Lời giới thiệu
Trong lịch sử văn học Trung Quốc. Hồng Lâu Mộng có một vị trí
đặc biệt. Người Trung Hoa say mê đọc nó, bình luận về nó (1), sáng tác về nó đến
nỗi nói: “Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, Độc tận thi thư diệc uổng nhiên!”
(Mở miệng mà không nói Hồng Lâu Mộng thì đọc hết cả thi thư cũng vô ích!). Có một
ngành học chuyên nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng, gọi là Hồng học; gần đây nhất vẫn
thấy Trung Quốc in chuyên san “Hồng Lâu Mộng nghiên cứu”. - Có lẽ trên thế giới
chỉ có Shakespeare là có một vinh dự lớn lao như thế, vì có “Shakespeare học”.
Cái gì làm người Trung Quốc say Hồng lâu mộng “như điếu đổ” vậy? Trước hết, đó
là do tác phẩm đáp ứng những nhu cầu sâu xa của thời đại. Thời nhà Thanh, dưới
thời các hoàng đế Ung Chính, Càn Long (1723 - 1795) là thời kinh tế phồn vinh,
chẳng những công nghiệp, thủ công nghiệp, mà cả khai thác mỏ, thương nghiệp...cũng
phát triển mạnh mẽ. Các thành thị lớn như Nam Kinh, Dương Châu, Võ Xương, Nhạc
Châu... buôn bán, sản xuất sầm uất là những đô thị lớn. Chỉ kể một thị trấn như
Thanh Giang bên bờ Vận Hà thôi mà thời đó đã có hơn nửa triệu dân! Nền kinh tế
tự phát tư bản chủ nghĩa đó trong lòng xã hội phong kiến chuyên chế mọt ruỗng
và đang trên đà tan rã, đã đẻ ra một tầng lớp người thành thị, những người này
có những nhu cầu thẩm mỹ mới. Tây Sương Ký, Mẫu đơn đình, Cổ kim tiểu thuyết,
Liêu Trai... là những tác phẩm tả tình yêu, những số phận, những buồn vui cá
nhân..., chính là sự “thăng hoa” của cuộc sống đã bắt đầu khác trước về chất của
người thành thị. Hồng lâu mộng là sự thể hiện những tư tưởng của thời đại: tinh
thần dân chủ, tinh thần phê phán đời sống xã hội phong kiến mục nát, phê phán
những giáo điều truyền thống đã ăn sâu bén rễ hàng ngàn năm, đòi tự do yêu
đương, giải phóng cá tính, đòi tự do bình đẳng, khát khao một lý tưởng cho cuộc
sống... Tất cả những cái đó có những mặt kế thừa tư tưởng dân chủ thời Minh và đầu
Thanh, nhưng nó chính là sản phẩm của ý thức tư tưởng thị dân đương thời. Giữa
những khát vọng sâu xa ấy của con người thời đại và sự biểu hiện nó ra một cách
nghệ thuật, đã có một cuộc hẹn hò tuyệt diệu qua Hồng Lâu Mộng.
Tác giả chính của Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần 1716(?) -
1763(?) giống như phần lớn các nhà văn lớn Trung Hoa trong lịch sử, viết văn là
để giải tỏa nỗi niềm “cô phẫn”, là để ký thác những suy tư về con người và thời
đại. Ông vốn sinh ra trong một gia đình đại quý tộc. Từ đời tằng tổ đến đời
cha, thay nhau tập chức “Giang ninh chức tạo” là một chức quan to thu thuế. Năm
lần vua Khang Hy tuần du phương Nam thì bốn lần ở lại nhà họ Tào, đủ biết sự sủng
ái của nhà vua với gia đình ông ra sao! Và cũng có thể đoán biết cuộc sống
trong phú Giang hồi đó xa hoa, vương giá như thế nào! Trong Hồng Lâu Mộng,
Nguyên phi về thăm nhà có một buổi mà nhái xây cất bao nhiêu đình tạ trong vườn
Đại quan, nữa là hoàng đế tuần du ngự đến nhà. Nhà ông chăng những là hào môn vọng
tộc hiển hách như thế, lại còn có truyền thống văn chương. Ông nội ông, Tào Dần,
đứng in bộ "Toàn Đường Thi trứ danh, và là một nhà thơ, tác giả "Luyện
đình thi sao”. Nhưng cuộc sống vàng son đó của gia đình ông đã trôi qua, đã tan
vỡ. Lúc Tào Tuyết Cần lớn lên thì tất cả đã ở đằng sau rồi: cha bị khép tội, bị
cách chức, bị tịch biên gia sán, nhà họ Tào suy sụp và ông phải về sống ờ vùng
ngoại ô phía tây thành Bắc Kinh trong cảnh: “cả nhà rau cháo, ruợu thường mua
chịu”. Hồng Lâu Mộng do đó có thể xem là phản quang những hồi ức của Tào Tuyết
Cần về cuộc sống quý tộc đã tan vỡ đó. Một mặt, đó là sự nhớ tiếc khôn nguôi những
huy hoàng của vàng son lộng lẫy, cảm thấy tất cả nhuốm màu thê lương, hư vô, tất
cả đều xê dịch về phía bế tắc, hủy diệt, tất cả đều đáng ân hận, và chỉ có thể
cứu chuộc bằng Hư Vô, bằng siêu hình, bằng tôn giáo! Nhưng mặt khác, từ trong
cuộc sống nghèo khó hôm nay, quay đầu nhìn lại thì cái khoảng cách lớn lao đó
làm cho ông thấy được rõ hơn, khách quan hơn, bình tĩnh hơn những gì ông đã thấy,
đã nếm trái về cuộc sống thối nát của giai cấp quý tộc và sự miêu tả khách quan
"những quan hệ hiện thực” này làm ông trở thành một nhà hiện thực. Chí ít
thì về mặt đó, ông đã lay chuyến được "niềm lạc quan về cái trật tự hiện tồn",
và như thế, ông là sản phẩm của một thời đại, đồng thời đã nhìn xa hơn thời đại.
Tào Tuyết Cần đề 10 năng dế viết 80 hồi đầu, Hồng Lâu Mộng: “Xem ra chữ toàn bằng
huyết, cay đắng mười năm khéo lạ lùng”; năm lần sửa chửa, trong cảnh cùng khốn,
ốm đau không tiền chạy thuốc, trong cánh đứa con yếu của ông chết. Và ông đã
lìa đời trong cảnh đau khố dồn dập đó. Bình sinh, ông vẽ giỏi, hay thơ, thích
rượu, cuồng phong. Người ta chỉ biết được về ông có thế thôi! Hai mươi tám năm
sau khi ông mất, Cao Ngạc viết tiếp 40 hồi, đến khoáng 1792 - 1793 thì Hồng Lâu
Mộng được in và lưu truyền khắp trung Quốc. Những hồi Cao Ngạc viết tiếp thì
không thể hay bằng những hồi Tào Tuyết Cần viết, nhưng cũng phải nói là Cao Ngạc
đã sống với tác phẩm và tri âm tác giả, nên đã hoàn thành dự định của Tào Tuyết
Cần và nối tiếp bút lực của người đi trước, hoàn thành và bộc lộ trọn vẹn tư tưởng
của tác phẩm, khiến cho tác phẩm vẫn giữ được vẻ hấp dẫn mãnh liệt. (2)
BI KỊCH TÌNH YÊU VÀ Ý NGHĨA TÌNH YÊU TRONG HỒNG LÂU MỘNG
Câu chuyện tình giữa Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc xuyên suốt
qua toàn bộ tác phẩm, làm nên chủ đề chính của cuốn tiểu thuyết vĩ đại này. Giả
Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc, hai anh em cô cậu ruột, cùng ở chung một nhà từ bé; lớn
lên, vì Bảo Ngọc được bà nội nuông chiều, riêng cho ở trong vườn Đại quan cùng
với đám “quần thoa”, nên anh ta và Đại Ngọc gần gũi nhau. Nhưng đây không phải
là câu chuyện “lửa gần rơm...”. Đây cũng không phải chỉ là câu chuyện “tài tử
giai nhân là nợ sẵn”. Tình yêu của họ còn có nguyên cớ sâu xa hơn nhiều; họ nói
như Saint Exupéry: “Yêu nhau không phải là nhìn nhau mà là cùng nhìn về một hướng”,
nghĩa là họ “đồng điệu”, “tri âm” lẫn nhau trên những vấn đề có ý nghĩa cuộc sống.
Nói cho đúng, lúc đầu Bảo Ngọc cũng còn có chút phân vân. Anh ta sống giữa đám
a hoàn nhan sắc, những Tập nhân, Tình văn... những người này là những phụ nữ xuất
thân từ tầng lớp dưới, được họ Giả mua về hầu hạ, nhưng đó là những người có
tình, có phẩm chất tốt đẹp. Họ chính là mót bức màn ngăn bụi trần của phủ Vinh
quốc đầy dẫy những hạng đàn ông ô trọc. Bảo Ngọc cảm nhận được thực chất vị
tha, quên mình đầy dịu dàng của họ, anh ta như một người được vây bọc bởi sự tận
tụy, thương yêu... của những nữ tỳ - đồng thời cũng là “nữ thần” này. Do đó
không lạ gì mà Bảo Ngọc đã nêu lên cái “nguyên lý nữ tính” rất xa lạ với tư tưởng
“trọng nam khinh nữ” của xã hội phong kiến: “Xương thịt con gái là nước kết
thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, thấy con
trai thì như bị phải hơi dơ bấn”.
Trong phủ Giả lúc đó còn có cô em họ Tiết Bảo Thoa ở nhờ. Bảo
Thoa đẹp, đức hạnh, nết na theo đúng nếp nhà phong kiến. Bảo Ngọc cũng mến Bảo
Thoa, gần nàng, anh chàng đôi lúc cũng thấy xiêu xiêu, quả có như lời Lâm Đại
Ngọc “gần cô chị thì quên khuấy cô em”! Nhưng rồi dần dần, Bảo Ngọc chỉ yêu có
Đại Ngọc thôi. Đại Ngọc kiều diễm, yếu đuối, là một tâm hồn dễ cám xúc, một tâm
hồn nhạy cảm và phong phú - đó là một tâm hồn thơ đích thực; và đó là điều mà họ
gặp nhau. Quan trọng hơn, là trong khi cả nhà chờ mong Bảo Ngọc học giỏi thi đỗ,
làm quan giữ nếp nhà…, thì Bảo Ngọc lại chán ngấy cái con đường mòn nhàm chán
đó, và người hiểu anh duy nhất là Đại Ngọc. Bảo Ngọc, chàng trai được nhốt
trong cái lồng kính quý tộc đầy cao lương gấm vóc, anh ta được người ta dùng
gia giáo, thi giáo, lễ pháp... để ràng buộc theo con đuờng vạch sẵn. Giả Bảo Ngọc
bị mất tự do, và anh ta cảm thấy sâu sắc điều đó, nên lúc nào anh ta cũng vùng
vẫy tìm lối thoát, tìm cách phán kháng lại. Như một con chim khao khát trời
xanh rộng lớn bị nhốt vào cái lồng vàng chật hẹp, Giả Bảo Ngọc sống không yên ổn.
Anh lục lọi sách vở, đi vào triết học cổ, đi vào “tham thiền ngộ đạo” …nhưng những
cái đó không cung cấp được cho anh một vũ khí tư tưởng nào để tự giải phóng! Mà
thực ra, thì anh cũng lẩn quẩn, loanh quanh; anh ta là một sản phẩm đầy mâu thuẫn
của một xã hội cũng đang chứa đầy mâu thuẫn, một xã hội đang tìm lối ra nhưng
không có lối ra. Rốt cuộc, anh ta tỏ thái độ hoài nghi những gì “thánh hiền” đã
viết, đã soạn, cho đó là “soạn bậy”, là “bịa”, là “nói tầm bậy”. Đối với đạo đức
phong kiến mà cái cao nhất là “tôi trung con hiếu”, “sát thân thành nhân”, anh
ta dám nói những lời “cách mệnh”: “Nhũng bọn mày râu dơ bẩn, chỉ biết “quan văn
chết vì lời can gián, quan võ chết vì đánh giặc”, là hai cái chết của kẻ đại
trượng phu, thành ra chỉ làm rối lên, nào có biết đâu có vua ngu mới có bầy tôi
chết vì lời can gián; chỉ lo ra công đánh giặc, liều mình hy sinh, tương lai sẽ
bỏ nước cho ai. Thật là lời lẽ của ké “đại nghịch vô đạo”. Tất nhiên, nói cho
công bằng, đó là một đôi ý nghĩ đột xuất của anh chàng này, còn như bình thường,
anh ta vẫn phải nép mình trong lồng cũi tuân phục “di huấn thánh nhân”.
Trong hoàn cánh đó, Lâm Đại Ngọc đã đến. Họ đã đến với nhau
không dễ dàng. Đại Ngọc vì gia cảnh đến ở nhờ trong phủ họ Giả, tuy là cháu ngoại
đấy, nhưng vẫn bị Giá mẫu xem là “người ngoài”: “nữ nhân ngoại tộc”. Cái mặc cảm
“ăn bám ở nhờ” luôn luôn làm nàng đau khổ - nàng vốn là người nhiều tự ái là
người nhạy cảm, khó hòa hợp với chung quanh và do đó cô đơn. Tình cảnh của nàng
còn bi đát hơn Bảo Ngọc nhiều, vì nàng là con gái, là phận ở nhờ, mà trong cái
xã hội ghê khiếp ấy, thì nàng chẳng là cái gì cả, nàng chỉ là một cánh bèo dạt,
một cánh hoa rơi! Cho nên nàng thương hoa, khóc hoa, chôn hoa, cho nên nàng
luôn buồn thương vô hạn. Tâm hồn nàng như một sợi tơ đàn mảnh mai, bất kể một
giọt mưa thu hay tơ liễu bay đều âm vang một điệu buồn đứt ruột! Cái yếu đuối, cái
“đa sầu đa cảm” của nàng cũng là một nét tính cách riêng nhưng xuất phát từ những
điều kiện của thời đại. Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc đã đến với nhau như thế và
đã đến với nhau rồi, hiểu lòng nhau rồi, họ vẫn sống những ngày tháng không
yên. Trong tình yêu này, họ chưa được hưởng bao nhiêu hạnh phúc; chưa nếm mật
ngọt tình yêu, họ đã linh cảm thấy mật đắng của đời! Họ luôn luôn bị bủa vây
trong trùng điệp của mạng lưới phong kiến. Họ không phải là người quyết định được
tình yêu của mình. Cuối cùng, Giả mẫu và bọn phu nhân trong phu họ Giả đã quyết
định! Họ đã chọn Tiết Bảo Thoa cho Bảo Ngọc. Và một khi đã chọn, họ đã nhẫn tâm
theo kế “đánh tráo” của Phượng Thư. Bảo Ngọc cứ yên trí là “cưới em Lâm”, hóa
ra lúc giở khăn che mặt, lại là Bảo Thoa; Bảo Ngọc lúc bấy giờ mới bật ngửa, mà
Lâm Đại Ngọc thì sau cơn ốm nặng, đã chết trong niềm đau đớn, oán hận bằng đốt
thơ, đốt khăn tặng trong lúc cả nhà mừng đám cuởí của người mình yêu! Kết thúc
tấn bi kịch này, Bảo Ngọc trốn nhà đi tu; và Bảo Thoa làm một người góa phụ trẻ
đau khổ.
Hồng Lâu Mộng không những đã đưa lại một nội dung mới mang ý
nghĩa thời đại; nó còn làm được một việc vĩ đại nữa là đổi mới thi pháp tiểu
thuyết Trung Quốc. Lỗ Tấn nói: “Từ khi Hồng Lâu Mộng ra đời, tư tưởng và cách
viết truyền thống đã bị phá vỡ”. Tiểu thuyết Trung Quốc trước đây, chủ yếu là
tiểu thuyết chương hồi như Tam quốc, Thủy hử, Tây du... thiên về mô tả hành động,
miêu tả hoạt động bên ngoài và lời nói của nhân vật. Con người trong những tiểu
thuyết đó, sản phẩm của một nền kinh tế nông nghiệp mang tính chất phương thức
sản xuất châu Á, có bề giản đơn, nhất quán trong một tính cách, rạch ròi trung,
nịnh đôi đường. Những truyện ngắn “truyền kỳ”, những truyện ngắn trong Liêu
Trai đã bắt đầu thấm đẫm màu sắc con người thị dân với những khát vọng nồng nhiệt
hơn, phức tạp hơn nhưng vẫn chứa có một thi pháp tiểu thuyết thực sự phản ánh một
cách nhìn mới về con người. Hồng Lâu Mộng đã làm được việc đó. Dĩ nhiên là
trong những hạn chế gay gắt của thời đại. Dù cho có những nhân tố tư bản chủ
nghĩa, nhân tố kinh tề hàng hóa, thị trường, thành phố, thị dân... xã hội Trung
Quốc vẫn là xã hội phong kiến, và cái con người “mới” mà người ta chờ đợi đó đã
xuất hiện chưa hoàn chỉnh; thi pháp tiểu thuyết trong Hồng Lâu Mộng đã mang một
số nhân tố mới của tiểu thuyết cận đại phương Tây, nhưng nó không thể đi xa hơn
nũa. Nó vẫn còn bị giam mình trong cái khung tiểu thuyết chương hồi truyền thống,
lấy “kể việc” làm phương tiện chủ yếu khám phá của con người. Nhưng, xét cho kỹ
thì phải ghi nhận những yếu tố mới ở Hồng Lâu Mộng là rất có ý nghĩa. Trước hết,
đó là cách nhìn con người trong sự phát triển đầy mâu thuẫn, sự phát triển biện
chứng, có chiều sâu đầy kịch tính. Số phận và tính cách của Bảo Ngọc đã được
tác giả miêu tả không đơn giản. Đó là mâu thuẫn gĩưa khát vọng tự do và sự ràng
buộc nặng nề của gia đình và xã hội phong kiến. Đó là tình yêu chân thành và
quý báu như chính sinh mệnh của anh ta và lạ thay, anh ta hầu như chẳng làm được
gì, chẳng chiến đấu dũng manh gì để đoạt lấy hạnh phúc! Mọi việc gần như đã phó
mặc! Trước khi chết, Lâm Đại Ngọc oán giận, đau buồn đốt khăn tặng, đốt tập
thơ..., không phải là không có lý! Anh ta chưa bao giờ xứng đáng là một trang
“tu mi nam tử” có lý tưởng, kiên định! Vấp phải những mâu thuẫn nghiệt ngã của
thời đại, anh ta sinh ra đau thần kinh, mắc chứng “ngây”, cứ cười hì hì suốt
ngày. Điều đó càng đẩy sâu anh ta vào bi kịch. Cuối cùng giải pháp “đi tu” - phản
ánh sự từ chối, sự phản kháng dầu yếu ớt - đã được anh ta chọn lựa. Đi thi và
thi đỗ cao để an ủi gia dình, rồi bó trốn đi tu, Bảo Ngọc đã đi hết sự phát triển
tính cách một cách hợp lý và quả là qua số phận anh ta, như một số nhà nghiên cứu
nhận định, có sự gởi gắm, có sự thể hiện một phần nào bản thân tác giả. Đó đúng
là một số phận tiểu thuyết theo ý nghĩa hiện đại của từ này.
Lâm Đại Ngọc là một tính cách thú vị khác. Nàng yêu Bảo Ngọc,
nhưng do thân phận của nàng, mỗi khi Bảo Ngọc ngỏ lời là nàng lại giận hờn, buồn
tủi, làm ra vẻ cự tuyệt... “Bảo Ngọc cười nói: - Tôi là người nhiều sầu, nhiều
bệnh, cô là trang nghiêng nước nghiêng thành.(3) Đại Ngọc nghe thấy câu ấy, mặt
và tai đỏ bừng lên, lập tức dựng ngược lông mày, như cau lại mà không phải là
cau, trố hai con mắt, như trợn mà không phải trợn. Má đào nổi giận, mặt phấn ngậm
hờn, trỏ vào mặt Bảo Ngọc: - Anh nói bậy, muốn chết đấy! Dám đem nhũng lời lẳng
lơ suồng sã lăng nhăng để khinh nhờn tôi! Tôi về mách cậu mợ đấy”. (tập I) Điều
đó làm cho nàng trở nên đáng yêu và tội nghiệp, làm cho nàng trở nên nhiều nữ
tính hơn. Không một nét giả dối, nàng là một nhân vật đã hiện ra với chiều sâu
tâm lý đa dạng, được bộc lộ qua tình yêu, qua những quan hệ khác. Phút cuối
cùng nàng nghe nói Bảo Ngọc sắp lấy vợ, và người được chọn sẽ là người trong phủ,
nàng chắc mẫm người đó sẽ là mình, chứa chan hy vọng, và từ đau buồn tuyệt vọng,
trong ốm đau, nàng trở lại sống linh hoạt, tươi đẹp... Ai hay đó là phút nàng ở
gần sự kết thúc nhất. Những cảnh như vậy làm cho nhân vật thực, gần gũi, phong
phú, hấp dẫn... và về mặt soi rọi tâm lý nhân vật, đã đạt đến trình độ của
nhân vật tiểu thuyết hiện đại. Hồng Lâu Mộng có tất cá 235 nhân vật đàn ông,
213 nhân vật dàn bà (một khối lượng nhân vật khổng lồ! - trong Chiến tranh và
hòa bình có chừng 500 nhân vật). Làm chủ chừng ấy nhân vật, miêu tả, cá tính
hóa họ một cách có hiệu quả là một sáng tạo phi thường. Trong số đó, nổi bật
lên sự mô tả và xây dựng nhân vật Tiết Bảo Thoa. Tiết Bảo Thoa là một tính cách
gần như đối nghịch với Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo Ngọc; chính những nhân vật trong Hồng
Lâu Mộng đã phát triển trong sự đối nghịch như vậy, làm cho cuốn tiểu thuyết có
nhiều gương mặt, nhiều hợp âm. Tiết Bảo Thoa là một nhân vật phụ nữ lý tính.
Nàng còn ít tuổi mà đầy bản lĩnh, ở nàng tất cả đều đúng mực, hợp lý, lô-gích,
nàng là hiện thân của nguyên lý đạo đức phong kiến. Bao giờ nàng cũng là một
người con gái sống cho gia đình, sống cho ý định người khác - và ý định đó luôn
được nàng chấp nhận vì đó cũng chính là của nàng. Sự hòa hợp giữa nàng và gia
pháp phong kiến là điều hoàn toàn tự nguyện. Nàng là người có học, xem nhiều
sách, biết làm thơ, nhưng hãy nghe nàng tâm sự (cũng là răn đe Đại Ngọc): “Bọn
con gái chúng ta không biết chữ càng tốt... Ngay đến cả việc làm thơ, viết chữ
đã không phải là phận sự chị em mình, mà cũng không phải phận sự của bọn con
trai nữa. Người con trai đọc sách nhiều phải hiểu nghĩa lý để ra giúp dân trị
nước mới đúng...”(tập III). Với Bảo Ngọc, một người không yêu nàng, nhưng nàng
theo sự sắp đặt của bề trên, lấy Bảo Ngọc không một chút tự ái; nàng làm bổn phận
của người vợ, khuyên giải chồng, “lý sự” với chồng: “... chứ bây giờ gặp đến
vua thánh, nhà ta mấy đời đội ơn triều đình, cha ông được hưởng biết bao sung
sướng...”(tập IV). Nếu nói “bản chất” và “bản lĩnh” giai cấp thì quả nàng là hiện
thân của giai cấp. Nàng có ác không? Có. Khi con hầu Kim Xuyến nhảy xuống giếng
tự tử, Vương phu nhân cảm thấy lương tâm cắn rứt, nhưng nàng thì không, nàng
tươi cười, an ủi đổ lỗi cho Kim Xuyến và nói: “Dì cũng chẳng nên lo lắng buồn
bã làm gì, chỉ cần cho vài lạng bạc làm ma cho nó là trọn tình chủ tớ rồi”.
Nàng có giả dối không? Có. Nàng đã bày kế “ve sầu lột xác” để đánh lừa bọn con
hầu, tránh điều bất lợi cho mình. Bảo Thoa lúc nào cũng tỉnh táo, cũng lắm mẹo!
Nhưng nàng có đáng thương không? Nàng ít nhiều cũng yêu Giả Bảo Ngọc mà tự kiềm
chế, và cuối cùng, với tất cả sức lực và nghị lực, với tất cả sự chân tình,
nàng muốn có hạnh phúc trong cuộc sống phong kiến với Bảo Ngọc, nhưng rốt cuộc
nàng cũng trở thành một nhân vật bi kịch. Bi kịch của nàng là bi kịch của một
người trung thành với đạo đức phong kiến. Gần với tính cách của Tiết Bảo Thoa
là Vương Hy Phượng. Đó cũng là một nhân vật nữ hết sức đặc sắc nữa. Những nhân
vật như thế làm chúng ta nhớ nhiều đến Hoạn Thư của Nguyễn Du. Đó là sự miêu tả
trung thành với bản chất củaa hiện thực, bản chất của những mối quan hệ phong
kiến, đồng thời nó là một sự cá tính hóa hết sức sâu sắc. Ngoài ra con biết bao
nhiêu nhân vật đáng lưu ý nữa trong cái thế giới bao la của Hồng Lâu Mộng. Dường
như đó là cả một nhân loại: trong đó có hàng trăm số phận, và mỗi số phận đưa đến
cho chúng ta một mảnh đời, một suy nghĩ về nhân thế. Nhà lý luận tiểu thuyết nổi
tiếng Bakhtin có nói rằng nhân vật tiểu thuyết phải có phần “dư thừa nhân
tính”. Có nghĩa là nhân vật, ngoài vai trò xã hội (đẳng cấp, nghề nghiệp) phải
có cái phần dư thừa nhân tính, cái phần nhu cầu nhân tính, cái phần cá tính tự
do mà tấm áo xã hội không chứa đựng hết.
Nhân vật của Hồng Lâu Mộng vừa là giai cấp xã hội vừa là những
nhân vật mang tính người, tính toàn nhân loại, ở trong họ có cái phần “người”
và những nhân vật như vậy bao giờ cũng là một phát hiện, có sức hấp dẫn rất mạnh.
* Hồng Lâu Mộng là cả một thế giới. Thông qua cuộc sống từ thịnh đến suy của một
gia đình quý tộc, tác giả đã làm hiển hiện sự băng hoại của xã hội phong kiến,
của nhân tính phong kiến, đã cho ta thấy một xã hội như thế là không phương cứu
chữa! Không phải chỉ vì bọn người ấy sống trên áp bức và bóc lột địa tô, mà cái
chính là cuộc sống trống rỗng của bọn họ; ngày và đêm trong cái phủ họ Giả ấy
chỉ toàn là những chuyện giành giật, lừa gạt, dâm dật, tự tử, tội ác... Một vài
khuôn mặt lương thiện - trong đó khá nhiều là thuộc tầng lớp dưới, như già Lưu,
như Tập Nhân... không cứu nỗi sự sụp đỗ tất yếu của nó. Hồng Lâu Mộng đã đưa đến
cho người đọc những hiểu biết sâu xa về xã hội và về con người với một cách viết
chân thực, giản dị mà bao gồm nhiều bút pháp lớn kim cổ. Nó là một cuốn bách
khoa sinh động về xã hội Trung Quốc thời xưa. Về mặt thi pháp nghệ thuật, thì
đó là một bước tiến mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của thế giới. Hồng Lâu Mộng
xứng đáng đứng ngang với các kiệt tác của nhân loại.
25/10/1988
Mai Quốc Liên
Chú thích:
(1). Theo thống kê có đến 900 loại.
(2). Cao Ngạc (? - ?) tự Lan Thự, tác giả 40 hồi sau Hồng Lâu
Mộng và Lan Thu thi sao, Lan Thự văn tồn, Nghiễn hương từ... tự Vân Sĩ, biệt hiệu
Hồng Lâu ngoại sĩ (Hồng Lâu Mộng vốn tên Thạch đầu ký. Có lẽ Cao Ngạc là người
đặt tên nó là Hồng Lâu Mộng). Làm quan dưới triều Kiền Long, Gia Khánh, trải
các chức Nội các thị tộc, Hình khoa cấp sự trung, Nhập tịch Mãn Thanh (Kỳ quán
“nhương hoàng” - màu vàng pha).
(3). Dùng chữ trong Tây sương ký.
Tài liệu tham khảo chính:
- Lịch Sử Văn học Trung Quốc (Nguyên - Minh - Thanh). Sở
nghiên cứu Văn học thuộc Viện Khoa Học Trung Quốc, Bắc Kinh, 1962. Bản dịch Nhà
xuất bản Văn học, Hà Nội, 1964.
- Bùi Kỷ; Lời giới thiệu, Hồng lâu mộng tập 1. Nhà xuất bản
Văn hóa. Hà Nội, 1962.
- Tào Tuyết Cần dữ Hồng lâu mộng. Hồng lâu mộng, quyển thượng.
Thế giới thư cục, Singapore, 1973.
Hồi 1:
Chân Sĩ Ẩn trong mộng ảo biết đá thiêng;
Giả Vũ Thôn lúc phong trần mơ người đẹp.
Hồi thứ nhất này lả hồi mở đầu của cuốn sách (1).
Người làm sách xin nói: “Trải qua quãng đời mộng ảo, nên có ý
giấu những việc thực, mượn chuyện “Hòn đá thiêng” mà viết ra bộ Thạch đầu ký
này; vì vậy tôi đặt nhân vật của tôi là Chân Sĩ Ẩn... (2). Trong sách chép việc
gì? Người nào? Người làm sách lại xin nói: “Nay tôi đã sống cuộc đời gió bụi,
không làm nên trò trống gì. Chợt nghĩ đến những người con gái ngày trước cùng sống
với tôi, so sánh kỹ lưỡng, thấy sự hiểu biết và việc làm của họ đều hơn tôi.
Tôi đường đường là bậc tu mi, lại chịu kém bạn quần thoa, thực rất đáng thẹn!
Bây giờ hối cũng vô ích, biết làm thế nào! Tôi nghĩ trước kia được ơntrời, nhờ
tổ, mặc đẹp, ăn ngon, mà phụ công nuôi dạy của cha mẹ, trái lời răn bảo của thầy
bạn, đến nỗi ngày nay một nghề không thành, nửa đời long đong, nên muốn đem những
chuyện đó chép thành một bộ sách bày tỏ với mọi người. Tôi biết rằng mang tội rất
nhiều. Nhưng trong khuê các còn biết bao người tài giỏi, tôi không thể nhất thiết
mượn cớ ngu dại muốn che giấu lỗi mình, để cho họ bị mai một. Cho nên, đám cỏ lều
tranh, giường tre bếp đất, cùng cảnh gió sớm trăng chiều, sân hoa thềm liễu, đều
thúc giục tôi thực hiện lòng mong ước dúng bút mực viết ra lời. Dù tôi học ít,
hạ bút không viết nên văn, tôi cũng chẳng ngại gì mượn lời nôm na thêu dệt bày
tỏ ra đây câu chuyện để mua vui cho mọi người. Vì vậy tôi lại đặt nhân vật là
Giả Vũ Thôn (3)...”. Đó là đầu đề và ý chính của hồi này. Mở đầu cuốn truyện, thấy
câu phong trần mơ người đẹp, chắc ai cũng biết người viết sách vốn chỉ ghi chép
những chuyện bạn bè, tình tứ trong khuê các, chứ không có ý chửi đời. Tuy có một
vài chỗ nói đến nhân tình thế thái, nhưng đó là bất đắc dĩ, mong độc giả nhớ
cho.
Lẵng dẵng trên đời khéo khổ công,
Tiệc tùng rốt cuộc chỉ là không.
Muôn trò mừng tủi đều hư ảo,
Một giấc xưa nay rõ viển vông.
Vạt thắm nào riêng người đẫm lệ,
Tình ngây còn vướng hận ôm lòng.
Xem ra chữ chữ toàn bằng huyết,
Cay đắng mười năm khéo lạ lùng.
Độc giả! Các bạn bảo sách này do đâu mà ra? Nói nguồn gốc nó
thì dáng như hoang đường; nhưng xem kỹ rất thú vị. Tôi xin kể rõ lai lịch để độc
giả khỏi lầm:
Khi xưa Nữ Oa luyện đá vá trời(4) ở đỉnh Vô Kê trên núi Đại
Hoang, luyện được ba vạn sáu nghìn năm trăm linh một viên, mỗi viên cao mười
hai trượng, vuông hai mươi bốn trượng. Nhưng bà chỉ dùng ba vạn sáu nghìn năm
trăm viên, còn thừa một viên bỏ lại ở chân núi Thanh Ngạnh. Ngờ đâu viên đá này
từ khi được luyện, đã có linh tính. Nhân thấy những viên đá khác được đem vá trời,
còn mình vô tài, bị loại, nó rất tủi hận, ngày đêm kêu khóc buồn rầu.
Một hôm, nó đương than phiền chợt thấy một nhà sư, một đạo
sĩ, cốt cách phong độ khác thường, cười cười nói nói, từ đàng xa đi đến bên núi
Thanh Ngạnh, rồi ngồi bên hòn đá nói chuyên. Lúc đầu hai người còn nói những
chuyện núi mây, bể mù, thần tiên, huyền ảo, sau nói đến vinh hoa phú quý dưới
cõi hồng trần. Hòn đá nghe thấy, bất giác động lòng phàm tục, cũng muốn xuống
đó hưởng mùi vinh hoa phú quý, nhưng thấy mình thô kệch càng thêm tủi phận. Sau
bất đắc dĩ nó mượn tiếng người, cất giọng hỏi:
- Thưa hai sư phụ! Đệ tử là vật ngu xuẩn xin thất lễ! Vừa qua
nghe hai vị sư phụ nói chuyện về cảnh phồn hoa dưới trần gian, trong lòng đệ tử
rất thầm mến, đệ tử tuy ngu xuẩn, nhưng cũng có chút linh tính. Vả lại thấy hai
vị sư phụ có vẻ tiên phong đạo cốt, chắc chắn không phải hạng người tầm thường,
nhất định có tài vá trời, cứu thế, có đực xót vật, thương người! Nếu được hai vị
sư phụ mở lòng từ bi, mang đệ tử xuống cõi trần cho đệ tử hưởng ít năm giàu
sang êm ấm, thì đệ tử xin đời đời kiếp kiếp ghi nhớ ơn sâu.
Nghe xong, hai vị sư, đạo cả cười:
- Khéo thật! Khéo thật! Trong cõi hồng trần đành rằng có nhiều
thú vị, nhưng không phải là nơi nương náu lâu dài. Huống chi “Ngọc lành có vết,
việc đời đa đoan” tám chữ này thường đi liền với nhau. Rồi trong chớp mắt, vui
hết đến buồn, người thay cảnh đổi, rút cuộc chỉ là giấc mộng, muôn cõi đều trở
thành không! Như thế chẳng thà đừng xuống là hơn.
Nhưng lửa trần rực cháy trong lòng, thì dù có nới thế nào
cũng khó mà lọt vào tai hòn đá được. Nó cứ kêu nài mãi. Hai vị sư biết không thể
ngăn cản nổi, liền thở dài mà rằng:
- Đây cũng là cái số kiếp tinh lắm muốn động, có là từ không
mà ra đó thôi! Đã vậy, ta sẽ mang ngươi đi, cho ngươi hưởng thụ, nhưng khi bất
như ý thì ngươi đừng hối.
Hòn đá nói:
- Tất nhiên! Tất nhiên!
Nhà sư nói:
- Ngươi bảo ngươi có linh tính nhưng sao lại dại dột ngu ngốc
thế? Thật là ngươi chẳng có quý báu, chẳng kỳ lạ ở chỗ nào cả, chỉ đáng dẫm
chân lên thôi. Nhưng thôi, ta sẽ giở hết phép phật, giúp ngươi một tay. Khi nào
mãn kiếp, ngươi trở lại bản chất của mình, thế là kết liễu số phận. Ngươi thấy
thế nào?
Hòn đá nghe xong, cảm ơn không ngớt. Nhà sư liền niệm chú viết
bùa, dở hết phép thuật, làm cho hòn đá kếch sù ấy phút chốc hóa ra viên ngọc
báu trong sáng long lanh, thu hình lại nhỏ bằng viên ngọc đeo dưới dây quạt, có
thể cầm hoặc đeo vào người được. Nhà sư nâng lên trên tay, cười nói:
- Coi hình dáng ngươi thì cũng là vật báu đây, chỉ hiềm một nỗi
không có giá trị thực; bây giờ ta khắc mấy chữ, để mọi người trông thấy, biết
ngay ngươi là vật lạ. Ta sẽ mang ngươi đến một nơi thịnh vượng, một họ dòng
dõi, một chốn phồn hoa, giàu sang êm ấm, cho ngươi được an thân lạc nghiệp.
Hòn đá mừng rỡ hỏi:
- Không biết sư phụ viết vào những chữ gì? Và mang đi đâu?
Dám xin sư phụ nói rõ để đệ tử khỏi áy náy.
Nhà sư cười nói:
- Ngươi chớ hỏi vội, sau này sẽ biết.
Nói đoạn, nhà sư để hòn đá vào trong tay áo, cùng đạo sĩ phơi
phới ra đi, không biết về hướng nào.
Trải qua không biết mấy đời mấy kiếp, có vị Không Không đạo
nhân đi cầu tiên học đạo, qua đỉnh Vô Kê núi Đại Hoang, đến chân núi Thanh Ngạnh,
chợt trông thấy một hòn đá lớn, trên mặt có khắc chữ kể rõ lai lịch. Không
Không đạo nhân xem từ đầu đến cuối, biết rằng nó là một hòn đá không đủ tài vá
trời, muốn biến làm người, đã được hai vị Mang Mang đạo sĩ Diều Diều chân nhân
đưa nó xuống trần nếm đủ mùi đời lạnh nhạt, tan hợp bi hoan. Mặt sau lại có một
bài kệ:
Tài đâu toan những vá trời,
Uổng công đày xuống cõi đời bấy lâu.
Từ kiếp trước đến kiếp sau.
Biết nhờ ai chép mấy câu truyền kỳ?
Sau đó, ghi rõ hòn đá này xuống đâu, đầu thai vào đâu, trải
qua đoạn đường thế nào, cả đến những việc vụn vặt trong gia đình, tình từ, thơ
tứ trong khuê các, đều chép đủ cả, xem ra cũng có thú vị đỡ buồn, nhưng không
biết từ thời đại nào, ở địa phương nào và nước nào?
Không Không đạo nhân liền hỏi:
- Này Thạch huynh, cứ như lời anh nói thì câu chuyện này của
anh rất thú vị, nên mới viết rõ vào đây, muốn để lưu truyền việc lạ ấy cho đời.
Nhưng ta xem, một là không biết vào thời đại nào, hai là đây không phải việc
thiện chính của bậc đại hiền đại trung để sửa sang triều đình, chỉnh đốn phong
tục, chẳng qua toàn là chuyện một vài người con gái kỳ quặc, hoặc là người đa
tình, hoặc là người si tình, hoặc là người tài năng tầm thường, chứ không có
cái tài cái đức của ả Thái, nàng Ban. Giả sử ta có sao lại, sợ người đời không
xem thôi.
Hòn đá cười mà rằng:
- Thưa sư phụ, sao người nghĩ lẩn thẩn thế Nếu bảo không có
thời đại tra cứu, thì sư phụ cứ việc mượn niên hiệu đời Hán, đời Đường mà viết
vào, có khó gì đâu. Nhưng tôi thiết tưởng những chuyện trong dã sử xưa nay đều
theo một lối như nhau; sao bằng chuyện của tôi không theo khuôn sáo cũ, chỉ ghi
chép những sự việc và tình cảm tôi đã trải qua, mới là mới mẻ ít có! Việc gì phải
đòi hỏi cho có triều đại mới được kia chứ! Vả chăng những người tục ở nơi kẻ chợ
rất ít đọc sách nói về đạo lý sửa sang triều đình, chỉnh đốn phong tục, phần
đông chỉ thích xem những chuyện vụn vặt, lại có thu vị. Gẫm trong dã sử xưa
nay, biết bao chuyện dân chê vua quan, hoặc là nói xấu vợ con người ta, đầy rẫy
những gian dâm hung ác, kể sao cho xiết; lại còn những ngòi bút chỉ viết về
chuyện gió trăng dâm dục xấu xa, di hại trong văn mặc, làm hư hỏng cả con em
người ta. Đến những sách nói về giai nhân tài tử, thì nghìn bộ đều tìl~o một
khuôn sáo, đầy rẫy nhưng Phan An, Tử Kiến, Tây Tử, Vân Quân, đã thế rút cục vẫn
không khỏi sa vào phù phiếm. Người làm sách chẳng qua muốn viết vài bài thơ
tình của mình, nên đã cố ý đặt ra một đôi trai gái, rồi xen một thằng tiểu nhân
vào quấy rối, ví như vai hề trong tấn tuồng. Lại có những bọn tòi đòi, mở miệng
là chi hồ giả dã, hết đạo lý đến văn chương, cho nên nếu xem từ đầu đến cuối
thì toàn là những việc mâu thuẫn nhau chẳng có gì là hợp tình hợp lý hết. Sao bằng
mấy người con gái này mà nữa quảng đời tôi đã trông thấy, nghe thấy, tuy không
dám ví với những người trong các sách thuở xưa, nhưng xem đầu đuôi câu chuyện,
cũng có thể đỡ buồn. Lại có mấy bài thơ nhảm nhí, cũng có thể làm cho người đọc
cười bật cơm ra và nhân vui uống thêm mấy chén rượu. Còn như những cảnh hợp tan
vui buồn, thịnh suy và những cảnh ngộ thay đổi, từ đầu đến cuối đều theo sát sự
thực không thêm bớt tô vẽ chút nào, không vì chiều lòng người đọc mà xuyên tạc
sự thực. Hiện giờ người nghèo thì ngày lo cơm áo; kẻ giàu lại nảy lòng tham
khôn cùng, rỗi mụt chút là họ nghĩ ngay đến dâm dục, sắc đẹp, giàu sang, sầu
não, còn hơi nào đọc sách nữa. Vì vậy cuốn truyện của tôi cũng không muốn được
đời khen ngợi và mọi người thích đọc. Chỉ mong khi tỉnh rượn, lúc tàn canh, hoặc
khi họ muốn trốn đời, tìm đường tiêu khiển, họ đem truyện tôi ra xem, có lẽ tôi
sẽ giúp họ đừng đeo đuổi những việc hão huyền cho tốn tuổi thọ, như thế tức là
tránh được miệng thế khen chê, khỏi phải chạy vạy đây đó. Hơn nữa nó cũng khiến
người đời đổi tầm con mắt, chứ không như những quyển sách này những lời sáo ngữ
cũ rích gán ghép bừa bãi, nói toàn chuyện vụt gặp vụt tan, đầy rẫy nào là những
tài nhân, thục nữ, nào là Tử Kiến, Văn Quân, Hồng Nương, Tiểu Ngọc..., ý sư phụ
nghĩ thế nào?
Không Không đạo nhân nghe vậy, ngẫm nghĩ một lúc, rồi xem lại
truyện Thạch Đầu Ký" một lần nữa. Nhận thấy ở đây tuy cũng có những lời vạch
kẻ gian, chê người nịnh, mắng người ác, diệt kẻ tà nhưng không có ý mỉa mai thời
thế. Đến như những việc vua nhân, tôi trung, cha hiền, con hiếu, tức là tất cả
nhưng chỗ quan hệ đến luân thường, thì đều một mực ca ngợi công đức, thực không
có sách nào sánh kịp. Trong đó, chủ ý tuy nói về tình, nhưng chẳng qua là chép
việc thực, chứ không một chút bịa đặt như những sách thiên về dâm tình hò hẹn,
thề thốt riêng tây. Đạo nhân thấy nó không dính dáng đến thời thế, mới chép từ
đầu đến cuối để truyền câu chuyện kỳ lạ này cho mọi người. Vì đạo nhân thấy “sắc”
là do “không” mà ra, rồi “tình” lại do “sắc” mà có, “tình” biểu hiện qua “sắc”
rồi lại từ “sắc” trở về “không”(5) cho nên đổi tên mình là Tình Tăng, đổi tên
Thạch đầu ký là Tình Tăng lục. Khổng Mai Khê ở Đông Lỗ đề là Phong nguyệt báo
giám(6).
Sau Tào Tuyết Cần mười năm đọc bộ sách này ở trong hiện Điệu
hồng, thêm bớt năm lần, xếp thành mục lục, chia ra từng chương từng hồi, lại đề
là Kim lăng thập nhị hoa, và đề một bài thơ:
Đầy trang những chuyện hoang đường,
Tràn tít nước mắt bao nhượng chua cay.
Đừng cho chỉ giả là ngây,
Ai hay ý vị chỉ đầy ở trong?
Nguồn gốc truyện Thạch đầu ký đã nói rõ rồi, bây giờ xem trên
mặt hòn đá, chép những việc gì?
Trên mặt hòn đá chép: khi ấy đất thủng về phía đông nam (7),
phía ấy là đất Cô Tô, có thành Xương Môn là chỗ ở của các nhà phú quý phong lưu
vào bực bậc nhất nhì trên đời. Ngoài cửa Xương Môn có đất Thập Lý, trong phố có
ngõ Nhân Thanh, trong ngõ có tòa miếu cổ, vì địa thế chật hẹp, người ta đều gọi
là “miếu Hồ Lô”. Cạnh miếu có một nhà hương hoạn (8) họ Chân tên Phí, tên chữ là
Sĩ Ẩn, vợ họ Phong tính tình hiền hậu, hiểu biết lễ nghĩa. Nhà này không giàu
sang lắm, nhưng người ở trong vùng vẫn cho là một họ có danh vọng, Chân Sĩ Ẩn
tính tình điềm đạm, không thích công danh, hàng ngày chỉ lấy ngắm hoa, trồng
cúc, uống rượu ngâm thơ làm vui; nhưng hiềm một nỗi là tuổi đã năm mươi mà chưa
có con trai, chỉ cớ mỗi một mụn gái tên là Anh Liên mới lên ba tuổi.
Một hôm giữa lúc mùa hạ ngày dài, Sĩ Ẩn ngôi rỗi trong thư
phòng, mỏi tay buông sách, ngủ gục xuống ghế. Trong khi mơ màng, thấy mình đi đến
một chỗ không biết địa phương nào. Chợt gặp một nhà sư, một đạo sĩ, vừa đi vừa
nói chuyện.
Đạo sĩ hỏi:
- Ông mang vật xuẩn ngốc ấy đi đâu?
Nhà sư cười:
- Ông cứ yên tâm. Hiện giờ có một cái án phong lưu cần phải
chấm dứt. Nhân dịp có một bọn oan gia phong lưu sắp sửa đầu thai xuống trần,
tôi bỏ nó vào đây để nó hóa kiếp làm người.
- Thế ra sẽ có bọn oan gia phong lưu đổi kiếp xuống trần.
Nhưng không biết xuống đâu?
- Việc này nói ra thì buồn cười lắm. Thật là câu chuyện nghìn
xưa ít thấy. Chỉ vì bên bờ sông Linh Bà ở Tây phương, bên cạnh hòn đá Tam
Sinh(9) có một cây Giáng Châu được Thần Anh(10) làm chức chầu chực ở cung Xích
Hà ngày ngày lấy nước cam lộ tưới bón cho nó mới tươi tốt sống lâu. Đã hấp thụ
tinh hoa của trời đất, lại được nước cam lộ chăm bón, cây Giáng Châu thoát được
hình cây, hóa thành hình người, tu luyện thành người con gái, suốt ngày rong
chơi ngoài cõi trời Ly Hận(11) đói thì ăn quả “Mật Thanh”(12) khát thì uống nước
bể “quán sầu”(13).
Chỉ vì chưa trả được ơn bón tưới, cho nên trong lòng nó vẫn mắc
míu, khi nào cũng cảm thấy như còn vương một mối tình gì đây. Gần đây, Thần Anh
bị lửa trần rực cháy trong lòng, nhân gặp trời đất thái bình thịnh vượng muốn
xuống cõi trần để qua kiếp “ảo duyên”, nên đã đến trước mặt vị tiên Cảnh ảo ghi
sổ. Cảnh ảo liền hỏi đến mối tình bón tưới, biết chưa trả xong, muốn nhân đó để
kết liễu câu chuyện. Nàng Giáng Châu nói: “Chàng ra ơn mưa móc mà ta không có
nước để trả lại. Chàng đã xuống trần làm người, ta cũng phải đi theo. Ta lấy hết
nước mắt của đời ta để trả lại chàng, như thế mới trang trải xong!”. Vì thế dẫn
ra bao nhiêu oan gia phong lưu đều phải xuống trần, để kết liễu án đó.
- Việc này lạ thật! Xưa nay chưa từng nghe thấy chuyện trả nợ
bằng nước mắt bao giờ. Nghĩ lại chuyện này thật phiền phức, tế nhị hơn các chuyện
trăng gió trước kia nhiều.
- Xưa nay những nhân vật phong lưu chẳng qua chỉ để lại một
chút gì rất ít với một số thơ từ mà thôi. Còn những chuyện ăn uống trong gia
đình, trong khuê các thì không bao giờ ghi chép đầy đủ; hơn nữa, những chuyện
gió trăng, phần nhiều chỉ là “trộm hương cắp ngọc, hò hẹn riêng tây” mà thôi,
chưa hề nói đến chân tình của người con gái. Tưởng lũ người này xuống trần, thì
những bọn si tình, hám sắc, hiền ngu bất tiếu ở đây, khác hẳn các truyện trước
để lại.
- Gặp dịp này, sao chúng ta không xuống trần siêu độ cho mấy
kẻ ấy, chẳng phải là một việc công đức hay sao?
- Điều ông nói chính hợp ý tôi, chúng ta hãy đem vật xuẩn ngốc
này đến cung vị tiên Cảnh ảo để giao dứt khoát. Chờ cho bọn quỷ nghiệt phong
lưu xuống trần hết đã, tôi với ông hãy xuống. Bây giờ chúng mới xuống có một nửa
thôi, và tất cả vẫn chưa nhóm họp lại.
- Đã thế tôi sẽ cúng đi theo ông.
Chân Sĩ Ẩn nghe rõ ràng câu chuyện không biết “vật xuẩn ngốc”
là gì, bèn đến chào hỏi:
- Xin kính chào hai vị.
Hai vị tăng, đạo đáp lễ lại.
Sĩ ân lại nói:
- Vừa rồi đệ tử được hai vị nói chuyện nhân quả, một chuyện
mà người trần ít khi được nghe. Đệ tử ngu dốt, không hiểu thấu mấy; nếu được
hai vị dạy bảo, mở lòng ngu muội, đệ tử xin lắng nghe, được cảnh tỉnh đôi chút,
họa may có thể thoát khỏi nỗi khổ trầm luân chăng.
Hai vị cười:
- Đó là cơ trời, không thể tiết lộ được. Cứ đến lúc đó mà
không quên hai chúng ta, thì người có thể thoát khỏi hố lửa(14).
Sĩ Ẩn nghe thế, không tiện hỏi lại, nhân cười nói:
- Tuy cơ trời không thể tiết lộ, nhưng vừa rồi các vị nói
“cái vật xuẩn ngốc" ấy, đệ tử không biết là cái gì, có thể xem được không?
Nhà sư nói:
- Nhà ngươi nhắc đến vật ấy, thế là có duyên gặp nó đấy!
Nói đoạn, đem hòn đá ra cho Sĩ An xem.
Sĩ Ẩn cầm xem, một hòn ngọc sáng đẹp, mặt trên khắc rõ bốn chữ:
Thông linh bảo ngọc. Mặt sau có mấy hàng chữ nhỏ. Sĩ Ẩn đương muốn xem kỹ, thì
nhà sư bảo ngay: “Đã đến ảo Cảnh rồi” và giật ngay lấy hòn đá, cùng đạo sĩ đến
một tòa nhà bia lớn, trước mặt có đề bốn chữ: Thái hư ảo cảnh; hai bên lại có
đôi câu đối:
Giả bảo là chân, chân cũng giả,
Không làm ra có, có rồi không.
Sĩ Ẩn đang muốn cất bước đi theo, chợt một tiếng sét dữ dội
như núi lở đất sụp. Sĩ Ẩn kêu lên một tiếng, mở choàng mắt ra, chỉ thấy trời nắng
chang chang, rặng chuối phơ phất, những việc trong mộng đã quên mất một nửa. Lại
thấy vú già ẵm Anh Liên đến. Nhìn đứa con gái mặt mày tươi đẹp, ngoan ngoãn
đáng mừng. Sĩ Ẩn giơ tay bế vào lòng, đùa với nó một lúc rồi ẵm ra ngoài phố
xem người qua lại nhộn nhịp. Khi sắp đi về thấy một nhà sư, một đạo sĩ đi lại.
Nhà sư đầu chốc, đi đất, đạo sĩ chân khiễng, tóc bù đang cười cười nói nói, như
dại như điên. Đến trước cửa, trông thấy Sĩ Ẩn ẵm Anh Liên, nhà sư khóc to lên:
- Thí chủ! Con bé này có mệnh không có vận, làm lụy đến cha mẹ,
thí chủ ẵm nó làm gì?
Sĩ Ẩn nghe nói, cho là rồ dại không thêm chấp. Nhà sư thấy thế
lại nói:
- Thí chủ cho tôi cho! Thí chủ cho tôi cho!.
Sĩ Ẩn khó chịu, ẵm ngay con toan quay vào nhà. Nhà sư trỏ vào
Sĩ Ẩn cười ồ lên, rồi đọc ngay bốn câu:
Chú ngốc nuông con khéo nực cười,
Gương lăng (15) luống để tuyết pha phôi,
Nguyên tiêu (16) đêm ấy coi chừng đấy,
Lửa khói tan tành sắp tới nơi.
Sĩ Ẩn nghe nói, trong lòng do dự, muốn đến hỏi lai lịch, thì
đạo sĩ đã bảo vị sư:
- Chúng ta không cần cùng đi một đường, hãy tạm chia tay, mỗi
người mỗi việc. Ba kiếp sau, tôi chờ ông ở núi Bắc Mang, chúng ta sẽ lại họp mặt,
rồi đến Thái Hư Cảnh Ao xóa sổ để kết thúc chuyện này.
Nhà sư nói:
- Hay lắm! Hay lắm!
Nói xong, thoáng một cái, hai ngươi mất hút, không thấy đâu nữa.
Sĩ Ẩn nghĩ bụng: “Hai người này tất có lai lịch, đáng lẽ ta nên hỏi rõ mới phải,
bây giờ ăn năn cũng muộn rồi”.
Sĩ Ẩn đương lúc vẩn vơ suy nghĩ, chợt trông thấy một nhà nho
nghèo, ở trọ trong miếu Hồ Lô, bên cạnh nhà mình, họ Giả tên Hóa, tên chữ là Thời
Phi, biệt hiệu Vũ Thôn, đi đến. Giả Vũ Thôn người Hồ Châu, vốn dòng thi thư thế
hoạn, nhưng vì sinh vào lúc cảnh nhà sa sút, của hết người hiếm, chỉ còn trơ trọi
một mình. Ở nhà cũng vô ích, Vũ Thôn lên kinh mong lập công danh, dựng lại cơ
nghiệp. Hắn đến đây tự năm ngoái, nhưng vì túng thiếu nên đành ở tạm trong miếu,
hàng ngày bán chữ viết văn để sống, bởi thế Sĩ Ẩn thường cùng hắn đi lại chơi bời.
Vũ Thôn trông thấy Sĩ Ẩn, vội vàng chào hỏi:
- Tiên sinh đứng ngóng gì đấy, chắc ngoài phố có cái gì mới lạ?
Si ẩn cười đáp:
- Chẳng có gì, chỉ vì cháu khóc, tôi mang nó ra đây. Đúng lúc
buồn, lại gặp tôn huynh đến, xin mời vào chơi, chúng ta nói chuyện tiêu khiển
cho hết quãng ngày dài dằng dặc này.
Sĩ Ẩn sai người ẵm con đi, rồi dắt tay Vũ Thôn vào thư phòng,
gọi tiểu đồng pha trả.
Hai người vừa mới nói chuyện được dăm ba câu thì có người nhà
vào báo:
- Có cụ Nghiêm tới chơi.
Sĩ Ẩn vội vàng đứng dậy cáo lỗi:
- Xin tôn huynh thứ lỗi, hãy tạm ngồi chơi, tôi đi ra rồi sẽ
trở lại ngay.
Vũ Thôn cũng đứng dậy, khiêm tốn nói:
- Xin tiên sinh cứ tự tiện, tôi đến chơi luôn, có chờ một
phút cũng chẳng sao.
Nói xong Sĩ An đi ra.
Vũ Thôn ngồi buồn, giở sách ra xem, chợt nghe ngoài cửa sổ có
tiếng người con gái ho. Vũ Thôn đứng dậy nhìn ra, thấy một a hoàn đương hái
hoa, dáng điệu thanh nhã, mặt mày tươi tắn, tuy không đẹp lắm, nhưng có một vài
nét làm người ta xiêu lòng. Vũ Thôn bất giác đứng ngây người ra. A hoàn hái hoa
xong, sắp đi, bỗng ngẩng đầu lên trông thấy có người đứng trong cửa sổ, áo cũ
khăn rách, tuy có vẻ nghèo, nhưng lưng tròn, vai rộng, mặt to, miệng vuông,
lông mày sắc; đôi mắt sáng, mũi thẳng, má nở. Nó vội quay mình lánh đi, nghĩ bụng:
“Ngươi này dáng điệu oai vệ sao lại ăn mặc lam lũ như vậy? Có lẽ là ông Giả Vũ
Thôn mà chủ ta thường nhắc đến chăng? Chủ ta vẫn có ý muốn giúp đỡ ông ta,
nhưng chưa có dịp. Những khách quen nhà ta không có ai nghèo túng cả. Nhất định
là hắn, chứ chẳng còn ai. Thảo nào chủ ta thường nói ông này không phải là người
chịu khổ mãi”. Nghĩ thế, tự nhiên nó lại quay đầu lại nhìn. Vũ Thôn thấy a hoàn
ngoảnh lại, cho là nàng có ý với mình, vui mừng khôn xiết, nghĩ bụng: “Người
con gái này có mắt tinh đời, quả là người tri kỷ trong lúc phong trần”.
Một lúc tiểu đồng đi vào, Vũ Thôn mới biết ngoài nhà giữ
khách lại ăn cơm. Hắn không chờ được, bèn theo đường bên cạnh đi ra. Sĩ Ẩn thết
khách xong, biết Vũ Thôn đã về rồi, cũng không tiện cho đi mời nữa.
Một hôm vào tiết Trung Thu, ăn tiệc xong, Sĩ Ẩn sai dọn một
tiệc nữa ở thư phòng, rồi tự mình dưới bóng trăng đến miếu mời Vũ Thôn.
Từ ngày Vũ Thôn thấy a hoàn nhà họ Chân nhìn mình mấy lần,
cho lâ tri kỷ, nên lúc nào cũng mơ tưởng đến. Nhân gặp tiết Trung thu, ngắm
trăng nhớ đến người, Vũ Thôn ngâm một bài thơ ngũ ngôn:
Ba sinh chưa thỏa nguyện,
Tấc dạ những thêm sầu.
Buồn quá hay ủ mặt,
Đi qua thường ngoái đầu.
Trước gió riêng nhìn bóng,
Dưới trăng ai bạn bầu ?
Chị Nguyệt hay chăng tá ?
Mời lên chốn ngọc lâu.
Vũ Thôn ngâm xong, nghĩ mình bình sinh có chí khí lớn, nhưng
chưa gặp thời, liền ngửa mặt lên trời, gãi đầu than thở, ngâm to một câu:
Ngọc giấu đáy hòm chờ giá bán
Thoa nằm trong hộp đợi thời bay.
Sĩ Ẩn đi đến, nghe thấy, cười nói:
- Tôn huynh thực có chí khí hơn người?
Vũ Thôn vội cười đáp:
- Không dám! Chợt ngâm câu thơ cổ, cớ đâu dám ngông cuồng đến
thế! Và hỏi lại:
- Tiên sinh cao hứng gì mà đến đây?
Sĩ Ẩn cười nói:
- Đêm nay tiết Trung thu, tục thường gọi tiết đoan viên. Nghĩ
đến tôn huynh trọ ở chốn tăng phòng, có lẽ cũng hiu quạnh, cho nên tôi có bày
riêng một tiệc mời tôn huynh sang bên nhà thưởng trăng, không biết tôn huynh có
chiếu cố cho không
Vũ Thôn nhận lời ngay, cười nói:
- Được, tiên sinh quá yêu, tiểu đệ đâu dám trái ý.
Vũ Thôn liền theo Sĩ Ẩn về thư phòng.
Hai người uống nước trà xong. Một chốc, tiệc bày ra, rượu
ngon, thức nhắm tốt, không cần phải nói. Hai người lúc đầu còn uống thong thả,
sau dần trò chuyện cao hứng, thi nhau chuốc chén. Bấy giờ ngoài phố nhà nào nhà
nấy đàn sáo ca hát. Vừng trăng vằng vặc, sáng tỏ giữa trời. Hai người càng hào
hứng, rót đến đâu cạn đến đấy. Vũ Thôn lúc này đã ngà ngà say, không giữ nổi cuồng
hứng, trông trăng ngụ ý ngâm một bài:
Đêm rằm gặp buổi đoàn loan,
Sáng trong, dõi khắp lan can phía ngoài.
Vừng trăng vừa ló trên trời.
Duới trần ngửa mặt muôn người ngắm trông.
Sĩ Ẩn nghe rồi nói to:
- Hay lắm! Tôi thường nói tôn huynh không phải là người tầm
thường. Nay ngâm câu này, tất phải có triệu chứng bay nhảy, chả mấy ngày nữa sẽ
nhẹ bước thang mây. Đáng mừng! Đáng mừng!
Rồi tự tay rót một chân rượu chúc mừng. Vũ Thôn uống cạn,
than rằng:
- Không phải vãn sinh say rượu nói ngông đâu. Về lối học khoa
cử, vãn sinh cũng có thể dự tên trên bảng. Chỉ vì hiện nay thiếu tiền lộ phi,
không xoay vào đâu được. Đường vào kinh thì xa, nếu chỉ nhờ vào tiền bán chữ,
viết văn, không thể đủ được?
Sĩ Ẩn không đợi nói hết, ngắt lời ngay:
- Sao tôn huynh không nói trước? Tôi vẫn có ý ấy, không thấy
tôn huynh nói đến, nên tôi không dám đường đột. Tôi tuy bất tài cũng có thể hiểu
được hai chữ nghĩa và lợi. Sang năm có khoa thi, tôn huynh nên lên kinh thi
ngay. Một khi bảng xuân cao chiếm, mới khỏi phụ tài học của mình. Còn tiền lộ
phí, tôi xin thu xếp hộ, không dám làm phụ lòng tin yêu của huynh đối với tôi
Liền sai tiểu đồng vào lấy năm mươi lạng bạc và hai bộ quần
áo rét ra, đưa cho Vũ Thôn. Sĩ Ẩn lại nói:
- Ngày 19 là ngày hoàng đạo, tôn huynh nên đáp thuyền đi
ngay. Chờ khi cánh hồng bay bổng, mùa đông năm sau chúng ta sẽ lại gặp nhau, há
không phải là một việc rất vui sướng hay sao?
Vũ Thôn liền nhận tiền và áo, chỉ cám ơn một lời, rồi cứ uống
rượu, cười nói tự nhiên, đến canh ba mới tan tiệc.
Sĩ Ẩn tiễn Vũ Thôn về rồi vào buồng ngủ một mạch, khi mặt trời
lên ba con sào mới dậy. Nhân nghĩ việc đêm qua, Sĩ Ẩn muốn viết hai bức thư, gởi
cho người quen làm ở Kinh, tiến cử Vũ Thôn, để Vũ Thôn có chỗ nương thân. Liền
cho người đến nhà mời Vũ Thôn, người nhà vừa đi đã về ngay nói:
- Hòa thượng ở đó bảo ông Giả đã đi kinh từ canh năm và có lời
thưa với cụ rằng: người đọc sách không cần ngày “hoàng đạo” hay “hắc đạo” chỉ cần
được việc thôi, nên đi không kịp từ biệt.
Sĩ Ẩn nghe nói, cũng thôi không nghĩ đến nữa.
Tháng ngày thấm thoắt, đã đến tiết nguyên tiêu. Sĩ Ẩn sai người
nhà là Hoắc Khải ẵm Anh Liên đi xem hội hoa đăng. Đến nửa đêm, Hoắc Khải đặt
Anh Liên ngồi ở ngoài cứa một mình rồi đi tiểu. Khi quay lại, không thấy Anh
Liên đâu, Hoắc Khải hốt hoảng đi tìm suốt đêm, sợ không dám về báo cho chủ biết
liền trốn đi nơi khác.
Sáng hôm sau, vợ chồng Sĩ Ẩn không thấy con về, biết rằng có
chuyện không hay xảy ra, liền sai người đi tìm các ngả, tuyệt nhiên không thấy
tung tích. Vợ chồng Sĩ Ẩn nửa đời người mới có mụn con gái, bây giờ lạc mất, buồn
rầu biết là chừng nào! Vì thế ngày đêm than khóc, dở chết dở sống. Một tháng
sau vì thương nhớ con Sĩ Ẩn bị ốm, vợ là họ Phong cũng ốm, ngày ngày thuốc
thang bói toán.
Đến rằm tháng ba, trong miếu Hồ Lô bày cỗ cúng Phật, hòa thượng
không cẩn thận để chảo dầu bốc cháy lan ra giấy dán cửa sổ. Các nhà ở vùng ấy đều
giậu tre vách ván, dường như đó cũng là số kiếp phải chịu, nên cứ nhà nọ cháy
sang nhà kia, cả phố bốc lên như núi lửa. Bấy giờ tuy có quân dân đến chửa,
nhưng lửa đã cháy to, không sao cứu được! Cháy suốt một đêm mới tắt, bao nhiêu
nhà đều hóa ra tro. Đáng thương nhất lả nhà họ Chân ở ngay liền miếu, chỉ còn
trơ lại một đống ngói gạch vụn. May sao hai vợ chồng và người nhà không ai việc
gì. Sĩ Ẩn dậm chân thở dài, bàn với vợ về trại ở. Nhưng lại gặp mất năm mất
múa, trộm cướp như ong, tranh ruộng cướp đất, dân khổ trăm chiều. Vì vậy quan
quân đến nã bắt luôn, khó bề yên thân được. Sĩ Ẩn phải bán trang trại, đem vợ
và hai người đầy tớ gái về ở với bố vợ là Phong Túc, một người làm ruộng, nhưng
là hạng giàu có ở châu Đại Như. Thấy con rể bối rối đến ở nhờ, Phong Túc trong
bụng khó chịu. Sĩ Ẩn may còn có số tiền, liền bỏ ra nhờ bố vợ mua hộ nhà đất để
làm kế sinh nhai. Phong Túc vừa mua vừa ăn bớt, chỉ còn được một ít nhà nát ruộng
xấu. Sĩ Ẩn lại là nhà nho, không quen việc cày cấy, gượng gạo qua một vài năm,
vốn liếng hết sạch. Phong Túc trước mặt rể thì nói năm ba câu sáo, nhưng khi gặp
người khác thì lại nói xấu rể chỉ quen ăn biếng làm. Sĩ Ẩn biết thế, trong lòng
rất hối hận, nghĩ đến tai biến năm trước, vừa tức vừa giận, lại thêm ấp ủ mối
thương tâm. Một người gần đến tuổi già như Sĩ Ẩn, chịu sao nổi cảnh đau ốm vã
nghèo khổ giày vò, dần dần càng ngày càng cảm thấy quang cảnh tiêu điều. Một
hôm, Sĩ Ẩn chống gậy ra phố chơi cho đỡ buồn, chợt thấy một vị đạo sĩ khiễng
chân, giầy gai áo rách, ngông cuồng phóng túng, tập tễnh đi đến, miệng đọc mấy
câu:
Người đời đều cho thần tiên hay,
Mà chuyện công danh lại vẫn say!
Xưa nay tướng soái nơi nào đây,
Một dãy mồ hoang cỏ mọc đầy!
Người đời đều cho thần tiên hay.
Những hám vàng bạc lòng không khuây!
Suốt ngày những mong chứa cho đầy,
Đến lúc dầy rồi nhắm mắt ngay!
Người đời đều cho thần tiên hay!
Nhưng thích vợ đẹp lòng không khuây!
Lúc sống ái ân kể suốt ngày,
Lúc chết liền bỏ theo người ngay!
Người đời đều cho thần tiên hay!
Muốn đông con cháu lòng không khuây!
Xưa nay cha mẹ thực khờ thay,
Con hiền cháu thảo ai thấy đây!!
Sĩ Ẩn nghe thấy, lại ngay trước mặt hỏi:
- Người đọc những câu gì mà chỉ nghe thấy “hảo liễu” “hảo liễu”
thôi.
Đạo sĩ cười đáp:
- Nếu đã nghe thấy hai chữ “hảo” và “liễu” thì cũng đáng khen
cho ngươi là sáng suốt. Phải biết muôn việc ở đời “hảo” tức là “liễu”, “liễu” tức
là “hảo” nếu không “liễu” thì không “hảo”, mà muốn “hảo” thì phải “liễư”. Vì thế
bài hát này ta gọi là bài “hảo liễu ca”(17).
Sĩ Ẩn vốn người thông minh, nghe nói thế, trong bụng tỉnh ngộ
ngay, liền cười nói:
- Hãy thong thả! Để tôi giải nghĩa bài “háo liễu ca”, người
nghĩ thế nào?
Đạo sĩ cười bảo:
- Nhà ngươi cứ giải nghĩa đi.
Sĩ Ẩn đọc luôn:
Giờ đây lều cỏ vắng tanh,
Trước kia trâm hốt sắp quanh đầy giường!
Giờ đây cây cỏ ngổn ngang,
Trước kia vũ tạ ca trường là đây,
Xà chạm kia nhện giăng đầy.
Màn the nay rũ cạnh ngay cửa bồng.
Xưa sao phấn đượm hương nồng.
Mà nay sương nhuộm như bông trên đầu ?
Bãi tha ma có xa đâu,
Là nơi màn thắm là lầu uyên ương.
Hôm kia đầy những bạc vàng.
Phút đâu hành khất bên đường là ai?
Những tham số phận của người,
Biết đâu mình đã sa nơi vũng lầy?
Trai thời dạy những điều hay,
Ngờ đâu trộm cướp sau này xấu xa.
Gái thời kén cửa chọn nhà,
Ngờ đâu nhắm chỗ yên hoa rơi vào!
Mũ the chê nhỏ hay sao,
Để gông cùm phải vương vào đáng lo.
Trước manh áo rách co ro,
Mảnh bào giờ khoác lại cho là dài.
Ầm ầm trên chốn vũ đài,
Người kia vừa xuống thì người này lên.
Thực là dại dại điên điên,
Quê ai mà nhận là miền làng ta.
Quay đầu giờ mới tỉnh ra,
May quần áo cưới đều là vì ai!
Đạo sĩ khiễng chân nghe xong, vỗ tay cười nói:
- Giải nghĩa rất đúng! Giải nghĩa rất đúng!
Sĩ Ẩn nói:
- Chúng ta đi thôi.
Rồi đỡ ngay cái nải trên vai đạo sĩ, đeo lên lưng, cùng với đạo
sĩ ra đi vùn vụt, không về nhà nữa.
Tin ấy đồn ầm ngoài phố, người nọ nói với người kia cho là
chuyện lạ. Họ Phong nghe vậy, khóc ngất đi nhiều lần, rồi bàn với bố cho người
đi tìm các nơi, nhưng nào thấy tung tích! Không làm thế nào được, họ Phong đành
ở nương nhờ bố mẹ cho qua ngày. May sao có hai a hoàn theo hầu bên mình, ba thầy
trò ngày đêm khâu vá lấy tiền giúp thêm bố mẹ. Phong Túc hàng ngày cứ nói ra
nói vào, nhưng không làm thế nào được
Một hôm, a hoàn nhà họ Chân ra ngoài cửa mua chỉ, nghe thấy
đường phố có tiếng quát tháo. Mọi người đều nói: “Quan mới đã đến!” A hoàn nấp
trong cửa, thấy quân lính hàng đôi đi trước, một cỗ kiệu lớn rước một vị mặc áo
mũ đại trào theo sau. A hoàn giật mình nghĩ bụng: “Ông quan này trông quen
quen, hình như mình đã gặp ở đâu rồi?” Rồi nó vào nhà, cũng không nghĩ đến nữa.
Đến tối, lúc sắp đi nghỉ, chợt có tiếng gò cửa, nhiều người nói ồn ào: “Người
nhà của quan huyện đến hỏi có việc!” Phong Túc nghe thấy sợ tái người, không biết
cớ tai vạ gì.
Chú thích:
Chú thích:
(1). Hồi này có thể chia làm 2 phần. Phần thứ nhất bắt đầu từ
câu: “Người làm sách xin nói” đến câu “Ai hay thú vị chứa đầy ở trong”, nói tóm
tắt nguyên uỷ nội dung của cuốn truyện và dụng ý của tác giả. Thí dụ Chân Sĩ Ẩn,
Giả Vũ Thôn... đều là báo trước những điều sẽ nói ở hồi hai. Đây là một lối văn
ký thác, ẩn ẩn hiện hiện, thực thực hư hư, một nghệ thuật đặc biệt, khác với
các tiểu thuyết diễn nghĩa; còn phần thứ hai mới bắt đầu vào chính truyện.
(2). Chân Sĩ Ẩn và Chân Sự Ấn (dịch nghĩa là “giấu những sự
thực”) theo âm Trung Quốc đọc giống nhau. Tác giả có ý dùng ba chữ Chân Sĩ Ẩn đặt
tên cho nhân vật đầu tiên trong truyện để nói nội dung toàn bộ cuốn truyện là
giấu sự thật đi mà nói như là một chuyện chiêm bao.
(3). Nguyên văn chữ Trung Quốc “Giả ngữ thôn ngôn”. Chữ “giả
ngữ thôn” đọc cũng giống như “Giã Vũ Thôn”.
(4). Truyện thần thoại: Trước kia trời chưa kín hẳn, họ Nữ Oa
luyện đá năm sắc lên vá trời.
(5). Theo thuyết nhà Phật, phàm cái gì giác quan không cảm thấy
được thì gọi là “không”, cái gì giác quan cảm được thì gọi là “sắc”.
(6). Gương báu để coi việc gió trăng, tức là việc tình duyên,
gương soi để khuyên răn người đời.
(7). Theo Thần thoại Trung Quốc từ lúc mới có trời đất, trời
nghiêng về phía tây bắc, đất trũng về phía đông nam.
(8). Thân hào trong làng.
(9). Đường thư chép: nhà sư Viên Quan gặp Lý Nguyên, trỏ viên
đá ở Tam Giáo: “Đây là chỗ thác sinh của ta, 12 năm sau, chúng ta sẽ gặp lại
nhau ở đây”. Đến đêm, Viên Quan chết, 12 năm sau, Lý Nguyên lại đến chỗ cũ, gặp
một mục đồng, tức là Viên Quan. Về sau người ta dùng điển này để chỉ cuộc tình
duyên của một đôi trai gái, phải trải qua kiếp khác, có khi phải trải qua ba kiếp,
vì thế gọi là tam sinh.
(10). Hòn đá thiêng.
(11). Cõi đời đáng oán giận vì phải chia lìa nhau.
(12). Quả chứa những tình riêng bí mật.
(13). Nước để tưới sự buồn.
(14). Theo thuyết nhà Phật, ba ác đạo: địa ngục, súc sinh, ngạ
quỷ gọi là hố lửa.
(15). Lăng hoa kính. một thứ gương quý ớ lẩu trang, cũng dùng
để ví người đàn bà đep. Chữ lăng ở đây còn ẩn giấu một sấm ngữ, vi Anh Liên về
sau bị Bàn Tiết cướp lấy làm tiểu thiếp, đổi tên là Hương Lăng.
(16). Ngày rằm tháng giêng, còn gọi là tiết hoa đăng.
(17). Bài hát này trong nguyên văn, chữ cuối trong câu thứ nhất
đều là chữ “hảo” là tốt, chữ cuối cùng của các câu thứ hai và thứ tư đều là “liễư”
là hết, cho nên gọi là “hảo liễu ca”.
Hồi 2:
Giả phu nhân tạ thế ở thành Dương Châu
Lãnh Tử Hưng kể chuyện trong phủ Vinh Quốc
Phong Túc nghe thấy tên công sai gọi, vội vàng chạy ra cười.
Tên kia nói to:
“Mời ngay ông Chân ra đây!”.
Phong Túc cười nói
- Tôi họ Phong chứ không phải họ Chân; chỉ có rể tôi là họ
Chân, nhưng đã đi tu vài năm nay rồi. Có phải ông hỏi nó không?
Tên công sai nói:
- Chẳng biết anh là chân hay giả gì hết. Tôi đã vâng lệnh
quan đến đây hỏi anh, tôi cứ dẫn anh về hầu quan, khỏi phải đi lại lôi thôi.
Chúng không cho Phong Túc nói, cứ dẫn đi, cả nhà họ Phong sợ
hãi không biết việc gì. Đến canh hai Phong Túc mới về vui mừng hớn hở. Mọi người
xúm lại hỏi. Phong Túc nói:
- Quan mới này họ Giả tên Hóa, người Hồ Châu, là bạn cũ của rể
ta. Vừa đây đi qua cửa nhà ta, trông thấy con Kiều Hạnh mua chỉ, quan đoán con
rể ta dời đến ở đây, nên gọi lại hỏi. Ta kể rõ đầu đuôi, quan thương cảm thở
dài một lúc lâu, lại hỏi đến cháu ngoại ta, ta nói cháu đi xem hội bị lạc mất.
Quan nói: “Việc ấy không ngại, ta sẽ sai người đi dò xét cho”. Nói chuyện một
lúc, khi sắp về, quan lại cho hai lạng bạc.
Vợ Chân Sĩ Ẩn nghe vậy, càng động lòng thương xót.
Sáng sớm hôm sau, Vũ Thôn sai người mang hai gói bạc, bốn tấm
gấm đến tạ Ơn vợ họ Chân. Lại đưa một phong thư kín cho Phong Túc, nhờ nói với
vợ họ Chân xin cưới Kiều Hạnh làm vợ hai. Phong Túc cười mừng hớn hở, chỉ sợ
không được vừa lòng quan, nên trước mặt con gái hết sức nói hùn vào. Rồi ngay
đêm ấy Phong Túc thuê một chiếc kiệu nhỏ đưa Kiều Hạnh vào dinh quan huyện. Vũ
Thôn vui mừng lắm, đưa trăm lạng bạc tặng Phong Túc, lại biếu vợ họ Chân nhiều
lễ vật, khuyên cứ yên tâm, chờ sau này sẽ tìm con gái giúp.
Nói đến Kiều Hạnh là người năm trước đã ngoảnh lại nhìn Giả
Vũ Thôn, chỉ vì một cái nhìn ngẫu nhiên mà thành ra một đoạn kỳ duyên, đó là một
việc không ngờ. May sao vận và mệnh đều tốt, về với Vũ Thôn mới có một năm, Kiều
Hạnh đã sinh được một con trai. Lại nữa năm sau, vợ cả Vũ Thôn ốm chết, Vũ Thôn
đưa nàng lên làm chính thất, đó là:
Ngẫu nhiên nhìn một cái,
Mà được ở trên người.
Nguyên năm trước Vũ Thôn được Sĩ Ẩn giúp tiền, ngày mười sáu
vào kinh. Đến ngày thi không ngờ đỗ tiến sĩ, được bổ làm tri phủ. Vũ Thôn tuy
tài giỏi, nhưng tính tham tàn, lại cậy tài khinh nhờn người trên, bọn đồng liêu
đều ghét. Nhận chức chưa đầy hai năm, Vũ Thôn bị quan trên lừa chỗ hớ, dâng sớ
hặc hắn: “Vốn tính gian giảo, giả dạng lễ nghi, mượn tiếng liêm chính, ngấm ngầm
giao kết với lũ hồ lang, gây ra nhiều chuyệnrắc rối cho nhân dân không sao chịu
nổi”. Vua giận cách chức. Vũ Thôn tuy trong lòng hổ thẹn, nhưng ngoài mặt vẫn
không có tí gì tỏ ra oán giận, vẫn vui vẻ như thường. Sau khi bàn giao xong, Vũ
Thôn nhặt nhạnh của cải, đưa gia quyến về quê rồi một mình đi ngao du những nơi
danh thắng. Một hôm ngẫu nhiên đến đất Duy Dương, Vũ Thôn được biết quan Diêm
Chính mới bổ đến năm nay là Lâm Như Hải.
Lâm Như Hải, họ Lâm, tên Hải, tên chữ Như Hải, là người Cô
Tô, đỗ Thám hoa khoa trước, được thăng chức Lan đài tự đại phu, nay bổ đến đây
làm Tuần diêm ngự sử mới hơn tháng nay. Ông tổ nhà Lâm Như Hải từng tập tước hầu,
đến Như Hải là năm đời. Theo lệ tập tước thì chỉ có ba đời, nhưng bố Như Hải được
vua đặc cách ra ơn, cho tập tước thêm một đời nữa. Như Hải thì do khoa cử xuất
thân, Họ Lâm tuy là nhà chung đỉnh, nhưng cũng dòng dõi thi thư. Chỉ tiếc họ
hàng không thịnh vượng, con cháu hiếm hoi, tuy có mấy ngành nhưng đều là họ xa,
không phải anh em ruột thịt. Như Hải đã bốn mươi tuổi, có một con trai lên ba,
mới chết năm ngoái. Dẫu có nhiều vợ lẽ nàng hầu, nhưng số hiếm hoi cũng chẳng
làm thế nào được. Chỉ có vợ cả là họ Giả sinh được một con gái tên gọi Đại Ngọc,
mới lên năm. Vợ chồng nưng niu con như hòn ngọc trên tay. Thấy con thông minh
tuấn tú. Như Hải cho đi học như con trai, sớm tối đỡ hiu quạnh.
Nói về Giả Vũ Thôn ở nhà trọ bị cảm gần một tháng trời mới khỏi.
Vừa mệt vừa hết tiền, hắn định tìm một chỗ ở tạm nào hợp với sức khỏe. Nhân gặp
hai người bạn cũng ở nhà trọ, biết quan Diêm Chính muốn đón thầy dạy con gái học,
Vũ Thôn liền nhờ bạn tiến cử, tìm kế yên thân. May sao ở đó chỉ có một cô học
trò và hai a hoàn làm bạn học. Cô học trò này vừa bé lại vừa yếu, thời giờ
không hạn định nhiều ít, vì thế Vũ Thôn rỗi lắm.
Thấm thoát đã hơn một tháng, không ngờ mẹ cô học trò là Giả
phu nhân ốm chết. Khi mẹ Ốm thì cô hầu hạ thuốc thang, khi mẹ mất thì cô giữ đủ
mọi tang lễ. Vũ Thôn định thôi dạy đi tìm việt khác, nhưng Như Hải muốn con cư
tang vẫn đi học, nên cố giữ lại. Gần đây vì quá thương xót, lại vốn người yếu sẵn,
nên bệnh của cô lại phát, phải nghỉ học luôn, Vũ Thôn ngồi rỗi, gặp những lúc
trời chiều êm ả, ăn xong lại ra ngoài chơi.
Một hôm, Vũ Thôn ra ngoài thành thưởng ngoạn phong cảnh thôn
quê, vui chân đi đến một chỗ non nước quanh co, rừng trúc xanh tốt, lờ mờ thấy
đằng xa có một tòa cổ miếu. Vũ Thôn đến đó thì thấy cửa ngõ xiêu vẹo, tường
vách đổ nát, có biển đề Trí Thông Tụ. Cạnh cửa lại có đôi câu đối đã cũ nát:
Sau mình còn chỗ, không lùi bước,
Trước mắt cùng đường, muốn ngoảnh đầu.
Vũ Thôn xem xong, nghĩ rằng: “Hai câu này văn thì thường
thôi, như ý sâu sắc. Xưa nay ta đi chơi nhiều núi nhiều chùa có tiếng, chưa từng
thấy câu đối nào thế này. Chưa biết chừng trong đó có vị tu hành đắc đạo cũng
nên. Sao ta không vào hỏi xem?” Khi vào, thấy một vị sư già lọm khọm đang nấu
cháo, Vũ Thôn cũng không để ý đến. Lúc nói chuyện thấy vị sư vừa lòa vừa điếc,
răng rụng, lưỡi cứng, hỏi một đằng, trả lời một nẻo.
Vũ Thôn chán ngán, trở ra, muốn tìm một hàng rượu uống mấy
ché cho đỡ buồn. Hắn vừa bước vào cửa, thấy trong đám khách có một người chạy
ra cười và mời vào:
- Lạ thật! Lạ thật! Sao lại gặp tiên sinh ở đây?
Vũ Thôn vội nhìn, thì ra người này buôn đồ cổ ở Kinh đô, họ
Lãnh, tên Tử Hưng, đã quen nhau từ khi ở kinh đô. Vũ Thôn thì phục Tử Hưng là
tay có tài tháo vát, Tử Hưng thì muốn mượn tiếng Vũ Thôn là người văn nho, vì
thế hai người chơi thân với nhau.
Vũ Thôn vội hỏi:
- Ông đến đây bao giờ? Tôi không biết, ngẫu nhiên lại gặp thực
là kỳ duyên!
Tử Hưng đáp:
- Tôi về nhà năm ngoái, nhân có việc vào kinh, tiện đường đến
đây thăm một người bạn. Ông ta có lòng tốt, lưu tôi lại ở chơi, tôi không có việc
gì gấp, nên cũng ở lại ít ngày, độ nửa tháng nữa sẽ lên đường. Hôm nay vì nhà
ông bạn có việc, nên tôi ra đây chơi, định vào nghỉ chân, không ngờ lại gặp
tiên sinh!
Nói xong mời Giả Vũ Thôn ngồi. Tử Hưng bảo dọn rượn, hai người
uống rượu nói chuyện, kể lại những việc từ ngày xa nhau. Vũ Thôn nhân hỏi:
- Gần đây kinh đô có gì lại không
- Cũng không có gì lạ, chỉ có nhà dòng họ với tiên sinh có một
chuyện hơi lạ.
Vũ Thôn cười:
- Họ tôi không có ai ở kinh đô cả, sao lại nói thế?
Tử Hưng cười:
- Cùng họ thôi, không phải cùng ngành.
- Nhà nào?
- Như phủ Giả Vinh Quốc có lẽ cũng không làm mất thanh danh
nhà tiên sinh!
- Phủ Vinh Quốc công à? Cứ kể ra, họ nhà tôi cũng không ít
người, từ Giả Phục đời Đông Hán đến giờ, chi phái rất đông, tỉnh nào cũng có,
không ai tra khảo hết được. Kể ra phủ Vinh thì có cùng họ với tôi đấy, nhưng
nhà ấy vinh hiển như thế, tôi không tiện nhận họ, nên ngày càng xa.
Tử Hưng thở dài:
- Tiên sinh đừng nói thế. Hiện nay hai nhà Vinh, Ninh đều suy
sút cả, không còn thịnh vượng như trước nữa.
- Hiện giờ hai nhà Ninh, Vinh người rất nhiều, sao bảo là suy
sút?
- Chính thế, nói ra thì rất dài.
- Năm ngoái tôi đến Kim Lăng, vì muốn thăm di tích Lục Triều(#1).
Khi tôi đến thành Thạch Đầu, có đi qua hai nhà ấy. Con đường bắc lộ bên đông là
phủ Ninh Quốc, bên tây là phủ Vinh Quốc, hai nhà liền nhau, chiếm quá nửa phố.
Ngoài cửa chính tuy vắng vẻ không có người, nhưng nhìn qua tường, thấy trong đó
điện đài lầu gác rất là nguy nga; ngay cái vườn hoa đằng sau, cây cối núi non vẫn
sầm uất tươi tết, đâu phải là nhà suy sút?
Tử Hưng cười nói:
- Không ngờ tiên sinh đỗ tiến sĩ, mà lại chẳng thông tí nào!
Cổ nhân đã nói: “con sâu trăm nhân, chết vẫn không ngã”. Hai nhà này tuy không
phồn thịnh bằng lúc trước, nhưng so với những nhà sĩ hoạn bình thường vẫn còn
khác xa. Hiện giờ người nhiều, công việc bề bộn. Thế mà từ thầy đến tớ, chỉ biết
hưởng thụ phú quý, không người nào lo tính công việc. Đến nỗi hàng ngày phung
phí cũng không biết tinh giảm; bề ngoài xem ra không thấy có gì thay đổi, nhưng
bề trong thực trống rỗng cả rồi. Đó là việc nhỏ, còn có việc lớn nữa: một nhà
phú quý dòng dõi thi thư như thế mà ai ngờ con cháu lại càng ngày càng suy sút!
Vũ Thôn nói:
- Những nhà thi lễ như thế, có lẽ nào lại không biết dạy bảo
con cháu? Nhà khác thì tôi không biết, chứ hai phủ Ninh, phủ Vinh, xưa nay dạy
con vẫn có khuôn phép lắm kia mà?
Tử Hưng thở dài:
- Tôi sẽ nói cho tiên sinh biết. Trước đây Ninh quốc công và
Vinh quốc công là hai anh em ruột. Ninh công là trưởng, đẻ hai con trai; khi
Ninh công chết, con trai lớn là Giả Đại Hóa tập tước Đại Hóa đẻ được hai con:
con lớn là Giả Phu, lên tám, chín tuổi thì chết; con thứ là Giả Kính tập tước.
Giả Kính một niềm mộ đạo, chỉ thích luyện đan, không để ý đến một việc gì. May
sớm đẻ được con trai là Giả Trân, vì bố thích đi tu tiên nên nhường cho con tập
tước. Ông ta không ở nhà, mà ra ở ngoài thành, sống chung lộn với bọn đạo sĩ.
Giả Trân đẻ được một con trai là Giả Dung, nay mới mười sáu tuổi. Bây giờ Giả
Kính thì không nhìn gì đến việc nhà, Giả Trân thì chẳng chịu học hành, chỉ chơi
bời cho thỏa thích, làm đảo lộn cả cơ nghiệp phủ Ninh, không ai dám ngăn cản cả.
Còn như phủ Vinh, vừa rồi tôi nói có việc lạ, tức là từ khi Vinh công chết, con
trưởng là Giả Đại Thiện tập tước, vợ Đại Thiện là họ Sử, con một tước hầu ở Kim
Lăng, đẻ được hai con trai: trưởng là Giả Xá, thứ là Giả Chính. Giả Đại Thiện
chết sớm, còn vợ, con trưởng là Giả Xá được tập tước. Con thứ là Giả Chính, tứ
bé ham học, được ông yêu, muốn cháu thi đỗ làm quan. Không ngờ lúc Đại Thiện sắp
chết, di biểu dâng lên, Hoàng thượng thương nhớ người bầy tôi cũ, liền cho con
trưởng tập tước. Hoàng thượng lại hỏi còn mấy con cho vào chầu ngay, rồi đặc
cách cho Giả Chính hàm chủ sự vào bộ tập sự. Nay Giả Chính đã được thăng Viên
ngoại lang. Vợ Giả Chính là Vương thị, đẻ con đầu lòng là Giả Châu, mười bốn tuổi
đỗ tú tài, lấy vợ sinh con, nhưng chưa đến hai mươi tuổi thì ốm chết. Con thứ
hai là gái, đẻ đúng ngày mồng một tháng giêng, cũng là một sự lạ. Mấy năm sau lại
đẻ một vị công tử. Chuyện này lại càng lạ nữa: khi lọt lòng, trong miệng cậu ta
ngậm một hòn ngọc ngũ sắc, trên hòn ngọc có ghi nhiều chữ, nên mới đặt tên là Bảo
Ngọc. Tiên sinh bảo chuyện ấy có lạ không?
Vũ Thôn cười:
- Như thế thì lạ thực! Người này chắc có một lai lịch khác
thường!
Tử Hưng cười nhạt:
- Hàng vạn người đều nói như thế, vì vậy bà nội nó yêu quý nó
như hòn ngọc báu. Khi đầy năm, Giả Chính muốn thử chí hướng con về sau thế nào,
mới đem những đồ chơi bày ra trước mặt để xem nó quờ lấy cái gì. Ngờ đâu nó chẳng
lấy cái gì, mà chỉ quờ lấy phấn sáp, trâm vòng. Giả Chính không vui, bảo sau
này chỉ là đồ tửu sắc, vì thế không yêu quý lắm. Duy có bà Sử Thái quân thì coi
nó như là bản mệnh mình. Nói lại càng lạ: Ngày nay nó đã lên bảy, lên tám, tính
khí ngang ngược lạ thường, nhưng lại thông minh gấp trăm người khác. Nhắc lại
câu nói hồi nhỏ của nó thật là kỳ quặc! Nó nói: “Xương thịt của con gái là nước
kết thành, xương thịt của con trai là bùn kết thành. Tôi trông thấy con gái thì
người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, trông thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bẩn
vậy”. Tiên sinh bảo có buồn cười không? Chắc sau này cậu ta sẽ là con quỷ hiếu
sắc.
Vũ Thôn nghiêm nét mặt ngắt lời:
- Không phải thế đâu! Đáng tiếc là các vị không biết lai lịch
cậu bé ấy. Cũng như ông Giả Chính đã coi nhầm cậu ta là quỷ hiếu sắc! Nếu không
phải là những bậc đọc sách hiểu biết nhiều dày công cách vật trí tri, đủ sức
tham huyền ngộ đạo(#2), thì không thể biết được.
Tử Hưng thấy Vũ Thôn nói một cách trịnh trọng, vội xin cho biết
vì lẽ gì.
Vũ Thôn nói:
- Trời đất sinh ra người, trừ những người đại nhân, đại ác
không kể, còn thì sàn sàn như nhau. Những bực đại nhân thì theo vận mà sinh, những
kẻ đại ác theo kiếp(#3) mà sinh. Theo vận mà sinh thì đời trị, theo kiếp mà
sinh thì đời loạn. Như các vị Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ, Chu, Thiệu, Khổng,
Mạnh, Đổng, Hàn, Chu, Trình, Trương, Chu (#4) đều theo vận mà sinh, Bọn Xuy Vưu,
Cung Công, Kiệt, Trụ, Thủy Hoàng, Vương Mãng, Tào Tháo, Hoàn Ôn, An Lộc Sơn, Tần
Cối (#5) đều đúng kiếp mà sinh. Đại nhân thì làm sao cho thiên hạ bình trị. Đại
ác thì làm cho thiên hạ nhiễu loạn. Người nhân thì bẩm thụ chính khí trong sáng
thiêng liêng; người ác thì bẩm thụ những tà khí tàn nhẫn ngang ngược. Bây giờ
đang lúc hưng thịnh thái bình, trên từ triều đình, dưới đến đồng nội, hết thảy
đều chịu cái chính khí trong sáng thiêng liêng. Những khí còn thừa lại tản mát
không biết về đâu, mới biến ra thành cam lộ, hòa phong, tràn khắp trong bốn bể.
Còn những tà khí kia không thể lan tràn dưới ánh sáng mặt trời được, liền tụ kết
lại ở trong ngòi sâu, hang rộng, ngẫu nhiên gặp gió lay, mây cuốn, thì cũng dao
động, cảm phát ra ít nhiều, một dây nửa sợi tung ra, lại gặp ngay linh khí đi
qua, thành ra chính không dung được tà, tà lại ghen với chính, không bên nào chịu
bên nào, như gió nước sấm sét gặp nhau trên mặt đất. Đã không tiêu diệt được
nhau, lại không chịu nhường nhau, tất phải xung đột mãnh liệt. Khi đã phát tiết
ra, các tà khí ấy tất phải bám vào người. Nếu ai bẩm thụ khí ấy mà sinh ra, dù
trai hay gái, trên không làm được bậc chân nhân quân tử, mà dưới cũng không làm
nổi hạng đại hung đại ác. Đem hạng người đó đặt vào trong ngàn vạn người, thì
khí thông minh tuấn tú sẽ ở trên ngàn vạn người, mà cái lối bướng bỉnh càn rỡ
cũng lại ở dưới ngàn vạn người. Nếu sinh vào nhà công hầu phú quý, thì là hạng
người tình si tình chủng; sinh vào nhà thi thư thanh bạch thì là dật sĩ cao
nhân; dù có sinh vào những nhà hèn hạ thì cũng là đào kép danh tiếng, chứ không
đến nỗi làm tôi đòi cam chịu sai khiến. Trước kia như Hứa Do, Đào Tiềm, Nguyễn
Tịch, Kê Khang, Lưu Linh, họ Vương, họ Tạ, Cố Hổ Đầu, Trần Hậu Chủ, Đường Minh
Hoàng, Tống Huy Tông, Lưu Đình Chi, Ôn Phi Khanh, Thạch Mạn Khanh, Mễ Nam Cung,
Liễu Kỳ lanh, Tần Thiếu Du; gần đây như: Nghê Vân Lâm, Đường Bá Hổ, Chúc Chi
Sơn; lại như: Lý Qúy Niên, Hoàng Phiên Xước, Kính Tân Ma, Trác Văn Quân, Hồng
Phất, Tiết Đào, Thôi Oanh Oanh, Triều Vân(#6). Tuy địa vị họ khác nhau nhưng
cũng giống nhau cả.
- Cứ như tiên sinh nói thì chả hóa ra được làm vua, thua làm
giặc hay sao?
- Đúng thế. Tôi từ khi bị cách chức đến giờ, hai năm đi chơi
các tỉnh, đã từng gặp hai đứa trẻ dị dạng. Vì thế ông vừa nói đến câu chuyện Bảo
Ngọc, tôi liền đoán chắc cậu bé này cũng là hạng người kể vừa trên. Không cần
nói xa, chỉ cần nói ngay nhà họ Chân, làm chức Tổng tài viện Thể nhân ở Kim
Lăng thôi. Ông có biết không?
- Ai mà chả biết! Nhà họ Chân và nhà họ Giả là họ hàng với
nhau, đời đời đi lại rất thân mật, ngay tôi cũng thường ra vào nhà ấy.
- Năm ngoái tôi ở Kim Lăng, có người đánh mối cho tôi đến dạy
học ở nhà họ Chân. Tôi đến đó xem quang cảnh ra sao, không ngờ nhà ấy là nhà
phú quý mà lại biết giữ lễ nghĩa, ít có một chỗ dạy học nào được như thế. Tên học
trò ấy tuy mới vỡ lòng, nhưng khó hơn là dạy người lớn để đi thi. Nói ra thật
đáng buồn cười, tên học trò bé con ấy thế nói này: “Phải có hai bạn gái bé cùng
học với tôi, tôi mới nhận được chữ, hiểu được nghĩa; nếu không thì bụng tôi cứ
mờ đặc đi”. Nó lại thường nói với bọn người nhà: “Hai chữ “nữ nhi” đối với tôi
rất tôn quý, rất trong sạch, không gì sánh kịp, hơn cả phật Di Đà và Ngọc Đế.
Các người là hạng thối mồm thối miệng, chớ có nông nổi coi thường hai chữ ấy.
Khi nào cần nói đến phải lấy nước chế thơm súc miệng kỹ đã rồi mới được nói; nếu
mà nói bậy, sẽ bị bẻ răng khoét mắt”. Lúc thường thì nó ngỗ nghịch trâng tráo,
bướng bỉnh, ngốc nghếch là thường; nhưng khi gặp mấy bạn gái, nó lại ôn hòa văn
nhã, láu lỉnh thành một con người khác hẳn. Bố nó nhiều lần đánh rất đau mà nó
vẫn không chữa. Mỗi lần bị đánh đau không chịu được, nó gọi ầm lên “chị em ơi”.
Bọn con gái nghe thấy thế, cười hỏi: “Tại làm sao khi bị đòn cứ gọi “chị em” ra
làm gì? Hay là muốn gọi chị em ra xin hộ? Như thế có đáng xấu hổ không?” Nó trả
lời một câu rất kỳ: “Lúc đau quá, tôi nghĩ bụng thử kêu “chị em”, họa may đỡ
chăng, quả nhiên khi kêu lên thì thấy đỡ. Vì thế, tôi tìm ra được phép mầu nhiệm:
Mỗi khi bị đánh là tôi cứ thế kêu lên. Tôn huynh nghe chuyện này có đáng buồn
cười không? Vì bà quá nuông cháu, thường lam rầy rà mà quở mắng người con, nên
tôi không ở đấy nữa mà đến dạy học ở nhà họ Lâm, làm Tuần diêm ngự sử tại đây.
Những hạng con em ấy tất không giữ được cơ nghiệp ông cha. Không theo được lời
dạy dỗ của thầy bạn. Chỉ đáng tiếc là nhà ấy có mấy chị em gái thì lại khôn
ngoan ít có!
Tử Hưng nói:
- Thôi đúng như mấy chị em nhà họ Giả rồi. Tiểu thư lớn nhất
của Giả Hình là Nguyên Xuân, có tài đức hiền hiếu, được tuyển vào cung làm nữ Sử,
tiểu thư thứ hai là Nghênh Xuân, con vợ lẽ Giả Xá. Tiểu thư thứ ba là Thám
Xuân, con vợ lẽ Giả Chính. Tiểu thư thứ tư là Tích Xuân, em ruột Giả Trân ở bên
phủ Ninh. Vì Giả mẫu rất yêu cháu gái, nên đều cho ở chung với bà và cùng học
chung với nhau. Nghe ra đều là hạng khá cả.
Vũ Thôn nói:
- Nhà họ Chân thì lại hay nữa, tên con gái cũng đặt như con
trai, chứ không như các nhà khác thường dùng những chữ đẹp như “Xuân” “Hồng”
“Hương” “Ngọc”. Sao nhà họ Giả lại còn theo cái lối cũ ấy?
- Không phải thế. Chỉ vì cô lớn sinh ngày mồng một tháng iêng
nên đặt là Nguyên Xuân, nên các cô sau cũng đặt theo chữ “Xuân”. Còn hàng trên
thì con gái cũng đặt tên theo như con trai. Này nhé(#7): vợ Ông chủ nhà họ Lâm
mà tiên sinh ngồi dạy học là em ruột Giả Xá và Giả Chính bên phủ Vinh, khi chưa
lấy chồng đặt tên là Giả Mẫn. Nếu tiên sinh không tin, cứ về hỏi kỹ lại xem.
Vũ Thôn vỗ tay cười:
- Phải rồi! Cô học trò của tôi, khi đọc sách đến chữ Mẫn thì
nó đọc là Mật, mà viết chữ Mẫn thì bớt vài nét, bấy lâu tôi vẫn ngờ ngợ. Nay
nghe ông nói mới vỡ lẽ. Thảo nào cô học trò này ngôn ngữ, cử chỉ khác hẳn những
con gái nhà khác. Chắc người mẹ không phải tầm thường mới sinh được con như thế.
Nay biết là cháu ngoại phủ Vinh thì chẳng có gì làm lạ. Tiếc rằng tháng trước
người mẹ mất rối!
Tử Hưng thở dài:
- Trong mấy chị em nhà ấy: Giả Mẫn là út cũng lại chết mất!
Chị em hàng trên thế là không còn ai, chỉ trông vào lớp con cháu, sau này may
có lấy được chồng khá không?
- Phải đấy. Vừa rồi ông nói, Giả Chính có một người con trai
khi đẻ ngậm ngọc, lại có một người cháu bé của con trưởng để lại; thế thì Giả
Xá không có con hay sao?
- Giả Chính đã có người con trai ngậm ngọc, nàng hầu lại sinh
thêm một người con trai nữa, nhưng chưa biết hay dở thế nào. Chỉ biết hiện giờ
có hai con một cháu, không biết sao này ra sao. Giả Xá thì cũng có hai con. Con
cả là Giả Liễn quyên được chức Đồng tri, nhưng không ham học hành, chỉ thích
mưu toan xoay sở, ăn nói lại thạo, nên sang trông nom đỡ việc cho nhà chú là Giả
Chính. Từ khi hắn lấy vợ, trên dưới ai cũng khen ngợi chị vợ. Chị ta vẻ người rất
phong nhã, ăn nói rất linh lợi, tâm cơ lại rất kín đáo, sâu sắc, bọn đàn ông
không mấy người bì kịp.
Vũ Thôn nghe xong cười:
- Thế mới biết tôi nói không nhầm. Mấy người mà chúng ta nói
đây có lẽ là bẩm thụ cả hai thứ chính khí và tà khí hỗn hợp nhau mà sinh ra
chăng? Họ là những người một hội một thuyền cũng chưa biết chừng.
- Chính cũng kệ! Tà cũng kệ! Chỉ nói chuyện người mãi, tiên
sinh hãy uống rượu đã cho vui.
- Có nói chuyện mới uống được nhiều rượu.
Tử Hưng cười:
- Nói chuyện phiếm của người càng thêm hào hứng, thì uống mấy
chén nữa cũng chẳng sao!
Vũ Thôn trông ra ngoài cửa sổ nói:
- Trời muộn rồi, sắp đóng cửa thành, chúng ta vào thành rồi
nói chuyện cũng được.
Hai người đứng dậy trả tiền rượu. Lúc sắp về, chợt nghe đằng
sau có người gọi:
- Anh Vũ Thôn! Tôi đem tin mừng lại đây. Anh lại nơi thôn quê
này làm gì?.
Chú thích:
(1-). Lục Triều: Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề. Lương, Trần. Sáu
triều đều đóng đô ở Kiến Khang, tức là Nam Kinh cửa Trung Quốc.
(2-). Chữ trong sách Đại học: “trí tri tại cách vật”: muốn
đưa trình độ hiểu biết đến bực cao siêu phải suy xét đến nơi đến chốn mọi lý lẽ
của sự vật. Tham huyền: dò sâu vào chỗ huyền bí. Ngộ đạo: hiểu thấu đạo mẩu nhiệm.
(3-). Vận và kiếp theo thuyết thuật số có nghĩa khác nhau. Vận
chỉ thời vận tốt, kiếp chỉ kiếp hạn xấu.
(4-). Vua Nghiêu nhà Đường, Vua Thuấn nhà Ngụ Vua Vũ nhà Hạ,
Vua Thang nhà Thương, Vua Văn vua Vũ nhà Chu, Chu Công Đán, Thiệu Công Thích đều
là con Văn Vương, có công lớn với nhà Chụ Khổng Tử, Mạnh Tử là bậc thánh hiền của
nho học.
Đổng Trọng Thư đỗ bác sĩ đời Hán Vũ Đế, có tài chính trị, suốt
ba năm buông màn đọc sách, không nhin ra ngoài.
Hàn Dũ là một nhà văn nổi tiếng đời Đường, tính thẳng,có làm
bộ Hắn Xương lê toàn tập.
Chu Đôn Di: Tên chữ là Liêm Khê, là Mậu Thúc. Ông là thủy tổ
nền lý học nhà Tống, có làm quyển Thái cực đồ thuyết và Thông thư, thầy học của
hai ông Trình Di, Trình Hạo.
Trình Hạo: Tên chữ Bá Thuần, đỗ tiến sĩ đời Thần Tông nhà Tống,
học rộng, có làm bộ sách Định tính, người ta gọi là Minh Đạo tiên sinh.
Trình Di: Em ruột Trình Hao, tính thành thực, thấu hiểu mọi sự
vật. Có làm truyện giải thích Kinh Dịch và kinh Xuân Thụ Người ta gọi là Y
Xuyên tiên sinh.
Trương Tái: Tên chữ là Tử Hậu, bạn học của hai ông Trình Di
và Trình Hao. Có làm ra Trương sử toàn thư mười bốn quyển như Đông Tây Minh,
Chính Mông, Kinh Học, Lý Quật...
Chu Hy: Tên chữ là Nguyên Hối, đỗ tiến sĩ đời nhà Tống. Học
hiểu thấu mọi sự vật rồi sau quay vào thực tiễn. Nền lý học đời nhà Tống đến
ông này mới thực hoàn toàn. Người ta tôn là Khảo đình học phái.
(5-). Xuy Vưu là chư hầu của vua Hoàng Đế, chế ra đao nỏ, đi
quấy rối thiên hạ, Vua Hoàng Đế đánh hắn ớ Trác Lộc, hắn thua, hóa ra đám mù,
vua Hoàng Đế chế ra xe chỉ nam. Xuy Vưu bị giết chết.
Cung Công là quan tri thủy đời vua Nghiêu, trễ biếng công việc,
bị đày ra U Châu.
Cùng thời với hắn có: Hoan Đâu, Tam Miêu, Cổn, người ta gọi
là Tứ hung.
Hoàn Ôn: Người đời Tấn, khi mới đẻ, người ra nghe thấy tiếng
khóc, cho là vật lạ. Sau lấy Nam Khang công chúa, đánh giặc được nhiều trận,
phong là Nam quán công, uy thế lừng lẫy, lấn cả quyền vua, có ý phản dân phản
nước. Hắn thường nói: “Con trai không để được tiếng thơm cho đời, cũng nên để
tiếng xấu cho đời sau”.
An Lộc Sơn được vua Đường Minh Hoàng tin dùng làm đến chức Tiết
độ sứ. Thường đi lại với Dương Qúy phi, xin làm con nuôi, sau làm phản, tự xưng
là Hùng Võ hoàng đế nhà Yên, rồi bị con là Khánh Tự giết chết.
Tần Cối tính tàn nhẫn, hiểm ác, nhờ thế lực nước Kim làm đến
chức tể tướng, giết hại nhiều trung thần võ tướng như Nhạc Phi.
(6-). Hứa Do: Một vi cao ẩn ở đất Bái Trạch. được vua Nghiêu
nhường cho thiên hạ không nhận, ra sông Đinh Thủy rửa tai.
Đào Tiềm: Tên chữ Uyên Minh, người đời Tấn, tính cao thượng
giản dị. Khi làm quan lệnh ở Bành Trạch, trên quận sai quan đến, người ta bảo
phải mũ áo ra tiếp, Đào Tiềm nói: “Ta không thể vì năm đấu gạo mà uốn lưng được.”
rồi bỏ quan về.
Nguyễn Tịch: tên chữ là Tự Tôn, người đời Tấn, học rộng, thơ
hay, đàn giỏi, thích uống nrợu, biết phân biệt kẻ hay người dở, người hay thì
tiếp bằng mắt xanh, người dở thì tiếp bằng mắt trắng. Có làm một tập thơ Vịnh
hoài hơn tám mươi bài, bài Đạt sinh luận và truyện Đạt nhân tiên sinh.
Kê Khang: Người đời Tấn. Học rộng, tính lười biếng, làm quan
trung tán đại phu, là một trong bọn bảy người ờ Trúc lâm thất hiền.
Lưu Linh: Làm chức Kiến uy tham quân đời Tấn. Là một người
trong Trúc lâm thất hiền, tính nghiện rượu, đi đâu cũng uống sai người mang đi
theo, dặn hễ chết thì chôn ngaỵ Có làm bài Tửu đức tụng.
Vương, Tạ: Vương Thản Chi và Tạ An, hai họ này có tiếng nhất
đời Tống. vì thế con trai nhà quý phái đều muốn lấy con gái họ Vương, họ Tạ.
Cố Hổ Đầu: Người đời Tấn. Học rộng, tài giỏi, vẽ khéo.
Trần Hậu Chủ: Hay chữ, sau khi lên ngôi vua, ham mê tửu sắc,
suốt ngày chỉ chơi đùa với phi tần và hiệp khách, ăn yến làm thơ, chẳng nghĩ gì
đến công việc. Khi quân Tùy đến đánh vẫn còn say rượu, hát xướng. Sau bị tướng
nhà Tùy là Hàn Cầm Hổ bắt được ờ trong giếng Cảnh Dương đem về. Vua Tùy phong
cho làm Trường Thành công.
Ôn Phi Khanh: Người đời Đường. Tư chất thông minh, làm từ phú
rất hay, nhưng không biết giữ gìn tính nết, thích nói những lời dâm đãng, bị sĩ
phu thời bấy giờ khinh bỉ.
Thạch Mạn Khanh: Người đời Tống, tính lỗi lạc, có khí tiết,
biết phân biệt điều phải điều trái. Thơ hay chữ tốt. thường làm những bài nói về
sách lược quốc phòng.
Mễ Nam Cung: Người đời Tống, thơ hay, vẽ khéo, thường dắt bạn
đi thưởng ngoạn sơn thủy. Trong thuyền lúc nào cũng đầy thơ và tranh vẽ. Vì đã
làm chức Nam Cung Xá Nhân, nên người ta thường gọi là Mễ Nam Cung.
Liễu Kỳ Hình: Tên là Vinh. Đỗ Tiến sĩ đời Tống, làm chức đồn
điền viên ngoại lang, nên người ta thường gọi là Liễu đồn điền. Tính lãng mạn.
làm nhiều bài ca từ lẳng lơ như bài Nhạc thường tập. Hễ có vở hát nào mới ra, tất
phải nhờ ông làm từ giới thiệu, thì bán mới đắt. Sau vì túng thiếu, đi lưu lạc
khắp nơi. Khi chết, các chị em ca kỹ phải góp tiền làm ma cho.
Tần Thiếu Du: Người đời Tống. Học rộng nhưng tính kiêu ngạo,
vi có tài nên được cử làm chức Hán lâm học sĩ, giữ việc chép sứ với Tô Triệt,
Tô Thức. Sau lấy em hai ông này.
Nghê Văn Lâm: Người đời Nguyên. Nhà giàu, danh sĩ các nơi thường
đến chơi, thơ hay, vẽ sơn thủy khéo. Lúc già thích thanh đạm và tĩnh mịch. Chỗ ở
có Thanh bật các, Văn lãm đường, trong chứa rất nhiều thơ họa, đồ cổ, sách lạ,
thường đi thuyền thưởng ngoạn các nơi sơn thủy. Mặc bộ quan áo nhà quê, ở lẫn lộn
vào chốn hương thôn. Có làm bộ Thanh bật các tập.
Đường Bá Hổ: Người đời Minh, nhà nghèo nhưng thích bạn, văn
hay, vẽ khéo, cùng bọn Từ Trinh Khang, Chúc Chi Sơn, Văn Trung Minh. Người ta gọi
là bốn tài tử ở đất Ngô Trung.
Chùc Chi Sơn: Người đời Minh, vì lúc mới đẻ có ngón tay thừa,
tự hiệu là Chi Sơn. Chúc Chi Sơn xem sách rộng. thơ hay chữ tốt.
Lý Quy Niên: Người đời Đường, giỏi âm luật, cùng với Tôn đại
nương lúc bấy giờ giỏi về múa hát.
Kính Tân Ma: Trùm phường chèo đời Ngũ Đại. Bấy giờ vua Trang
Tông đi săn, giẫm phải vào ruộng lúa. Viên huyện ở đấy can, vua giận định đem
giết. Kính Tân Ma trách viên huyện: “Ông làm quan ở đây lại dám cho dân cày cấy
nộp thuế. Sao không để trừ chỗ này để cho vua đi săn. Thây kệ dân đói có được
không? Tội ông thế đáng chết là phải”. Vua nghe nói cười lên rồi tha viên huyện.
Hồng Phật: Tên là Xuất Trần, người đời Tùy, gái hầu của Dương
Tố. Lý Tĩnh mặc áo vải vào chầu Dương Tố, Xuất Trần có sắc đẹp, tay cầm phất trần,
mắt vẫn liếc Lý T ĩnh. Đêm hôm ấy, lẻn sang nhà Lý Tĩnh nói: “Thiếp là thị tỳ
nhà họ Dương đây, dây leo này giờ ai uốn nhờ bóng cây cao”. Rồi hai người cùng
trốn sang đất Thái Nguyên. Sau Trương Minh Phương đời Minh có làm bài Hồng Phật
Ký.
Tiệt Đào: Danh sĩ đời Đường, hiểu biết âm luật, làm thi từ
hay, thường xướng họa với bọn danh sĩ lúc bấy giờ như Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị,
Đỗ Mục... lại biết chê giấy hoa tiên. Hiện giờ còn có cái giếng tên Tiệt Đào
Tĩnh. Có độ năm trăm bài nho truyền ở đời.
Thôi Oanh Oanh: Con gái đời Đường. văn từ giỏi. Nguyên Chẩn
làm bộ Hội Chân ký nói: “Cha Oanh Oanh chết sớm. Oanh Oanh theo mẹ về Trường An
ở chùa Bồ đông phổ cứu, gặp Trương sinh thơ từ đi lại, tình yêu rất nồng nàn.
Sau Vương Thực Phủ đời nhà Nguyên có làm ra vở hát Tây Sương ký truyền kỳ.
Triều Vân: Người đời Tống, là kỹ nữ ở Tiền Đường. Khi Tô Thức
làm quan ở đấy, lấy làm nàng hầu, lúc trước thì chưa biết chữ nghĩa gì, sau nhờ
có Tô Thức dạy bảo, biết làm thi từ, lại hiểu đạo Phật. Sau Tô Thức bị biếm ra
Huệ Châu, đám tỳ thiếp bỏ cả, chỉ có một mình Triều Vân đi theo.
(7-). Chỗ này Tử Hưng muốn dẫn chứng lối đặt tên con gái của
họ Giả không phải là theo lối cũ như Vũ Thôn vừa hỏi ở trên.
Hồi 3:
Nhờ anh vợ, Như Hải đền được ơn dạy bảo
Đón cháu ngoại, Giả mẫu xót thương trẻ mồ côi.
Vũ Thôn quay lại, thấy Trương Như Khuê, người vùng này, là bạn
đồng liêu và cũng bị cách chức như mình. Từ ngày bị cách, y về ở nhà. Khi được
tin tòa Trung Thư xin cho những người ấy được phục chức, y liền chạy vạy các
nơi. Gặp Vũ Thôn, y vội lại chào và báo tin. Vũ Thôn mừng lắm, nói chuyện mấy
câu rồi hai người từ giã chia taỵ Lãnh Tử Hưng biết chuyện, vội hiến một kế, bảo
Vũ Thôn nhờ Lâm Như Hải nói giúp với Giả Chính ở trong kinh. Vũ Thôn lĩnh ý, từ
biệt về nhà, tìm tờ quan báo xem thì quả có thực. Hôm sau hắn đem chuyện đó bàn
với Lâm Như Hải. Như Hải nói:
- May quá! Từ khi nhà tôi mất, nhạc mẫu tôi ở Kinh thường lo
cháu gái không ai trông nom, có lần đã cho người nhà mang thuyền đến đón. Nhưng
vì cháu hãy còn mệt chưa đi được ơn ông dạy cháu bấy lâu, chưa biết lấy gì cảm
tạ. Gặp dịp này lẽ nào tôi lại không hết lòng báo đáp. Xin ông cứ yên tâm. Tôi
định viết thư nhờ ông anh vợ giúp đỡ, gọi là tỏ chút lòng thành. Trong thư tôi
đã nói rõ cả rồi, có phí tổn gì ông cũng đừng nghĩ đến.
Vũ Thôn vái dài tạ Ơn luôn mồm, lại hỏi:
- Không biết lệnh thân hiện làm chức gì? Chỉ sợ tôi lỗ mãng
không dám đến hầu.
Như Hải cười nói:
- Ông anh vợ tôi là cháu cụ Vinh công, kể ra cũng là một họ với
ông đấy. Ông anh cả tên là Xá, tên chữ là An Hầu, hiện tập tước nhất đẳng tướng
quân. Ông anh thứ hai tên là Chính, tên chữ là Tồn Chu, hiện làm viên ngoại
lang bộ Công, là người khiêm cung phúc hậu, phong độ giống các cụ tôi trước, chứ
không phải hạng phù hoa khinh bạc, nên tôi mới dám viết thư tiến cử ông. Nếu
không, thì không những làm tổn thanh danh của ông, mà tôi cũng không thèm làm.
Vũ Thôn nghe xong, trong bụng tin ngày lời của Lãnh Tử Hưng,
lại tạ Ơn Lâm Như Hải. Như Hải nói:
- Ngày mồng hai tháng sau, tôi sẽ cho cháu vào Kinh. Mời ông
cùng đi, thật là lưỡng tiện.
Vũ Thôn vâng dạ, trong bụng rất mừng. Như Hải sửa soạn lễ vật
tiễn hành.
Đại Ngọc, một cô học trò vừa yếu khỏi, không muốn xa cha,
nhưng vì bà ngoại bắt phải vào. Lâm Như Hải dặn:
- Cha năm nay tuổi gần năm mươi, không muốn lấy vợ kế nữa. Vả
tuổi con còn bé, ốm yếu luôn; trên không có mẹ dạy bảo, dưới không có chị em
giúp đỡ. Bây giờ con vào nương nhờ bà ngoại, có các cậu mợ và các chị em, như
thế cho cha đỡ phải lo, sao con lại không muốn đi?
Đại Ngọc nghe xong, gạt nước mắt từ biệt cha xuống thuyền,
theo vú nuôi và các người ở Giả phủ đến đón. Vũ Thôn mang theo hai tiểu đồng ngồi
ở một chiếc thuyền khác. Khi đến kinh đô, Vũ Thôn chỉnh tề áo mũ, mang theo tiểu
đồng đưa danh thiếp vào trong phủ, xưng là cháu họ. Giả Chính xem thư của em rể
xong, vội vàng mời vào. Giả Chính vốn quý mến người học thức, kính trọng hiền
sĩ, cứu giúp người cùng túng, có phong độ hào phóng của tổ tiên ngày trước, nay
thấy Vũ Thôn mặt mũi khôi ngô, ăn nói phong nhã nên ông ta càng biệt đãi và hết
sức giúp đỡ hắn. Trong khi có bản đề cử, Giả Chinh cố chạy vạy cho Vũ Thôn được
phục chức. Chưa đầy hai tháng, Vũ Thôn được bổ tri phủ Ứng Thiên ở Kim Băng. Vũ
Thôn từ biệt Giả Chính chọn ngày đi nhận chức.
Đại Ngọc ở thuyền lên, đã có kiệu và xe chở hành lý của Vinh
phủ ra đón. Đại Ngọc thường nghe mẹ kể nhà bà ngoại khác hẳn mọi nơi, nay thấy
mấy người đến đón, tuy mới chỉ là người hạng ba, nhưng đều ăn mặc khác thường.
Đại Ngọc nghĩ bụng: Ta đã đến đây, càng phải cẩn thận để ý luôn, nếu lơ một lời,
sai một bước sẽ bị chê cười. Đại Ngọc lên kiệu vào thành, vén màn rừng ra, thấy
phố đẹp, người đông, phồn thịnh rất mực. Đi một lúc lâu, trông thấy đường phía
bắc có hai con sư tử đá quỳ, ba gian cổng chính có chạm đầu thú, trước cửa chừng
mười người mũ áo chỉnh tề đứng xếp hàng. Cửa giữa không mở. Người ra vào đều đi
hai cửa phía đông và tây. Trên cửa chính có một cái biển đề năm chữ to “Sắc tạo (#1)
Ninh quốc phủ”.
Đại Ngọc liền đoán: “Hẳn là nhà chi trưởng của bà ngoại ta
đây”. Lại đi sang phía tây một quãng không xa, cũng có ba gian cửa lớn, đây là
phủ Vinh quốc. Mọi người cũng không đi cửa giữa mà đi vào phía tây. Đi một lát,
đến chỗ rẽ thì hạ kiệu, và lùi ra. Những bà gìa theo hầu đều xuống kiệu, còn Đại
Ngọc thì đổi người khác khiêng. Những người khiêng toàn là mũ áo chỉnh tề, trạc
độ mười bảy, mười tám tuổi. Các bà hầu già đi bộ theo sau. Đến trước cửa có
giàn hoa, kiệu đỗ xuống, bọn con trai đều lui ra, những bà hầu già mở rèm đỡ Đại
Ngọc xuống.
Đại Ngọc vịn tay người hầu bước vào cửa hoa, hai bên có hai
dãy hành lang, giữa là xuyên đường (#2). Ngay lối vào có một bức bình phong bằng
đá Đại Lý (#3) đặt trên giá gỗ đàn hương. Qua bức bình phong, có ba gian nhỏ,
sau là một tòa nhà lớn năm gian, xà cột chạm vẽ. Hai bên hành lang treo nhiều lồng
chim anh vũ, họa mị Trên thềm, mấy a hoàn quần áo xanh đỏ ngồi chực. Thấy Đại
Ngọc đến, bọn a hoàn liền đứng dậy niềm nở tiếp đón:
- Cô đến rất đúng, cụ (#4) vừa nhắc xong.
Rồi ba bốn người tranh nhau vén rèm. Nghe có người nói to:
“Cô Lâm đã đến”.
Đại Ngọc vừa bước vào nhà, thấy hai người đỡ một cụ già đầu bạc
như tuyết, ra đón. Đại Ngọc biết ngay là bà ngoại, toan sụp xuống lạy, thì bà
đã ôm ngay vào lòng kêu lên: “Ruột thịt của ta đây”. Rồi khóc nức nở. Những người
đứng hầu ai cũng sa nước mắt. Đại Ngọc cũng khóc, mọi người dần dần khuyên giải
mới thôi. Đại Ngọc làm lễ chào bà ngoại, tức là bà mẹ Giả Chính mà Tử Hưng vẫn
gọi là Sử thái quân. Giả mẫu trỏ từng người và bảo Đại Ngọc:
- Đây là mợ Cả (#5). Đây là mợ hai (#6). Đây là vợ anh Châu, chị
dâu góa của cháu.
Đại Ngọc chào từng người một. Giả mẫu lại bảo:
- Đi mời các cộ Hôm nay có khách xa đến, nghỉ học cũng được
Mọi người vâng lời rồi đi.
Một chốc, thấy ba người vú, năm sáu a hoàn dẫn ba cô đến. Cô
thứ nhất, người nở nang, tầm thước, nước da nõn nà, má đỏ hồng hào như quả vải
tươi, mũi loáng như xoa mỡ, tính nết ôn hòa kín đáo, thoạt nhìn đã thấy mến. Cô
thứ hai, vóc dáng tròn trặn, người dong dỏng cao, mặt trái xoan, mắt sắc, lông
mày dài, nhìn ngắm tình tứ, thanh tú khác thường, trông như thoát hẳn trần tục.
Cô thứ ba, ít tuổi, vóc người còn nhỏ. Ba cô quần áo trang sức đều như nhau. Đại
Ngọc vội vàng đứng dậy chào hỏi. Chị em nhận nhau rồi đều về chỗ ngồi. A hoàn
bưng nước trà lên. Mọi người thăm hỏi: Mẹ Đại Ngọc ốm đau làm sao, thuốc thang
thế nào? Khi mất, tang lễ ra sao? Giã mẫu nghe vậy lại càng thương xót, nói:
- Trong mấy đứa con gái, ta thương nhất là mẹ cháu. Nay nó chết
trước, không được gặp mặt, thấy cháu nhẽ nào ta không thương tâm!
Nói xong, lại bế Đại Ngọc vào lòng khóc nức nở. Mọi người vội
vàng khuyên giải mới thôi.
Đại Ngọc tuy còn bé, nhưng ngôn ngữ cử chỉ đứng đắn. Người yếu
như không mang nổi cái áo, nhưng có một vẻ yêu kiều yểu điệu riêng. Mọi người
thấy thế, biết ngay là khi sinh ra khí huyết không đủ. Có người hỏi:
- Thường uống thuốc gì? Vì sao không kíp chữa đi?
Đại Ngọc nói:
- Cháu xưa nay vẫn thế. Từ khi mới biết ăn cơm, đã phải uống
thuốc rồi. Qua nhiều thầy giỏi, kê đơn bốc thuốc, nhưng đều chưa thấy công hiệu.
Nhớ năm cháu lên ba, có một nhà sư chốc đầu bảo cháu nên đi tụ Cha cháu không
nghe. Nhà sư ấy lại nói: Đã không chịu rời nó ra thì nó sẽ ốm đau cả đời! Muốn
cho nó khỏe, thì từ giờ trở đi, chớ để nó nghe tiếng khóc; trừ bố mẹ ra, những
người thân thích bên ngoại đừng cho gặp ai. Như vậy may ra mới bình yên được”.
Những câu điên dại như thế chẳng ai buồn nghe cả. Hiện nay cháu đang uống thuốc
nhân sâm dưỡng vinh".
Giả mẫu nói:
- Tốt đấy, ở đây bà cũng đang làm thứ thuốc ấy, bảo làm thêm
một tễ cho cháu.
Nói chưa dứt lời đã nghe phía sau nhà có tiếng cười:
- Tôi đến chậm, không được ra đón khách.
Đại Ngọc lấy làm lạ, nghĩ bụng: “Ở đây ai cũng im hơi lặng tiếng,
khép nép nghiêm trang, không biết người nào mà lại dám vô lễ, ăn nói bô bô như
thế”. Chợt thấy bọn hầu đỡ một người từ phòng sau lại. Người này trang sức
không giống các cô kia, gấm thêu lộng lẫy, trông như một vị thần tiên! Trên đầu,
đỡ tóc bằng kim tuyến xâu hạt châu, cài trâm ngũ phượng Triệu Dương (#7) đính hạt
châu, cổ đeo vòng vàng chạm con ly, mình mặc áo vóc đại hồng chẽn thêu trăm bướm
lượn hoa bằng chỉ kim tuyến, ngoài khoác áo màu xanh lót bằng lông chuột bạch
viền chỉ ngũ sắc, mặc quần lụa hoa màu cánh trả; mắt phượng, mày cong lá liễu,
khổ người óng ả, dáng điệu phong lưu, thật là: Mặt phấn đầy xuân trông vẻ dịu.
Làn son chưa hé miệng như cười.
Đại Ngọc đứng lên chào. Giả mẫu cười nói:
- Cháu không nhận được chị này đâu. Nó là một con đanh đá
trong nhà này đấy, tiếng Nam kinh gọi là “Lạt tử (#8), cháu cứ gọi “Phượng lạt tử”
là được.
Đại Ngọc không biết xưng hô thế nào, các chị em bảo: “Vợ anh
Liễn đấy”.
Đại Ngọc chưa từng gặp mặt, nhưng đã nghe mẹ kể, anh Giả Liễn
là con cậu Giả Xá, lấy cháu gái mợ Vương, từ bé thường giả làm trai, đi học,
tên là Vương Hy Phượng. Đại Ngọc vội cười và chào bằng chị.
Hy Phượng cầm tay Đại Ngọc, nhìn kỹ một lúc rồi dắt đến cạnh
Giả mẫu, cười nói:
- Trong thiên hạ lại có người đẹp như thế này! Bây giờ cháu mới
được thấy! Trông hình dáng con người, ai cũng cho là cháu nội của bà, chứ không
phải là cháu ngoại. Chả trách ngày nào bà cũng nhắc đến, chỉ đáng thương là em
tôi vất vả, sao cô tôi lại mất sớm thế!
Nói xong lấy khăn mặt lau nước mắt. Giả mẫu cười nói:
- Ta vừa mới khuây đi, mày lại còn gợi ra. Em nó ở xa mới đến,
người lại yếu, nên an ủi nó, đừng nói chuyện buồn nữa.
Vương Hy Phượng nghe xong, đổi buồn làm vui, nói:
- Phải đấy! Cháu vừa trông thấy, bụng để cả vào cô em, vừa
vui vừa buồn, quên hẳn là. Đáng đánh đòn!
- Em bao nhiêu tuổi? Đã đi học chưa? Hiện đang uống thuốc gì?
Ở đây đừng nhớ nhà nhé! Muốn ăn gì, chơi gì em cứ bảo chị. Bọn người nhà có hổn
láo thì mách chị.
Hy Phượng lại hỏi người nhà:
- Những hành lý của cô Lâm đã mang vào chưa? Cô Lâm mang mấy
người theo hầu? Các người hãy dọn hai gian buồng cho họ vào nghỉ.
Đương nói chuyện thì mâm nước trà, hoa quả đã bưng lên. Hy
Phượng tự tay bưng lên mời. Lại thấy Vương phu nhân hỏi:
- Tiền tháng đã phát xong chưa?
Hy Phương đáp:
- Xong rồi. Vừa rồi con mang người lên lầu tìm mấy tấm đoạn,
mãi không thấy. Hôm qua con thấy mẹ (#9) nhắc đến, chỉ sợ mẹ nhớ nhầm.
Vương phu nhân nói:
- Có thấy hay không cũng chẳng can chi, nhân tiện lấy ra vài
tấm đưa may quần áo cho cháu Lâm. Chiều nay để ta nhớ lại xem rồi sẽ cho người
đi lấy.
Hy Phượng nói:
- Con đã nghĩ trước rồi, biết em Lâm trong vài ngày sẽ đến,
nên sửa soạn sẵn cả, đợi mẹ xem rồi đưa đi may.
Vương phu nhân cười gật đầu.
Trà nước xong, Giả mẫu sai hai bà già đưa Đại Ngọc đi chào
hai cậu. Bấy giờ vợ Giả Xá là Hình phu nhân đứng ngay dậy, cười nói:
- Để con đưa cháu về cho tiện.
Giả mẫu cười:
- Phải đấy! Con đưa cháu đi, không phải trở lại nữa.
Hình phu nhân vâng lời, chào Vương phu nhân rồi dẫn Đại Ngọc
đi. Mọi người tiễn đến xuyên đường. Ra tới cửa hoa, ở đấy đã có mấy người kéo một
cỗ xe màu xanh cánh trả chờ sắn. Hình phu nhân dắt Đại Ngọc lên ngồi, mấy bà hầu
già buông rèm xuống rồi người hầu đẩy xe đi. Đến chỗ rộng mới đóng ngựa vào. Xe
ra cửa tây, rẽ sang đông, qua cửa chính Vinh phủ, vào trong cửa lớn sơn đen, đến
trước nghi môn thứ hai thì đỗ lại. Mọi người lùi ra, rèm xe vén lên. Hình phu
nhân dắt Đại Ngọc bước vào trong dinh. Đại Ngọc đoán những nhà vừa đi qua tất
là vườn hoa trong Vinh phủ. Vào nghi môn thứ ba, quả nhiên thấy phòng chính,
phòng bên, hành lang, đều chạm vẽ tinh vi khác với vẻ cao rộng hùng vĩ ở mé
ngoài. Trong dinh, chỗ nào cũng có cây cảnh núi non rất đẹp. Khi vào đến nhà
chính đã thấy nhiều a hoàn và người hầu ăn mặc lịch sự ra đón.
Hình phu nhân bảo Đại Ngọc ngồi rồi cho người ra thư phòng mời
Giả Xá. Một lát, người đi mời trở lại thưa:
- Ông truyền: Mấy hôm nay trong người không được khỏe, nếu gặp
cô Lâm thì hai cậu cháu đều thương tâm, nên để sau sẽ gặp. Ông khuyên cô khôn
nên nhớ nhà, ở với bà và cái mợ cũng như ở nhà. Các chị em ở đây tuy vụng dại,
nhưng làm bầu làm bạn với nhau cũng có thể giải buồn. Nếu có điều gì không vừa
ý thì cứ nói, đừng làm như người lạ.
Đại Ngọc vội đứng dậy xin vâng. Ngồi một lúc rồi cáo từ. Hình
phu nhân cố giữ lại ăn cơm. Đại Ngọc cười thưa:
- Mợ có lòng yêu cho ăn, cháu không dám tử chối. Nhưng cháu
còn phải đi chào cậu Hai, đến chậm sợ thất lễ. Ngày khác cháu sẽ đến hầu cơm,
xin mợ lượng thứ cho.
Hình phu nhân nói:
- Thôi được.
Rồi bảo hai bà già đẩy cái xe lúc nãy đưa về. Đại Ngọc chào rồi
đi ra. Hình phu nhân đưa đến trước nghi môn, dặn bảo mọi người mấy câu, nhìn xe
đi khỏi mới quay vào.
Đi một lúc đến Vinh phủ, Đại Ngọc xuống xe. Người hầu dẫn Đại
Ngọc đi quay về phía đông, qua xuyên đường, sau nhà lớn hướng nam, trong cửa
nghi môn, có một dinh tọ Đằng trước là nhà chính, có năm gian rộng, hai bên là
hai dãy buồng, cửa nách hành lang, từ nhà nọ sang nhà kia thông suốt bốn mặt
ngang dọc rộng rãi, tráng lệ nguy nga, khác hẳn chỗ ở của Giả mẫu. Đại Ngọc biết
ngay chỗ này là nhà trong. Một con đường rộng rãi, đi thẳng đến cửa lớn. Bước
lên thềm, ngẩng trông thấy ngay một cái biển lớn sơn xanh chạm chín con rồng
thiếp vàng, trên khắc ba chữ to “Vinh hy đường” (#10) bên cạnh có một hàng chữ
nhỏ đề ngày tháng vua viết ban cho Vinh quốc công là Giả Nguyên, có cả ấn “Vạn
cơ thần hàn” (#11). Trên cái án thư gỗ đàn hương chạm con li, đặt một cái đỉnh đồng
cổ, cao gần ba thước, trên treo một bức vẽ long ám lớn có đề bốn chữ “đãi lậu
tùy triều” (#12). Một bên bày cái chậu pha lê, một bên bày cái bình vàng chạm.
Dưới đất đặt hai hàng mười sáu cái ghế gỗ nam, có một đôi câu đối khắc chữ
vàng:
Chậu ngọc trên lầu trông chói lọi;
Ái xiêm ngoài của bóng huy hoàng.
Dưới có lạc khoản. “Em thế nghị là Mục Thời, tập tước Đông An
Quận Vương, tự tay viết”.
Ngày thường Vương phu nhân không hay ở phòng giữa, chỉ ở ba
gian phía đông bên cạnh. Vì thế người hầu già dẫn Đại Ngọc vào cửa buồng bên
đông. Trên bục lớn, trông ra cửa sổ, rải một tấm thảm nhung đỏ, giữa đặt gối tựa
bằng vóc đại hồng, gối đầu bằng vóc màu thạch thanh và đệm vóc màu vàng đều
thêu kim tuyến; hai bên đặt một đôi kỷ nhỏ sơn đen kiểu hoa mai; kỷ bên trái
bày một cái đỉnh “Văn chương” hộp đựng hương và thìa đũa; kỷ bên phải bảy một
cái bình “Mỹ nhân” bằng sứ Như Châu, cắm hoa tươi. Dưới đất phía tây bày bốn ghế
tựa to, có đệm vóc hoa, dưới ghế có cái kê chân; hai bên ghế có một đôi kỷ cao,
trên có đủ đồ chê, lọ hoa. Còn nhiều đồ trần thiết không kể xiết.
Một bà hầu già mời Đại Ngọc ngồi trên bục, có hai đệm gấm rải
đối nhau. Đại Ngọc đoán chừng, ngồi đây không tiện, nên sang ngồi ghế mé đông.
A hoàn mời nước trà. Đại Ngọc vừa uống, vừa ngắm bọn a hoàn, thấy trang sức, cử
chỉ khác hẳn mọi người.
Uống nước trà xong, có một a hoàn mặc áo lụa đỏ sau vai viền
chỉ xanh, chạy lại cười nói:
- Bà Hai (#13) mời cô vào trong này.
Bà hầu già dẫn Đại Ngọc vào ba gian phòng phía đông. Trên giường
đặt một cái kỷ; trên mặt kỷ để cỗ đồ chè, mấy bộ sách; ở sát tường phía đông có
đặt một cái gối tựa bằng đoạn, xanh hơi cũ.
Vương phu nhân ngồi cuối mé bên tây, nệm ngồi và gối tựa lưng
đều bọc đoạn xanh, hơi cũ. Thấy Đại Ngọc đến, Vương phu nhân mời ngồi lên nệm
bên đông. Đại Ngọc đoán đó là chỗ ngồi của Giả Chính. Nhân thấy cạnh bục có một
hàng ba cái ghế phủ vóc hoa hơi cũ bèn ngồi ngay xuống. Vương phu nhân hai ba lần
kéo lên ngồi trên bục, Đại Ngọc mới chịu lên ngồi cạnh Vương phu nhân. Vương
phu nhân nói:
- Cậu cháu hôm nay bận trai giới. Hôm sau sẽ gặp. Mợ có một
điều dặn cháu: ba chị em cháu ở đây đều tốt cả. Từ nay về sau, các cháu ở một
chỗ với nhau, đọc sách, tập viết, học khâu, học thêu, hoặc lúc chơi đùa, chúng
nó điều biết điều cả. Chỉ có một việc là mợ không được yên lòng: mợ có một đứa
con ngỗ nghịch, nó là ma vương nhà này. Hôm nay nó ra miếu lễ chưa về, chiều
cháu gặp nó sẽ biết. Có điều gì cháu cứ mặc kệ nó. Các chị em ở đây không ai
dám dây với nó cả.
Đại Ngọc vẫn thường nghe mẹ nói: có một anh ngoại con mợ Hai,
khi mới đẻ ra ngậm hòn ngọc, ngỗ nghịch lạ thường, rất ghét đọc sách, chỉ hay
quấy rối đám đàn bà con gái; bà lại quá nuông, nên không ai dám động đến. Nay
thấy Vương phu nhân dặn thế, Đại Ngọc hiểu ngay, liền cười nói:
- Mợ vừa nói đây, có phải là anh mới sinh ra đã ngậm ngọc
không? Ở nhà mẹ cháu thường nhắc đến, anh ấy lớn hơn cháu một tuổi, tên là Bảo
Ngọc, tính bướng bỉnh, nhưng đối với chị em lại rất tốt. Vả cháu đến đây, tất
nhiên là cùng các chị em ở chung một chỗ, còn các anh thì ở phòng khác, chắc
không thể xảy ra chuyện gì.
Vương phu nhân cười nói:
- Cháu chưa biết rõ, nó khác hẳn mọi người. Từ bé nó được bà
yêu, cho ở chung với các chị em, được nuông chiều quen rồi. Các chị em cứ để mặc
nó, thì nó mới chịu ngồi yên. Dù nó có buồn, chẳng qua chỉ ra đến cửa ngoài, ngấm
ngầm bực dọc với mấy đứa trẻ, lủng bủng một lúc là xong. Nếu các chị em bắt lời,
nó vui lên thì sinh nhiều chuyện lắm. Vì thế mợ dặn cháu trước cứ mặc kệ nó. Nó
lúc thì nói ngon nói ngọt, lúc thì coi trời bằng vung, lúc thì điên điên dại dại,
cháu đừng tin nó.
Đại Ngọc nhất nhất xin vâng. Chợt một a hoàn đến nói:
- Bên cụ đã gọi ăn cơm chiều.
Vương phu nhân vội dắt Đại Ngọc ra cửa buồng sau. Qua hành
lang rẽ sang mé tây ra khỏi cửa bên là con đường rộng. Mé nam có ba gian nhà nhỏ
vòng quanh nhà lớn mé bắc có một bức tường quét vôi trắng; phía sau là một cái
cửa khá to và một ngôi nhà nhỏ xinh xắn. Vương phu nhân cười bảo Đại Ngọc:
- Đây là nhà chị Phượng. Lúc trở về, cháu vào chơi có cần cái
gì, cứ bảo chị ấy.
Đến ngoài cửa dinh, có mấy tiểu đồng tóc để trái đào, chắp
tay đứng hầu. Vương phu nhân dắt Đại Ngọc đi qua xuyên đường, từ đông sang tây,
thì đến nhà trong của Giả mẫu, rồi vào cửa buồng sau. Ở đây đã có nhiều người
chờ. Thấy Vương phu nhân đến, họ mới dọn bàn ghế. Vợ Giả Châu là họ Lý rót rượu,
Hy Phượng so đũa, Vương phu nhân dâng đồ ăn. Giả mẫu ngồi một mình trên sập,
hai bên có bốn ghế bỏ không, Hy Phượng vội dắt Đại Ngọc ngồi ghế thứ nhất bên
trái, Đại Ngọc nhất định từ chối, Giả mẫu cười bảo:
- Các mợ và các chị dâu cháu đều không ăn cơm ở đây. Cháu là
khách, nên ngồi chỗ ấy.
Đại Ngọc mới xin phép ngồi. Giả mẫu bảo Vương phu nhân ngồi.
Ba chị em Nghênh Xuân xin phép ngồi. Nghênh Xuân ngồi ghế thứ nhất bên phải;
Thám Xuân ngôi ghế thứ hai bên trái; Tích Xuân ngồi ghế thứ ba, bên phải, A
hoàn đứng bên cầm phất trần, ống nhồi khăn taỵ Lý Hoàn, Phượng Thư đứng cạnh
bàn tiếp thức ăn; bên ngoài tuy nhiều người hầu, nhưng đều im lặng không có một
tiếng họ Ăn xong mỗi người có một a hoàn dâng trà. Ngày thường nhà họ Lâm dạy
con giữ gìn sức khỏe, ăn cơm xong một lúc mới uống nước, để khỏi hại tỳ vị. Bây
giờ Đại Ngọc thấy cách ăn uống ở đây khác với nhà mình, nhưng cũng phải theo, vừa
cầm chén trà, đã có người bưng ống nhổ đến. Đại Ngọc súc miệng, rửa tay xong, lại
có ngươi bưng trà lên, lần này mới là nước uống.
Giả mẫu nói:
- Ai ở đâu về đấy, để bả cháu ta trò chuyện.
Vương phu nhân đứng dậy nói mấy câu rồi dẫn Lý Hoàn, Hy Phượng
đi ra. Giả mẫu hỏi Đại Ngọc học sách gì? Đại Ngọc thưa: “Mới học tứ thư”. Đại
Ngọc hỏi các chị em ở đây học sách gì: Giả mẫu nói: “Đã học được gì đâu, chẳng
qua mới biết mặt mấy chữ”.
Nói chưa dứt lời, thấy bên ngoài có tiếng người đi. A hoàn
vào báo: “Cậu Bảo Ngọc đã về”. Đại Ngọc nghĩ bụng: “Chả biết cái anh Bảo Ngọc
này là người bướng bỉnh hồ đồ thế nào, thà chẳng gặp của ngốc ấy còn hơn”. Khi
vào, thoạt nhìn thì thấy một thanh niên công tử: đầu đội mũ kim quan dát ngọc,
khăn bịt trán có đính hai con rồng bằng vàng vờn hạt châu, mặc áo chẽn màu đại
hồng thêu trăm con bươn vờn hoa, thắt lưng dây tơ ngũ sắc tết hoa, áo khoác
ngoài bằng đoạn hoa màu thạch thanh, đi đôi hài bằng đoạn xanh, đế trắng, mặt
như trăng rằm mùa thu, sắc như hoa xuân buổi sớm, mái tóc bằng như dao xén,
lông mày rõ như mực kẻ, má như cánh hoa đào, mắt như làn sóng gợn. Lúc giận
cũng như cười, dù trừng mắt vẫn có tình tứ. Cổ đeo khánh vàng chạm con ly và một
dây ngũ sắc buộc viên ngọc.
Đại Ngọc trông thấy, choáng người lên, nghĩ bụng: “Lạ thật!
Hình như ta đã gặp ở đâu rồi, sao quen mặt thế!”.
Bảo Ngọc vào chào, Giả mẫu liền bảo:
- Hãy về chào mẹ cháu đã.
Bảo Ngọc quay ra ngaỵ Một lúc trở lại, đã thay cả mũ áo. Xung
quanh đầu, tóc ngắn tết thành búi nhỏ buộc dây tơ đỏ, tất cả vấn lên đỉnh đầu
trở xuống cài bốn hạt châu lớn, phía dưới lại đeo bát bảo bằng vàng dát ngọc,
mình mặc áo hoa màu ngân hồng hơi cũ, cổ đeo vòng vàng, ngọc quý, khóa ký
danh (#14) và bùa hộ thân, mặc quần lụa hoa màu lá thông, đi bí tất gấm viền
đen, hài đỏ đế dày; lại rõ ra mặt phấn môi son, nhìn liếc có duyên, nói năng
tươi tỉnh, đầu mày cuối mặt, có một vẻ thiên nhiên, trông rất tình tứ. Bề ngoài
nhìn rất đẹp, nhưng không biết bên trong thế nào. Người sau có hai bài từ Tây
giang nguyệt (#15). Bình luận Bảo Ngọc rất xác đáng.
Bỗng chốc mua sầu chuốc não.
Lắm khi như dại như ngây.
Ngoài mặt mặc dù thanh tú,
Trong lòng rác rưởi chứa đầy.
Đần độn học hành lười biếng,
Việc đời chẳng biết dở hay.
Việc làm ngang trái, tính ương gàn,
Quản chi miệng người chê trách!
Nghèo khó không quen vất vả,
Giàu sang chỉ thích ăn chơi.
Đối với người nhà, vô ích,
Tiếc thay bỏ phí một đời.
Thiên hạ vô tài bậc nhất,
Xưa nay bất tiếu không hai.
Nhắn cùng con cháu bọn giàu sang.
Nhìn đấy chớ nên bắt chước!
Giả mẫu thấy Bảo Ngọc đến, cười bảo:
- Chưa chào khách đã thay quần áo, sao cháu không ra
chào cô em đi?
Bảo Ngọc trông thấy một cô gái, đoán ngay là con cô mình, vội
vàng đến chào. Ngồi xuống nhìn kỹ, khác hẳn các cô gái. Chỉ thấy:
Đôi lông mày điểm màu khói lạt, dường như cau mà lại không
cau; đôi con mắt chứa chan tình tứ, dáng như vui mà lại không vui. Má hơi lúm,
có vẻ âu sầu; Người hơi mệt trông càng tha thướt. Lệ rớm rưng rưng, hơi ra nhè
nhẹ. Vẻ thư nhàn, hoa rọi mặt hồ; dáng đi đứng, liễu nghiêng trước gió. Tim đọ
Tỉ Can (#16) hơn một trăm khiếu, bệnh so Tây Tứ (#17) trội vài phân.
Bảo Ngọc nhìn rồi cười nói:
- Hình như tôi đã được gập cô em lần nào rồi.
Giả mẫu cười:
- Lại nói nhảm, đã gặp lần nào đâu?
Bảo Ngọc cười nói:
- Tuy chưa gặp, nhưng trông mặt quen lắm, cũng coi như đã gặp
nhau rồi.
Giả mẫu cười nói:
- Tốt lắm! Thế thì lại càng tử tế với nhau.
Bảo Ngọc chạy đến ngồi cạnh Đại Ngọc, ngắm nghía lần nữa, rồi
hỏi:
- Cô em đã học sách chưa?
- Em chưa đọc sách, mới học một năm, biết mấy chữ thôi.
- Tên cô em là gì?
- Tên là Đại Ngọc.
- Tên chữ là gì?
- Em không có tên chữ.
Bảo Ngọc cười nói:
- Anh đặt tên cho em là Tần Tần nhé, hai chữ đó rất hay.
Thám Xuân hỏi:
- Hai chữ ấy xuất xứ ở đâu?
Bảo Ngọc nói:
- Cổ kim nhân vật khảo có câu: Phương tây có thứ đá tên là đại,
có thể dùng để kẻ lông mày. Huống chi cô em đầu lông mày nhìn như cau lại, đặt
cho cái tên ấy chẳng đẹp lắm sao.
- Chỉ sợ lại bịa ra thôi.
- Trừ Tứ Thư ra, còn phần nhiều là bịa cả, chẳng phải một
mình tôi.
Lại quay hỏi Đại Ngọc:
- Em có ngọc không?
Mọi người không ai hiểu tại sao Bảo Ngọc lại hỏi thế, Đại Ngọc
trong bụng đoán ngày: “Chắc anh ấy có ngọc, nên mới hỏi mình”, liền trả lời:
- Em không có ngọc. Thứ ngọc của anh là vật rất hiếm, phải
đâu người nào cũng có.
Bảo Ngọc nghe vậy, nổi ngay cơn điên, dứt viên ngọc vứt phăng
đi, la ầm lên:
- Vật này hiếm gì mà hiếm! Không phân biệt được người hơn
kém, thế thì bảo nó thiêng hay không thiêng! Tôi không cần cái thứ vô dụng này
Mọi người sợ hãi, xô nhau lại nhặt viên ngọc. Giả mẫu vội
vàng lôi Bảo Ngoé lại mắng:
- Của nợ này! Mày có nổi hung lên, muốn đánh ai, mắng ai thì
cứ việc đánh, cứ việc mắng, làm gì phải vứt cái bản mệnh của mày đi!
Bảo Ngọc nước mắt giàn giụa nói:
- Các chị em trong nhà không ai có; chỉ một mình cháu có cũng
chẳng thú gì. Ngay cô em mới đến đây, người đẹp như tiên mà cũng không có, càng
biết cái này chẳng quý hóa gì.
Giả mẫu nói dối:
- Em cháu ngày trước cũng có. Vì lúc cô cháu sắp mất, thương
em cháu quá, không biết làm thế nào, mới lấy viên ngọc mang đi, một là chôn
viên ngọc theo để hết cái lòng hiếu của em cháu, hai là nhờ có viên ngọc mà âm
linh cô cháu cũng xem như được thấy em cháu luôn. Vì thế em cháu nói không có
ngọc là có ý không tiện khoe khoang đấy thôi. Cháu bì sao được với em cháu. Nếu
cháu không đeo tử tế vào, mẹ cháu biết thì coi chừng đấy.
Giả mẫu nói xong, cầm lấy viên ngọc ở trong tay a hoàn đeo
cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc ngẫm nghĩ một lúc thấy cũng có lý nên không nói gì nữa.
Ngay lúc ấy, người vú lại hỏi dọn buồng nào cho Đại Ngọc ở Giả
mẫu nói:
- Dọn cho Bảo Ngọc đến ở Noãn Các (#18) với ta; để cháu Lâm tạm
ở buồng Bích Sa, chờ hết đông sang xuân sẽ thu xếp lại.
Bảo Ngọc nói:
- Thưa bà, để cháu ngủ cái giường ở bên ngoài buồng Bích Sa
thì hơn, việc gì phải đến ngủ gần bà, làm bà không được yên tĩnh.
Giả mẫu nghĩ một lúc, nói:
- Thôi cũng được.
Mỗi người có một vú già và một a hoàn phục dịch, còn thì ở cả
bên ngoài trực đêm. Hy Phượng đã sai người mang cỗ màn màu cánh sen, nhăn gấm
và đệm đoạn đến.
Đại Ngọc chỉ mang có hai người theo hầu: vú nuôi họ Vương và
con bé mười tuổi tên là Tuyết Nhạn. Giả mẫu thấy Tuyết Nhạn bé quá, vú Vương
già quá, sợ Đại Ngọc không vừa ý mới cho thêm một a hoàn hạng nhì của mình tên
là Anh Ca, cũng như chị em Nghênh Xuân, trừ vú nuôi ra, mỗi người có bốn bà già
giúp việc. Ngoài hai a hoàn theo hầu bên cạnh để trông nom trâm, vòng, tắm rửa,
còn bốn, năm người quét dọn và sai vặt. Vú Vương cùng Anh Ca hầu Đại Ngọc phía
trong buồng Bích Sạ Vú Lý nuôi Bảo Ngọc cùng a hoàn lớn là Tập Nhân hầu Bảo Ngọc
ở bên ngoài.
Nguyên Tập Nhân là người hầu của Giả mẫu, tên là Trân Châu.
Giả mẫu vì quá yêu Bảo Ngọc, sợ những người hầu khác không được vừa ý, thấy Tập
Nhân hiền lành, làm việc chăm chỉ, mới cho sang hầu Bảo Ngọc. Bảo Ngọc biết Tập
Nhân họ Hoa, lại từng nghe cổ nhân có câu thơ: “Hoa khí tập nhân” (#19), mới
trình Giả mẫu cho đổi tên là Tập Nhân.
Tập Nhân xưa nay vốn có tính ngây thợ Khi hầu Giả mẫu, thì
trong bụng chỉ biết Giả mẫu; đến nay sang hầu Bảo Ngọc, lại chỉ biết có Bảo Ngọc.
Vì tính tình Bảo Ngọc ngang trái, mỗi khi Tập Nhân can gián, thấy Bảo Ngọc
không nghe, trong bụng rất lo lắng. Tối hôm ấy, Bảo Ngọc và vú Lý đã ngủ rồi, Đại
Ngọc và Anh Ca ở tròng buồng hãy còn thức, Tập Nhân cỡi trang sức ra, khe khẽ
đi vào, cười hỏi:
- Cô sao chưa đi ngủ?
Đại Ngọc vội cười nói:
- Mời chị ngồi.
Tập Nhân ngồi ghé bên giường. Anh Ca cười nói:
- Cô tôi đang buồn rầu, gạt nước mắt nói: “Hôm nay mới đến đã
làm anh ấy phát cáu lên. Nếu đập vỡ viên ngọc, há chẳng phải là lỗi ở ta sao?”
Tôi khuyên giải mãi mới thôi.
Tập Nhân nói:
- Cô đừng vội như thế, sau này còn nhiều việc kỳ quặc đáng buồn
cười hơn nữa kia. Nếu vì việc này mà cô để tâm thì có lẽ sau không bao giờ hết
buồn đâu. Thôi xin cô đừng nghĩ nhiều quá!
Đại Ngọc nói:
- Chị nói tôi xin nhớ. Nhưng không biết viên ngọc đó lai lịch
như thế nào mà có cả chữ nữa.
Tập Nhân nói:
- Cả nhà chẳng ai biết rõ lai lịch cả. Nghe đâu khi mới đẻ,
trong mồm cậu ấy đã ngậm viên ngọc và bên trên có lỗ đeo. Để tôi lấy ra cho cô
xem.
Đại Ngọc vội ngăn lại:
- Thôi! Đêm khuya rời, mai lấy xem cũng chưa muộn.
Hai người nói chuyện một lúc mới đi ngủ.
Sáng sớm hôm sau Đại Ngọc thức dậy, vào thăm Giả mẫu rồi sang
nhà Vương phu nhân. Gặp lúc Vương phu nhân cùng Hy Phương đang bóc thư ở Kim
Lăng gởi sang, lại có hai bà già của anh và chị dâu Vương phu nhân sai đến. Đại
Ngọc tuy không biết đầu đuôi câu chuyện, nhưng bọn Thám Xuân thì đều biết là
con nhà dì tên gọi Tiết Bàn ở Kim Lăng, cậy giàu cậy thế đánh chết người, việc
này đã đưa lên phủ Ứng Thiên, đến nay em Vương phu nhân là Vương Tử Đằng mới biết
tin, sai người sang báo, ý muốn gọi Tiết Bàn vào Kinh.
Chú thích:
(1-). Theo chiếu chỉ của nhà vua cho xây nên.
(2-). Nhà để đi qua bốn mặt không có cửa.
(3-). Tên một huyện thuộc tỉnh Vân Nam có thứ đá hoa rất đẹp.
(4-). Tức Giả mẫu.
(5-). Tức Hình phu nhân.
(6-). Tức Vương phu nhân.
(7-). Năm chim phượng đậu núi Triệu Dương.
(8-). Tay sắc sảo, đanh đá.
(9-). Vương phu nhân là cô Phượng Thư, về họ nhà chồng, bà ta
là thím Phượng Thư nhưng Phượng Thư lại sang ớ trông coi bên nhà Vương phu
nhân, nên thườn gọi bà ta là thái thái. Chúng tôi tạm dịch là mẹ.
(10-). Hưởng phúc sung sướng.
(11-). Vạn cơ là muôn việc. Thần hàn là chữ của vua viết.
(12-). Chờ đợi giờ để theo các quan vào chầu.
(14-). Theo tục ngữ ngày xưa, muốn cho trẻ con khôi chết non,
người ta thường đem cúng vào đền chùa xin làm con nuôi thần phật và đeo cái
khóa ở cổ để Bản mệnh trường sinh.
(15-). Tên một từ chức đặt ra từ đời Đường.
(16-). Ti Can là chú vua Trụ đời Ân, đời đồn tim ông có chín
khiếu.
(17-). Tích Tây Thi, một cô gái nước Việt. Vua Việt Câu Tiễn
dâng lên làm vợ vua Ngô.
(18-). Nhà gác xây kín có lò sưởi ấm.
(19-). Mùi hoa thơm trùm phủ cả người.
Hồi 4:
Gái bạc mệnh gặp trai bạc mệnh;
Sư Hồ lô xử án Hồ lô.
Đại Ngọc cùng các chị em đến chỗ Vương phu nhân, thấy Vương
phu nhân đang nói chuyện với người nhà của anh sai đến, lại nghe nói bên nhà dì
bị kiện về vụ án mạng. Thấy Vương phu nhân đương bận việc, các chị em đều đi
ra, đến buồng chị dâu góa họ Lý.
Nguyên họ Lý là vợ Giả Châu. Giả Châu chết sớm, có đứa con
trai tên là Giả Lan, lên năm tuổi, đã đi học. Họ Lý cũng là con nhà danh hoạn đất
Kim Lăng, bố là Lý Thủ Trung là Quốc tử Tế tửu. Trong họ, con trai, con gái đều
được đi học. Đến đời Lý Thủ Trung thì cho “con gái bất tài, ấy là đức”. Vì thế,
ông ta không cho con gái đi học đến nơi đến chốn, chỉ cho đọc “Nữ tứ thư”, “Liệt
nữ truyện” để biết một số chữ, nhớ một số truyện hiền nữ đời trước là đủ, cốt
sao chú trọng về thêu thùa canh cửi và việc vặt mà thôi. Nhân vậy đặt tên con
là Lý Hoàn, tên chữ là Cung Tài. Lý Hoàn trẻ tuổi, góa chồng, mặc dầu ở chỗ cao
lương gấm vóc, nhưng lòng lạnh như tro tàn, cây cỗi, hết thảy không buồn hỏi,
không buồn nghe việc gì; chỉ biết hầu bố mẹ chồng, nuôi con, lúc rỗi thì khâu
vá, đọc sách với các cô em. Nay biết Đại Ngọc đến đây, nhưng chắc đã có mấy chị
em hầu bạn, nên ngoài việc thờ phụng cha già ra, chị ta không còn nghĩ đến việc
gì nữa.
Nay nói đến Giả Vũ Thôn vừa mới đến nhận chức tri phủ Ứng
Thiên đã phải xử ngay một vụ án mạng. Nguyên do là hai nhà mua tranh nhau một nữ
tỳ, rồi không bên nào nhường bên nào, đến nỗi xảy ra đánh nhau chết người. Vũ
Thôn đòi nguyên cáo đến hỏi. Nguyên cáo nói:
- Người bị đánh chết là chủ tôi. Chủ tôi mua một nữ tỳ, không
ngờ có kẻ lừa đảo lại đem người đi bán. Nó đã lấy tiền của nhà tôi. Chủ tôi hẹn
ba ngày nữa là ngày tốt, sẽ đón về. Nó lại ngấm ngầm đem người bán cho nhà họ
Tiết. Chúng tôi biết chuyện đi tìm nó và bắt nữ tỳ về. Ngờ đâu nhà họ Tiết là
ác bá ở đất Kim Lăng, cậy tiền cậy thế, xui người nhà đánh chết chủ tôi rồi thầy
trò trốn biệt, không biết đi đâu, chỉ còn lại có mấy người ngoài cuộc thôi. Việc
này tôi đã thưa lên quan một năm rồi, nhưng không ai bênh vực cho; nay trông ơn
cụ lớn nã bắt hung phạm, cứu vớt mẹ góa con côi thì người mất cũng được đội ơn
trời đất mãi mãi
Vũ Thôn nghe xong, cả giận nói:
- Sao lại có việc chó má như thế? Đánh chết người rồi chạy trốn,
lẽ nào lại không bắt được hay sao!
Y định phát thê bài, sai người lập tức đi bắt gia thuộc hung
phạm đến tra xét phạm nhân trốn ở đâu. Một mặt, y gửi công văn truy nã khắp các
nơi. Chợt thấy một người lính hầu đứng cạnh bàn đưa mắt ngăn y đừng phát thẻ bải.
Vũ Thôn trong bụng nghi hoặc, dừng ngay tay lại, truyền lệnh tan hầu. Y vào nhà
trong, bảo mọi người lui ra, chỉ để anh lính ở lại. Anh lính vội tiến lên chào
hỏi:
- Cụ lớn bấy lâu thăng quan tiến chức, tám chín năm nay, hẳn
đã quên tôi rồi?
Vũ Thôn nói:
- Ta trông anh quen lắm, nhưng không nghĩ ra được là ai?
Anh lính cười nói:
- Cụ lớn thật là người sang quên mọi việc. Quên cả nơi xuất
thân khi xưa. Cụ còn nhớ việc ở miếu Hồ lô năm trước không?
Vũ Thôn nghe xong, như sét đánh bên tai, mới nghĩ đến việc
trước. Người lính này nguyên là một chú tiểu ở miếu Hồ lô. Sau khi miếu bị
cháy, không chỗ nương thân, anh ta định tìm đến tu ở miếu khác. Nhân nghĩ tuổi
còn trẻ, làm nghề này lại nhẹ nhàng thoải mái hơn, anh ta liền để tóc ra làm
lính hầu. Vũ Thôn nhận ra, vội cầm lấy tay anh lính cười nói: “À thế ra anh là
người cũ”. Nhân bảo anh ta ngồi nói chuyện. Anh lính không dám ngồi. Vũ Thôn cười
nói:
- Anh là bạn cũ, người bạn thủa nghèo hèn của ta, vả lại đây
là nhà tư, anh định nói chuyện lâu thì có ngồi cũng chẳng sao.
Anh lính rụt rè ngồi ghé một bên.
Vũ Thôn hỏi:
- Vì cớ gì vừa rời anh ngăn ta đừng phát thẻ bài?
Anh lính nói:
- Cụ đến nhận chức ở đây, có nhẽ nào lại không có một bản “hộ
quan phù” của tỉnh này.
Vũ Thôn vội hỏi:
- Tôi chưa biết thế nào là “hộ quan phù”
Anh lính nói:
- Việc này cụ không biết thì làm quan lâu dài ở đây sao được.
Hiện nay các quan địa phương ai cũng có một cái sổ riêng, chép rõ họ tên những
nhà thân hào lớn, có tiền, có thế trong tỉnh. Ở đâu cũng thế, nếu không biết,
nhỡ xúc phạm đến người nhà những bọn này, thì không những quan tước, mà cả đến
tính mệnh cũng khó giữ được! Vì thế gọi là “hộ quan phù”. Vừa rồi nói đến nhà họ
Tiết, cụ gây chuyện thế nào được với họ? Cái án này thực ra chẳng có gì là khó
xử. Các quan phủ trước chỉ vì nể mặt họ mà không xử đấy thôi.
Nói xong, anh ta móc túi lấy ra một tờ “hộ quan phù”, đưa cho
Vũ Thôn. Khi xem thấy có mấy câu tục ngữ cửa miệng về những nhà quyền quí ở địa
phương. Câu nào câu nấy viết rất rõ ràng, bên dưới lại có ghi cả từ ông thủy tổ,
quan tước và chi nhánh nữa. Ở hòn đá cũng sao lại một bản như sau:
Giả không phải là giả dối, ngọc làm nhà ở, vàng làm ngựa cưỡi
(Con cháu Ninh công Vinh công cộng hai mươi chi. Tám chi họ gần ở kinh đô, mười
hai chi ở nguyên quán).
Cung A phòng (1) xây lên ba trăm dặm đã đủ chưa? Họ Sử đất Kim
Lăng vẫn ở không vừa. (Con cháu Bảo linh hầu Thượng lệnh sử công cộng mười tám
chi. Mười chi ở kinh đô, tám chi ở nguyên quán).
Vua Đông Hải thiếu ngọc trắng làm giường, phải đến vay Kim
Lăng vương. (Con cháu Đô thái úy, Thống chế huyện bá vương công cộng hai mươi
chi. Hai chi ở kinh, còn ở nguyên quán)
Được mùa tuyết lã chã rơi, ngọc châu như đất, vàng thời sắt
thoi. (Con cháu Tử vi xá nhân Tiết công, hiện lĩnh tiền khi đi mua hàng, có tám
chi).
Vũ Thôn đang xem, chợt trống báo: “Có cụ Vương lại thăm”. Vũ
Thôn vội mặc áo mũ ra đón. Một lúc lâu, hắn trở vào, hỏi lại. Anh lính thưa:
- Bốn nhà này đều đi lại thân mật với nhau, khổ cùng khổ sướng
cùng sướng, đều đùm bọc che chở lẫn cho nhau. Họ Tiết đánh chết người tức là họ
Tiết mà tục ngữ gọi là “được mùa tuyết rơi” đấy. Nhà này không những thân với
ba nhà kia, lại còn nhiều bạn thân ở kinh đô và các tỉnh nữa. Thế thì cụ định bắt
ai bây giờ?
Vũ Thôn cười hỏi:
- Cứ như anh nói, thì làm thế nào chấm dứt cái án này? Chắc
anh cũng biết hung thủ trốn ở đâu chứ?
Anh lính cười thưa:
- Không dám giấu cụ, không những tôi biết chỗ hung thủ trốn,
ngay đến đứa bán người và người bị đánh chết tôi cũng biết cả. Tôi xin thưa tỉ
mỉ để cụ rõ: người bị đánh chết ấy là con một nhà hương hoạn nhỏ, tên gọi Phùng
Uyên, bố mẹ chết sớm, không có anh em, sống nhờ một cái gia tài nhỏ, tuổi độ mười
tám, mười chín, tính thích chơi bời với đàn ông, không gần gũi con gái. Nhưng
đây cũng là oan nghiệp kiếp trước để lại. Một hôm, anh ta ngẫu nhiên gặp nữ tỳ
này, nhất định mua về làm thiếp, thề không chơi bời với đàn ông và cũng không lấy
người thứ hai nào nữa. Vì thế, việc mua này, đối với anh ta, coi là trịnh trọng
lắm, hẹn ba hôm sau, tốt ngày, mới đón về. Ngờ đâu đứa bán người lại ngấm ngầm
đem con nữ tỳ bán cho nhà họ Tiết. Nó muốn cuỗm tiền của cả đôi bên rồi trốn
đi. Ai hay nó chạy không thoát, cả hai đều bắt được, đánh nó gần chết. Nhưng
sau đó không nhà nào muốn lấy lại tiền, chỉ đòi lấy người. Công tử họ Tiết sai
đầy tớ đánh công tử họ Phùng một trận nhừ tử, khiêng về nhà, ba ngày sau thì chết.
Tiết công tử đã chọn ngày vào kinh. Trước đó hai ngày, ngẫu nhiên gặp con nữ tỳ
này, Tiết công tử định mua rồi đem nó lên kinh một thể, ngờ đâu chuyện xảy ra,
hắn đánh Phùng công tử cướp lấy nữ tỳ, rồi thản nhiên coi như không có việc gì.
Mang ngay gia quyến lên đường, để anh em đầy tớ ở nhà lo liệu, chứ không phải
vì việc nhỏ ấy mà chạy trốn đâu. Việc này hãy tạm gác lại, xin hỏi cụ có biết nữ
tỳ bị mang đi bán ấy là ai không?
- Ta biết thế nào được?
- Nữ tỳ ấy là Anh Liên, con gái Chân Ẩn Sĩ ở cạnh miếu Hồ lô
trước đây tức là ân nhân của cụ đấy.
Vũ Thôn giật mình nói:
- Thế à! Nghe nói khi nó lên năm tuổi, bị người ta dỗ đi, sao
bây giờ lại đem bán nó ở đây?
- Tên dỗ người này chuyên đi dỗ con gái bé năm sáu tuổi mang
về nơi hẻo lánh nuôi đến mười một mười hai tuổi, rồi lại đem đi chỗ khác bán.
Khi trước, tôi với Anh Liên ngày nào cũng chơi đùa với nhau. Tuy xa nhau bảy
tám năm, bây giờ nó đã lớn và xinh hơn trước, nhưng dáng người không thay đổi mấy.
Vả lại, từ khi mới đẻ nó có một nốt ruồi đỏ bằng hạt gạo ở lông mày nên vẫn nhận
được. Tên dỗ người tình cờ lại thuê buồng của nhà tôi. Một hôm tên này đi vắng,
tôi đến hỏi nó, nó sợ phải đòn, không dám nói. Nó nhận tên kia là bố đẻ, và nói
rằng vì không có tiền trả nợ, mới phải đem nó bán đi. Tôi dỗ bốn năm lần, nó chỉ
khóc: “Tôi không nhớ được việc lúc bé!” Như thế thì không còn gì đáng ngờ nữa.
Hôm Phùng công tử đến trả tiền, gặp lúc tên dỗ người say rượu, Anh Liên than thở
một mình: “Từ giờ trở đi ta sẽ hết nợ!” Sau lại nghe nói ba ngày nữa Phùng công
tử mới đến đón, Anh Liên tỏ vẻ âu sầu. Tôi thấy vậy động lòng thương, chờ tên dỗ
người đi vắng, bảo vợ tôi đến khuyên giải: “Phùng công tử chọn ngày tốt đến
đón, như thế tất không coi chị như bọn a hoàn đâu. Phùng công tử là người phong
nhã, nhà cũng đủ tiêu. Xưa nay không ham nữ sắc bây giờ mua chị với một giá rất
đắt, như thế chả nói chị cũng sẽ rõ. Chị hãy cố chờ hai ba ngày nữa, việc gì phải
lo buồn?” Anh Liên nghe nói cũng nguôi lòng, cho rằng từ nay có chỗ yên thân.
Ai ngờ trong thiên hạ thường xảy ra những việc không như ý, ngày hôm sau tên dỗ
người lại đem nó bán cho nhà họ Tiết. Nếu bán cho nhà nào thì cũng không lôi
thôi lắm, chứ công tử họ Tiết này nổi tiếng là “vua ngốc”, liều lĩnh, nóng nảy
nhất hạng, quẳng tiền như đất. Hôm ấy nó đánh Phùng Uyên một trận tơi bời, bán
sống bán chết rồi mang Anh Liên đi, không biết sống chết thế nào. Còn Phùng
công tử thì một phen mừng hão, đã không thỏa nguyện, lại mất tiễn, hại đến tính
mệnh, như thế thật đáng thương!”
- Oan nghiệt gặp nhau không phải là chuyện ngẫu nhiên. Nếu
không thì sao Phùng Uyên lại chỉ thích có Anh Liên? Anh Liên bị tên dỗ người
hành hạ mấy năm mới thoát thân, gặp được người đa tình, nếu sum họp với nhau
cũng là một việc rất tốt; ngờ đâu lại xảy ra việc ấy! Nhà họ Tiết giàu sang hơn
họ Phùng, xem ra hạng ấy thế nào cũng nhiều vợ lẽ nàng hầu, dâm dục không chừng
mực, chưa chắc đã bằng Phùng Uyên chỉ chung tình với một người. Cũng là một cuộc
tình duyên mộng ảo nên mới có một đôi trai gái bạc mệnh này. Thôi, việc của họ
mặc họ, nay ta hãy bàn xem cái án này nên xét thế nào cho phải.
Anh lính cười nói:
- Trước cụ minh mẫn cương quyết thế nào, sao bây giờ lại trở
thành không có chủ kiến như thế! Tôi nghe nói cụ được bổ đến đây là nhờ thế lực
họ Giả, họ Vương. Mà Tiết Bàn lại là cháu họ Giả, sao cụ không dùng cách “đẩy
thuyền xuôi nước” gọi là có chút tình vì nể để kết liễu cái án này. Khi gặp các
ông họ Vương, họ Giả cũng sẽ có nhiều thiện cảm.
- Anh nói cũng phải, nhưng việc này quan hệ đến mạng người.
Ta nhờ ơn vua được phục chức về đây, chính là lúc phải hết lòng báo đáp, có nhẽ
nào vì việc tư mà trái phép công? Ta không nỡ làm thế?
- Cụ nói rất là đúng lý. Nhưng đời này làm thế không trôi! Cổ
nhân nói: “tìm lành tránh dữ là người quân tử” nếu cứ làm như cụ thì không những
không đền được ơn triều đình mà bản thân mình cũng chưa chắc giữ được trọn vẹn.
Vậy xin cụ nghĩ cho thật kỹ.
Vũ Thôn cúi đầu một chốc, nói:
- Theo ý anh nên làm thế nào?
- Tôi đã nghĩ được một kế rất hay. Sáng mai cụ ra công đường
ra oai quát tháo, làm văn thư, phát thẻ bài cho đi bắt hung phạm. Tất nhiên là
không bắt được. Nguyên cáo thể nào chẳng yêu cầu xét xử, cụ bắt mấy người trong
họ Tiết và bọn đầy tớ đến tra xét, tôi sẽ ở ngoài thu xếp, ngầm bảo họ khai “Tiết
Bàn bị bệnh nặng chết rồi”. Người trong họ và người địa phương đều trình giấy
chứng thực. Cụ lại nói là biết cầu tiên, trên công đường đặt đàn lễ, cho quân
dân vào xem. Rồi cụ giải thích lời tiên: “Tiên phán rằng người chết là Phùng
Uyên và Tiết Bàn nguyên kiếp trước có nợ nhau, đã gặp nhau thì oan oan tương
báo, thế là xong xuôi. Nay Tiết Bàn tự nhiên bị bệnh chết là do hồn Phùng Uyên
bắt đi. Gây ra tai họa này là tội ở đứa bán người, ngoài việc đem nó ra làm tội,
không liên lụy gì đến ai cả. Tôi sẽ ngầm bảo đứa bán người cứ nhận tội đi. Mọi
người thấy lời tiên phán giống lời khai của đứa bán người, chắc không nghi ngờ
gì nữa. Nhà họ Tiết có tiền, cụ bảo nó bỏ ra một nghìn hay năm trăm cho nhà họ
Phùng làm lễ chôn cất. Nhà họ Phùng chẳng có người nào ra trò, chẳng qua chỉ
đòi tiền thôi, Tiền vào là êm chuyện, cụ thử nghĩ kỹ xem kế ấy thế nào?
- Không xong đâu! Không xong đâu! Để ta suy nghĩ xem, liệu có
bịt nổi miệng người không.
Hôm sau, Vũ Thôn ra công đường, bắt một bọn can phạm tra hỏi
cặn kẽ, quả thấy nhà họ Phùng ít người, chẳng qua đi kiện để đòi tiền mai táng.
Nhà họ Tiết thì cậy thế cậy thần, cũng không chịu kém, vì thế việc này cứ để lẵng
nhẵng mãi. Vũ Thôn vì tư tình, cứ trái phép xử bừa, nhuế nhóa cho xong chuyện.
Nhà họ Phùng được ít tiền mai táng, cũng thôi không khiếu nại nữa. Xử án xong,
Vũ Thôn vội vàng viết hai bức thư gửi cho Giả Chính và Vương Tử Đằng hiện làm
Tiết đô sứ kinh doanh: “Việc cậu cháu cụ đã dàn xếp xong, xin đừng nghĩ đến nữa”.
Cậu chuyện thế là xong. Mọi mưu đồ đều do anh lính là chú tiểu ở miếu Hồ lô ngày
trước bày ra cả. Vũ Thôn sợ nó kể với ngườikhác những chuyện hàn vi của mình,
trong bụng không thích, liền kiếm cớ bới ra một việc gì đấy, đẩy nó đi xa cho rảnh.
Chuyện Vũ Thôn hãy gác lại. Nay nói đến việc Tiết công tử mua
Anh Liên và đánh chết Phùng Uyên. Tiết công tử là người Kim Lăng, con nhà dòng
dõi thi thư, chỉ vì lúc bé bố chết, mẹ góa, thương hắn là con một, quá nuông,
nên lúc lớn lên chẳng chịu làm việc gì. Gia tài họ Tiết có hàng trăm vạn, hiện
giữ việc lĩnh tiền trong kho mua hàng cho nhà vua (2).
Tiết công tử lúc đi học đặt tên là Tiết Bàn, tên chữ là Văn
Khởi, từ khi lên năm, lên sáu, tính tình đã xa xỉ, nói năng kiêu ngạo. Hắn cũng
có đi học, nhưng chỉ biết qua loa mấy chữ rồi suốt ngày ham gà chọi chó săn,
trèo non ngắm cảnh. Tuy làm việc mua hàng cho nhà vua, nhưng hắn chẳng biết gì
hết, chẳng qua nhờ thế lực ông cha ngày trước, mang một chức hão ở Hộ bộ để
lĩnh tiền lương còn công việc đều do người nhà lo liệu cả. Mẹ hắn là họ Vương,
em ruột Vương Tử Đằng và là chị em cùng mẹ với Vương phu nhân, vợ Giả Chính bên
phủ Vinh. Tiết phu nhân năm nay độ bốn mươi tuổi, chỉ có một nình Tiết Bàn là
con trai và Bảo Thoa là con gái, kém Tiết Bàn hai tuổi. Bảo Thoa da dẻ nõn nà,
đi đứng đoan trang, khi cha còn sống rất yêu cho đi học, sức học so với anh hơn
gấp mười lần. Từ khi cha chết, Bảo Thoa thấy anh hư hỏng, không làm cho mẹ vui
lòng, nên không để tâm vào sách vở mà chỉ chăm chú thêu thùa và lo liệu công việc
trong nhà, đỡ đần mẹ. Gần đây nhà vua ham chuộc thi lễ, cất nhắc những người
tài năng, ngoài số người được tuyển vào làm phi tần, lại còn ban ơn đặc biệt
cho những con gái các nhà danh gia thế hoạn đều được ghi tên ở Bộ, để sắp sẵn lựa
chọn làm tài nhân, tán thiện, theo hầu công chúa, quận chúa đi học. Hơn nữa,
khi bố Tiết Bàn chết, những người tổng quản, tài phú ở các cửa hàng thấy Tiết
Bàn trẻ tuổi, không hiểu việc đời bèn thừa dịp lừa dối, vì thế mấy chỗ buôn bán
với Tiết Bàn ở kinh đô, đều bị hao hụt dần. Tiết Bàn nghe nói kinh đô là chỗ phồn
hoa thứ nhất, đang muốn đi chơi, một là đưa em vào đội tuyển (3), hai là thăm họ
hàng, ba là vào Bộ thanh toán sổ cũ tính sổ mới. Nhưng thực ra hắn chỉ muốn vào
kinh đô du lãm cho thích. Nay được dịp, hắn liền sắm sửa các đồ hành trang và
những quà thổ sản để biếu các nơi. Đương lúc chọn ngày khởi hành, tình cờ gặp đứa
dỗ người mang Anh Liên đến bán. Tiết Bàn trông thấy Anh Liên có nhan sắc, liền
mua ngay, ngờ đâu lại bị họ Phùng đến đòi về. Cậy có thế lực, hắn thét người
nhà đánh chết Phùng Uyên, rồi giao phó công việc, cho mấy người trong họ và bọn
đầy tớ lo liệu. Còn mình thì đưa mẹ và em đi luôn. Hắn coi án mạng và việc quan
cũng như chuyện đùa, cho rằng chỉ quẳng ra một ít tiền là xong hết.
Đi đường không biết bao nhiêu ngày. Khi sắp đến kinh đô nghe
tin cậu là Vương Tử Đằng được thăng làm thống chế chín tỉnh, vâng chỉ vua đi tuần
tra các vùng biên cương, Tiết Bàn mừng thầm: Ta đương lo vào kinh sẽ bị cậu kiềm
chế, không được phóng túng tự do, bây giờ cậu thăng chức đi rồi, thế mới biết
trời cũng chiều người. Hắn bàn với mẹ:
- Nhà ta có mấy ngôi nhà ở kinh đô bỏ không đã mười năm nay,
có lẽ bọn quản gia đã vụng trộm cho thuê lấy tiền cũng nên. Vậy ta nên sai người
đến đó xếp đặt, quét dọn trước.
Tiết phu nhân nói:
- Làm gì phải lôi thôi thế! Chuyến này ta vào Kinh, cốt là
thăm thân thích bạn bè. Hoặc ở nhà cậu, hoặc ở nhà dì, chỗ nào cũng rộng rãi lắm.
Mẹ con ta hãy đến ở đấy, thong thả sẽ sai người đi thu dọn nhà riêng, thế chẳng
đỡ việc hay sao?
- Bây giờ cậu đã thăng ra tỉnh ngoài, lúc đi chắc trong nhà bận
rộn, ta lại kéo cả nhà đến thì coi sao tiện?
- Cậu thăng chức ra đi thì đã có nhà dì. Huống chi mấy năm
nay cậu và dì cứ luôn luôn viết thư mời ta vào chơi. Nay cậu tuy đi nhận chức vắng,
nhưng thế nào bên nhà dì cũng giữ ta lại. Nếu vội vàng thu xếp chỗ ở riêng, người
ta chẳng trách móc hay sao? Tao biết bụng mày rồi. Mày ở nhà cậu, nhà dì thì sợ
câu thúc chứ gì? Ở riêng ra, tha hồ muốn làm gì thì làm. Mày có muốn về thì dọn
về nhà ở một mình. Tao với bên nhà dì cách biệt đã mấy năm nay, cũng muốn mang
em mày đến ở bên ấy. Mày nghĩ thế nào, có được không?
Tiết Bàn nghe vậy, biết rằng không trái được ý mẹ, đành bảo
người nhà mang hành lý đi thẳng vào phủ Vinh. Lúc bấy giờ Vương phu nhân biết vụ
kiện của Tiết Bàn nhờ có Giả Vũ Thôn thu xếp nên đã yên lòng. Nhưng lại đang buồn
vì thấy anh ra làm quan ở ngoài, không có ai là người thân thích bên họ ngoại
qua lại, cảm thấy có chiều hiu quạnh. Cách vài ngày, có người nhà báo: “Tiết
phu nhân dẫn các cô cậu đã đến, đương xuống xe ngoài cửa”. Vương phu nhân mừng
lắm, mang người ra đón vào nhà khách, rồi mời Tiết phu nhân vào nhà trong. Chị
em lâu ngày mới gặp, vừa thương vừa mừng, nói sao cho xiết. Một lúc hàn huyên
trò chuyện xong, Vương phu nhân đưa Tiết phu nhân đến chào Giả mẫu, biếu các
món quà thố sản. Cả nhà đều chào hỏi rồi mở tiệc mừng.
Tiết Bàn đi chào Giả Chính, Giả Liễn, lại đến chào Giả Xá, Giả
Trân. Giả Chính sai người nói với Vương phu nhân: “Dì Tiết đã có tuổi, cháu Bàn
còn trẻ dại, chưa từng trải việc đời, nếu cho ở ngoài sẽ xảy ra việc gì chăng. Ở
phía đông bắc nhà ta có viện Lê Hương, mười gian để không đã quét tước sạch sẽ,
mời dì Tiết và các cháu đến ở đấy rất tốt”.
Vương phu nhân chưa kịp giữ lại thì Giả mẫu đã sai người đến
nói: “Mời dì Tiết ở lại đây để gần gũi nhau cho thêm phần thân mật”. Tiết phu
nhân cũng muốn ở chung một chỗ để tiện kiềm chế con, nếu ở ngoài sợ nó làm càn
gây vạ, nên vâng lời ngay. Tiết phu nhân nói riêng với Vương phu nhân: “Những
chi phí hàng ngày xin cứ mặc tôi, thế mới phải lẽ”. Vương phu nhân biết việc
chi tiêu hàng ngày cũng không khó khăn gì đối với nhà họ Tiết, nên cũng để tùy
tiện. Từ đấy mẹ con họ Tiết ở hẳn trong viện Lê Hương.
Nguyên viện Lê Hương trước kia là chỗ tĩnh dưỡng tuổi già của
Vinh quốc công. Viện nhỏ nhắn, xinh xắn; ước hơn mười gian. Nhà khách, nhà
trong có đủ. Lại có cửa thông ra phố. Người nhà Tiết Bàn ra vào cửa này. Góc
tây nam Viện có một cửa nách, thông ra con đường nhỏ. Đi hết con đường này thì
đến phòng chính của Vương phu nhân. Mỗi ngày ăn cơm xong, hay buổi chiều, Tiết
phu nhân thường sang chơi, nói chuyện với Giả mẫu hoặc tâm sự với Vương phu
nhân. Bảo Thoa hàng ngày cùng với chị em Đại Ngọc, Nghênh Xuân xem sách, đánh cờ,
thêu thùa, rất là vui vẻ. Chỉ có Tiết Bàn lúc đầu không muốn ở trong Giả phủ, sợ
bác dượng câu thúc, không được tự do. Không ngờ bà mẹ nhất định ở đấy, vả lại
nhà họ Giả ân cần cố mời, nên hắn đành phải chịu; một mặt hắn vẫn sai người về
quét dọn nhà mình, để rồi sẽ về đó ở. Nhưng chưa đầy một tháng, hắn đã quen biết
một nửa bọn con cháu nhà họ Giả. Bọn này đều là con nhà phú quý, ai cũng thích
chơi với hắn, nay uống rượu, mai thưởng hoa, thậm chí đánh bạc, chơi gái, cái
gì họ cũng đến rủ rê, làm cho Tiết Bân hư hỏng gấp mười khi trước. Giả Chính
tuy rằng dạy con có phép, trị nhà rất nghiêm, nhưng một là họ to, người nhiều,
trông nom không xuể, hai là Giả Trân là cháu trưởng phủ Ninh, hiện đương tập
chúc, bao nhiêu việc đều thuộc chi trưởng trông nom hết, ba là việc công, việc
tư bề bộn, mà tính Giả Chính lại khoáng đãng, không thích chăm lo việc đời, lúc
nhàn rỗi, thư thái chỉ đánh cờ, xem sách, ngoài ra không để ý đến việc gì. Huống
chi viện Lê Hương cách xa hàng hai ba lớp nhà, có cửa riêng, thông ra phố, ra
vào tuỳ ý, bọn con em có thể tự do chơi bời. Vì thế, Tiết Bàn dần dần không
nghĩ đến chuyện dọn về ở riêng ngoài phố nữa.
Chú thích:
Chú thích:
(1). Một cung xây dựng từ đời Tần.
(2). Đời Thanh, các đồ dùng trong cung nhà vua đều có đặt những
hiệu nhận sắm. Phải trình tên tuổi người đứng cửa hiệu để ghi vào sổ nhà vua.
(3). Chờ dịp tuyển vào cung.
Hồi 5:
Chơi cõi ảo, mười hai thoa chỉ đường mê;
Uống rượu tiên, mộng lầu hồng diễn thành khúc.
Ngày xuân uể oải lịm trong chăn,
Như dắt nàng tiên lánh cõi trần.
Vào hào hoa tư ai đấy nhỉ,
Phong lưu gây lấy nợ vào thân.
Việc mẹ con họ Tiết đến ở phủ Vinh hãy tạm ngưng. Nay nói Lâm
Đại Ngọc từ khi đến phủ Vinh, được Giả mẫu thương yêu muôn phần, ăn ở đi đứng,
nhất nhất đều như Bảo Ngọc, ngay Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân cũng không bằng.
Bảo Ngọc và Đại Ngọc thì thân nhau hơn hẳn mọi người; ngày
cùng chơi chung, tối cùng ngủ chung, rất là hòa thuận, thân mật như keo sơn,
không hề xích mích nhau điều gì. Nay bất thình lình có Tiết Bảo Thoa đến, tuy
không lớn tuổi hơn mấy, nhưng phẩm cách đứng đắn, phong tư lộng lẫy, ai cũng
cho là hơn Đại Ngọc. Bảo Thoa lại cư xử khoát đạt, tùy phận theo thời; không giống
như Đại Ngọc có tính kiêu kỳ tự phụ, chẳng chịu kém ai, cho nên rất được lòng
người dưới. Ngay bọn a hoàn cũng thích gần Bảo Thoa. Vì thế Đại Ngọc cũng hơi ấm
ức khó chịu, nhưng Bảo Thoa thì thản nhiên như không.
Bảo Ngọc còn trẻ con, tính lại vụng về, ngang trái, coi anh
chị em ai cũng như ai, không hề phân biệt thân sơ xa gần. Bấy nay Bảo Ngọc, Đại
Ngọc ở trong buồng Giả mẫu, quen biết hơn và tất nhiên cũng thân mật hơn. Đã
thân mật hơn thì dễ xảy ra những chuyện hiểu lầm nhau không thể tránh được. Có
một hôm, không biết vì việc gì, hai người trò chuyện không hợp nhau, Đại Ngọc bực
bội vào buồng khóc một mình. Bảo Ngọc hối hận đã nói sỗ sàng, liền lại làm
thân, Đại Ngọc mới dần dần nguôi giận.
Nhân dịp vườn bên phủ Vinh hoa mai nở rộ, vợ Giả Trân là vưu
thị bày tiệc, rồi sai vợ chồng Giả Dung sang tận nơi mời Giả mẫu, Hình phu
nhân, Vương phu nhân sang thưởng hoa.
Giả mẫu và mọi người ăn cơm sáng xong, sang vườn Hội phương
ngắm cảnh. Trước còn uống trà, sau mới uống rượu. Đây chỉ là tiệc rượu riêng
trong hai phủ Ninh và phủ Vinh thôi, không có sự gì lạ đáng chép cả.
Một lúc sau, Bảo Ngọc mệt, muốn về nghỉ trưa. Giả mẫu định
sai người đưa về nghỉ một chốc rồi sẽ đến. Vợ Giả Dung là họ Tần, vội cười nói:
- Ở đây đã dọn một gian buồng để chú Bảo nghỉ rồi, xin cụ yên
lòng, cứ giao chú ấy cho cháu là được.
Rồi bảo vú già và a hoàn của Bảo Ngọc: “Các bà các chị mời
chú Bảo đi theo tôi”.
Giả mẫu biết Tần thị rất chu tất, vì chị ta là người mềm mại,
dịu dàng, cư xử lại hòa nhã khéo léo rất được vừa ý trong đám chắt dâu. Thấy Tần
thị dẫn Bảo Ngọc đi nghỉ, Giả mẫu mới yên tâm.
Khi Tần thị dẫn mọi người đến buồng trong; Bảo Ngọc ngửng đầu
trông, thấy trên treo bức vẽ “Nhiên lê đồ”(2). Bức vẽ rất đẹp, nhưng không biết
của ai, trong bụng Bảo Ngọc không thích. Lại có một câu đôi câu đối:
Thế sự tinh thông đều là học vấn,
Nhân tình lịch duyệt mới gọi văn chương.
Đọc xong xuôi câu đối, Bảo Ngọc nhìn nhà cửa rất đẹp, đồ bài
trí rất trang hoàng, nhưng nhất định không chịu ở, liền nói:
- Mau ra ngay, mau ra ngay!
Tần thị cười nói:
- Chỗ này không vừa ý thì chú đi đâu bây giờ. Nếu không, chú
đến nghỉ ở buồng tôi vậy.
Bảo Ngọc gật đầu mỉm cười, một bà già nói:
- Có lẽ nào chú lại đến ngủ ở buồng cháu dâu?
Tần thị cười nói:
- Ôi dào! Không sợ chú ấy phật ý. Chú ấy đã lớn đâu mà phải e
dè? Chị không thấy tháng trước em tôi đến đây chơi à? Tuy nó bằng tuổi chú Bảo,
nhưng để hai người đứng với nhau có lẽ nó còn cao hơn kia.
Bảo Ngọc hỏi:
- Tại làm sao tôi chưa được gặp? Đi gọi lại đây tôi xem.
Mọi người cười nói:
- Ờ xa hai ba mươi dặm, gọi ngay thế nào được. Sau này cũng
có ngày gặp nhau.
Đến buồng Tần thị, Bảo Ngọc vừa mới bước chân vào, đã thoảng
có mùi thơm say sưa. Khi ấy mắt Bảo Ngọc dính lại, người nhủn ra, nói ngay:
- Mùi thơm thích nhỉ.
Trong buồng, trên tường treo bức họa “Hải đường xuân thụy”(3)
của Đường Bá Hổ vẽ, hai bên có đôi câu đối của học sĩ Tần Thái Hư đời Tống:
Lờ mờ giấc mộng hơi xuân lạnh,
Ngào ngạt mùi hương rượu khá nồng.
Trên án bày một cái gương quý của Vũ Tắc Thiên(4) đời Đường.
Một bên bày cái mâm vàng mà Triệu Phi Yến(5) đã đứng lên múa, trên mâm để quả
dưa mà An Lộc Sơn(6) đã ném vào vú Dương Quý Phi. Đằng trước kê một cái giường
báu của công chúa Thọ Xương(7) nằm ở điện Hàm Chương, mắc cái màn liên châu của
Công chúa Đồng Xương(8) dệt ra.
Bảo Ngọc thấy vậy cười nói:
- Ở đây tốt! Ở đây tốt!
Tần thị cười:
- Cái buồng của tôi dù thần tiên cũng có thể ở được.
Nói xong, Tần Thị tự tay mở cái khăn lụa mà chính tay Tây Thi
đã giặt, và đặt sẵn cái gối Uyên Ương của Hồng Nương đã ôm khi xưa. Thấy Bảo Ngọc
ngủ yên, bọn bà già rủ nhau đi ra ngoài, chỉ để Tập Nhân, Mỹ Nhân, Tình Văn, Xạ
Nguyệt, bốn người ở lại túc trực. Tần thị gọi mấy a hoàn nhỏ ra ngồi ngoài thềm,
đừng cho mèo chó đến cắn nhau.
Bảo Ngọc vừa nhắm mắt đã bàng hoàng ngủ say. Tưởng như Tần thị
còn đứng trước mặt mình. Bảo Ngọc lững thững theo Tần Thị đi đến một chỗ lan
can sơn đỏ, thềm xây bằng ngọc, cây xanh ngắt, suối trong veo, không có một tí
dấu vết bụi trần. Bảo Ngọc ở trong giấc mộng rất vui sướng, nghĩ bụng: “Chỗ này
thú lắm, ước gì ta được ở đây suốt đời, dù mất cả nhà cũng vui lòng hơn là bị
cha mẹ và thầy học kèm thúc!” Đương lúc nghĩ vơ vẩn, nghe thấy sau núi có người
hát:
Mộng đẹp, mây tan mộng,
Hoa bay, nước cuốn hoa.
Nhắn bảo bạn nhi nữ,
Buồn hão chuốc chi mà ?
Bảo Ngọc nghe rõ đó là tiếng hát của người con gái. Tiếng hát
chưa dứt đã thấy một mỹ nhân ở đằng xa đi lại, thướt tha lững thững, không giống
người trần tí nào. Có bài phú tả chân sau này:
Vừa qua rừng liễu, đã tới buồng hoa,
Chỗ đang đi, chim trên cành, tiếng kêu xào xạc,
Khi sắp đến, bước quanh thềm, bóng lượn thướt tha.
Ve vẩy tay tiên, xạ lan ngào ngạt,
Phất phơ tà áo, hoàn bội gần xa.
Mặt hoa đào, làn tóc mây xanh ngắt,
Môi anh đào, răng hạt lựu hương pha.
Tuyết múa, gió quay, lưng ong mềm mại,
Mặt tươi, da bóng, châu thúy chói lòa.
Thấp thoáng trong hoa, như mừng như giận.
Nhởn nhơ mặt nước, khi bổng, khi là.
Mày liễu cau cau, muốn nói mà còn e lệ,
Gót sen chầm chậm, muốn dừng mà vẫn dạo qua.
Phẩm chất đáng khen, giá trong ngọc sáng.
Áo quần rất đẹp, lộng lẫy văn hoa,
Kể dung mạo, hương lồng ngọc giát,
Ví phong tư, rồng cuốn, phượng sa.
Trắng như hoa mai tuyết phủ,
Sạch như bông huệ sương pha.
Nhàn tĩnh như cỗi thông mọc trong không cốc,
Diễm lệ như mây ráng soi dưới trùng ba.
Văn vẻ như rồng bơi trong đầm uốn khúc,
Quang thái như trăng dọi trên sông Ngân hà.
Tây Thi đáng thẹn, Vuông Tường kém xa.
Lạ thay đến tự phương nào? Sinh ở đâu ta?
Thật vậy, chốn Dao trì khó bề sánh kịp, nơi tử phủ dễ kiếm
đâu ra.
Hỏi người nào đấy? quả bậc tiên nga.
Bảo Ngọc trông thấy đây là một tiên cô, mừng rơ vội lại chào,
cười nói:
- Tiên cô ở đâu đến đây, bây giờ định đi đâu? Tôi không biết
chỗ này là chỗ nào, nhờ tiên cô dẫn tôi đi.
Tiên cô cười nói:
- Ta là vị tiên ở Thái hư ảo cảnh(9), động Khiển Hương, núi
Phóng Xuân(10), thuộc trời Ly hận, bể Quán sầu, phàm những việc nợ trăng, tình
gió, gái giận, trai si ở cõi trần đều thuộc ta cai quản. Nhân gần đây có bọn
phong lưu oan nghiệt tụ tập ở nơi này nên ta đến thăm dò cơ hội gieo rắc mọi nỗi
tương tư. Nay gặp anh cũng không phải là ngẫu nhiên. Chỗ ta ở c ũng gần, không
có vật gì, chỉ có chén trà tiên, tự tay hái lấy, h ũ rượu ngon, tự tay nấu lấy,
vài cô múa hát, tập rèn đã lâu, và mười hai khúc Hồng lâu mộng mới phổ vào cung
đàn. Anh có muốn theo ta đi chơi không?
Bảo Ngọc nghe xong, sung sướng nhảy lên, quên bẵng Tần thị
không biết ở đâu, liền theo ngay tiên cô đến một nơi. Chợt trông thấy một tòa
nhà phía trước, trên biển đề bốn chữ to: “Thái hư ảo cảnh”, hai bên có đôi câu
đối:
Giả bảo là chân, chân cũng giả,
Không làm ra có, có rồi không.
Đi qua tòa nhà đến một cửa cung, trên treo biển có bốn chữ lớn:
“Nghiệt hải tình thiên”(11) và đôi câu đối:
Đất rộng, trời cao, khôn gỡ nổi mối tình kim cổ,
Trai si, gái oán, khó đền xong món nợ gió trăng.
Bảo Ngọc xem xong nghĩ bụng: “À ra thế đấy. Nhưng thế nào là
“tình kim cổ” và “nợ gió trăng”? Ta phải hiểu rõ câu này mới được”. Bảo Ngọc vừa
mới nghĩ thế, ngờ đâu con ma tình đã lấn sâu vào tận cao hoang(12). Cậu ta theo
tiên cô vào đến cửa thứ hai, thấy hai tòa bên cạnh đều có hoành phi câu đối,
không tài nào xem hết được, chỉ thấy mấy chỗ đề những chữ: “Si tình ti”, “kết
oán ti”, “Triêu đề ti”, “Dạ oán ti”, “Xuân cảm ti”, “Thu bi ti”. Bảo Ngọc hỏi
tiên cô:
- Xin phiền tiên cô dẫn tôi vào xem trong các ti có được
không?
Tiên cô nói:
- Trong các ti chứa toàn sổ sách của tất cả con gái trong
thiên hạ từ trước và sau này, anh người trần mắt thịt không thể biết được.
Bảo Ngọc khi nào chịu thôi, cứ khẩn khoản nài xin mấy lần. Tiên
cô mới bảo:
Bảo Ngọc thích lắm, vừa ngẩng đầu nhìn, thấy một ti có biển đề
ba chữ: “Bạc mệnh ti” hai bên có câu đối:
Xuân hận, thu sầu mình chuốc lấy,
Mặt hoa da phấn đẹp vì ai?
Bảo Ngọc xem xong, trong lòng than thở. Đi vào trong cửa thấy
mười mấy cái tủ lớn đều niêm phong cẩn thận, trên tờ niêm phong đều có đề tên
các tỉnh. Bảo Ngọc chỉ chăm chú nhìn xem có tờ niêm phong nào đề tên tỉnh mình,
chứ không để ý đến các tỉnh khác, chợt thấy Có một cái tủ đề: “Kim Lăng thập nhị
thoa chính sách”. Bảo Ngọc hỏi:
- Sao lại gọi là “Kim Lăng thập nhị thoa chính sách”?
Tiên cô nói:
- Tức là quyển sổ ghi mười hai người con gái đứng đầu trong tỉnh
anh, cho nên gọi là chính sách.
Bảo Ngọc nói:
- Người ta thường nói Kim Lăng rộng lắm, làm sao chỉ có mười
hai người? Ngay trong nhà chúng tôi, trên dưới cũng đã có hàng mấy trăm người rồi!
Tiên cô mỉm cười nói:
- Con gái trong tỉnh anh rất nhiều, nhưng đây chỉ biên những
người nào cần biên thôi. Hai tủ để hai bên là hạng thứ nhì. Những hạng tầm thường
thì không cần biên vào.
Bảo Ngọc lại xem đến cái tủ đề: “Kim Lăng thập nhị thoa chính
sách”, rồi lại có một tủ nữa đề: “Kim Lăng thạp nhị thoa hựu phó sách”. Bảo Ngọc
giơ tay mở tủ, rút một quyển trong “hựu phó sách” ra xem. Vừa mở ra, thấy một bức
vẽ, trên bìa không phải là nhân vật, cũng không phải là sơn thủy, chẳng qua màu
mực lờ mờ. Trên giấy đầy những mây đen mù đục mà thôi. Sau có mấy hàng chữ:
Trăng trong khó gặp, mây đẹp dễ tan,
Lòng sao cao quý, phận lại đê hèn.
Tinh khôn, đài các tổ người ghen,
Chịu tiếng ong ve thành tổn thọ,
Đa tình công tử Luống than phiền.
Bảo Ngọc xem xong, không hiểu, lại thấy mặt sau vẽ một khóm
hoa tươi, một cái giường trải chiếu rách, có đề mấy câu:
Nhũn nhặn thuận hòa uổng cả,
Lan thơm, quế ngát, thừa thôi.
Khen cho ưu linh(13) phúc tốt,
Ngờ đâu công tử duyên ôi!
Bảo Ngọc xem xong lại càng không hiểu, cất quyển sổ ấy vào tủ
và mở tủ đựng “phó sách”, lấy một quyển ra xem, thấy trang đầu có vẽ một cành
hoa quế, mé dưới có cái ao, nước cạn, bùn khô, cây sen héo, ngó sen tàn. Mặt
sau có đề thơ:
Sen thơm liền gốc nở chùm hoa,
Gặp gỡ đường đời thật xót xa.
Từ lúc cây trong hai chỗ đất(14).
Hương hồn trở lại chốn quê nhà.
Bảo Ngọc xem xong cũng không hiểu. Lại lấy một quyển ở trong
tủ “chính sách” ra xem, thấy trang đầu vẽ hai cây khô, trên cây treo một cái
đai ngọc; dưới đất có một đống tuyết, trong tuyết có cái trâm vàng. Có bốn câu
thơ:
Than ôi có đức dừng thoi,
Thương ôi cô gái có tài vịnh bông.
Ai treo đai ngọc giữa rừng(15),
Trâm vàng ai đã vùi trong tuyết dày?
Bảo Ngọc vẫn không hiểu, muốn hỏi cho ra, nhưng biết rằng
tiên cô chẳng chịu tiết lộ cơ trời, muốn cất sổ đi, nhưng lại tiếc, liền giở
xem những trang sau, thì thấy vẽ một cái cung, trên cung treo một quả phật thủ.
Có đề bài thơ:
Sau tuổi hai mươi đã trải đời,
Kìa hoa lựu nở cửa cung soi.
Ba xuân nào được bằng xuân mới,
Thỏ gặp hùm kia giấc mộng xuôi(16).
Mặt sau lại vẽ hai người thả diều, một vùng bể lớn, một cái
thuyền lớn, trong thuyền có một cô gái bưng mặt khóc. Sau bức họa có bốn câu:
Chí cao tài giỏi có ai bì,
Gặp lúc nhà suy, vận cũng suy,
Nhớ tiếc thanh xuân ra bến khóc.
Gió đông nghìn dặm mộng xa đi.
Mặt sau vẽ mấy đám mây bay, một dòng nước chảy, có đề mấy
câu:
Giàu sang cũng thế thôi.
Từ bé mẹ cha bỏ đi rồi.
Nhìn bóng chiều ngậm ngùi,
Sông Tương nước chảy mây Sở trôi.
Mặt sau thấy vẽ một viên ngọc quý, vất ở đống bùn. Có mấy câu
đoán:
Muốn sạch mà không sạch.
Rằng không chửa hẳn không.
Thương thay mình vàng ngọc,
Bùn lầy sa vào trong.
Mặt sau lại vẽ một con lang dữ, đuổi bắt một mỹ nữ, định ăn
thịt. Dưới có câu:.
Rõ ràng giống sói Trung Sơn,
Gặp khi đắc ý ngông cuồng lắm thay.
Làm cho hoa liễu thân này,
Hoàng lương giấc mộng mới đầy một năm.
Mặt sau lại vẽ một tòa miếu cổ, trong có một mỹ nhân ngồi xem
kinh, có mấy câu phán:
Biết rõ ba xuân cảnh chóng già,
Thời trang đổi lấy áo cà sa.
Thương thay con gái nhà khuê các,
Một ngọn đèn xanh cạnh phật bà.
Mặt sau vẽ một núi băng, trên có một con phượng mái. Có mấy
câu phán:
Chim phượng kìa sao đến lỗi thời,
Người đều yêu mến bực cao tài,
Một theo hai lệnh, ba thôi cả,(17)
Nhìn lại Kim Lăng luống ngậm ngùi.
Mặt sau vẽ một cái nhà trong vùng thôn quê vắng vẻ, có một mỹ
nhân dệt cửi. Có mấy câu phán:
Vận suy đừng kể rằng sang,
Nhà suy chớ kể họ hàng gần xa.
Tình cờ cứu giúp người ta,
Khéo sao Lưu thị lại là ân nhân.
Sau bài thơ vẽ một chậu lan, bên cạnh có một mỹ nhân đội mũ
phượng, đeo cái khoác vai màu ráng trời, và có mấy câu phán:
Gặp xuân đào lý quả muôn vàn,
Rốt cuộc sao bằng một chậu lan.
Nước sạch, băng trong ghen ghét hão,
Tiếng tăm còn để lại nhân gian.
Lại có một tòa lầu cao, trên có một mỹ nhân treo cổ tự tử. Có
mấy câu phán:
Trời tình, bể tình là mộng ảo,
Mà tội dâm kia cũng bởi tình.
Đầu têu nào phải “Vinh” hư hỏng,
Mở lối khơi nguồn, thực tại “Ninh”.
Bảo Ngọc còn muốn xem nữa. Tiên cô biết Bảo Ngọc tư chất
thông minh, tính tình mẫn tuệ, sợ lộ thiên cơ, bèn gấp sổ lại, cười bảo:
- Hãy đi theo ta vào xem phong cảnh, sao lại ở đây đoán vơ vẩn
làm gì?
Bảo Ngọc mơ màng, bất giác buông quyển sổ ra, theo tiên cô đi
về đằng sau. Thấy cột vẽ, xà chạm, rèm châu, màn thêu hoa tiên, cỏ lạ, hoa thơm
ngào ngạt, thực là cảnh tuyệt đẹp, đúng như câu:
Cửa sổ sáng lay, vàng giải đất,
Sóng quỳnh tuyết chiếu, ngọc làm nhà.
Bảo Ngọc đương mải miết xem, chợt tiên cô gọi:
- Chị em đâu, đi ra đón quý khách!
Tiếng gọi chưa dứt, đã thấy mấy cô tiên ở trong buồng, tà sen
phất phới, áo lông thướt tha, tươi như hoa xuân, đẹp như trăng thu, chạy ra.
Trông thấy Bảo Ngọc, các nàng tiên đều trách Cảnh ảo tiên cô:
- Chúng em không biết là “quý khách” nào, vội vàng ra đón. Chị
đã bảo ngày này, giờ này sẽ có linh hồn em Giáng Châu đến ngoạn cảnh, chúng em
chờ mãi, sao bây giờ lại dẫn cái của ô trọc đến đây làm bẩn cả nơi nữ nhi thanh
tịnh này?
Bảo Ngọc nghe nói, giật mình, cảm thấy mình dơ bẩn đáng thẹn,
muốn lùi ra. Tiên cô vội nắm lại và quay về các nàng tiên nói:
- Các em không biết đầu đuôi việc này. Nguyên hôm nay ta định
đến phủ Vinh đón Giáng Châu. Khi đi qua phủ Ninh, gặp linh hồn hai ông Ninh
công, Vinh công nói với ta rằng: “Nhà chúng tôi từ đầu quốc triều, đời đời công
danh phú quý đã trăm năm nay. Bây giờ số vận đã hết, không thể kéo lại được nữa.
Con cháu chúng tôi tuy nhiều, nhưng chẳng có đứa nào nối nghiệp. Chỉ có cháu
đích tôn là Bảo Ngọc, có chút thông minh đĩnh ngộ, may ra có thể thành đạt được,
nhưng vì tính nó ngang trái kỳ quặc, sợ không ai dìu dắt vào đường chính. May gặp
tiên cô đến đây, xin nhờ lấy những việc tình dục thanh sắc răn bảo bệnh si
ngoan của nó, họa chăng nó có thể thoát vòng mê muội, đi vào đường chính, thì rất
may cho anh em chúng tôi”. Vì hai ông ký thác như thế nên ta có lòng từ bi dắt
nó đến đây. Trước hết cho nó xem thật kỹ những quyển sổ ghi số mệnh chung thân
của ba hạng con gái nhà nó, nhưng nó vẫn chưa tỉnh ngộ, nên ta lại dẫn đến đây
để trải hết những cái ảo cảnh ăn ngon, hát hay, sắc đẹp, họa may nó có tỉnh ngộ
chăng.
Nói đoạn, tiên cô dắt Bảo Ngọc vào trong nhà. Một mùi thơm mê
hồn không biết là thứ gì. Bảo Ngọc không nhịn được, phải hỏi. Tiên cô cười nhạt:
- Mùi hương này dưới trần không có, anh làm sao biết được.
Đây là tinh hoa của cỏ lạ mới mọc ở những nơi danh sơn thắng cảnh, lại hợp chế
với dầu các cây quý gọi là “Quần hương tủy” (18).
Bảo Ngọc nghe rất ham thích. Bấy giờ mọi người vào chỗ ngồi,
tiểu hoàn dâng trà, Bảo Ngọc thấy hương thanh vị thơm, không phải là trà thường,
liền hỏi trà gì, tiên cô nói:
- Trà này lấy ở Động Khiển Hương núi Phóng Xuân, pha bằng nước
móc đọng ở trên hoa lá cõi tiên, gọi là “Thiên hồng nhất quật” (19).
Nghe xong, Bảo Ngọc gật đầu khen. Nhìn vào trong buồng thì thấy
đàn ngọc, đỉnh báu, tranh cổ, thơ mới, không thiếu thứ gì. Dưới cửa sổ lại có mấy
bản đàn, có hộp nữ trang hoen phấn. Trên vách có treo câu đối:
Đất u vi lính tú.
Trời “vô khả nài hạ” (20).
Bảo Ngọc xem xong lại hỏi tên các nàng tiên, thì một là Si Mộng
tiên cô, một là Chung Tình đại sĩ, một là Dẫn Sầu kim nữ, một là Độ hận bồ đề,
mỗi người một đạo hiệu, không ai giống ai. Một chốc tiểu hoàn đến dọn bản đặt
ghế bày tiệc. Chính là:
Chén hổ phách, cốc pha lê,
Bên này rượu ngọc, bên kia rượu quỳnh.
Bảo Ngọc thấy rượu thơm ngọt khác thường, lại hỏi. Tiên cô
nói:
- Rượu này cất bằng nhụy trăm thứ hoa, nước muôn thứ cây thêm
vào tủy con lân, sữa con phượng, vì thế gọi là rượu “Vạn diễm đồng bôi” (21).
Bảo Ngọc tấm tắc khen mãi. Khi uống rượu, có mười hai vũ nữ
lên hỏi diễn khúc gì. Tiên cô nói:
- Diễn mười hai khúc Hồng Lâu Mộng mới đặt ra.
Vũ nữ vâng lời, liền lần gầy phím đàn, nhẹ gõ dịp phách. Vừa
mới hát câu “Mịt mùng khi mới mở toang”, tiên cô bảo Bảo Ngọc:
- Khúc này không phải như khúc dưới trần thường hát, phải có
vai học trò, vai nữ, vai hề, vai lão, lại có chín cung giọng nam và giọng bắc. Ở
đây thì hoặc đề vịnh một người, hoặc cảm hoài một việc, ngẫu nhiên thành một
khúc, phổ vào âm nhạc ngay. Nếu không phải là người trong cuộc thì không hiểu
được cái hay của nó. Khúc hát này chắc anh chưa hiểu rõ lắm. Nếu không xem vở
trước, thì khi nghe cũng là vô vị thôi.
Nói xong, lại bảo tiểu hoàn đưa vở “Hồng lâu mộng” cho Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc cầm lấy, mắt xem vở, tai nghe hát, có những bài sau này:
Khúc một: GIÁO ĐẦU HỒNG LÂU MỘNG.
Mịt mùng khi mới mở toang,
Giống tình ai đã chịu mang vào mình.
Chỉ vì tình lại gặp tình,
Gió trăng nồng đượm không đành xa nhau.
Khi vắng vẻ, lúc buồn rầu,
Thua trời nên dãi nỗi sầu thơ ngây.
Mộng hồng lâu diễn khúc này.
Thương vàng tiếc ngọc tỏ bày nỗi riêng.
Khúc hai: CHUNG THÂN NGỘ (lỡ nhau suốt đời).
Ai rằng vàng ngọc duyên ưa,
Ta quên cây, đá, thề xưa được nào.
Trơ trơ người tuyết trên cao,
Ngoài đời, đường vắng khuây sao được nàng.
Cuộc đời ngán nỗi tang thương,
Đẹp không toàn đẹp, lời càng đúng thay.
Dù cho án đặt ngang mày,
Cuối cùng vẫn thấy lòng này băn khoăn.
Khúc ba: UỔNG NGƯNG MI (Hoài công biết nhau).
Một bên hoa nở vườn tiên,
Một bên ngọc đẹp không hoen ố màu.
Bảo rằng chả có duyên đâu,
Thì sao lại được gặp nhau kiếp này?
Bảo rằng sẵn có duyên may,
Thì sao lại đổi thay lời nguyền?
Một bên ngầm ngấm than phiền,
Một bên đeo đẳng hão huyền uổng công.
Một bên trăng dọi trên sông,
Một bên hoa nở bóng lồng trong gương,
Mắt này có mấy giọt sương,
Mà dòng chảy suốt năm trường, được chăng?
Bảo Ngọc nghe xong, thấy liên miên, viển vông, chưa có gì
hay, nhưng âm điệu réo rắt làm cho hồn phách say mê. Vì vậy chẳng hỏi đầu đuôi,
chẳng cần lai lịch, chỉ nghe để giải buồn thôi. Lại có những khúc hát tiếp:
Khúc bốn: HẬN VÔ THƯỜNG (Bực tức cuộc thay đổi)
Đương vui chợt đã buồn ngay,
Trố nhìn mọi việc thôi rày bỏ qua.
Hồn thơm dằng dặc bay xa,
Non cao trời rộng đây là quê hương.
Tìm nơi báo mộng gia nương,
Suối vàng con đã lỡ đường thần hôn.
Mau mau lùi bước là hơn.
Khúc năm: PHÂN CỐT NHỤC (Cốt nhục phân ly)
Đường xa mưa gió một chèo,
Cửa nhà, ruột thịt thôi đều bỏ qua.
Con đành lỗi với mẹ cha,
Khóc thương chỉ thiệt thân già đấy thôi.
Cùng thông số đã định rồi,
Hợp tan âu cũng duyên trời chi đây,
Phân chia hai ngả từ nay,
Dám mong giữ được ngày ngày bình yên,
Con đi xin chớ lo phiền.
Khúc sáu: LẠC TRUNG BI (Buồn trong cảnh vui)
Mồ côi từ lúc lọt lòng,
Dù nơi khuê các, chớ hòng ai thương,
Anh hào được tính hiên ngang
Tình riêng nhi nữ chưa vương vít lòng.
Thân này trăng sáng gió trong,
Chàng tiên mong được sánh cùng lứa đôi.
Những mong trời đất lâu dài.
Bõ khi trẻ dại gặp thời gian nan.
Ngờ đâu nước cạn mây tan,
Tương giang (22) lạnh ngắt, Cao đường vắng tanh.
Trần hoàn may rủi đã đành,
Việc gì khóc quẩn lo quanh bận lòng.
Khúc bảy: THẾ NAN DUNG (Đời không ưa)
Lan ví chất, tiên ví tài,
Chỉ hiềm cô tịch, tình trời bẩm sinh.
Cho là ăn thịt (23) hôi tanh,
Lụa the, là lượt, coi khinh không thèm.
Biết đâu cao quá. đời ghen,
Biết đâu sạch quá, đời khen da mà.
Đàn xanh, đền cổ, nguờí già,
Uổng công trang điểm, xuân đà kém xuân.
Ngán cho cái kiếp phong trần,
Sau này cũng lại xấu dần mãi đi.
Ngọc kia bùn trát đen sì,
Vương tôn công tử còn gì là duyên.
Khúc tám: HỶ OAN GIA (Gặp oan gia không đáng mừng lại mừng)
Người đâu hung ác lạ lùng,
Khác nào giống sói ở vùng Trung San.
Bấy lâu tình ái quên tràn,
Kiêu dâm chỉ việc mê man tháng ngày,
Cửa hầu bồ liễu thơ ngây,
Thân ngàn vàng nỡ đọa đày cho đang,
Một năm duyên đã bẽ bàng,
Hồn thơm phách đẹp, suối vàng xa chơi.
Khúc chín: HƯ HOA NGỘ (Biết tuổi hoa là không thật)
Cảnh xuân nhìn đã rõ rồi,
Liễu xanh, đào thắm hãy ngồi xem sao.
Thiều hoa đuổi sạch đi nào,
Tìm nơi nhã đạm thanh cao khác đời.
Kể chi đào nở trên trời,
Kể chi nhị hạnh lựng mùi trong mây.
Rốt cùng nào có ai hay,
Tiết thu đâu đã kéo ngay đến rồi.
Xóm Dương than khóc tiếng người,
Rừng phong văng tiếng ma ngồi ngâm nga.
Lại còn cảnh khác bày ra,
Ngút trời cỏ héo che qua nấm mồ.
Đó là biến đổi lắm trò,
Trước nghèo, sau có, chăm lo suốt đời.
Dày vò hoa cũng thế thôi,
Xuân mời hoa đến, thu mời hoa đi.
Tử sinh lẽ ấy đem suy,
Dù ai muốn trốn, trốn chi được mà.
Phương tây có cõi Bà Sa,
Nghe đồn có quả tên là Trường sinh.
Khúc mười: THÔNG MINH LỤY (Mắc lụy thông minh)
Việc đời tính rất thông minh,
Còn mình, mình tính phận mình vẫn sai,
Sống lần ruột đã nát rồi,
Chết mang tiếng hão là người tinh ranh,
Trước kia giàu có khang ninh,
Đến sau cơ nghiệp tan tành khắp nơi.
Uổng công áy náy nửa đời,
Khác gì một giấc mộng dài thâu canh.
Ầm ầm như sắp đổ đình,
Chập chờn như ngọn đèn xanh cạn dầu,
Vừa vui vẻ đã âu sầu,
Đời người biến đổi biết đâu mà lường.
Khúc mười một: LƯU DƯ KHÁNH (Phúc thừa sót lại)
May sao gặp được ân nhân,
Là nhờ dư phúc nương thân đó mà.
Âm công vun lấy phúc nhà.
Hết lòng cứu giúp người ta khi nghèo.
Anh gian, cậu ác chớ theo,
Nhãng tình máu mủ, chỉ yêu bạc tiền.
Có trời báo ứng ở trên.
Khúc mười hai: VÃN THIỀU HOA (Cảnh xuân về cuối)
Còn gì ân ái trong gương,
Còn gì giấc mộng trên đường công danh.
Cảnh thiều hoa đi sao nhanh,
Chăn uyên màn gấm thôi đành bỏ qua.
Mũ châu, áo phượng thướt tha,
Chống làm sao nổi vận nhà bấp bênh.
Già, nghèo khó chịu đã đành,
Cũng nên tích đức để dành về sau.
Ngông nghênh trâm ngọc trên đầu,
Ấn vàng trước ngực muôn màu sáng trưng.
Uy quyền lộc vị lẫy lừng,
Suối vàng buồn thảm đường chừng gần thôi.
Xưa nay khanh tướng còn ai,
Họa còn tiếng hão cho đời ngợi khen.
Khúc mười ba: HẢO SỰ CHUNG (Việc hay đến lúc hết)
Xuân đi hương vẫn còn rơi,
Nguyệt hoa gây vạ suy đồi vì ai?
Nhà suy bởi tại Kính rồi,
Nhà tan trước hết tội thời tại Ninh.
Gây nên oan trái vì tình.
Quan thì cơ nghiệp suy tàn,
Giàu thì vàng bạc cũng tan hết rồi.
Có ơn chết để trốn đời,
Rành rành báo ứng những ai phụ lòng.
Mạng đền mạng, đã trả xong,
Lệ đền lệ, đã ròng rong tuôn rơi.
Oan oan đừng lấy làm chơi.
Hợp tan đã trốn được trời hay chưa?
Gian nan là bởi kiếp xưa,
Giá mà phú quý là nhờ vận may,
Khôn thì vào cửa “Không” này,
Dại thì tính mệnh có ngày mất toi.
Như chim khi đã hết mồi,
Bay về rừng, thẳm đậu nơi yên lành.
Hát xong, tiên nữ lại hát những bài phụ, Thấy Bảo Ngọc không
lấy làm thích lắm, tiên cô thở dài:
- Anh ngốc này vẫn chưa tỉnh ngộ.
Bảo Ngọc thấy mình bàng hoàng hoảng hốt, vội bảo ca nữ đừng
hát nữa, và kêu say, xin đi nằm. Tiên cô truyền bảo dọn bàn tiệc đi, đưa Bảo Ngọc
vào một buồng thêu thơm tho. Trong đó trang hoàng nhiều đồ xưa nay chưa từng thấy.
Đáng sợ nhất là có một nàng tiên ngồi đấy, tươi đẹp nhu mì, giống hệt Bảo Thoa,
dịu dàng phong lưu lại như Đại Ngọc. Bảo Ngọc chưa biết thế nào, chợt nghe tiên
cô nói:
- Dưới trần bao nhiêu nhà phú quý, những nơi gió trăng trước
cửa sổ, khói mây trong buồng thêu, đều bị bọn trai hư gái hỏng làm nhơ bẩn.
Đáng giận hơn nữa là xưa nay những bọn con nhà khinh bạc hay biện bạch rằng “hiếu
sắc mà không dâm” lại bảo “tình mà không dâm”, đó chỉ là những lời để che lấp
thói xấu mà thôi. Biết đâu “hiếu sắc tức là dâm”. “Biết tình lại càng dâm”. Vì
thế, cuộc gặp gỡ ở Vu Sơn, chuyện vui thú về mây mưa, đều do chuộng sắc ham
tình mà gây nên. Ta ưa anh, vì anh là một người dâm nhất thiên hạ xưa nay.
Bảo Ngọc nghe xong, sợ hãi, vội vàng nói:
- Tiên cô lầm rồi. Tôi vì lười học, cha mẹ thường mắng luôn,
đâu còn dám phạm đến chữ “dâm”. Vả tôi còn bé, chẳng biết “dâm” là thế nào?
Tiên cô nói:
- Không phải thế đâu. Dâm dù một lẽ, nhưng ý thì khác nhau.
Những kẻ hiếu dâm trên đời chẳng qua là ưa sắc đẹp, thích múa hát, đùa bỡn
không chán, “mây mưa” bừa bãi không chừng, chỉ sợ thiên hạ không đủ mỹ nữ để
cung thú vui chốc lát cho mình, đó là những hạng ngu xuẩn, chỉ biết thú vui bề
ngoài thôi. Như anh, khi mới sinh ra đã mang một mối si tình, chúng ta gọi thế
là “ý dâm”. Hai chữ “ý dâm” chỉ có thể hiểu ngầm trong lòng, chứ không thể nói
ra miệng được. Riêng anh thì xứng với hai chữ này. Ở trong khuê các, anh có thể
là bạn tốt đấy, nhưng khi ra đời thì vẫn mang tiếng là người vớ vẩn, quái gở sẽ
bị trăm miệng cười giễu, muôn mắt lườm nguýt. Nay ta đã gặp hai cụ Vinh công,
Ninh công nhà anh tha thiết ký thác, ta không nỡ để cho anh là người làm vẻ
vang cho bọn khuê các mà lại bị đời ruồng bỏ. Vì thế, ta dắt anh đến đây, cho uống
rượu ngon, thưởng trà tiên, nghe hát hay, lại gả cho anh một cô gái tên là Kiêm
Mỹ, tên chữ là Khả Khanh. Đêm nay được giờ tốt, nên thành thân ngay. Chẳng qua
để cho anh nhận biết ảo cảnh cõi tiên còn thế, huống chi là dưới trần. Từ giờ
trở đi, chú ý vào đạo Khổng, Mạnh, dấn mình vào con đường giúp đời, giúp nước mới
được.
Nói xong tiên cô tham dạy cách “mây mưa”, rồi đẩy Bảo Ngọc
vào buồng, khép cửa lại.
Bảo Ngọc mơ mơ màng màng, theo lời tiên cô dạy, làm những việc
như vợ chồng ân ái với nhau. Đến hôm sau thì ân tình đằm thắm, trò chuyện nỉ
non, cùng Khả Khanh bịn rịn không rời nhau một bước. Nhân lúc hai người dắt tay
đi chơi, đến một chỗ gai góc đầy đường, hùm sói hàng đản, trước mặt lại có một
cái suối nước đen, không có cầu sang. Đương lúc dùng dằng, chợt thấy Cảnh ảo
tiên cô từ phía sau gọi:
- Đừng đi nữa, quay về ngay.
Bảo Ngọc vội đứng dừng lại hỏi:
- Đây là chỗ nào?.
Tiên cô nói:
- Đây là bến mê, sâu hàng vạn trượng, rộng hàng muôn dặm,
không có thuyền đi qua, chỉ có một cái mảng gỗ, Mộc Cư Sĩ bẻ lái, Hôi Thị Giả đẩy
sào, chở không lấy tiền, ai có đạo duyên mới sang được. Nay anh ngẫu nghiên đến
đây, nếu không may ngã xuống đó thì thực phụ những lời dặn bảo ân cần của ta!
Nói chưa dứt lời thì nghe thấy ở trong bến Mê có tiếng ầm ầm
như sấm, có nhiều quỷ dạ xoa dưới bể nhô lên định lôi Bảo Ngọc, làm Bảo Ngọc sợ
hãi, mồ hôi toát ra như mưa, kêu thất thanh: “Khả Khanh, cứu tôi với!” Bọn Tập
Nhân và a hoàn vội vàng chạy đến ôm Bảo Ngọc và nói:
- Cậu Bảo đừng sợ, chúng tôi ở đây cả.
Tần thị đương ở ngoài buồng dặn dò đám a hoàn nhỏ coi giữ đừng
cho mèo chó cắn nhau; chợt nghe Bảo Ngọc nằm mê gọi tên tục mình, trong bụng
đâm buồn bực: “Ở đây chẳng ai biết tên mình cả, sao trong chiêm bao, Bảo Ngọc lại
biết mà gọi ra. Thực là:
Một hồi mộng kín chờ ai đấy?
Nghìn thuở tình ngây một tớ thôi.
Chú thích:
Chú thích:
(1). Hồi này có hai điểm nên chú ý.
a) Tổng quát tất cả những nhân vật và những sự việc quan hệ mật
thiết tới Bảo Ngọc và gia đình họ Giả. Kim lăng thập nhị thoa chính sách phó
sách, hựu phó sách và mười hai bài ca Hồng lâu mộng, có thể gọi là những câu sấ
m, hoặc là lá số tiền định. Theo những việc ở các hồi sau chúng ta có thể đoán:
thí dụ bài một: Tinh Văn bị đuổi về nhà rồi chết, bài hai: Tập Nhân về sau lấy
Tưởng Ngọc Hàm là một chàng hát tuồng bài ba, Hương Lăng tức Anh Liên con Chân
Sĩ ẩn lấy Tiết Bàn đẻ con rồi chết, bài tư: Bảo Ngọc yêu Đại Ngọc. Bảo Thoa lại
lay Bảo Ngọc, rồi Bảo Ngọc bỏ Bảo Thoa đi tu. Bài năm: Nguyên Xuân lấy vua,
không được lâu rồi chết. Còn những bài khác hoặc nói về Đại Ngọc chết non hoặc
nói về Diệu Ngọc bị kẻ cướp bắt đi, hoặc nói về Nghênh Xuân lấy phải chồng bất
lương, hoặc nói về Tích Xuân chán đời đi tu… Đọc các hồi sau sẽ đoán ra được, kể
ra cũng hoang đường thật. Tác giả cố ý bài trí dàn ra một cảnh mộng để xây dựng
nội dung cuốn truyện đó mà thôi.
b) Nói nhiều về tinh như Triệu đề, Mộ khốc, Xuân cảm, Thu
bi...Lại nói đến cả chữ “dâm” có thể ngờ là “dâm thư”, nhưng suy nghĩ hai chữ
“cảnh ảo”. (cảnh là cảnh tỉnh, ảo là mộng ảo) tác giả có ngụ ý khuyên răn,
không nên lấy từ hại ý mà chê là tục.
(2). Bức tranh vẽ người đốt gậy cỏ lê. Lưu Hướng đời Tây Hán
đến đọc sách ở gác Thạch Cừ, có một vị tiên chống gậy cỏ lê đến đốt đầu gậy làm
đèn cho Lưu Hướng đọc. Về sau dùng điển nãy chỉ người chăm học, đọc sách cả
đêm.
(3). Hải đường ngủ đêm xuân.
(4). Vợ Đường Cao Tông. Khi Cao Tông chết, bà ta tự xưng là Tắc
Thiên hoàng đế.
(5). Vợ Hán Thánh Đế, người rất nhẹ, có thể đứng trên cái mâm
mà múa.
(6). An Lộc Sun, người đời Đường, tư thông với Dương Quý Phi.
(7). Cũng gọi là Thọ Dương Công chúa, con gái vua Tống Vũ Đế.
(8). Chưa tường.
(9). Thái hư: hư không, không có thật, ảo cảnh: cõi huyền ảo.
(10). Phóng xuân: thả cho mùa xuân được tự do.
(11). Nghiệt hải: bể oan nghiệt, tình thiên: trời ái tình.
(12). Cao hoang: hai cái nguyệt ở trong người, châm cứu không
hết, thường dùng để chỉ cái bệnh không chữa được.
(13). Con hát.
(14). Đây là kiểu đố chữ. Cây tức là mộc, đất tức là thổ. Mộc
ở bên hai chữ thổ là chữ quê.
(15). Ngọc tức là Bảo Ngọc. Rừng tức Lâm Đại Ngọc.
(16). Thỏ tức là Mão, hùm tức là Dần. Theo chuyện, Nguyên
Xuân chết vào cuối năm Dần, đầu năm Mão.
(17). Đây là một câu sấm ngữ theo tức chữ tòng. “lệnh” tức chữ
lệnh. “Thôi” tức chữ hưu. Ý nói: Lúc đầu nói gì cũng nghe, sau sai khiến được
người, cuối cùng bị người bỏ.
(18). Tinh tủy của các thứ hoa thơm.
(19). Một cái hang, chứa hàng nghìn màu hoa đỏ.
(20). Một thành ngữ có ý nói: đành chịu với định mệnh.
(21). Muôn sắc đẹp cùng chuốc chén.
(22). Tên một con sông ở Hồ Nam, chỗ Nga Hoàng và Nữ Anh ngồi
khóc vua Thuấn. Về sau dùng điều này tả nỗi trai gái tương tư.
(23). Chỉ những người làm quan ăn lương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét