đây làm gì, đi ra ngoài mà chơi.
Tần thị cười nói:
- Lần trước chú Bảo muốn gặp em tôi. Hôm nay may sao nó đương
ngồi ở buồng học kìa, sao chú không sang chơi?
Bảo Ngọc muốn đi ngay. Vưu thị, Phượng Thư đều ngăn lại: “Vội
gì thế?”. Và bảo người nhà “phải cẩn thận đưa đi, đừng để chú ấy phải bực
mình”.
Phượng Thư nói:
- Đã thế sao không gọi cậu ấy sang đây, ta cũng muốn gặp.
Vưu thị cười nói:
- Thôi, thôi! Gặp làm gì? Bạo dạn đâu bằng trẻ nhà mình. Con
nhà người ta e dè nhút nhát quen, đã gặp ai sấn sổ như thím bao giờ. Khéo lại
làm người ta cười chết đi được.
Phượng Thư cười nói:
- Tôi không cười ai thì thôi, chứ lại để cho đứa bé cười tôi
à?
Giả Dung nói:
- Nó vốn hay thẹn, không dám đến gần chỗ đông bao giờ. Thím
có trông thấy xin đừng bực mình.
Phượng Thư gắt:
- Nó là con vua Na Tra(5), ta cũng đòi gặp cho được, đừng nói
láo. Nếu không mang nó đến đây, ta sẽ cho mày cái tát bây giờ.
Giả Dung cười nói:
- Cháu không dám cưỡng lời, sẽ dắt nó lại.
Lát sau, một cậu bé được đưa đến, so với Bảo Ngọc, gầy hơn một
chút, nhưng mặt mũi sáng sủa, môi son, má phấn, dáng người tuấn tú, đi đứng
phong nhã, hơn hẳn Bảo Ngọc, chỉ có phần nhút nhát như con gái thôi. Cậu bé bẽn
lẽn đến chào Phượng Thư. Phượng Thư thích lắm, đẩy Bảo Ngọc một cái, cười nói:
- Thử sánh xem nào!
Rồi nghiêng mình xuống, cầm tay cậu bé bảo ngồi bên cạnh,
thong thả hỏi bao nhiêu tuổi, học sách gì, sau mới biết tên là Tần Chung.
Đám người nhà theo hầu thấy Phượng Thư lần đầu gặp Tần Chung,
chưa có quà gì tặng, vội chạy về bảo Bình Nhi. Bình Nhi biết Phượng Thư với Tần
thị xưa nay chơi thân với nhau, tuy Tần Chung còn bé nhưng cũng không nên hà tiện,
bèn lấy một tấm lụa, hai thoi vàng con có khắc chữ “Trạng nguyên cập đệ”(6). Bảo
người mang đến cho Phượng Thư. Phượng Thư nói nhún: “Quà này mọn quá”. Chị em Tần
thị tạ ơn. Một lúc, ăn cơm xong, bọn Vưu thị, Phượng Thư, Tần thị ngồi lại đánh
bài, Bảo Ngọc, Tần Chung ra ngoài nói chuyện với nhau.
Từ lúc Bảo Ngọc gặp Tần Chung, trong bụng bâng khuâng như là
mình thiếu cái gì, đứng ngẩn người ra một lúc, nghĩ vơ vẩn: “Trong thiên hạ sao
lại có người như thế! Bây giờ xem ra, ta thành như lợn bùn, chó ghẻ vậy! Đáng
giận cho ta sinh vào nhà công hầu phú quý, nếu vào nhà nho nghèo, quan kiết để
sớm đi lại chơi bời với nhau thì không đến nỗi phí mất một đời. Ta dù tôn quý hơn,
nhưng the lụa gấm vóc, cũng chẳng qua để bọc cái cành khô, gỗ mục; rượi nồng,
dê béo cũng chẳng qua để lấp cái hố phân, rãnh bùn mà thôi. Hai chữ “phú quý”
làm hại người đời xiết bao!”
Về phần Tần Chung thấy Bảo Ngọc dáng điệu hơn người, đi đứng
phong nhã, đồ mặc thì mũ vàng, áo gấm, người hầu đều là gái đẹp, trai xinh, bèn
nghĩ: “Thảo nào Bảo Ngọc chả được mọi người yêu mến. Ta là con nhà thanh bần,
dám đâu chơi thân với cậu ta. Mới biết hai chữ “giàu, nghèo” ngăn hẳn con người
thật là một sự rất không vui ở thế gian này”.
Hai người đều nghĩ vẩn vơ như vậy. Chợt Bảo Ngọc hỏi Tần
Chung đọc sách gì? Tần Chung cứ thực trả lời. Mới trò chuyện được mươi câu, cả
hai đã thấy thân mật nhau ngay.
Một lúc người nhà mang nước trà và hoa quả lên. Bảo Ngọc nói:
- Chúng ta không uống rượu, cứ mang hoa quả để lên cái bục
con trong nhà, sẽ đến đấy ăn, đỡ bận cho các người.
Rồi hai người vào trong uống nước.
Tần thị một mặt mời Phượng Thư uống rượu, ăn quả, một mặt dặn
dò Bảo Ngọc:
- Thưa chú, cháu chú còn ít tuổi, ăn nói có điều gì sơ suất,
xin hãy vì tôi mà đừng chấp nó. Nó nhút nhát thực, nhưng ăn nói lại ngang trái,
không biết lựa lời đâu.
Bảo Ngọc cười:
- Chị cứ đi, tôi biết rồi.
Tần thị lại dặn dò em mấy câu rồi lại sang tiếp Phượng Thư.
Phượng Thư và Vưu thị cứ một chốc lại sai người đến hỏi Bảo
Ngọc muốn dùng thức gì thì cho người sang lấy. Bảo Ngọc nhận lời, nhưng không
nghĩ gì đến ăn cả, chỉ hỏi Tần Chung những việc nhà gần đây. Tần Chung nói:
- Năm ngoái thầy học về nghỉ, cha tôi già ốm luôn, lại bận việc
quan, vì thế chưa nghĩ đến việc đón thầy. Giờ chỉ ở nhà ôn bài cũ. Vả lại việc
học cũng phải có một vài bầu bạn để cùng nhau bàn bạc mới bổ ích.
- Đúng đấy, bên tôi vẫn có một trường học tư. Trong họ, nhà
nào không mời được thầy đều gửi đến đấy cả. Con em các nhà thân thích cũng có
thể đến được. Năm ngoái thầy dạy tôi về nhà tôi cũng nghỉ học, ý cha tôi muốn tạm
cho sang đấy ôn tập, chờ sang năm thầy học lên, tôi lại sẽ học. Nhưng bà tôi bảo:
“Một là trường đông người, sợ có khi cãi nhau sinh chuyện; hai là vì độ này tôi
mệt nên nấn ná mãi. Cứ như anh nói, chắc ông nhà đang áy náy về việc học của
anh. Sao anh không xin sang đây học với tôi, làm bạn với nhau, ích lợi cho cả
đôi bên. Như thế chả phải đều tốt cả hay sao?
Tần Chung cười:
- Hôm nọ bàn về việc mời thầy, cha tôi cũng đã nghĩ đến trường
học bên này, vẫn muốn sang thưa chuyện với ông nhà; nhưng thấy bên này bận
luôn, sợ việc nhỏ nhặt sang quấy quả không tiện. Nếu chú rộng lượng cho tôi
sang đây theo hầu rửa nghiên mài mực, thì xin tác thành ngay cho. Chúng ta sẽ
không đến nỗi bỏ học, có thể sớm tối gần gũi bên nhau để yên lòng cha mẹ, lại
thêm vui tình bè bạn, chẳng hay hơn sao.
Bảo Ngọc nói:
- Cứ yên tâm, hai chúng ta hãy nói chuyện trước với vợ chồng
anh Dung và chị Liễn đã. Ngày mai anh về trình với ông nhà, tôi thì trình với
bà tôi, như thế lẽ nào việc không chóng xong
Bấy giờ đã đến lúc lên đèn. Hai người bàn định xong rồi ra
xem mọi người đánh bài. Khi tính sổ, Tần thị, Vưu thị phải trả tiền rượu, hẹn đến
hôm sau sẽ uống rượu phạt, rồi đi ăn cơm chiều.
Trời đã tối, Vưu thị bảo:
- Cắt hai đứa hầu bé, đưa cậu Tần về nhà. Bọn hầu đàn bà truyền
ra ngoài, một lúc Tần Chung đứng dậy cáo từ. Vưu thị hỏi:
- Sai ai đưa về đấy?
Bọn hầu đáp:
- Ở ngoài họ cắt Tiều Đại, không ngờ nó say rượu, nó mắng ầm
cả lên.
Vưu thị, Tần thị đều nói:
- Cắt nó làm gì, sai một đứa bé nào không được, sao lại còn
dây với nó?
Phượng Thư nói:
- Lâu nay người ta chê chị quá nhu nhược, nuông người nhà như
thế còn ra thể thống gì!
Vưu thị thở dài:
- Thím không biết thằng Tiều Đại à? Ngay ông tôi và anh Trân
cũng rất thương nó. Vì lúc còn trẻ, nó theo cụ ta đi ra trận, ba bốn lần cõng cụ
khỏi đống xác chết, mới cứu người toàn mệnh. Nó kiếm được cái gì thì đem cả về
cho chủ ăn, còn mình đành nhịn đói. Hai ngày không có nước, nó kiếm được nửa bát
cũng đem về cho chủ uống, còn mình thì đành uống nước đái ngựa. Chẳng qua cũng
vì công lao ấy, nên khi cụ ta còn sống đều biệt đãi nó. Bây giờ ai cũng mặc kệ
nó. Lại thêm nó đã già rồi, chỉ thích uống rượu, không giữ thể diện, khi say bạ
ai nó cũng mắng. Tôi thường bảo bọn quản sự, từ giờ trở đi, không được cắt nó
làm việc gì, cứ coi như nó đã chết rồi là xong, bây giờ làm sao lại sai nó?
Phượng Thư nói:
- Tôi làm gì chả biết lão Tiều Đại ấy, rút cục chỉ tại các chị
không biết tính toán, sao không tống cổ nó đến một cái trại nào xa tít là xong
chuyện.
Nói xong lại hỏi: Xe đã sắp đủ chưa?
Người hầu nói:
- Sắp đủ cả rồi ạ.
Phượng Thư đứng dậy cáo từ, dắt Bảo Ngọc về.
Bọn Vưu thị đưa ra đến cửa dinh đèn đuốc sáng trưng. Lũ hầu
nhỏ đứng chực ở thềm. Tiều Đại biết Giả Trân không ở nhà, mặc dù ở nhà cũng kệ,
hắn cứ tha hồ mà ngang tàng. Nhân mượn chén say, trước hết hắn mắng đại tổng quản
là Lại Nhị:
- Sao chẳng công bằng một tý nào? “Mềm thì nắn, rắn thì
buông”, có món gì bở thì sai người khác, còn việc đưa người lúc đêm khuya trời
tối thì lại sai tao. Đồ vô liêm sỉ, vô lương tâm! Thằng quản gia mù kia, mày
không nghĩ chứ: Cụ Tiều này chỉ ghếch một cái đùi lên, còn cao hơn cả cái đầu
mày. Hai mươi năm về trước, mắt cụ Tiều này chẳng còn biết có ai, ai nói đến giống
hèn mạt như chúng mày.
Tiều Đại đang mắng bọn chúng sướng mồm thì vừa lúc Giả Dung
ra đưa Phượng Thư lên xe. Mọi người ngăn hắn không được Giả Dung nhịn không nổi,
quát to:
- Ai đâu, trói nó lại, chờ ngay mai nó tỉnh rượu, sẽ hỏi nó
muốn chết hay muốn sống?
Nhưng dưới mắt Tiều Đại có coi Giả Dung vào đâu, hắn lại kêu
to lên:
- Này anh Dung! Đừng làm bộ ông chủ với thằng Tiều Đại này nữa!
Không nói anh, ngay bố anh và cả ông anh cũng không dám làm bộ với ta nữa là.
Thằng Tiều Đại này làm cho các người được làm quan, được hưởng vinh hoa phú
quý! Ông tổ nhà các người một sống mười chết mới để lại cơ nghiệp này đến giờ
không báo ơn thì chớ, lại dám lên mặt chủ nhà với ta à? Không nói đến ta còn
khá, chứ nói nữa thì ta sẽ: “Lưỡi dao trắng đâm vào, lưỡi dao đỏ rút ra” cho mà
xem.
Phượng Thư ở trên xe nói với Giả Dung:
- Sao không tống cổ ngay thằng giặc này đi, để nó ở trong nhà
chỉ có hại thôi. Bà con biết chuyện tránh sao khỏi chê cười nhà ta mất cả tôn
ti trật tự.
Giả Dung vâng theo.
Mọi người thấy Tiều Đại càn rỡ quá, vật xuống trói lại, lôi
nó bỏ vào chuồng ngựa. Tiều Đại càng tức, nói động cả đến Giả Trân. Nó thét ầm
lên, đòi đến từ đường khóc với cụ tổ: “Ai ngờ bây giờ lại đẻ ra những giống súc
sinh này! Hàng ngày trộm gà bắt chó, nào “Tiểu thúc”(7), nào “Ba hôi”(8), loạn
luân cả lũ, tao lại không biết à? Thôi đừng đem cánh tay gãy giấu vào trong ống
áo nữa!”
Bọn người nhà thấy nó nói toàn những câu không có trời đất
nào, sợ hết hồn vía, trói chặt nó lại, lấy đất và phân ngựa nhét đầy mồm.
Phượng Thư và Giả Dung ở đằng xa nghe thấy đều lờ đi như
không. Bảo Ngọc ngồi trên xe, hỏi Phượng Thư:
- Chị ơi, nó nói “Ba hôi”, “Ba hôi” là nghĩa thế nào?
Phượng Thư trừng mắt mắng át:
- Đừng nói bậy! Quân say rượu nói càn, em phải lờ đi như không
nghe thấy, sao lại còn hỏi lẩn mẩn làm gì? Chị về mách mẹ xem có phải đòn
không?
Bảo Ngọc sợ hãi, vội van xin:
- Chị ơi, từ giờ em không dám nói câu ấy nữa.
Phượng Thư nói:
- Thế mới phải chứ. Để khi về, chúng ta sẽ trình cụ, sai người
đến trường nói rõ, rồi mời Tần Chung sang học ngay.
Nói xong, trở về phủ Vinh. Thực là:
Bạn khổ chẳng vì người sắc sảo;
Sách ham chỉ tại nét phong lưu.
(1) Bài thuốc của các tiên ở ngoài bể.
(2) Theo âm lịch: một năm có hai mươi bốn tiết, chia thành
xuân phân, vũ thủy, bạch lộ, sương giáng, tiểu tuyết…
(3) Thứ thuốc viên có mùi hoa thơm mát.
(4) Một thứ đồ chơi có chín cái vòng, đánh một cái làm cho
chín cái vòng liền nhau.
(5) Theo thần thoại: tên một vị thần con vua Tỷ sa môn, diện
mạo hung dữ, pháp thuật cao cường.
(6) Thi đỗ trạng nguyên; bốn chữ thường khác vào cái khánh,
hay những thỏi vàng; bạc nhỏ; làm tặng phẩm cho con trai, ngụ ý chúc mừng được
thi đỗ cao.
(7),(8) Đều là những tiếng lóng: em chồng nằm với chị dâu; bố
chồng nằm với con dâu.
Hồi 8:
So ngọc thông linh Kim Oanh hơi ngỏ ý
Thăm dò cô Bảo, Đại Ngọc nếm phải chua
Vạc cổ pha trà phượng tủy hương,
Hiếm thay chén ngọc rót quỳnh tương.
Đừng cho là lượt không phong nhã,
Khi Bảo Ngọc và Phượng Thư về đến nhà, chào hỏi mọi người
xong, Bảo Ngọc bèn thưa với Giả mẫu, muốn mời Tần Chung đến trường cùng học, để
có bạn bè ganh đuạ Bảo Ngọc lại khen phẩm hạnh của Tần Chung rất đáng để mọi
người yêu mến. Phượng Thư ở bên cũng nói giúp: “Có ngày Tần Chung sẽ đến hầu
bà”. Nghe nói, Giả mẫu càng thêm vui mừng. Nhân tiện Phượng Thư mời Giả mẫu đi
xem hát ở bên phủ Ninh. Giả mẫu tuy có tuổi, nhưng vẫn thích các cuộc vui. Hôm
sau, Vưu thị đến mời, Giả mẫu liền cùng Vương phu nhân, Đại Ngọc và Bảo Ngọc
sang xem hát. Đến gần trưa Giả mẫu về nghỉ. Vương phu nhân vốn ưa thanh tĩnh,
thấy Giả mẫu về, cũng theo về. Phượng Thư ở lại làm chủ cuộc vui, đến chiều mới
thôi. Bảo Ngọc đưa Giả mẫu về, muốn đợi bà đi ngủ trưa rồi sẽ trở lại xem nữa,
nhưng lại sợ làm phiền bọn Tần thị. Nghĩ đến Bảo Thoa gần đây phải ở nhà dưỡng
bệnh, mình chưa lại thăm lần nào, ý muốn đến đó, nhưng lại sợ đi qua cửa nách
nhà trên, gặp việc gì ngăn trở chăng, nếu gặp cha thì càng không tiện. Chẳng
thà đi quanh ra đường khác, xa một quãng còn hơn. Khi ấy người nhà đương chờ
thay quần áo cho Bảo Ngọc, nhưng thấy Bảo Ngọc đi ra cửa thứ hai, bọn người nhà
kéo nhau đi theo, tưởng lại sang bên kia xem hát, ngờ đâu khi đến xuyên đường,
Bảo Ngọc lại theo hướng đông bắc đi ra sau dinh. Đang đi thì gặp hai gia khách
là Thiềm Quang và Đan Sính. Nhân trông thấy, họ chạy ngay đến, người ôm lưng,
người dắt tay Bảo Ngọc, cười nói:
- Phật con của chúng tôi đây! Chúng tôi nằm chiêm bao chăng?
Được gặp cậu có dễ dàng đâu?
Họ hỏi thăm sức khỏe rối rít một lúc rồi mới đi. Một bà già gọi
hai người kia, hỏi:
- Có phải hai vị Ở chỗ ông lớn lại đây không?
Hai người kia gật đầu:
- Ông hiện đương ngủ trưa ở Mộng Pha Trai(#1) không can gì
đâu.
Nói xong rồi đi.
Nghe vậy, Bảo Ngọc cũng cười, rồi quay sang phía bắc, đến viện
Lê hương. Lại gặp Ngô Tân Đăng là tổng lĩnh giữ kho tiền và Đài Lương là đầu mục
kho thóc, cùng tất cả bảy người đang ở buồng kế toán đi ra. Thấy Bảo Ngọc, họ vội
vàng đứng xếp hàng chắp taỵ Có một anh mãi biện tên là Tiền Hoa, vì từ lâu chưa
được gặp Bảo Ngọc, vội chạy lên quì gối, chắp tay hỏi thăm sức khỏe. Bảo Ngọc mỉm
cười, giơ tay kéo hắn đứng dậy. Mọi người cười nói:
- Hôm nọ chúng tôi thấy chữ cậu viết vào một tờ giấy dán ở một
chỗ nọ, rất đẹp. Vậy hôm nào xin cậu viết cho chúng tôi một tờ.
- Trông thấy ở đâu?
- Ở nhiều chỗ. Ai cũng khen, có người đến tìm chúng tôi để
xin nữa.
- Có đáng cái gì, các anh cứ nói với bọn hầu nhỏ tôi là được
thôi.
Nói xong rồi đi. Mọi người đợi Bảo Ngọc đi khỏi mới lui về.
Bảo Ngọc đến viện Lê hương, vào ngay nhà Tiết phu nhân, thấy
Tiết phu nhân đương bảo ban bọn a hoàn thêu thùa. Bảo Ngọc lại chào, Tiết phu
nhân kéo lại, ôm vào lòng, cười nói:
- Trời lạnh thế này, không ngờ cháu lại sang được! Hãy lên ngồi
cạnh đây cho ấm đã.
Tiết phu nhân sai người pha nước trà uống. Bảo Ngọc hỏi:
- Anh Bàn có nhà không?
Tiết phu nhân thở dài:
- Nó là con ngựa bất kham, ngày nào cũng đi, có chịu ở nhà
đâu!
- Chị Thoa có khỏe không?
- Hôm trước cháu đã nghĩ đến nó. Sai người sang hỏi thăm. Nó ở
trong nhà ấy. Cháu vào chơi. Trong ấy ấm hơn ngoài này, cháu cứ ngồi luôn đấy,
ta thu dọn xong sẽ vào nói chuyện.
Bảo Ngọc nghe nói, vội đi vào nhà trong, thấy trước cửa treo
một bức rèm the đỏ hơi cũ. Bảo Ngọc vén rèm vào, thấy Bảo Thoa đương ngồi trên
giường thêu kim tuyến, đầu vén, tóc đen nhánh, mặc áo bông màu gụ, cái khoác
vai màu tím nhạt viền kim ngân tuyến, quần lụa bông lót màu vàng. Tất cả đồ mặc
đều đã rung rúc, giở cũ giở mới, nhìn không có vẻ xa hoa mà lại thêm nhũn nhặn,
môi không tô mà đỏ, mày không kẻ vẫn xanh, mặt như mâm bạc, mắt sáng long lanh.
Điềm đạm ít lời, có người cho là giả dại; tùy thời đối xử, tự mình chỉ biết phận
mình.
Bảo Ngọc vừa nhìn vừa hỏi:
- Chị đã khỏe hẳn chưa?
Bảo Thoa ngẩng đầu lên, thấy Bảo Ngọc, vội đứng dậy, cười
nói:
- Xin cám ơn, tôi đã khá rồi.
Nói xong mời Bảo Ngọc ngồi cạnh bục, và sai Oanh Nhi đi pha
trà. Bảo Thoa vừa hỏi sức khỏe Giả mẫu, Vương phu nhân, và các chị em, vừa nhìn
Bảo Ngọc, thấy đầu đội mũ vàng dát ngọc, trán bịt khăn có hai con rồng vờn hạt
châu, mình mặc áo chẽn tay, màu hoa cúc thêu rồng, lót da nách cáo trắng, ngoài
thắt dây lưng thêu bướm năm màu, cổ đeo khóa “Trường mệnh”(#2) bùa “Ký
danh”(#3), ngoài lại đeo một viên bảo ngọc ngậm ở trong mồm khi mới đẻ. Bảo
Thoa nhân cười nói:
- Ngày thường vẫn nghe anh có viên ngọc quý, nhưng chưa xem kỹ,
nay phải xem mới được.
Nói xong ghé lại gần. Bảo Ngọc cũng nhích lại, tháo viên ngọc
ra đưa tận tay Bảo Thoa. Bảo Thoa nâng viên ngọc lên xem, thấy to bằng quả trứng
chim sẻ, sáng suốt như ráng trời ban mai, nhẵn mịn như váng sữa, lóng lánh đủ
năm màu. Đó là ảo tưởng của hòn đá ở ngọn Thanh Ngạnh trong núi Đại Hoang. Người
sau có bài thơ trào phúng:
Chuyện luyện đá có hay không có ?
Núi Đại Hoang chuyện đó lạ thay!
Đá kia thay mặt đổi mày,
Thịt da một bọc chứa đầy thối tha.
Vàng hết vận, giá đà hết quý,
Ngọc lỡ thời, sáng hóa phai màu.
Đống xương trắng, họ tên đâu?
Nào phường áo mũ, nào lầu phấn son?
Trên mặt hòn đá cũng ghi lại những ảo tưởng của nó và một bài
của sư chốc đầu khắc bằng chữ triện. Nay theo nguyên hình vẽ ra đây. Nhưng vì
hòn đá ấy rất nhỏ, nên mới có thể ở trong miệng đứa bé khi còn ở trong thai.
Nay nếu vẽ như thế, sợ chữ bé quá, làm người xem không thấy, sẽ giảm mất hứng
thú. Vì thế nên phóng hơi to ra, để tiện ngắm nghía trong khi nhàn rỗi, và để
cho người sau khỏi ngờ rằng: miệng đứa bé có to đâu mà lại ngậm được một vật sù
sì như thế.
Mặt trước thông linh bảo ngọc Mặt sau thông linh bảo ngọc
Mặt trước viên ngọc có bốn chữ viết ngang: “Thông Linh Bảo Ngọc”(#4)
tám chữ viết dọc: “Mạc thất mạc vương, tiên thọ hằng xương”(#5). Mặt sau có mười
hai chữ viết dọc: “Nhất trừ tà tụy, nhị liệu oan ương, tam tri họa phúc”(#6). Bảo
Thoa xem xong, lại giơ mặt trước xem kỹ, mồm lẩm nhẩm đọc: “Mạc thất mạc vương,
tiên thọ hằng xương”. Sau đó Bảo Thoa quay lại bảo Oanh Nhi:
- Mày không đi pha nước à? đứng ngẩn ra đấy làm gì?
Oanh Nhi cười hì hì nói:
- Tôi nghe hai câu này như là đối với hai câu khắc ở cái khóa
cổ của cô.
Bảo Ngọc nghe nói, vội cười hỏi:
- Thế ra khóa của chị cũng khắc tám chữ à? Cho tôi xem nào?
Bảo Thoa nói:
- Anh đừng nghe nó, chẳng có chữ gì cả.
Bảo Ngọc nằn nì mãi:
- Chị Ơi, chị coi tôi như thế nào?
Bảo Thoa không từ chối được mới nói:
- Đó chẳng qua vì có hai câu chúc tụng tốt lành, nên ngày nào
tôi cũng đeo, nếu không thì nó nặng chình chịch, đeo có thú gì!
Bảo Thoa vừa nói vừa cởi dây, lấy cái chuỗi ngọc có kết hạt
châu ở trong cổ áo đại hồng ra.
Bảo Ngọc vội đỡ lấy xem, quả nhiên mỗi mặt có bốn chữ, hai mặt
thành hai câu tám chữ: “Bất ly bất khí, phương linh vĩnh kế”(#7), theo cách thức
vẽ ra đây:
Mặt trước khóa vàng Mặt sau khóa vàng
Bảo Ngọc xem xong lẩm nhẩm hai lần, lại nhẩm câu của mình hai
lần, cười nói:
- Chị Ơi! Tám chữ này với tám chữ của tôi thành một câu đối.
Oanh Nhi cười nói:
- Đó là hòa thượng chốc đầu cho đấy. Người bảo phải khắc vào
cái khóa vàng.
Bảo Thoa ngắt lời mắng:
- Sao mày không đi pha nước đem lại đây?
Rồi hỏi lảng Bảo Ngọc ở đâu đến.
Bảo Ngọc ngồi bên cạnh Bảo Thoa, thấy thoang thoảng có mùi
thơm dìu dịu, không biết mùi gì, hỏi:
- Chị xức thứ hương gì đấy? Tôi chưa ngửi thấy mùi thơm này
bao giờ.
- Tôi rất sợ xức hương! Quần áo đẹp mà xức thì chỉ đầy hơi
khói thôi.
- Thế thì mùi gì đấy?
Bảo Thoa nghĩ một lúc nói:
- Phải rồi, đó là mùi thơm của “Lãnh hương hoàn” tôi mới uống
sáng hôm nay.
- Thế nào gọi là “Lãnh hương hoàn”? Ngửi sao thơm thế! Chị
cho tôi nếm một viên.
- Thôi lại nói nhảm rồi! Anh tưởng mọi thứ thuốc ai cũng uống
được hay sao?
Chợt có người vào báo:
- Cô Lâm đến chơi.
Nói chưa dứt lời thì Đại Ngọc đã tha thướt tới nơi. Trông thấy
Bảo Ngọc, Đại Ngọc cười nói:
- Ối chào! Tôi đến không đúng lúc rồi?
Bảo Ngọc vội đứng dậy mời ngồi. Bảo Thoa cười nói:
- Sao chị lại nói thế?
Đại Ngọc nói:
- Nếu biết anh ấy ở đây, thì tôi chẳng đến làm gì!
Bảo thoa hỏi:
- Thế là thế nào?
Đại Ngọc nói:
- Thế nào à? Khi đến thì cùng đến, khi không đến thì chẳng ai
đến cả; hôm nay anh ấy đến, ngày mai tôi đến, cứ cắt lượt nhau, thế có phải là
ngày nào cũng có người đến không? Như thế thì không có lúc nào buồn quá, mà
cũng không có lúc nào vui quá. Có gì mà chị không hiểu?
Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc khoác một cái áo đoạn ngoài bằng lông
chim màu đỏ sẫm, liền hỏi:
- Có tuyết à?
Bọn hầu già ở dưới nói:
- Có tuyết từ lúc nãy.
Bảo Ngọc nói:
- Lấy cho tôi cái áo đi mưa.
Đại Ngọc cười nói:
- Đấy có phải không? Cứ tôi đến là anh ấy lại chực đi ngay!
Bảo Ngọc nói:
Vú Lý của Bảo Ngọc nói:
- Nay tuyết lại xuống nhiều, phải xem thời tiết cẩn thận, cậu
hãy ở đây chơi với chị em đã! Bên bà dì Tiết đã bày tiệc rồi. Tôi cũng bảo người
đi lấy áo mưa đến. Bây giờ cho lũ người hầu về nhé.
Bảo Ngọc gật đầu. Vú Lý ra bảo đám trẻ theo hầu: “Về”.
Tiết phu nhân đã cho bày xong mấy thức ăn ngon, giữ họ Ở lại
uống trà, ăn quả. Bảo Ngọc nhân khoe hôm nọ được ăn món chân ngỗng ở nhà chị
Trân bên phủ đông rất ngon. Tiết phu nhân liền lấy ngay món chân ngỗng đã ướp sẵn
ra thết.
- Món này có rượu thì tốt lắm!
Tiết phu nhân bèn sai người mang thứ rượu thật ngon đến. Vú
Lý đứng lên nói:
- Xin bà dì đừng cho cậu ấy uống rượu.
Bảo Ngọc nằn nì:
- U ơi, tôi chỉ uống một chén thôi.
Vú Lý nói:
- Không được. Trước mặt cụ và bà Hai bên nhà, tha hồ cậu uống
hàng vò. Hôm nọ chỉ chợp mắt một tý, tôi không để ý đến, không biết đứa mất dạy
nào muốn làm cho cậu vui, không kể sống chết thế nào, đã để cậu uống rượu,
thành ra tôi bị mắng mất mặt hai ngày liền! Bà dì không biết tính cậu ấy à? Hễ
uống rượu vào là khác tính ngaỵ Chỉ có một hôm cụ vui nên để cậu ấy tha hồ uống,
còn các hôm khác đều cấm. Nếu không, tội gì tôi lại mất công chầu chực ở đây.
Tiết phu nhân cười nói:
- Thôi già cứ yên tâm đi uống rượu, tôi không cho cậu ấy uống
nhiều đâu. Nếu cụ hỏi, thì đã có tôi.
Rồi bảo a hoàn:
- Hãy mời vú Lý đi uống rượu cho đỡ rét.
Vú Lý nghe nói, đành phải đi uống rượu với mọi người.
Bảo Ngọc lại nói:
- Không phải hâm nữa, tôi thích uống rượu lạnh.
Tiết phu nhân nói:
- Không thế được, uống rượu lạnh hay run tay, không viết được
chữ.
Bảo Thoa cười nói:
- Anh Bảo, hàng ngày anh học hỏi được nhiều điều, thế mà anh
lại không biết tính rượu rất nóng à? Phải uống nóng thì phát tán nhanh; nếu uống
lạnh thì đọng lại ở bên trong, ngũ tạng sẽ bị lạnh, như thế chẳng có hại hay
sao? Từ rày anh nên chừa đi, đừng uống rượu lạnh nữa.
Bảo Ngọc nghe nói có lý, bỏ rượu lạnh xuống, sai người hâm
nóng mới uống.
Đại Ngọc đương cắn hạt dưa, nhếch mép mỉm cười. Vừa lúc đó a
hoàn của Đại Ngọc là Tuyết Nhạn mang đến cái lồng ấp, Đại Ngọc cười hỏi:
- Ai bảo em đem đến cho ta thế? Thật là em chu tất quá. Nhưng
ta đã chết rét đâu mà sợ!
Tuyết Nhạn nói:
- Chị Tử Quyên sợ cô lạnh, bảo tôi mang đến đấy.
Đại Ngọc cầm lấy lồng ấp để vào lòng, cười nói:
- Khen cho em cũng khá đấy! Lại biết nghe lời nó. Xưa nay ta
bảo em câu gì, em đều để ngoài tai. Thế mà bây giờ nó bảo em, em vâng lời,
nhanh hơn chiếu chỉ nhà vua!
Bảo Ngọc nghe nói thế, biết Đại Ngọc mượn cớ nói chọc mình,
nhưng không biết trả lời ra làm sao, chỉ hì hì cười mà thôi.
Bảo Thoa vẫn biết Đại Ngọc xưa nay quen lối nói cạnh nói
khóe, nên không để ý. Tiết phu nhân cười nói:
- Cháu người vốn yếu, không chịu được lạnh, thế mà nó lại
nghĩ đến cháu, chẳng tốt hay sao?
Đại Ngọc cười nói:
- Dì không biết: may mà ở nhà dì đấy, chứ ở nhà khác, chẳng
làm cho người ta phát bực hay sao? Nhà ai chẳng có lồng ấp, việc gì phải mang từ
nhà đến? Dù rằng bọn a hoàn chu tất thật đấy, nhưng người ta lại cho cháu ngày
thường quen thói ngông cuồng đi rồi.
Tiết phu nhân nói:
- Cháu cẩn thận quá, hay để ý đến những việc ấy, chứ ta thì
chẳng bao giờ để tâm đến.
Khi nói chuyện, Bảo Ngọc đã uống mấy chén liền. Vú Lý lại lên
can ngăn. Bảo Ngọc đương lúc hào hứng, vui chuyện với chị em Bảo Thoa, Đại Ngọc,
nói nói cười cười, lẽ nào không đòi uống nữa, đành phải nén lòng nài xin:
- U ơi, cho tôi uống hai chén nữa thôi.
Vú Lý nói:
- Cậu cẩn thận đấy, hôm nay ông ở nhà, sợ hỏi đến bải vở
chăng?
Bảo Ngọc nghe nói, rất không bằng lòng, từ từ bỏ chén xuống,
cúi đầu ngồi. Đại Ngọc vội nói:
- Đừng làm cho người ta mất vui! Cậu có hỏi, cứ nói là dì giữ
ở lại chơi. Bà già này muốn dạy khôn chúng ta đây!
Một mặt khẽ dúi để Bảo Ngọc bực thêm, một mặt lẩm bẩm:
- Mặc kệ mụ ấy! Chúng ta cứ việc vui.
Vú Lý xưa nay biết tính Đại Ngọc, bên cười nói:
- Cô Lâm ơi! đừng xui cậu ấy nữa! Cô khuyên một câu chắc cậu ấy
còn nghe hơn!
Đại Ngọc cười nhạt:
- Việc gì tôi phải xui! Tôi cũng chẳng phải khuyên! U cẩn thận
quá! Ngày thường cụ tôi vẫn cho anh ấy uống rượu. Hôm nay ở nhà dì, anh ấy có uống
mấy chén cũng chẳng sao. Hay nhà dì là người ngoài, không nên ngồi uống rượu ở
đây?
Vú Lý nghe đoạn, vừa sốt ruột, vừa buồn cười nói:
- Những lời nói của cô Lâm thật là sắc hơn lưỡi dao.
Bảo Thoa cũng nhịn không nổi, béo má Đại Ngọc một cái, cười
nói:
- Thật đấy! Chỉ cô Tần(#8) này hễ mở mồm ra là làm cho người
ta giận không giận được, mà vui cũng chẳng thành vui.
Tiết phu nhân nói:
- Cháu Bảo ơi! đừng sợ. Nhà dì chẳng có thức gì ngon cho cháu
ăn, cháu không nên để tâm đến những điều lặt vặt ấy, làm cho dì không yên lòng.
Cháu cứ việc uống, đã có dì đây. Uống xong ăn cơm, có say thì cháu ngủ lại đây.
Rồi gọi a hoàn:
- Hâm rượu nữa mang lại đây. Dì uống với cháu hai chén, rồi
ăn cơm.
Bảo Ngọc nghe nói, lại cao hứng lên. Vú Lý dặn dò a hoàn:
- Các người ở đây cẩn thận nhé, ta về thay quần áo rồi sẽ đến!
Rồi khẽ nói với Tiết phu nhân:
- Xin bà đừng cho cậu ấy uống nữa.
Nói xong ra về.
Tuy còn hai, ba bà già hầu ở lại đấy, nhưng đều hờ hững không
ai thiết. Thấy vú Lý đi rồi, họ cũng đều lảng đi mỗi người một ngả. Còn vài a
hoàn nhỏ ở lại cố chiều cho Bảo Ngọc vui. May được Tiết phu nhân vừa dỗ, vừa lừa,
chỉ cho uống vài chén, rồi sai dọn mâm đi. Lại sai nấu canh da gà với măng chua
đem lên. Bảo Ngọc ăn luôn mấy bát, rồi lại ăn già nửa bát cháo gạo cẩm. Bấy giờ
Bảo Thoa và Đại Ngọc đã ăn xong, ra uống trà.
Tiết phu nhân mới yên lòng. Bọn Tuyết Nhạn cũng đều ăn cơm
xong, lên hầu. Đại Ngọc hỏi Bảo Ngọc:
- Đã về hay chưa?
Bảo Ngọc lim dim mắt nói:
- Em về, anh cũng về!
Đại Ngọc đứng dậy nói:
- Chúng ta ở đây cả ngày rồi, cũng nên đi về, kẻo bên nhà lại
tìm.
Nói xong hai người đứng dậy cáo từ.
A hoàn vội mang cái mũ đi mưa đến. Bảo Ngọc cúi đầu xuống bảo
nó đội vào. A hoàn vừa chụp cái mũ lông màu đại hồng lên đầu. Bảo Ngọc nói
ngay:
- Thôi! Thôi! Đồ ngu! Nhè nhẹ chứ. Mày không thấy người ta đội
mũ như thế nào à? Để tao đội lấy vậy.
Đại Ngọc đứng cạnh bục nói:
- Om sòm làm gì! Lại đây! Tôi đội cho.
Bảo Ngọc chạy lại ngaỵ Đại Ngọc nhè nhẹ đỡ mạng tóc, đặt mũ
lên trên khăn bịt trán, rồi nâng cái bông bằng nhung ở trên đầu trâm to bằng hạt
đào lên. Bông rung rúc ngoài mũ. Sửa sang xong, Đại Ngọc ngắm nghía một lúc, rồi
nói:
- Đẹp rồi, khoác áo đi mưa vào.
Bảo Ngọc nghe nói, liền cầm áo tơi khoác vào người, Tiết phu
nhân vội nói:
- U cháu chưa đến, cháu hãy chờ một lát.
Bảo Ngọc nói:
- Các cháu lại phải chờ họ kia à! Có bọn a hoàn này đi theo
là được rồi.
Tiết phu nhân không đành lòng, lại sai hai người đàn bà nữa
đưa anh em Bảo Ngọc về.
Hai người đều nói:
- Thật chúng cháu đến quấy rầy dì.
Rồi đi thẳng về buồng Giả mẫu.
Giả mẫu chưa ăn cơm chiều, biết các cháu ở bên nhà Tiết phu
nhân về thì rất vui. Thấy Bảo Ngọc say rượu, nên bảo vào buồng nghỉ, không được
ra ngoài. Lại sai người chầu chực luôn đấy để xem có cần gọi gì không. Chợt
nghĩ đến người đi theo Bảo Ngọc, Giả mẫu hỏi:
- Vú Lý đâu không thấy?
Mọi người không dám nói thẳng là vú đã về nhà, chỉ thưa:
- Đã về đây rồi, nhưng chắc có việc gì, nên lại đi.
Bảo Ngọc đương đi lảo đảo, quay lại nói:
- Mụ ấy còn sướng hơn bà kia! Bà hỏi mụ ấy làm gì? Không có mụ
ấy, có lẽ cháu còn sống thêm được vài ngày!
Vừa nói vừa đi về buồng ngủ, thấy bút mực còn bỏ lăn lóc trên
bàn. Tình Văn chạy ra đón, cười nói:
- Cậu hay nhỉ! Sớm dậy hứng lên, bảo tôi mài mực, mới viết được
ba chữ, đã quăng bút đi mất, làm tôi chờ suốt ngày. Cậu hãy lại ngay đây viết
cho hết cái mực này mới xong với tôi.
Bảo Ngọc nhớ đến việc khi sáng mới dậy, nhân cười nói:
- Tôi viết ba chữ ở đâu rồi?
Tình Văn cười nói:
- Thôi cậu say rồi! Lúc cậu đi sang bên phủ có dặn tôi đem
dán ở trên cửa, bây giờ lại hỏi. Tôi sợ người khác dán hỏng, tôi phải trèo lên
thang dán một hồi lâu, đến bây giờ tay hãy còn rét cóng đây này.
Bảo Ngọc cười nói:
- Tôi quên mất đấy! Tay chị lạnh à? Để tôi nắm cho nóng nhé.
Rồi giơ tay ra nắm lấy tay Tình Văn cùng đến xem ba chữ mới
viết dán ở trên cửa.
Một lúc Đại Ngọc đến, Bảo Ngọc cười nói:
- Này, em nói thật nhé, ba chữ này có được chữ nào tốt không?
- Chữ nào cũng tốt cả. Sao mà viết giỏi thế! Ngày mai anh viết
hộ em một cái biển nhé.
Bảo Ngọc cười nói:
- Em lại trêu anh rồi!
Lại hỏi:
- Chị Tập Nhân đâu?
Tình Văn ngoảnh vào phía trong, giảu mỏ làm hiệu. Bảo Ngọc
trông vào, thấy Tập Nhân để cả áo nằm ngủ. Bảo Ngọc cười nói:
- Giỏi lắm. Hãy còn sớm thế mà đã ngủ à?
Lại hỏi Tình Văn:
- Sáng hôm nay tôi ăn cơm ở bên kia có một đĩa bánh đậu. Biết
chị thích ăn, nên tôi nói với mợ Trân cho người mang sang để đến chiều chị sẽ
ăn. Chị có thấy không?
Tình Văn nói:
- Đừng nhắc đến chuyện ấy nữa. Khi họ mới mang sang, tôi biết
là cậu để phần tôi, nhưng vì ăn cơm rồi nên cất đi. Sau vú Lý đến, trông thấy,
nói: “Bảo Ngọc chưa chắc đã ăn cái này, để ta mang về cho cháu. Rồi vú sai người
đem về nhà.
Đương lúc nói chuyện. Phiến Tuyết mang trà đến, Bảo Ngọc nói:
- Em Lâm xơi nước.
Mọi người cười nói:
- Cô Lâm về từ bao giờ, còn mời!
Bảo Ngọc uống được nửa chén, chợt nghĩ đến trà pha buổi sáng,
hỏi Phiến Tuyết:
- Buổi sáng hôm nay pha trà Phong Lộ(#10), ta đã nói thứ trà
này uống đến nước thứ ba, thứ tư mới ngon. Sao bây giờ lại pha trà khác?
Phiến Tuyết nói:
- Tôi đã cất đi, nhưng lúc nãy vú Lý đến uống cả.
Bảo Ngọc nghe nói, quăng ngay chén nước cầm trong tay xuống đất,
“Choang” một tiếng, chén vỡ tan, nước bắn cả vào quần Phiến Tuyết. Bảo Ngọc nhảy
lên hỏi:
- Vú Lý có phải là mẹ các chị đâu mà các chị hiếu thảo thế?
Chẳng qua lúc bé, ta có bú sữa vú ấy mấy hôm, thế mà quen lối lên mặt, làm như
ông cha người tạ Bây giờ ta không bú nữa, nuôi không vú ấy làm gì. Tống cổ vú ấy
đi, cả nhà mới êm thấm!
Nói xong định sang trình Giả mẫu ngay.
Số là Tập Nhân vẫn thức, chỉ nằm giả cách ngủ, để giữ Bảo Ngọc
đến đùa cho vui. Trước nghe thấy Bảo Ngọc hỏi chữ, hỏi bánh thì cũng không cần
dậy, sau thấy quăng chén, xem có ý tức giận, nên mới dậy khuyên ngăn. Lại có
người của Giả mẫu sai sang hỏi “Việc gì thế?” Tập Nhân vội trả lời:
- Tôi pha trà nhỡ trượt chân phải tuyết ngã, vỡ mất cái chén.
Tập Nhân lại khuyên Bảo Ngọc:
- Cậu nhất định đuổi vú Lý cũng được, và chúng tôi cũng muốn
xin ra cả, chi bằng nhân dịp này cậu đuổi luôn cả chúng tôi đi một thể, cậu chẳng
lo gì không có người hầu khéo hơn chúng tôi.
Bảo Ngọc nghe vậy, không nói gì nữa.
Tập Nhân dắt Bảo Ngọc đến giường ngủ, cởi bộ quần áo, không
biết Bảo Ngọc nói gì, chỉ líu tíu luôn mồm, mắt ríu lại. Tập Nhân vội vàng đỡ Bảo
Ngọc nằm xuống, rồi tháo viên “Thông linh bảo ngọc” ra, lấy lụa bọc và để xuống
dưới nệm, vì sợ ngày mai đeo sẽ lạnh cổ chăng. Bảo Ngọc vừa nằm xuống đã ngủ
ngaỵ Bấy giờ vú Lý vừa đến, thấy nói Bảo Ngọc say, không dám vào, chỉ đứng
ngoài lắng nghe. Thấy Bảo Ngọc ngủ rồi, vú Lý mới yên tâm về.
Ngày hôm sau Bảo Ngọc tỉnh dậy, có người trình:
- Cậu Dung bên kia dẫn cậu Tần sang thăm.
Bảo Ngọc vội ra tiếp, rồi dẫn vào chào Giả mẫu. Giả mẫu trông
thấy Tần Chung dáng điệu phong nhã, đi đứng khoan thai, đáng làm bạn học của Bảo
Ngọc, trong bụng rất vui. Liền giữ ở lại uống nước ăn cơm, rồi sai người dẫn
sang chào Vương phu nhân. Mọi người vì yêu Tần thị, và thấy phẩm cách Tần Chung
như thế, nên mến thích cả. Lúc Tần Chung sắp về, ai nấy đều đem quà ra tặng. Giả
mẫu cho một cái túi và một cái tượng “Khôi tinh”(#11) bằng vàng, lấy nghĩa là
Văn linh sum họp, lại dặn:
- Nhà cháu ở xa, lúc nắng, lúc rét đi lại không tiện. Cháu
nên ở ngay bên này cùng học với chú Bảo, đừng chơi bời với nhưng con nhà lười
biếng.
Tần Chung nhất nhất vâng lời, về nhà nói lại với cha.
Cha Tần Chung là Tần Nghiệp hiện làm ở ty doanh thiện
lang(#12), năm nay gần bảy mươi tuổi, vợ chết từ lâu. Trước đây vì hiếm hoi. Tần
Nghiệp đến Dưỡng Sinh Đường xin một đứa con trai, một đứa con gái, không ngờ đứa
con trai lại chết, chỉ còn đứa con gái, lúc nhỏ đặt tên là Khả Nhị Lớn lên cô
gái hình dung yểu điệu, tính cách phong lưu. Vì có bà con xa với họ Giả, nên kết
làm thông gia. Năm năm mươi ba tuổi, Tần Nghiệp mới đẻ được Tần Chung, năm nay
mười hai tuổi. Năm ngoái thầy học về mất, chưa mời thầy khác được, Tần Chung phải
ở nhà ôn lại bài cũ. Tần Nghiệp đương muốn đến nói với họ Giả để cho con sang
trường bên ấy, khỏi trễ nải việc học. May sao có dịp tốt, Tần Chung được gặp Bảo
Ngọc, lại biết thầy dạy là Giả Đại Nho, một vị túc nho lúc bấy giờ. Tần Chung
được sang đấy học, có thể tấn tới, thành danh được, nên ông ta vui mừng lắm. Chỉ
vì bổng lộc ít ỏi, mà bên ấy thì toàn người giàu sang có con mắt khác người, nếu
đưa lễ vật ít quá sợ không tiện. Nghĩ đến việc lớn quan hệ suốt đời của con
mình, Tần Nghiệp cố gắng bòn góp được hai mươi bốn lạng bạc làm lễ yết kiến và
dẫn Tần Chung đến lạy chào Giả Đại Nho, rồi chờ Bảo Ngọc chọn ngày tốt để cùng
vào học.
Biết sau này bị đua hơi vặt,
Thì sáng nay chẳng đọc sách nhầm.
Chú thích:
Chú thích:
(1-) Nơi chay tịnh mộng tưởng đến Tô Đông Pha.
(2-) Một thứ trang sức vàng hay bạc làm hình cái khóa khắc bốn
chữ “Bản mệnh trường sinh” đeo lên sổ trẻ con cho khước.
(3-) Xem chú thích ở hồi thứ ba.
(4-) Thông suốt đến cõi thiêng liêng.
(5-) Đừng đánh mất, đừng bỏ quên; tuổi tiên được khỏe mạnh
mãi.
(6-) Trừ ma quỷ; chữa bệnh tật; biết được những điều dữ, điều
lãnh.
(7-) Không xa lìa, không rời bỏ; tuổi thơm được lâu bền mãi.
(8-) Đôi lông mi cau lại có vẻ buồn. Các nhà văn thường dùng
để tả vẻ đẹp của người buồn, có nghĩa là càng buồn càng đẹp. Cũng có khi dùng để
tả vẻ đẹp của người đàn bà đa sầu đa cảm.
(9-) Hiên: danh từ do các nhà văn xưa dùng để đặt tên chỗ ngồi
chơi, ngắm phong cảnh, đọc sách, ngâm thơ… Giáng: màu đỏ; Vân: một loại cỏ thơm
dùng để ướp sách cho khỏi mọt; nghĩa rộng là nơi đọc sách, thí dụ: Vân trai,
Vân song… Giáng vân hiên: Hiên cỏ vân đỏ, có thể hiểu là nơi đọc sách.
(10-) Tên một thứ chè ngon.
(11-) Theo thiên văn thời cổ: Khôi là ngôi sao đẩu của sao bắc
đầu, ứng vào người nào thi đỗ trạng nguyên.
(12-) Một ty coi riêng về công việc kiến trúc.
Hồi 9:
Quen nết phong lưu, bạn đa tình cùng vào trường học
Gây chuyện ngờ vực, tên ngoan đồng làm nhộn thư đường
Cha con Tần Chung đang chờ tin họ Giả hẹn ngày vào học. Bảo
Ngọc thì muốn gặp ngay Tần Chung, nên chọn ngày hôm sau vào trường, và sai người
sang đưa tin: “Sáng mai xin mời cậu Tần sang bên này cùng đi”.
Hôm ấy, Bảo Ngọc chưa dậy, Tập Nhân đã sắm đủ bút sách rồi ngồi
buồn rũ ở bên giường. Lúc Bảo Ngọc dậy. Tập Nhân vội hầu rửa mặt, chải đầu. Bảo
Ngọc thấy Tập Nhân có dáng buồn, bèn hỏi:
- Chị ơi, chị làm sao lại không vui thế? Hay là sợ tôi đi học
vắng, khiến các chị buồn?
Tập Nhân cười nói:
- Sao cậu lại nói thế? Đi học là việc rất hay, nếu không thì
lêu lổng suốt đời, còn làm nên trò gì được? Chỉ có một điều: khi đi học thì cậu
nghĩ đến sách, khi nghỉ thì nghĩ đến nhà, nhất là đừng đùa nghịch với ai, ông
biết thì không phải chuyện chơi đâu. Tuy học phải cố gắng, nhưng cũng phải có
chừng mực, một là ăn nhiều thì nhai không kỹ; hai là cần phải giữ gìn sức khỏe.
Tôi nghĩ thế đấy, cậu nên hiểu cho.
Tập Nhân nói câu nào, Bảo Ngọc gật đầu câu ấy. Tập Nhân lại
nói:
- Cái áo da cáo của tôi đã bọc sẵn và giao lũ hầu bé mang đi.
Khi ở trường, thấy lạnh, cậu phải nhớ mặc thêm, không như lúc ở nhà, có người
trông nom sẵn. Lồng ấp chân, lồng ấp tay, đã cho người mang đi cả rồi. Cậu bắt
chúng nó đặt vào chỗ ngồi cho ấm. Cái lũ ranh con lười biếng ấy, không ai bảo
thì chúng càng sướng, không chịu làm gì, sẽ để cậu chết rét đấy.
Bảo Ngọc nói:
- Chị cứ yên tâm, tôi lo liệu được cả. Các chị cũng đừng ngồi
buồn rũ ở trong nhà này, thỉnh thoảng sang chơi với cô Lâm cho vui.
Bảo Ngọc mặc quần áo xong, Tập Nhân giục đến trình Giả mẫu,
Giả Chính và Vương phu nhân. Bảo Ngọc lại dặn dò Tình Văn, Xạ Nguyệt mấy câu, rồi
sang trình Giả mẫu, Giả mẫu cũng dặn dò mấy câu, sau sang trình Vương phu nhân,
rồi sang trình Giả Chính.
Khi ấy Giả Chính đương ngồi trong thư phòng, nói chuyện với bọn
gia khách. Thấy Bảo Ngọc đến chào và nói xin đến trường học, Giả Chính cười nhạt:
- Mày nói đến hai chữ đi học làm tao xấu hổ chết đi được. Cứ
như ý tao thì mày đi chơi là đúng hơn. Coi chừng đấy, đừng đứng bẩn đất tao, dựa
bẩn cửa tao!
Bọn gia khách đứng dậy cười nói:
- Sao cụ lại nói quá như thế? Cậu nhà đi học chuyến này, thế
nào hai ba năm nữa cũng sẽ hiển thân thành danh, chứ không còn trẻ thơ như ngày
trước nữa. Sắp đến bữa cơm rồi, mời cậu đi thôi.
Nói xong hai người già dắt Bảo Ngọc ra.
Giả Chính hỏi:
- Những ai đi theo Bảo Ngọc đấy?
Ở ngoài có tiếng dạ ran rồi ba bốn người vào vái chào. Giả
Chính nhìn ra, thấy con trai vú nuôi Bảo Ngọc là Lý Quí, bèn hỏi:
- Ngày thường theo hầu nó đi học, thấy nó học đến sách gì rồi?
Hay là chỉ học những câu lếu láo, những lối ngỗ nghịch tinh ranh? Lúc nào rỗi,
ta sẽ lột da mày và sửa tội cho cái thằng hư thân kia!
Lý Quí run sợ, quỳ xuống, bỏ mũ rập đầu “dạ” “dạ” và nói:
- Cậu ấy đã học kinh Thi đến quyển thứ ba, hình như có câu:
“du du lộc minh, hà diệp phù bình”(1) gì ấy, cháu không dám nói dối.
Mọi người ngồi đấy nghe vậy cười ầm lên. Giả Chính cũng không
nhịn được cười, liền nói:
- Dù có học ba mươi quyển kinh Thi, cũng là câu chuyện “bịt
tai ăn trộm chuông” để lòe người ta thôi. Mày đến trường hỏi thăm sức khỏe tôn
sư và trình lại lời của tao: “Không nên dạy theo lối cũ, cho nó đọc kinh Thi
hay cổ văn, trước nhất phải giảng cho nó rõ nghĩa và học thuộc lòng Tứ thư đã.”
Bảo Ngọc đứng chờ ở ngoài cửa nghe ngóng và đợi bọn họ ra
cùng đi. Bọn Lý Quí vừa phủi quần áo vừa nói:
- Cậu nghe thấy gì không? Ông định lột da chúng tôi đấy! Đầy
tớ nhà chúng ta theo chủ thì được hãnh diện, còn chúng tôi làm đầy tớ cậu thì bị
đánh chửi hoài, như thế có đáng thương không?
Bảo Ngọc nói:
- Thôi anh đừng phàn nàn nữa, mai tôi mời anh đánh chén một bữa.
Lý Quí nói:
- Ông trẻ ơi! Ai dám mong ông mời, chỉ xin ông để ý nghe cho
một vài câu thôi.
Bảo Ngọc lại đến chỗ Giả mẫu, gặp ngay Tần Chung đã ở đấy và
đang nói chuyện với Giả mẫu. Hai người chào nhau, rồi cáo từ xin đi.
Bảo Ngọc chợt nghĩ đến Đại Ngọc, bèn sang bên đó chào để đi.
Bấy giờ Đại Ngọc đương ngồi dưới cửa sổ soi gương trang điểm, nghe nói Bảo Ngọc
đi học thì cười và nói:
- Tốt lắm, đi chuyến này có thể định “bẻ cành quế trên cung
trăng” đấy. Tôi không thể đi tiễn.
Bảo Ngọc nói:
- Cô em chờ tôi đi học về hãy ăn cơm chiều, còn sáp bôi mặt
thì để tôi về sẽ pha cho.
Nói chuyện một lúc lâu rồi mới dứt ra đi. Đại Ngọc vội gọi giật
lại hỏi:
- Sao không đến chào cô Bảo Thoa nhà anh?
Bảo Ngọc nhoẻn mép cười không nói gì, cùng Tần Chung đi thẳng
đến trường.
Trường không xa nhà mấy, do vị thủy tổ họ Giả lập ra, để cho
những con em trong họ không mời thầy riêng được thì vào đấy học. Những người
làm quan trong họ đều có quyên góp, kẻ nhiều người ít, để chi tiền dầu đèn, thầy
học thì mời người nào cao tuổi và có đạo đức đến dạy.
Tần Chung, Bảo Ngọc đến trường, liền đi chào từng người một,
rồi vào lớp học. Từ đó hai người đi đứng có nhau, ngày càng thêm thân mật. Giả
mẫu lại càng yêu Tần Chung, thường giữ ở lại dăm ba ngày, chẳng khác gì chắt ruột.
Nhân thấy Tần Chung không được đầy đủ, Giả mẫu lại giúp cho cả quần áo, đồ
dùng. Chưa đầy hai tháng, Tần Chung đã trở thành quen thuộc trong phủ Vinh.
Nguyên Bảo Ngọc xưa nay là người không chịu yên thường thủ phận,
cái gì cũng thích theo ý muốn của mình, đã thành cái tật riêng. Bảo Ngọc thường
nói với Tần Chung:
- Hai chúng ta cùng lứa tuổi, lại là bạn học. Từ giờ trở đi đừng
xưng chú cháu nữa, chỉ gọi là anh em bạn thì phải hơn.
Lúc đầu Tần Chung không dám, nhưng Bảo Ngọc không nghe, cứ gọi
là em và gọi tên là Kình Khanh. Tần Chung thấy vậy cũng định phải gọi bừa đi.
Trường học này vốn chỉ nhận con em trong họ và con cháu những
nhà bà con thân thuộc thôi. Nhưng tục ngữ nói rất đúng: “Một con rồng chín giống,
mỗi giống mỗi khác”. Ở đây nhiều người, nên rồng rắn lẫn lộn, trong ấy có cả
đám hạ lưu nữa. Từ khi Tần Chung, Bảo Ngọc đến trường, xem ra dáng điệu tươi đẹp
như hoa; Tần Chung thì bẽn lẽn nhu mì, chưa nói đã đỏ mặt, ngượng nghịu như con
gái; Bảo Ngọc thì nhũn nhặn dịu dàng, nói năng hòa nhã. Vì hai người thân mật với
nhau như thế nên tránh sao khỏi sự ngừ vực của một số học trò. Lúc vắng mặt thì
người nói thế này, kẻ nói thế khác, giễu cợt, gièm pha khắp cả trong và ngoài lớp
học.
Sau khi Tiết Bàn đến ở nhà Vương phu nhân, biết ở đây có một
trường học, trong trường lại có nhiều học trò trẻ, nên bệnh “Long dương”(2) lại
nổi lên. Hắn cũng mượn tiếng đi học, nhưng “Ba ngày đánh cá thì hai ngày phơi
lưới”(3), quăng tiền ra trả công thầy học, chỉ cốt để ăn mặc tiêu xài, đã có mấy
đứa bị Tiết Bàn cám dỗ. Việc này không cần nói nhiều. Có hai đứa không biết con
cái nhà ai, tên tuổi là gì, chỉ vì thấy chúng có vẻ lẳng lơ, nên cả trường đặt
tên cho một đứa là Hương Lân, một đứa là Ngọc ái. Có nhưng người mến thích
chúng, định đem lòng không tốt đối với lũ trẻ nhưng lại sợ uy thế Tiết Bàn, nên
không ai dám vương vào. Từ khi Tần Chung, Bảo Ngọc đến trường, thấy hai đứa ấy
trong bụng cũng vấn vương trìu mến, nhưng biết là bạn tương tri của Tiết Bàn,
nên cũng không dám động chạm đến. Hai đứa Hương Lân, Ngọc ái đều để ý đến Tần
Chung và Bảo Ngọc. Bốn người sẵn có tình ý với nhau, nhưng chưa dám lộ ra ngoài.
Mỗi khi vào học, họ ngồi riêng bốn chỗ, nhưng tám mắt vẫn liếc nhau, hoặc đặt lời
mượn ý, vịnh dâu ngắm liễu, xa tỏ nỗi lòng. Ngoài mặt họ lại muốn che mắt mọi
người. Không ngờ có mấy đứa láu lỉnh, thấy bộ dạng ấy, thường ở sau lưng chế giễu
hoặc nháy mắt đưa mày, hoặc đằng hắng lên tiếng. Việc này xảy ra đã từ lâu rồi.
Một hôm, Đại Nho có việc về nhà, ra sẵn cho học trò một câu đối
bảy chữ, để ngày mai sẽ giảng sách và giao cho cháu trưởng là Giả Thụy trông
nom nhà trường. Vừa buổi sáng hôm ấy khi gọi tên, thấy Tiết Bàn vắng mặt, Tần
Chung thừa dịp liền đầu mày khóe mắt với Hương Lân. Hai người ra hiệu với nhau
giả cách đi tiểu, chạy ra sau nhà trò chuyện. Tần Chung hỏi:
- Ông nhà có cấm em chơi với bạn không?
Nói chưa dứt lời, đằng san có tiếng đằng hắng. Hai người giật
mình quay lại, thấy một đứa bạn học tên là Kim Vinh. Hương Lân vốn nóng tính, vừa
thẹn vừa bực nói:
- Mày đằng hắng cái gì? Định cấm chúng tao nói chuyện à?
Kim Vinh cười nói:
- Chúng bay nói chuyện được, tao đằng hắng không được à? Tao
chỉ hỏi chúng bay có chuyện gì sao không nói rõ ràng, mà lại thầm thầm thụt thụt
thế? Tao bắt được quả tang, mày còn chối cái gì? Mày cho tao chơi nước đầu,
chúng ta im chuyện cả; nếu không, đây sẽ bới tung ra hết.
Tần Chung và Hương Lân đỏ bừng mặt lên hỏi:
- Mày bắt chúng tao về cái gì?
Kim Vinh cười nói:
- Tao hiện bắt được quả tang đấy!
Nói xong nó vỗ tay cười ầm lên:
- Có bánh nướng ngon đây, sao chúng bay không mua một cái mà
ăn?
Tần Chung và Hương Lân tức giận lắm, vội đến nói với Giả Thụy
là Kim Vinh vô cớ vu oan cho chúng. Giả Thụy vốn người không đứng đắn, chỉ
thích lợi, khi ở trong trường hắn thường hay mượn việc công làm việc tư, hạch
sách đám học trò phải mời hắn ăn uống. Hắn vào hùa với Tiết Bàn, mong kiếm tiền,
kiếm rượu, nên tha hồ để mặc cho Tiết Bàn ngông nghênh làm càn, không những hắn
không ngăn cấm mà còn nối giáo cho giặc để lấy lòng Tiết Bàn. Khốn nỗi Tiết Bàn
có tính lông bông, nay yêu đứa này, mai yêu đứa khác, gần đây có mới nới cũ, hắn
bỏ rơi hai đứa Hương Lân và Ngọc ái. Ngay cả Kim Vinh, trước cũng là bạn thân của
Tiết Bàn, nhưng từ khi có Hương Lân và Ngọc ái, thì nó bỏ ngay Kim Vinh. Gần
đây Hương Lân và Ngọc ái cũng lại bị nó bỏ rơi nốt, nên Giả Thụy không có ai
cưu mang. Giả Thụy không oán Tiết Bàn có mới nới cũ, lại oán Hương Lân và Ngọc
ái không biết chiều chuộng Tiết Bàn, vì thế cả Giả Thụy lẫn Kim Vinh đều ghét sẵn
hai đứa này. Nay thấy Tần Chung và Hương Lân đến thưa Kim Vinh, Giả Thụy trong
bụng cũng khó chịu, nhưng không dám mắng Tần Chung, mà lại quở trách Hương Lân,
cho là hay sinh sự. Thành ra Hương Lân tiu nghỉu, Tần Chung cũng bẽn lẽn, đều
đi về chỗ ngồi.
Kim Vinh càng lên nước, đầu lắc lư, miệng tóp tép, nói nhiều
câu bâng quơ. Ngọc ái ngồi ở đằng xa nghe thấy, liền sinh chuyện cãi nhau. Kim
Vinh nhất quyết nói:
- Vừa rồi chính mắt tao trông thấy hai đứa hôn và sờ đít nhau
ở đằng sau nhà, chúng nó bàn tán nhau định giở trò ma quái...
Bấy giờ Kim Vinh đắc ý nói bừa, không còn để ý đến ai nữa. Ngờ
đâu lại làm cho một người phát bực lên, người ấy là ai? Chính là Giả Tường,
hàng chút ngành trưởng bên phủ Ninh, cha mẹ mất sớm, từ bé đến ở với Giả Trân,
nay đã mười sáu tuổi dáng người thanh tú, hơn cả Giả Dung. Hai người ở với nhau
rất thân. Trong phủ Ninh, nhiều người lắm miệng, nên có những đứa đầy tớ không
vừa lòng, hay đặt đều nói xấu chủ. Nhiều chuyện phao đồn nhảm nhí đến tai Giả
Trân. Muốn tránh sự hiềm nghi, Giả Trân đã chia nhà cho Giả Tường ra ở riêng
ngoài phủ Ninh.
Giả Tường đẹp trai, lại thông minh. Gọi là đi học để che mắt
đời chứ hắn vẫn thích chó săn gà chọi, hỏi liễu tìm hoa. Trên có Giả Trân quá
yêu, dưới có Giả Dung che chở, nên khắp trong họ không ai dám trái ý hắn. Hắn vốn
chơi thân với Giả Dung, nay thấy người ta khinh rẻ Tần Chung, thì khi nào lại
chịu nhịn? “Ta phải đứng lên dẹp sự bất bằng này!” Nhưng rồi hắn lại đắn đo
trong bụng: “Bọn Kim Vinh, Giả Thụy đều là bạn thân của Tiết Bàn, ta cũng đi lại
với chú Tiết. Nay nếu ra mặt bênh Tần Chung, tất nhiên chúng nó sẽ mách chú Tiết,
chẳng hóa ra tổn thương đến hòa khí hay sao? Nếu cứ lặng yên, thì tiếng xấu ầm
lên, mang tiếng cả lũ. Ta sao không dùng kế ngăn chặn ngay đi, vừa dập tắt được
tiếng xấu, lại không mất lòng ai?” Nghĩ xong hắn giả cách ra đằng sau đi tiểu,
lẳng lặng gọi thư đồng của Bảo Ngọc là Dính Yên đến cạnh, nói khích mấy câu.
Dính Yên là người hầu đắc lực nhất của Bảo Ngọc, nhưng còn trẻ
tuổi, không hiểu việc đời, xưa nay không có việc gì nó cũng còn nạt nộ người
ta, nay nghe thấy Giả Tường nói “Kim Vinh khinh rẻ Tần Chung, lại có cả cậu Bảo
Ngọc chúng mày cũng dính líu vào đó, nếu không cho nó biết tay, thì lần sau nó
còn láo nữa” Dính Yên bèn lập tức đi tìm ngay Kim Vinh. Nó không gọi ông Kim nữa,
mà gọi ngay “Họ Kim kia, mày là cái giống gì?” Giả Tường vội xỏ chân vào giày
làm bộ sắp sửa quần áo đi ra xem bóng mặt trời, nói: “Đến giờ rồi và nói với Giả
Thụy có việc xin về trước. Giả Thụy không dám ngăn lại, đành để cho hắn đi.
Dính Yên chạy đến nắm lấy Kim Vinh hỏi:
- Chúng tao có giở trò gì chăng nữa thì can gì đến mày miễn
là không đ... thằng cha mày thôi. Mày có giỏi ra đây chơi với ông Dính nhà mày!
Học trò cả trường đều ngơ ngác nhìn, Giả Thụy vội quát:
- Dính Yên không được nói bậy!
Kim Vinh giận tái mặt nói:
- Làm loạn à? Đồ nhãi con mà dám như thế, tao sẽ nói với chủ
mày.
Rồi hắn giật tay định quay sang đánh Bảo Ngọc và Tần Chung.
Bỗng vù một tiếng ở phía sau, không biết ai ném cái nghiên lại,
nhưng may không trúng vào người nào, lại tạt sang phía bàn của Giả Lam và Giả
Huân, là chắt họ gần bên phủ Vinh. Giả Huân lúc bé mồ côi cha, được mẹ nuông
chiều, ở trường chơi thân với Giả Lam, cùng ngồi học một chỗ. Giả Huân tuổi còn
nhỏ, nhưng chí rất to, bướng bỉnh không biết sợ ai. Hắn đang ngồi ở bàn, trông
thấy bạn bè Kim Vinh có ý giúp ngầm Kim Vinh, ném nghiên vào Dính Yên, nhưng lại
rơi vào trước mặt mình, cái nghiên vỡ tan, mực bắn tóe ra đầy quyển sách. Hắn
không chịu được bèn mắng:
- Quân chết đâm chết chém kia! Chúng bay định đánh hôi à!
Hắn cầm lấy cái nghiên định ném lại, Giả Lam không muốn sinh
chuyện, vội giằng lấy cái nghiên bảo:
Giả Huân không nhịn được, thấy cái nghiên đã bị giằng mất, vội
vớ ngay cái tráp ném sang bên kia. Nhưng vì người bé, sức yếu nên không đến
nơi, lại rơi ngay vào bàn của Bảo Ngọc và Tần Chung. “Choang” một tiếng, sách
giấy, bút nghiên đổ tung tóe cả trên bàn, làm vỡ chén nước của Bảo Ngọc, nước đổ
ra lênh láng.
Giả Huân nhảy ra, định đánh đứa ném nghiên. Bấy giờ Kim Vinh
tiện tay vớ ngay được cái gậy tre, múa tít lên. Phòng hẹp, người đông, tránh
sao khỏi đụng phải người! Dính Yên bị ngay một gậy, kêu ầm lên: “Các anh đứng
khoanh tay đấy à?” Bảo Ngọc còn một lũ hầu bé là Tảo Hồng, Sừ Dược, Mặc Vũ, ba
đứa này lẽ nào lại không hung lên. Chúng kêu ầm ĩ: “Đồ chó đẻ kia: Mày dám lấy
gậy đánh người ta à?” Mặc Vũ rút ngay cái then cửa, Tảo Hồng, Sừ Dược tay cầm
roi ngựa, xông vào như ong.
Giả Thụy vừa cản người này, vừa ngăn người kia, nhưng nào có
ai nghe. Đánh nhau túi bụi, bọn trẻ con thấy vậy có đứa xúm vào đánh hôi cho
vui, có đứa nhát gan thì lánh đi một chỗ, lại có đứa đứng lên bàn vỗ tay cười
và xúi thêm: “Đánh đi! Đánh đi!” Lúc bấy giờ cả trường sục lên như vạc nước
sôi.
Mấy người hầu lớn của Bảo Ngọc là bọn Lý Quí, nghe tiếng ồn
ào ở trong trường, vội chạy vào quát phải thôi và hỏi vì cớ gì? Bọn học trò đứa
nói thế nọ, đứa nói thế kia, mỗi đứa một phách. Lý Quí mắng Dính Yên một trận rồi
đuổi ra. Đầu Tần Chung đụng phải gậy Kim Vinh, toạc một miếng da. Bảo Ngọc lấy
vạt áo xoa cho Tần Chung. Thấy mọi người đã đứng yên, Bảo Ngọc bèn bảo Lý Quí:
- Dọn sách vở, mang ngựa lại đây, để ta về trình tôn sư!
Chúng ta bị người ta khinh rẻ quá. Không nói gì xa, riêng một việc giữ lễ phép,
đến nói với anh Thụy, thế mà anh ấy lại bảo chúng ta trái, để cho người khác mắng
chúng ta, lại xui người đánh Dính Yên. Cả Tần Chung cũng bị đánh toạc đầu. Như
thế còn học làm gì nữa? Dính Yên thấy người ta khinh nhờn ta, nó mới làm thế,
chi bằng về là xong chuyện.
Lý Quí khuyên can:
- Xin cậu đừng nóng. Tôn sư có việc về nhà, nay vì việc nhỏ
làm rác tai người, lại càng tỏ ra là mình vô lễ. Cứ ý tôi, cũng nên dàn xếp cho
xong, đừng làm phiền đến người. Việc này lỗi ở cậu Thụy cả. Tôn sư đi vắng, cậu
ấy là người đứng đầu trông nom trường này, ai làm việc gì cũng phải hỏi cậu ấy.
Ai có lỗi đáng đánh thì đánh, đáng phạt thì phạt, có lẽ nào để mặc cho họ lung
tung như thế?
Giả Thụy nói:
- Tôi đã mắng gạt đi, nhưng chẳng ai chịu nghe cả.
Lý Quí cười nói:
- Cậu giận tôi cũng cứ nói: vì ngày thường cậu ăn ở không được
đứng đắn, nên nói chẳng ai buồn nghe. Nếu trình tôn sư, ngay cậu cũng có lỗi,
sao cậu không thu xếp ngay cho xong đi.
Bảo Ngọc nói:
- Thu xếp cái gì? Ta phải về thôi!
Tần Chung khóc nói:
- Có Kim Vinh ở đây thì tôi nhất định phải về.
Bảo Ngọc nói:
- Tại sao thế? Người ta còn đến học nữa là chúng ta? Tôi phải
về trình đuổi Kim Vinh đi.
Lại hỏi Lý Quí:
- Kim Vinh là họ hàng của phòng nào?
Lý Quí nghĩ một lúc rồi thưa:
- Thôi đừng hỏi nữa. Nếu nói rõ họ hàng e tổn thương đến hòa
khí trong anh em.
Dính Yên ở ngoài nói chêm vào:
- Nó là cháu chị Hoàng, ở bên phủ Đông, chứ là cái hạng gì mà
cậy thế đến dọa nạt chúng ta! Cô nó là chị Hoàng chỉ biết tìm cách luồn lụy ton
hót mợ Hai Liễn để nhờ vả vay mượn. Hạng chủ nhà ấy tôi coi ra gì đâu.
Lý Quí vội thét mắng:
- Đồ chó con kia! Biết gì mà dám lai nhai nói bậy!
Bảo Ngọc cười nhạt:
- Ta cứ tưởng nó là họ hàng thế nào, chẳng hóa ra cháu gọi chị
Hoàng bằng cô. Để ta đến hỏi cô nó.
Nói xong, gọi Dính Yên đến thu xếp sách vở và định đi ngay.
Dính Yên chạy lại, đắc ý nói:
- Cậu không cần phải đi, để tôi đến bảo chị Hoàng là cụ cho gọi
đến, rồi thuê một cái xe lôi cổ chị ta về, cho cụ hỏi tội, như thế chẳng tiện
hay sao?
Lý Quí vội thét:
- Mày muốn chết à? Giờ hồn đấy, tao sẽ đánh mày trước, rồi về
trình ông và bà là việc này đều tại mày xui giục cậu Bảo cả! Tao muốn khuyên
ngăn cho êm đi, mày lại cứ bới chuyện ra. May làm ầm cả trường học, đã không
tìm cách dập tắt đi, lại còn định nhảy vào đống lửa à!
Dính Yên mới chịu im, không dám nói gì nữa.
Bấy giờ Giả Thụy sợ việc kéo dài thành to chuyện, thì bản
thân cũng không được yên, nên đành phải khúm núm đến xin nài Tần Chung và Bảo
Ngọc. Trước hai người không bằng lòng. Sau Bảo Ngọc nói:
- Bắt Kim Vinh đến tạ lỗi thì sẽ thôi không về trình nữa!
Lúc đầu Kim Vinh không chịu, sau Giả Thụy bắt buộc nó phải
xin lỗi, Lý Quí cũng khuyên bảo:
- Việc này do anh gây ra đầu tiên, nếu không chịu thế, thì
bao giờ xong chuyện.
Kim Vinh bị ép quá, đành phải vái Tần Chung một vái.
Nhưng Bảo Ngọc không nghe, bắt phải lạy. Giả Thụy chỉ muốn
cho yên chuyện nên lại khẽ bảo Kim Vinh:
- Tục ngữ có câu: “Dù tội giết người cũng đến rập đầu xin lỗi
là cùng”. Mày đã gây chuyện thì phải cố nhịn đi, đến rập đầu cho xong chuyện.
Kim Vinh không làm thế nào được đành phải đến lạy Tần Chung.
Chú thích:
Chú thích:
(1). Chữ trong kinh Thi: Du du lộc minh, thực dã chi bình. Lý
Quí không biết đọc sai nên mọi người mới cười.
(2). Long Dương quân: một bầy tôi rất được yêu đương của vua
nước Ngụy đời Chiến quốc. Về sau dùng điển này chỉ cái bệnh thích con trai hơn
con gái.
(3). Cũng như nói: học ngày đực ngày cái.
Hồi 10:
Kim quả phụ tham lợi chịu nhẫn nhục
Trương thái y xem bệnh nói gốc nguồn
Vì dựa vào người nhiều thế mạnh, và Giả Thụy bắt phải tạ lỗi,
nên Kim Vinh đành phải lạy tạ Tần Chung, bấy giờ Bảo Ngọc mới chịu thôi, không
sinh chuyện nữa. Tan học, Kim Vinh về nhà, càng nghĩ càng tức, lẩm bẩm: “Tần
Chung chỉ là em vợ Giả Dung, không phải là con cháu họ Giả, cũng đi học như ta
thôi. Chỉ vì nó thân với Bảo Ngọc, nên coi người bằng nửa con mắt. Nếu nó ăn ở
đứng đắn thì chẳng nói làm gì, nhưng thường ngày nó lại thậm thậm thụt thụt với
Bảo Ngọc, coi như ai cũng mù cả, không trông thấy gì. Nay nó lại đi chằng với đứa
khác, chọc vào mắt ta. Dù có gây chuyện, ta lại sợ gì?”
Mẹ Kim Vinh là họ Hồ, nghe con cảu nhảu một mình, bảo:
- Mày lại định sinh sự gì đấy? Tao phải nói khó mãi với cô
mày, cô mày lại tìm hết cách để nói với mợ Liễn bên phủ Tây, mày mới có chỗ học.
Nếu không nhờ người ta, thì nhà mình sức đâu mời được thầy? Vả chăng, ở bên ấy
cơm nước có sẵn, hai năm nay mày được học ở đấy, tao đỡ bao nhiêu tiền. Số tiền
bớt ra ấy, tao may thêm quần áo đẹp cho mày. Nếu mày không học ở bên ấy, thì biết
thế nào được cậu Tiết, mỗi năm được cậu ấy giúp nhà mình tới bảy tám mươi lạng
bạc? Nay mày lại muốn sinh sự thì liệu mày có tìm được chỗ nào học tốt như thế
không? Tao bảo cho mà biết, việc ấy khó hơn lên trời đấy! Mày muốn tốt thì đi
ngủ ngay đi cho xong chuyện!
Bấy giờ Kim Vinh mới chịu im, không nói nữa. Một lúc ngủ yên.
Hôm sau lại đi học như thường.
Cô của Kim Vinh là vợ Giả Hoàng. Giả Hoàng thuộc dòng chữ “ngọc”
trong chi trưởng họ Giả. Nhưng có phải cả họ nhà nào cũng được thịnh vượng như
phủ Ninh, phủ Vinh đâu? Điều đó chẳng cần phải nói. Vợ chồng Giả Hoàng có một
cơ nghiệp nho nhỏ thường hay đến thăm phủ Ninh và phủ Vinh, lại khéo chiều chuộng
Phượng Thư và Vưu thị, được họ giúp đỡ, mới có thể sinh sống qua ngày. Hôm ấy
trời tạnh ráo, rỗi việc, vợ Giả Hoàng mang theo một bà già, thuê xe về thăm chị
dâu và cháu.
Trong khi nói chuyện, mẹ Kim Vinh đem việc hôm qua xảy ra ở
trường học, từ đầu đến đuôi, kể cho vợ Giả Hoàng nghe. Vợ Giả Hoàng điên tiết
nói:
- Thằng nhãi Tần Chung kia là bà con với họ Giả, thì thằng
Vinh này không phải là họ hàng với họ Giả hay sao? Nó cậy thế vừa chứ? Vả lại
việc làm của nó có đẹp đẽ gì cho cam! Ngay đến Bảo Ngọc cũng không có phép như
thế. Để tôi sang phủ Đông nói chuyện với chị Trân và chị thằng Tần Chung, xem họ
phân giải ra sao?
Mẹ Kim Vinh nghe nói hoảng lên, vội vàng ngăn lại:
- Tôi buột miệng nói chuyện với cô đấy thôi, cô đừng sang kể
với người ta nữa. Phải trái thây kệ chúng nó. Nếu xảy ra chuyện gì thì cháu nó
còn ở yên bên ấy sao được? Sức nhà thì không những không mời được thầy, mà cả đến
tiền ăn uống chi dùng cho nó cũng tốn kém nhiều.
Vợ Giả Hoàng nói:
- Việc ấy không ngại. Để tôi sang nói xem sao.
Không nghe lời chị dâu, vợ Giả Hoàng cứ sai bà già gọi xe
sang phủ Ninh. Đến nơi, xuống xe trước cửa nách phía đông, vào gặp ngay Vưu thị.
Bấy giờ, vợ Giả Hoàng chưa dám tuôn nỗi bực dọc, chỉ vồn vã thăm hỏi, nói mấy
câu chuyện phiếm rồi hỏi:
- Hôm nay sao không thấy mợ Dung?
Vưu thị nói:
- Không biết cháu nó ra làm sao, mà hai tháng nay không thấy
kinh. Mời ông lang đến xem, lại bảo không phải là có tin mừng. Hai hôm nay, nó
cứ đến chiều là người mệt, mắt hoa, chuyện cũng không buồn nói, tôi bảo cháu:
“Không nên giữ lễ lắm, sớm tối không cần theo lệ đến thăm nom, phải tĩnh dưỡng
mới được. Họ hàng đến, đã có tôi; nếu các bậc bề trên có chê trách điều gì tôi
sẽ nói hộ”. Tôi dặn cả cháu Dung: “Không được quấy rầy nó. Không được làm nó tức
giận, để nó tĩnh dưỡng ít lâu cho khỏe. Nó cần gì thì cứ đến đây mà lấy, nếu chẳng
may có mệnh hệ nào mày phải lấy vợ khác, ta chắc rằng có đốt đuốc đi lùng khắp
thiên hạ cũng chẳng tìm đâu ra được người nết na như thế. Các bậc trên trong họ
không ai là không yêu quý cách cư xử của nó”. Vì nó mà bấy lâu nay tôi cứ lo lắng
không yên. Không ngờ sáng nay, em trai nó đến thăm, tính còn trẻ con, chưa biết
cân nhắc hay dở, thấy chị ốm, đáng lẽ có việc gì tức bực đến đâu cũng không nên
nói mới phải. Thế mà nó kể hết cả những chuyện đánh nhau ở trường, chẳng biết đứa
nào đến học nhờ mà dám bắt nạt nó, và nói cho chị nó nghe cả những câu chuyện bậy
bạ. Thím ơi, chắc thím cũng biết con dâu tôi bề ngoài thì nói cười vui vẻ lắm,
nhưng trong bụng hay suy nghĩ, hễ nghe thấy ai nói cái gì, nó cũng đắn đo đến
năm ba ngày mới thôi. Bệnh này là do nó nghĩ nhiều quá mà sinh ra. Nay nghe nói
có người khinh rẻ em nó, nó vừa buồn vừa tức; buồn vì bọn vô lại gây bè kéo
cánh, ăn không nói có, đâm người nọ chọc người kia; tức vì em mình hư hỏng
không chịu học, không chuyên tâm sách vở, lại làm ồn cả trường. Vì thế, nó bỏ cả
bữa cơm sáng. Tôi khuyên giải một hồi, lại dặn dò em nó mấy câu, bảo hãy sang
chơi với Bảo Ngọc ở phủ bên kia. Tôi lại trông cho nó ăn hết nửa bát yến sào rồi
mới về đây. Thím tính thế có sốt ruột không? Lại thêm bây giờ không có thầy thuốc
nào hay. Nghĩ đến bệnh nó lúc nào, là ruột tôi đau như kim châm. Thím có biết
ai chữa thuốc giỏi không?
Kim thị nghe vậy, bao nhiêu cơn tức giận ở nhà muốn đến cãi
nhau ngay với Tần thị đều bay đến tận nước Trảo Oa (1) hết cả. Lại nghe thấy Vưu
thị hỏi thầy thuốc hay, liền trả lời:
- Tôi không quen thầy thuốc nào, cứ bệnh tình mợ Cả như vậy,
chắc đâu không phải là có mang? Chị đừng nên cho chữa bậy kẻo oan gia đấy!
Vưu thị nói:
- Đúng thế.
Hai người đương nói chuyện, Giả Trân ở ngoài vào hỏi:
- Có phải thím Hoàng đấy không?
Kim thị đứng dậy chào. Giả Trân bảo Vưu thị:
- Mời thím Hoàng ở lại xơi cơm.
Nói xong, Giả Trân đi ra. Kim thị đến chuyến này, cốt nói cho
Tần thị biết là Tần Chung khinh rẻ cháu mình, nay biết Tần thị ốm, nên thôi
không nhắc đến nữa. Lại thấy vợ chồng Giả Trân đối đãi rất tử tế, Kim thị đổi
giận làm vui, nói chuyện phiếm một lúc rồi về.
Kim thị đi rồi. Giả Trân lại vào hỏi Vưu thị:
- Hôm nay thím ấy đến có việc gì?
Vưu thị đáp:
- Chẳng nói gì cả. Khi mới đến, trông có vẻ bực tức. Một lúc
sau tôi nói đến chuyện con dâu ốm, thì nét mặt thím ấy dần dần dịu đi. Ông có mời
ở lại ăn cơm, thím ấy nói thấy con dâu ốm như thế, không tiện ngồi lại, chỉ nói
dăm ba câu chuyện rồi đi, cũng không cầu cạnh việc gì cả. Con dâu mình ốm, ông
nên tìm đâu có thầy thuốc hay chữa chạy cho nó, đừng để nấn ná mà lỡ việc. Hiện
giờ một lũ thầy thuốc ở nhà này, không thể dùng được. Hễ người ta kể thế nào
thì họ theo thế mà nói dựa nói dẫm mấy câu cho có văn có vẻ. Bề ngoài ra bộ ân
cần chăm chỉ lắm, cứ ba bốn người luân phiên nhau xem mạch, một ngày ít ra cũng
xem đến bốn năm lần. Rồi họp nhau lại bàn tán kê đơn nhưng rồi cũng chẳng ăn
thua gì. Người bệnh thì một ngày phải bốn năm lần thay quần áo, đứng lên ngồi
xuống để tiếp ông lang, thực chẳng có ích gì.
Giả Trân nói:
- Con bé cũng lẩn thẩn lắm, việc gì phải thay quần áo luôn?
Nhỡ bị lạnh, bệnh nặng thêm thì làm thế nào? Bảo nó cứ mặc quần áo đẹp vào, có
đáng là mấy. Người nó là cần, dù mỗi ngày một bộ quần áo mới cũng chẳng sao.
Tôi đang định nói để bà biết: Vừa rồi Phùng Tử Anh lại thăm, thấy tôi buồn, ông
ta hỏi có việc gì. Tôi nói: “Có người con dâu đương ốm, không biết là bệnh hay
có tin mừng mà không tìm được thầy thuốc hay, chẳng hiểu có nguy hiểm không? Vì
thế tôi lo lắm.” Phùng Tử Anh nói: “Khi còn bé có một thầy học họ Trương tên Hữu
Sĩ, học rất rộng, lại giỏi nghề thuốc, đoán trước được sống chết. Năm nay vào
Kinh quyên cho con làm quan, hiện đương ở nhà ông ta.” Xem thế, bệnh nó may ra
gặp thầy gặp thuốc, cũng chưa biết chừng. Tôi đã sai người đưa danh thiếp đến mời.
Hôm nay muộn rồi, có thể là sáng mai ông ta mới đến. Phùng Tử Anh cũng nói về
nhà sẽ cố mời cho bằng được. Vậy chờ Trương tiên sinh đến sẽ hay.
Vưu thị nghe nói rất mừng, nhân nói:
- Ngày kia là sinh nhật ông ta, ông định làm thế nào?
Giả Trân nói:
- Tôi vừa mới đến thăm và mời ông về nhà để con cháu làm lễ mừng.
Ông nói: “Ta quen thanh tịnh đi rồi, không muốn về nhà huyên náo lắm. Gặp ngày
sinh nhật, con muốn ta về nhận lễ mừng của con cháu, chi bằng đem bản “Âm chất
văn”(2) mà ta đã chú thích, cho người viết lại tử tế rồi đưa đi in, so với việc
ta nhận lễ mừng thọ của con cháu còn quý gấp trăm lần. Ngày mai hay ngày kia,
con cháu các nơi đến, con nên tiếp đãi cẩn thận. Con không cần phải đến đây nữa,
và cũng không cần phải mang biếu ta cái gì. Nếu con còn thấy áy náy, thì nhân
tiện đây con lễ tạ mấy lễ, chứ hôm sau đừng mang người đến quấy rầy, ta không bằng
lòng đâu.” Ông đã dạy thế, ngày mai tôi không dám đến nữa. Hãy gọi Lai Thăng đến
đây, bảo nó sửa soạn tiệc rượu trong hai ngày.
Vưu thị gọi Giả Dung đến dặn:
- Con bảo Lai Thăng phải theo lệ sửa soạn tiệc rượn trong hai
ngày cho thật lịch sự. Con phải sang phủ Tây mời cụ, bà Cả, bà Hai và thím Liễn
sang chơi. Hôm nay cha con đã tìm được thầy thuốc hay, cho người đi mời rồi.
Ngày mai ông ta đến, con sẽ kể rõ bệnh tình vợ con cho ông ta nghe.
Giả Dung vâng lời đi ra, gặp đứa bé đi mời thầy thuốc ở nhà
Phùng Tử Anh về nói:
- Con vừa cầm danh thiếp của ông đến nhà họ Phùng mời ông
lang, ông lang bảo: “Việc này ông Phùng đã nói rồi, nhưng vì đi chơi cả ngày mới
về, tinh thần không được tỉnh táo, có đến cũng chưa xem mạch được. Cần phải
tĩnh dưỡng một đêm. Ngày mai sẽ lại”. Ông ấy lại nói: “Y học còn nông cạn, đáng
lẽ không dám nhận lời. Nhưng vì nể ông Phùng đã tiến cử với ông không đến không
tiện, nên nhờ con về trình trước với ông. Còn bức danh thiếp của ông thì không
dám nhận”. Ông ta đã trả lại cho con mang về(3). Vậy nhờ cậu trình ông hộ cho.
Giả Dung vào nhà trong trình với Giả Trân và Vưu thị, rồi đi
gọi Lai Thăng, bảo sửa soạn tiệc rượu trong hai ngày liền, Lai Thăng nhận lời
đi ngay.
Trưa hôm sau, người gác cửa vào trình: “Trương tiên sinh đã đến”.
Giả Trân mời vào trong nhà khách. Uống nước xong, bắt đầu câu chuyện.
Giả Trân nói:
- Hôm trước ông Phùng có cho biết tiên sinh học vấn và phẩm
cách hơn người, lại hiểu sâu về y học. Tiểu đệ xiết bao mến phục.
Trương nói:
- Vãn sinh là kẻ học trò quê mùa, hiểu biết nông cạn. Hôm qua
ông Phùng cho biết chỗ đại nhân đây khiêm nhường, tôn trọng kẻ sĩ, nay cho gọi
đến, vãn sinh không dám trái lệnh. Nhưng vì không có chút thực học, nghĩ càng
thêm hổ thẹn.
Giả Trân nói:
- Xin tiên sinh đừng quá khiêm tốn, vào xem mạch cho cháu, nhờ
bực cao minh, chúng tôi sẽ trút khỏi nỗi lo lắng trong lòng.
Giả Dung mời Trương vào nhà trong. Trông thấy Tần thị, Trương
quay lại hỏi:
- Đây là tôn phu nhân?
Giả Dung đáp:
- Thưa phải, mời tiên sinh ngồi chơi, để tôi kể những bệnh chứng
của nhà tôi, rồi tiên sinh hãy xem mạch, có được không?
Trương nói:
- Theo ý tôi, xem mạch trước đã, rồi hãy kể bệnh. Tôi mới đến
tôn phủ lần đầu, chưa biết bệnh tình tôn phu nhân ra sao, nhưng vì đã nhận lời
với ông Phùng, không đến không được. Nay xin bắt mạch trước xem tôi nói có đúng
hay không, rồi hãy kể cho biết bệnh tình của tôn phu nhân mấy lâu nay. Sau đó
chúng ta sẽ châm chước lập một phương thuốc, và dùng được hay không là tay cậu
quyết định.
Giả Dung nói:
- Tiên sinh thực là bực cao minh, tiếc không được gặp sớm.
Bây giờ nhờ tiên sinh xem mạch cho, chữa được hay không xin cho biết, để cha mẹ
tôi được yên lòng.
Bấy giờ bọn a hoàn mang gối đến, để Tần thị ngồi dựa vào đó rồi
vén áo lên, thò tay ra ngoài cho ông lang bắt mạch. Ông lang tự mình thở đều để
nhận rõ số chí(4).
Xem tay phải một lúc, rồi bắt sang tay trái. Xem xong rồi
nói: “Chúng ta ra ngoài”.
Giả Dung cùng ông lang ra nhà ngoài ngồi. Người hầu pha nước
bưng lên, Giả Dung nói:
- Mời tiên sinh xơi nước. - Sau đó bèn hỏi: - Tiên sinh xem bệnh
này có chữa được không?
Ông lang nói:
- Mạch “Thốn” bên tả thì trầm sác, “Quan” bên tả thì trầm phục;
“Thốn” bên hữu thì tế mà vô lực, “Quan” bên hữu thì hư mà vô thần. “Tả Thốn” trầm
sác là tâm khí hư mà sinh hỏa; “Tả Quan” trầm phục là can khí trệ mà huyết
khuy. “Hữu thốn” tế mà vô lực, là khí phận ở phế kinh rất hư; “Hữu Quan” hư mà
vô thần, là tỳ thổ bị can mộc khắc chế. Tâm khí hư mà sinh hỏa, tất sinh ra chứng
kinh nguyệt không đều, đêm không ngủ được. Can mà huyết khuy khí tuệ, thì dưới
mạng mỡ đau mà phát trướng, nguyệt tín đến chậm trong bụng phát nóng. Khí phận ở
phế kinh mà hư, thì đầu nặng mắt hoa, giờ dần, giờ mão thế nào cũng ra mồ hôi,
choáng váng như ngồi trong thuyền; Tù thổ mà bị can mộc khắc chế thì không muốn
ăn uống, tinh thần mỏi mệt, chân tay buồn bực. Theo tôi, mạch này phải có chứng
bệnh như thế mới đúng. Nếu bảo có tin mừng, thì tiểu đệ không dám nghe theo (5).
- Tiên sinh nói như thần vậy. Điều gì cũng đúng. Tôi không cần
phải kể thêm nữa. Mấy ông lang nhà này đến xem mạch, không ai nói được đúng như
thế; người nói không quan hệ gì; người thì bảo đến tiết đông chí là đáng lo.
Nhưng không ai nói được đúng như thế, mong tiên sinh chỉ bảo rõ cho.
Ông lang nói:
- Chứng bệnh của tôn phu nhân nhà ta mà đến nỗi này là bởi
các thầy để chậm quá! Nếu chữa ngay lúc mới hành kinh không đều, có lẽ bây giờ
đã khỏi rồi chả còn phải lo nữa. Cứ như tôi xem, thì bệnh còn ba phần có thể chữa
được. Dùng đơn thuốc của tôi, uống vào mà ngủ được, sẽ chắc thêm vài phần nữa.
Mạch này phải là người tâm tính cao cường, thông minh tột bực; nhưng thông minh
quá thường có việc không như ý, đã có nhiều việc không như ý, thì phải tư lự
quá độ. Bệnh này là do lo nghĩ, thành ra hại tỳ, can mộc vượng quá, nên kinh
nguyệt đến không đúng kỳ. Tôi xin hỏi: Tôn phu nhân nhà ta ít lâu nay, kinh kỳ
không ngắn quá, mà lại dài quá, có phải không?
Bà già nói:
- Kinh kỳ không bao giờ ngắn cả. Có khi kéo đến hai ba ngày,
hoặc đến mười ngày.
Ông lang nói:
- Phải rồi! Chính là gốc bệnh ở đấy. Nếu ngay từ đầu mà cho uống
thuốc dưỡng tâm điều kinh, thì đâu đến nỗi này! Bây giờ rõ là bệnh thủy khuy hỏa
vượng. Hãy uống thử thang thuốc này xem sao.
Rồi ông ta kê đơn đưa cho Giả Dung.
Ích khí dưỡng vinh bổ tỳ hòa can thang:
Nhân sâm hai đồng; bạch truật hai đồng; (thổ sao); Vân linh
ba đồng; Thục địa bốn đồng; Qui thân hai đồng; bạch thược hai đồng; Xuyên khung
một đồng năm phân; Hoàng kỳ ba đồng; Hương phụ mễ hai đồng; Thổ sài hồ tám
phân; hoài sơn dược hai đồng (sao); Chân a dao hai đồng (cáp phấn sao); Diên hồ
sách một đồng rưỡi (sao rượu); Chích thảo tám phân.
Thuốc dẫn dùng: Kiện liên tử, tám hột, bỏ ruột; Đại táo hai
quả.
Giả Dung xem xong nói:
- Tiên sinh thực là bậc cao minh. Xin cho biết bệnh này có
đáng lo ngại không?
Ông lang cười:
- Cậu rất sáng suốt, bệnh đến thế này, cũng đã quá lâu rồi. Uống
thuốc này vào còn nhờ ở “Mát tay” nữa. Theo tiểu đệ, mùa đông năm nay chưa việc
gì đâu. Qua tiết xuân phân, mới có thể mong khỏi hẳn được.
Giả Dung là người thông minh, cũng không hỏi thêm nữa.
Tiễn ông lang về rồi, Giả Dung đưa đơn thuốc, mạch án và kể lại
nhưng lời ông lang vừa nói cho Giả Trân và Vưu thị nghe. Vưu thị nói:
- Xưa nay các ông lang đều không ai nói được rành mạch như thế,
chắc ông ấy dùng thuốc không lầm.
Giả Trân cười nói:
- Ông ta không phải là hạng “Lang thang” kiếm ăn về nghề thuốc.
Vì nhà ta chơi thân với ông Phùng Tử Anh, mới mời được ông ấy, chứ có dễ dàng
đâu. Nhờ có ông ta, may ra con dâu ta khỏi bệnh. Trong đơn thuốc có kê nhân
sâm, hôm nọ nhà đã mua sẵn một cân, đem ra mà dùng.
Giả Dung nghe nói, mới cho người đi bốc thuốc sắc cho Tần thị
uống, chưa biết bệnh tình sau này ra sao.
Chú thích:
Chú thích:
(1). Tên một hải đảo ở ngoài Thái Bình Dương, người ta cho là
Java ngày nay. Ở đây ý nói cơn giận tan hết.
(2). Một thứ văn khuyên người làm phúc.
(3). Theo tục lệ cổ, người dưới nhận lời mời của người trên,
nếu có danh thiếp mời thì trả lại; tức là tỏ ý khiêm tốn, không dám tự coi là
ngang hàng.
(4). Chí: Theo phép xem mạch của đông y: mạch trung bình là một
hơi thở, mạch mổ bốn cái, không đủ bốn cái gọi là trì, quá bốn cái gọi là sác.
Vậy số chí là số mổ nhiều hay ít của mạch trong một hơi thở.
(5). Đây là những danh từ về mạch lý và y lý của đông y.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét