Hồi 51:
Lý Quỳ đánh chết Ân Thiên Tích
Sài Tiến bị hãm Cao Đường Châu.
Khi đó Chu Đồng nói với mọi người rằng:
- Nếu các ngài có lòng cho tôi cùng lên sơn trại, thì xin giết
tên Hắc Toàn Phong đi mới được...
Lý Quỳ nghe nói, cáu lên mà rằng:
- À, Anh định giết tôi sao? Việc này là Tướng lệnh của Tiều
Cái, Tống Giang chứ việc gì đến tôi mà...
Chu Đồng cũng hăm hăm giận dữ toan xông đến đánh nhau ngay.
Hai người kia lại phải túm vào mà khuyên ngăn mãi.
Chu Đồng bảo với ba người kia rằng:
- Nếu có Hắc Toàn Phong ở đó, dẫu chết, tôi cũng không lên
sơn trại.
Sài Tiến nói:
- Cái đó thì dễ lắm, để Lý Đại Ca ở đây với tôi, còn ba các
ông cứ về sơn trại, cho Tiều Cái, Tống Giang bằng lòng là được rồi.
Chu Đồng nói:
- Hiện nay đã xảy ra sự thể như vậy, chắc là Quan Phủ tư giấy
về huyện Vận Thành, mà tróc nã cả nhà tôi, thì làm sao cho đặng?
Ngô Dụng bảo:
- Xin ngài cứ an tâm, có lẽ bây giờ Tống Công Minh đã cho đón
quý quyến lên sơn trại rồi đó.
Chu Đồng nghe nói đến đó, mới hơi thư tâm một chút, Sài Tiến
bèn sai đặt tiệc thiết đãi Chu Đồng cùng Ngô Dụng, Lôi Hoành rồi chiều hôm đó
ba người cùng từ tạ mà đi lên sơn trại, Sài Tiến đóng ba cỗ ngựa, để đưa ba người
ra đến cửa quan.
Khi sắp sửa ra đi, Ngô Dụng gọi Lý Quỳ dặn mà bảo rằng:
- Ngươi ở nhà Đại Quan Nhân đây, tất phải giữ gìn cẩn thận,
không nên ngông ngáo làm càn, rồi trong một vài tháng nữa, đợi khi Chu Đồng bớt
giận, bấy giờ sẽ đón ngươi về sơn trại, mà mời Đại Quan Nhân đây, sẽ lên nhập đảng
một thể.
Lý Quỳ nghe nói vâng lời bái biệt quân sư. Đoạn rồi Ngô Dụng,
Lôi Hoành cùng Chu Đồng bái biệt Sài Tiến mà cùng nhau đi lên Sơn Bạc. Khi ra
khỏi địa phận Thương Châu, ba người giao ngựa cho trang khách đem về, rồi cùng
nhau xuống bộ mà đi. Được ít lâu về tới hàng rượu Chu Quý, liền sai người lên
báo cho sơn trại biết.
Tiều Cái, Tống Giang nghe báo cả mừng. Dẫn các Đầu Lĩnh dóng
trống mở cờ, cùng nhau ra bến Kim Sa để đón. Ngô Dụng và Lôi Hoành đưa Chu Đồng
vào đến bến Kim Sa, cùng các vị Đầu Lĩnh thi lễ, rồi cùng nhau lên ngựa, đi vào
Tụ Nghĩa Sảnh, mà chuyện trò mọi nỗi hàn huyên.
Chu Đồng nói với các vị Đầu Lĩnh rằng:
- Tôi nay được các ngài có lòng hạ cố cho đón lên đây, thực
là cảm ơn vô hạn, song hiện còn gia quyến ở nhà, nếu nhất lỡ Quan Phủ tư giấy
lôi thôi bắt bớ, thì biết lấy ai mà cứu cho ra mới được?
Tống Giang cười mà đáp rằng:
- Bà chị cùng cháu tôi đã đưa lên đây lâu rồi, huynh trưởng
còn điều chi mà ngại?
Chu Đồng hỏi:
- Hiện nay ở đâu, xin Đầu Lĩnh cho tôi được biết?
Tống Giang đáp:
- Hiện ở với thân phụ tôi đó, xin huynh trưởng qua thăm một
chút cho được yên tâm.
Nói đoạn đưa Chu Đồng đến chỗ Tống Thái Công ở, rồi gọi vợ
con Chu Đồng ra để cùng nhau trò chuyện.
Vợ Chu Đồng nói với chồng rằng:
- Mấy bữa nay có mấy người đem giấy đến nói rằng: Tiêt Cấp đã
nhập đảng ở Lương Sơn, và giục tôi phải xếp dọn hành lý mà lên đây ngay lập tức.
Nhân vậy tôi phải đến đây, song đợi mãi không thấy Tiết Cấp về đây, nên không
biết đầu đuôi ra sao mà nói.
Bấy giờ Tống Giang mới đem lời trung trực mà xin lỗi với vợ
chồng Chu Đồng, rồi mời Chu Đồng cùng Lôi Hoành xuống đóng trại ở dưới núi, và
nhất diện sai mở tiệc để ăn mừng.
Bắc Nam buộc mối thâm tình,
Rồi đây nước biếc non xanh còn dài,
Cùng nhau ngang dọc ở đời,
Trăm năm chỉ thẹn với lời bình sinh.
Nói về Quan Phủ Thương Châu đêm hôm ấy không thấy cậu ấm về,
thì trong lòng lấy làm nóng nảy lo sợ, liền cho người đi tìm kiếm khắp cả mọi
nơi. Đến sáng hôm sau thấy người về báo, là cậu ấm đã bị giết, và hiện còn bỏ
xác ở trong khu rừng đó.
Quan Phủ nghe báo như sét đánh ngang tai, lập tức theo đến
khu rừng để khám nghiệm. Khi tới nơi thấy con trai nằm chết ở đó, thì vật mình
lăn khóc hồi lâu, rồi sai người sửa quan để đem chôn. Đoạn rồi tư giấy sang huyện
Vận Thành, tư đi các nơi để dò bắt Chu Đồng. Cách mấy hôm sau thấy công văn huyện
Vận Thành tư sang nói rằng:
- Chu Đồng đã đem cả gia quyến mà trốn đi đâu mất.
Còn về phần Lý Quỳ ở bên Sài Tiến, thấm thoát đã hơn một
tháng rưỡi, chợt một hôm có một người ra dáng hối hả, đem một phong thư đến cho
Sài Đại Quan Nhân.
Sài Tiến xem thư cả kinh mà rằng:
- Nếu vậy thì ta phải thân hành ra đi một phen mới được.
Lý Quỳ hỏi:
- Đại Quan Nhân có việc gì cần cấp như vậy?
- Tôi có một ông chú là Sài Hoàng Thành, hiện ở Cao Đường
Châu, nay bị tên Ân Thiên Tích là anh em vợ của Tri Phủ Cao Liêm đến chiếm cứ
vườn hoa, làm cho chú tôi phải tức tối, mà đâm ra sinh bệnh, nguy hiểm đến nơi,
nay tính mệnh cơ hồ khó sống, nên mới gọi tôi sang đó để dặn dò công việc về
sau. Vả chưng chú tôi lại không có con cái gì, thế tất tôi phải sang ngay mới
được.
- Đại Quan Nhân định đi, tôi xin theo ngài cùng đi một thể có
được không?
Sài Tiến nói:
- Nếu Đại Ca cũng đi một thể cho vui, thì còn gì hơn nữa?
Nói đoạn liền sai người sửa soạn hành lý, chọn mười lăm con
ngựa tốt, và chọn mấy người trang khách thạo việc, rồi sáng hôm sau cùng nhau
lên ngựa ra đi.
Khi tới Cao Đường thẳng vào trong phủ Sài Hoàng Thành. Sài Tiến
để Lý Quỳ cùng đám người nhà, ở ngoài nhà ngoài rồi một mình vào nhà trong thăm
chú.
Sài Tiến vào đến trong phòng hỏi thăm bệnh tình, rồi ngồi vào
ghế ở bên cạnh nằm, mà nức nở khóc không thôi.
Người vợ kế Sài Hoàng Thành chạy ra khuyên giải mà rằng:
- Đại Quan Nhân đi đường khó nhọc tới đây, hãy xin thư tâm an
nghỉ, chớ vội lo nghĩ phiền não làm chi?
Sài Tiến gạt nước mắt mà thăm hỏi đầu đuôi mọi lẽ. Người vợ kế
Sài Hoàng Thành đáp rằng:
- Ở đây có Tri Phủ mới đến, tên là Cao Liêm, anh em thúc bá với
Cao Thái Úy ở Đông Kinh, kiêm giữ binh quyền bản phủ, nương cậy thế anh, uy quyền
rất là lộng lấy. Hắn nuôi một người anh em vợ là Ân Thiên Tích, vẫn thường gọi
là Ân Trực Các, tên này tuổi tuy còn nhỏ, song ỷ thế Tri Phủ mà làm càn làm dở,
vô sở chí. Sau nhân có mấy đứa hùa đảng, tâu nộp với hắn là nhà ta có vườn hoa
rất đẹp, lại có Thủy Đình ỏ trong, hắn bèn dẫn đến hai ba mươi đứa gian đồ vào
đây để xem, rồi bắt nhà ta phải dời đi chỗ khác, cho hắn đến ở đây. Hoàng Thành
thấy vậy, có bảo hắn là nhà ta vốn dòng dõi kim chi ngọc diệp, hiện có đơn thư
thiết khoán của hoàng triều, không có phép nào đến đây mà ăn hiếp thế được? Ngờ
đâu thằng cha ấy nhất định không nghe, bắt nhà ta phải dọn đi ngay lập tức.
Hoàng Thành phẫn uất mà sinh ra bệnh, cơm cháo không ăn, thuốc men vô ích. Đến
bây giờ chỉ còn thiếu một phần chết nữa thôi, nếu không có Đại Quan Nhân sang
đây, thì công việc thực là rắc rối, không còn biết trông cậy vào đâu cho được?
Sài Tiến nghe nói thở dài mà rằng:
- Thôi thím cứ yên tâm, cố tìm thầy mà thuốc men cho chú, sau
nó có nhũng nhiễu điều chi, cháu khắc cho người về Thương Châu đem đan thư thiết
khoán đến đây rồi ta sẽ liệu. Cho dẫu đến ngay trước mặt Thiên Tử cũng không sợ
gì cả.
Người thím cảm ơn mà rằng:
- Nếu vậy các công việc, xin Quan Nhân cáng đáng giúp cho, chứ
như bây giờ còn làm gì được nữa?
Sài Tiến vâng lời, ngồi trông nom hầu chú hồi lâu, rồi trở ra
nhà ngoài nói chuyện cho Lý Quỳ cùng mọi người được biết...
Lý Quỳ nghe vậy, nhảy lên mà rằng:
- Quân ấy thế thì vô lý quá, tôi có đôi đại phủ, để tôi sửa
cho nó một bữa đã, rồi sẽ liệu...
Sài Tiến gạt đi mà rằng:
- Lý Đại Ca không nên vội nóng, mình cần chi mà phải đối đầu
với nó, dẫu nó ỷ thế là càn, song nhà tôi hiện có sắc chỉ của vua, can chi phải
nói với nó?
Còn chỗ kinh sư to bằng mấy nó, khắc là công việc phải phân
minh có lẽ nào ta sợ.
- Ối chà! Luật với pháp thì làm gì...Nếu nó dùng được pháp luật
thì thiên hạ đã không đến nỗi rối loạn? Tôi đây thì cứ đánh trước rồi mới nói,
nếu nó còn thưa kiện ở đâu, thì chém luôn một lũ quan ranh ấy đi một thể chứ cần
gì?
Sài Tiến nói rằng:
- Không trách Chu Đồng với Đại Ca không yên với nhau được. Ở
đây là chốn cấm thành, có phải đâu như sơn trại nhà bác mà làm liều được hay
sao?
Lý Quỳ nói:
- Cấm thành mà làm gì? Ở Giang Châu, ở Vô Vi Quân, dễ thường
tôi không giết người đấy hẳn.
Sài Tiến lại mà rằng:
- Được, hãy để tôi xem sao đã...Nếu vô sự thì xin bác hãy cứ
ngồi yên đây cho, thế là tốt rồi...
Đương khi nói chuyện, bỗng thấy mấy người tỳ thiếp hất hải chạy
ra mời Sài Tiến vào phòng Hoàng Thành.
Sài Tiến chạy vào tới nơi, thấy Hoàng Thành dàn dụa đôi hàng
nước mắt, nói với cháu rằng:
- Cháu là một người chí khí hiên ngang, không thể để nhục đến
tổ tiên ngày trước, ta nay bị Ân Thiên Tích hiếp bách quá chừng, khó lòng sống
được, vậy cháu xin nghĩ đến tình xưa, đem thư vào kêu với Thánh Hoàng để báo
thù cho ta, ta đây dẫu thác xuống suối vàng cũng được cảm ơn đôi chút.
Nói xong nấc lên một tiếng, rồi nhắm mắt buông tay mà về nơi
tiên giới. Sài Tiết thấy vâïy mà ôm chú khóc lóc kêu gào rất thảm thiết. Người
thím sợ khi Sài Tiến quá thương nên bệnh, vội lấy lời uyển chuyển mà than rằng:
- Đại Quan Nhân chớ nên phiền muộn làm chi, phải yên tâm mà
lo liệu việc nhà mới được.
- Hiện nay giấy má còn để ở nhà tôi cả,tất phải sai người lập
tức lấy về đây, mà làm sớ tâu về triều đình mới được, bây giờ hãy cho khâm niệm
quan quách, làm lễ thành phục rồi sau sẽ liệu việc nhà.
Nói đoạn liền theo quan chế, mua sắm quan quách, bày đặt linh
sàng rồi cùng nhau làm lễ thành phục. Lý Quỳ nghe tiếng ở trong nhà than khóc,
thì giơ tay mắm miệng buồn bực vô cùng, song dò hỏi người nhà không ai nói chụyện
cho biết cả.
Bấy giờ trong nhà mời các vị sư đến làm lễ rất là huyên náo.
Đến ngày thứ ba Ân Thiên Tích ngà ngà hơi rượu, cưỡi ngựa dẫn hai ba mươi tay
nhàn đãng, tay cầm cung tên, miệng thổi sáo địch, lững thững song chơi quanh phố
hồi lâu, rồi mượn chén giả say mà nghênh ngang vào phủ Hoành Thành. Khi tới nơi
liền kìm ngựa đứng ngoài cửa, thét gọi người nhà Hoàng Thành ra hỏi:
Sài Tiến nghe nói, vội vàng mặc đồ nguyên tang chạy trở ra để
chào, Ân Thiên Tích ngồi trên mình ngựa hỏi:
- Ngươi là người nào trong nhà này?
Sài Tiến nói:
- Tôi là Sài Tiến, là cháu Hoàng Thành ở đây.
- Hôm nọ ta bảo phải dọn tất cả đi, làm sao lại còn lẩn quẩn ở
đó?
- Vì chú tôi bị đau nặng, nên chưa dọn đi được. Hôm qua chẳng
may chú tôi đã tạ thế rồi, vậy xin để đến hết tuần thất chúng tôi sẽ dọn đi
ngay.
- Cái quái này, ta chỉ hạn cho ba ngày phải dọn đi ngay, bằng
không ta gông cổ lại, đánh đủ một trăm trượng cho biết phép.
Sài Tiến nói:
- Trực Các không nên thế, nhà tôi đây cũng là dòng kim chi ngọc
diệp, hiện có đan thư thiết khỏan của tiên triều, ai không là phải kính.
- Ngươi đem đây ta xem?
- Hiện tôi còn để ở Thương Châu, đã cho người về lấy rồi.
Ân Thiên Tích nghe nói cả giận mà rằng:
- Quân này nói càn, có thệ thư thiết khoán, thì ta sợ gì?
Chúng bay đâu đánh thằng này cho ta?
Khi đó Hắc Toàn Phong Lý Quỳ nấp trong khe cửa, nghe thấy Ân
Thiên Tích thét đánh Sài Tiến, liền mở tung cửa thét lên một tiếng, rồi nhảy ra
trước chận Thiên Tích xuống để mà đánh.
Bọn hai mươi người kia toan sấn vào để đánh tháo, bị Lý Quỳ
giơ tay gạt cho mấy anh ngã cả ra, rồi ù té chạy mất cả, Lý Quỳ lại quay lại vớ
Ân Thiên Tích, thượng cẳng chân hạ cẳng tay đánh luôn một chập. Sài Tiến hết lời
cản ngăn không được, Lý Quỳ đánh luôn một lúc, thì Ân Thiên Tích đã trợn mắt
ngay người mà chết ra đó.
Sài Tiến lấy làm lo sợ, kéo Lý Quỳ vào nhà trong mà bảo rằng:
- Chết nỗi! Bác làm thế, thì nguy hiểm quá, bác không ở được
đâu. Phải lập tức mà trốn về Lương Sơn, còn đây mặc tôi mới được.
Lý Quỳ nói:
- Tôi về thì khó gì, nhưng Đại Quan Nhân ở đây tất là nguy hiểm,
như thế tôi đi sao đành?
Sài Tiến nói:
- Tôi đây đã có đan thư thiết khoán không ngại gì cả, bác cứ
về đi, chậm trễ là nguy mất cả.
Lý Quỳ vâng lời, cầm đôi song đao phủ, lấy ít tiền bạc,rồi
theo lốicửa sau mà trốn về Lương Sơn.
Được một lát có hơn hai trăm người vác gươm giáo đến vây nhà
Hoàng Thành, tìm bắt Lý Quỳ không thấy, liền trói Sài Tiến mà giải vào phủ.
Tri Phủ Cao Liêm thấy Ân Thiên Tích bị người ta đánh chết,
thì trong lòng tức bực như xé ruột gan, đương nghiến lợi nghiến răng để đợi bắt
người về tra hỏi. Khi thấy chúng giải Sài Tiến đến. Tri Phủ liền thét lên hỏi rằng:
- Đồ súc sinh sao dám đánh chết người nhà quan, như thế phỏng
đáng tội gì?
Sài Tiến nói:
- Chúng tôi là con cháu Sài Thế Tôn khi xưa, hiện trong nhà
có đan thư thiết khoán của Thái Tổ tiền triều để lại ở Thương Châu. Nay nhân
qua đây thăm chú là Sài Hoàng Thành, chẳng may chú mất, vẫn còn định tang ở
trong nhà. Dè đâu tên Ân Thiên Tích đem hai ba mươi tên người nhà đến, toan đuổi
chúng tôi mà chiếm lấy gia tài, tôi có toan phân giải đầu đuôi, thì Trực Các nhất
định không nghe mà sai người đánh ngay lập tức. Sau có tên người nhà tôi là Lý
Đại đến che đỡ cho tôi, chẳng may đánh phải Trực Các, chứ tôi đây không có can
thiệp.
Cao Liêm quát hỏi:
- Tên Lý Đại ở đâu?
- Bẩm nó sợ bỏ chạy mất rồi.
- Nó là một thằng người nhà, nếu không có lệnh của chủ, khi
nào nó dám đánh? Việc này chắc là ngươi thủ xướng ra, rồi lại buông tha cho nó
chạy, không tra tấn, thì khi nào người chịu thú.
Nói đoạn quát lính đem Sài Tiến ra để đánh tấn.
Sài Tiến kêu:
- Việc đó là tên Lý Đại, nó cứu chủ lỡ đánh, chứ việc gì đến
tôi? Vả chăng tôi có thệ thư thiết khoán của nhà vua, có lẽ đâu dám thiện tiện
mà gia hình ngay được?
- Vậy thệ thư ở đâu?
- Tôi đã cho người về Thương Châu để lấy rồi.
Tri Phủ làm bộ giận dữ quát lên rằng:
- Tên này dám kháng cự với quan trên, chúng đâu, cứ đem đánh
đi cho ta.
Chúng vâng lời, kéo Sài Tiến ra đánh mấy chục trượng, nát thịt,
vọt máu tươi ra, không sao mà chịu nổi. Sau Sài Tiến biết thế không chống nổi,
bèn chịu nước thú nhận là sai tên Lý Đại đánh chết Ân Thiên Tích.
Tri Phủ liền sai đóng gông tử tù nặng hai mươi nhăm cân, giam
xuống nhà ngục, và nhất diện sai đem xác Ân Thiên Tích về để mai táng.
Vợ Cao Liêm thấy anh em bị chết, liền lập chí báo thù, sui
Cao Liêm tịch ký nhà cửa Sài Hoàng Thành, bắt hết người nhà giam vào trong ngục.
Trời xanh khéo cũng trêu ngươi,
Đem mồi phú quý nhử người tham ngu.
Xưa nay tục tử phàm phu,
Biết đâu thiên lý mà lo tránh mình.
Nói về Lý Quỳ hôm đó từ giã Sài Tiến, gấp đường về thẳng
Lương Sơn rồi vào Đại trại để chào các vị Đầu Lĩnh. Chu Đồng trông thấy Lý Quỳ
lại đùng đùng nổi giận, vác ngay đao xông đến để đánh.
Lý Quỳ cũng múa song phủ ra đấu với Chu Đồng.
Các vị Đầu Lĩnh thấy vậy vội vàng chạy lại can ngăn, rồi Tống
Giang nói với Chu Đồng rằng:
- Những việc dạo trước là vì Ngô Quân Sư thấy huynh trưởng
không chịu đến đây, mới làm kế như vậy, thực không có can thiệp gì đến Lý Quỳ cả.
Vậy xin huynh trưởng đã lên đến đây thì bỏ hết chuyện đó, đừng chấp nhất làm gì
phải cùng nhau hiệp lực đồng tâm để cùng toan làm đại nghĩa mới được.
Nói đoạn liền quay ra bảo Lý Quỳ vào nói lại với Chu Đồng.
Lý Quỳ trợn hai mắt tròn xoe mà nói lên rằng:
- Có lẽ nào tôi phải thế? Tôi ở sơn trại đã bao lâu, kể cũng
có công lao đôi chút, còn hắn ta mới đến đây có được điều gì, mà bắt tôi phải
nói lại?
- Việc trước dẫu có tướng lệnh của Quân Sư, nhưng kể tuổi ra
thì ông ta đáng là anh ngươi, ngươi nên nói lại với ông ta, ta sẽ lạy ngươi là
hết.
Lý Quỳ bị Tống Giang bức bách, không thể đừng được, đành phải
bảo với Chu Đồng rằng:
- Cứ lý ra, tôi đây cũng chẳng sợ gì, nhưng Ca Ca ta đã nói vậy,
thì ta cũng phải nể mặt nể lòng mà nói lại đây thôi.
Tống Giang lại bắt Lý Quỳ phải lạy Chu Đồng hai lạy, và sai
làm tiệc ở trong sơn trại để dàn xếp cho đôi bên thỏa thuận với nhau.
Trong khi ăn tiệc, Lý Quỳ kể đến chuyện Sài Tiến ở Cao Đường
Châu. Tống Giang nghe rõ đầu đuôi liền cả kinh mà rằng:
- Nếu ngươi đánh chết Ân Thiên Tích mà bỏ đấy để trốn, thì tất
là nguy hiểm đến Đại Quan Nhân, không thể nào tránh được?
Ngô Dụng bảo với Tống Giang rằng:
- Việc đó không hề chi! Cứ đợi Đới Tung về đây sẽ hiểu... Lý
Quỳ hỏi:
- Đới viện trưởng đi từ bao giờ?
Ngô Dụng đáp:
- Bữa trước ta sợ ngươi ở trong nhà Sài Quan Nhân, hoặc lỡ có
sinh ra sự gì, nên phải bảo đến đó dò xem. Nay đến đó không gặp ngươi, thì tất
nhiên ông ta phải sang Đường Châu để thăm hỏi, có lẽ cũng sắp về tới đầy thì phải.
Nói vừa dứt lời, thì thấy tiểu lâu la báo:
- Đới viện trưởng đã về.
Tống Giang nghe báo vội ra đón tiếp, cùng vào đại sảnh rồi hỏi
đến chuyện Sài Đại Quan Nhân.
Đới Tung nói:
- Khi tôi đến Thương Châu, nghe tin Lý Quỳ đã theo Sài Đại
Quan Nhân đi sang Cao Đường, tôi lại vội vàng lần ngay sang đó. Sau đến Châu
Cao Đường thấy họ đồn ầm lên rằng: Ân Thiên Tích tranh chiếm nhà cửa Sài Hoàng
Thành là chú Sài Đại Quan Nhân. Sài Đại Quan Nhân đã bị bắt giam vào trong ngục,
còn nhà của Sài Hoàng Thành đều bị Tri Phủ là Cao Liêm chiếm nhận lại còn đánh
khảo Sài Đại Quan Nhân rất là tàn nhẫn.
Tiều Cái nghe nói, liền bảo với mọi người rằng:
- Sài Đại Quan Nhân vốn có ân to cùng bọn sơn trại ta đây,
nay mắc phải nguy hiểm như thế lẽ nào mà không cứu cho đành. Vậy tôi phải đi
qua xuống đó, xem sự thể ra sao mới được.
Tống Giang nói:
- Ca Ca là một ông chủ sơn trại, không thể đi liều thế được.
Vả tôi với Sài Đại Quan Nhân, lại có ơn nặng từ xưa, vậy tôi xin thay Ca Ca để
đi chuyến này...
Ngô Dụng nói:
- Cao Đường Châu thành trì tuy nhỏ, song lương sẵn người đông
không thể khinh địch được, việc này phải phiền Lâm Xung, Hoa Vinh, Tần Minh, Lý
Tuấn, Lã Phương, Quách Thịnh, Tôn Lập, Âu Bằng, Dương Lâm, Đặng Phi, Mã Lân, Bạch
Thắng dẫn ba nghìn quân mã bộ đi làm tiên phong. Trung quân chủ súy thì có Tống
Công Minh, và Ngô Dụng, Chu Đồng, Lôi Hoành, Đới Tung, Lý Quỳ, Trương Hoành,
Trương Thuận, Dương Hùng, Thạch Tú dẫn ba nghìn quân mã bộ đi tiếp ứng.
Bàn định xong rồi, hai mươi hai vị Điểm quân mã, và từ biệt
Tiều Cái mà xuống núi kéo thẳng sang Cao Đường Châu.
Khi tiền quân Lương Sơn Bạc kéo đến địa hạt Cao Đường, đám
thám tử liền báo cho tri phủ Cao Liêm biết. Cao Liêm nghe báo cười nhạt mà rằng:
- Quân giặc cỏ xưa nay vẫn lẩn núp ở vũng nước Lương Sơn, ta
thường định đem quân đến bắt. Vậy nay chúng kéo nhau đến đây mà chịu tội, thì
còn gì hay hơn nữa? Thực là Trời giúp cho ta thành công đó.
Nói đoạn truyền lệnh sắp sửa quân mã, để ra nghênh địch, và sức
cho dân phu coi giữ trên thành? Bấy giờ các quan trên từ Đô Thồng Giám Quân, dưới
đến Thống Lĩnh, Thồng Chế cùng Đề Hạt, được lệnh của Tri Phủ, lập tức đem các bộ
quân mã ra điểm duyệt ở Giáo Trường, rồi sắp thành đội ngũ mà ra cửa thành dàn
trận.
Cao Liêm lại có ba quân riêng, gọi là "Phi thiên thần
binh". Toàn là bọn hảo hán khỏe mạnh ở Sơn Đông, Hà Bắc, Giang Tây, Hồ Nam
và Lưỡng Hoài. Lưỡng Tiết mộ đến cả. Tri Phủ mặc áo giáp đeo kiếm, cưỡi ngựa dẫn
quân ra thành, truyền lệnh các tướng bày trận chỉnh tề, rồi đem ba trăm thân
binh bày hàng ở giữa, sai đánh trống khua chiêng, để đợi quân Lương Sơn kéo đến.
Bên kia Lâm Xung, Hoa Vinh, Tần Minh dẫn năm nghìn quân mã tới
nơi, cũng dàn thành trận thế, đôi bên cờ trống nổi lên, rồi cùng đem cung tên
ra để bắn áp vòng trận.
Khi đó mười hai vị Đầu Lĩnh đều kìm ngựa, đứng trước cửa trận,
rồi Lâm Xung hoành cây bát xà mâu, vỗ ngựa xông ra quát lên rằng:
- Bớ tên giặc họ Cao, mau mau ra đây chịu tội.
Cao Liêm nghe nói, liền dẫn hơn ba mươi tên hạ tướng ra trước
cửa trận; rồi kìm ngựa bảo Lâm Xung rằng:
- Chúng bay không biết tội là chết đến nơi, lại còn dám đến
xâm phạm thành trì của ta nữa hay sao?
Lâm Xung lại thét lên rằng:
- Mày là đồ mọt già hại dân, nay mai ta đánh đến kinh sư, ta
sẽ đem cả thằng Cao Cầu là đồ dối vua hại dân, mà chặt xác ra làm muôn đoạn để
trừ hại cho dân mới được.
Cao Liêm thấy vậy, quay hỏi chư tướng:
- Ai ra bắt thằng giặc ấy cho ta?
Nói đoạn trong đám quân quan có một viên Thống Chế, tên là
Can Trực, múa dao vỗ ngựa ra để đánh. Đôi bên đánh nhau chưa được năm hợp, Can
Trực bị Lâm Xung phóng sà mâu đâm vào giữa bụng, ngã lăn xuống ngựa.
Cao Liêm thấy vậy cả kinh hỏi lên rằng:
- Anh em ai ra báo thù được?
Vừa dứt lời, thì quan Thống Chế là Ôn Vân Bảo, tay cầm đao
trường, mình cưỡi ngựa lang, đeo nhạc xoang xoảng xông ra để đánh Lâm Xung.
Tần Minh thấy vậy, liền thét lên rằng:
- Ca Ca hãy nghỉ tay, để tiểu đệ chém thằng này cho.
Lâm Xung nghe nói, bèn kìm ngựa, nhường cho Tần Minh ra đánh
Ôn Văn Bảo. Đôi bên đánh nhau được hơn mươi hiệp. Tần Minh bèn lừa miếng phá
đĩnh, để cho Vân Bảo xông vào, rồi đánh luôn một côn vỡ bể óc ra mà chết lộn xuống
đất, còn con ngựa chạy về bản trận.
Cao Liêm thấy mất hai viên tướng, liền rút thanh Thái A bảo
kiếm ở lưng ra, miệng đọc mấy câu lẩm nhẩm mà quát lên rằng:
- Mau...
Đoạn rồi thấy trong đám quân Cao Liêm một trận hắc khí trông
lên, tung cao đến lưng chừng trời, đùng đùng nổi gió cuốn cờ, chẳng khác gì lay
trời đất chuyển, mà xông sang mặt trận Lâm Xung.
Bọn Lâm Xung, Hoa Vinh, Tần Minh cùng các tướng, đều tối mờ mịt
không nhìn rõ được nhau, các ngựa ra trận cũng kinh sợ thét gào sôi lên sùng sục.
Chúng thấy vậy đều phải quay ra để tháo chạy. Cao Liêm liền giơ kiếm vẫy ba
trăm thần binh, xông sang đánh giết, rồi quan quân thúc đến để giúp sức thêm
vào. Quân mã của Lâm Xung đều sợ kinh tán loạn, chạy ngược chạy xuôi, năm nghìn
quân mã chết hết hơm nghìn, còn thì kéo chạy ra ngoài năm mươi dặm mới dám hạ
trại.Cao Liêm thấy quân mã bỏ chạy đã xa, bấy giờ mới thu quân vào thành Cao Đường
để nghỉ.
Bên kia nhân mã của Tống Giang kéo đến, xuất tiếp đón vào
trong trại rồi kể chuyện cho mọi người nghe.
Tống Giang cả kinh hỏi Quân Sư Ngô Dụng rằng:
- Chẳng hay đó là phép gì mà nguy hiểm đến thế?
Ngô Dụng nói:
- Cái đó chắc là một phép yêu ma, nếu ta có cách gì làm cho
quay chuyển lửa thì tất là phá được.
Tống Giang nghe nói, vội mở Thiên Thư ra xem, thấy trong quyển
thứ ba có phép quay gió chuyển lửa để phá trận, bèn lấy làm cả mừng, đọc thuộc
các câu thần chú, cùng các bí quyết, rồi chỉnh đốn quân mã, sáng hôm sau ăn cơm
rất sớm, để tiến vào đánh thành.
Bấy giờ Cao Liêm nghe báo, vội điểm bọn quân mã đắc thắng,
cùng ba trăm thần binh kéo ra để đánh. Tống Giang đao kiếm xông ra trước trận,trông
thấy đám quân Cao Liêm có một dãy cờ đen, Ngô Dụng liền bảo Tống Giang rằng:
- Toán cờ đen đó là đám thần sư cả, hôm nay chắc họ lại dùng
phép, vậy ta có cách gì mà địch được chăng?
Tống Giang nói:
- Tôi đã có cách phá trận rồi, không ngại gì? Các tướng sĩ cứ
vững tâm tiến đánh mới được.
Bên kia Cao Liêm dặn các tướng sĩ không được hăng hái khêu
đánh, cứ nghe thấy hiệu bài đồng là hết sức ra tróc nã Tống Giang, sẽ có trọng
thưởng. Cao Liêm ngồi trên mình ngựa, đeo hai lá bài đồng trên có vẽ rồng truyền
phượng, tay cầm thanh bảo kiếm xông ra trước trận.
Tống Giang bèn trỏ Cao Liêm mà nói rằng:
- Hôm qua ta chưa tới đây, đám anh em ta lỡ thua một trận, vậy
hôm nay ta quyết đem các ngươi chém hết mới nghe.
Cao Liêm quát rằng:
- Đồ phản tặc mau mau xuống ngựa chịu trói cho khỏi bẩn tay
ta.
Nói đoạn cầm thần kiếm khua lên rồi trong miệng đọc lẩm nhẩm
mấy câu, mà quát lên rằng "mau... "
Bấy giờ lại thấy một vùng hắc khí bốc lên, mà sắp sửa tan ra
thành gió. Bên này Tống Giang thấy vậy, vội đọc mấy câu thần chú, tay tả bắt
quyết, tay hữu cầm kiếm, trỏ một cái, rồi cũng quát lên rằng:
- Mau...
Đoạn rồi thấy đám hắc khí kia bỗng quay lại mà xông vào bản
trận Cao Liêm, Cao Liêm thấy trận gió quay về, bèn vội lấy bài đồng gõ vào thanh
kiếm, thì trong đám thần binh, bỗng có trận gió cuốn cát tung lên, rồi hiện ra
một đàn ác thú thẳng xông sang trận Tống Giang.
Tống Giang đương khi đắc sách, đương thúc giục quân mã sấn
vào, bỗng thấy một đàn ác thú, thì ai nấy kinh hoàng hãi hùng rồi Tống Giang cắp
kiếm mà quay ngựa chạy trước, còn các vị Đầu Lĩnh cũng kéo chạy theo.
Bấy giờ Cao Liêm cầm kiếm vẫy lên, ba trăm thần binh tiến trước,
các quan quân tiến sau, xông vào đánh giết. Quân mã Tống Giang thua chạy, thiệt
hại không biết tới đâu mà kể. Cao Liêm theo đuổi ngoài hai mươi dặm, mới rút
quân về thành.
Tống Giang dẫn quân mã ra đóng ở ngoài thổ phi, kiểm điểm các
Đầu Lĩnh không thiếu một ai, bèn cùng nhau tụ họp để nghĩ kế, và hỏi Quân sư
Ngô Dụng rằng:
- Nay đem quân hai lần đến đánh Cao Đường đều bị thất bại,
không còn kế gì mà phá được thần binh, vậy biết làm sao cho được?
Ngô Dụng nói:
- Họ đã giỏi dụng thần binh, thì đêm nay họ tất đến cướp trại.
Vậy ta nên phòng bị trước kẻo nguy. Chốn này chỉ nên lưu một ít quân mã để lại
còn thì phải dẫn quân vào đóng cả ở trại cũ mới xong.
Tống Giang nghe nói, truyền cho Dương Lâm, Bạch Thắng ở lại
coi trại, còn các vị Đầu Lĩnh đều dẫn quân đến trại cũ để đóng.
Dương Lâm, Bạch Thắng vâng lệnh, dẫn quân ra đóng ở vùng cỏ,
cách trại quân chừng nửa dặm đường để đợi. Vào khoảng cuối canh một, chợt thấy
sấm đùng đùng nổi lên, rồi Dương Lâm, Bạch Thắng cùng hơn ba trăm quân nom ra
thấy Cao Liêm đi dẫn bộ ba trăm thần binh mà đi sát vào trong trại. Khi vào tới
nơi thấy trại không bỏ vắng. Cao Liêm bèn kéo quân mau mau trở ra. Dương Lâm, Bạch
Thắng thấy vậy, liền sai quân reo hò ầm lên, rồi sai quân chĩa nỏ dương cung bắn.
Cao Liêm sợ trúng kế, đành phải kéo thần binh mà chạy mau cho
thoát, ba trăm thần binh cũng hất hả sợ kinh chạy tán loạn đi mỗi nơi một ngả.
Quân Dương Lâm, Bạch Thắng phóng nỏ bắn liều, bất ý có một mũi tên bắn ngay vào
vai tả Cao Liêm, rồi kéo ùa nhau ra đuổi đánh. Đuổi được một quãng, Dương Lâm
thấy Cao Liêm chạy đã xa xa, bèn rút quân về mà không theo nữa. Bấy giờ gió im
mây lặng, bóng trăng sao lại sáng giữa trời, Dương Lâm, Bạch Thắng lần được chổ
thao phi, bắt được hai mươi tên thần binh bị đạn, liền đem nộp Tống Giang và
nói cho rõ tình hình gió mưa khi cướp trại cho Tống Giang nghe.
Tống Giang, Ngô Dụng nghe nói cả kinh mà rằng:
- Ở đây chỉ cách có năm dặm đường, sao không thấy gió mưa chi
cả.
Chúng nói:
- Đó là phép thuật yêu ma, lấy nước ở quanh đâu đây, mà làm
mưa từng đám nhỏ thôi...
Dương Lâm nói:
- Bấy giờ Cao Liêm đã rũ tóc chống gươm sát vào trong trại,
sau bị một múi tên mới chịu rút quân về thành, chúng tôi đã toan đuổi đánh,
song ít người nên không dám đuổi nữa.
Tống Giang liền thưởng công cho Đầu Lĩnh, Bạch Thắng, sai đem
chém những tên thần binh bị đạn, và rồi cắt các vị Đầu Lĩnh chia đóng ra làm bảy
tàm trại nhỏ, để vậy giữ lấy trại lớn ở giữa, và nhất diện cho người về sơn trại
lấy thêm viện binh.
Hôm đó Cao Liêm bị mũi tên, trở về trong thành dưỡng bệnh,
truyền cho quân sĩ hết sức giữ thành, đợi khi khỏi hẳn vết thương, mới ra đối
trận đánh bắt Tống Giang.
Tống Giang thấy hai phen thất bại, thiệt hại quân mã rất nhiều,
trong lòng lấy làm lo phiền áy náy, bàn với quân sư rằng:
- Hiện nay chỉ có một mình Cao Liêm còn không phá nổi, nếu
nay mai lỡ lại có thêm một vài toán quân nào đó, thì làm sao mà đối địch được?
Ngô Dụng nói:
- Tôi thiết tưởng phá được Cao Liêm thì chỉ cho một kế nầy là
diệu hơn cả...mà nếu người này không chịu đến cho, thì thành Cao Đường không
ngày nào phá được, mà tính mệnh Sài Đại Quan Nhân tất là nguy mất.
Mới hay:
Giang hồ nghĩa nặng nghìn cân
Vào sinh ra tử tấm thân xem thường
Nam nhi đã vững cương thường
Tiếng thơm nghĩa hiệp để nhường cho ai?
Gió mưa chi ngại chuyện đời
Gan vàng dạ sắt giữa trời một ta
Ví không từng trải phong ba
Nước non ai biết ta là thủy chung.
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi này chép vào bản chuyện Sài Tiến bị hãm, song có một đoạn
ở đầu hồi Chu Đồng muốn giết Lý Quỳ, độc giả nhận lầm rằng, còn chút cuối ở hồi
trên, mà chẳng hay rằng hồi này với chút cuối hồi trên có liên hệ đến nhau, như
là sẵn chảo rán bánh, mượn gió bẻ măng, tức lưu Lý Quỳ ở lại, để xẩy ra chuyện
rắc rối sau này, dùng bút lực đến như thế vậy...Ta thường nói những ai đọc
sách, đừng vội cho tác giả đã lầm như một đoạn văn tự này, chẳng dối ai được
mãi, mà đây đã nói ra về sự chia hồi, thì nên nghĩ cho ra từng chỗ một, không
thể coi thường sự viết văn.
Vợ Sài Hoàng Thành chép là Kế thất, để càng làm rõ Sài Đại
Quan Nhân thế tất phải đến thăm nom cho chú, vả lại Hoàng Thành không con trai
gái, mà vợ chỉ là Kế, do đó gặp phải ngày người mất nhà ta, thì nguy lắm vậy,
sao xiết nói thay? Kế thất tuổi thì còn nhỏ, tuổi nhỏ đâu áp được chúng khinh lờn;
Kế thất mới về chưa được bao lâu, mới về thì ân uy không phục nổi lũ người nhà.
Kế thất chưa định nổi chí, con cái chưa có, lại một mối lộ, ngần ấy thứ nguy
nan của chú, tất nhiên Sài Đại Quan Nhân phải đến thăm chú, do cái thế bất đắc
dĩ vậy.
Than ôi! Ta xem hồi này, thấy Cao Liêm dựa thế Cao Cầu, ngang
tàng ở một địa phương chẳng nể nang gì. Ân Thiên Tích lại dựa vào thế của chồng
chị, cũng ngang tàng ở một địa phương, chẳng nể nang gì khiến ta thêm buồn mà
nghĩ rằng: Sao chúng tệ thay? Hỡi ôi! Dựa thế Cao Cầu có phải một Cao Liêm mà
thôi đâu? Nói đến Cao Liêm mới chỉ một người, nếu thế Cao Cầu mà dựa được để muốn
làm gì cũng được, tất phải có hàng trăm tên Cao Liêm, đã có hàng trăm Cao Liêm,
thì lại có hàng bao nhiêu tên Ân Trực Các nữa, vì thế Cao Liêm cũng muốn làm gì
thì làm, những kẻ dựa thế tất nhiên xu phụ, như thế một Cao Cầu có hàng trăm
Cao Liêm, một Cao Liêm có hàng trăm Ân Trực Các...Tính ra con số hàng ngàn Ân
Trực Các ấy, mỗi anh lại hàng hai ba răm đứa dựa quyền, nhâu nhâu như đàn hồ lũ
chó, thì thiên hạ sao yên? Hỡi ơi! Như thế mới đầu Cao Cầu chưa biết, biết mà
ngăn cầm, thì không còn phải Cao Cầu, nay biết còn dung túng, đó Cao Cầu lộ tướng
của Cao Cầu.
Hồi này tả Tống Giang rất con người quyền trá, từng chỗ giở
ngón gian hùng, lại rất rõ gian ngoan, ở chỗ Lý Quỳ không chịu nói lại với Mỹ
Nhiêm Công, mà Tống Giang khuyên lơn rào chắn cả hai người, đến nỗi đổ vạ cho
Quân sư ra lệnh, rồi kết lại xin lạy Lý Quỳ, thì đủ biết rằng, ngoài miệng biến
như mây gió, trong lòng ghê gớm như yêu ma, cũng chả lại gì nữa? Hỡi ôi! Đem
cái tài của Thị Nại Am, có khó gì mà không tả nổi ra một vai trò Tống Giang nói
ra như thế...như thế...Đại phàm chỗ nào tả Tống Giang con người hiểm ác, lại phải
đưa vai trò lừa dối Lý Quỳ như đứa trẻ con, đúng như lối chép bút Sử Ký vậy.
Tả Tống Giang sau khi nhập bọn, khi có việc gì phải hạ sơn, Tống
Giang lại khuyên Tiều Cái: Ca Ca là ông chủ sơn trại, không nên khinh xuất; như
đánh Chúc Gia Trang, Châu Cao Đường đều ngăn như thế. Đó là tác giả muốn nêu rõ
tội Tống Giang, đem quyền thuật để bịp cả Tiều Cái để rồi tha hồ tự một tay
mình, làm gì thì làm chả được. Vì sao? Vì Tiều Cái đi thì công về Tiều Cái, Tiều
Cái không đi thì công ở Tống Giang, đó là một; Tiều Cái đi thì Tống Giang làm
phó tướng, mọi người vâng lệnh Tiều Cái, Tiều Cái không đi thì Tống Giang làm
chủ soái, mọi người vâng lệnh Tống Giang, đó là hai vậy. Hỡi ôi trở ra đánh giặc
thì được ngôi tôn, khi trở về sơn trại thì công cao. Muốn chiếm ngôi thứ nhất
có thừa uy thế vậy. Đó là Tống Giang muốn chèn lấn Tiều Cái, mà tác giả muốn
làm cho rõ tội hiểm ác, theo đúng lối bút viết Sử Ký vậy. Cướp trại chỉ là một
việc thử sức của binh gia, dụng binh mà phải đến nỗi cướp trại, một lần chẳng
trúng lại hai lần, đều là lối chơi đùa của lũ con gái nhỏ tung ném mà thôi, nay
Thi Nai Am chẳng dừng được mà phải tả ra, ý muốn ngăn giữ Cao Liêm, để cho người
tìm xa lấy Công Tôn Thắng, đem Công Tôn Thắng ở xa về, tất phải ngăn bước tiến
của Cao Liêm, dụng ý vào một mũi tên bắn trúng của Dương Lâm, mới tả ra sự cướp
trại vô tình mà bị, cho rõ cái mưu Ngô Dụng tính ra.
Hồi này, vốn tả ra Sài Tiến bị hãm hại, lại đến khoe tài thần
binh của Cao Liêm, cũng chẳng phải vì đó mà khó cứu Sài Tiến, chính vì đó để
lôi kéo lấy Công Tôn Thắng, làm cho mực nồng bút sắc, tả ra văn như thể liên
châu mà xuống, nối bậc mà lên, chính ra chẳng biết rằng, vì Sài Tiến để mời
Công Tôn, hay đón Công Tôn do cứu Sài Tiến, độc giả đừng vội hiểu lầm người
chép truyện, phải nhận nổi ý tứ xem sao?
Tống Giang nếu thực có Thiên Thư của Huyền Nữ trao cho, làm
sao mà lại không phá nổi binh thần? Nếu Thiên Thư của Huyền Nữ không phá nổi
binh thần, Thi Nại Am cũng chẳng coi trọng Thiên Thư ấy nữa? Nay cần bày ra ở
chỗ này cho rõ Thiên Thư, Thiên Thư bảo rằng của Huyền Nữ, cũng đủ biết thực giả
thế nào rồi? Ngày trước nói rằng: Suốt ngày xem đọc Thiên Thư, đến đây mới chủ
tâm nhờ lời thần chú, há có đâu suốt ngày đọc Thiên Thư, mà bây giờ mới nghĩ đến
thần chú rõ ràng trước kia nói được Thiên Thư là dối, mà nay nhờ thần chú cũng
giả dối nốt. Ngài nói rằng: Thiên Thư chỉ cùng với sao Thiên Cơ cùng xem, nay
chợt nói rằng: Quân sư yên tâm, tôi đã có phép...Há có đâu hai người cùng nhau
xem sách suốt ngày, mà nay Nguyên Soái đã quên ngay được? Rõ ràng trước kia hai
người chưa từng cùng xem với nhau, vì nay sao một Tống Giang nhớ được??? Tội
ác Tống Giang đến thế, gấp hàng trăm lần tung lửa hồ kêu vậy.
Hồi 52:
Đới Tung vâng mệnh, tìm Công Tôn Thắng
Lý Quỳ sốt ruột, chém La Chân Nhân.
Khi đó Tống Giang nghe lời quân sư liền hỏi lại rằng:
- Quân sư định cho tìm ai, để phá được trận của Cao Liêm bây
giờ?
Ngô Dụng nói:
- Muốn phá được Cao Liêm, thì tất phải cho người sang Kế Châu
tìm Công Tôn Thắng Tiên Sinh mới được.
- Chuyến trước Đới Tung đi đã bao nhiêu ngày, cũng không tìm
thấy, phen này lại định đi tìm nữa, thì biết đâu mà thăm dò cho ra?
- Ở Kế Châu có bao nhiêu huyện, tổng, xã, thôn, không tìm cho
khắp, thì thấy làm sao được? Vả Công Tôn Thắng là người tu hành học đạo, chắc
là ở vào những nơi non cao nước rộng, hoặc các nơi động lớn chùa to, phen này
phải dặn Đới Tung đi tìm khắp những chỗ ấy, thì làm gì mà không tìm thấy?
Tống Giang nghe nói, liền gọi Đới Tung đến để dặn đi sang Kế
Châu.
Đới Tung nói:
- Chúng tôi vâng lệnh xin đi, song xin Đầu Lĩnh cắt cho một
người nữa để cùng đi mới tiện.
Ngô Dụng nói:
- Viện Trưởng dụng phép thần hành, thi ài theo kịp được, mà
cho người theo?
Đới Tung nói:
- Nếu có ai cùng đi, thì tôi buộc giáp mã vào trái đùi rồi cũng
đi nhanh được ngay.
Lý Quỳ đứng bên cạnh ứng lên rằng:
- Tôi xin đi với Viện Trưởng.
Đới Tung nói:
- Nếu bác muốn đi, thì phải ăn chay như tôi, mà tôi bảo cái
gì phải nghe như thế mới được.
Lý Quỳ cả quyết mà rằng:
- Cái đó có khó gì, các công việc tôi xin theo cả.
Tống Giang, Ngô Dụng, dặn Lý Quỳ rằng:
- Đi đường phải nên cẩn thận, mau mau được việc rồi về, chớ
có lôi thôi sinh sự mà khốn đó.
Lý Quỳ nói:
- Tôi đánh chết Ân Thiên Tích, làm cho Sài Đại Quan Nhân phải
bị nạn lây, có khi nào tôi không muốn cứu, phen này quyết nhiên là không sinh sự
chi cả.
Nói đoạn hai người cùng giắt dao lưng, đeo khăn gói rồi từ biệt
Tống Giang, cùng các Đầu Lĩnh, mà lên đường thẳng lối Kế Châu. Đi được ba bốn
mươi dặm đường, Lý Quỳ bỗng đứng dừng lại bảo Đới Tung rằng:
- Ca Ca mua vài chén rượu, uống rồi đi có thú không?
Đới Tung nói:
- Nếu anh muốn theo ta, để cùng làm phép thần hành, thì phải
ăn chay mới được.
Lý Quỳ nói:
- Thế ăn dăm ba miếng thịt cũng được chứ sao?
Đới Tung gạt đi mà rằng:
- Không được, anh lại thế thì không được, bây giờ đã sắp chiều
rồi, đi mau vào tìm chỗ nghỉ trọ, để sáng mai đi sớm thôi.
Nói đoạn hai người đi được vài mươi dặm đường nữa, thì trời sắp
tối, liền kéo nhau vào một hàng cơm để trọ.
Khi vào tới nơi, Lý Quỳ nấu cơm nước xong, mua một hai rượu,
xới một thùng cơm, và bưng một bát canh rau lên cho Đới Tung ăn.
Đới Tung hỏi:
- Sao anh không ăn một thể?
Lý Quỳ đáp:
- Tôi chưa đói, chưa muốn ăn.
Đới Tung nghe nói, đoán chắc là Lý Quỳ lại nói dối thế, để ăn
cá thịt vụng một mình, bèn ăn cơm vội cho xong, rồi sẽ rón rén xuống lối sau để
xem. Quả nhiên lúc ấy Lý Quỳ mua hai nai rượu, một đĩa thịt trâu mà đương ăn vội
ăn vàng ở đó. Đới Tung thấy vậy trong bụng nghĩ thầm: "Biết ngay, thằng
cha này còn nói dỗi mình thực. Được để ta im, rồi sáng mai cho nó một mẻ, rõ cuống
cuồng cho mà thích". Nghĩ đoạn thủng thẳng đi vào phòng ngủ trước. Lý Quỳ
chén một lúc hết, trong bụng sợ Đới Tung biết, bèn rón rén cùng đi lên phòng để
ngủ.
Đầu trống canh năm sáng hôm sau, Đới Tung dậy sớm gọi Lý Quỳ
dậy sớm nấu cơm, ăn uống xong rồi, tính trả tiền hàng, mà cùng nhau ra đi.
Đi được vài dặm đường, Đới Tung bảo với Lý Quỳ:
- Hôm qua ta chưa dùng đến phép thần hành, ngày nay phải dùng
đến phép mà đi cho mau mới được. Anh buộc khăn gói cho chặt chẽ cẩn thận, để
tôi làm phép cho anh trước cứ đi tám trăm dặm rồi hãy nghỉ.
Nói đoạn lấy bốn miếng giáp mã, buộc vào hai bên trái đùi Lý
Quỳ,mà dặn rằng:
- Anh đến hàng rượu đâu đó, mà đợi tôi nhé?
Nói xong lại đọc mấy câu thần chú, thổi lên trên chân Lý Quỳ,
rồi Lý Quỳ rảo cẳng bước đi, vù vù như gió vậy.
Đới Tung trông theo cười nói một mình rằng:
- Hãy để cho hắn nhịn đói hôm nay đã.
Đoạn rồi lấy giáp mã buộc chân mình mà theo sau Lý Quỳ, Lý Quỳ
xưa nay chưa biết thần hành là thế nào, cứ yên trí làm thế thì được nhanh
chóng, khoái hoạt như Đới Tung. Dè đâu chàng vừa bước chân đi, đã thấy hai bên
tai vù vù, như mưa sa gió thổi, không sao chịu. Lại thấy cửa nhà cây cối ở bên
đường đều loang loáng như là biến chạy, bước chân lại bầng bầng như mây khói
vùng lên, thì trong bụng rất lấy làm kinh sợ. Mấy phen chàng toan dừng lại
nhưng hai cẳng vẫn cứ lôi kéo bắt đi, cứ chạy hoài không sao đứng lại được. Khi
trông các hàng thịt rượu cứ loang loáng biến mất, không làm thế nào vào được để
ăn. Lý Quỳ thấy vạy kêu cha kêu mẹ xin dừng lại một lát, nhưng đôi chân vẫn quần
quật đi luôn, không sao đứng lại cho.
Chàng chạy hoài chạy mãi, đến lúc mặt trời đã vàng úa non
Tây, trong bụng vừa đói vừa khát, toát cả mồ hôi, thở lên hồng hộc, mà cũng
không sao đứng lại được. Bấy giờ Đới Tung ở đằng sau chạy theo gọi lên rằng:
- Lý Đại Ca! Sao không mua cái gì ăn đã?
Lý Quỳ kêu lên rằng:
- Ca Ca cứu tôi với...Thiết Ngưu đói chết rồi đây...
Đới Tung liền lấy bánh ở trong bọc ra, vừa ăn vừa để cho Lý
Quỳ nom thấy.
Lý Quỳ lại kêu lên rằng:
- Tôi không làm sao đứng lại được mà mua được bánh, bác cho
tôi một miếng ăn cho đỡ đói vậy.
Đới Tung chia chiếc bánh ra bảo Lý Quỳ rằng:
- Anh đứng lại đây, tôi đưa cho mà ăn.
Đới Tung lại kêu dội lên rằng:
- Ca Ca ơi! Hãy đứng lại một tí đã.
Lý Quỳ phát bẳn gắt lên rằng:
- Quái gở! Hai cái chân khốn nạn này không theo mình một tý
nào cả, chỉ cứ cắm cổ mà chạy hoài mãi...Đừng làm ông sốt tiết lên bây giờ...
Nói đoạn cầm đôi đại phủ vỗ vào nhau chan chát để mà đe dọa.
Đới Tung thấy vậy lại nói đế luôn rằng:
- Phải chặt hai cái cẳng đi, thế là tiện...Không có thì chạy
đến tháng giêng sang năm, cũng chưa đứng lại được đâu?
- Khổ! Ca Ca làm gì đùa thế? Chặt mất hai chân đi, thì lấy gì
mà chạy được nữa?
- Chắc là hôm qua anh không nghe lời tôi, làm khổ cả đến tôi,
không sao mà đứng lại được? Thôi, anh cứ chạy thế vậy...
Lý Quỳ quay lại bảo Đới Tung rằng:
- Bố ơi! Bố tha cho tôi đứng lại một tý...
- Phép này của tôi phải kiêng ăn mặn, mà nhất là thịt trâu
thì lại càng kỵ lắm. Nếu ăn một miếng thịt trâu vào, thì có lẽ chạy đến suốt đời
mới ngừng lại được.
- Thế thì khổ quá! Chẳng giấu gì Ca Ca, đêm hôm qua tôi trót
ăn vụng mất sáu bảy miếng thịt trâu, bấy giờ làm thế nào được?
- Thảo nào chân tôi hôm nay cũng không đứng lại được, anh Thiết
Ngưu này thực làm khổ cả đến người ta...
Lý Quỳ nghe nói, kêu trời kêu đất ầm ĩ cả lên.
Bấy giờ Đới Tung cười bảo Lý Quỳ rằng:
- Từ nay nếu anh nghe tôi được một việc này, thì tôi có thể
trừ được phép ấy ngay lập tức.
- Vâng, bố bảo điều gì, Lý Quỳ xin vâng theo cả.
- Từ đây trở đi không được ăn vụng thế nữa nghe chưa?
- Vâng, từ nay nếu có ăn vụng, thì lưỡi mọc đầu đanh ra mà chết...Hôm
qua vì thấy Ca Ca ăn chay đã quen tôi ăn vào khó nuốt quá, nên mới đánh liều,
mà ăn vụng đó thôi! Nay trở đi xin thề, không khi nào dám thế nữa.
Đới Tung nói:
- Nếu vậy thì hãy tha cho anh một chuyến đã.
Nói đoạn đi dấn đến gần lên, lấy vạt áo đập vào chân Lý Quỳ
mà quát lên rằng:
- Đứng lại.
Đoạn rồi Lý Quỳ đứng ngay lập tức.
Đới Tung thấy vậy bảo Lý Quỳ rằng:
- Bây giờ tôi đi trước, để anh lững thững theo gót mới được.
Lý Quỳ rằng vâng lời: Toan cất cẳng lên đi, bỗng thấy hai
chân nặng chĩu như hai cây sắt, không sao mà nhúc nhích đi được.
Chàng liền kêu lên rằng:
- Khổ lắm! Ca Ca lại cứu tôi một tý...
Đới Tung nghe nói, quay lại cười mà hỏi rằng:
- Vừa rồi anh thề có thực không?
- Khốn nạn! Ông là bố tôi, khi nào tôi dám nói dối nữa.
Đới Tung nói:
- Nếu quả vậy thì được rồi...
Nói đoạn dắt tay Lý Quỳ lên mà quát một tiếng "Đi"
rồi Lý Quỳ mới nhắc cẳng lên mà theo với Đới Tung.
Bấy giờ Lý Quỳ bảo với Đới Tung rằng:
- Ca Ca thương Thiết Ngưu này, cho nghỉ một lát thì mới chịu
được.
Đới Tung nghe nói. Liền dẫn Lý Quỳ vào một làng nào đó, để
cùng nghỉ với nhau. Đới Tung cởi giáp mã ra, hóa vàng lễ tạ, rồi hỏi Lý Quỳ rằng:
- Bây giờ thế nào?
Lý Quỳ sờ đến chân, rồi thở dài mà rằng:
- Hai cái chân này giờ mới là của tôi đây...
Nói đoạn Đới Tung bảo Lý Quỳ làm cơm chay ăn, rồi cùng nhau
đi nghỉ.
Sáng hôm sau vào khoảng đầu trống canh năm, hai người dậy sớm,
cơm nước xong hai người cùng đi. Đi được ba dặm Đới Tung lấy giáp mã bảo với Lý
Quỳ rằng:
- Hôm nay tôi buộc hai miếng cho anh thong thả vậy.
Lý Quỳ nói:
- Thôi bố đừng buộc cho con nữa.
- Được, anh cứ thuận lời tôi nói, thì cứ buộc vào để đi cho
chóng. Nếu anh không nghe, thì lại cho anh đứng nguyên như hôm qua, rồi bao giờ
tôi tìm được Công Tôn Thắng về đây, sẽ tha cho anh mà đi.
Lý Quỳ nghe nói, vội kêu lên rằng:
- Bố buộc vào đây...buộc vào đây...tôi không dám nói gì nữa.
Đới Tung liền buộc cho mỗi người hai miếng giáp mã làm phép thần
hành, rồi hai người cùng đi với nhau. Từ đó trong khi đi đường Lý Quỳ nhất nhất
theo lời Đới Tung mà không dám trái. Một hôm đi đến địa phận Kế Châu, hai người
cùng đến hàng cơm ở ngoài thành để trọ, rồi sáng hôm sau vào thành sớm để tìm hỏi
Công Tôn Thắng. Hôm đó Đới Tung giả làm ông chủ, Lý Quỳ giả làm người đầy tớ
theo hầu vào thành suốt một ngày trời, không có tin tức gì, hai người lại phải
trở về nhà trọ.
Ngày hôm sau lại vào thành, tìm khắp cả các hang cùng ngõ hẻm,
cũng không thấy tăm hơi đâu cả, Lý Quỳ lấy làm sốt ruột nói với Đới Tung rằng:
- Lão ăn mày này, không biết rằng trốn ở chỗ nào... ? Bây giờ
đi tìm thấy thì nắm cổ lôi ngay về cho Ca Ca mới được.
Đới Tung nghe nói, nguýt Lý Quỳ mà rằng:
- Anh lại giở quẻ rồi, muốn như hôm nọ hay sao?
Lý Quỳ cười toét mồm đáp rằng:
- Không, không tôi nói đùa ấy chứ...
Đới Tung lại hầm hầm ra dáng giận dữ, Lý Quỳ phải im thít,
không dám nói câu gì nữa. Hôm đó hai người về nghỉ hàng trọ, rồi đến ngày thứ
ba lại đi hỏi thăm ở các thị trấn xung quanh không một ai biết đến. Đến trưa
hôm ấy, hai người đã đói, liền tìm vào một hàng cơm, thấy hàng quán đông, không
có chỗ ngồi, hai người còn ở ngoài đường, sẽ lại hỏi dò mọi người xem có biết,
khách hàng còn giở ăn uống và cũng không ai biết đến Công Tôn, sau lại ngồi gần
bàn của một ông già Đới Tung vội thi lễ mà gọi cơm và thức ăn chay.
Đới Tung nói:
- Ta chỉ dùng ít cơm thôi, còn người cứ dùng cho đủ.
Lý Quỳ nói:
- Phải ăn cho đủ no mời được, tôi xin ứng tiền ra.
Tên tửu bảo đi qua thấy liền cười. Ai ngờ đợi mãi không thấy
cơm nước gì. Lý Quỳ đã thấy mọi người ăn xong ra đi, trong lòng đã bực bội, lại
thấy họ đem cơm lên cho ông già cùng ngồi một bàn với mình, ông già ấy chẳng
nhường cho hai người, cứ việc cúi xuống mà ăn, Lý Quỳ tính nõng, bèn chửi mắng
nhà hàng rằng:
- Đồ khốn nạn! Làm cho lão đây đợi đến bao giờ, mà không đem
hàng ra bán.
Liền vỗ bàn mạnh lên, làm cho cơm nước đổ ra bàn, khiến lão
kia đương ăn bực mình, nắm lấy Lý Quỳ mà mắng:
- Sao ngươi làm đổ cơm nước của ta, là nghĩa lý gì?
Lý Quỳ cũng toan giơ tay cự lại. Đới Tung ngăn vội mà rằng:
- Ngươi không được thế? Xin ông già hãy nể mặt tôi xin đền tiền
cơm nước cho ông, đừng lôi thôi gì nữa, thằng đầy tớ của tôi không biết lễ phép
thế nào, vậy xin lỗi cụ.
Người già kia nói:
- Khách quan không rõ cho tôi, tôi tới đây đường xa, cần ăn
cơm sớm, để tôi đi nghe giảng đạo, thế này lại chậm lỡ thôi.
Đới Tung nghe vậy liền hỏi:
- Thưa cụ là người ở đâu, đến đây nghe ai giảng đạo?
Ông già nói:
- Tôi người ở huyện Cửu Cung, thuộc Tô Châu, vốn ở núi Nhị Tiền,
nay vào trong thành để mua dầu hương, mang về trên núi, nghe La Chân Nhân giảng
phép trường sinh bất tử.
Đới Tung liền nghĩ ngay: "Có lẽ Công Tôn Thắng cũng ở
trong đám này chăng? " Liền thừa dịp hỏi ngay ông lão:
- Thưa cụ ở trong quý trang có vị nào là Công Tôn Thắng đạo
nhân chăng?
Ông già nói:
- Nếu khách quan mà hỏi mọi người, thì không ai biết đến ông
ta, chỉ tôi đây với ông ta vốn là hàng xóm, ông ta đi vân du luôn, có bà mẹ ở
nhà, nếu hỏi là Công Tôn Thắng, là tên tục, không ai nhận được ra, phải gọi là
Nhất Thanh Đạo Nhân mới tìm tới được.
Đới Tung nói:
- Chính chúng tôi đây đương muốn gặp ông ta, tìm đến chết người
mà chả gặp, may thay gặp cụ xin cụ chỉ giúp cho chúng tôi được tới nhà.
Liền đứng vái ông cụ mà hỏi:
- Thưa cụ từ đây tới núi Nhị Tiên bao nhiêu đường đất, và
Thanh Đạo Nhân có ở nhà không?
Ông già nói:
- Núi Nhị Tiên cách huyện Cửu Cung chừng ngoài bốn mươi dặm
đường, còn Thanh Đạo Nhân là bậc cao đồ của La Chân Nhân, không lúc rời ở bên cạnh.
Đới Tung nghe nói cả mừng, liền gọi hàng dọn cơm nước mau
lên, rồi cùng ông già và Lý Quỳ cùng ăn uống, xong rồi tính trả tiền hàng, cùng
ra khỏi điếm, ông già mời Đới Tung cùng đi một thể.
Đới Tung nói:
- Xin mời cụ đi trước, chúng tôi còn mua vàng hương cho đủ lễ
đã.
Rồi cùng nhau bái biệt, Đới Tung trở vào nhà hàng lấy hành
lý, rồi buộc giáp mã vào chân mình và chân Lý Quỳ, hai người dùng phép thần
hành, chốc lát đã tới huyện Cửu Cung mới làm phép dừng lại.
Khi đó Đới Tung hỏi thăm đường về núi Nhị Tiên, có người mách
cho từ huyện này đi tới năm dặm về phía Đông, thì tới núi đó. Đới Tung lại cùng
Lý Quỳ đi tới đó, chỉ chừng năm dặm tới núi Nhị Tiên. Đới Tung gặp một tiêu phu
bèn thi lễ mà hỏi thăm nhà Thanh Đạo Nhân? Tiều phu chỉ cho biết:
- Đi tới mỏm núi kia, qua cái cầu đá, là đến nhà ông ta.
Đới Tung liền cảm ơn xong, hai người lại lần đến đó, thấy có
mươi túp nhà tranh, ngoài xung quanh tường thấp lè tè, trước có cầu đá con con,
rồi thấy một người đàn bà cầm thúng quả ở trong đi ra.
Đới Tung chấy tay vái chào, hỏi người đàn bà ấy rằng:
- Nàng ở trong nhà Thanh Đạo Nhân đi ra, chẳng hay có Đạo
Nhân ở nhà hay không?
- Có, Đạo Nhân đương luyện phép ở trong đó.
Đới Tung mừng rỡ bảo Lý Quỳ rằng:
- Anh đứng nấp ở đây, đợi tôi vào xem đã, rồi anh sẽ vào sau.
Nói đoạn quay đi vào trước. Khi vào thấy có một dẫy ba gian
nhà lá, trước cửa treo cái rèm bằng cỏ lau. Đới Tung bèn đằng hắng một cái rất
to, rồi có một bà da mồi tóc bạc ở trong nhà chạy ra, chàng liền vái chào hỏi rằng:
- Bẩm cụ chúng tôi muốn vào hầu Thanh Đạo Nhân một lát.
Bà cụ hỏi:
- Ngài là ai? Ở đâu đến đây?
- Bẩm, chúng tôi là Đới Tung ở Sơn Đông mới đến.
- Dạ! Thưa cụ: Chúng con là anh em bạn cũ, muốn cần hỏi việc
gấp, xin cụ làm ơn bảo cho...
- Hiện có không có ở nhà. Ngài cần chuyện gì, cứ dặn tôi cũng
được. Khi nào nó về, ngài sẽ đến chơi.
Đới Tung nghe nói, vội đáp rằng:
- Nếu vậy xin để khi khác tôi sẽ đến.
Nói xong vái chào đi ra, bảo với Lý Quỳ rằng:
- Bây giờ phải cần đến anh mới được. Vừa rồi bà mẹ ông ta chối
là đi vắng, vậy để anh vào hỏi lần nữa, nếu bà ta còn chối thì đánh luôn, nhưng
chớ đánh đau, lúc nào tôi vào, thì thôi ngay mới được.
Lý Quỳ vâng lời, mở khăn gói lấy song phủ dắt ở sau lưng, rồi
đi thẳng vào cửa mà quát to lên rằng:
- Ai đó...ra đây?
Bà cụ nghe tiếng hỏi "Ai" rồi vội chạy ra, trông thấy
Lý Quỳ trợn mắt tròn xoe lên, thì trong bụng lấy làm sợ hãi, liền hỏi rằng:
- Ca Ca có việc gì đó?
Lý Quỳ nói:
- Ta là Hắc Toàn Phong ở Lương Sơn Bạc, vâng tướng lệnh của
Tiều, Cống Ca Ca đến đón Công Tôn Thắng...Nếu đem hắn ra đây thì tử tế, bằng
không thì ta cho mồi lửa đốt phăng nhà đi bây giờ?
Nói xong lại thét lên rằng:
- Mau mau ra đây.
Bà cụ nói:
- Hảo hán ôi! Nhà tôi đây là Thanh Đạo Nhân, chứ không phải
nhà Công Tôn Thắng đâu?
- Cứ gọi hắn ra đây, ta nhận mặt khắc biết.
- Hắn đi chơi vắng nhà chưa về.
Lý Quỳ nghe đến đó, rút phăng đôi phủ ra, chém một nhát đổ hẳn
một bên tường, rồi hằm hằm ra mặt giận dữ. Bà cụ vội chạy đến ôm giữ Lý Quỳ lại.
Lý Quỳ quát lên rằng:
- Nếu không bảo con trai ra đây, thì ta chém chết bây giờ.
Nói đoạn giơ búa chém luôn, làm cho bà cụ kinh sợ ngã lăn ra
đó. Bấy giờ Công Tôn Thắng ở trong nhà chạy ra kêu lên rằng:
- Không được vô lễ như thế.
Đoạn rồi thấy Đới Tung ở ngoài thét mắng rằng:
- Thiết Ngưa sao được xấc láo, làm cho bà cụ kinh sợ như vậy?
Nói đoạn Đới Tung vội vàng nâng bà cụ dậy, rồi Lý Quỳ vất đôi
song phủ xuống, vái chào Công Tôn Thắng mà rằng:
- Xin Ca Ca tha lỗi, không làm thế, thì bao giờ Ca Ca chịu
ra? Công Tôn Thắng vội vàng nâng mẹ dậy, vái chào hai người, rồi mời vào trong
nhà, Công
Tôn Thắng hỏi:
- Sao ngài lại tìm được đến đây?
Đới Tung nói:
- Chuyến trước tôi đã đi đến Kế Châu tìm khắp mọi nơi không
thấy Ca Ca ở đâu, sau rủ được mấy người nhập bọn cùng về trên núi. Chuyến này Tống
Công Minh tới Đường Châu cứu Sài Đại Quan Nhân, chẳng may bị Tri Phủ Cao Liêm
dùng phép yêu ma đánh luôn mấy trận, không sao mà chống lại được. Nhân vậy phải
cho tiểu đề cùng Lý Quỳ đi mời Ca Ca, về để bàn kế giúp cho. Tiểu đệ tới Kế
Châu thăm hỏi mấy ngày không được, sau may vào hàng bánh, gặp một ông già chỉ bảo
giùm cho, bấy giờ mới biết đường mà lần hỏi đến đây. Khi tới cổng đã gặp một
người đàn bà đi ra, chúng tôi hỏi thăm đã biết chắc là Ca Ca ở nhà. Ai ngờ vào
tới nơi cụ lại nói dối là đi vắng, nhân thế phải lập kế cho Lý Quỳ vào hỏi, như
vậy thực vô lễ, xin Ca Ca tha lỗi cho Tống Công Minh, hiện nay ở đất Cao Đường,
một ngày dài tựa ba thu, vậy Ca Ca sắp sửa đi ngay cho chóng xong công việc.
Công Tôn Thắng nói:
- Tôi từ thủa trôi nổi giang hồ, trong lòng thực vẫn mộ các
tay hảo hán. Duy từ khi ở Lương Sơn Bạc về đây, một là mẹ già đầu bạc, không ai
nuôi nấng trông coi; Hai là La Chân Nhân cũng có lòng yêu mến, không cho đi
đâu, lại e các vị hảo hán ở Lương Sơn Bạc đến đây tìm hỏi, nhân thế bắt tôi phải
đổi tên là Thanh Đạo Nhân, mà giữ riết ở nhà, không còn ai biết đến được nữa.
- Ngày nay Tống Công Minh, đương khi nguy cấp, vậy xin Ca Ca
lấy lượng từ bi mà đến đó một phen rồi sẽ liệu.
- Bây giờ tôi không thể nào mà đi được, vì có mẹ già phải
trông coi khuya sớm, và La Chân Nhân cũng không chịu cho đi.
Đới Tung đứng dậy cúi lạy Công Tôn Thắng; mà nhất tâm cầu khẩn
xin đi, Công Tôn Thắng đỡ dậy mà rằng:
- Nếu vậy để tôi định liệu xem sao?
Nói đoạn giữ Đới Tung và Lý Quỳ ở đó, rồi làm cơm chay thiết
đãi hai người. Khi ăn uống xong, Đới Tung lại vật nài nói với Công Tôn Thắng rằng:
- Nếu Ca Ca không chịu đi, thì Tống Công Minh tất bị Cao Liêm
bắt được, mà đại nghĩa ở Lương Sơn Bạc từ nay tất là đổ vỡ cả.
- Để tôi bẩm với Sư phụ Chân Nhân, nếu người có bằng lòng,
thì sẽ đi một thể...
- Xin Ca Ca đi hỏi ngay bây giờ cho...
- Hãy thư thả, nghỉ đây một đêm, để sáng mai đi hỏi cũng được.
- Bây giờ Tống Công Minh ở Đường Châu mong mỏi từng giờ từng
phút, vậy xin Ca Ca đi hỏi giúp ngay cho?
Công Tôn Thắng thấy lời lẽ ân cần, không sao cầm lòng được,
bèn dẫn cả Đới Tung, Lý Quỳ, cùng lên trên núi Nhị Tiên. Bấy giờ đương dạo cuối
thu sang đông, ngày ngắn đêm dài, ba người đi được một quãng, thì mặt trời đã
tà tà xế tối.
Công Tôn Thắng dẫn hai người đếm một ngỏ nhỏ, đén quan La
Chân Nhân, thấy có cái biển son đê ba chữ "Chân Nhân quán" rất to. Ba
người vào đến đình sửa áo, liền cùng nhau chỉnh đốn áo khăn, rồi đi qua một lũy
hành lang đến hiên Tùng Hạc.
Khi đó có hai tên tiểu đồng, thấy Công Tôn Thắng đến, vội vào
báo cho Chân Nhân biết. Chân Nhân nghe báo, truyền chỉ cho Công Tôn Thắng vào,
Công Tôn Thắng dẫn Đới Tung, Lý Quỳ vào đến trong hiên Tùng Hạc, thấy La Chân
Nhân đương ngồi ngay ngắn ở trên sập Vàng, Công Tôn Thắng vội vái chào, rồi đứng
ra một bên. Đới Tung thấy vậy cũng vội vàng cúi xuống lạy chào, còn Lý Quỳ vẫn
đứng im, mà đưa mắt nhìn trân trân không chớp.
Chân Nhân hỏi Công Tôn Thắng rằng:
- Hai vị này là ai?
Công Tôn Thắng nói:
- Chính là bọn nghĩa hữu ở Sơn Đông ngày trước, đề tử đã nói
đến, hiện nay vì Tri Phủ Cao Đường khoe khoang phép lạ nên Tống Giang huynh mới
sai hai anh em đến triệu đệ tử đi...Vậy đệ tử đến đây xin phép sư phụ người có
cho đi được chăng?
Chân Nhân nói:
- Nhất Thanh đã thoát nơi Lò Lửa, yên tâm theo luyện phép trường
sinh, sao còn mơ hồ đến cảnh đó?
Đới Tung cúi lạy thưa rằng:
- Người rộng phép cho Công Tôn Tiên Sinh xuống núi một phen,
sau khi đã phá được Cao Liêm sẽ đưa về núi hầu người.
La Chân Nhân nói:
- Hai người chưa rõ, những việc ấy không phải là đám xuất gia
tôi bận đến, vậy xin các ngài hãy về thương nghị xem sao?
Công Tôn Thắng bất đắc dĩ phải vâng lời dẫn hai người ra về.
Bấy giờ Lý Quỳ mới hỏi riêng rằng:
- Vừa rồi lão gia nói gì thế?
Đới Tung đáp:
- Anh lại không nghe rõ hay sao?
- Tiếng nói thế, ai còn nghe ra cái gì?
- Đấy là sư phụ ông ta không cho đi đấy.
Lý Quỳ nghe nói, tức giận mà kêu lên rằng:
- Mình đi bao nhiêu đường đất khổ sở biết bao?
Bây giờ tìm thấy rồi, lại hoạch họe mãi...Đừng làm ông sốt ruột
lên, thì gọi là xé tan cái mũ ấy ra, rồi nắm thắt lưng kéo cổ thằng già ấy xuống
núi cho mà xem.
Đới Tung thấy vậy, nguýt Lý Quỳ mà rằng:
- Anh lại muốn đóng đinh chân xuống đây rồi.
Lý Quỳ vội làm mặt tươi cười mà rằng:
- Không, không, tôi nói đùa đấy chứ.
Đêm hôm ấy hai người về tới nhà, Công Tôn Thắng sai dọn cơm
ăn. Công Tôn Thắng cùng Đới Tung ăn uống như thường, duy Lý Quỳ cứ ngồi nghĩ
ngây người mà không ăn uống chi cả.
Công Tôn Thắng bảo với hai người rằng:
- Hãy dầu lòng nghỉ đây một tối, sáng mai tôi đến nói lại
xem, nếu có cho đi thì hay lắm.
Đới Tung đành phải cất dọn hành lý, rồi cùng với Lý Quỳ, cùng
ngủ một nơi. Lý Quỳ nằm trằn trọc không sao ngủ được. Đến sáng canh tư, thì
chàng ngồi nhổm dậy, nghe thấy Đới Tung ngủ ngáy khò khò như chết, chàng liền
nghĩ thầm trong bụng rằng: "Thằng cha nó...vô lý quá! Nó là người ở Lương
Sơn về đây, lại còn phải hỏi sư phụ nào! Mình định cho phắt nó một búa là xong,
nhưng giết nó, thì lấy ai cứu Ca Ca cho được? "
Đoạn rồi lại nghĩ: "Nếu sáng mai mà lão già lại không chịu
cho đi, thì có phải là lỡ cả việc của Ca Ca không? Thế này thì không thể nào mà
nhịn được! Bất nhược giết phăng thằng già kia, cho nó hết hỏi là tất nhiên phải
đi với mình hẳn... "
Chàng nghĩ đến đó, liền sờ đến đôi phủ, khẽ mở cửa phòng, lần
bóng trăng trong mà đi lên Tử Hư. Khi tới nơi, thấy cửa đóng kín mít, lại hai
bên tường thấy lè tè, chàng liền nhảy tót vào trong, sẽ mở cửa ra, rồi lần mò
vào trong hiên Tùng Hạc. Chàng đi đến trước hiên, nghe trong cửa có tiếng người
tụng kinh, bèn nhảy lên chỗ khe cửa để xem thì thấy La Chân Nhân ngồi ở chỗ lúc
chiều, trên án trước mặt có lò lửa hương khói bốc lên nghi ngút, và hai cây nến
thắp sáng choang.
Lý Quỳ nói một mình: "Thằng cha này số chết đây" rồi
lần đến bên cửa sẽ lấy tay đẩy tung cánh cửa ra, đoạn rồi lấy búa sấn vào, nhè
giữa óc La Chân Nhân choang cho một búa; ngã gục xuống giường.
Lý Quỳ nom kỹ thấy máu trắng chảy ra, bèn cười mà nói rằng:
- Thằng cha này luyện tài thực, làm thế nào mà nguyên khí hãy
còn nguyên.
Chàng cũng nom đến cái mũ cũng vỡ ra làm đôi, mà trên đầu thì
toác một nhát thẳng xuống dưới cổ.
Chàng lại nói:
- Giết được thằng cha này, tất là Công Tôn Thắng phải theo
chúng mình hẳn.
Nói đoạn toan quay về. Chợt đâu một tên Thanh Y Đạo Đồng chạy
đến ôm lấy Lý Quỳ mà rằng:
- Anh giết thầy tôi, bây giờ chực chạy đi đâu?
Lý Quỳ giơ búa lên mà quát rằng:
- Thằng ranh con này, ông cho một búa nhân thể.
- Bây giờ còn đứa nào ra đây nữa không? Thôi ta đi về.
Miệng nói chân đi chạy thẳng một mạch về nhà Công Tôn Thắng,
tới nơi lẻn vào thấy Đới Tung vẫn còn ngủ im thim thít, chàng lại đóng cửa rồi
vào nằm tử tế. Sáng hôm sau dậy sớm, Công Tôn Thắng sai dọn cơm cùng ăn, cơm nước
xong Đới Tung lại thúc giục Công Tôn Thắng lên núi để xin phép, Lý Quỳ thấy vậy
chỉ bầm bụng cười thầm mà không dám nói. Đoạn rồi Công Tôn Thắng đưa hai người
cùng đến quán Tử Hư.
Khi vào tới Tùng Hạc, có hai tên đạo đồng đứng ở đó. Công Tôn
Thắng liền hỏi:
- Chân Nhân ngồi ở đâu?
Đạo đồng đáp:
- Chân Nhân đương ngồi ở trên Vân Sàng đó.
Lý Quỳ gnhe nói cả kinh, lè lưỡi ra đến nửa ngày không co vào
được. Bấy giờ ba người cùng mở rèm đi vào, quả nhiên thấy La Chân Nhân đương ngồi
trên Vân Sàng ở giữa nhà.
Lý Quỳ thấy vậy nghĩ thầm rằng: "Có lẽ đêm qua mình giết
nhầm chắc"
Vừa nghĩ xong thấy Chân Nhân hỏi:
- Ba các ngươi đến đây làm gì?
Đới Tung nói:
- Chúng tôi đến kêu với sư phụ mở lòng từ bi cứu cho khỏi nạn,
chúng tôi được đội ơn đức muôn vàn.
La Chân Nhân hỏi:
- Người đen lớn kia là ai thế?
Đới Tung bẩm:
- Hắn là nghĩa đệ của tôi tên là Lý Quỳ...
Chân Nhân cười nói:
- Đáng lẽ không cho Công Tôn Thắng đi, nhưng nể mặt Lý Quỳ,
nên cho anh ta đi một phen...
Đới Tung lạy tạ, rồi lại nói chuyện với Lý Quỳ.
Lý Quỳ nghe nói, nghĩ thầm trong bụng: "Anh này biết
mình định giết nên mới thế đây...”
Chân Nhân lại nói:
- Ta làm phép cho ba người đến ngay Đường Châu bây giờ...
Đới Tung vâng lời tạ ơn, rồi tự nghĩ rằng: "La Chân Nhân
lại có phép đi nhanh hơn phép thần hành của ta hẳn?"
Chân Nhân gọi đạo đồng, lấy ba cái khăn tay đến. Đới Tung nói
với Chân Nhân rằng:
- Bẩm sư phụ làm thế nào cho chúng tôi tới ngay được Đường
Châu?
Chân Nhân đứng dậy bảo ba người rằng:
- Các ngươi đi ra đây với ta.
Ba người vâng lời theo Chân Nhân ra chỗ mỏm đá bảo Công Tôn
Thắng đứng chụm hai chân lên trên, rồi Chân Nhân lấy tay áo phẩy một cái mà
quát lên rằng:
- Lên...
Bỗng dưng cái khăn hóa ra một vầng mây đỏ, đem Công Tôn Thắng
lên cao ước chừng hai mươi trượng, Chân Nhân lại quát lên "Im" thì thấy
dám mây đứng im lại mà không đi nữa.
Chân Nhân lại lấy khăn tay xanh, bảo Đới Tung trèo lên, rồi
quát một tiếng "Lên" thì khăn tay xanh hóa ra đám mây xanh, mà đưa Đới
Tung lên cao bằng chỗ Công Tôn Thắng, mà đang lơ lửng ở đó.
Lý Quỳ nom thấy vậy, ngây hẳn người ra, như thằng dại vậy. Bấy
giờ Chân Nhân lại bảo lấy khăn tay trắng, bảo Lý Quỳ đứng lên.
Lý Quỳ nói:
- Đừng làm đùa thế, lỡ ngã một cái thì quăn da.
Chân Nhân nói:
- Anh nom hai người kia có ngã không?
Lý Quỳ liền đứng vào cái khăn tay. Chân Nhân quát lên một tiếng
"Lên" rồi khăn tay trắng hóa thành đám mây trắng đem quân bay lên, Lý
Quỳ kêu lên:
- Ái...Ái...Không chịu được, cho xuống mau.
Chân Nhân vẫy tay một cái, hai đám mây xanh, đỏ đều là là bay
xuống. Đới Tung lạy tạ Chân Nhân, đứng hầu vàobên hữu, còn Công Tôn Thắng đứng
hầu về bên tả. Bấy giờ còn một mình Lý Quỳ ở trên mây trắng kêu lên rằng:
- Trời ôi! Tôi muốn đái bây giờ...Mau mau cho xuống, không có
thì đái cả vào đầu bây giờ.
La Chân Nhân đứng dưới hỏi lên rằng:
- Chúng ta là bọn tu hành có can phạm gì đến ngươi? Sao đêm
hôm qua ngươi dám cào tường vào, giơ búa chém ta? Nếu ta không phải là người có
đạo đức, thì còn sống làm sao được nữa? Ngươi lại giết cả đạo đồng của ta nữa
là nghĩa lý gì?
Lý Quỳ nói:
- Không phải tôi! Có lẽ ông lầm rồi....
La Chân Nhân cười rằng:
- Thôi, cũng chỉ chém hai cái túm cỏ của ta đó thôi. Nhưng bụng
ngươi đã bất thiện, thì ta phải cho một mẻ mà sửa đổi đi mới được.
Nói đoạn giơ tay vẫy, quát lên một tiếng "Đi" rồi thấy
một trận ác phong đưa đến thổi bạt Lý Quỳ đi lên tít trên mây. Đoạn rồi có hai
người lực sĩ khăn vàng dong áp hai bên.
Bấy giờ Lý Quỳ chỉ nghe thấy hai bên tai vù vù như gió táp
mưa sa, trông xuống bên dưới cỏ cây cửa nhà đều ầm ầm bay chuyển. Dưới chân
mình cũng chẳng khác nào gió giục mây vần, càng ngày càng đổi giạt mãi đi,
không biết trời đất là đâu nữa.
Lý Quỳ trông thấy sợ hãi rụng rời, chân tay dẫy lên đây đẩy.
Chợt đâu nghe một tiếng huỵch thật mạnh, chàng nhắm mắt nhìn kỹ thì rơi ngay xuống
nóc nhà công đường phủ Kế Châu, rồi lăn thồ lồ xuống đất.
Khi đó quan Phủ Mã Sĩ đương ngồi trong công đường, nha lại đứng
hầu cả hai bên, thấy bỗng có người ở trên nóc nhà lăn xuống, thì ai nấy đều
kinh sợ không hiểu ra sao cả.
Quan Phủ bèn thét lính trói lại, rồi bắt dong đến trước cửa
công đường ma quát lên rằng:
- Thằng này mày là yêu quái ở đâu mà lại rơi xuống đó?
Lý Quỳ đương đau đớn, vỡ cả đầu sứt cả mặt, thở hồng hộc,
không sao mà trả lời được.
Tri Phủ lại quát:
- Thằng này tất là yêu quái ở đâu, bây lấy nước phép ra
đây...
Mấy tên lính ngục vâng lời, đem Lý Quỳ mà trói lại, đưa ra chỗ
bãi co û trước cửa công đường, rồi một tên ngu hầu bưng chậu huyết cho, và một
người bưng thùng nước giải dội từ đầu Lý Quỳ xuống.
Lý Quỳ thấy mình mẩy mặt mũi, toàn nhơ bẩn cả lên, bèn kêu rằng:
- Tôi không phải là yêu ma nào đâu...Tôi là người nhà La Chân
Nhân đây.
Nguyên La Chân Nhân vốn có tiếng đạo đức ở đất Kế Châu, quanh
vùng đó, ai cũng gọi là ông thần tiên sống, nhân thế nên không ai động đến Lý
Quỳ nữa. Đoạn rồi chúng lại dẫn Lý Quỳ vào công đường mà kêu lên rằng:
- La Chân Nhân là một người có tiếng là thần tiên sống ở đất
Kế Châu. Vậy quả người này là người nhà La Chân Nhân, thì không nên trị tội làm
chi.
Tri Phủ cười rằng:
- Ta đọc hàng nghìn vạn cuốn sách, nghe hết chuyện xưa nay,
chưa từng nghe thấy ông thần tiên nào lại có người đồ đệ như thế này bao giờ.
Thằng này chắc là yêu quái, chúng đem đánh đi ta xem.
Chúng vâng lệnh phải đem Lý Quỳ ra đánh lấy đánh để, chỉ còn
thiếu một nước chết là xong.
Tri Phủ quát lên rằng:
- Nếu thú nhận là yêu quái, thì ta tha cho.
Lý Quỳ phải bất đắc dĩ mà xưng tên Lý Nhị. Tri Phủ liền sai
đóng gông nặng, mà giam xuống nhà lao tử tù.
Khi xuống ngục, Lý Quỳ nói rằng:
- Ta nay bị nhật thần xung khắc, sao lại gông ta thế này? Ta
truyền cho cả phủ Kế Châu là chết hết đó?
Mấy anh Áp lao Tiếp Cấp, và bọn lính ngục vẫn sợ tiếng La
Chân Nhân xưa nay, vội vàng đến hỏi Lý Quỳ rằng:
- Bác là người ở đâu? Cứ nói thực cho chúng tôi biết...
Lý Quỳ nói:
- Ta là người thân của La Chân Nhân, nên đem ta đến bỏ chốn
này, đây ải vài hôm, rồi thế nào cũng đón ta về...Nếu các anh không đem rượu thịt
cho ta ăn uống tử tế, thì ta cho toàn gia các anh chết cả đó...
Bọn kia nghe nói, anh nào cũng sợ hãi, phải mua rượu thịt đến
cho ăn uống. Lý Quỳ thấy chúng sợ hãi lại càng làm già lên, cho chúng sợ hãi,
cho chúng sợ thêm, phải đem nước nóng đến cho chàng tắm rửa.
Lý Quỳ bảo chúng rằng:
- Nếu không cho ăn uống hẳn hoi, thì ta cứ bay đi ngay, để
các anh khổ cho mà coi...
Bọn lính ngục thấy vậy, lại càng kính sợ, đem nước nóng cho
Lý Quỳ tắm gội, rồi lấy quần áo sạch sẽ cho thay, rồi anh nào anh nấy, phục dịch
bằng ông thần sống vậy.
Nói về La Chân Nhân từ khi sai ngọn gió đưa Lý Quỳ đi rồi, liền
đem chuyện trước nói cho Đới Tung biết, Đới Tung kinh sợ, vội vàng kêu xin tha
thứ cho Lý Quỳ. Đoạn rồi La Chân Nhân giữ Đới Tung ở đó, mà hỏi thăm mọi công
việc của sơn trại.
Đới Tung đem tấm lòng trọng nghĩa khinh tài, cùng các đức hay
tính tốt của Tiều Thiên Vương và Tống Công Minh thuật cho Chân Nhân nghe. Chân
Nhân nghe nói, vẫn điềm nhiên như không, rồi lưu Đới Tung ở đó luôn năm hôm nữa.
Trong mấy hôm đó, ngày nào Đới Tung cũng lạy van kêu nài với La Chân Nhân để
xin cứu cho Lý Quỳ trở về, La Chân Nhân cười mà đáp rằng:
- Hạng người ấy thì trừ phắt nó đi, còn mang về làm gì nữa.
Đới Tung nói:
- Lý Quỳ tuy tính thô mãng không biết lễ phép, xong bụng dạ
trực tiết, bình sinh không hề tham nhũng của ai, không hề siểm nịnh ai, dẫu chết
tấm lòng không đổi...Nhất sinh chưa từng có một chút manh tâm đến sự tài lợi
dâm đãng, nên việc gì cũng hăng hái dám làm, bởi thế nên Tống Công Minh lấy làm
yêu quý vô cùng. Nay nếu mất người ấy, thì chúng tôi không thể nào về với Tống
Công Minh được nữa?
La Chân Nhân cười rằng:
- Tôi nói thế mà thôi...tôi vẫn biết là một vị Sát Tinh ở
trên trời, vì hạ giới hiện nay tội ác đã nhiều, nên trời đày anh ta xuống để giết
bớt những giống loài vô ích, tôi đây có khi nào lại trái lòng trời, mà giết hắn
đi cho được, đó chẳng qua là rèn bớt tính khí cho hắn, rồi tôi lại cho về đây
ngay, có ngại gì?
Nói đoạn gọi lên rằng:
- Nào lực sĩ đâu?
Nói vừa dứt lời, thì trước hiên Tùng Hạc có một ngọn gió bay
qua rồi có một lực sĩ khăn Vàng chạy vào, cúi lạy La Chân Nhân mà vâng pháp chỉ.
Chân Nhân truyền rằng:
- Hôm nọ ta sai ngươi đem đày tên ấy sang Kế Châu, nay đã hết
tội lỗi rồi, vậy ngươi đến đó bắt về đây cho ta.
Lực sĩ vâng lời quay ra. Được một lát bỗng thấy Lý Quỳ ở trên
trời rơi xuống ở giữa sân. Đới Tung vội vàng ra đỡ Lý Quỳ mà hỏi rằng:
- Mấy hôm nay anh em ở đâu thế?
- Trăm lay gia gia, ngàn lại gia gia, từ nay Thiết Ngưa không
dám thế nữa...
La Chân Nhân ung dung nói rằng:
- Ngươi từ nay trở đi phải bỏ hết tính xằng, mà hết lòng phò
tá Tống Công Minh thì ta tha cho.
Lý Quỳ nói:
- Người là cha mẹ bên trên, khi nào con cái dám sai lời nữa.
Đới Tung lại hỏi thăm chuyện trong mấy hôm đó. Lý Quỳ liền
thuật lại chuyện vào ngục Kế Châu, đến khi có Hoàng Cân Lực Sĩ cứu về, cho Đới
Tung nghe...
Bấy giờ Công Tôn Thắng nói với hai người rằng:
- Ở đây có hơn một ngàn Hoàng Cân Lực Sĩ đó đều là đầy tớ La
Chân Nhân cả...
Lý Quỳ nghe nói kêu lên rằng:
- Ối Phật Tổ ôi! Thế mà không bảo cho tôi biết trước, để tôi
khỏi xằng như thế?
Nói đoạn lạy lấy lạy để không thôi...
Đới Tung cũng năn nỉ kêu với La Chân Nhân rằng:
- Chúng tôi đến đây đã lâu, mà quân mã Đăng Châu hiện đương
nguy cấp, dám xin sư phụ mở lượng từ bi, mà cho Công Tôn Thắng cùng đi cứu Tống
Công Minh, để phá Cao Liêm một phen, rồi lại xin đưa lên hầu ngài lập tức.
La Chân Nhân nói:
- Lẽ ra không cho đi, nhưng nghĩ đến đại nghĩa của các ngươi
thì xin cho đi mấy hôm để giúp...Duy ta dặn câu này phải nhớ chớ quên mới được...
Công Tôn Thắng vội vàng quỳ xuống để nghe pháp chỉ xem sao?
Mới hay:
Cuộc đời bể lại dám qua,
Xưa nay nghĩa lớn vẫn là nghĩa chung,
Người Thánh triết kẻ hào hùng.
Đặt thân tuy khác, giữ lòng dễ sai.
Cùng nhau tế độ lấy đời,
Gây nên hạnh phúc cho nòi giống xưa,
Can qua dù sự chằng ngờ,
Gan vàng dạ sắt trơ trơ mới là...
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi này toàn đem chuyện quái lạ viết ra văn, trong truyện có
một dạng bút mực khác, song ở độc giả, phải nên lược qua chuyện quái lạ, mà
đoán ra ý tứ. Tại sao? Vì quái lạ vốn ác đạo của văn chương, truyện này cũng có
nói ra, chẳng phải là không thoát tục, mà có tác dụng vậy, cũng có ý tứ khác
người đó vậy.
Vì trong truyện đã có một Công Tôn Thắng, chẳng thề không có
một Cao Liêm, sinh nẩy ra lấy một Cao Liêm, để phản thấn lại Công Tôn Thắng.
Nay chẳng vì lúc này phép thuật gớm ghê, mà tả ra một phen đấu phép hay sao?
Song le phép thuật gớm ghê vốn là khó vậy, nếu chẳng phô trương Cao Liêm, thì
không thể phô trương Công Tôn Thắng, khoe khoang hai người đấu phép tranh kỳ, đủ
mọi phép mầu sinh ra quỷthần cầm thú...chẳng còn thiếu cái gì, thì như truyện
Tây du và mọi sách không khác, đó là Thi Nại Am đối với nghĩa chẳng làm sao được.
Ta nghe nhà văn, từng có những phép bỏ thực cầu hư, ở đây lược
tả Cao Liêm, tường thụật Công Tôn, ý giả dụng phép này chẳng? Song nghiệp dĩ đã
lược tả Cao Liêm, tường thuật Công Tôn, thì sao chẳng lược tả cả Công Tôn, mà
tường thuật đến thầy của Công Tôn, tức bảo là bỏ thực cầu hư đó vậy. Lại thêm
chuyện Lý Quỳ diệt quái đã lạ, để nảy ra một bậc chân nhân, nảy ra Chân Nhân,
chính là để nảy ra Công Tôn Thắng vậy, nếu chẳng biết ý tứ tác giả như thế, mà
vội chê Lý Quỳ đối sĩ bệnh không thể chữa, ta cũng không biết nói thế nào?
Hồi này một đoạn tả ra chỗ vô bàn đổ bánh, để đi đến những đoạn
văn sau, đều do tác giả thổ hết tâm can mới được như thế, không nên coi thường
mà đọc qua loa.
Hồi 53:
Nhập Vân Long đấu phép phá Cao Liêm;
Hắc Toàn Phong xuống giếng cứu Sài Tiến.
Bấy giờ La Chân Nhân bảo với Công Tôn Thắng rằng:
- Phép thuật của ngươi đối với Cao Liêm cũng không hơn kém gì
nhau, song ngày nay ta trao cho ngươi một phép Ngũ Lôi Thiên Tâm, ngươi cứ theo
thế mà làm Đạo được. Còn lão mẫu ngươi ở nhà, ta sai người trông nom tử tế,
không cần lo nghĩ làm chi. Ngươi cũng là ứng vào Tính số trên trời, nên ta tạm
cho ra đó một phen, song trong lòng phải thủy chung giữ lấy lời xưa, chớ bị người
ta xui giục mà quên bỏ nghĩa lớn của mình mới được.
Công Tôn Thắng vâng nhận các phép rồi cùng với Đới Tung, Lý
Quỳ lạy tạ Chân Nhân, và giã từ bạn học mà cùng về nhà tư. Khi về tới nhà, Công
Tôn Thắng lấy hai khẩu bảo kiếm, sắp sẵn cái mũ sắt áo đạo, cùng các đồ hành
lý, rồi biệt thân mẫu mà lên đường.
Đi được bốn mươi dặm đường, Đới Tung bảo với Công Tôn Thắng rằng:
- Bây giờ Tiên Sinh cùng Lý Quỳ đi sau, để tôi về trước báo với
Tống Ca Ca, rồi cho người đi đón.
Công Tôn Thắng đáp:
- Được lắm, xin hiền đệ cứ báo trước, để tôi đi sau càng tiện.
Đới Tung dặn Lý Quỳ rằng:
- Anh đi đường phải theo mệnh lệnh tiên sinh, nếu có câu gì
không phải, thì tôi sẽ liệu cho anh.
Lý Quỳ vâng dạ mà rằng:
- Phép thuật tiên sinh cũng như La Chân Nhân vậy, có khi nào
tôi dám khinh nhờn, xin Ca Ca cứ đi trước cho.
Đới Tung liền buộc giáp mã, làm phép thần hành đi trước, còn
Công Tôn Thắng với Lý Quỳ lục đục đi sau. Trong khi đi đường, Lý Quỳ sợ phép
thuật của La Chân Nhân; nên hết lòng hầu hạ Công Tôn không hề có việc càn bậy.
Cách vài hôm, đi đến trấn Vũ Cương, thấy cửa nhà đông đúc,
Công Tôn Thắng bảo với Lý Quỳ rằng:
- Mấy hôm nay đi đường khó nhọc, nay ta hãy vào uống chén rượu
xuông, ăn vài cái bánh chay, rồi sẽ đi cũng được.
Lý Quỳ nghe nói láy làm mừng, bèn tìm vào một hàng rượu ở bên
đường để đánh chén. Khi vào tới nơi, Công Tôn Thắng ngồi trên, Lý Quỳ cởi khăn
gói ngồi phía dưới, rồi gọi nhà hàng dọn rượu lên.
Công Tôn Thắng hỏi nhà hàng rằng:
- Ở đây có bánh điểm tâm chay không?
- Thưa ngài, trong hàng tôi bán rượu thịt, không có bánh
chay, duy ngoài chợ có thứ bánh táo là thức ăn chay mà thôi.
Lý Quỳ nói:
- Để tôi đi mua về đây.
Nói đoạn mở gói lấy ít tiền, chạy ra chợ mua bánh. Khi mua
xong, đương sắp ra về, chợt thấy bên đường có tiếng người kêu quát lên rằng:
- "Khỏe thực... "
Lý Quỳ nghe thấy vậy, vội chạy đến xem, thì thấy có đám đông
người vây một anh chàng to lớn, đương múa đôi chùy sắt ở đó. Anh chàng ấy mình
cao hơn bảy thước, da mặt sần gai, mũi thẳng xuống như dọc dừa, tay cầm chùy sắt,
nặng ước ba mươi cân, múa mang một lúc, rồi đánh vào hòn đá ở bên đường vỡ hẳn
ra. Chúng trông thấy, đều vỗ tay khen ngợi ầm lên, Lý Quỳ thấy vậy, không sao
nhịn được, liền dắt bánh vào trong bọc chạy sấn vào giơ tay toan giật lấy chùy
sắt của chàng kia.
Chàng kia quát lên rằng:
- Anh là thằng nhắng nào, dám vào dằng lấy chùy của ta.
Lý Quỳ nói:
- Anh múa có ra cái gì...Mà họ khen ầm cả lên... ?
Để lão gia múa cho xem.
Chàng kia nói:
- Được, ta cho anh mượn hai cây chùy...Nếu không múa nổi, thì
ta tặng cho mấy qủa đấm mà xem.
Lý Quỳ lẳng lặng với lấy cây chùy, múa lên múa xuống, tựa hồ
như tung quả đạn tròn, hồi lâu mới đặt xuống, mà tinh thần không hề chút gì ra
dáng khó nhọc.
Anh chàng kia trông thấy, vội cúi rạp xuống mà lạy rồi hỏi rằng:
- Xin hỏi đại danh Ca Ca là gì?
Lý Quỳ hỏi lại:
- Nhà anh ở đâu?
Anh chàng đáp:
- Nhà tôi ở phía trước gần đây...
Nói đoạn liền dẫn Lý Quỳ đến một nơi cửa khóa then cài cẩn thận,
rồi lấy chìa khóa mở cửa mời Lý Quỳ vào.
Lý Quỳ vào tới trong nhà toàn thị bễ lò kim khí vất bỏ ngổn
ngang trong bụng liền nghĩ thầm: "Anh nay athan laanh lorehie trong s tra
i ta cung ca eba nhc ru pha cho tie... " Nghĩ vậy liền hỏi:
- Bác tên họ là gì, xin cho tôi biết?
- Thưa ngài: Tôi họ Thang tên Long, thân phụ tôi ngày trước
làm nghề thợ rèn, sau gặp Lão Trung Kinh Lược, cho làm quan ở phủ Diên An, mới
đây phụ thân tôi bị mất ở chỗ làm quan, tính tôi lại hay dong chơi cờ bạc, nên
mới lưu lạc giang hồ, phải tạm trú ở đây để làm nghề thợ rèn kiếm ăn. Tôi có
luyện tập được nhiều võ nghệ, song người ta thấy tôi có mụn đen khắp cả quanh
mình, nên thường gọi là Kim Tiền Báo Tử (con báo tốt tiền). Vậy dám hỏi quý
danh là gì?
- Tôi tức là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ở Lương Sơn Bạc đây?
Thang Long nghe nói, vội vàng cúi lạy mà rằng:
- Chết nỗi! Tôi nghe tiếng đã lâu mà không được biết?
- Anh ở đây làm nghề thợ rèn, thì bao giờ cho khá được, bất
nhược theo tôi cùng lên Lương Sơn Bạc, làm chức Đầu Lĩnh có thú hơn không?
Thang Long hớn hở đáp rằng:
- Nếu quan anh có lòng tốt, cho tiểu đệ theo đi, thì còn gì
hơn nữa.
Nói đoạn liền bái Lý Quỳ làm anh, rồi Lý Quỳ nhận Thang Long
làm em.
Thang Long lại nói với Lý Quỳ rằng:
- Nhà tôi không có đầy tớ, xin mời quan anh ra chợ uống vài
chén rượu xuông cho tỏ tình thân ái, rồi nghỉ đây một đêm, sáng mai sẽ đi...
Lý Quỳ nói:
- Tôi còn có sư phụ ngồi ở đằng kia, để tôi đem bánh về ăn, rồi
chạy ra ngay bây giờ, không thể nào trì trệ được nữa.
- Vội chi mà phải đi ngay như thế?
- Chết nỗi! Tống Công Minh Ca Ca hiện đương đánh nhau ở đất
Đường Châu, còn tôi mời sư phụ về cứu ứng đó.
- Sư phụ là ai?
- Thôi bất tất phải nói anh xếp dẹp đi ngay mới được.
Thang Long vâng lời, vội vàng thu xếp khăn gói, tiền nong
khoác nón, giắt dao, cầm thanh đao lớn, vất bỏ cả cửa nhà đồ đạc, mà theo Lý Quỳ
cùng đi.
Khi đi đến tửu điếm, Công Tôn Thắng trông thấy Lý Quỳ về, bèn
có ý gay gắt bảo Lý Quỳ rằng:
- Anh đi đâu đến bây giờ mới về? Giá chậm lúc nữa, thì tôi
lên núi cho rảnh chuyện...
Lý Quỳ nghe nói lặng ngắt không dám trả lời, liền dẫn Thang
Long vào lạy chào, mà kể rõ cho Công Tôn Thắng nghe, Công Tôn Thắng thấy vậy
cũng có ý vui mừng một chút. Đoạn rồi Lý Quỳ đem bánh ra ba người ăn uống với
nhau.
Khi ăn uống xong tính trả tiền hàng, rồi Lý Quỳ cùng Thang
Long đều khoác khăn gói, theo Công Tôn Thắng về lối Đường Châu. Đi được chừng
hai phần đường, đã thấy Đới Tung đến tiếp đón.
Công Tôn Thắng cả mừng, vội hỏi công việc đánh nhau mấy bữa
nay ra sao?
Đới Tung nói:
- Mấy hôm nay Cao Liêm đã khỏi vết thương, ngày nào cũng cho
quân ra khơi đánh, nhưng Ca Ca phải chịu nhịn, không ra đánh, đành phải đợi
tiên sinh đến đã.
Công Tôn Thắng cười rằng:
- Được lắm, để tôi đến sẽ hay.
Lý Quỳ lại dẫn Đới Tung vào chào hỏi, rồi kể chuyện cho nghe,
rồi bốn người kéo Đới Tung cùng đi. Khi gần tới trại, cách năm dặm đường, thấy
Lã Phương, Quách Thịnh, dẫn hơn năm trăm bộ, cùng ra đón tiếp.Bấy giờ bốn người
cùng lên ngựa, rồi trở về Đại Trại.
Tống Giang, Ngô Dụng thấy Công Tôn Thắng về tới nơi, vội vàng
hớn hở vui mừng đón vào thăm hỏi, rồi cho đòi các Đầu Lĩnh vào đến trướng Trung
Quân, để chào mừng Công Tôn Thắng.
Lý Quỳ dẫn Thang Long vào chào Tống Giang, Ngô Dụng, cùng các
vị Đầu Lĩnh rồi đặt tiệc ăn mừng, rất là vui vẻ.
Ngày hôm sau, Tống Giang, Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng, bàn
việc đánh Cao Liêm.
Công Tôn Thắng nói:
- Xin Chủ tướng truyền cho nhổ trại, kéo cả quân đến, xem thế
giặc ra sao, rồi tôi sẽ liệu.
Tống Giang nghe lời, bèn truyền cho các trại, hết thẩy đều
kéo quân đến gần phủ Cao Đường để dàn quân trận. Khi tới nơi, hạ trại yên ổn, đến
sáng hôm sau quân sĩ ăn cơm từ trống canh năm, rồi sắp sửa chỉnh tề hết cả. Đoạn
rồi Tống Giang, Ngô Dụng và Công Tôn Thắng cưỡi ba con ngựa đóng ra trước cửa
trận, thúc cho khua trống phất cờ xông thẳng vào thành để đánh.
Nói về Tri Phủ Cao Liêm mới khỏi được vết thương, nay bỗng thấy
có quân mã Tống Giang kéo đến, chàng liền mặc giáp khoác bào, sai mở cửa thành,
bỏ đích kiều xuống, dẫn ba trăm thần binh ra thành nghinh địch. Khi tới nơi,
đôi bên mở cờ dóng trống, dàn thành trận thế, rồi bên kia Tống Giang đứng trước
mặt trận, có mười viên tướng cưỡi ngựa đứng hàng ngạng hai bên. Bên tả có năm
tướng là Hoa Vinh, Tần Minh, Chu Đồng, Âu Bằng, và Lã Phương; Bên hữu năm tướng
là Lâm Xung, Tôn Lập, Đặng Phi, Mã Lân, và Quách Thịnh. Khoảng giữa ba viên chủ
tướng là Tống Giang, Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng đều thắng ngựa đứng nom sang
trận Cao Liêm.
Bấy giờ Cao Liêm thét bảo Tống Giang rằng:
- Bây là quân giặc cỏ, ở trong xó rừng vũng nước, nay đã định
đánh nhau phải quyết được thua mới được, nếu kinh sợ bỏ chạy, thì không phải là
hảo hán.
Tống Giang nghe nói, liền hỏi:
- Ai chém thằng giặc kia cho ta?
Nói vừa dứt lời, thì Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh múa thương phóng
ngựa xông thẳng ra ngoài giữa trận.
Cao Liêm thấy vậy, quát lên rằng:
- Ai bắt thằng giặc kia cho ta?
Vừa nói xong, thì trong đám quan Thống Chế có một viên Thượng
tướng, là Tiết Nguyên Huy múa song đao, vỗ ngựa ra đánh với Hoa Vinh, hai bên
đánh nhau vừa được vài hiệp, Hoa Vinh liền quay ngựa chạy về bản trận, Tiết
Nguyên Huy cũng múa đao phóng ngựa hết sức đuổi theo. Khi đuổi gần tới nơi, Hoa
Vinh kìm cương ngựa lại, rồi dương cung đặt tên quay nhằm Nguyên Huy bắn một
phát ngã xuống ngựa. Hai bên quân lính đều hò reo ầm ĩ cả lên.
Cao Liêm thấy vậy cả giận, liền cầm miếng bài đồng ra tay, lấy
kiếm gõ luôn ba tiếng, rồi thấy giữa trận thần binh có trận ác phong tung động
cát vàng làm cho trời thảm đất sâu, ai ai cũng kinh sợ. Đoạn rồi thấy tiếng reo
hò nôn náo, có một toán sài lang hổ báo, cùng các thù trùng độc thú dữ, ở trong
đám cát vàng hiện ra.
Bên kia Công Tôn Thắng thấy vậy, liền cầm thanh kiếm Tùng Văn
Cổ Định trỏ sang quân Cao Liêm, trong miệng lẩm nhẩm sẽ đọc mấy lời, rồi quát một
tiếng "Mau". Bấy giờ thấy một đạo kim quang bắn xói sang bên Cao
Liêm, làm các thú dữ đều phơi phới xuống mặt đất cả. Quân lính cúi xuống nom,
thì đám trùng độc thú dữ toàn thị bằng giấy trắng cắt ra, bay là xuống đất, thì
cát vàng cũng nằm im không tung lên được nữa.
Tống Giang thấy vậy, cầm roi vẫy gọi tam quân, rồi nhân mã
cùng ùa sang đánh giết trong trận Cao Liêm, quân mã Cao Liêm kinh sợ tán loạn,
thiệt hại rất nhiều, Cao Liêm bèn kéo thần binh chạy thẳng vào thành để giữ.
Quân Tống Giang đuổi đến gần thành, thấy đích kiều đã cất lên, cửa thành đã
đóng, trên mặt thành đá gỗ ném xuống như mưa, liền gõ chiêng thu quân trở về
đóng trại.
Khi điểm quân mã đều được đại thắng. Tống Giang bèn vào
trương, ta ân đức Công Tôn Thắng, và khao thưởng khắp mặt tam quân.
Ngày hôm sau lại chia quân làm bốn mặt quanh thành, Công Tôn
Thắng nói với Tống Giang, Ngô Dụng rằng:
- Hôm trước tuy đánh được quân Cao Liêm, song còn ba trăm thần
binh chạy cả vào thành, vả chăng ngày nay phải thừa thế mà ra đây cướp trại. Vậy
chiều nay ta nên thu quân làm một, đợi đến chiều tối sẽ cho nấp cả các nơi bỏ mặc
trại không, cho chúng vào cướp, và truyền lệnh cho các quân sĩ cứ nghe tiếng sấm
hiệu, và trông ngọn lửa ở trong trại bốc lên, là phải hết sức đổ ra đánh giết mới
được.
Tống Giang nghe lời truyền lệnh cho ba quân, tiến lên đánh
thành rồi chiều đến kéo cả vềtrại. Chiều hôm đó trong trại mở cờ nổi trống, chè
chén với nhau, mãi đến chiều tối mới đặt ngũ để ra nấp các nơi. Khi mai phục đã
yên tịnh đâu vào đó rồi. Tống Giang, Ngô Dụng, Quách Thịnh, đều kéo nhau lên chỗ
gò cao để đợi.
Đêm hôm đó Cao Liêm điểm ba trăm thần binh, mỗi người lưng
đeo ống sắt, trong đựng các thức lưu hoàng cùng diêm sinh, và một người đều cầm
dao trượng gậy móc, miệng ngậm còi, đợi đến canh hai mở cửa thành, kéo quân ra
cướp trại. Bấy giờ Cao Liêm dẫn thần binh đi trước, sau lưng có ba mươi tên
quân kị đuổi theo, cùng nhau thẳng kéo tới trại Tống Giang.
Khi gần tới trại, Cao Liêm ngồi trên mình ngựa làm phép yêu
quái, phút chốc đã thấy trời đất đen sì, một trận cuồng phong đổ lá rung cây
đưa đến, đoạn rồi ba trăm thần binh thắp lửa vào ống sắt thổi còi làm hiệu,
xông xáo kéo vào trong trại.
Bên kia Công Tôn Thắng ngồi trên gò cao trông thấy, liền lễ
kiếm làm phép, rồi thấy trông giữa trại không bỗng dưng nổi một tiếng sấm rất
to, ba trăm thần binh nghe vậy, vừa toan quay gót lui ra, bỗng thấy trong trại
lửa đỏ rực trời, rồi bốn mặt quân phục đổ ra vây chặt trong trại không còn lối
nào mà chạy thoát.
Bấy giờ ba trăm thần binh, đều bị quân mã Tống Giang giết hết,
không sót một người, Cao Liêm liền dẫn ba mươi quân kị chạy trốn về thành.
Vừa chạy được mấy bước, đã thấy Báo Tử Đầu Lâm Xung, dẫn một
toán quân mã đuổi sát rạt đằng sau, Cao Liêm vội vàng gọi mở cửa thành, bỏ đích
kiều xuống, dẫn được tám chín quân kị, chạy thoát vào thành. Còn mấy mươi tên nữa,
đều bị Lâm Xung bắt sống được cả.
Cao Liêm vào trong thành, liền đốc thúc dân chúng để coi giữ
trong thành, rất là cẩn thận.
Ngày hôm sau Tống Giang lại đến vây đánh thành rất dữ. Cao
Liêm nghĩ thầm rằng: "Bấy lâu học được pháp thuật, vẫn tưởng hơn đứt người,
ai ngờ ngày nay, lại còn có kẻ cao hơn nữa, như thế thì còn biết tính làm sao?
Nay bất nhược phải mau mau viết thư sang hạt Đông Xương và hạt Khấu Châu để cầu
cứu mới được. Hai hạt đó gần đây, vả chăng hai ông Tri Phủ đó, đều là môn đệ của
Ca Ca ta, thì tất nhiên họ phải đến cứu không sai... " Nghĩ đoạn viết hai
phong thư, sai hai quan Thống Chế mở cửa thành bên Tây, để cướp đường đi cầu cứu.
Bên kia các tướng của Tống Giang thấy người trong thành đi
ra, đã toan đuổi theo để bắt.
Ngô Dụng gạt đi mà rằng:
- Mặc cho họ đi, ta sẽ dùng mẹo mà bắt mới thú.
Tống Giang hỏi:
- Quân sư định làm thế nào?
Ngô Dụng nói:
- Hiện nay trong thành tất là binh nguy tướng ít, nên mới sai
người ra đi cầu cứu. Vậy ta giả làm hai đội quân mã đến ứng cứu, rồi đánh nhau
lộn bậy ở ngoài, để cho hắn mở cửa thành ra tiếp ứng, Bấy giờø thừa thế đánh
tràn vào đí, thì thế nào cũng bắt được Cao Liêm.
Tống Giang nghe cả mừng, liền sai Đới Tung về Lương Sơn Bạc lấy
hai toán quân mã, chia làm hai đường để đến đánh Cao Đường.
Về phần Cao Liêm sau khi sai người đi cầu cứu viện, đêm đêm
thường đốt lửa sáng rực trong thành để làm hiệu, đợi viện binh kéo đến. Cách mấy
hôm trời, đám quân lính canh thành, bỗng thấy quân mã Tống Giang tự nhiêu rối
loạn xôn xao, bèn vội vàng báo cho Cao Liêm biết.
Cao Liêm nghe báo, lập tức đóng áo mũ lên mặt thành để xem. Bấy
giờ có hai toán quân mã xung đột tung hoành, bụi mù rợp đất, đánh giết luôn
tay. Làm cho bọn giặc vây thành, đều bỏ tan mà chạy cả.
Cao Liêm thấy vậy, biết là viện quân đã đến, bèn điểm hết
nhân mã trong thành, mở tung hết cả cửa thành, chia làm bốn mặt mà ùa ạt đánh
ra.
Khi ra tới ngoài thành, Cao Liêm xông xáo đánh trận Tống
Giang. Tống Giang, Hoa Vinh, Tần Minh cưỡi ba con ngựa, theo lối đường nhỏ mà
chạy; Cao Liêm thúc quân mã đuổi riết để bắt. Đương khi đó có pháo nổ liên
thanh, Cao Liêm lấy làm nghi sợ, bèn thu quân toan chạy trở về.
Bỗng đâu hai bên đường nổi tiếng thanh la ầm ĩ, rồi bên tả có
Tiểu Oân Hầu, bên hữu có Kiễn Nhân Quý, đều dẫn năm trăm nhân mã xông ra, Cao
Liêm cướp đường cố chạy, quân mã bị thiệt hại tới quá nửa. Khi chạy thoát được
vòng trận về cổng thành, ngẩng lên trông thành đã thấy toàn thị hiệu cờ của
Lương Sơn Bạc cả.
Cao Liêm kinh hoàng liếc mắt trông quanh không thấy có toán
viện quân đâu nữa, chàng bất đắc dĩ phải dẫn đám quân, tìm đường lối hẻm trong
núi mà chạy.
Chạy được mươi dặm đường, chợt thấy có một toán quân sĩ ở
trong núi kéo ra; rồi thấy Bệnh Uùy Trì ngăn cản giữa đường mà quát lên rằng:
- Chúng ta đợi đây đã lâu, muốn sống xuống ngựa đi thôi.
Cao Liêm thấy vậy, lại dẫn quân quay lại, bỗng lại thấy Mỹ
Nhiêm Công dẫn một toán quân sĩ chắn ngang lấp đường, rồi hai bên cùng xông vào
để đánh. Cao Liêm thấy đường đi lối lại, đều mắc nghẽn cả, bèn bỏ ngựa xuống bộ,
rồi lần lên núi để trốn. Bọn kia lại xông lên núi đuổi theo. Cao Liêm vội niệm
mấy câu thần chú trong miệng, rồi quát lên một tiếng "Lên", rồi cưỡi
lên một đám mây đen phất phơ trên đỉnh núi.
Khi đó Công Tôn Thắng đứng bên sườn núi thấy vậy, bèn ngồi
trên mình ngựa, cầm thanh kiếm làm phép, quát lên một tiếng "Mau" rồi
trỏ thanh kiếm lên, thì thấy Cao Liêm ở giữa đám mây, rơi tung ngay xuống trước
mặt Lôi Hoành, Lôi Hoành tiện tay chém một đao đứt làm đôi đoạn, rồi xách thủ cấp
xuống núi.
Tống Giang nghe nói giết được Cao Liêm, bèn thu quân kéo vào
trong thành Cao Đường, trước hết hạ lệnh, không cho xâm phạm dân gian, và yết bảng
cho dân được yên việc làm ăn, đoạn rồi đến nhà lao để cứu Sài Đại Quan Nhân.
Bấy giờ Tiết Cấp cùng các lính ngục đều chạy trốn mọi nơi,
duy còn bốn năm mươi tên tù còn sót lại. Tống Giang lại sai tháo gông mà tha
cho tất cả mọi người, mà không thấy Sài Tiến ở đấy. Tống Giang cho tìm khắp mọi
nơi. Sau thấy có vợ con Sài Hoàng Thành, cùng vợ con Sài Tiến đều bị giam vào
hai phòng riêng, mà Sài Tiến lại không thấy, nên trong lòng buồn bã vô cùng.
Quân sư Ngô Dụng cho đòi tất cả các người làm việc ở châu Cao
Đường đến để hỏi. Sau có một người Tiết Cấp tên là Lạn Nhân nói rằng:
- Bữa trước Tri Phủ Cao Liêm, bắt chúng tôi phải giam giữ rất
là cẩn thận, và có dặn chúng tôi, nếu lỡ có xảy ra sự gì, thì cứ đem giết ngay
Sài Tiến đi trước. Cách đây ba hôm Phủ lại thúc đem Sài Tiến ra để hành hình,
chúng tôi thấy người đó ra vẻ tuấn tú khôi ngô, nên người chí khí, mới không nỡ
ra tay, mà nói dối là Sài Tiến đã ốm gần chết đến nơi không cần phải giết. Sau
Tri Phủ thúc giục luôn, tôi đã phải nói dối là Sài Tiến chết rồi...Đoạn rồi trong
mấy hôm đánh nhau bận rộn, nên Tri Phủ cũng không hỏi gì đến nữa. Sau lại sợ
người bới vẽ đến tai Tri Phủ, nên hôm qua tôi đem Sài Tiến ra chỗ giếng khô ở
phía sau, tháo gông cho nấp xuống đó. Nay không biết có còn hay không.
Tống Giang nghe nói, vội bảo Lạn Nhan dẫn ra đi xem. Khi tới
nơi, nom xuống dưới giếng, thấy tối đen mịt mù, không biết sâu nông thế nào,
cho người đứng trên kêu gọi, thì thấy dưới giếng im phắc như tờ, không có ai trả
lời cả. Sau thòng dây xuống để đo, mới biết giếng sâu có tới chín trựợng.
Tống Giang thấy vậy, rân rấn hai hàng nước mắt mà nói rằng:
- Nếu vậy thì Sài Đại Quan Nhân nguy mất rồi.
Ngô Dụng nói:
- Xin Chủ Tướng thư tâm, để cho người xuống đó dò xét xem
sao?
Ngô Dụng vừa nói dứt lời, thì Hắc Toàn Phong Lý Quỳ chạy đến
mà kêu lên rằng:
- Để tôi xuống cho.
Tống Giang nói:
- Được lắm! Chính ngươi làm hại Sài Đại Quan Nhân khi trước,
nay ngươi nên xuống cứu mới phải.
Lý Quỳ cười nói rằng:
- Tôi xuống đó cũng không sợ gì, nhưng ở trên này đừng cắt dây
mới được.
Ngô Dụng nói:
- Sao anh láu thế? Ai đã phản anh mà sợ?
Nói đoạn sai người lấy thừng lớn, buộc hai bên cạnh nối đầu
thừng rất dài, đặt một cây tre trên miệng giếng, rồi quăng dây thừng lên đó. Đoạn
rồi Lý Quỳ cởi trần trùng trục, tay cầm song phủ ngồi vào trong thúng, buộc hai
cái chuông bên cạnh thúng, rồi người đứng trên dong dây cho Lý Quỳ xuống giếng.
Khi xuống tới đáy giếng, Lý Quỳ ra lần mò sờ soạng, bất đồ vớ
phải đống xương, Lý Quỳ kêu một mình lên rằng:
- Ối cha mẹ! Cái quái gì mà gớm ghê như vậy?
Chàng lại sờ quanh sờ quẩn, thấy giữa lòng giếng, đầy những
bùn lầy không sao bước chân xuống được, Lý Quỳ để đôisong phủ vào thúng, rồi với
đôi tay ra giếng để lần xem.
Chàng lần mãi, sau thấy một người nằm cuộn tròn to cũng nước,
Lý Quỳ lại kêu lên rằng:
- Sài Đại Quan Nhân...
Kêu dứt lời, thì thấy người kia trả lời, chàng liền giơ tay
vào mũi để xem, thì thấy vẫn còn thoi thóp thở.
Chàng thấy vậy, nói lẩm bẩm một mình:
- Lạy trời đất cứ thế này thì còn có cơ cứu sống lại đây.
Nói đoạn lại nhảy vào trong thúng lắc chuông ra hiệu cho ở
trên biết. Trên kia nghe thấy chuông hiệu, vội vàng cố kéo thúng lên. Khi lên tới
nơi, chỉ thấy một mình Lý Quỳ, Tống Giang lấy làm kinh ngạc mà hỏi. Lý Quỳ rõ mọi
sự ở dưới giếng, cho Tống Giang nghe.
Tống Giang nói:
- Nếu vậy, thì người lại phải xuống đó, đặt Sài Đại Quan Nhân
vào thúng, để kéo lên trước, rồi sẽ thông thúng xuống kéo người lên sau.
Lý Quỳ nói:
- Thôi, Ca Ca không biết...Tôi đi Kế Châu đã gặp hai lần rất
nguy hiểm, nay chả lẽ lại chịu lần nguy hiểm thứ ba nữa!
Tống Giang cười rằng:
- Có lẽ ta lại đùa ngươi hay sao? Ngươi cứ xuống đi mới được.
Lý Quỳ vâng lời, lại ngồi vào thúng, rồi trên này dòng dây
cho xuống giếng. Lý Quỳ ẵm Sài Tiến bỏ vào trong thúng, lắc chuông ra hiệu cho
kéo lên. Chúng kéo được Sài Tiến lên tới nơi, ai nấy đều mừng rỡ vô cùng, khi
trông thấy Sài Tiến bị đầu trán sứt sẹo, hai bên đùi nát nhừ da thịt, hai con mắt
chỉ lim dim không mở ra được, thì mọi người lại thảm thiết xót thương, sai người
đi mời thầy về chữa ngay lập tức.
Bấy giờ Lý Quỳ ở dưới giếng, đợi lâu không thấy thòng thúng
xuống, chàng lấy làm sốt ruột, kêu la ầm ĩ cả lên, Tống Giang nghe tiếng, bảo
dòng mau dây xuống để đón Lý Quỳ.
Lý Quỳ lên tới nơi phát bẳn mà rằng:
- Các ông như thế không tốt, sao không thòng dây xuống ngay
là nghĩa lý gì?
Tống Giang nói:
- Vì mải trông Sài Đại Quan Nhân, nên quên khuấy đi mất...Thôi,
nhà ngươi bằng lòng vậy.
Nói đoạn sai người vực Sài Tiến lên nằm trên xe, rồi đoạn vợ
con Sài Tiến cùng vợ Sài Hoàng Thành, cùng các đồ gia tài xếp hơn hai mươi cỗ
xe, sai Lý Quỳ, Lôi Hoành hộ tống đem về sơn trại.
Đoạn rồi bắt cả nhà Cao Liêm hơn ba mươi người, đều chém đầu
ra lệnh, mà thưởng cho tên Lạn Nhân, Lại truyền lấy của trong kho, cùng tài sản
của nhà Cao Liêm, xếp cả lên xe, rồi đông mặt trảm quan, kéo cờ đắc thắng trở về
Lương Sơn Bạc.Khi đi qua các châu quận, không hề động lấy tơ hào của dân, ai ai
cũng lấy làm kính phục.
Tiều Cái cho mời Sài Tiến lên nghỉ ở chỗ Tống Công Minh trên
núi, và sai làm một dinh cơ khác, cho gia quyến Sài Tiến ở. Bấy giờ sơn trại lại
thêm có Sài Tiến cùng Thang Long, thì ai nấy đều vui vẻ, liền đặt tiệc ăn mừng,
rất là thỏa thích.
Nói về phủ Đông Xương cùng phủ Khấu Châu, biết tin Cao Đường
đã mất, cả nhà Cao Liêm bị chết hết, bèn cùng nhau thảo sớ, lập tức về triều
đình. Sau các quan chức ở Cao Đường cùng chạy thốc về kinh, để tâu báo cho triều
đình biết.
Cao Thái Úy biết tin anh em là Cao Liêm bị giết, lấy làm căm
tức trong lòng, liền hăm hở vào triều để tâu cùng Thiên Tử.
Sáng hôm sau đó, khi lầu Cảnh Dương chuông động,các quan văn
võ đều chỉnh tề triều phục, bước vào đan trì để chầu Thiên Tử.
Được một lát, Thiên Tử ngự ngôi chính diện, có quan Điện Đầu
tuyên bố rằng:
- Các quan có việc gì cần vào tâu, bằng không xin để tan chầu.
Vừa dứt tiếng, thì thấy Cao Cầu ra quỳ trước ban tâu rằng:
- Nay có bọn giặc ở Lương Sơn Bạc, thuộc phủ Tế Châu, mấy tên
đầu đảng là Tiều Cái, Tống Giang, xưa nay tụ họp đại gian đại ác, chỉ chuyên
nghề cướp hại lương dân, đánh phá phủ, huyện, càn dở buông dông, không biết tới
đâu mà kể. Năm trước đã đánh giết quan quân ở phủ Tế Châu, đánh phá thành Giang
Châu, cùng thành Vô Vị rất là tàn ác. Nay lại đánh châu Cao Đường giết hại quan
dân, cướp lấy kho tàng, làm cho trăm họ phải chịu lầm than, đó à một cái vạ lớn
của nhà nước hiện nay, nếu không sớm liệu trừ ngay, mai sau tất là khó trị. Vậy
xin thánh thượng xét cho.
Vua nghe tâu cả kinh, bèn truyền chỉ cho Cao Thái Úy lập tức
điều binh khiển tướng trừ bọn giặc Lương Sơn.
Cao Cầu lại tâu rằng:
- Đám đó tuy vậy, cũng là một bọn giặc cỏ, bất tất phải lấy đại
quân cho phí tổn quốc gia. Nay tôi xin cắt một người này, có thể khu trừ ngay
được.
Vua nói:
- Khanh định cắt người nào ra đó, xin cứ truyền lệnh cho đi,
sau đây đánh giặc có công, ta sẽ gia phong tước thưởng.
Cao Thái Úy tâu rằng:
- Người này là con cháu một vị danh thần khai quốc. Hô Duyên
Tán ở Hà Đông, tên là Hô Duyên Chước, khiến hai cậy roi đồng, sức khỏe muôn người
không kịp, hiện làm Đô Thống Chế ở quận Nhữ Vinh, trong tay sẵn có quân tinh tướng
giỏi, có thể đánh nổi được giặc Lương Sơn. Nay xin phong người đó làm Binh Mã
Chỉ Huy Sứ, lãnh các quân mã bộ, lập tức ra đó chinh tiễu, thì thế nào cũng được
thành công.
Vua nghe nói lấy làm vui mừng, bèn giao cho Viện Cơ Mật, sai
Sứ thần vâng mang sắc chỉ lập tức ra đất Nhữ Nam mời Hô Duyên Chước về kinh phụng
mạng.
Khi Sứ thần đi đến Nhữ Nam, Hô Duyên Chước cùng các quan
trong thành ra nghinh đón thánh chỉ, đem về tuyên đọc, rồi tiếp đãi Sứ thần rất
là trân trọng. Đoạn rồi lập tức thu thập các đồ mũ mãng đai giáp cung tên gươm
ngựa, và dẫn ba bốn mươi tên thủ hạ, gấp đường về chốn kinh sư.
Cách mấy hôm về đến kinh sư, Hô Duyên Chước đến điện Tư Phủ để
chào Cao Thái Úy. Hôm đó Cao Cầu đương ngồi trên súy phủ, nghe báo Hô Duyên Chước
đã về, thì trong bụng lấy làm vui mừng hớn hở, lập tức cho mời vào nói chuyện.
Khi Hô Duyên Chước vào tới nơi Cao Thái Úy đem lời uyển ủy hỏi thăm, rồi đem
các đồ thưởng tứ ra cho, rồi sáng sớm hôm sau mới dẫn vào chầu Thiên Tử.
Thiên Tử trông thấy Hô Duyên Chước tướng mạo đường đường, ra
dáng một tay dũng lược, thì trong bụng rất vui mừng hớn hở, liền ban cho một con
ngựa Tích Tuyết Ô Truy, ngày đi ngàn dặm, là một giống ngựa hiếm có xưa nay.
Hôm đó Hô Duyên Chước vâng lời tạ ơn vua, rồi theo Cao Thái
Úy trở về súy phủ, để bàn việc khởi binh, Hô Duyên Chước nói với Cao rằng:
- Dám bẩm ân tướng, tôi xem bọn Lương Sơn Bạc, binh nhiều tướng
giỏi, ngựa mạnh lương nhiều, không thể vội khinh ngay được. Vậy tôi xin tiến cử
hai tướng làm Tiên Phong, để cùng đi ra đó, thì mới có thể khu trừ được giặc,
chẳng hay ân tướng nghĩ sao?
Cao Thái Úy gật đầu khen phải, liền ân cần hỏi Hô Duyên Chước
xem định tiến cử những ai?
Mới hay:
Một phen huyết chiến dậy trời,
Giết quân tàn bạo, cứu người oan khiên,
Xưa nay tài trí lương liên,
Mà cân họa phúc hoàng thiên cũng già.
Ấy ai gậy cuộc phong ba,
Hao binh tốn tướng dễ mà ích chi?
Con thuyền ngang dọc Liêu Nhi?
Giang san này biết nặng vì ai đây?
Sau khi mời được Công Tôn Thắng, ba người cùng về, phải rồi.
Đới Tung lại bỗng đâu về trước, để làm cho Lý Quỳ có chuyện mua bánh táo chay,
Lý Quỳ mua bánh táo chay, để mà nảy ra biết được Thang Long, Lý Quỳ kết thức được
Thang Long, để mà sau này có chuyện chế tạo ra câu liêm đánh giặc. Ôi! Chế ra
câu liêm để phá trận Liềm Hoàn Mã, trận Liêm Hoàn Mã tới đây, chính để báo thù
cho Cao Liêm vậy. Vì Cao Liêm chết do tay Công Tôn Thắng, nay Công Tôn Thắng
chưa tới, thì Cao Liêm chưa chết. Cao Liêm chưa chết, thì Cao Cầu cũng chưa gọi
Hô Duyên Chước, Cao Cầu chẳng gọi Hô Duyên Chước, thì không có trận Liên Hoàn
Mã, nếu không xẩy ra trận Liền Hoàn Mã, tất không cần đến Thang Long vậy. Nay
Lý Quỳ mới dự kết thức, vì kết thức, ở chỗ mua bánh táo, vì mua bánh táo, cho
nên Đới Tung dự đi lòng văn luẩn quẩn đến như thế, khiến qủy thần không thể lường
ra.
Tả Công Tôn Thắng thần công đạo pháp, chỉ ít nhiều bút mực tả
ra, chẳng phải dùng sức phô trương chỉ có cách hơn người một bực.
Tả Công Tôn phá Cao Liêm, Cao Liêm nếu một trận mà thua, thì
đâu có nổi bậc tài của Công Tôn Thắng? Mới phải dùng đến hai phen mấy ngày, lại
giở nốt tài của Cao Liêm, theo đuổi lần trước cướp trại với một thế ấy để lần
sau lạicp trị bất ngờ, nhân đó mà quét sạch đi, chẳng coi là thường, chẳng lấy
làm trọng, càng thấy rất phải.
Lần trước cướp trại do thừa thắng, lần sau cướp trại lại nhân
bại trước sau cướp trại hai lần, lấy đó phân biệt, thế thì thực ra tác giả tả lần
cướp trại sau, để che lấp dấu bút vết mực trước, như trên bàn đã rõ ra. Hồi này
chỉ chép lớn ra chiến công của Lâm Xung, chính vì nghĩa xóa sạch công án với
thù họ Cao, chẳng phải bút mực phải tả vậy. Thái Sử Công nói rằng: Gây oán độc
với người tệ hại thay! Chẳng là phải ư?
Lý Quỳ là người thô mãng, tuy hết sức tả ra, nhưng không tả nổi,
hồi này cốt chép Lý Quỳ thô mãng, lật lại con người gian hoạt, khiến cho đời thấy
chất phát càng thấy không ngoan, mới thực chuyện kỳ.
Cổ thi nói rằng: Nước giếng đâu biết gió trời, ý non nước dưới
giếng sâu, gió không động tới, thế mà hảo hán ngọn Toàn Phong (Gió Lốc) đề sa
vào dưới đáy giếng khô ở đất Cao Đường, câu ngụ ngôn với ý bấy giờ có ác Cao
Giang nhiễu loạn, không còn để sót chút nào?
Cuối hồi miêu tả vua cho ngựa Tích Tuyết Ô Truy chỉ ba bốn
câu, mà chú trọng đến đọc thành một thiên tuyệt diệu về bài phú ngựa.
Hồi 54:
Cao Thái Úy huy động quân Ba Lộ
Hô Duyên Chước dàn trận ngựa Liên Hoàn
Bấy giờ Cao Thái Úy hỏi Hô Duyên Chước, định cử ai làm tướng
Tiên Phong?
Hô Duyên Chước bẩm rằng:
- Chúng tôi xin cử một người làm chánh Tiên Phong là họ Hàn
tên Thao, nguyên người quán Đông Kinh, hiện làm Đoàn Luyện Sứ ởû Trần Châu, vốn
là tay võ cử xuất thân, khiến một thanh gươm trường rất giỏi, người ta thường gọi
là Bách Thắng Tướng Quân; Cò một người Phó Tiên Phong, tên là Bành Dĩ, con cháu
của tướng ở đất Đông Kinh, hiện làm Đoàn Luyện Sứ ở Dĩnh Châu, khiến khẩu đao
hai lưỡi hai mũi, võ nghệ hơn người, ai ai cũng gọi là Thiên Mục Tướng Quân.
Cao Thái Úy nghe nói cả mừng mà rằng:
- Nếu được hai tướng đo, ù ra đứng Tiên Phong, thì làm gì mà
không dẹp yên được giặc?
Nói đoạn liền cho thảo hai bức công văn, Ủy Viện Khu Mật, sai
người đến Trần Châu, và Dĩnh Châu lập tức, triệu Hàn Thao và Bành Dĩ về kinh
thính dụng.
Cách dặm bảy hôm, hai tướng về đến Soái Phủ; liền vào bái yết
Cao Thái Úy, ngày hôm sau Cao Thái Úy đen các hàng quân ra đến giáo trường để
diễn võ.
Khi diễn võ xong Cao Thái Úy hỏi các chư tướng rằng:
- Hiện nay ba đạo quân có được bao nhiêu?
Hô Duyên Chước đáp rằng:
- Trong ba đạo có năm nghìn quân mã, và một vạn quân bộ.
Cao Thái Úy nói:
- Nếu vậy các tướng phải lập tức trở về bản Châu, chọn lấy ba
nghìn mã quân, và năm nghìn bộ quân, mà cùng nhau tiến đánh Lương Sơn mới được.
Hô Duyên Chước nói:
- Binh mã ba đạo hiện đã luyện tập tinh thông, chủ Súy không
cần lo đến, duy các đồ giáp trượng thì còn thiếu thốn nhiều, e khi khó lòng mà
khởi binh ngay được.
- Nếu thế ta cho phép vào kho giáp trượng ở đây, chọn đủ các
thứ để dùng cho quân sĩ, cốt sao nghiên bị chỉnh tề, rồi khi khởi binh, ta sẽ
cho người ra điểm lại.
Hô Duyên Chước vâng lệnh, dem người vào kho giáp trượng, chọn
được ba nghìn thiết giáp, năm nghìn áo giáp ngựa bằng da, hai nghìn gươm trường,
một nghìn đao lớn, các thứ cung tên cùng năm trăm khẩu hỏa bác thiết bác, xếp đặt
trên xe, để mang về ứng dụng. Cao Thái Úy giao cho ba nghìn ngựa trận, thưởng
kim ngân cho ba tướng, và khao thưởng tam quân. Rồi Hô Duyên Chước cùng Hàn
Thao, Bành Dĩ làm giấy cam đoan với Cao Thái Úy, mà từ biệt ra đi.
Khi về tới châu Nhữ Ninh, Hô Duyên Chước sai Hàn Thao, Bành
Dĩ, đem hết binh mã ở Trần Châu, Dĩnh Châu đến cùng hội họp. Trong nửa tháng trời,
ba đạo quân tề tựu nghiêm chỉnh. Hô Duyên Chước liền đem các đồ gươm giáo cung
ngựa trao cho ba quân mà dự bị đợi ngày ra trận.
Bấy giờ Cao Thái Úy sai hai viên tướng trong điện Súy Phủ, ra
điểm lại hẳn hoi, rồi khao thưởng ba quân mà chia làm ba đạo tiến đánh. Hô
Duyên Chước đi đạo trung quân, ở giữa, rồi Bành Dĩ thôi thúc đạo quân đi sau.
Khi ra khỏi cửa thành, ba quân cờ mở trống gióng, uy thế ầm ầm như vỡ trời long
đất, mà cùng nhau keo đến Lương Sơn.
Bên kia Tiều Cái, Tống Giang nghe báo quan quân kéo đến, bèn
tụ họp quân sư Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Sài Tiến, cùng các vị Đầu Lĩnh, để bàn
định cơ cự địch.
Ngô Dụng nói:
- Hô Duyên Chước là con cháu quan Khai Quốc Công Thần Hô
Duyên Tán, võ nghệ cao cường, khiến hai cây roi đồng rất giỏi, khó ai bén mảng
đến gần. Vậy tất phải tay nào can trường giỏi giang mới được, trước hết lấy sức
đối địch, rồi sau dùng mẹo thi hành mới có thể bắt được.
Vừa nói dứt lời, thì Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ứng lên rằng:
- Tôi xin đi bắt thằng ấy mới được...
Tống Giang gạt đi mà rằng:
- Ngươi đi không được...việc này phải nhờ Tích Lịch Hỏa Tần
Minh đi đánh trận đầu; Báo Tử Đầu Lâm Xung, đi đánh trận thứ nhì; Tiểu Lý Quảng
Hoa Vinh đánh trận thứ ba; Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương, đánh trận thứ tư; Bệnh
Úy Trì Tôn Lập, đánh trận thứ năm. Năm đội lần lượt đánh, rồi ta sẽ dẫn mười
anh em và đại đôi nhân mã mà áp sau...Đám hậu quân thì bên tả năm tướng là Chu
Đồng, Lôi Hoành, Mục Hoằng, Hoàng Tín, Lã Phương; bên hữu năm tướng là Dương
Hùng, Thạch Tú, Âu Bằng, Mã Lân, Quách Thịnh; đường thủy thì Lý Ứng, Trương
Hoành, Trương Thuận, và ba anh em họ Nguyễn đem thuyền ra tiếp ứng. Còn Lý Quỳ
với Dương Lâm đem quân ra mai phục hai bên đường để đợi khi ứng viện.
Tống Giang cắt đặt chỉnh tề rồi tiền quân là Tần Minh dẫn
quân mã xuống núi rồi tìm nơi nội rộng mà dàn thành thế trận. Bấy giờ đương dạo
mùa đông, song khí trời ấm áp dễ chịu, Tần Minh đợi đến ngày hôm sau đã thấy
Tiên Phong bên kia là Bách Thắng Tướng Quân Hàn Thao kéo đến.
Sáng hôm sau, hai bên ra đối trận. Ba hồi trống gióng vừa
xong, thì hai tướng cùng cởi ngựa xông ra cửa trận, cùng đứng dưới mặt cờ.
Hàn Thao hoành gươm trên ngựa mà quát mắng Tần Minh rằng:
- Binh trời đến đây, ngươi không xuống ngựa sớm liệu hàng trước
đi, còn toan chống cự được sao ta nay quyết lấp phăng vũng nước, đập tan ngọn
núi Lương Sơn, giết chết đồ phản tặc chúng bay, mà đem nộp về triều đình, băm
thây làm vạn mảnh mới nghe...
Tần Minh vốn là người nóng tính, không nói năng chi, liền vỗ
ngựa múa Lang Nha Côn thẳng xông ra đánh. Hàn Thao cũng múa gươm cự địch với Tần
Minh.Đôi bên dánh nhau được hơn hai mươi hiệp, Hàn Thao không sao địch nổi Tần
Minh, chỉ toàn thừa cơ để chạy.
Vừa khi đó chủ tướng là Hô Duyên Chước kéo đến, thấy Hàn Thao
không đánh nổi Tần Minh, lièn múa song chiên, phóng ngựa Tích Tuyết Ô Truy, xông
ra để đánh giúp.
Tần Minh thấy vậy toan xong lại đánh, thì đội quân thứ hai là
Báo Tử Đầu Lâm Xung dã ra cứu ứng.
Lâm Xung bảo với Tần Minh rằng:
- Thống Chế hãy nghĩ một lát xem tôi đáng đủ ba trăm hiệp rồi
sẽ hay.
Nói đoạn múa Bát Xà Mâu ra đánh Hô Duyên Chước, rồi Tần Minh
lại dẫn quân quanh sườn núi lui vào. Đằng này Lâm Xung với Hô Duyên Chước, đôi
bên địch thủ với nhau, kẻ chiên người thương rối rít như hoa trước gió, đánh
nhau hơn năm mươi hiệp, chưa phân thắng phụ ra sao?
Chợt đâu đội quân thứ ba là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đã đến.
Hoa Vinh đứng trước cửa trại kêu lên rằng:
- Lâm Tướng Quân hãy khoan tay, để tôi bắt sống hắn cho mà
coi.
Lâm Xung nghe nói, liền quay ngựa chạy vào trốn mất, Hô Duyên
Chước thấy Lâm Xung võ nghệ cao cường, thì cũng chạy về bản trận, mà không dám
đuổi. Lâm Xung bèn dẫn quân bản bộ, mà đi quanh vào nẻo đường núi.
Bấy giờ Hoa Vinh vác thương ra trận, thì thấy bên kia tướng hậu
quân là Thiên Mục Tướng Bành Dĩ cũng vừa kéo đến.
Bành Dĩ hoành đao ngồi trên mình ngựa Ngũ Minh Thiên Hoàng
Hoa, xông ra cửa trận quát mắng Hoa Vinh rằng:
- Đồ phản tặc kia có thấm vào đâu? Ngươi quyết đấu được thua
với ta chăng?
Hoa Vinh cả giận không thèm trả lời, liền xông ngựa ra đánh
luôn Bành Dĩ. Đôi bên đánh nhau được hai mươi hiệp, thì Hô Duyên Chước thấy
Bành Dĩ hơi túng thế, bèn vỗ ngựa xông ra địch với Hoa Vinh.
Chợt đâu toán quân thứ tư kéo đến, Nhất Trượng Thanh Hổ Tam
Nương gọi lên rằng:
- Hoa Tướng Quân hãy nghỉ tay, để tôi bắt tên ấy cho...
Hoa Vinh nghe nói, liền vỗ ngựa dẫn quân lui về sườn núi. Bên
kia Bành Dĩ lại xông ra đánh nhau với Nhất Trượng Thanh.
Vừa được một lát thì toán quân thứ năm là Bệnh Úy Trì Tôn Lập
kéo ra, Tôn Lập kìm ngựa trước trận, xem Nhất Trượng Thanh đối địch Bành Dĩ,
đôi bên gươm đao loáng nhoáng, ngựa cuốn bụi trần, đầu xông sát khí đanh nhau
hơn hai mươi hiệp thì Nhất Trượng Thanh quay ngựa chạy vào.
Bành Dĩ thấy vậy, gắn sức bình sinh xông vào đuổi đánh. Nhất
Trượng Thanh đeo đao lên yên ngựa, sờ trong áo lấy ra tấm hồng gấm, trên mặt có
hai mươi bốn lưỡi câu vàng, chờ khi Bành Dĩ đuổi sát đến nơi, liền quay mình nhắm
trúng Bành Dĩ quăng ra một cái, rồi giật Bành Dĩ quay xuống ngựa.
Tôn Lập thấy thế, quát quân sĩ bắt trói Bành Dĩ đem về. Hô
Duyên Chước cả giận, liền vỗ ngựa xông ra đánh cứu. Nhất Trượng Thanh cũng vỗ
ngựa xông ra để địch Hô Duyên Chước. Hô Duyên Chước tức giận Nhất Trượng Thanh
mong sao nuốt sống được thì mới cam tâm.
Hai bên đánh nhau hơn hai mươi hiệp, Hô Duyên Chước sốt ruột
lừa miếng phá đĩnh, lừa cho Nhất Trượng Thanh chém sấn đôi đao vào gần trước bụng
rồi tay hữu chàng giơ roi nhằm vào Nhất Trương Thanh đánh xuống, dè đâu Nhất
Trượng Thanh nhanh mắt trông thấy, liền giơ đao bên phải lên đỡ, làm cho đầu
roi vừa đánh vào lưỡi đao đánh keng một tiếng, bắn loè lửa ra, rồi Nhất Trượng
Thanh quay ngựa chạy vào bản trận.
Hô Duyên Chước thấy vậy vội vàng sấn ngựa đuổi theo. Bên này
Bệnh Úy Trì Tôn Lập xông ra đón đánh, rồi thấy toán hậu quân của Tống Giang
cũng vừa kéo đến ở đàng sau.
Tống Giang dẫn mười vị tướng quân, dàn thành trận thế, để tiếp
ứng đằng sau, còn Nhất Trượng Thanh lại dẫn quân mã quay vào sườn núi. Tống
Giang thấy Nhất Trượng Thanh bắt sống được Bành Dĩ, thì trong lòng lấy làm mừng
vô hạn.
Đằng này Tôn lập đeo gươm lên vai rút đôi cương chuỳ dóng
trúc, ra đánh nhau với Hô Duyên Chước, đôi bên cùng múa song chùy, thế lực tất
là hùng dũng. Một bên Tôn Lập đội mũ sắt đôi sưng giao nhau quấn khăn lụa hồng ở
trán, mình mặc áo bà ba đen, trăm hoa điển vẽ, vai khoác giáp vàng cưỡi ngựa Ô
Truy, khiến đôi cương chiên dóng trúc mắt hổ, trông vẽ ăn đứt Uất Trì Cung. Một
bên Hô Duyên Chước, đầu đội mũ sắt sừng thẳng lên trời, quấn khăn vàng ở trán,
mình mặc áo đen, đốm vẽ thất tinh khoác áo khai giáp, cưỡi con ngựa Tích Tuyết
Ô Truy khiến đôi cương chiên Thủy Bát Mã Lăng, tay tả nặng mười cân, tay hữu nặng
mười ba cân, rõ ra dòng dõi quan Hô Duyên Tán. Hai bên đánh nhau trước trận, kẻ
tiến người lui, kẻ quanh người lại, trước sau tới ba mươi hiệp, chưa phân thắng
thua được ra sao.
Bấy giờ Hàn Thao ở trong đám quân quan, nghe nói bị bắt mất
Bành Dĩ liền thôi thúc hết cả binh mã đội hậu, xông vào đánh trận Tống Giang, Tống
Giang thấy vậy, vội thúc mười vị Đầu Lĩnh dẫn quân xông sang đánh trước. Đoạn rồi
bốn đạo ở đằng sau, cũng chia làm hai đường mà cùng nhau tiến đánh.
Khi đó trong trận Hô Duyên Chước, ngựa đứng liên hoàn, đều mặc
bố giáp, chỉ hở bốn cẳng ra ngoài, người mặc áo ngai giáp, chỉ để hai mắt nom
ra cung tên gươm giáo không thể sao đánh cho trúng được. Còn bên trận Tống
Giang cũng có giáp trụ chỉnh tề, song đò dùng thường mỏng không sao chịu nổi
cung tên của trận bên kia bắn lại, Tống Giang biết thế không đánh phá nổi, đành
phải gõ chiên thu quân lui về. Bên kia Hô Duyên Chước cũng lui quân hơn hai
mươi dặm hạ trại.
Tống Giang kéo quân về hạ trại bên Tây núi, rồi gọi tả hữu
đem Bành Dĩ ra trước trướng Trung Quân. Khi binh sĩ giải Bành Dĩ tới nơi, Tống
Giang vội quát lui tả hữu, rồi thân hành cởi trói cho Bành Dĩ, dắt lên mời ngồi
trong trướng, đoạn rồi Tống Giang cúi lạy Bành Dĩ một cách rất trang trọng.
Bành Dĩ vội đáp lễ mà rằng:
- Chúng tôi bị bắt đến đây, lẽ ra phải chết, cớ sao Tướng
Quân lại còn đãi cho như thế?
Tống Giang nói:
- Lũ chúng tôi hết chốn nương thân, phải nhờ nơi Thủy Bạc tạm
lánh ít lâu...Ngày nay triều đình sai Tướng quân đến đánh, lẽ ra đến trước Quan
Nhân mà cúi đầu chịu tội mới phải, song e khi tính mạng không toàn, mới phản
cùng các ngài mà cả gan chống cự. Nay như thế thực là mạo phạm uy trời, xin
ngài ta tội ấy cho.
Bành Dĩ nói:
- Tôi vẫn nghe tiếng Tướng Quân có lòng trọng nghĩa khinh
tài, phù nguy cứu khổ, ai ngờ đâu ngày nay quả nhiên biết được, như vậy thực
hân hạnh vô cùng. Nếu ngài có lòng dung nạp tôi, thì sẽ hết lòng ra sức để báo
đáp ơn to nghĩa lớn, chẳng hay ngài nghĩ sao?
Tống Giang nghe nói cả mừng, sai người đưa Bành Dĩ lên chào
Tiều Cái Thiên Vương, lưu ở sơn trại, rồi nhất diện khao đãi tam quân, cùng các
vị Đầu Lĩnh bàn định việc quân.
Bên kia Hô Duyên Chước thu quân đóng trại, rồi cùng với Hàn
Thao bàn việc đánh phá Lương Sơn.
Hàn Thao nói:
- Ngày nay ra trận, bên giặc đã tiến quân ra đánh, sao lại vội
vàng lui quân về ngay, vậy ngày mai đem tận số quân mã lên trước, tất là toàn
thắng không sai.
Hô Duyên Chước nói:
- Việc đó ta cũng dự định như thế, vậy ngày mai nên làm ngay
mới được.
Nói đoạn liền hạ lệnh cho ba nghìn quân mã dự làm trăm đội, cứ
ba mươi con kết làm một liên, lấy hoàn (vòng) sắt khoá với nhau, hễ gặp quân giặc
xa dùng cung tên, gần dùng gươm giáo, đều phải hết sức xông vào để đánh. Còn
năm nghìn quân bộ đi sau để tiếp ứng.
Hô Duyên Chước lại dặn Hàn Thao rằng:
- Sáng mai bất tất khiêu chiến làm chi ta cùng Tướng Quân cứ
áp trận đằng sau, hễ thấy quân giặc ra đánh thì cứ chia làm ba mặt xông vào mới
được.
Bàn định đã xong, sáng hôm sau đều sắp sửa chỉnh tề ra trận.
Đằng này Tống Giang chia binh mã làm năm đội tiến trước, còn
hậu quân chỉ có mười tướng đi kềm và hai toán phục binh, nấp ở hai đường tả hữu.
Bấy giờ năm đội quân đi trước, thì có Tần Minh đứng giữa, Lâm Xung, Nhất Trượng
Thanh bên tả, Hoa Vinh, Tôn Lập ở bên hữu, rồi Tống Giang dẫn mười tướng kéo
quân ra đằng sau, người ngựa chập chùng, không khác chi rừng quân núi giáo vậy.
Khi dàn trận chỉnh tề Tần Minh liền ra trận thách đánh với Hô
Duyên Chước, bên trận Hô Duyên Chước có một nghìn bộ binh dàn ở trước mặt, chỉ
khua trống reo hò mà không ai ra đánh với Tần Minh.
Tống Giang đứng sau thấy vậy, lấy làm nghi hoặc, bèn truyền lệnh
cho hậu quân tạm lui, rồi phóng ngựa lên chỗ Hoa Vinh, để nom sang trận bên
kia.Chợt đâu bên trận bên kia có tiếng súng Liên Châu, một nghìn quân bộ ở trước
trận, chia ra hai bên, rồi có ba đạo quân mã liên hoàn xông ra hăng hái. Hai
bên mã quân toàn thị tên bắn ra như mưa, còn khoảng giữa thì gươm giáo sáng
choang một lượt.
Tống Giang thấy vậy cả kinh, vội thúc quân sĩ lấy cung tên bắn
ra để cự địch. Bên kia ba nghìn quân mã cứ phăm phăm nhất tề để cự đến. Năm đạo
quân trước trận. Tống Giang thấy cả sợ, rối loạn cả lên. Đội quân ở phía sau
cũng hoảng kinh chạy trốn, không sao thu giữ lại được. Tống Giang vội vàng quay
ngựa lui lại, rồi mười tên tướng kèm giữ hai bên mà chạy.
Bấy giờ sau lưng đã có một đội quân Mã Liên Hoàn đuổi đến.
May có hai đạo phục binh của Lý Quỳ, Dương Lâm đổ ra cự địch, đánh cứu Tống
Giang chạy thẳng về Bến Nước. Đoạn rồi Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận,
cùng ba anh em họ Nguyễn chở thuyền ra tiếp ứng, Tống Giang vội vàng xuống thuyền
sai chia các ngã cứu các tướng xuống thuyền tất cả.
Trên kia đội quân mã Liên Hoàn đuổi đến Bến Nước, bắn tên rào
rào xuống các thuyền, may các thuyền đều có các lá chắn che thân, nên không thiệt
hại chút nào. Tống Giang thôi thúc đuổi thuyền đến Áp Chủy, rồi kéo lên bộ đóng
quân ở đó. Khi điểm lại binh mã thiệt mất quá nữa, duy các Đầu Lĩnh vẫn còn chu
toàn được cả.
Được một lát thấy Thạch Dũng, Thời Thiên, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu
chạy trốn về sơn trại mà nói rằng:
- Chúng tôi bị đám bộ quân sát đến, phá hết cửa nhà, nếu
không có thuyền ứng cứu, thì khó lòng mà sống sót lên đây được.
Tống Giang nghe nói, lấy lời an ủi mọi người rồi thân hành
xem xét tất cả các tướng sĩ ra trận. Trong đó có sáu người bị tên là Lâm Xung,
Lôi Hoành, Lý Quỳ, Tôn Tân Hoàn Tín, còn đám tiểu lâu la bị thương không biết tới
đâu mà kể. Tiều Cái thấy vậy, liền cùng với Ngô Dụng, Công Tôn Thắng tới nơi
thăm hỏi. Tống Giang ra âu sầu lo nghĩ, không biết lập kế ra sao?
Ngô Dụng khuyên Tống Giang rằng:
- Thắng bại là việc của nhà binh, Ca Ca bất tất phải lo phiền
quá đổi... rồi đây ta sẽ nghĩ cách phá ngựa Liên Hoàn.
Tiều Cái bèn truyền lệnh thủy quân, đóng yên Thủy Trại, đêm
ngày canh phòng cho cẩn thận, đề phòng địch tràn qua, và mời Tống Giang lên núi
để yên nghĩ.
Tống Giang không chịu lên núi, liền hạ trại ở bến Áp Thủy, rồi
cho các tướng bị thương lên núi để dưỡng bệnh.
Sa trường muôn dặm cát bay,
Anh hùng thua được xưa nay chuyện thường,
Ba quân bền giữ gan vàng,
Nước non có hội phong quan ngại gì?
Nói về Hô Duyên Chước thu quân đắc thắng trở về trong trại,
tháo ngựa Liên Hoàn, thưởng công các tướng, tính tất cả giết chết quân rất nhiều,
bắt sống được năm trăm người và hơn ba trăm ngựa chiến. Hô Duyên Chước liền cho
người về báo tiệp ở kinh sư, rồi nhất diện khao thưởng quân ở trại.
Bấy giờ Cao Thái Úy ở kinh sư nghe tin Hô Duyên Chước đánh được
giặc Lương Sơn Bạc, sai người về báo tiệp, thì hớn hở vui mừng đến ngày hôm sau
vào tâu cho Thiên Tử biết.
Thiên Tử nghe tin cả mừng liền lấy mười bình rượu ngự, một áo
cẩm bào, và mười vạn quan tiền, phái một viên Sứ Quan đem ra cho Hô Duyên Chước,
và khao thưởng ba quân. Khi Sứ Giả tới nơi Hô Duyên Chước cùng Hàn Thao ra
ngoài hai mươi dặm đón tiếp vao trong trại, lạy chịu ơn vua, đặt tiệc đãi Sứ Giả,
rồi sai Hàn Thao chia tiền thưởng quân và đem năm trăm người mới bắt đem giam
trong trại, để đợi khi được đầu đảng sẽ giải kinh sư.
Quan Sứ thân hỏi Bành Đoàn Luyện, Hô Duyên Chước liền đáp rằng:
- Bữa trước mới kéo quân đến đây, vì ham bắt Tống Giang, vào
gần đất giặc, nên bị gian đồ bắt mất, nhưng ngày nay chắc là quân giặc không
dám thò ra nữa. Vậy tôi định phân binh để đánh kỳ cho phá hết sơn trại, lấp phẳng
thủy nhai, bắt cả gian tặc, mà phá tan sào huyệt mới nghe. Song còn hiềm một nổi
bốn mặt toàn thị hồ nước, không có đường lên, vậy duy còn có cách dùng súng hỏa
bác mà bắn đánh, thì thể nào cũng có thể phá được. Trước đây tôi nghe ở kinh sư
có một người tên là Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn, chế súng Hỏa Bạc có thể bắn xa tới
mười bốn mười lăm dặm, đạn đá đến đâu, đất lỡ trời long, núi tan đá vỡ đến đó.Vả
chăng người đó võ nghệ tinh thông, cung tên thạo giỏi, nếu được Thiên Sứ về
kinh, nói Quan Thái Úy cho người đó ra đây, thì thế nào cũng có thể phá tan
quân giặc ngay.
Thiên Sứ nghe nói vâng lời, rồi sáng hôm sau bái biệt trở về
kinh sư, Thiên Sứ vào chào Cao Thái Úy, đem lời của Hô Duyên Chước thuật lại
cho Cao Thái Úy nghe. Cao Thái Úy cả mừng, lập tức cho đòi quan phó sứ kho Giáp
Trượng là Lăng Chấn đến.
Nguyên Lăng Chấn, người ở Lăng Yên, là một tay võ nghệ cao cường,
làm nghề chế súng rất giỏi ở triều nhà Tống, nên vẫn gọi là Oanh Thiên Lôi xưa
nay. Bấy giờ Oanh Thiên Lôi đến bái kiến Cao Thái Úy, Thái Úy cấp văn bằng trao
cho làm chức Thống Lĩnh Hành Quân, truyền lệnh sắp sửa yên mã khí giới để ra đi
lập tức.
Lăng Chấn vâng lệnh ra về sửa soạn các đồ dùng, chế thuốc làm
súng cùng các thứ giá súng đạn, xếp cả lên xe, và sắp đủ cung đao mã giáp, dẫn
ba bốn mươi tên quân hoá đi ra địa phận Lương Sơn.
Khi ra tới trại, Lăng Chấn chào chủ Tướng là Hô Duyên Chước,
và Tiên Phong là Hàn Thao, rồi thăm dò các nơi xung yếu ở sơn trại, và đặt ba
thứ súng để đánh. Ba thứ súng đó một là Phong Hỏa Bác, hai là Kim Luân Bác, ba
là Tử Mẩu Bác, đều sai đặt giá súng ở bên Bến Nước, để phòng bị sẵn sàng ở đó.
Khi đó Tống Giang ở trong tiểu trại trên bến Áp Chủy, đương
cùng với quân sư Ngô Học Cứu, để bàn cách phá quan quân. Bỗng thấy người vào
báo, nay có một tay giỏi nghề súng đạn, tên là Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn, ở đông
kinh mới đến trại quân, hiện dã dựng các giá súng ở Bến Nước, để sắp sửa đánh
vào sơn trại nay mai.
Ngô Dụng nghe báo, bảo với Tống Giang rằng:
- Sơn trại đây, bốn mặt toàn thị là hồ nước, thành Uyển Tử
cách nước lại càng xa, dẫu có Phi Thiên Hỏa Bác cũng khó lòng mà đánh vào ngay
được. Nay hãy tạm bỏ tiểu trại này, mà đóng cả ở trên núi, xem họ đánh chác ra
sao rồi ta sẽ liệu.
Tống Giang nghe nói, liền bỏ tiểu trại ở bên Áp Chủy, mà kéo
về tất cả ở trên sơn trại. Tiều Cái, Công Tôn Thắng đón tiếp vào Tụ Nghĩa Sảnh
mà hỏi rằng:
- Nay quân giặc đã dùng thứ súng như vậy, thì ta dùng cách
nào để đối địch cho lại?
Vừa hỏi được một câu, thì bỗng thấy có ba tiếng súng nổ luôn,
đánh vào Thủy Trại ngoài bến Áp Chủy. Tống Giang thấy vậy, trong lòng bối rối
lo âu, cùng các vị Đầu Lĩnh đều thất sắc ngây người không biết làm sao cho được.
Ngô Học Cứu nói bàn rằng:
- Bây giờ nếu có một người dụ được Lăng Chấn vào gần Bến Nước
mà bắt được hắn, thì mới có thể bàn đánh phá quân giặc được.
Tiều Cái nói:
- Nếu vậy thì ta cho Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, ba
anh em họ Nguyễn, đem thuyền ra Bến Nước cứ thế này...mà làm. Trên bờ thì Chu Đồng,
Lôi Hoành thì cứ theo cách thế này...mà tiếp ứng, thì may ra có thể thành công
được.
Sáu vị Đầu Lĩnh coi thủy trại đều vâng lời, rồi Lý Tuấn cùng
Trương Hoành dẫn bốn năm mươi tên thủy thủ rất thạo, chèo hai cái thuyền, theo
đám lau lách đi trước, Trương Thuận cùng ba anh em họ Nguyễn dong hơn bốn mươi
chiếc thuyền nhỏ, tiếp ứng theo sau.
Khi Lý Tuấn, Trương Hoành ra đến ngoài bến, liền nhảy lên bờ
đến chỗ giá súng của Lăng Chấn mà reo hò toan kéo đổ. Quân sĩ thấy vậy liền vào
báo với Lăng Chấn. Lăng Chấn nghe báo, vội lấy hai khẩu súng phong hỏa, rồi cắp
dao lên ngựa, dẫn hơn nghìn quân hăm hở đuổi theo.
Lý Tuấn, Trương Thuận thấy vậy liền dẫn người chạy thẳng.
Lăng Chấn hất hả chạy đuổi theo đến bên gần Bến Nước, thấy có một dãy hơn bốn
mươi chiếc thuyền nhỏ, và có hơn trăm quân thủy ở đó.
Bấy giờ Lý Tuấn, Trương Thuận nhảy xuống cả thuyền, cố ý
trùng trình không đẩy thuyền ra vội. Khi trông thấy nhân mã của Lăng Chấn tới
nơi, thì kêu gọi ầm ĩ, rồi nhảy xuống cả nước một lượt.
Lăng Chấn thấy vậy, liền đến cướp cả thuyền, Chu Đồng, Lôi
Hoành đứng đối ngạn bên kia liền đánh trống reo hò ầm cả lên.
Lăng Chấn cướp được dãy thuyền, bèn sai quân kéo cả xuống
thuyền chèo chở quay vào để đánh. Khi đến giữa dòng nước, chợt thấy Chu Đồng,
Lôi Hoành ở trên bờ đánh một hồi chuông, liền ở dưới nước có bốn năm mươi tên
thủy quân, nhoi lên nhổ hất tất cả lái thuyền, làm cho nước chảy vào thuyền như
suối vậy. Đoạn rồi đám thủy quân thừa thế, mà đánh lật đổ cả thuyền, các quân
sĩ trong thuyền đều bị lăn xuống nước cả.
Lăng Chấn thấy vậy toan quay thuyền trở lại, thì bỗng thấy
thuyền mình cũng mất cả bánh lái, nước rĩ vào thuyền như suối chảy, rồi hai bên
có hai tên Đầu Lĩnh nhoi lên đánh đổ lật thuyền cho Lăng Chấn ngã lăn xuống nước.
Bấy giờ Nguyễn Tiểu Nhị chực sẵn dưới thuyền, vớ được Lăng Chấn, liền ôm choàng
lấy mà kéo lên trên bờ. Lên đến bờ, có người tiếp tay, mà trói Lăng Chấn lại,
giải lên trên núi. Đám quân lính ở dưới này bắt được hai trăm người còn sống.
Còn thì chết đuối quá nửa, và có mấy người chết hụt, chạy về báo cho Hô Duyên
Chước biết.
Hô Duyên Chước nghe báo, lập tức dẫn quân ra đuổi. Khi tới
nơi, đã thấy các thuyền trở về bến Áp Chủy, người không thấy một ai, mà cung
tên bắn cũng không sao tới. Hô Duyên Chước lấy làm căm tức vô cùng, song không
làm thế nào được, đành phải nín hơi nuốt giận, mà dẫn quân mà lui về. Bên kia bọn
Đầu Lĩnh bắt được Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn, giải về trên núi liền cho người báo
với Tống Giang. Tống Giang dẫn hết thảy các Đầu Lĩnh trong Trại, đi xuống cửa
quan thứ nhì để đón tiếp.
Khi trông thấy Lăng Chấn, Tống Giang thân hành cởi trói ra, rồi
giận mắng chúng rằng:
- Tao bảo các ngươi đón mời Thống Lĩnh lên núi tử tế, sao các
ngươi xử vô lễ như thế?
Lăng Chấn nghe nói lấy làm cảm tạ vô cùng, Tống Giang liền nâng
chén rượu tiếp phong rồi bắt tay mời lên trên núi. Được một lát, lên tới Đại Trại,
Lăng Chấn trông thấy Bành Dĩ cũng dự ở đó, trong lòng rất lấy làm phân vân,
không biết nói sao cho được?
Bành Dĩ khuyên Lăng Chấn rằng:
- Hai vị Đầu Lĩnh Tiều, Tống thay Trời làm Đạo, chiêu nạp hào
kiệt, mong trừ những sự bất bình, để giúp cho nhà cho nước... vậy chúng ta đến
đây, chỉ nên theo mệnh là hơn.
Tống Giang cũng lấy lời uyển chuyển mà dỗ dành Lăng Chấn vào
đảng. Lăng Chấn đáp rằng:
- Tiểu đệ ở đây hầu các ngài cũng được, không lấy gì làm ngại.
Duy còn mẹ già cùng vợ con ở cả kinh sư, nếu lỡ ra ai biết tất là nguy hiểm đến
tính mạng, vậy biết làm sao cho tiện được?
Tống Giang nói:
- Cái đó Thống Lĩnh bất tất phải quan tâm, mấy hôm nữa, tôi
xin cho người đón về đây lập tức.
Lăng Chấn tạ rằng:
- Nếu được Đầu Lĩnh chu toàn như thế, thì chúng tôi dẫu chết
cũng cam tâm.
Tiều Cái liền đặt tiệc ăn mừng, và thưởng cho quân sĩ. Ngày
hôm sau các vị Đầu Lĩnh cùng bàn kế để phá ngựa Liên Hoàn.
Chợt thấy Kim Báo Tử Thang Long đứng lên nói:
- Tiểu Đệ nghĩ được một kế này, tất phải nhờ đến một thứ khí
giới kia, và một người Ca Ca tôi mới có thể phá trận Liên Hoàn được.
Ngô Dụng đón lấy nói:
- Nếu được như vậy, thì còn gì hơn nữa? Người ấy là ai? Dùng
thứ quân khí gì? Xin hiền đệ cho được biết.
Thang Long vâng lời, liền chắp tay đến trước để kể tên người
đó cho các vị Đầu Lĩnh nghe.
Mới hay:
Đã nên khẳng khái ra đời,
Làm cho động đất kinh trời mới nghe
Tuồng gì bọ nước xăm xoe,
Mũ cao áo rộng toan đè nén nhau.
Giống người ai kém ai đâu,
Quyết đem máu đỏ mà lau gươm thù.
Có công tất cũng nên trò,
Cái gương công lý ngàn thu vẫn còn.
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi này ba đoạn văn tự một đoạn tả Tống Giang phóng quân xa;
Một đoạn Hô Duyên Chước liên hoàn quân; đều là những văn rất tinh thần biến động.
Một đoạn tả bắt Lăng Chấn, coi như bắt trẻ con, sở dĩ như thế, là trước khi tác
giả chưa hạ bút, trong vốn có một tứ lạ tả Liên Hoàn Mã, chẳng tiện đột nhiên
mà tả ra, cho nên trên chữ Liên Hoàn, điên đảo sinh ra hai chữ Phóng xa quân,
trước đoạn văn (Liên Hoàn) lại có một đoạn văn Phóng xa, khiến độc giả choáng mắt
vì lạ, song bỗng đâu một biến, biến ra thứ trận như bài sơn đảo hải.
Nay thử xem phóng xa coi khinh, liên hoàn thấy trọng, đem
khinh dẫn trọng là một lạ vậy. Phóng xa liên hoàn một bầy, lấy từng đội dẫn cả
bầy, là hai lạ vậy; Phóng xa các người tự chiến, liên hoàn nhất tề tiến ra, là
ba lạ vậy; Phóng xa chợt tan chợt hợp, liên hoàn liền khóa với nhau, đem ly dẫn
hợp là bốn lạ vậy; Phóng xa tiền quân thua, chuyển làm hậu quân, liên hoàn
không trước không sau, thẳng xông ra vậy, đem tiền chuyển hậu dẫn ra không hậu
không tiền, là năm lạ vậy; Phóng xa có tiến, có thoái liên hoàn chỉ tiến không
thoái, đem tiến thoái dẫn ra tiến thôi, là sáu lạ vậy; Phóng xa tả nhân, liên
hoàn tả mã, lấy nhân dẫn mã là bảy lạ vậy. Xem thế một đám hoa đống gấm văn
chương, chỉ do một trận Liên Hoàn tả ra, rồi sau đến đoạn thứ hai tả đến bản đề,
song lại chăng vội thu kết ngay nữa; lại từ chỗ ngựa nảy ra súng, làm một chót
đuôi, song lại sợ hai phen chiến trận nguy nan, mà tả đến dụng súng, khiến văn
tự thụt đi không nổi lên, mớt đem bút rồi, mực đương, tả bắt Lăng Chấn như đồ
trẻ con vậy. Hỡi ôi! Chỉ vì một đoạn hoá ra ba đoạn, đáng bảo là trong khoảng một
đoạn rất khéo biến ra, mà hai đoạn trước sau cũng chỉ là một đoạn giữa nối liền
làm một, mà mỗi một đoạn một biến rất khéo, nào ai muốn nổi lên tranh cái tiếng
tài tử với tác giả kia, ta thấy rõ ràng là không thể sánh kịp.
Trước sau hai đoạn đều rất khéo biến ra kia, như đoạn trước tả
phóng xa quân, khi mỗi một đội muốn đi, phải có trước một đội tiếp hậu, một tiếp
một chờ, ví như lông cánh vịt vậy. Thi Nại Am lại bỗng đâu tính đến khi đội thứ
năm muốn đánh, phải tiến xa mười viên tướng áp hầu, như lộ ngấn tích, bèn khiến
hai chữ " Phóng xa " cả thua, mới đem đội thứ năm tiếp chiến bèn tả Tống
Giang đem mười viên tướng, cho khỏi cái lỗi đứt nối vậy. Song lại tính đến một
thiên chương pháp, trong đội thứ năm lại biến khác ra, chỗ đó vẫn lộ ngấn tích,
đánh đến chuột chạy cùng đường, ở chỗ đội thứ tư khi tiếp chiến, tả đến đội thứ
năm đã đến sớm làm phảng thấn, thực khổ tâm thay cho một thợ lành nghề văn tự.
Lại như trước một đoạn tả đội thứ năm Phóng xa quân, một đội
thắng một đội, vốn thế vậy, khi đến đội thứ tư, bỗng đâu trên trận bay ra ba khẩu
đao, đã mà một biến, biến ra hai khẩu đao hai chiếc roi biến ra hai chiếc roi,
càng biến càng lạ, càng lạ càng kinh, càng kinh càng vui, thực văn chương xem
thấy thú!
Một đoạn sau Tiều Cái truyền lệnh, hãy mời Tống Giang về núi,
Tống Giang cố ý chẳng chịu, đọc đến cho rằng, ý bảo diệt kẻ kia chỉ trong một sớm
một chiều, biết đâu chính vì mưu để thu súng Lăng Chấn, đó là bút pháp tuyệt kỳ,
chẳng phải bút mực tả ra mà được?
Lại như cần tả đến dùng súng, lại tả ra phép bắn súng ở chỗ
chẳng gần cũng chẳng xa, nay xem chỗ Lăng Chấn tới, chỉ là ca ngợi, đặt giá
súng để bắn, thấy uy thế của chúng, làm cho Tống Giang phải bỏ trại thu quân lẩn
về núi, thực là bút pháp tuyệt kỳ, chẳng phải bút tục tả ra mà được?
Tả tiếp luôn sự dùng súng, bắn ba chỗ, lại nói ra rằng, hai
chỗ bắn khắp mặt nước, một chỗ bắn vào trong tiểu trại, tả hai chỗ bằng khắp mặt
nước cho rõ thủy bạc rộng rãi, một chỗ bắn vào tiểu trại cho rõ sức súng rất xa
mạnh!
Đến như sau là trước hồi này, lại có riêng bút khéo tài tình,
như sắp tả Liên Hoàn Mã đã tả trước một ngự mã ban cho để dẫn ra; sắp tả áo
giáp Từ Ninh, lại tả trước bao nhiêu giáp binh mã để dẫn ra, bao nhiêu ngựa
liên hoàn, chỉ một ngựa vua ban làm điều động, đều chẳng phải bút pháp tầm thường
mà tả nổi như thế!
Hồi 55:
Ngô Dụng sai Thời Thiên cắp bảo giáp;
Thang Long lừa Từ Ninh tới Lương Sơn
Bấy giờ Thang Long nói với các Đầu Lĩnh rằng:
- Nguyên tổ phụ chúng tôi, ngày xưa sinh nhai về nghề rèn đúc
quân khí, sau gặp Lão Trung Kinh Lược, mới được ra làm Tri Trại ở phủ Duyên An.
Trước đây trong triều đã dùng trâu ngựa Liên Hoàn để đánh được giặc, song muốn
phá trận đó, thì phải dùng tới gươm câu liêm mới được. Kiểu câu liêm ấy, tổ phụ
nhà tôi có truyền để lại, tôi có thể đánh được nhưng không biết dùng khiến ra
sao. Nay muốn tìm một người biết dùng, tất phải tìm đến người anh cô cậu của
tôi, hiện nay làm chức Giáo Đầu ở Đông Kinh, gia truyền đánh phép câu liêm
không ai học được, hoặc đánh trên ngựa, hay đánh dưới bộ, thực là xuất qủy nhập
thần...
Vừa nói đến đó; thì Lâm Xung hỏi ngay:
- Chẳng hay là Giáo Sư Kim Sang Ban tên là Từ Ninh đó?
Thang Long nói:
- Chính phải ông ta đó.
Lâm Xung nói:
- Nếu bác không nói, có lẽ tôi quên mất... Phải, sang pháp của
ông ta thực là tuyệt xảo. Khi tôi ở Đông Kinh vẫn tập thử với nhau, anh em rất
là tương đắc, nhưng bây giờ làm thế nào mời ông ta lên được?
- Ông ấy có một vật báu, là một cái áo giáp khuyên kim bằng
lông chim nhạn linh khâu lại, thiên hạ không ai có bao giờ. Khi trước tôi theo
phụ thân có qua tới Đông Kinh, đã một lần đến chơi nhà cô tôi, mới được nom thấy.
Cái áo ấy khoác lên mình vừa nhẹ vừa ấm, đao gươm không thấu, người ta lại gọi
là Kiểm Đường Nghê. Xưa nay nhiều những công tử yêu cầu muốn xem, song ông ta
không hay cho ai xem bao giờ. Cái áo giáp ấy cũng như là tính mạng của ông ta,
ông ta vẫn bỏ vào cái hòm da treo trên phòng nằm rất cẩn thận. Nay nếu lấy được
cái áo ấy, thì tất ông ta phải đến đây ngay.
Ngô Dụng nói:
- Cái đó thì không khó gì? Phen này chỉ nhờ ông anh em rất giỏi,
là ông Thời Thiên đi cho mới được.
Thời Thiên nghe nói liền ứng lên rằng:
- Chỉ sợ ông ta không để ở nhà, chứ còn ở nhà thì thế nào tôi
cũng lấy được.
Thang Long nói:
- Nếu bác lấy được cái ấy, thì thế nào tôi cũng lừa ông ta đến
đây được.
Tống Giang hỏi:
- Ngươi định lừa thế nào?
Thang Long ghé vào tai Tống Giang mà nói thầm mấy câu. Tống
Giang cả cười mà rằng:
- Diệu kế, như thế thì làm gì không được?
Ngô Dụng nói:
- Bây giờ phải cần có ba người đi Đông Kinh một phen. Một người
vào mua các thứ thuốc súng đạn lửa để dùng việc chế súng, còn hai người đưa vợ
con Lăng Thống Lĩnh về đây.
Bành Dĩ nghe nói, liền đứng lên bẩm rằng:
- Nếu các Ngài rộng ơn cho một người đến Dĩnh Châu đem gia
quyến nhà tôi đến đây, thì tôi cũng rất lấy làm cảm tạ muôn phần.
Tống Giang đáp rằng:
- Đoàn Luyện Sứ cứ viết thư về, để tôi sai người đến đó đón.
Nói đoạn liền gọi Dương Lâm sai đem thư tín kim ngân, cùng mấy
người theo hầu, đi sang Dĩnh Châu đón vợ con Bành Dĩ. Tiết Vĩnh ăn mặc giả làm
một người đánh gậy bán thuốc cao, đi sang Đông Kinh đón vợ con Lăng Chấn, Lý
Vân giả làm khách buôn súng đi sang Đông Kinh mua các đồ dùng làm súng. Nhạc
Hòa đi với Thanh Long và thỉnh thoảng phải đi kèm Tiết Vĩnh cho tiện công việc.
Nhất diện cho Thời Thiên xuống núi đi trước, còn Thang Long phải lưu lại đánh
cái câu liêm sang làm mẫu rồi sẽ đi sau.
Khi Thang Long đúc xong câu liêm, Lôi Hoành bèn đốc thúc thợ
rèn cứ theo mẫu đó mà làm, đoạn rồi trong sơn trại đặt tiệc tiễn hành, đưa chân
mấy người xuống núi.
Bấy giờ Dương Lâm, Tiết Vĩnh, Lý Vân cùng Thang Long từ biệt
các vị Đầu Lĩnh cùng nhau cử bộ đăng trình. Đến sáng hôm sau Tống Giang lại cho
Đới Tung đi theo bọn đó, để dò xem tin tức ra sao?
Nói về Thời Thiên, từ khi từ giã các vị Đầu Lĩnh, liền giắt đỏan
đao cùng các thứ cần dùng trong mình, rồi trông chừng thẳng trỏ Đông Kinh. Cách
ít lâu đi tới Thành, chàng tìm vào ngủ trọ, rồi sáng hôm sau vào Thành để hỏi
dò đường lối.Khi vaò đến trong thành, chàng hỏi đến nhà Kim Sang Ban Từ Ninh
Giáo Sư, sau có người trỏ vào gian nhà thứ năm ở trong ban, bên cạnh có cánh cửa
đen đen, mà gọi là nhà Tư Ninh ở đó.
Thời Thiên nghe nói, vội vàng tới nơi, nom cửa trước cẩn thận
một lượt, rồi lại nom đến cửa sau, thì có một dãy tường cao,trong có hai gian lầu
nho nhỏ, bên cạnh có một cột liền ngay với chỗ bức màn.
Chàng xem kỹ một hồi, rồi lại quay ra phố hỏi thăm xem Từ
Ninh có nhà hay không. Có người nói rằng:
- Từ Ninh thường đi vào ban làm việc quan, từ đầu trống canh
năm tới chiều tối mới về.
Thời Thiên nghe nói lại trở về nhà trọ, lấy đủ các thứ cần
dùng, rồi gọi tiểu nhị dặn rằng:
- Đêm nay có lẽ tôi không về, nhờ trông nom trong phòng giúp
cho.
Tiểu nhị vâng lời mà rằng:
- Xin ngài cứ đi ở trong cấm thành này, không làm gì có quân
gian đạo mà sợ.
Nói đoạn Thời Thiên đi vào trong thành, đợi đến chiều tìm nơi
ăn uống, rồi lại đến nhà Từ Ninh để chực.Khi tới nhà Từ Ninh, chàng trông trước
trông sau, không có chỗ nào nấp được. Sau trông quanh thấy sau miếu Thổ Địa gần
đó, có một cây bách rất lớn, chàng liền rón rén trèo lên để ngồi trên càng cây
để chực.
Bấy giờ đương dạo mùa đông, trăng mờ đêm lạnh, gió thổi hiu
hiu, Thời Thiên đợi mãi mới thấy Từ Ninh trở về nhà, đoạn rồi có hai người
trong ban, cầm đen lồng ra khoá kỹ cửa mà ai về nhà nấy.
Thời Thiên ngồi trên cây nghe thấy tiếng trống canh vẫn còn
điểm một, trông lên trời, thì mây che kín, ánh sao mờ mịt, mà trong ban thì im
phắc như tờ, không còn có một tiếng chó cắn gà kêu chi chi cả. Khi đó Thời
Thiên ở trên cây bò xuống, đi đến lối sau nhà Từ Ninh, rồi trèo tường vào gần bếp.
Chàng trông vào trong bếp thấy còn ánh đèn sáng, có hai đứa nữ tỳ vẫn còn xếp dọn
chưa xong. Chàng lại quay ra trèo lên cột cái, nấp ở đằng sau chỗ bức màn, dòm
vào trong lầu, thấy Từ Ninh cùng vợ ngồi ở cạnh lò lửa, tay ẵm đứa trẻ lên sáu
tuổi, lại nom vào phòng ngủ, quả thấy một hòm da treo ở bên trên, cửa phòng
treo một cây cung, một túi tên và một con dao lưng sáng nhoáng, trên mắc áo có
ba thứ áo mầu, rất là lịch sự.
Bấy giờ Từ Ninh gọi lên rằng:
- Mai Hương đâu đem áo gấp lại cho ta.
Đoạn rồi thấy một đứa nữ tỳ ở dưới bếp đi lên, gập một cái áo
màu tía cổ tròn, một cái áo ngắn màu quan lục, một cái áo xiêm hoa rực rỡ, một
cái khăn gấm, và mấy cái khăn tay bằng lụa, bọc vào một gói, lại gấp một cái thắt
lưng đuôi giải bọc vào khăn vàng nhỏ rồi bỏ vào hòm mà để lại một chỗ.
Được một lát vào khoảng canh hai, Từ Ninh xếp dọn giường nghỉ,
người vợ hỏi Từ Ninh rằng:
- Ngày mai có đi việc quan nữa không?
Từ Ninh đáp:
- Sáng mai vua ra cung Long Phù, phải dậy sớm từ đầu canh năm
để chầu chực mới được.
Người vợ nghe nói dặn bảo thị nữ rằng:
- Sáng mai dậy sớm đun nước và dọn cơm sớm.
Thời Thiên thấy vậy, trong bụng nghĩ thầm:"Cái hòm da
kia, chắc là áo giáp để đó. Nhưng nếu nửa đêm ta hạ thủ mà lỡ ra họ biết, thì
sáng mai khó lòng mà đi thoát. Vậy bất nhược ta đợi đến canh năm sẽ hạ thủ cũng
được...
Chàng nghĩ đoạn lại đợi một lúc, thấy hai vợ chồng Từ Ninh
cùng hai đứa thị nữ đã ngủ yên, mà trên bàn ở trong phòng vẫn để ngọn đèn ở đó.
Thời Thiên bèn lần cột cái đi xuống, lấy ống sậy dắt ở mình, đem gần đến cửa sổ,
ghé vào mà thổi tắt ngọn đèn đi.
Vào khoảng canh tư, Từ Ninh trở dậy, gọi thị nữ đun nước rửa
mặt, thị nữ nghe gọi mơ màng trở dậy, thấy trong phòng không có ánh sáng, bèn
kêu lên rằng:
- Quái lạ! Hôm nay lại không thắp đèn hay sao?
Từ Ninh bảo thị nữ:
- Bay không dậy thắp đèn, còn để đến bao giờ nữa?
Mai Hương vâng lời mở cửa gác đi xuống, Thời Thiên nghe tiếng
két cửa, liền lẻn vào lối sau để trốn nấp. Mai Hương đi ra cửa sau, đi thẳng xuống
bếp. Thời Thiên lỏn xuống bếp nấp ở sau cái bàn con trong bếp. Mai Hương châm lửa
đem lên, rồi lại đóng cửa trên, quay xuống bếp đun nước. Bấy giờ tên thị nữ
cũng trở dậy, gắp than vào lò mang lên trên lầu để sưởi. Được một lát, thị nữ
đem nước nóng lên. Từ Ninh rửa mặt súc miệng, rồi gọi hâm rượu để uống. Thị nữ
lại đem bánh lên. Từ Ninh ăn uống xong rồi, lại gọi mang ra cho người nhà ăn.
Khi ăn uống xong, Thời Thiên thấy Từ Ninh gọi mấy tên người
nhà đeo khăn gói, vác Kim Sang, rồi hai tên thị nữ cầm đèn đưa Từ Ninh ra đi. Bấy
giờ Thời Thiên ở trong gầm bàn đi ra, lần lên trên lầu, đến cạnh vách trèo lên
sàn nhà nằm nấp ở đó.
Được một lát, hai đứa thị nữ quay vào cài cửa cẩn thận, rồi
chui đầu ngủ ngay lập tức. Thời Thiên nằm ở xà nhà, đợi khi người nhà ngủ im
thin thít, liền giơ ống sậy ra thổi tắt ngọn đèn, rồi sẽ cởi cái hòm da treo ở
trên xà nhà ra. Khi cởi xong bất đồ vợ Từ Ninh nghe tiếng hơi thấy động, liền
kêu lên rằng:
- Trên xà nhà có cái gì động thế? Thời Thiên nghe tiếng, liền
giả tiếng chuột kêu trên xà nhà. Mai Hương nghe thấy vậy, bảo vợ Từ Ninh rằng:
- Chắc là chuột nó đùa nhau trên ấy hẳn.
Thời Thiên lại vờ tiếng chuột đuổi nhau, rồi sẽ nhảy xuống lầu
lần ra cửa lầu mà vác hòm da mở cửa ra đi. Khi ra tới cửa ban, bấy giờ đã có
người đi lại, cửa đã mở tung, chàng đã liền đánh tráo vào người trong ban mà đi
lẻn ra ngoài thành.
Vào hồi giữa canh năm, Thời Thiên về đến hàng trọ, gọi mở cửa
hàng. Vào phòng xếp hành lý thành một gánh tính tiền hàng, rồi trở ra đi về
phía Đông. Chàng đi ngược bốn mươi dặm đường, tới một nơi hàng cơm vào đó để
nghỉ ăn cơm. Đương khi ăn cơm bỗng thấy Đới Tung đi đến, chàng sẽ đem câu chuyện
nói cho Đới Tung biết.
Đới Tung thấy đã lấy được áo giáp của Từ Ninh,thì trong bụng
lấy làm vui mừng, hai người thì thầm mấy câu, rồi Đới Tung bảo với Thời Thiên rằng:
- Áo giáp này để tôi mang về trại trước, rồi báo với Thang
Long sẽ thong thả đi sau.
Thời Thiên mở hòm da, lấy áo ra gói vào một gói đưa cho Đới
Tung. Đới Tung khoác khăn gói lên vai ra khỏi cửa điếm; làm phép thần hành trở
về sơn trại trước.
Bấy giờ Thời Thiên cơm nước xong, tính trả tiền hàng, rồi xếp
hai cái hòm không nghêng ngang cho mọi người biết cùng, mà quảy gánh ra đi. Đi
được hai mươi dặm đường, thì gặp Thang Long đi đến đó, hai người lại đưa nhau
vào hàng để nói chuyện.
Thang Long khẽ bảo Thời Thiên rằng:
- Nay bác phải nghe tôi kế này mới được,bác đi đường, hễ thấy
hàng cơm chỗ nào có vòng vôi trắng khuyên, thì cứ vào đó mua rượu chè ăn uống,
mà nghỉ ngơi ở đó. Song trước hết phải để rõ cái hòm da cho mọi người trông thấy,
rồi khi đi được một quãng đường, thì phải đứng đó mà đợi tôi.
Thời Thiên nghe nói khen phải, bèn đứng dậy đi trước, còn
Thang Long lưu lại ở hàng một lúc, rồi mới đi vào Đông Kinh.
Nói về hai tên thị nữ ở nhà Từ Ninh, buổi sáng hôm ấy trở dậy,
bỗng thấy cửa gác, cùng các cửa trong ngoài đều bỏ ngõ hết cả, hai người lấy
làm kinh ngạc, đi nom hết cả các nơi, thấy bao nhiêu đồ vật còn nguyên, không hề
có chút gì sai chuyển, Hai tên thị nữ nói với vợ Từ Ninh rằng:
- Thưa bà không biết làm sao cửa ngõ nhà ta mở tung cả ra, mà
đồ vật thì không mất chi hết cả!
Vợ Từ Ninh nói:
- Vào khoảng đầu trống canh năm, có tiếng động trên xà nhà,
ngươi bảo là đàn chuột đánh nhau. Vậy thử nom xem cái hòm da đựng áo giáp có
còn treo đó không?
Hai đứa thị tỳ vâng lời, chạy vào xem, bỗng kêu lên rằng:
- Chết rồi! Cái hòm da, không thấy đâu nữa rồi.
Vợ Từ Ninh nghe nói lấy làm kinh hoảng, bảo với thị nữ rằng:
- Nếu vậy bây phải vào cung Long Phú, báo cho ông về ngay mới
được.
Thị nữ vội vàng đi nhờ người vào báo cho Từ Ninh, song bấy giờ
Ban Kim Sang đã theo hầu Thiên Tử ra ngoài nội uyển; phía ngoài đều có cấm binh
coi giữ không ai làm thế nào mà vào báo được.
Vợ Từ Ninh cùng hai đứa nữ tỳ trong lòng nóng như lửa đốt, lo
són với nhau, không còn tưởng nhớ đến cơm nước chi nữa.
Chiều hôm đó Từ Ninh đi hầu xe ngựa về, vào cung thay đổi áo
xiêm; dẫn mấy người theo hầu, cùng mang Kim Sang mà lững thững ra về. Khi về tới
cửa ban, thấy xóm làng xôn xao nói rằng:
- Nương Tử ở nhà mất trộm, đợi mãi không thấy Giáo Sư về,
đương lo nháo lên ở nhà đó.
Từ Ninh nghe nói cả kinh, vội vàng chay về nhà để xem.
Khi về tới nhà, hai tên thị nữ thuật chuyện cho Từ Ninh biết.
Từ Ninh gắt mù tang tít cả lên, rồi nói với vợ rằng:
- Cái áo ấy là của báu từ bốn đời ngày xưa lưu lại đến nay.
Trước Hoa Nhi Vương Thái Uùy đã trả ta vạn quan, ta không chịu bán cốt để những
khi ra trận mà dùng, cho nên mới cẩn thận mà buộc treo trên đó. Có ai hỏi đến
phải dối là mất mất rồi... Nay lại quả nhiên bị mất như thế, tất là thiên hạ biết
chuyện, họ chê cười không còn ra trò gì nữa!
Chàng thẫn thờ hồi lâu, rồi suốt đêm đó nằm nghĩ, không biết
làm cách gì mà tra xét được. Sau người vợ bảo với chồng rằng:
- Đêm hôm qua lúc tắt đèn, chắc là kẻ trộm đã lẻn vào nhà,
nhưng không ai ngờ nó lại ăn trộm của oái oăm như thế? Cái này chắc có người bạn
thân đến hỏi mua không được, nên mới sai kẻ trộm đến lấy đi hẳn? Ta hãy để đó;
sai người đi dò hỏi xem sao, chớ nên hô hoán lên nữa người ta biết mất...
Từ Ninh nghe nói, cũng phải nén lòng, để đợi xem dò xét ra
sao? Sáng hôm sau, chàng đương ngồi buốn nghĩ ngợi một mình, chợt có người gõ cửa,
rồi có tên người nhà vào báo rằng:
- Có con quan Thang Tri Trại ở bên phủ Duyên An là Thang Long
vào hầu.
Từ Ninh nghe nói, bảo người nhà mời Thang Long vào, Thang
Long tới nơi, cúi đầu lạy chào, rồi hỏi thăm Từ Ninh rằng:
- Lâu nay Ca Ca vẫn được bình yên đó chăng?
- Từ Ninh hớn hở đáp lễ mà rằng:
- Dạo trước ông cậu quy tiên, tôi vì bận việc quan, vả đường
xa xôi, không sao đến viếng được sau cũng không biết tung tích hiền đệ ra sao,
trong lòng thực lấy làm ăn năn quá đỗi. Chẳng hay hiền đệ ở đâu? Từ đâu mà đến
đây thế?
Thang Long nói:
- Từ khi phụ thân bị mất, trong nhà gặp lúc gian truân phải
lưu lạc gian hồ, rất là vất vả. Nay tôi nhân ở Đông Sơn tới đây để hỏi thăm Ca
Ca, và anh em đàm đạo một hôm, cho đỡ lòng khát vọng bấy lâu...
Từ Ninh mời Thang Long ngồi, gọi người nhà mang rượu lên để
thiết đãi. Thang Long mở khăn gói ra lấy hai đĩnh bạc, nặng hai mươi lạng, đưa
cho Từ Ninh mà nói rằng:
- Khi phụ thân tôi mất, có để lại hai mươi lạng vàng này, có
dặn đưa cho Ca Ca để làm kỷ niệm về sau, song từ ấy đến nay không ai qua lại,
cho nên vẫn không gửi sang đây được. Nay tiểu đệ qua đây, đưa nộp Ca Ca một thể.
Từ Ninh nói:
- Cậu có lòng quá yêu tôi như thế, tôi biết lấy gì báo đáp
vong hồn cậu được...
- Ca Ca bất tất nghĩ vậy. Khi phụ thân tôi còn sống, vẫn thường
nhớ đến Ca Ca võ nghệ cao cường, song vì non nước xa khơi, không sao được gặp,
gọi là để chúc này làm kỷ niệm với Ca Ca đó thôi.
Từ Ninh cảm ơn Thang Long,nhận lấy hai đỉnh bạc, rồi hai người
cùng uống rượu với nhau. Trong khi uống rượu, Từ Ninh vẫn ra dáng bang khuân
nghĩ ngợi, kém vẽ tươi cười. Thang long thấy vậy liền hỏi:
- Tôi trong Ca Ca có dáng không vui, hay là trong bụng có điều
gì lo nghĩ chăng?
- Từ Ninh thở dài mà than rằng:
- Hôm qua nhà tôi mất trộm đấy...
- Chẳng hay mất bao nhiêu đồ đạc?
- Chỉ mất có cái áo giáp của ông cha tôi để lại khi xưa, là một
cái áo làm bằng lông nhạn rất quý, không ai có bao giờ. Bởi vậy tôi lấy làm
bâng khuân lo nghĩ, không biết kế chi mà tìm thấy được nữa... ?
- Vâng! Cái áo ấy tiểu đệ cũng có được biết, ngày trước còn
thân phụ vẫn thường khen ngợi đến luôn luôn....Vậy Ca Ca để đâu mà mất được?
- Tôi bỏ trong cái hòm da, treo trên xà nhà giữa phòng nằm,
mà không biết làm sao nó lại lấy được?
- Cái hòm da hình dạng thế nào?
- Cái hòm ấy bằng da dê đỏ, phía trong có bọc lông cẩn thận.
Thang Long nghe nói, ngạc nhiên mà rằng:
- Da dê đỏ... Có phải trên mặt có thêu triện, và khoảng giữa
có thêu sư tử hý cầu bằng chỉ trắng không?
Từ Ninh đáp:
- Phải, hiền đệ trông thấy thế?
- Đêm qua tôi trọ nhà hàng, cách đây chừng bốn mươi dặm, thấy
một anh chàng người đen mắt đỏ, gánh một cái gánh, một bên có cái hòm da như thế.
Tôi trông thấy vậy, trong bụng nghĩ rằng; không biết trong hòm có đựng những
cái gì. Sau lúc tôi ra đi có hỏi hòm đựng cái gì? Thì chàng ta đáp, nguyên trước
là hòm đựng áo giáp, nhưng nay đem đựng quần áo vặt ở đó, anh chàng ấy, có lẽ
tôi còn nhớ, hai chân đi tập tễnh, chắc là anh ta lấy hẳn. Nếu vậy bây giờ ta
đi đuổi ngay, thì may ra còn kịp được...
Từ Ninh nghe nói, vội thay đôi giầy gai dắt con dao lưng,
tay cầm dao lớn, cùng với Thang Long lập tức ra thành để đuổi theo.
Khi đến một hàng cơm kia, thấy trên vách có vết vôi trắng,
Thang Long bảo với Từ Ninh rằng:
- Ta hãy vào đây nghỉ, hỏi thăm một câu rồi sẽ đi.
Nói đoạn dắt Từ Ninh vào mua rượu cùng uống. Thang Long hỏi
nhà hàng rằng:
- Ông có thấy anh chàng gầy đen gánh hòm da, đi qua đây
không?
Chủ hàng đáp:
- Có, đêm qua có một anh gầy đen, gánh hai cái hòm da dê qua
đây, chân anh đi tập tễnh, bước thấp bước cao thì phải...
- Đấy Ca Ca, nghe có đích không?
Từ Ninh nghe nói, không biết làm sao mà trả lời được nữa. Hai
người ăn uống xong, liền trả tiền hàng, rồi tính tiền ra đi.
Được ít lâu, đi đến hàng có vết vôi trắng, Thang Long lại đứng
dừng lại bảo Từ Ninh rằng:
- Tôi mệt lắm rồi. Ca Ca hãy vào đây nghỉ ăn uống rồi sáng
mai sẽ đi...
Từ Ninh nói:
- Tôi đang giữ chức quan, nếu đêm nay điểm danh thấy vắng mặt,
thì tất nhiên Quan Tư quở trách hẳn.
Thang Long nói:
- Cái đó cần gì Ca Ca khỏi nghĩ, chắc là Tẩu Tẩu ở nhà phải
nói với quan trên chớ?
Nói đoạn dắt Từ Ninh vào hàng để nghỉ.Đêm hôm đó, Thang Long
hỏi tên tiểu nhị ở hang, để hỏi thăm người gánh hòm.
Tiểu nhị nói:
- Đêm hôm qua có một người đen đen gầy gầy gánh hòm vào trọ
hàng tôi, hỏi thăm dường về Sơn Đông, rồi đến gần trưa mới đi.
Thang Long nghe nói quay bảo Từ Ninh rằng:
- Nếu vậy ta cũng còn có thể đuổi kịp được.
Từ Ninh nghe nói, cũng yên tâm nghỉ một đêm hôm ấy, sáng hôm
sau hai người trở dậy đi sớm, hễ đến chỗ nào có vạch vôi trắng, Thang Long lại
dắt Từ Ninh vào ăn uống, và hỏi thăm người gánh hòm. Sau thấy hàng nào cũng nói
là có anh chàng gánh hòm đúng như thế.
Từ Ninh càng lấy làm nóng ruột, muốn theo kịp cho mau để mà lấy
lại.
Hai người đi đến chiều hôm, tới một nơi cổ miếu, thấy Thời
Thiên để cái gánh ở dưới gốc cây, ngồi đợi ở đó. Thang Long bèn trỏ bảo Từ Ninh
rằng:
- Kìa, dưới gốc cây kia, có phải cái hòm của Ca Ca không? Từ
Ninh thấy vậy vội nhảy sấn tới, nắm lấy Thời Thiên quát lên rằng:
- Quân này to gan thực, sao dám ăn trộm áo giáp của ta?
Thời Thiên đáp rằng:
- Khoan khoan không cần phải làm ầm lên...Tôi ăn cắp áo giáp
thực, nhưng bây giờ các bác định làm gì?
Từ Ninh lại quát rằng:
- Quân súc sinh vô lễ thực! Bây còn hỏi ta làm gì à... ?
Thời Thiên nói:
- Bác thử xem trong hòm tôi có áo giáp không?
Thang Long mở hòm ra cho Từ Ninh xem, thì không thấy áo giáp ở
đó. Từ Ninh thấy vậy hỏi dồn rằng:
- Thằng này, mày để áo giáp của ta đâu?
- Khoan tôi nói cho mà nghe, tôi đây là họ Trương, bầy vai thứ
nhất, quê ở Thái An Châu, trong châu tôi có một nhà phú hộ, hay đi qua lại nhà
quan Kinh Lược Lão Trung. Sau nghe nói nhà bác có cái áo bằng lông nhạn, mà không
chịu bán, nên mới thuê tôi đến đây, cùng một người nữa là Lý Tam đến ddaat ăn cắp,
và có hứa khi nào lấy được,sẽ cho một vạn quan tiền, dè đâu khi lấy xong, tôi
nhảy ở trên cột nhà bác suýt ngã một cái, rẹo hẳn một chân, không sao đi nhanh
được,đành phải để cho Lý Tam mang áo giáp về trước, mà để hòm không lại cho
mang, nay nếu bác mang tôi đến quan thì dẩu chết tôi cũng không chịu thú, băng
cư lặng yên, tha cho tôi rồi đi với tôi, tôi sẽ lấy lại trả cho...
Từ Ninh nghe nói, suy nghĩ hồi lâu, không biết quyết đoán ra
sau.
- Ca Ca sợ nó bay lên trời được chăng? Ta hãy cứ đi với hắn,
nếu không lấy được áo giáp thì sẽ trình quan ở đó cũng được.
Từ Ninh khen phải, rồi cùng Thời Thiên, Thang Long quay ra
tìm vào nhà trọ. Nguyên Thời Thiên làm ra mẹo buộc dây chân, cố làm ra bộ khập
khễnh không đi nhanh được,như vậy Từ Ninh lại càng vững tâm mà không e ngại chi
nữa. Sáng hôm sau ba người cùng dậy sớm, cùng mua rượu cơm ăn uống, rồi ba người
lại đi với nhau.
Cách ngày hôm sau nữa, Từ Ninh vừa đi vừa nóng lòng sót ruột,
không chắc đến nơi có lấy được áo giáp hay không?
Chợt đâu thấy bên đường, có ba bốn người đẩy một cái xe;
trong xe có người ăn mặc ra dáng khách buôn tử tế.
Người ấy trông thấy Thang Long bèn vái chào một cái rất là
cung kính, Thang Long chào hỏi lại rồi ra dáng hớn hở, hỏi luôn rằng:
- Bác đi đâu mà qua đây như thế? Người kia đáp:
- Tôi buôn bán ở Trịnh Châu, nay về Thái An Châu đây.
Thang Long nói:
- Nếu vậy thì tốt lắm, ba chúng tôi cũng muốn đáp xe về Thái
An Châu một thể.
Người kia nói:
- Được lắm,ba người chứ mấy người cũng được.
Thang Long nghe nói cả mừng, gọi Từ Ninh đến để chào người
đó.Từ Ninh hỏi:
- Người ấy là ai?
Thang Long đáp:
- Người đó họ Lý tên Vịnh, bạn cung đi lại ở Thái An Châu với
tôi khi trước, là người có nghĩ khí lắm...
Từ Ninh nói:
- Thế thì hay lắm! Anh Trương Nhất không đi nhanh được,nhân
thể ta cho lên xe là tiện.
Nói đoạn bốn người cùng lên xe để đi.Từ Ninh lại hỏi:
- Trương Nhất ơi! Anh nói cho tôi biết tên người phú hộ đó là
ai?
Thời Thiên đã đôi ba phen không chịu nói, sau Từ Ninh hỏi mãi
mới đáp rằng:
- Ông ta là ông phú hộ họ Quách, có tiếng ở Thái An Châu xưa
nay.
Từ Ninh quay lại hỏi Lý Vịnh rằng:
- Ở Châu Thái An nhà ông, có ông phú hộ nào họ Quách không?
Lý Vịnh đấp rằng:
- Có ông ta là một nhà đại phú có tiếng ở châu tôi, xưa nay
chỉ thích đi lại với đám quan trường, trong nhà dung túng không biết bao nhiêu
nhàn đãng mà kể!
Từ Ninh nghe nói, càng lấy làm vững tâm hơn trước, rồi thỉnh
thoảng Lý Vịnh lại nói chuyện võ nghệ và hát xướng tiêu khiển với nhau, làm cho
Từ Ninh càng hả dạ vui lòng, mà không quan tâm chi lắm.
Xe đi dòng dã một ngày, đến hôm sau gần tới địa phận Lương
Sơn Bạc, Lý Vịnh sai phu xe, đi mua rượu và thịt, đem về trên xe cùng uống.
Khi mua thịt rượu về, Lý Vịnh sai rót một bầu con mời Từ Ninh
uống, Từ Ninh cất uống một hơi, uống hết rồi Lý Vịnh lại sai rót nữa. Tên phu
xe cầm bầu rượu toan rót, bất đồ lóng cóng buột tay đổ lăn ra đất. Lý Vịnh tức
giận quát tên phu xe phải mua rượu nữa.
Vừa nói dứt lời thì Từ Ninh sè bọt mép, nhắm hai mắt rồi nằm
vật trên xe. Chúng liền túm lại rồi đem Từ Ninh đến hàng rượu Chu Quý, để đưa
lên Lương Sơn Bạc.
Nguyên Lý Vịnh tức là Nhạc Hoà, vâng lệnh Tống Giang giả làm
thương khách, để đón Từ Ninh, Thang Long, Thời Thiên về đó. Khi chúng vực Từ Ninh
xuống thuyền và tới Kim Sa, Tống Giang nghe báo, liền đem các vị Đầu Lĩnh ra bến
để đón. Đoạn rồi đem thuốc giải độc để giải cho Từ Ninh.
Được một lát Từ Ninh tỉnh dậy, mở bầng con mắt, trông thấy mọi
người, thì ngạc nhiên kinh sợ không hiểu ra sao. Sau khi biết Thang Long đánh lừa
đưa đến Lương Sơn Bạc, chàng liền gọi Thang Long đến trách rằng:
- Sao ngươi nỡ tâm đánh lừa ta đến đây như vậy?
Thang Long đem lời an ủi, khuyên giải Từ Ninh, và đem lòng
nghĩa khí của Tống Giang và chuyện mình nhập đảng kể cho Từ Ninh nghe.
Từ Ninh nghe nói thở dài mà rằng:
- Thế này thực là anh em giết tôi đó!
Tống Giang đưa chén rượu khuyên mời Từ Ninh mà rằng:
- Tống Giang tôi tạm trú Thủy Bạc, chỉ đợi triều đình có lòng
thương hại, là phải hết sức cùng lòng để báo đền non nước, chứ thực không dám
chút nào mang dạ tham ô, mà dám làm điều bất nghĩa. Vậy xin ngài nghĩ đến chân
tình, mà ở đây cùng nhau tụ nghĩa, thì thực là hân hạnh vô cùng.
Bấy giờ Lâm Xung cũng nâng chén rượu cười mà rằng:
- Tiểu đệ đã đến đây lâu rồi, xin nhân huynh đừng từ chối.
Từ Ninh nói:
- Tuy vậy, song còn vợ con ở nhà, lỡ Quan tư tróc nã thì biết
làm sao?
Tống Giang nói:
- Cái đó không hề chi, xin ngài cứ yên tâm, chúng tôi sẽ
có cách đưa quý quyến về đây ngay lập tức.
Đoạn rồi Tiều Cái, Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng; đều đến nói
lại với Từ Ninh và đem sự định tập đánh câu liêm sang, để phá trận Liên Hoàn để
thuật cho Từ Ninh nghe.
Khi chuyện trò thỏa thuận, trong sơn trại lại đặt tiệc ăn mừng,
rồi nhất diện sai chọn đám lâu la khỏe mạnh, để tập đánh câu liêm, và nhất diện
cho Đới Tung cùng Thang Long lập tức tới Đông Kinh đón vợ con Từ Ninh lên núi.
Cách trong mươi ngày Dương Lâm ở Dĩnh Châu đón vợ con Lăng Chấn, cùng Lý Vân
mua sắm các xe đồ chế thuốc súng, cũng cùng về một lượt. Lại cách vài hôm sau
thì thấy Đới Tung, Thang Long đưa vợ con Từ Ninh đến, Từ Ninh thấy vợ con đến,
lấy làm kinh ngạc,mà hỏi thăm duyên cớ ra sao?
Vợ con Từ Ninh đáp rằng:
- Sau khi phu quân đi rồi, quan điểm danh không thấy,tôi phải
đưa kim ngân cùng các đồ trang sức để đút lót, mà nói dối là ốm nằm ở nhà. Sau
một hôm thấy thúc thúc Thang Long cầm áo giáp lông nhạn đưa đến, nói là áo đã
tìm thấy, song phu quân bị bệnh nguy ở giữa đường, phải đón cả nhà lên đó để
trông nom mới được. Tôi nghe nói tưởng thực phải vội vàng đi đến đây...
Từ Ninh nghe nói tới đó, lắc đầu bảo Thang Long rằng:
- Chú làm thế vẫn là xong việc, song cái áo tôi lại bỏ ở nhà,
thì thực là uổng quá.
Thang Long nói:
- Tôi nói cho Ca Ca mừng, sau khi chị cùng cháu lên xe đi nhờ
ông bạn tôi dẫn đi rồi, tôi về lấy cả áo giáp, thu cả đồ đạc và dỗ hai tên thị
nữ cùng đến đây kia...
Từ Ninh nói:
- Thôi vậy ta còn về Đông Kinh thế nào được nữa?
Thang Long lại bảo với Từ Ninh rằng:
- Còn có điều này nữa, tôi nói cho Ca Ca biết một thể. Khi đi
đường thấy có bọn khách buôn, tôi liền mặc cái áo giáp ấy, rồi bôi nhọ mặt đi,
xưng tên họ của Ca Ca mà đánh cướp tất cả tài vật... Chỉ nay mai là Quan Tư sức
giấy đi các nơi, để bắt Ca Ca đó.
Từ Ninh dẫm chân lên mà than rằng:
- Chú làm thế thì hại cho tôi to lắm.
- Tiều Cái,Tống Giang tìm lời uyển chuyển khuyên rằng:
- Nếu không làm thế, làm sao ngài chịu ở lại đây? Thôi xin
ngài đồng tâm hiệp lực mà cùng tụ nghĩa với nhau ở đây cho vui.
Nói đoạn sai dọn nhà cho vợ con Từ Ninh ở, rồi cùng nhau bàn
kế để phá trận ngựa Liên Hoàn.Bấy giờ Lôi Hoành đã thúc dốc đánh đủ câu liêm, Tống
Giang, Ngô Dụng bèn mời Từ Ninh ra dạy quân sĩ. Từ Ninh nói với mọi người rằng:
- Ngày nay sự thế đã xảy ra như vậy, thì tôi xin nhất tâm
đào luyện cho quân sĩ để chóng được nên công các ngài bất tất phải quan tâm cho
lắm.
Các vị Đầu Lĩnh nghe nói, đều lấy làm vui mừng, bèn cùng nhau
ra tụ nghĩa Sảnh, để xem Từ Ninh tuyển người dạy võ.
Cho hay:
Nước sâu kinh ngạc vẫy vùng,
Giang hồ len lõi anh hùng tìm nhau,
Giữa dòng thay đỗi bể dâu,
Ngoài khuôn nghĩa hiệp ai cầu ai chi?
Nợ đời nặng với tu mi,
Bắc Nam muôn dặm có khi cũng gần.
Đã lòng báo đáp thâm ân,
Vào sinh ra tử tấm thân sá gì?
Lời bàn của Thánh Thán:
Cái tài của tác giả Thi Nại Am, ta không biết đâu là bờ mà
nói hết. Đương bỗng dưng tả ra một bậc hào kiệt; thì đúng là bậc hào kiệt; Chợt
đâu tả ra một kẻ gian hùng, thì lại đúng là kẻ gian hùng; Chợt đâu tả ra một
gái dâm, thì lại đúng là một gái dâm; Chợt đâu tả ra thằng trộm cắp, thì lại
đúng là thằng trộm cắp...
Người ta có nói; Chẳng phải thánh nhân, không biết nổi thánh
nhân. Thế thì chẳng phải hào kiệt biết sao nổi hào kiệt? Chẳng phải gian hùng
sao biết nổi gian hùng? Thi Nại Am tả ra hào kiệt đúng như hào kiệt, Thi Nại Am
đã là hào kiệt hẳn rồi, còn ngờ gì nữa? Cũng như tả ra gian hùng đúng là gian
hùng, Thi Nại Am lại là gian hùng hẳn rồi, còn ngờ gì nữa? Tuy nhiên ta vẫn còn
nghi, vì bậc hào kiệt có tài của gian hùng, kẻ gian hùng có khí phách của hào
kiệt, lấy hào kiệt gồm gian hùng, hay là gian hùng gồm hào kiệt, để xét Nại Am,
thì cũng không lạ gì nữa.
Còn như Thi Nại Am quyết nhiên không phải như gái dâm trai trộm,
thế mà xem khi tả đến gái dâm thấy đúng gái dâm, tả đến thằng trộm thấy đúng thằng
trộm, thì nghĩa thế nào? Hỡi ôi! Ta biết ra rồi, chẳng phải gái dâm sao biết
gái dâm. Chẳng phải thằng trộm biết đâu thằng trộm, thế mà Thi Nại Am lại không
phải gái dâm; thằng trộm, đó là nghệ thuật văn chương phải biết hết ra; Há phải
nhà văn cứ là gái dâm mới tả nổi gái dâm hay là trôm cắp mới tả nổi trộm cắp...
Trong kinh dạy rằng: " Há lại chẳng nên biết hết, lòng
không rối loạn thì thôi, khắp mọi người thiên hạ, ai chẳng phải là dân của nhà
vua... Nếu mà đã động tâm làm ra gái dâm, làm ra trộm cắp... Có phải động tâm
mà chỉ làm được thế thôi đâu? Cho nên chỉ ba tấc bút, một tờ giấy của Thi Nại
Am khi động tâm đến gái dâm, động tâm đến trộm cắp... Tả ra như đúng do tâm động
đến mà nên, há phải con người cầm bút quệt mực, phải trèo tường khoét ngạch, mới
tả được nổi trộm cắp gái dâm?
Trong kinh dạy rằng: " Hoà hợp nhân duyên, không phép
nào chẳng có... "Từ xưa dâm phụ không có bản in nào sẵn phép dạy ra; Tài tử
cũng không bản in sẵn văn tự dạy ra...Do nhân duyên sinh phép, cái gì chẳng có?
Cho nên Long Thụ viết sách, muốn phá hết nhân duyên phẩm, mà không nhắc tới vì
ghét nhân duyên; Nay Thi Nại Am viết ra Thủy Hử, đã đem nhân duyên sinh pháp,
làm tổng trì của văn tự, rất đạt mọi nhân duyên; Một khi con người đã đạt mọi
nhân duyên, thì chả cứ phải gái dâm, trộm cắp, hào kiệt, với gian hùng, mà tả
ra đúng các loại người đó, trong khi tả đến loại nào, đều theo nhân duyên pháp
hoá ra. Vậy Thi Nại Am là hạng người nào? Chính là tài tử vậy? Trở nên tài tử
kia, đã học theo giảng đạo của Long Thụ, giảng theo cái học của Long Thụ đã nên
bồ tát cho nên cách vật trí tri...
Đọc bài phê này, có thể tự trị, vì sợ nhân duyên theo phép
thánh nhân rồi. Truyện nói: Răn giữ điều chẳng thấy, sợ hãi điều chẳng nghe ra,
đó vậy; Còn như trị người, thì không nghĩ ác, không nghĩ ác đã theo đạo Trung
Thứ của Thánh hiền; Truyện nói: Vương đạo bằng phẳng, lồng lộng...ó vậy. Thiên
hạ chả thiếu gì người học Thánh nhân phải có người dạy cho mới được.
Hồi này biến động văn tự, lại một dạng bút pháp khác ra, như muốn
phá trận ngựa, phải đồ câu liêm, muốn làm nổi phép câu liêm, phải lấy cắp được
áo giáp, do ngựa mà đến sang, do sang mà đến giáp. Hô Duyên Chước có ngựa lại
có súng; Từ Ninh có phép sang lại có giáp; Hô Duyên Chước phép ngựa chưa tan,
trận súng đã bị mất về Sơn Bạc; Từ Ninh phép sang chưa dạy, áo giáp đã bị mất về
Sơn Bạc. Nào khi khen ngợi ngựa Tích Tuyết Ô Truy; Nào khi khen ngợi áo giáp Kiễn
Đường Nghê, lại thấy đối nhau Gia tổ Từ Ninh truyền phép sang; Gia tổ Thang
Long truyền kiểu sang, hai tổ cùng truyền lại đối; Mà chợt đâu lại tả riêng ra
ngoài ý tưởng một tổ truyền giáp, đối với mấy hồi trước xa xa tả một thợ rèn
truyền từ nghiệp tổ, thấy trong hồi lắm đoạn kỳ văn.
Tả Thời Thiên vào nhà Từ Ninh, đã ngoài canh một, mà vợ chồng
Từ Ninh chưa ngủ, tả sau khi vợ chồng Từ Ninh ngủ, đã đến canh hai, mà Thời
Thiên chưa ăn cắp, lại sao? Vì nêu đề thì phải giảng văn cho hết, tức là phải tả
ra văn cho rõ một đề tài, nếu tả lược qua không hết đề, không có gì hay vậy.
Mấy hồi trên tả Chu Đồng gia quyến, bỗng đâu nảy thêm cậu ấm,
nảy ra tình thương con Tri Phủ; Hồi này tả vợ chồng Từ Ninh, thêm đứa con sáu bảy
tuổi, cho rõ họ Từ có con, thấy đời trước để lại áo giáp còn truyền mãi được,
làm văn phải hướng vào khi rỗi bút tả ra, theo phép Mao Thi, Sử Mã, tài tử Nại
Am học lỏm được nổi phép này.
Tả Thời Thiên một đêm nghe chuyện, nào lời người nhà, nào lời
vợ chồng ân ái, nào lời người chủ, nào lời nữ tỳ, nào lời trên lầu, nào lời đêm
khuya, nào lời ngái ngủ, câu nào ý ấy, nghe được rõ ra.
Thang Long, Từ Ninh thường nói hòm da dê đỏ, Từ Ninh còn thêm
câu; phía trong có bọc bông cẩn thận; Thang Long lại thêm câu; Có phải trên mặt
có thêu triện, và khoảng giữa thêu sư tử hý cầu... chỉ vì thế mà Từ Ninh có
công theo đuổi Từ Ninh rất khéo!
Do theo đuổi tới Sơn Đông, rồi đưa về Sơn Bạc, với đường đất
chẳng gần, chia ra bao nhiêu đoạn đánh lừa, có phép tắc, thấy khéo nói ra không
hết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét