Thứ Sáu, 3 tháng 4, 2020

Thủy hử 12

Thủy hử 12
Hồi 56:
Từ Ninh dạy phép Cân Liêm Sang;
Tống Giang phá trận Liên Hoàn Mã
Bấy giờ Tiều Cái, Tống Giang, Ngô Dụng, cùng các vị Đầu Lĩnh trông thấy Từ Ninh mình sáu thước năm tấc, mặt trắng phau phau, ba chòm râu đen rưng rức, lưng rộng vai to, rõ ra đường đường tu my nam tử, thì ai nấy đều vui mừng hớn hở trong lòng.
Khi tuyển quân xong, Từ Ninh liền xuống dưới sân Tụ Nghĩa sảnh, cầm cây Câu liêm sang múa mang một lúc, chúng trông thấy đều vỗ tay khen ngợi luôn mồm.
Từ Ninh bảo với quân chúng rằng:
- Phàm ngồi trên mình ngựa đánh Câu Liêm sang, thì lấy cỡ từ thắt lưng mà đánh,trên giữa bảy đường, ba lần giật, bốn lần lượn, một lần đâm, ba lần gạt, cộng có chín phép biến. Bằng đánh Câu Liêm dưới bộ, thì trước hết đi tám thước vung ra bốn mặt để lấy thế, rồi cứ mười hai bước một lần biến, mười sáu bước một lần giở mình chĩa Câu Liêm vừa đâm vừa giật, hai mươi bốn thước hất lên đè xuống, móc bên Đông, đánh bên Tây, ba mươi sáu bước quay mình như lọng che, cướp đánh lung tung không đâu không vỡ. Đó là phép chính đánh Câu Liêm Sang, có bốn câu thơ phải thuộc làm lòng để luyện.
Bốn rung, ba móc, thông bảy đường,
Chín lần biến đổi khác tay sang
Hai mươi bốn bước vung sau trước
Mười sáu bước nay, chuyển khác thường.
Từ Ninh đọc xong, lại cầm cây Câu Liêm, diễn theo phép chính một hồi ai trông thấy cũng đều vỗ tay khen ngợi. Từ đó trở đi, các quân sĩ ngày đêm luyện tập, không lúc nào trễ nải. Sau Từ Ninh dạy cho đám bộ quân, lấy cách nấp núp trong cỏ, móc chân giật cẳng, cùng ám pháp ba đường đánh dưới, đều bảo cho thông thạo hết cả.
Thấm thoát trong nửa tháng trời, trong sơn trại đã được sáu bảy trăm người đánh Câu liêm sang rất giỏi. Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh cả mừng, liền cùng nhau để sắp sửa phá trận ngựa Liên Hoàn.
Nói về Hô Duyên Chước, từ khi mất Bành Dĩ cùng Lăng Chấn, hàng ngày lại đem quân ra bến nước để khơi đánh. Trong sơn trại thấy vậy, chỉ cho các Đầu Lĩnh thủy quân ở dưới trại để coi sóc phòng bị, còn các bến nước thì để ngầm các cọc nhọn, để phòng khi thuyền bè các quan quân đến đánh, bởi vậy nên Hô Duyên Chước có đem quân hai đường bên Tây bên Bắc núi, song không thể nào lấn sang sơn trại được.
Bấy giờ trong sơn trại đã luyện được quân đánh Câu Liêm sang, và Lăng Chấn đã chế được nhiều thứ hỏa bác. Tống Giang liền bàn với các vị Đầu Lĩnh rằng:
- Binh pháp của Tôn, Ngô, lợi nhất là những nơi núi rừng chằm vũng. Vậy ngày nay ra trận không dùng đến ngựa, các Đầu Lĩnh đều đi bộ và đem quân bộ, chia làm mười đội để ra dụ giặc. Khi thấy mã quân bên kia kéo đến, thì ta kéo quân chạy tràn vào các nơi vũng lau rừng cỏ và cho các quân Câu Liêm nấp sẵn ở đó, cứ mười tên biết đánh Câu liêm sang, lại cho xen mười tên quân biết đánh gậy móc vào. Hễ khi quân mã chạy tới nơi, các quân Câu Liêm đánh trước, rồi đám kia thả gậy móc kéo ngựa lại để bắt...Như thế phỏng có được chăng?
Ngô Dụng khen rằng:
- Chính là phép dàn binh bắt tướng đó.
Từ Ninh cũng khen rằng:
- Phép đánh gậy móc trong trận Câu liêm cũng phải như thế mới được.
Tống Giang nghe nói liền cắt mười bộ đội quân ra đánh: Lưu Đường, Đỗ Thiên dẫn đội thứ nhất; Mục Hoằng, Mục Xuân dẫn đội thứ hai; Dương Hùng, Đào Tôn Vượng dẫn đội thứ ba; Chu Đồng, Đặng Phi dẫn đội thứ tư; Giải Trân, Giải Bảo dẫn đội thứ năm; Trâu Uyên, Trâu Nhuận dẫn đội thứ sáu; Nhất Trượng Thanh, Vương Nụy Hổ dẫn đội thứ bảy, Tiết Vĩnh, Mã Lân dẫn đội thứ tám; Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ dẫn đội thứ chín; Dương Lâm, Lý Vân dẫn đội thứ mười. Mười đội quân xuống núi để du địch đuổi theo.
Lại sai Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn, Đồng Uy, Đồng Mãnh, cùng Mạnh Khang cưỡi chiếc thuyền ra bến nước tiếp ứng. Hoa Vinh, Tần Minh, Lý Ưng, Sài Tiến, Tôn Lập, Âu Bằng, sáu người cưỡi sáu con ngựa dẫn quân ra bên núi khơi chiến. Lăng Chấn, Đỗ Hưng chuyên giữ việc bắn súng, Từ Ninh, Thang Long coi sóc đám quân Câu liêm. Trung quân thì có Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Đới Tung, Lã Phương, Quách Thịnh, coi sóc quân mã và sai bảo hiệu lệnh. Còn bao nhiêu Đầu Lĩnh đều ở nhà coi trại.
Khi cắt đặt xong vào khoảng canh ba đêm ấy, cho đội quân Câu liêm sang bên kia bến nước, ẩn nấp cẩn thận, rồi mười đội bộ quân sang sau. Lăng Chấn Đỗ Hưng đem súng phóng hỏa lên chỗ gò cao đặt giá súng cẩn thận tử tế để đợi, rồi Từ Ninh, Thang Long, cầm đồ hiệu lệnh Câu liêm sang sau. Đến tờ mờ sáng hôm sau, Tống Giang đóng nhân mã Trung quân ở bên Tây bến nước, đánh trống khua cờ để hư trương thanh thế, bấy giờ Hô Duyên Chước nghe báo Lương Sơn Bạc kéo ra, liền sai tướng Tiên Phong là Hàn Thao, đem ngựa Liên Hoàn ra bày trận trước. Đoạn rồi Hô Duyên Chước đai nịt cẩn thận, thân cưỡi ngựa Ô Truy, dắt đôi chùy theo sau ra trận.
Khi ra tới nơi, thấy quân mã Tống Giang, bày bên kia đông như kiến cỏ. Hô Duyên Chước liền sai bài trận mã quân lên trước, rồi Hàn Thao chạy đến bàn rằng:
- Đội quân của Tống Giang ở bên chính Nam kia không biết rằng nhiều hay ít?
Hô Duyên Chước nói:
- Bất kể nhiều hay ít, cứ thúc mã quân mà đánh trận đi.
Hàn Thao vâng lệnh, nổi hiệu toan kéo ngựa quân Liên Hoàn thẳng chạy sang phía chính Nam. Chợt thấy phía Đông Nam có một toán bộ quân kéo ra, Hàn Thao lại toan chia quân ra làm hai ngã để đón đánh. Chợt thấy phía Tây Nam cũng có một toán bộ quân kéo ra, cờ hiệu phất phới, trông rất oai nghiêm.
Hàn Thao trông thấy đành phải lui quân về, nói với Hô Duyên Chước rằng:
- Ba mặt phía Nam đều có ba toán quân nổi hiệu cờ Lương Sơn không biết chia đánh bên nào cho tiện?
Hô Duyên Chước nói:
- Lâu nay nó không ra đánh, nay tất có mưu mẹo chi đây?
Vừa nói dứt lời, thì phía bên Bắc nổi một tiếng súng rất to.
Hô Duyên Chước giận dữ mắng rằng:
- Tiếng súng đó chắc lại Lăng Chấn nối giáo cho giặc rồi.
Nói đoạn quay nom sang phía Bắc, lại thấy ba đội quân kéo cờ phất phới nhô lên. Hô Duyên Chước bàn với Hàn Thao rằng:
- Cái này chắc là mưu mẹo của quân giặc, vậy tôi dẫn một nửa quân sang đánh mặt Bắc, còn Tướng quân dẫn một nửa quân sang đánh mặt Nam mới được.
Nói xong vừa toan chia binh ra đánh, thì thấy phía Tây lại có bốn toán quân mã kéo ra. Hô Duyên Chước lấy làm nghi ngại không biết nghĩ kế ra sao? Chợt lại thấy về phía chính Bắc, có một dịp súng nổi lên, một tiếng súng cái, bốn mươi tiếng súng con, ầm ầm dậy đất long trời làm cho quân mã của Hô Duyên Chước không đánh cũng phải rối loạn.
Hô Duyên Chước thấy vậy, vội cùng Hàn Thao chia quân ra bốn mặt để đánh. Bên kia mười bộ đội quân, thấy đánh bên Đông, thì toán bên Đông chạy, thấy đánh bên Tây, thì toán bên Tây chạy, Hô Duyên Chước cả giận, liền dẫn quân thẳng sang mặt Bắc để đánh. Quân sĩ Tống Giang thấy Hô Duyên Chước kéo đến, bèn xô nhau vào khóm lách ngàn lau để trốn. Hô Duyên Chước đuổi ngựa Liên Hoàn để đánh. Đám ngựa thừa thế chạy tràn vào các nơi cỏ lau lách không sao cản nổi.
Chợt nghe thấy đám lau cỏ, có tiếng hiệu còi nổi lên, rồi bọn quân Câu liêm đều ra sức đánh ngã hai đoàn ngựa kèm hai bên, còn đám ngựa đi giữa thấy vậy, gào thét nhảy lên như châu chấu vậy. Bấy giờ những gậy móc đều đổ xô ra để trói lấy người.
Hô Duyên Chước thấy vậy, biết là trúng kế Câu liêm, bèn quay ngựa sang Nam để tìm Tiên Phong Hàn Thao. Bỗng đâu thấy súng nổ liên thanh ở ngay phía sau, rồi thấy đám bộ quân Lương Sơn đuổi theo rầm rập như nước vỡ bờ đê không ngăn cản nổi.
Hô Duyên Chước cả sợ, chạy tìm cho được Hàn Thao, rồi dẫn một ít quân mã tháo đường để chạy. Khi đó thấy về phía bên Nam man mác những cờ hiệu của Lương Sơn Bạc, hai người phải bỏ chạy phía Nam, mà tháo chạy sang đường Tây Bắc.
Hai chạy được dăm sáu dặm đường, chợt hiện ra một đội nhân mã có hai vị hảo hán là Mục Hoằng, Mục Xuân đều cầm đạo đao, ngăn trước đường đi mà quát lên rằng:
- Bớ bại tướng chạy đi đâu?
Hô Duyên Chước nghe nói, nổi giận đùng đùng, múa song chiên xông ngựa lại đánh nhau với hai hảo hán. Mục Hoằng, Mục Xuân giơ đao lên đỡ, đánh nhau đến bốn hiệp rồi hai người kéo nhau bỏ chạy.Hô Duyên Chước sợ trúng kế, không dám đuổi theo, liền tìm đường lớn về mặt chính Bắc mà chạy. Đương khi lật đật, chợt thấy cạnh sườn núi lại có một toán quân mã nhô ra, có hai vị hảo hán là Giải Trân, Giải Bảo đều cầm cương xoa chạy đến đón đánh. Hô Duyên Chước múa song chiến đấu với hai người, được dăm sáu hợp, thì Giải Trân, Giải Bảo bỏ chạy mất cả. Hô Duyên Chước đuổi theo chừng nửa dặm đường, lại gặp Nhất Thanh, Vương Nụy Hổ dẫn quân mã ra ngăn giữa đường. Bấy giờ Hô Duyên Chước trông quanh trông quẩn thấy lối khuất khúc toàn thị chông gai, chàng liền hết sức múa chùy đánh gạt người ra mà tháo chạy.
Vợ chồng Vương Nụy Hổ theo đuổi hồi lâu không kịp đành mặc cho Hô Duyên Chước chạy về lối Đông Bắc. Đoạn rồi Tống Giang khua chiên thu quân kéo về sơn trại, để ban định thưởng công.
Khi ra tra điểm, bắt được ba nghìn ngựa Liên Hoàn mặc giáp, chiatư mất già một phần bị Câu Liêm đánh què, liền lột lấy áo giáp cho vào hạng ăn thịt, còn già hai phần toàn thị ngựa tốt, giao cho nuôi giữ để phòng khi ra trận. Quân sĩ mặc áo giáp bắt được rất nhiều năm nghìn quân bộ, có kẻ trốn trong Trung quân bị Câu liêm kéo ra để bắt, mà kẻ nào nhảy xuống nước cũng bị thủy quân bắt được. Còn quân sĩ bị bắt khi xưa, nay lại cướp được mang về, quân sĩ hết thảy vui mừng hớn hở.
Đoạn rồi phá trại của Hô Duyên Chước, đem vào gần bến để làm tiểu trại, và cho người sửa lại hai tửu điếm ở ngoài, để cho Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Thạch Dũng, Thời Thiên, chia làm hai toán quân mà cùng nhau coi giữ. Được một lát thấy Lưu Đường, Đỗ Thiên bắt được Hàn Thao đem giải về, Tống Giang cả mừng, thân hành cởi trói cho Hàn Thao, mời vào trong sảnh tiếp đãi rất là long trọng, rồi bảo Bành Dĩ, Lăng Chấn dỗ dành Hàn Thao cùng vào đảng ở Lương Sơn. Hàn Thao nguyên cũng là một vị sao Địa Sát, nên vui lòng thuận phục mà ở với Tống Giang, Tống Giang liền bảo Hàn Thao viết thơ, rồi sai người đưa đến Trần Châu để đón vợ con Hàn Thao về đó. Bấy giờ trong sơn trại mở tiệc ăn mừng mấy hôm trời rất là vui vẻ, rồi các vị Đầu Lĩnh ai vào việc ấy, mà cùng nhau ra sức chấn chỉnh Lương Sơn:
Ngọn cờ nghĩa hiệp xa bay
Nước non nở mặt cỏ cây kinh hồn.
Cùng nhau ra sức hợp đoàn
Dưới trời này dễ ai còn sợ ai?
Nói về Hô Duyên Chước bị thua một trận, mất hết quân mã, chỉ còn trơ trọi một mình, không còn mặt mũi nào trở về kinh sư, liền nghĩ vơ vẫn, cởi cả mũ giáp buộc vào yên ngựa, rồi đem bán đai vàng, để làm lộ phí mà đi. Chàng vừa đi vừa nghĩ, không biết đâu cho ổn tiện. Chợt nghĩ đến quan Phủ Mộ Dung ở Thanh Châu là người quen biết từ xưa, liền định kế sang đó để nhờ Mộ Dung Tri Phủ, nói với Mộ Dung Tri Phủ đem công chuộc tội, rồi sẽ lấy quân đánh báo thù Lương Sơn Bạc.
Chàng đi đường trong hai ngày trời, chiều hôm đó đi đến một nơi, trong bụng vừa đói vừa khát, chợt thấy bên cạnh đường có một hàng cơm nho nhỏ, chàng bèn xuống ngựa buộc vào gốc cây trước cửa, rồi đi vào trong hàng. Khi vào tới hàng, chàng vất đôi chiên trên bàn, ngồi xuống ghế, gọi tửu bảo đem rượu thịt lên, tửu bảo chạy đến nói rằng:
- Hàng tôi chỉ có rượu thôi, ngài muốn xơi thịt, thì trong làng mới có người giết thịt dê, xin đưa tiền cho tôi đi mua vậy.
Hô Duyên Chước móc túi, lấy tiền vụng bán đai vàng còn lại, đưa cho tửu bảo mà dặn rằng:
- Người trả lại một đùi dê nấu chín cho ta ăn, và kiếm ít cỏ ngựa ăn một thể...Đêm nay ta ngủ đây, rồi sáng mai sang Phủ Thanh Châu...
Tửu Bảo nói:
- Thưa ngài ngủ ở đây cũng được, song không có giường chiếu tử tế.
- Được ta là quan võ nằm đâu cũng được...
Tửu bảo vâng lời, cầm tiền quay ra mua thịt.Hô Duyên Chước cởi áo mũ trên mình ngựa mang vào, rồi ngồi ở trước cửa để đợi tên tửu bảo.
Được một lát tửu bảo mang thịt dê về, Hô Duyên Chước bảo đem nấu chín thịt, làm ba đấu gạo; và hai nai rượu uống, tửu bảo vâng lời quay vào, vừa nấu thịt làm bánh, vừa hâm nước nóng để rửa mặt rửa chân. Đoạn rồi tửu bảo dắt ngựa vào buộc ở nhà nhỏ đằng sau cho ăn cỏ.
Hô Duyên Chước gọi lấy rượu lên uống trước.được một lát thịt chín Hô Duyên Chước gọi tửu bảo lên cho cùng ngồi ăn uống mà nói chuyện rằng:
- Ta là quan của triều đình, ra đánh giặc Lương Sơn bị thua, nay định về dưới quan Mộ Dung Tri Phủ ở Thanh Châu, người nên coi sóc con ngựa cẩn thận, ngựa ấy là con Tích Tuyết Ô Truy của vua ban cho ta đó. Ngươi coi cẩn thận, sáng mai ta sẽ thưởng cho...
- Ngài có lòng thương, chúng tôi xin cảm ơn...song có điều này chúng tôi xin kêu để ngài rõ: Gần đây có ngọn núi Đào Hoa Sơn, trên có một bọn cường đạo, tên đầu đảng là Đả Hổ Tướng Lý Trung, thứ nhì là Tiểu Bá Vương Chu Thông, tụ họp tới năm bảy trăm lâu la để cướp bóc kiếm ăn thần thường lại quấy nhiễu dân gian rất là hung ác. Quan Tư đã mấy lần truy nã, mà không sao trị được. Vậy đêm nay ngài phải tỉnh chút mới được.
- Được sức ta đây, mười vạn quân cũng không địch nổi, cho nó kéo cả tụi đến đây ta cũng không cần, ngươi cứ cho ngựa ăn uống tử tế cho ta...
Nói đoạn uống rượu ăn bánh, hồi lâu rồi mới đi nghỉ. Tửu bảo trãi một cái ổ ở giữa nhà cho Hô Duyên Chước nằm. Hô Duyên Chước vừa phần mấy hôm bị mệt nhọc lo nghĩ, vừa phần quá nhắp hơi men, có điều say chếnh choáng, liền để nguyên áo nằm vật xuống ổ ngủ luôn một mạch, mãi đến canh ba mới dậy, chợt thấy tửu bảo kêu la ầm ỷ ở sau nhà. Hô Duyên Chước vội vàng trở dậy, với lấy đôi chiên chạy ra nhà sau hỏi tửu bảo:
- Làm chi mà kêu ầm lên thế?
- Tửu bảo nói:
- Ngài ôi!Tôi đây bỏ cỏ cho ngựa, chợt thấy hàng dậu bỏ tung ra, mà ngựa đi đâu mất... Trông ra xa xa thấy có đóm đóm soi sáng ở quãng bốn năm dặm kia, chắc là tụi nó lấy mất ngựa rồi.
- Chỗ ấy là chỗ nào?
- Thưa ngài cứ theo con đường ấy, thì chính là tụi lâu la, ở Đào Hao Sơn ăn cắp ngựa về lối đó...
Hô Duyên Chước cả kinh, bắt tửu bảo phải dẫn đường để đuổi theo. Tửu bảo dẫn chàng đi tắt bên bờ ruộng gập gà gập gềnh, đuổi chừng ba bốn dặm đường, lại không thấy ánh lửa đâu nữa. Hô Duyên Chước thở dài kêu lên rằng:
- Chết nỗi! Mất con ngựa của vua ban cho thì làm thế nào được bây giờ?
Tửu bảo nói:
- Xin ngài đành để mai đi trình Quan Tư gần đây, rồi đem quân đánh phá, mới có thể cướp ngựa về được. Hô Duyên Chước nghe nói, trong bụng rất băn khoăn buồn bã, trở về tửu điếm, khoanh tay ngồi đợi đến sáng, rồi mượn Tửu bảo quảy giáp mã lên đường sang phủ Thanh Châu.
Khi xưa cờ mở trống dong.
Giờ sao thui thủi non sông một mình?
Anh hùng gặp bước lênh đênh,
Liếc trông đất đỏ trời xanh thêm sầu!
Chiều tối hôm đo, ù Hô Duyên Chước đi đến thành Thanh Châu ngủ trọ ở ngoài hàng một tối, đến sáng hôm sau mới đi vào trong phủ. Khi vào tới nơi, quan Phủ Mộ Dung thấy Hô Duyên Chước, liền giật mình cả kinh mà hỏi:
- Nghe nói Tướng quân đánh bắt giặc Lương Sơn, sao lại đến đây như thế?
Hô Duyên Chước thở dài, đem các chuyện trước thuật cho Tri Phủ nghe.
Tri Phủ nghe đoạn nói với Hô Duyên Chước rằng:
- Tướng quân dẫu bị thua thiệt mất cả nhân mã, song chẳng qua mắc phải gian kế của giặc, chứ không phải tội của Tướng quân. Vả lại trong hạt tôi, hiện nay cũng nhiều giặc cỏ, thường hay quấy nhiễu dân gian, vậy Tướng quân hãy tạm ở đây, đánh phá bọn Đào Hoa Sơn, cướp lại con ngựa Ô Truy, rồi sau sẽ đánh núi Nhị Long, núi Bạch Hổ mà trừ hết đảng cướp ấy đi. Bấy giờ tôi xin hết sức với triều đình, cho Tướng quân đi đánh báo thù. Tướng quân nghĩ sao?
Hô Duyên Chước tạ ơn mà rằng:
- Nếu được ân tướng có lòng hạ cố như vậy, thì thực là hạnh phúc cho tôi lắm...
Tri Phủ nghe nói, liền sai người mời Hô Duyên Chước,vào nghỉ trong phòng, lấy quần áo cho thay, rồi cho tiền tên tửu bảo trở về. Hô Duyên Chước ở đấy luôn trong ba ngày, trong lòng lấy làm nóng sốt, mong lấy lại con ngựa Ô Truy, liền thúc giục Tri Phủ Mộ Dung để cho khởi quân đi đánh.
Tri Phủ điểm hai nghìn bộ quân cho Hô Duyên Chước mượn, và cho mượn một con ngựa Thanh Thông để đi ra trận.Hô Duyên Chước vâng lạy tạ ơn, mà mặc áo giáp lên ngựa, dẫn quân tới núi Đào Hoa.
Bọn Lý Trung, Chu Thông ở núi Đào Hoa, từ khi cướp được con ngựa Ô Truy, trong bụng lấy làm mừng hớn hở, mà hằng ngày chè chén hỉ hả với nhau, chợt hôm đó thấy tiểu lâu la vào báo, có quân mã Thanh Châu kéo đến, Chu Thông đứng dậy bảo Lý Trung rằng:
- Xin Ca Ca coi trại, để tôi dẫn binh ra đuổi họ đi.
Nói đoạn điểm một trăm lâu la, cầm thương lên ngựa xuống núi để nghinh địch quan quân.
Bên kia Hô Duyên Chước kéo quân tới, liền bày thành trận thế, đứng chực ở trước núi. Khi thấy Chu Thông ở trên núi xuống liền xông ngựa ra trước trận quát lên rằng:
Quân giặc cỏ kia, mau mau đến chịu trói đi.
Chu Thông nghe tiếng, liền dàn quân đứng thành chữ nhân, rồi cũng múa gươm vỗ ngựa xông ra.Hô Duyên Chước liền giơ chiên ra đánh Chu Thông, Chu Thông giơ gươm ra đỡ. Đôi bên đánh nhau chừng sáu bảy hiệp. Chu Thông biết thế không địch nổi, liền quay ngựa chạy về trên núi. Hô Duyên Chước theo đuổi mấy bước, sợ mắc mẹo lừa đành phải quay ngựa chạy về, đem quân hạ trại dưới núi.
Chu Thông chạy về sơn trại nói với Lý Trung rằng:
- Hô Duyên Chước võ nghệ cao cường, không sao địch nổi, nếu nay mai họ kéo cả lên sơn trại đây, thì anh em ta biết làm thế nào cho được?
Lý Trung nghĩ một lát rồi nói:
- Ta nghe Lỗ Trí Thâm, ở bên núi Nhị Long có nhiều bè bạn, lại có anh chàng nào, tên gọi Thanh Diện Thú Dương Chi, và anh Hành Giả Võ Tòng, đều sức khoẻ muôn người không địch, vậy bất nhược ta viết một phong thư sai lâu la đem sang cầu cứu một phen. Nếu sau này đuổi được quan quân, thì ta sẽ nương nhờ vào họ, mà hàng tháng chịu đưa cống biếu cho yên, như thế có lẽ tiện hơn.
Chu Thông nói:
- Tôi cũng vốn biết các vị hào kiệt bên ấy, song chỉ e Hoa Hoà Thượng nhớ đến câu chuyện ngày xưa, mà không đến cứu thì làm sao được?
Lý Trung cười rằng:
- Không, ông ta tính thẳng, bụng tốt, nay sai người đến tất là ông ta đến cứu.
- Nếu vậy xin Ca Ca viết giấy mau đi.
Lý Trung liền lấy giấy viết thư kể hết đầu đuôi. Rồi sai một tên lâu la theo lối sau núi, mang thư lên sang núi Nhị Long.
Nói về chùa Bảo Châu bên núi Nhị Long, từ khi Lỗ Trí Thâm, Dương Chí, Võ Tòng đến ở được ít lâu, lại thêm có bốn người Tiểu Đầu Mục đấn nhập bọn ở đó; Một người là Kim Nhỡn Bưu Thi Aân nguyên là con Lão Quản Doanh ở lao thành Mạnh Châu, nhân vì Võ Tòng giết chết nhà Trương Đô Giám, bị Quan Tư đến truy nã vây bọc quanh nhà, để bắt Võ Tòng, nên toàn gia phải dắt nhau đi trốn tránh giang hồ. Sau bố mẹ Thi Aân đều chết, lại nghe nói Võ Tòng đến lạc thảo ở núi Nhị Long, bèn tìm đến đó để cùng Võ Tòng nương tựa. Một người là Tháo Đao Quỹ Tào Chính, trước đã cùng Lỗ Trí Lâm mưu giết Đặng Long cướp núi Nhị Long, rồi sau nhập đảng ở đó. Một anh là Thái Viên Tử Trương Thanh, và vợ là Mẫu Nhược Xoa Tôn Nhị Nương, hai vợ chồng chuyên bán thịt người ở Thập Tự đất Mạnh Châu, sau nhân Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng viết giấy dỗ dành nên mới đến đó nhập đảng.
Hôm ấy Tào Chính nghe nói có thư bên núi Đào Hoa đưa sang, chàng liền hỏi han cặn kẽ đầu đuôi rồi vào trong điện bẩm với ba vị Đầu Lĩnh.
Lỗ Trí Thâm nghe Tào Chính nói liền cười mà rằng:
- Ngày trước ta ở Ngũ Đài Sơn đi tới thôn Đào Hoa ngủ trọ ở đó, rồi gặp thằng cha Chu Thông, đánh cho một mẻ thật là xiểng liểng. Sau Lý Trung nhận biết ta, lại mời sang chè chén một ngày, kết làm anh em và mời làm chủ trại. Ta nhận thấy chúng bụng dạ hẹp hòi, nên không muốn ở, bèn thầu của chúng mấy cái chén uống rượu bằng bạc mà trốn đi mất... Từ bấy cho đến nay... Nay lại cho người sang cầu cứu đến ta... Hãy gọi tên tiểu lâu la lên đây, xem nó nói ra sao đã?...
Tào Chính vâng lời ra dẫn tên tiểu lâu la vào. Tiểu lâu la vào dưới điện, lạy chào mà nói rằng:
- Quan Mộ Dung Tri Phủ mới thâu được một viên tướng đánh Lương Sơn Bạc bị thua, tên là Hô Duyên Chước, hiện sai sang đánh Đào Hoa Sơn, để cùng phá Nhị Long Sơn, Bạch Hổ Sơn nhân thể, rồi sẽ cho mượn quân đến đánh báo thù Lương Sơn Bạc. Bởi vậy Đầu Lĩnh chúng tôi muốn sang nhờ Nhị Long ra tay cứu giúp cho, rồi sau khi xong việc sẽ nộp khỏan cung cống trước cửa Đại Vương đây.
Dương Chí nghe nói bảo với tên lâu la rằng:
- Chúng ta ở đây cũng phải coi giữ sơn trại, lẽ ra không thì giờ đâu mà cứu ứng các ngươi. Song một là ta nghĩ đến danh nghĩa của bọn hào kiệt giang hồ, hai là e khi Đào Hoa bị mất thì chúng lại ròm rõ đến đây, vậy nay ta cho Trương Thanh cùng Tôn Nhị Nương coi trại ở nhà, còn ba anh em ta hãy xuống qua đó đánh giúp một phen cho phải đạo...
Nói đoạn lập tức điểm năm trăm lâu la, hơn sáu mưới quân kỵ đều chỉnh tề giáo gươm mũ giáp, mà kéo nhau sang núi Đào Hoa.
Lý Trung nghe biết tin đó, liền đem ba trăm quân xuống núi để ráp đánh. Bên kia Hô Duyên Chước nghe báo Lý Trung kéo quân xuống, bèn dẫn quân bày trận chận ngang đường, rồi xông ngựa ra đánh Lý Trung.
Nguyên Lý Trung tổ quán ở Định Nghĩa, thuộc phủ Hào Châu, xưa nay chỉ nhờ nghề đánh gậy để kiếm ăn, tướng người nhỏ bé mà võ nghệ tầm thường nên vẫn gọi là Đả Hổ Tướng.
Bấy giờ Lý Trung đánh nhau với Hô Duyên Chước chừng mươi mười lăm hiệp, thấy sức yếu đuối không sao địch nổi, đành phải quay ngựa chạy lui. Hồ Duyên Chước bèn phóng ngựa đuổi theo lên núi.
Tiểu Bá Vương Chu Thông thấy Hô Duyên Chước leo lên, bèn đứng ở lưng chừng núi mà ném đá xuống. Hô Duyên Chước vội vàng quay ngựa trở xuống mà không dám đuổi nữa.
Đương khi đó bỗng thấy đám quân mã đằng sau ồn ào cả lên, Hô Duyên Chước liền hỏi:
- Có việc chi mà kêu ầm lên thế?
Quân sĩ đáp rằng:
- Phía sau có một đám nhân mã nào kéo đến, xin ngài kịp tới nom xem. Hô Duyên Chước nghe nói vội vàng xông lại đằng sau để xem, thì thấy đội nhân mã đã kéo gần đến nơi, có một ông sư phệ bụng cưỡi con ngựa trắng đi đến trước tiên mà quát lên hỏi rằng:
- Đứa nào là thằng thua trận ở Lương Sơn Bạc, mà dám đến đây bắt nạt chúng ta đó?
Hồ Duyên Chước nghe nói cũng quát lên rằng:
- Ta hãy giết thằng trọc này cho hả lòng một chút đã.
Nói đoạn múa song chiên đến đánh, bên Lỗ Trí Thâm cũng múa thuyền trượng xông vào, rồi hai bên đánh nhau đến bốn năm mươi hiệp, mà không phân được thua.
Hồ Duyên Chước thấy vậy khen thầm trong bụng rằng:"không ngờ lão sư này khá lắm!"Nghĩ đoạn rồi đôi bên khua chiêng thu quân.
Được một lát Hô Duyên Chước lại hăng hái xông ra trận, mà quát lên rằng:
- Lão sư hổ mang ra đây, ta quyết được thua với ngươi phen này.
Lỗ Trí Thâm nghe nói, vừa toan quất ngựa xông ra, thì Dương Chí vội kêu lên rằng.
- Đại Ca hãy nghĩ để tôi bắt thằng này cho.
Nói đoạn múa đao vỗ ngựa xông ra đánh Hô Duyên Chước.
Đôi bên đánh nhau bốn năm mươi hiệp, không quyết được thua, Hô Duyên Chước lại khen thầm rằng:"Quái lạ! Ở đất này mà lại có hai tay võ nghệ giỏi như thế? Quyết nhiên không phải là giặc cỏ hẳn? "
Bên kia Dương Chí thấy Hô Duyên Chước võ nghệ cao cường, cũng lừa miếng phá đỉnh rồi quay ngựa về bản trận. Hồ Duyên Chước thấy vậy,dừng ngựa lại mà không dám đuổi nữa. Đoan rồi đôi bên cùng khua chiên thu quân.
Lỗ Trí Thâm nói với Dương Chí rằng:
- Chúng ta mới đến đây không nên đóng trại ở gần, phải lui ra ngoài hai dặm mà hạ trại, rồi sáng mai sẽ đánh một mẻ cho quyết được thua...
Bàn xong liền kéo quân ra gò núi gần đó để đóng trại.Hôm đó, Hô Duyên Chước trở về trong trướng một mìng lo nghĩ băn khoăn, những tưởng rằng ngựa đến nên công, dể như phá trúc, dè đâu lại gặp tay đối thủ với mình, thực là vận đen quá đổi!
Đương nghĩ ngợi vẫn vơ, bỗng thấy Mộ Dung Tri Phủ cho người đến báo rằng:
- Ở phủ Thanh Châu, hiện có Khổng Minh, Khổng Lượng ở Bạch Hổ Sơn, dẫn người đến cướp ngục, vậy phải mang quân về coi thành lập tức...
Hô Duyên Chước nghe báo, bèn thừa thế kéo quân về Thanh Châu lập tức. Ngày hôm Lỗ Trí Thâm, Dương Chí và Võ Tòng dẫn tiểu lâu la kéo cờ khua trống ra xem, thì chỉ thấy trơ trơ có trại không, mà nhân mã kéo đi đâu mất. Ba người thấy vậy cả kinh mà không hiểu ra sao? Đoạn rồi thấy Lý Trung cùng Chu Thông dẫn người xuống núi đón tiếp, ba vị Đầu Lĩnh cùng nhau kéo lên sơn trại, trong sơn trại mở tiệc khao mừng rất vui vẻ, huyên náo.
Bên kia Hô Duyên Chước vừa dẫn binh mã đến Thanh Châu, chợt thấy một toán nhân mã của Khổng Minh,Khổng Lượng kéo đến bên thành, chàng liền phóng ngựa múa chiêng xông ra để đánh. Nguyên Khổng Minh, Khổng Lượng vì cạnh tranh với một người tài chủ trong làng, gặp lúc nóng máu giết chết cả nhà tài chủ, rồi tụ tập dăm bảy trăm lâu la mà chiếm giữ Bạch Hổ Sơn, để cùng nhau cướp bóc tung hoành. Sau có một người chú là Khổng Tân, bị Tri Phủ bắt giam trong ngục Thanh Châu, nên Khổng Minh,Khổng Lượng đen quân mã sơn trại định đến phá ngục Thanh Châu, để cứu người chú.
Hôm đó kéo lâu la gần đến bên thành, thì gặp Hô Duyên Chước kéo quân đến đánh. Khổng Minh,Khổng Lượng bèn đem quân ra đối địch với Hô Duyên Chước. Bấy giờ Tri Phủ Mộ Dung đứng ở trong thành nom ra, để xem hai bên đánh nhau được hai mươi hiệp, Hô Duyên Chước thấy hai anh em Khổng Minh Khổng, Lượng tầm thường, liền ra sức bình sinh sấn đánh hai người mà khoe tài trước mặt Tri Phủ.
Khổng Minh, Khổng Lượng đấu được một lúc, thế lực cũng hơi kem kém, bất đồ chậm tay lỡ bước, bị Hô Duyên Chước bắt sống được Khổng Minh mà cắp qua mình ngựa.
Khổng Lượng lấy làm ngã lòng, vội dẫn lâu la kéo nhau để chạy. Tri Phủ đứng trên mặt thành, trỏ bảo Hô Duyên Chước đuổi theo.
Hô Duyên Chước kéo quân đuổi bắt sống được hơn trăm người,rồi đem cả Khổng Minh,đem giải vào Thanh Châu. Quan Phủ Mộ Dung lấy làm mừng rỡ sai đem Khổng Minh đóng gông tử tội, giam vào trong lao với Khổng Tân, rồi nhất diện khao thưởng tam quân, mà thiết đãi Hô Duyên Chước.
Tri Phủ hỏi đến chuyện Đào Hoa Sơn?
Hô Duyên Chước đáp rằng:
- Chúng tôi định đến phá núi Đào Hoa Sơn, thì dễ như phá trúc, dè đâu bị một tụi quân đến cứu ứng, trong đó có một lão sư to lớn, và một anh hùng mặt xanh, đánh nhau đến hai lần, không sao mà thắng được. Hai anh ấy võ nghệ khá giỏi, quyết không phải là võ nghệ tầm thường như đám cướp bóc, bởi vậy nên quyết chưa được thành công.
Tri Phủ cười rằng:
- Lão sư ấy nguyên là tên Lỗ Đạt, làm chức Đề Hạt trong phủ Lão Trung Kinh Lược ở Diên An Phủ, sau mới cắt tóc đi tu, người ta gọi là Hoa Hoà Thượng đó; Còn anh chàng mặt xanh tên là Thanh Diện Thú Dương Chí, làm quan đến Chế Sứ Điện Suý Phủ ở Đông Kinh khi trước; lại còn một anh hành giả nữa, tên là Võ Tòng, tức là Võ Đô Đầu đánh hổ ở núi Cảnh Dương năm nọ. Ba người đó chiếm núi Nhị Long, tung hoành cướp bóc, mấy người Bộ Đạo tới nay vẫn không sao trừ được.
Hô Duyên Chước lắc đầu mà rằng:
- Quả nhiên võ nghệ của họ, không mấy người theo kịp, xưa nay có tiéng Dương Chế Sứ, Lỗ Đề Hạt thực là xứng lắm. Nhưng mặc lòng, tướng cồn không ngại, tôi đã đến đây, tất xin bắt sống từng người,để đem về nộp Tướng Công mới hả lòng.
Tri Phủ nghe nói cả mừng, liền rót rượu chúc cho Hô Duyên Chước,rồi lưu nghỉ ở phòng khách trong phủ.
Về phần Khổng Lượng hôm đó bị thua một trận xiểng liểng liền cho lũ quân tàn kiếm đường chạy mau cho thoát. Đương khi kéo quân tháo chạy, bỗng thấy ở khu rừng phía trước, có một toán quân sĩ kéo ra, rồi thấy một vị hảo hán là Võ Hành Giã cưỡi ngựa cầm đao đi trước.
Khổng Lượng trông thấy, vội vàng xuống ngựa lạy rạp xuống đất mà rằng:
- Kính chúc ngài lâu nay được mạnh khoẻ...
Võ Tòng đỡ dậy đáp rằng:
- Nghe nói anh em túc hạ chiếm núi Bạch Hổ, đã mấy phen toan sang bái kiến, mà chưa có thì giờ để sang hầu được. Vậy nay chẳng hay túc hạ có việc gì qua tới nơi đây?
Khổng Lượng liền đem chuyện cứu Khổng Tân và Khổng Minh bị bắt mà thuật lại cho Võ Tòng nghe.
Võ Tòng bảo Khổng Lượng rằng:
- Nếu vậy túc hạ không ngại... Tôi có sáu bảy anh em cùng nhau tụ nghĩa ở núi Nhị Long, nay vì Lý Trung, Chu Thông bên núi Đào Hoa bị Hô Duyên Chước kéo quân đến đánh, phải cầu chúng tôi sang cứu. Tôi cùng Lỗ Đề Hạt, Dương Chế Sứ có đem lâu la sang đánh nhau một trận, không biết vì sao, bỗng dưng Hô Duyên Chước bỏ trại chạy trốn ngay đi đâu mất. Nhân vậy họ lưu ba anh em chúng tôi ở lại uống rượu, mà tặng cho con ngựa Tích Tuyết Ô Truy rồi giữ mãi đến bây giờ mới tháo ra về được. Hai người anh em chúng tôi đi sau kia... Để các ông ấy đến đây, tôi bàn cách cứu túc hạ có được không?
Khổng Lượng cúi đầu lạy tạ mà rằng:
- Nếu được các ngài hạ cố như vậy, thì còn gì hơn nữa.
Nói đoạn hai người cùng đứng một lát,thì thấy Lỗ Trí Thâm cùng Dương Chí cỡi ngựa đi đến, Võ Tòng liền dẫn Khổng Lượng đến chào hai người,rồi thuật chuyện cho nghe và lại nói rằng:
- Khi trước tôi cùng Tống Công Minh ở nhà ông ta quấy quả cũng nhiều, vậy ngày nay nên lấy nghĩa khí làm trọng, phải lấy nhân mã ba núi, đến dánh Thanh Châu, giết Tri Phủ Mộ Dung cứu hai người ấy ra, rồi bắt Hô Duyên Chước,cướp lấy Phủ Khố tiền nong, để đem về sơn trại các ngài nghĩ sao?
Lỗ Trí Thâm nghe nói, gật đầu đáp rằng:
- Tôi cũng theo ý như vậy.
Nói đoạn liền cho người bảo với Lý Trung, Chu Thông đem lâu la đến, để cùng tụ họp ba núi mà tiến đánh Thanh Châu.
Dương Chí lại nói với ba người rằng:
- Phủ Thanh Châu Hào sâu thành vững, ngựa khoẻ, quân nhiều, lại thêm co Hô Duyên Chước là tay anh hùng trí dũng... Việc này không phải là tôi rút rát làm giảm uy phong của mình... Song muốn đánh Thanh Châu, thì tất phải nghe tôi lời này mới được.
Ba người nghe nói, đều lấy làm ngạc nhiên không hiểu, liền xúm lại để xem Dương Chí bàn định ra sao?
Cho hay:
Bốn phương sôi nổi tăm kinh
Trò đời hai chữ "bất bình"gây nên
Anh hùng lắm bước truân chuyên
Nước non vương mãi chút duyên tang bồng
Đôi phen gió cuốn bụi hồng
Lò than nghĩa hiệp càng nồng hơn xưa.
Bắc nam ai hẹn bao giờ,
Chẳng qua cùng một thế cờ phải xoay.
Lời bàn của Thánh Thán:  
Tác giả tả Tống Giang chia ra mười đội quân dụ địch, không chia ra từng phương diện (nơi nào), chỉ nhất tề ra đi, đến sáng ra mới tả ba mặt dụ quân cùng chẳng chia ra đội hiệu, cũng lại nhất tề kéo đến, tuy rằng một chốc thế văn trên giấy, xem như núi lỡ mưa sa, lửa bầng đồng nội, song khiến cho trong lòng độc giả không biết đầu đuôi đánh tự chốn nào, kể cũng buồn buồn, buồn buồn chưa xong, lại bỗng đâu đánh nhoàng ở phía Tây Bắc Mục Hoằng, Mục Xuân, phía chính Bắc Giải Trân, Giải Bảo: Đông Bắc đánh nhoàng ra Vương Nụy Hổ, Nhất Trượng Thanh, vậy bảy đội kia khổ chiến tựa mây mờ khiến ba đội này như rồng thò nanh vuốt, thì bảy đội khôn lường, cho tỏ ba đội xuất kỳ, có ba đội rõ ràng, càng thấy bảy đội kia thần biến, chẳng duy thế mà thôi. Sau khi thu quân để định công chợt đâu lại đánh nhoàng hiện ra một đội Lưu Đường, Đỗ Thiên bắt sống Hàn Thao... Hỡi ôi! Trước đoạn này có chiến, sau đoạn này có chiến, theo phép chuyện, hoặc trước chỉnh sau biến, hoặc trước mất đi sau rõ ra, cái lạ vốn không lạ bằng suốt hồi khi đó không rõ ràng ra, đến cuối mới đánh nhoàng một cái, hai cái, ba cái hiện ra, tưởng là hết, cuối cùng còn đánh nhoàng một cái nữa hai người, lại tả nốt ra.
Đương khi tả ra mỗ này, mỗ này... là mười đội, mỗ này, mỗ này... phong pháo; mỗ này, mỗ này... là cầm lệnh, đều bất đã định đâu vào đấy cả rồi. Đến sáng ngày chợt đâu tả ra mười đội, bỗng dưng tả phóng pháo; bỗng dưng tả nổi hiệu, bấy giờ độc giả, chính đọc mười đội, chợt đâu chỉ tah61y pháo nổ; đương đọc chỗ phóng pháo, chợt đâu lại là mười đội, đương đọc chỗ mười đội, chợt đâu nghe nổi hiệu, đương xem nổi hiệu chợt đâu lại nghe pháo nổ, khiến cho trên giấy bấy giờ cũng mấp máy động lên, chẳng thể nào không khiến độc giả khỏi ù tai choáng mắt, mà cũng không khai rằng chính tác giả đã nhàn tâm, vội bút thế nào, lạ thay! Kỹ thuật tả văn đến thế!
Ta đọc đoạn văn Hô Duyên Chước yêu ngựa, mà chẳng hay giọt lệ nhỏ sa, sao vậy? Vì Hô Duyên Chước yêu ngựa, chẳng phải cứ riêng rằng thú của vua ban, cũng chẳng cứ nó là thần mã mới tiếc! Cũng lại không phải trông cậy vào nó để khôi phục hùng oai? ? ? Chỉ vì thiên hạ cản ngăn, có gì sâu xa bằng cùng cơn hoạn nạn, mà tình con người chẳng gì nặng bằng nghĩa giúp nhau lâu. Xét ra cùng cơn hoạn nạn, thì từng có một chỗ sống chết với nhau; mà giúp nhau lâu, thì thực có tính tình như một, thế thì còn phải bàn gì thân với sơ, hay người với vật, hay có tình với không tình???
Ta có người bạn trẻ, khi nhỏ ở trường làng, mà chơi thân chẳng lúc nào rời nhau, dẫu của quý vì thiên hạ, cũng không bằng người bạn trẻ ấy, mà thiên hạ yêu ta cũng không ai bằng người bạn trẻ, thường với bạn ta đi lại, dù gió sớm mưa hôm cũng mò đến với nhau, dẫu của quý vì thiên hạ cũng không bằng người bạn trẻ ấy, mà thiên hạ biết ta cũng không ai hơn người bạn trẻ ấy, ai ngờ người bạn trẻ mất đi; ta có một cái vòng chất nó xanh xám, làm kiểu thô sơ, của chơi thiên hạ chả gì xấu hơn nó nữa, từ nhỏ bà ta đeo vào người, không ngày nào chẳng đeo vòng, cũng như một quan thứ sáu trong năm quan: Một ngón tay nữa ở trong mười ngón, không may qua sông rơi xuống giữa dòng, đến nay như thiếu một quan, như cụt một ngón, với ba thứ đó, thiên hạ thiếu gì? Song ta nghĩ thủa nhỏ ngồi trong cửa sổ trường học tư làng, mỗi khi chiều học xong, mặt trời xế bóng, như thế bao năm coi tựa một ngày, ta đến nay vẫn tiếc ngồi trong cửa sổ, còn ngờ thân vẫn ở trường xưa... Hỡi ôi! Con người đạo học, thì tại sao không cảm thông tình? Thế mà thiên hạ nói cảm nói tình, ta vốn biết rồi, ta chỉ rất ghét thiên hạ cứ nói cảm nói tình, mà không làm được đến nơi đến chốn! Cho nên duy việc Hô Duyên Chước yêu ngựa, mà đặc biệt nêu ra. 
Hồi 57:
Họp Tam Sơn, đánh phủ Thanh Châu
Kết đồng tâm, về nơi Thủy Bạc
Khi đó Dương Chí nói với mọi người rằng:
- Xưa nay tôi vẫn nghe tiếng Tống Công Minh ở nơi Sơn Bạc, là một người anh hùng đại lượng, đã thường nổi tiếng trong đám giang hồ, vả chăng Hô Duyên Chước lại là cừu nhân của Lương Sơn Bạc, vậy anh ta muốn đánh phủ Thanh Châu, thì trước hết phải mời Tống Công Minh cùng đến họp quân với anh em ta đây, và hợp cả hảo hán ở Đào Hoa Sơn, để cất binh ra đánh, thì mới có cơ tất thắng mà cứu người ra được. Việc đó chẳng hay các ngài nghĩ sao?
Lỗ Trí Thâm nói:
- Phải, tôi cũng thường nghe Tống Tam Lang là người tốt mà chưa được gặp bao giờ? Ngày trước ông ta ở núi Thanh Long với Hoa Tri Trại, tôi đã toan đến đó cho gặp một lần. Dè đâu khi cất chân ra đi, thì ông ta đã cất chân đi rồi, thế mà không được gặp, thực là vô duyên quá; phải, nay nếu Khổng Lượng muốn cứu anh em ra, tất phải thân hành lên mời ông ta để mặc chúng tôi ở đây, chống cự với đám Thanh Châu cũng được.
Khổng Lượng nghe nói lấy làm phải, liền giao đám tiểu lâu la cho Lỗ Trí Thâm, rồi dẫn một người bạn, dáng ăn mặc giả làm khách buôn, mà lập tức lên Lương Sơn Bạc. Khi Khổng Lượng đi rồi, Lỗ Trí Thâm cùng Dương Chí, Võ Tòng trở về sơn trại, gọi Tào Chính, Thi Ân, dẫn mấy trăm tiểu lâu la đi đánh Thanh Châu, và báo cho Lý Trung, Chu Thông cùng đem quân đến Thanh Châu để đánh.
Bên kia Khổng Lượng đi gần tới Lương Sơn Bạc, lần vào hàng cơm của Thôi Mạnh Phán Quan, để lần hỏi thăm đường lên núi, Lý Lập thấy hai người lạ mặt đến hỏi, liền mời ngồi trong hàng rồi hỏi rằng:
- Các ngài ở đâu đến đây?
Khổng Lượng đáp:
- Chúng tôi ở Thanh Châu đến.
- Các ngài định lên Lương Sơn Bạc tìm ai?
- Tôi có một người quen ở đó, muốn tìm đến chơi.
- Trong trại toàn thị các Đại Vương ở đó, ông lên thế nào được mà hỏi thăm?
- Vâng! Tôi định đến tìm Tống Đại Vương đây...
- Có phải vậy, thì xin cứ ngồi đây, rồi tôi sẽ bảo...
Nói đoạn liền sai đem rượu tiếp phong mời Khổng Lượng uống.
Khổng Lượng thấy vậy liền hỏi:
- Chúng tôi không được quen biết bao giờ, sao ngài lại cho uống rượu làm vậy?
Lý Lập nói:
- Nguyên ngài không biết, sơn trại tôi mở mấy ngôi hàng đây, là cốt để dò thăm tin tức bên ngoài và đón những người cố cựu, và những người hảo hán, đến nhập bọn ở trong sơn trại. Vậy xin ngài ngồi đợi chơi đây, tôi xin báo cho Tống Công Minh lập tức.
Khổng Lượng nói:
- Thưa ngài chúng tôi tên là Khổng Lượng ở núi Bạch Hổ đến đây, xin ngài báo giúp cho.
Lý Lập nghe nói đáp rằng:
- Trước đây tôi thường nghe thấy Tống Công Minh nói đến tên ngài, nay được ngài đến đây thật là hân hạnh.
Nói đoạn liền đến Thủy Đình, bắn một mũi tên ra hiệu, rồi thấy trong đám lau lách bên kia có tên tiểu lâu la chở thuyền sang đón. Lý Lập mời Khổng Lượng xuống thuyền cùng nhau vào bến Kim Sa, rồi đưa lên sơn trại.
Khổng Lượng đi đến Tam Quan, thấy cửa quan hùng tráng, gươm giáo thành rừng, trong bụng nghĩ thầm:"Xưa nay chỉ nghe tiếng Lương Sơn Bạc thịnh vượng, nay ta không ngờ quả nhiên lập nên cơ đồ lớn lao như vậy!".
Bấy giờ Tống Giang nghe báo, liền chạy ra đón Khổng Lượng. Khổng Lượng trông thấy Tống Giang vội vàng cúi lạy, thăm hỏi ân cần.
Tống Giang hỏi Khổng Lượng rằng:
- Chẳng hay hiền đệ có chuyện chi mà đến đây? Khổng Lượng nghe nói, liền cất tiếng khóc oà lên. Tống Giang thấy vậy vội hỏi:
- Hiền đệ đến đây có việc chi? Cứ nói chuyện cho ta biết ta xin hết sức giúp cho ngay...
Khổng Lượng sụt sùi khóc rằng:
- Từ khi bái biệt sư phụ, được ít lâu thì phụ thân tôi mất, sau anh chúng tôi là Khổng Minh,nhân tức nhau với một người phú hộ ở trong làng, liền đem giết chết hết một nhà hắn ta, rồi bị Quan Tư tróc nã, đành phải chiếm núi Bạch Hổ tụ năm bảy trăm lâu la để làm nghề lạc thảo với nhau. Sau đó nhân có một người chú là Khổng Tân, bị quan phủ Thanh Châu bắt giam trong ngục, anh em chúng tôi bèn đem binh tiến đánh Thanh Châu, định để cứu cho chú ra. Dè đâu vừa khi đến thành, gặp ngay một tên tặc tướng là Hô Duyên Chước,anh tôi đánh nhau với hắn được có mấy hiệp, thì bị bắt ngay, hiện giải vào phủ Thanh Châu, không biết có còn sống được hay không: Còn tôi hôm đó cũng bị Hô Duyên Chước đánh duổi một phen, rồi ngày hôm sau mới gặp được Võ Tòng dẫn đến chào mấy người anh em bạn: Một người là Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm,và một người là Thanh Diện Thú Dương Chí, mấy người đó mới gặp chúng tôi,cũng đã tỏ lòng thân ái, bèn hẹn đem cả lâu la ở núi Nhị Long, và rủ Lý Trung, Chu Thông ở núi Đào Hoa, cùng sang đánh giúp, rồi bảo chúng tôi phải sang đây lập tức cầu cứu với sư phụ thì mới có thể thoát nạn cho chú và anh tôi được.
Tống Giang nghe nói cười mà đáp rằng:
- Việc đó khó chi? Hiền đệ cứ vững tâm vào chơi sơn trại đã.
Nói đoạn dẫn Khổng Lượng vào chào Tiều Cái. Ngô Dụng, Tôn Công Thắng, cùng các vị Đầu Lĩnh rồi đem chuyện Hô Duyên Chước,cùng tình thế Khổng Lượng thuật cho mọi người nghe.
Tiều Cái bảo với Tống Giang rằng:
- Hiền đệ với Khổng Huynh là chỗ chi thân khi trước, vả chăng cacù vị hào kiệt kia đã có lòng vị nghĩa giang hồ như vậy thì lẽ nào ta không đi cứu cho đành? Song lâu nay hiền đệ khó nhọc đã nhiều, vậy nay hiền đệ hãy coi giữ chủ quyền sơn trại, để ngu huynh đi một phen mới được.
Tống Giang lại nói:
- Ca Ca là ông chủ sơn trại, không thể một ngày rời bỏ ngay được.Vả chăng việc này là của tôi, người ta xa muôn dặm tới đây nếu tôi không đi, thì sao cho người ta an tâm, Vậy xin Ca Ca để mặc cho tiểu đệ cùng mấy anh em đi cho được việc...
Vừa nói dứt lời, thì thấy các Đầu Lĩnh đồng thanh lên nói rằng:
- Chúng tôi xin theo Tống Ca Ca để ra sức phen này.
Tống Giang nghe nói cả mừng,liền đặt tiệc để thiết đãi Khổng Lượng. Khi chè chén xong, Tống Giang gọi Thiết Diện Tổng Mục Bùi Tuyên, cắt đặt nhân mã đi đánh, chia làm năm đội:Tiền Quân có Hoa Vinh, Tần Minh,Yến Thuận, Vương Nụy Hổ mở đường làm tiên phong; đội thứ nhì, Mục Hoằng,Dương Hùng, Giải Trân, Giải Bảo làm đầu. Trung quân thì có chủ soái Tống Giang,Ngô Dụng,Lã Phương, Quách Thịnh; Đội thứ tư, thì có Chu Đồng, Sài Tiến, Lý Tuấn, Trương Hoàng; còn hậu quân, thì Tôn Lập Dương Lâm, Âu Bằng, và Lăng Chấn dẫn quân đi sau.
Năm quân chỉnh điểm xong rồi, tất cả cộng hai mươi Đầu Lĩnh,ba nghìn quân mã, cùng nhau từ giã Tiều Cái, cùng các Đầu Lĩnh coi trại, rồi đi theo Khổng Lượng, kéo quân thẳng tới Thanh Châu. Khi qua các phủ huyện, không tơ hào phạm của dân, ai ai cũng một lòng kính phục. Cách mấy hôm đến đất Thanh Châu, Khổng Lượng vào trại quân,báo cho Lỗ Trí Thâm biết,Lỗ Trí Thâm nghe báo,liền cùng các vị hảo hán sửa soạn để nghinh đón Tống Giang.
Tống Giang tới nơi, Võ Tòng dẫn Lỗ Trí Thâm,Dương Chí, Lý Trung, Chu Thông cùng Tào Chính, Thi Aân ra đón chào. Tống Giang vào đến sơn trại, nhường chỗ mời Lỗ Trí Thâm ngồi.
Lỗ Trí Thâm nói:
- Tôi được nghe đại danh Ca Ca đã lâu, mà chưa được tiếp, nay lại được gặp ở đây, thực là may quá.
Tống Giang khiêm tốn mà rằng:
- Chúng tôi đã thấm vào đâu! Xưa nay vẫn thấy trong đám giang hồ ngợi khen thánh đức của ngài, ngày nay được trông thấy được mặt từ bi, thực lấy làm hân hạnh vô cùng.
Dương Chí đứng lên vái chào Tống Giang mà nói rằng:
- Ngày trước chúng tôi đi Lương Sơn, các vị hảo hán đã có lòng tốt lưu lại ở đó, song vì chúng tôi tôi khờ dại không chịu ở lại...
Nay được có nghĩa sĩ ở đó,làm vẻ vang cho sơn trại, chúng tôi nghe nói, trong lòng lấy làm vui vẻ bội phần.
Tống Giang cười đáp rằng:
- Uy danh của Chế Sứ, thiên hạ ai không biết, tiếc cho Tống Giang được gặp quá muộn mà thôi!
Đoạn rồi Lỗ Trí Thâm sai người làm rượu khoãn đãi Tống Giang,cùng các vị Đầu Lĩnh,rất là vui thỏa. Hôm sau đó, Tống Giang hỏi đến tình thế Thanh Châu.
Dương Chí đáp rằng:
- Từ khi Khổng Lượng đi rồi, anh em chúng tôi đã ba dạo đánh nhau chưa quyết được thua...Hiện nay cả thành Thanh Châu, chỉ trông cậy vào một mình Hô Duyên Chước,nếu bắt được người ấy, thì Thanh Châu phá dễ như chơi, không có điều gì là trở ngại.
Ngô Dụng cười rằng:
- Người ấy chỉ có thể lấy mẹo bắt, chứ không lấy sức địch.
Tống Giang hỏi:
- Quân sư có kế gì khả dĩ bắt được?
Ngô Dụng đáp rằng:
- Chỉ thế này...thế này...là có thể bắt được ngay.
Tống Giang nghe nói cả mừng khen là diệu kế rồi cung nhau phân phát nhân mã để hôm sau ra trận. Sáng hôm sau các vị hảo hán kéo quân vây bốn mặt thành Thanh Châu,rồi đánh trống khua cờ, hò reo khơi đánh. Quan Phủ Mộ Dung trong thành thấy vậy, liền mời Hô Duyên Chước ra bàn rằng:
- Ngày nay lại thêm giặc đằng Lương Sơn kéo đến đánh thành, như vậy ta có cách gì mà đối phó lại được?
Hô Duyên Chước nói:
- Xin Ân Tướng cứ vững tâm phen này quân giặc đến đây, đã là thất sách, vì xưa nay chỉ quen vẫy vùng trong bến nước, nay bỗng lại rời xa sào huyệt mà ra tới đây, thì có tên nào là ta tróc tên ấy, không còn ngại điều chi nữa? Xin ân tướng lên thành, xem tôi bắt giặc phen này mới được.
Nói đoạn liền tề chỉnh mũ giáp, nhảy lên mình ngựa, mở cửa thành, hạ đích kiều, dẫn một nghìn mã kéo ra. Bấy giờ bên trận Tống Giang có một tướng cưỡi ngựa, tay cầm lang Nha Côn, quát mắng Tri Phủ rằng:
- Quân cướp này, giống mọt dân kia, bay nỡ lòng giết cả vợ con ta, nay ta quyết báo thù, không thể nào tha cho ngươi được...
Mộ Dung Tri Phủ trông ra nhận biết là Tần Minh, liền mắng lại rằng:
- Bây là một ông quan của triều đình, nhà nước đã phụ bạc điều chi, mà bay dám nỡ lòng đành phản? Nếu bắt được ngươi, thì xé thây ra làm một vạn mảnh mới cam. Thôi tướng quân đâu? Hãy bắt thằng giặc ấy trước đã.
Hô Duyên Chước nghe nói, lập tức múa song chiên xông ngựa ra đánh Tần Minh, Tần Minh giơ Lang Nha Côn ra đánh với Hô Duyên Chước. Đôi bên cùng gặp tay đối thủ, đánh nhau hơn bốn năm mươi hiệp, không quyết được thua. Mộ Dung Tri Phủ thấy đánh nhau lâu, sợ khi Hô Duyên Chước bị thua, liền khua chiên thu quân vào thành, Tần Minh cũng lui về bản trận không theo đuổi. Tống Giang liền hạ lệnh, lui xa ra ngoài mười lăm dặm hạ trại.
Bấy giờ Hô Duyên Chước vào trong thành, xuống ngựa nói với Tri Phủ Mộ Dung rằng:
- Hồi đó tôi đương định bắt Tần Minh, sao Ân tướng lại vội thu quân như vậy?
Tri Phủ nói:
- Tôi thấy Tướng quân đánh nhau, sợ khi đuối sức nên phải thu quân để nghỉ, tên Tần Minh trước làm Thống Chế ở đây, sau mới cùng Hoa Vinh làm phản, mà theo bọn Lương Sơn...Hắn ta võ nghệ cũng khá, chớ nên coi thường mới được.
- Ân Tướng không ngại, tôi xin bắt được loại phản tặc hầu ngài. Vừa rồi mới đấu nhau một lúc, mà tay công anh ta đã rối loạn rồi, ngày mai thế nào tôi cũng chém được hắn.
- Nếu Tướng quân có thủ đoạn anh hùng như vậy, ngày mai xin đánh tháo vòng vây, dọn cho ba người ra, một người cho vào Đông Kinh cầu cứu, và hai người đến các Châu Phủ gần đây, để nhờ binh ứng viện một thể.
Hô Duyên Chước vâng lời mà rằng:
- Tướng công nghĩ như vậy thực là chu đáo lắm...
Tri Phủ nghe nói, liền viết mấy văn thư cầu cứu, giao cho ba tên lính cẩn thận để sáng hôm sau mang đi.
Hôm đó Hô Duyên Chước trở về phòng nghỉ, mãi đến đầu trống canh năm tỉnh dậy. Chợt thấy quân sĩ vào báo rằng:
- Trên núi đất về góc thành bên Bắc có ba người cưỡi ba con ngựa, đến nom dòm vào thành, một người mặc áo bào đỏ cưỡi ngựa trắng đi giữa, và hai người đi kèm hai bên, hình như là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, cùng một người ăn mặc lối thầy tu thì phải...
Hô Duyên Chước nói:
- Nếu vậy thì anh mặc áo bào đỏ đích xác là Tống Giang, còn anh an mặc thầy tu, chắc là Ngô Dụng hẳn? Chúng bay cứ im lặng, chớ nên làm động... mau điểm một trăm nhân mã, để ta bắt ba thằng ấy mới được...
Nói đoạn vội vàng đội mũ mặc giáp, cầm chiên lên ngựa, dẫn hơn ba trăm quân kỵ, lẻn ra mở cửa Bắc môn, bỏ đích kiều xuống, dẫn quân ra ngọn núi đất. Khi ra tới nơi, thấy ba người vẫn điềm nhiên kìm cương ngựa đứng nom vào thành. Hô Duyên Chước liền xốc ngựa lên đến núi, bấy giờ ba người kia mới quay ngựa lững thững chạy đi. Hô Duyên Chước thấy vậy bèn ra roi té ngựa để đuổi theo.
Ba người kia chạy đến một chỗ trước mặt có mấy cây khô, rồi đứng dừng lại cả, Hô Duyên Chước lại sấn ngựa mà đuổi theo lên.
Khi gần đền chỗ cây khô, thấy có tiếng hò reo ầm ĩ, rồi Hô Duyên Chước bị cả người lẫn ngựa đều tuột xuống hố đất. Đoạn rồi hai bên có năm sáu mưới tên quân nấp, đem dây móc ra trói Hô Duyên Chước về trước, và dắt con ngựa về sau.
Bọn quân sĩ Hô Duyên Chước thấy vậy, toan xông đến đánh, bất ngờ bị Hoa Vinh bắn ngã dăm bảy quân kỵ đi đầu, còn thì tháo chạy hết cả.
Bấy giờ Tống Giang trở về trại quân, truyền bọn đao phủ dong Hô Duyên Chước lên trước trướng.Hô Duyên Chước lên tới nơi, Tống Giang vội quát quân sĩ cởi trói ra, rồi thân hành xuống ngựa dắt Hô Duyên Chước lên ngồi, và lạy chào rất là cung kính.
Hô Duyên Chước lấy làm ngạc nhiên hỏi:
- Vì duyên cớ làm sao?
Tống Giang đáp rằng:
- Tống Giang tôi có khi nào phản bội triều đình, ngày nay chẳng qua vì quan tham lại nhũng ức hiếp quá tình, nên phải tạm lánh vào nơi Thủy Bạc, để chờ khi nào triều đình tha tội, rồi lại cùng nhau quy phục đó thôi. Nay Tướng quân tới đây, chúng tôi lấy làm hâm mộ vô cùng, nên mới cả gan trộm phép Tướng quân mà mời đón đến đây, như thế thật là đại tội, dám xin Tướng quân đại xá đi cho...
- Tôi là một người bị bắt, có chi mà nghĩa sĩ nói những lời khiêm tốn như vậy?
- Chúng tôi đây có khi nào khi dễ Tướng Quân, lòng này thực đó Hoàng Thiên soi xét nay chỉ xin Tướng Quân rộng cho một điều mà thôi..
- Chẳng hay huynh trưởng muốn Hô Duyên Chước về triều đình xin giấy chiêu an, để đem đến sơn trại mà tha cho tất cả mọi người đó chăng?
- Chết nổi! Việc ấy Tướng Quân làm sao nổi? Cao Thái Úy là một kẻ tâm địa hẹp hòi, hay quên ơn lớn và hay nhớ lỗi nhỏ của người...Nay Tướng Quân đã làm hao tổn biết bao binh mã lương thực, vậy có khi nào Cao Thái Úy lại không gia tội cho ngài. Vả chăng Hàn Thao, Bành Dĩ, Lăng Chấn, đều đã nhất tâm đến ở trại tôi, nay nếu Tướng Quân có lòng hạ cố, mà cho chúng tôi được cùng sum họp, thì Tống Giang này xin nhường ngôi để kính Tướng Quân, rồi đợi khi triều đình có lệnh chiêu an, thí ta sẽ cùng nhau giúp nước...Chẳng Tướng Quân nghĩ sao?
Hô Duyên Chước ngẫm nghĩ hồi lâu, nghe cũng hơi có lý, bèn thở dài một tiếng, rồi quỳ xuống đất nói rằng:
- Việc này không phải là Hô Duyên Chước bất trung với nước, son tất lòng rất cảm nghĩa khí của huynh trưởng, không lẽ nào từ chối cho đành...Vậy từ nay xin theo hầu dưới trướng, không thay đỗi tấc lòng.
Tống Giang nghe nói cả mừng, liền mời các vị Đầu Lĩnh ra chào Hô Duyên Chước suốt lượt, rồi gọi Lý Trung, Chu Thông đem ngựa Tích Tuyết Ô Truy trả lại cho Hô Duyên Chước. Đoạn rồi cùng nhau bàn kế để cứu Khổng Minh.
Ngô Dụng nói:
- Bây giờ chỉ nhờ Hô Tướng Quân lừa mở cổng thành thì mới dễ được thành công, mới có thể ngăn hết đường về của Hô Tướng Quân sau này được.
Tống Giang hiểu ý, liền ủy uyển nói với Hô Duyên Chước rằng:
- Dám thưa Tướng Quân: Việc này không phải Tống Giang tôi có tham muốn thành trì, dấy binh sinh sự, đó chẳng qua vì chú cháu Khổng Minh bị giam trong ngục, nên tôi lôi thôi động dạng đến đây. Vậy nay Tướng Quân không rộng lòng vì nghĩa, mà lừa mở cửa thành thì không khi nào xong được.
Hô Duyên Chước vâng lời mà rằng:
- Huynh trưởng đã có lòng sai khiến, thì dẫu thế nào, tôi cũng không dám từ nan, chỉ chiều hôm nay làm ngay lập tức là xong...
Tống Giang cả mừng, liền sai Tần Minh, Hoa Vinh, Tôn Lập, Yến Thuận, Lã Phương, Quách Thịnh, Giải Trân, Giải Bảo, Âu Bằng, Vương Anh, tất cả mười vị Đầu Lĩnh ăn mặc ra lối quân, cưỡi mười con ngựa theo Hô Duyên Chước ra đi.
Khi về tới cửa Thành, Hô Duyên Chước vội vội vàng vàng nói là trốn thoát được về, liền gọi người ra mở cổng. Người trong thành nghe rõ tiếng Hô Duyên Chước liền quay vào báo cho Tri Phủ Mộ Dung biết.
Bấy giờ Tri Phủ đương lo phiền vì nổi Hô Duyên Chước bị bắt, bỗng thấy nói Hô Duyên Chước lại trốn thoát về, trong bụng lấy làm mừng bội phần, vội cưỡi ngựa chạy lên mặt thành để hỏi. Khi lên mặt thành tuy không nom rõ mặt Hô Duyên Chước, song nghe tiếng quả thị là Hô Duyên Chước, và chỉ có mười tên quân kỵ đi theo, liền hỏi lên rằng:
- Tướng Quân làm cách gì mà về được đó?
Hô Duyên Chước nói:
- Tôi vì sa xuống hố, bị chúng bắt trói mang về ở trại, sau may có mấy tên Đầu Mục nguyên theo tôi trước, ăn trộm con ngựa này cho tôi cưỡi mà đưa về đây.
Tri Phủ nghe nói liền sai quân sĩ mở cổng Thành, hạ đích kiều cho mọi người vào. Khi vào tới cửa thành, Tần Minh bắt luôn Tri Phủ Mộ Dung, liền đánh cho một gậy ngã lăn xuống ngựa, Giải Trân liền phóng lửa đốt thành, rồi Âu Bằng, Vương Nụy Hổ trèo lên mặt thành mà giết tan bọn quân sĩ coi thành.
Tống Giang ở ngoài thấy trong Thành nổi lửa, liền kéo đại đội quân mã vào thành, truyền lệnh quân chúng không được quấy nhiễu lương dân, thu hết tiền nong kho đụn, và phá ngục cứu Khổng Minh cùng cả nhà Khổng Tân ra. Đoạn rồi cứu tắt ngọn lửa trong thành, bắt giết hết người nhà Tri Phủ Mộ Dung và thu hết của cải gia tư để thưởng cho quân sĩ.
Sáng hôm sau tìm những nhà lương dân nào bị cháy, cấp cho thóc gạo tiền nong, rồi đem kim ngân lương thực của các kho, xếp vào năm sáu trăm xe, và bắt lấy hơn hai trăm ngựa tốt. Đoạn rồi làm tiệc ăn mừng ở trong phủ Thanh Châu, và mời các vị Đầu Lĩnh mới cùng về sơn trại. Lý Trung, chu Thông sai người về núi Đào Hoa lấy hết nhân mã, tiền lương đốt bỏ sơn trại để đi. Lỗ Trí Thâm cũng sai Tào Chính, Thi Ân về núi Nhị Long cùng với Tôn Nhị Nương thu hết nhân mã tiền lương, mà đốt bỏ chùa Bảo Châu cùng sơn trại để theo Tống Giang về Sơn Bạc.
Cách vài hôm sau, nhân mã các nơi đều đến đủ. Tống Giang liền kéo thẳng nhân mã đại hội trở về Lương Sơn Bạc. Khi ra đi Tống Giang sai Hoa Vinh, Tần Minh, Chu Đồng và Hô Duyên Chước, dẫn đường đi trước, qua các phủ, huyện, không hề xâm phạm của ai. Dân gian thấy vậy đều dắt già cõng trẻ cùng nhau đón rước vui mừng, rất chiều trân trọng.
Đường đi mấy hôm về tới Lương Sơn Bạc, các vị Thủy Quân Đầu Lĩnh, đều sắp đủ thuyền bè để đón, Tiều Cái dẫn các vị Đầu Lĩnh trên núi xuống bến Kim Sa, đón tiếp nhân mã vào trong đại trại.
Khi về tới Tụ Nghĩa Sảnh, các vị Đầu Lĩnh chia thứ tự cùng ngồi, rồi mở tiệc khao mừng mấy vị Đầu Lĩnh mới đến, là: Hô Duyên Chước, Lỗ Trí Thâm, Dương Chí, Võ Tòng, Thi Ân, Tào Chính, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, Lý Trung, Chu Thông, Khổng Minh, Khổng Lượng, cộng tất cả mười hai người.
Trong khi đó Lâm Xung có ý khẩn khỏan mời Lỗ Trí Thâm, và tạ ơn Lỗ Trí Thâm đã cứu giúp mình từ trước.
Lỗ Trí Thâm hỏi thăm Lâm Xung rằng:
- Từ khi tôi xa cách giáo đầu đến nay, không được tin tức gì cả, chẳng hay quý phu nhân dạo này ra sao?
- Lâm Xung nói:
- Sau khi tôi giết Vương Luân, rồi có cho người về đón vợ con, song chẳng may nhà tôi bị thằng ăn mày nhà Cao Cầu nó bức bách, đến nổi tự tử mà chết, rồi sau ông nhạc nhà tôi cũng bị bệnh chết nốt...
Dương Chí cũng thuật chuyện gặp Vương Luân trước cho mọi người nghe, chúng đều cười mà nói rằng:
- Mới hay muôn việc tại trời định trước, không có việc gì ngẫu nhiên hết thảy.
Tiều Cái lại thuật chuyện cướp của Sinh Thần ở Hoàng Nê Cương khi trước, chúng đều vui mừng mà tán tụng không thôi. Đến ngày hôm sau các vị Đầu Lĩnh lần lượt chè chén vui mừng, trong sơn trại rất sầm uất.
Bấy giờ Tống Giang thấy sơn trại thu được nhiều nhân mã trong lòng rất là vui mừng, liền cho Thang Long tổng quản thợ rèn, rèn đánh các thứ gươm khí, cùng các áo giáp, và các thứ Liên Hoàn; Hầu Kiện tổng quản các kho cờ, quạt, áo xiêm, chế thêm cờ Tam Tài, Cửu Riệu, Tứ Đẩu, Ngũ Phương, Nhị Thập Bát Tú, Phi Long, Phi Hổ, Phi Hùng, Phi Báo, cùng các thứ búa vàng,cờ mao trắng, vải mũ đỏ, lộng đen để dùng.Bốn chung quang đặt thêm pháo đài, và mở thêm hai ngôi tửu điếm ở hai bên đường Tây Nam để đón hảo hán bốn phương,và dò xét quân tình ở ngoài.Tửu điếm con đường bên Tây, thì hai vợ chồng Trương Thanh, Tôn Nhị Nương coi giữ; Tửu điếm bêm Nam, thì để vợ chồng Tân Tân, Cố Đại Tẩu trông coi; Tửu điếm bên Đông có Chu Quý, Nhạc Hoà, và tửu điếm bên Bắc có Lý Lập, Thời Thiên, trên ba cữa quan đặt thêm mấy trạm, cắt các Đầu Lĩnh ra coi giử luân lưu. Khi cắt đặt xong rồi, các Đầu Lĩnh đều vâng theo Tướng Lệnh, mà ai vào việc ấy.
Một hôm Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm nói với Tống Giang rằng:
- Trí Thâm tôi có một người quen cũ, tên gọi là Cửu Văn Long Sử Tiến là đồ đệ Lý Trung khi trước, hiện nay ở núi Thiếu Hoa, huyện Hoa Aâm về Hoa Châu, và có ba người nữa là là Thần Cơ Quân Sư Chu Võ, Khiêu Giản Hổ Trần Đạt, Bạch Hoa Xà Dương Xuân, cùng tụ nghĩa ở đó với nhau. Tôi từ khi ở chùa Ngỏa Quan tương biệt tới nay, trong lòng vẫn thường bâng khuâng nhung nhớ mà không được gặp bao giờ. Vậy ngày nay tôi xin qua đó thăm chơi và rủ cả bốn người về đây nhập đảng một thể, chẳng hay tôn ý nghĩ sao:
- Tôi cũng thường nghe Sử Tiến xưa nay, nay nếu Ngô Sư có lòng tốt mà mời cả về đây, thì còn gì hơn nữa. Xong việc đó không thể một mình đi được,vậy tôi muốn phiền Võ Hành Giã cùng đi, hai người cung tướng dạng xuất gia, như thế thì mới ổn tiện.
Võ Tòng vâng lời mà rằng:
- Tôi xin đi cùng với sư huynh.
Nói đoạn liền cung nhau thu thập hành lý để đi. Lỗ Trí Thâm mặc ra lối nhà sư, Võ Tòng mặc ra lối hành giã, rồi hai người từ giã các Đầu Lĩnh mà đi sang núi Thiếu Hoa,
Tống Giang thấy Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng đi rồi, trong lòng lấy làm áy náy không yên, liền sai Đới Tung lập tức theo sau, để nghe xem tin tức.
Một hôm Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng đi đến núi Thiếu Hoa, chợt thấy đám tiểu lâu la nấp ở bên đường, đổ xô nhau lại mà hỏi rằng.
- Hai bác thầy tu đi đâu thế này?
Võ Tòng nói:
- Chúng tôi đi lên hầu Sử Đại Quan Nhân ở trên núi đây.
Đám lâu la nghe nói, vội cung kính mà rằng:
- Ngươi lên nói nhà sư Lỗ Trí Thâm đến Thăm.
Tiểu lâu la vâng lời quay lên báo cho sơn trại biết. Được một lát, thấy Thẩn Cơ Quân Sư Chu Vũ cùng Khiêu Giản Hổ Trần Đại, Bạch Hoa Sà Dương Xuân xuống núi đón tiếp.
Lỗ Trí Thâm hỏi ba người rằng:
- Sử Đại Quan Nhân sao không thấy ở đây.
Chu Vũ đến gần rằng:
- Sư Phụ có phải là Lỗ Đề Hạt ở Phủ Duyên An trước đó không?
Lỗ Trí Thâm đáp:
- Phải, chính tôi đây, còn ông này là Võ Đô Đầu đánh hổ ở trên núi Cảnh Dương đó.
Ba người kia nghe nói vội vàng chào mà rằng:
- Chúng tôi được nghe đại danh đã lâu, sao thấy nói hai ngài ở núi Nhị Long, nay các ngài qua đây, chẳng hay có việc gì chăng?
Lỗ Trí Thâm nói;
- Chúng tôi ngày nay lên Lương Sơn Bạc,nhập đảng với Tống Công Minh, chứ không ở núi Nhị Long nữa. Nay muốn tìm Sử Đại Quan Nhân có chút việc,chẳng hay Sử Đại Quan Nhân ở đâu?
Chu Vũ nói:
- Hai ngài đã đến đây, xin qua bộ lên chơi núi, chúng tôi sẽ thưa chuyện. Có chuyện gì cứ nói cho tôi nghe, Sử Đại Quan Nhân không có đây, còn lên núi chi cho thêm phiền?
Võ Tòng nói:
- Ba anh em tôi ở núi Thiếu Hoa đây, từ khi được có Sử Đại Quan Nhân đến ở,trong sơn trại ngày càng thêm hưng vượng mãi lên. Sau nhân một chuyện anh chàng thợ vẽ, tên là Vương Nghĩa, người Phủ Đại Doanh Bắc Kinh dắt con gái là Ngọc Kiều phi sang miếu Kim Thiên Thánh Đế ở núi Tây Nhạc Hoa, để vẽ Thánh Tượng. Bất đồ một hôm có Hạ Thái Thú ở bản Châu (nguyên là tay tham tàn vô lý, vẫn luồn lọt Nái Thái Sư xưa nay), khi ra lễ ngoài miếu, chợt trong thấy Ngọc Kiều Chi có vẽ nhan sắc dịu dàng, liền sai người đến nơi để mua làm thiếp, Vương Nghĩa quyết đinh không nghe,Hạ Thái Thú liền hạ thủ đoạn ức hiếp, cướp lấy con gái mà mắc tội Vương Nghĩa đem đày ra đất Viễn Châu. Khi đi qua đây gặp Sử Đại Quan Nhân,Vương Nghĩa đem tình cảnh thuật cho Quan Nhân nghe, Sử Đại Quan Nhân liền giết hai tên Công Sai, áp giải cứu Vương Nghĩa lên núi và đi thẳng vào phủ, định giết hạ Thái Thú, dè đâu khi vào tới nơi, bị người trong phủ dò biết, liền bắt giam ngay vào trong ngục, và định đem binh mã ra đánh sơn trại chúng tôi một thể. Bởi vậy anh em chúng tôi hiện đương lo nghĩ với nhau, chưa có kế gì mà thi hành ngay được.
Lỗ Trí Thâm nghe đến đó,đùng đùng nỗi giận, đập đập tay mà rằng:
- Quân chó má! Nó dám vô lễ đến thế! Ta phải kết quả ngay nó đi mới được.
Chu Vũ nói:
- Hãy xin đón hai ngài lên sơn trại, rồi ta sẽ bàn định sau.
Lỗ Trí Thâm nhất định không chịu lên, Võ Tòng liền một tay nắm Thiền Trượng, một tay trỏ bảo Trí Thâm rằng:
- Ca Ca không nom mặt trời đã xế ngọn cây kia sao?
Lỗ Trí Thâm nghe nói ngẩn trông lên một cái, rôi thét lên một tiếng, mặt hầm hầm tức giận, mà đi thẳng lên trên sơn trại. Chu Vũ gọi Vương Nghĩa ra lạy chào, và thuật lại cái thủ đoạn tham tàn của Hạ Thái Thú một lượt cho mọi người nghe.Đoạn rôi sai giết trâu mổ ngựa làm rượu, thết Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng.
Lỗ Trí Thâm nói với mọi người rằng:
- Ngày nay không có Sử Huynh ở đây, một giọt rượu tôi cũng không uống, xin cho nghỉ tạm ở đây một tối, rồi sáng mai vào phủ đánh chết những quân ấy mới xong.
Võ Tòng nói:
- Ca Ca không nên nóng nảy thế, tôi với Ca Ca về ngay Sơn Bạc nói với Tống Công Minh lấy đại đội nhân mã lên đánh Hoa Châu thì mới cứu Sử Đại Quan Nhân được.
Lỗ Trí Thâm kêu lên rằng:
- Đợi khi về được tới Sơn Trại đem được nhân mã đến đây, thì tính mạng của Sử Đại Quan Nhân phỏng còn gì nữa?
Võ Tòng nói:
- Cho dẫu giết được Hạ Thái Thú bây giờ, cũng chưa thể cứu Sử Đại Quan Nhân ra được... Võ Tòng tôi quyết không để cho Ca Ca đi...
- Chu Vũ cũng khuyên can rằng:
- Xin Sư huynh hãy bớt giận... Nhge lời Võ Đô Đầâu mới phải.
Lỗ Trí Thâm nóng máu gắt lên rằng;
- Chỉ tại các anh trì trệ hững hờ, làm khổ đến tính mệnh Sử Huynh đó. Nay sự thế đã nguy cấp đến nơi, lại còn uống rượu để bàn, thì phỏng có chết hay không? Ta đây quyết không thể nào mà nhịn được.
Chúng thấy vậy, không dám mời Trí Thâm uống chén rượu nào nữa.
Đêm hôm đó Trí Thâm mặc nguyên áo xống nằm ngủ, đến đầu trống canh năm trở dậy, vác thuyền trượng, cầm giới đao mà ra đi mất.
Khi Võ Tòng trở dậy không thấy Lỗ Trí Thâm,liền bảo lũ Chu Vũ rằng:
- Sư huynh không nghe lời tôi nói, phen này tất lỡ việc không sai.
Chu Vũ cùng lấy làm lo sợ, liền sai lũ lâu la tinh thạo đi dò xem tin tức ra sao.
Hôm đó Lỗ Trí Thâm đi vào trong thành Hoa Châu, rôi hỏi thăm lối để lần vào trong phủ, bổng thấy người bảo rằng:
- Hoà thượng tránh ra một bên, có quan Phủ đi qua đó.
Lỗ Trí Thâm nghe nói, nghĩ thầm trong bụng:"Được lắm! Lão đương tìm hắn, hắn lại đến đây,còn trốn đi đâu mà không chết? "Nói đoạn liền ngần ngừ mà đứng lại để nom.
Bấy giờ Hạ Tri Phủ ngồi trong cỗ kiệu, hai bên kiệu có mười tên Ngu Hầu đi kèm, và lính tráng cầm roi gậy gươm giáo đi sát hai bên.
Lỗ Trí Thâm thấy vậy nghĩ thầm rằng:"Bây giờ không tiện đánh hắn, vì đánh không được,thì tất bị chúng cười... Ta hãy thữ xem sao? "Nghĩ vậy liền đứng lững thững, mà không dám tiến lên.
Tri Phủ ngồi trong kiệu, nom thấy Lỗ Trí Thâm có ý rụt rè dùng dằn muốn tiến lại thôi thì trong bụng lấy làm ngờ ngợ mà hiểu ý đôi lần. Khi về tới phủ liền cho hai tên Ngu Hầu ra mời nhà sư vào chơi.
Hai tên ngu hầu vâng lời, chạy ra ngoài phủ, nói với Lỗ Trí Thâm rằng:
- Quan phủ chúng tôi cho mời sư phụ vào chơi trong phủ.
Lỗ Trí Thâm nghe nói trong bụng lấy làm vui mừng, chắc là cơ hội đến tay, liền đi theo hai tên Ngu Hầu đi vào trong phủ.
Khi vào tới trước cổng đường, Hạ Thái Thú bảo Lỗ Trí Thâm cất giới đao thuyền trượng ra, và mời vào chơi nhà trong.
Trí Thâm trước còn khẳng khái, không chịu bỏ thuyền trượng giới đao ra,sau chúng đều khuyên rằng:
- Nhà sư không biết gì cả, vào trong nhà quan sao lại được phép cầm đao trượng lăm lăm như thế?
Trí Thâm nghe nói, nghĩ thầm trong bụng: "Ta đây chỉ hai tay cũng đủ đánh bể sọ chúng ra, cần chi phải dùng đao trượng?" Nghĩ đoạn liền vất đao trượng ở trước cửa mà theo Ngu Hầu vào trong.
Vào tới nhà trong, Hạ Thái Thú liền vẫy tay một cái, quát lên rằng:
- Trói thằng trọc này cho ta...
Nói vừa dứt miệng, thì hai bên vách có tới ba bốn mươi tên lính, đổ xô ra mà trói ghì Lỗ Trí Thâm lại, rôi dong xuống dưới thềm để tra hỏi.
Cho hay:
Kiếp tu chưa trọn với đời,
Nợ giang hồ dễ ai người giữ xong?
Ba sinh trót đã nặng lòng,
Tử sinh xem bẳng như không sá gì!
Hùm thiên lỡ mất cơ may,
Tấm gan son sắc tri âm vẫn còn
Dù khi nát ruột tan hồn,
Dạ này xin có nước non soi cùng.
Lời bàn của Thánh Thán:  
Đánh phủ Thanh Châu, dùng Hoa Vinh, Tần Minh làm tiền đội, thực là từng chỗ không làm phí bút chút nào?
Thôn Học Tiên Sinh, đọc truyện Thủy Hử, thấy chéo Tống Giang trong miệng nói ra lời hay, thì đã vội đem hai chữ " Hiếu Trung" nêu tên giặc già ấy, mà cho đầu đề của Truyện này, như thế không thể nào mà chả biện bạch ra cho đúng! Phải vạch ra rằng: Tống Giang có tài hơn người, thì tất đúng rồi, nếu rằng có lòng Trung Hiếu, lòng muốn báo triều đình, thì thực là một sự vạn lần, quyết không đúng vậy.
Tại sao? Vì Tống Giang là một tên cường đạo đất Hoài Nam, cũng con người muốn báo triều đình, mà không kế gì để tiến thân cho được, đến điều bất đắc dĩ phải tạm lánh Sơn Bạc để làm cường đạo, đó một điều không nên nói rằng vì bức bách mà như vậy, dù có bức bách cũng chưa đến nổi, sao lại thả Tiều Cái trốn đi, thì ai bức bách việc đó? Cái thân đã làm áp Tống Giang lại bỏ pháp luật tha cho giặc, có hai điều không nên. Thân làm ruộng thì yên phận làm ruộng, thân làm lại thì yên phận làm lại, đó là bổn phận. Tại sao thân ở Vận Thành, lại tung tiếng hảo hán với khắp cả thiên hạ, dung nạp bọn du đảng, đó ba điều không nên. Kết liên riêng với giặc để nhận vàng, giết cả bình dân (Diêm Bà Tích) để bịt họng may mà được nên lỗi nhỏ để theo điều răn lớn) (không làm giặc), sao lại đề thơ bến nước Tầm Dương nghĩ để báo thù thì báo thù ai? Đến điều máu đầy giang thủy, có bốn điều không nên; lời ngạn nói rằng: Cầu bày tôi trung ở trong cửa con hiếu, thế mà ngươi Giang, vì một sớm với điều giận nhỏ, để lỗi cho cha già, một khi chẳng tốt với cha, còn tốt với ai? Thực bảo rằng: " Điều đó còn nhẫn tâm, thì cái gì chẳng nhẫn tâm? "ó năm điều không nên vậy; Lũ Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ mà vơ vét đem về Lương Sơn, với bọn đó còn tha thứ được; Tại sao Hoa Vinh, Tần Minh, Hoàng Tín cũng vơ vét cả về Lương Sơn? Sao tha thứ được, tuy bấy giờ còn chưa ra mặt lạc thảo, nhưng trong lòng đã định chủ trương, đó sáu điều không nên. Khi cướp trận Bạch Long, gây nên bởi mọi người, còn thiêu đốt Vô Vi Quân thì ai quyết đoán? Cướp ở Bạch Long, còn nói được rằng cứu chết, còn đốt Vô Vi, chẳng phải là buông nọc độc ư! Đó bảy điều không nên vậy; Đánh châu cướp huyện chỉ như trò đùa, phá ngục, cướp kho, cũng thấy như vậy, giết quan trưởng thì vu vạ tham nhũng, mua chuộc trăm họ thì không tiếc của kho, đó tám điều không nên vậy; Quan quân đến thì giết quan quân; Vương sư tới thì bức Vương sư, làm ngang sông nước, sức mạnh không ai địch, khiến cho đối với vua không yên mà hưởng lộc như các quan, các tướng đến đánh không mong trở lại, sau lại nêu ra Trung Nghĩa Đường, đặt ra ấn tín thưởng phạt, chế ra hiệu cờ long, hổ, hùng, bi, mao, trắng, việt vàng, với nghi vệ như một soái phủ, đó mười điều không nên! Hỡi ôi! Tội của Tống Giang bới ra không hết, luận những tội to đã mười điều ấy, thế mà Thôn Học Tiên Sinh còn bo bo cho là Trung Nghĩa, rất sợ rằng không đáng như thế, vậy chẳng hay Thôn Học Tiên Sinh nghĩ ra thế nào?
Nguyên ý nhĩ của Thôn Học Tiên Sinh, chỉ thấy Tống Giang mỗi khi thu phục một viên tướng nào, cũng thân hành cởi trói, dâng chén khuyên mời, giọt lệ động tình, đau nổi muôn trung quân ái quốc, mà lòng thành lo nghĩ đến chiêu an, mà mất ăn mất ngủ, lời vạch ra gan, giọng tuôn ra máu... Song ta cho Tống Giang là cường đạo, một vạn lần không thể tin rằng trung nghĩa được, vì sao? Xét nói rằng đợi chiêu an, chỉ là biến kế của cường đạo, trước khi cha anh đã mất dạy, ham học võ quyền đã cậy võ quyền, chẳng chuyên sinh sản, đã thiếu sinh sản, chẳng khỏi khốn nguy, khốn nguy chẳng chịu, sinh ra trộm cướp, khi đã trộm cướp, kéo bè mà nên to chuyện, kéo bè đảng tất bị truy nã, đã bị truy nã, thì cường đạo nhân đó nổi lên, nếu tiến có thể chuộc tội, thoái có thể thoát chết, thì hai chữ chiêu an chỉ khéo nói ra, thu lấy mọi người.
Xét đến những viên tướng làm can thành cho nước, bảo trướng một phương, như Tần Minh, Hô Duyên Chước, đời đời chịu quốc ân, còn đương hưởng chưa thôi, lại như lũ Hoa Vinh, Từ Ninh, có những biệt tài, há chẳng ra sức phò vua, và lũ Lăng Chấn, Sách Siêu, Đổng Bình, Trương Thanh dẫu là tỳ tướng, cũng có ngày đại dụng; Lại như lũ Bành Dĩ, Hàn Thao, Tuyên Tán...ều ăn lộc nhà Tống, làm quan nhà Tống, cảm đức nhà Tống, chia lo với nhà Tống, đã không chẳng trổ hết tài, đã lại không chẳng nhả hết khí, đã lại không chẳng hết lòng trung, đã lại không chẳng báo hết ơn đó vậy sao? Mà ta không biết Tống Giang nghĩ sao, lại muốn vớ vét cả về Sơn Bạc? Bắt được thuyết theo, hoặc chưa chịu theo, thì lại khuyên rằng hãy tạm lánh đây để đợi chiêu an. Hỡi ôi! Cường đạo mới cần chiêu an, còn tướng quân việc gì mà cần phải đợi chiêu an? Thân ở Thủy Bạc, thì nên đợi chiêu an quy thuận triều đình; Còn thân đã tự triều đình, cần gì phải đợi chiêu an, mà phải tạm lánh ở Thủy Bạc? ? ? Nay đem lời này hỏi lại Tống Giang, thì Tống Giang trả lời làm sao? Mới biết những lời nói ra báo quốc, ngáy ngóng chiêu an, Tống Giang chỉ muốn dỗ dành người ta theo vào Sơn Bạc; Lời ngạn nói rằng: Mật ngọt chết ruồi... Tống Giang đã dùng lời khéo dỗ người vào Thủy Bạc, mà không ai chẳng tin, để theo vào Thủy Bạc. Lời rằng: Mượn mãi không trả, lâu hoá của mình, sao lại không biết Tống Giang như vậy? Thôn Học Tiên Sinh khen ngợi thì ra không biết con quạ kia đen trắng thế nào? Còn bo bo cho rằng trung nghĩa, chỉ sợ rằng không đáng như vậy chẳng hay Thôn Học Tiên Sinh nghĩ ra thế nào?
Sau hồi thứ bảy tả Lỗ Đạt, xa cách thẳng bốn mươi chín hồi, mới lại tả Lỗ Đạt, khiến ta đọc đến văn, há chẳng nhớ đến con người lỗi lạc chân chính Lỗ Đạt, trước bốn mươi hồi, tả Lỗ Đạt một giọt rượu không thèm, khiến ta thấy xử sự ở con người hảo hán kia, đối với việc nghĩa làm trọng bỏ hết thú vui, dầu thú vui ấy bấy lâu đã nghiện như rượu đối với nhiều người.
Hồi 58:
Miếu Tây Nhạc, giả danh Thái Úy;
Đất Hoa Sơn cứu bạn anh hùng
Bấy giờ chúng đem Lỗ Trí Thâm xuống thềm, Hạ Thái Thú chưa kịp trả lời, thì Lỗ Trí Thâm đã trợn mắt cả giận, mắng quát lên rằng:
- Quân hiếu sắc hại dân này, bay dám bắt ta là nghĩa lý gì? Ta đây có chết, cũng không cùng với anh em ta là Sử Tiến, không lấy gì làm hối hận song ta chỉ sợ Ca Ca ta là Tống Công Minh, tất không tha cho ngươi đó thôi. Ta bảo cho ngươi biết, thiên hạ không có việc oan uổn nào, mà không giải tỏ được bao giờ? Ngươi muốn tốt đem Sử Tiến trả lại cho ta, đem cả Kiều Ngọc Chi ra đây để trả lại cho Vương Nghĩa, còn ngươi thì phải đem chức Thái Thú ở Hoa Châu mà đem trả lại cho triều đình ngay lập tức... Bay là đồ mặt giặc, mắt mèo, chỉ chăm chăm tửu sắc hoang dâm, còn toan làm cha mẹ dân sao được? Nếu biết điều mà nghe ta ba điều đó, thì còn được tử tế bằng không thì sau này hối sao cho kịp? Hiện bây giờ hãy đưa ta tìm đến người anh em là Sử Tiến, rồi thế nào trả lời cho ta biết...
Tri phủ nghe nói ức giận sôi nổi không biết nói làm sao được liền nghĩ thầm trong bụng rằng: "À? Gớm thằng này ta ngờ thích khách, hay đâu nó cũng một món với Sử Tiến thực? Quái ác! Hãy cứ giam nó xuống, rồi sẽ xử sau... "Nghĩ đoạn liền truyền lấy gông lớn gông Lỗ Trí Thâm lại, bỏ giam xuống ngục, rồi nhất diện tư công văn, bẩm lên trên Tỉnh, và đem giới đao thuyền trượng niêm phong để ở Phủ Đường.
Bấy giờ tin tức náo đôïng phủ Hoa Châu, bọn tiểu lâu la nghe biết, liền trở về sơn trại báo cho các vị Đầu Lĩnh biết. Võ Tòng được tin báo cả kinh mà rằng:
- Chết nổi mình đi hai người đến đây, bị bắt mất một người vậy còn mặt mũi nào trở về Lương Sơn nữa?
Đương khi lo nghĩ kinh hoàng, bỗng thấy tiểu lâu la báo rằng:
- Có một vị đầu lĩnh ở Lương Sơn Bạc là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung, đến thăm sơn trại, hiện còn ở dưới núi. Võ tòng nghe báo vội vàng xuống núi đón Đới Tung lên trên sơn trại. Khi lên tới nơi, Võ Tòng dẫn Đới Tung chào hỏi lũ Chu Vũ, và đem chuyện Lỗ Trí Thâm thuật cho Đới Tung nghe.
Đới Tung nghe nói cả kinh mà rằng:
- Nếu vậy tôi phải về ngay Lương Sơn, nói với Ca Ca, đem binh xuống cứu, không thể ở đây lâu được.
Nói đoạn sai dọn cơm chay cho Đới Tung ăn. Đoạn rồi Đới Tung làm phép Thần Hành mà trở về Sơn Bạc.
Cách ba hôm sau về đến sơn trại, Đới Tung liền thuật chuyện Lỗ Trí Thâm và Sử Tiến cho Tiều Cái, Tống Giang nghe.
Tiều Cái cả kinh bảo với Tống Giang rằng:
- Hai người đó mắc nạn tất nhiên phải cứu mới xong. Vậy phen này tôi đi một chuyến không thể trì trệ được nữa.
Tống Giang lại nói:
- Ca Ca là chủ sơn trại, đi sao cho tiện? Việc này xin để mặc đệ đảm nhiệm. Nói đoạn liền chỉnh điểm quân mã chia làm ba đội đi ngay lập tức. Tiền quân có năm tướng làm Tiên Phong là Lâm Xung, Dương Chí, Hoa Vinh, tần Minh, Hô Duyên Chước; dẫn một nghìn quân giáp mã, một nghìn quân bộ mở đầu đi trước; Trung quân có chủ soái Tống Giang, Ngô Dụng, Chu Đồng, Từ Ninh và Giải Trân, Giải Bảo, dẫn hai nghìn quân mã bộ đi giữa; Hậu quân có Lý Ứng, Dương Hùng, Thạch Tú, Lý Tuấn, Trương Thuận, năm vị Đầu Lĩnh dẫn năm nghìn quân mã bộ, coi đốc lương thảo đi sau. Bấy giờ cộng tất cả có bảy nghìn quân mã, cùng nhau xuống núi Lương Sơn, mà trông chừng thẳng lối Hoa Châu.
Khi đến nửa đường, Tống Giang truyền cho Đới Tung đi trước để báo cho các Đầu Lĩnh ở Thiếu Hoa Sơn được biết. Bọn Chu Vũ nghe tin báo, bèn đến sắp sẵn các thứ dê, lợn, trâu ngựa, cùng các thức rượu ngon để đợi...
Mấy hôm sau, ba đạo binh Lương Sơn tới nơi, Võ Tòng liền dẫn Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân xuống núi nghinh tiếp...
Tống Giang, Ngô Dụng, cùng các Đầu Lĩnh kéo lên sơn trại, rồi Tống Giang hỏi đến đầu đuôi các chuyện...
Chu Vũ đáp rằng:
- Hiện nay Lỗ Trí Thâm cùng Sử Tiến, đã bị Hạ Thái Thú giam ở trong lao, chỉ đợi sắc chỉ triều đình, rồi sau sẽ liệu.
Tống Giang cùng Ngô Dụng đều hỏi rằng:
- Hiện nay trong thành giam hai con hùm lớn ở đó, tất nhiên họ phải phòng bị nghiêm trang, vậy chiều hôm nay ta xuống núi, rồi khoảng trống canh một, ta sẽ nhờ bóng trăng suông, mà xem xét trong thành mới có thể tiện được.
Tống Giang cùng các vị Đầu Lĩnh đều cho là phải, mà cùng nhau lưu lại đến chiều.
Khi mặt trời đã xế hôm, Tống Giang cùng Ngô Dụng, Hoa Vinh, Tần Minh, Chu Đồng, cưỡi ngựa đi xuống núi. Vào khoảng đầu canh một, đi đến bên thành Hoa Châu, năm người bèn tìm một đống gò cao, ở gần thành mà nom vào. Bấy giờ đương dạo trung tuần tháng hai, trời quang mây tạnh, bóng trăng soi sáng giữa trời. Tống Giang cùng bốn người nom vào thành Hoa Châu, thấy thành cao đất rộng, hào lũy bọc chung quanh, có mấy toà cửa thành coi rất cao to hùng tráng, cách nơi Tây Nhạc Hoa Sơn không mấy. Năm người vừa nom vừa bàn luận với nhau, không có cách gì mà đánh ngay được.
Mọi người bảo với Tống Giang rằng:
- Ta hãy trở về sơn trại rồi hãy bàn định sau.
Nói đoạn năm người lại dong ngựa về lại phía Hoa Sơn. Khi về tới trại, Tống Giang ra dáng phiền nghĩ lo âu, không biết kế sao cho được. Ngô Dụng bèn truyền lệnh mười tên tiểu lâu la xuống núi để nghe dò tin tức gần xa.
Cách hai hôm sau, chợt thấy một người trở về báo rằng:
- Nay triều đình sai Quan Điện Tư Thái Úy, vâng lĩnh kim ngân điếu quải của Hoàng Thượng, rời hoàng hà vào sông Vị Hà, để dâng lễ ở miếu Tây Nhạc.
Ngô Dụng nghe báo liền bảo với Tống Giang rằng:
- Ca Ca không cần lo nữa, ta có thể thi được kế rồi.
Nói đoạn liền gọi Lý Tuấn, Trương Thuận ra dặn kế cứ thế này... Thế này...mà làm.
Lý Tuấn nói:
- Chúng tôi mới đến đây, chưa thuộc địa thế, vậy nếu có một vị nào ở đây cùng đi thì có lẽ tiện hơn.
Bạch Hoa Xà Dương Xuân nói:
- Để tôi đi cho...
Tống Giang nghe nói cả mừng, liền cho Dương Xuân dẫn đường để cho Lý Tuấn, Trương Thuận cùng đi. Ngày hôm sau Ngô Dụng mời Tống Giang, cùng Chu Đồng, Hô Duyên Chước, Hoa Vinh, Tần Minh, Lý Ứng dẫn hơn năm trăm người đến cửa sông Vị Hà. Khi tới nơi, thấy Lý Tuấn, Trương Thuận cùng Dương Xuân đã cướp được mười mấy chiếc thuyền lớn về đó. Ngô Dụng bảo Hoa Vinh, Tần Minh, Từ Ninh, Hô Duyên Chước, bốn người phục ở trên bờ, còn Tống Giang, Ngô Dụng, Chu Đồng, Lý Ứng thì xuống cả dưới thuyền, và lại sai Lý Tuấn, Trương Thuận, Dương Xuân chia thuyền đậu nấp ở đầu bến. Khi đặt đâu yên vào đó, đến sáng hôm sau, chợt nghe xa xa có tiếng trống chiên dậy đất, rồi thấy ba chiếc thuyền quan kéo đến. Trên thuyền quan cắm lá cờ vàng viết mấy chữ"Tú Thái Úy vâng lệnh vua, ra dâng lễ miếu Tây Nhạc ". Bấy giờ Chu Đồng, Lý Ứng đều cầm gươm trường đứng ở sau lưng Tống Giang, còn Ngô Dụng thì đứng ở đầu thuyền mà đợi.
Được một lát, thuyền quan nghênh ngang kéo vào bến nước, rồi có hai mươi tên Ngu Hầu áo tía đai bạc, chạy ra quát lên rằng:
- Thuyền nào dám đậu bến làm ngăn trở thuyền quan thế kia?
Tống Giang nghe nói cúi rạp xuống chào, rồi Ngô Dụng nói rằng:
- Nghĩa sĩ ở Lương Sơn bạc là Tống Giang xin hầu Thái Uý.
Bên kia có viên quan coi việc tiếp khách đáp lên rằng:
- Đây là quan Thái Úy đương triều, vâng lệnh vua ra lễ miếu Tây Nhạc... Vậy các ngươi là bọn giặc Lương Sơn, sao dám nghênh ngang đứng đó?
Tống Giang cúi mình lặng yên không đáp, Ngô Dụng lại nói lên rằng:
- Chúng tôi là nghĩa sĩ ở Lương Sơn, muốn được bái kiến tôn nhan Thái Úy, để kêu ngài có chút việc.
Viên quan coi việc tiếp khách hỏi:
- Các ngươi là hạng người nào mà dám đường đột xin đến hầu Thái Úy? Đoạn rồi mấy tên Ngu Hầu quát lên rằng:
- Các ngươi nói rõ mới được.
Tống Giang cứ lẳng lặng cúi mình mà không dậy.Ngô Dụng liền nói lên rằng:
- Xin tạm mời Thái Úy lên bờ, chúng tôi bàn có chút việc.
Viên quan coi việc tiếp khách quát lên rằng:
- Các ngươi không được nói càng, Thái Úy là quan đại thần trong triều, lẽ nào bàn việc với các ngươi?
Khi đó Tống Giang đứng dậy nói rằng:
- Thái Úy không chịu cho lũ chúng tôi tiếp kiến, chỉ sợ bọn thuộc hạ chúng tôi lại làm kinh động đến Thái Úy chăng?
Nói đoạn Chu đồng liền vẫy ngọn cờ trên mũi gươm, rôi Hoa Vinh, Tần Minh, Từ Ninh, Hô Duyên Chước, cùng dẫn quân mã vương cung tên mà kéo ra đánh ở trên bến. Bọn lái đò thuyền quan thấy vậy đều kinh sợ nhảy nấp vào trong khoang. Viên quan tiếp khách cũng sợ hãi kinh hoàng, vội vào báo cho Thái Úy biết.Tú Thái Úy thấy vậy, đành phải ra đầu thuyền, bắt ghế ngồi để tiếp khách.
Tống Giang cúi mình chào mà nói rằng:
- Chúng tôi có điều đường đột, xin ngài tha lỗi cho. Tú Thái Úy nói:
- Vì cớ sao nghĩa sĩ ngăn đón thuyền tôi như vậy? Tống Giang nói rằng:
- Chúng tôi đâu dám ngăn đón thuyền ngài... Chỉ xin phép ngài lên trên bờ, cho chúng tôi được bẩm chút việc thôi...
Tú Thái Úy nói rằng:
- Tôi vâng mệnh vua ra lễ ở Nhạc Tây đối với nghĩa sĩ thì tịnh không có việc gì mà phải nói... ? Vả chăng một ông quan của triều đình, lẽ nào lại kinh dị lên bờ ngay được? Bên kia Ngô Dụng nói lên rằng:
- Nếu Thái Úy không chịu lên bờ, e khi bọn thủ hạ không chịu để yên, thì thực không tiện...
Nói đoạn Lý Ứng vẫy gươm ra hiệu, rồi Lý Tuấn, Trương Thuận, Dương Xuân, đều đuổi thuyền xô cả đến.Tú Thái Úy thấy vậy lấy làm cả kinh!
Lý Tuấn, Trương Thuận, cầm đao sáng loáng ở tay, chạy sang ngay thuyền Thái Úy, gạt ngã mấy tên Ngu Hầu xuống nước.
Tống Giang vội thét lên rằng:
- Khoan! Không được làm liều như thế?
Lý Tuấn, Trương Thuận bèn nhảy tùm xuống nước vớt hai tên Ngu Hầu, vất trả lên thuyền, rồi hai người cùng nhảy lên thuyền để đứng. Tú Thái Úy cùng mọi người thấy vậy đều cả sợ xanh mặt cả lên.
Tống Giang và Ngô Dụng quát lên rằng:
- Bay hãy lui ra, không được kinh động Đại Quan Nhân như thế, để ta sẽ mời Thái Úy lên bờ cũng được.
Tú Thái Úy nói với Tống Giang rằng:
- Ở đây không thể nói chuyện được, vậy xin mời Thái Úy lên qua trên trại cho chúng tôi thưa chuyện, thì mới ổn tiện, nếu chúng tôi có lòng nào hại đến ngài, thì xin thần linh ở Tây Nhạc sẽ gia tội đến chúng tôi...
Bấy giờ Thái Úy không nghe không được, đành phải nghe lời mà đi lên trên bờ. Đoạn rồi có mấy người đứng nấp trong bụi cây, dắt ngựa ra mời Thái Úy lên ngựa để cùng đi lên núi.Tống Giang liền sai Tần Minh, Hoa Vinh đưa Thái Úy về sơn trại trước, rồi cùng Ngô Dụng lên ngựa, bắt tất cả những người trong thuyền quan và các đồ hương hoa lễ vật mà khiêng về trên núi, và để Lý Tuấn, Trương Thuận lãnh hơn trăm người coi giữ chiếc thuyền ở đó.
Khi về tới Thiếu Hoa Sơn, Tống Giang cùng Ngô Dụng mời Thái Úy lên Tụ Nghĩa Sảnh, đặt ngôi giữa, còn các vi Đầu Lĩnh cầm binh khí đứng hầu cả hai bên. Đoạn rồi Tống Giang ra trước mặt Thái Úy lạy xuống bốn lạy mà rằng:
- Tống Giang tôi nguyên là kẻ tiểu lại ở huyện Vận Thành nhân Bị Quan Tư bức bách, bất đắt dĩ phải họp mấy anh em tạm lánh ở Lương Sơn Bạc, để đợi triều đình thương lại, sẽ ra sức găng công mà đền ơn non nước, gánh vác mọi trách nhiệm. Nay chẳng hay có hai người anh em bị Hạ Thái Thú sinh chuyện lôi thôi giam vào trong ngục, vậy chúng tôi xin mượn các đồ nghi vệ của Thái Úy ra lễ Nhạc Tây, để đánh lừa quan lại Hoa Châu, mà cứu cho anh em thoát nạn. Sau khi công việc đã xong, chúng tôi lại xin trả lại Thái Úy hẳn hoi, không dám chút gì xâm phạm, xin Thái Úy rộng phép mà ưng thuận lời cho.
Thái Úy nói rằng:
- Cái đó không ngại chi, song nếu triều đình sau này biết đến, thì Hạ Quan đây nguy hiểm không chơi.
- Xin Thái Úy về triều, cứ đổ tội cho Tống Giang tôi là được...
Thái Úy nghĩ quanh nghĩ quẩn, thấy sự thế không thể nào từ chối được liền bất đắc dĩ mà nhận lời cho mượn.
Tống Giang nghe nói cả mừng, sai đặt tiệc thiết đãi Thái Úy rồi lấy áo xiêm của Thái Úy cùng mọi người theo hầu Thái Úy để mặc. Tống Giang sai một tên lâu la mặt mũi khôi ngô, cạo sạch râu ria, ăn mặc giả làm Thái Úy Tú Nguyên Cảnh, Tống Giang, Ngô Dụng giả làm quan tiếp khách, Giải Trân Giải Bảo, Dương Hùng Thạch Tú giả làm Ngu Hầu, còn bọn tiểu lâu la đều áo tía đai bạc, tay cầm các cờ hiệu, mà khiêng hương hoa lễ vật ra đi. Hoa Vinh, Chu Đồng, Từ Ninh, Lý Ưùng giả làm bốn tên vệ binh. Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân khoãn đãi bọn Thái Úy ở nhà, lại sai Tần Minh, Hô Duyên Chước dẫn một đội nhân mã; Lâm Xung, Dương Chí dẫn một đội nhân mã chia làm hai mặt để đánh thành. Lại sai Võ Tòng ra đợi ở miếu Tây Nhạc để chờ hiệu thi hành. Khi sắp đặt xong các vị Đầu Lĩnh đều kéo ra thuyền, và cho Đới Tung vào báo trước ở miếu Nhạc Tây.
Bấy giờ Chủ Quan cùng các người chức việc phía trong miếu nghe báo, liền vội vàng kéo nhau ra đến bến thuyền để đón quan Thái Úy. Các đồ hoa hương đèn nến, cùng là bảo cái đồng nhan, đều dàng lên trước rồi đem ngự hương đặt lên long đình, cho người trong miếu khiêng vào, và dẫn Kim Linh Điếu Quảy về miếu. Khi chủ quan xin bái yết Thái Úy, Ngô Dụng liền gạt đi rằng:
- Thái Úy đi đường bị cảm, không tiếp kiến được, đem kiệu đây để đón người lên.
Tả hữu vâng lời, rồi đón Thái Úy lên kiệu, mà đưa đến nhà Quan Sư trong miếu Tây Nhạc. Viên tiếp khách là Ngô Học Cứu bảo với viên chủ quan rằng:
- Nay quan Thái Úy vâng lệnh triều đình đem ngự hương cùng Kim Linh Điếu Quải ra dâng thánh lễ ở đây, vậy mà các quan ở bản quân không ai ra tiếp kiến là nghĩa làm sao? Chủi Quan nói rằng:
- Chúng tôi đã cho người đi báo có lẽ đếùn cả ngay bây giờ...
Vừa nói dứt lời thì có viên quan ở bản châu, dẩn dăm bảy mươi tên lính, mang các thức rượu chè hoa quả đến hầu Thái Úy. Khi viên quan đó tới nơi, các quan hầu dẫn vào chỗ xa xa trước mặt để lại chào. Viên quan đó thấy Thái Úy tựa chăn nằm trên giường chỉ lấy tay chỉ chỏ ra ngoài mà không nói gì cả.
Đoạn rồi viên quan tiếp khách ra trách quan ở bản châu rằng:
- Thái Úy là một vị đại thần trong triều, vâng lệnh vua, nghìn dặm tới đây, chẳng may đi đường mắc cảm, thế mà các quan bản châu không ai ra tiếp là nghĩa làm sao?
Viên quan bản châu đáp rằng:
- Bẩm ngài, tuy mấy hôm trước có giấy của quan trên sức xuống, song ngày nay không thấy giấy báo, nên chúng tôi không được biết để mà nghinh tiếp. Vả chăng mấy hôm nay, có bọn giặc ở núi Thiếu Hoa, kết liên với bọn giặc ở Lương Sơn, đến đánh phá thành trì, bởi vậy Quan Phủ chúng tôi phải lưu lại coi thành, mà cho chúng tôi ra đây dâng chén tiếp phong, rồi Quan Phủ chúng tôi sẽ đến bái yết sau.
Viên quan tiếp khách đáp rằng:
- Bây giờ Thái Úy không uống rượu chè gì đâu, về nói với quan phủ mau ra đây để dâng lễ mới được.
Viên quan ở Hoa Châu, vâng lời rồi đem rượu ra để mời các viên quan tiếp khách, cung các người theo hầu Thái Úy.Đoạn rồi quan tiếp khách vào bẩm với quan Thái Úy, lấy chìa khoá ra mở túi lấy đôi Kim Linh Điếu Quải, treo lên hai cành trúc cho viên quan ở Hoa Châu xem.Quan ở Hoa Châu nom thấy, quả là một đôi Kim Linh Điếu Quả, của những tay thợ giỏi ở trong nội phủ chế ra, chung quanh toàn khảm bằng thất bảo, giữa đặt một ngọn đèn bằng xa đỏ, trông rất huy hoàng rực rỡ, dân gian chưa hề trông thấy bao giờ, khi xem xong, quan tiếp khách lại cất vào hương nang khoá lại cẩn thận, rồi lấy các giấy má của phủ Trung Thư, đưa cho viên qua Hoa Châu, và giục phải về ngay bảo quan Thái Thú tới để chọn ngày làm lễ, quan Hoa Châu vâng lời, rồi trở lại trong thành để báo cho Hạ Thái Thú biết.
Tống Giang thấy tên quan viên trở ra rồi, thì trong lòng hớn hở mừng thầm, chắc rằng Hạ Thái Thú dù khôn khéo đến đâu cũng không thể nào không hoa mắt rối lòng, mà tránh thoát thần mưu đó được. Bấy giờ Võ Tòng chực ở ngoài cửa miếu, Ngô Dụng lại sai Thạch Tú dắt dao nhọn tại đó, để giúp Võ Tòng làm việc, và cho Đới Tung giả làm Ngu Hầu để đợi. Trong kia bọn chủ quán cùng các người làm việc trong quân, thì vẫn điềm nhiên, kẻ hiếu cơm người dâng lễ vật, dưới trên sắp đặt rất chỉnh đốn lễ nghi.
Tống Giang xem quanh trong miếu Tây Nhạc, thấy cung điện nguy nga, trên dưới lịch sự, quả nhiên là một nơi miếu mạo hiếm có xưa nay, Tống Giang xem khắp một lượt, rồi khi về trước cửa nhà quan cư, thì ngoài cửa báo là Hạ Thái Thú đã đến.
Tống Giang liền gọi bốn tên lính vệ là Hoa Vinh, Từ Ninh, Chu Đồng, Lý Ứng, đều cầm binh khí đứng ra hai bên, Giải Trân, Giải Bảo, Dương Hùng, Đới Tung, đều giắt khí giới trong mình mà đứng hầu hai bên tả hữu.
Khi đó Hạ Thái Thú dẩn hơn ba trăm người, đi đến trước cửa miếu lũ lượt kéo vào. Hai viên quan tiếp khách là Ngô Dụng, Tống Giang thấy vậy, liền quát lên rằng:
- Cho Quan Đại Thần ở đây, những người vô sự không được vào gần.
Chúng nghe nói, liền đứng cả lại, để một mình Hạ Thái Thú đi vào.Quan tiếp khách truyền chỉ ra rằng:
- Thái Úy cho mời thái thú vào đây...
Hạ Thái Thú vâng lời, vào trước cửa quan cư, rồi cúi đầu lạy chào Thái Úy giả.
Quan tiếp khách hỏi lên rằng:
- Quan Thái Thú có biết tội không?
Hạ Thái Thú nói rằng:
- Chúng tôi không được biết quan Thái Úy đến đây, nên không kịp ra thành nghinh tiếp, dám xin ngài tha tội cho...
Quan Thái Úy vâng lệnh triều đình ra đây, mà không tiếp đón là nghĩa lý sao?
- Bẩm, vì chúng tôi không tiếp được giấy báo, là đã đến nơi, nên không kịp ra đón tiếp...
Bỗng có người quát lên rằng:
- Bắt lấy cho ta...
Nói dứt lời, thì anh em Giải Trân, Giải Bảo rút phăng gươm ra cầm cẳng Hạ Thái Thú xuống rồi cắt lấy đầu.
Tống Giang lại quát lên rằng:
- Anh em đâu! Hạ thủ đi.
Bọn ba trăm người thấy vậy đều kinh sợ rụng rời, mà không sao chạy được. Tụi Hoa Vinh liền xông vào mà đánh giết, bọn kia luống cuốn non nửa chạy ra ngoài cửa miếu, bị Võ Tòng, Thạch Tú cùng đám tiểu lâu la đỗ xô ra chém giết, không còn sống sót một ai. Còn những người lục tục đến miếu sau, đều bị Trương Thuận, Lý Tuấn giết cả một lượt.
Bấy giờ Tống Giang kịp thu cả ngự hương điếu quải, đem cả xuống thuyền rồi cùng nhau kéo đến thành Hoa Châu. Khi tới nơi trong thành đã có hai chỗ bốc lửa lên đùng đùng, chúng liền nhất tề kéo vào, xông đến nhà đại lao, cứu Sử Tiến cùng Lỗ Trí Thâm ra rồi mở các kho đụn, lấy tất cả của cải mà xếp lên xe tất cả.
Lỗ Trí Thâm được thoát ra, vội vàng chạy vào phủ đường, tìm thấy giới đao huyền trượng, rồi tìm đến Ngọc Kiều Chi, thì đã đâm đầu xuống giếng mà tự tử mất rồi. Chúng thấy vậy, liền kéo nhau ra thuyền trở về Thiếu Hoa Sơn. Về đến sơn trại, Tống Giang sai đem các đồ lễ vật, cùng áo xiêm nộp trả Thái Úy, rồi lấy ra một mâm kim ngân tạ ơn Thái Úy, và đưa khắp lượt mọi người theo hầu. Đoạn rồi đặc tiệc tiễn hành, mà đưa Thái Úy về thuyền tử tế.
Khi tiễn chân Thái Úy trở về, Tống Giang liền bàn với Sử Tiến, Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân, thu thập tiền lương nhân mã mà đốt bỏ sơn trại để kéo quân về cả Lương Sơn, còn Vương Nghĩa thì cho ít tiền để đi nơi khác.
Bên kia Tú Thái Úy khi trở về thuyền rồi cùng nhau kéo đến Hoa Châu, biết rằng bọn Lương Sơn Bạc đã đánh giết quân quan, cướp hết Phủ Khố, quân lính trong thành chết hết hơn một trăm người, lừa ngựa đều bị cướp mất, lại giết mấy trăm người ở miếu Tây Nhạc, thiệt hại không biết đến đâu mà kể, Thái Úy liền sai quan bản châu thảo công văn, thuật lại tội Tống Giang cướp lấy các đồ lễ vật, giả làm quan Thái Úy đánh lừa quan Thái Thú họ Hạ, cùng là đánh giết cướp bóc các lễ, để tư vào phủ Trung Thư. Đoạn rồi Thái Úy đem lễ vật ra dâng lễ miếu Tây Nhạc, mà lập tức trở về triều cùng Thiên Tử.
Nói về Tống Giang, hôm đó cùng bốn hảo hán ở Thiếu Hoa Sơn, chia quân ra làm ba đội kéo về Lương Sơn Bạc đi qua các dân xã, không hề xâm phạm của ai, khi về gần tới nơi, sai Đới Tung về sơn trại báo cho các Đầu Lĩnh biết. Tiều Cái nghe báo, bèn cùng các vị Đầu Lĩnh xuống núi đón lên Tụ Nghĩa Sảnh, rồi cùng nhau mở tiệc ăn mừng.
Ngày hôm sau Sử Tiến, Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân, đều xuất tiền của riêng để làm việc tạ ơn Tiều Cái, Tống Giang rất là long trọng.
Trong khi yến tiệc, Tiều Cái nói với Tống Giang rằng:
- Tôi có một việc này, vì bấy lâu hiền đệ đi vắng, chưa đám thi hành, vả lại mấy hôm nay lại có bốn anh em mới đến ở đây, nên chưa tiện nói ra. Nguyên hôn trước Chu Quý lên bảo với tôi rằng: "Trong núi Mang Đãng, ở huyện Bái thuộc phủ Từ Châu, có một bọn cường nhân, tụ đến ba nghìn nhân mã ở đó, đầu đảng là một tiên sinh họ Phàn tên Thụy, biệt hiệu là Hỗn Thế Ma Vương, có tài gọi gió kêu mưa, dùng binh như thần vậy. Thủ hạ có hai người phó tướng, một người là Hạng Sung, biệt hiệu là Bát Tý Na Tra, tay cầm thanh gươm Thiết Liêu, lại có một cây đỏan bài, và khiến hai mươi bốn khẩu phi đao, trăm thước giết người, không sai một chút. Một người nữa, tên là Lý Cổn, biệt hiệu là Phi Thiên Đại Thánh, tay cầm một khẩu bảo kiêm, cũng dùng một lá đỏan bài khiến hai mươi bốn thanh gươm nhọn, giết người ngoài trăm thước mà cũng không hề sống sót một ai. Ba người đó kết làm anh em, chiếm khu núi đó cướp bóc kiếm ăn, và định đến đánh cả Lương Sơn Bạc ta đây.Tôi rất lấy làm bực tức, mà chưa có thể trừ ngay đi được."
Tống Giang nghe nói, hầm hầm nổi giận mà rằng:
- Tên đó lại dám vô lễ như vậy, để tiểu đêï đến đó một phen mới được.
Sử Tiến bèn đứng dậy nói với Tiều Cái, Tống Giang rằng:
- Bốn anh em tôi mới đến đây, chưa hề có một chút công lao, vây chúng tôi xin đem quân bản bộ, cùng với Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân, từ giã Tống Giang, cùng các vị Đầu Lĩnh mà xuống núi kéo quân đi đánh.
Cách mấy hôm, đi đến một chỗ gần toà núi, Sử Tiến thở dài mà hỏi rằng:
- Quanh đây không biết chỗ nào là chỗ ông Cao Tổ nhà Hán, chém rắn khởi nghĩa khi xưa...
Nói đoạn ba người cùng thở dài mà ngơ ngẩn kéo đi. Khi tới địa phận núi Mang Sơn, Sử Tiến liền dàn quân thành trận thế, có ba Đầu Lĩnh là Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân đứng đằng sau.
Được một lát trên núi Mang Đãng có một đoàn nhân mã kéo xuống, có ba vị hảo hán đi đầu, một người là Hạng Sung, khiến lá đỏan bài, lưng dắt hai mươi bốn khẩu phi đao, tay hữu chống tiêu sang, mặt sau có lá cờ hiệu đề bốn chữ "Bát Tý Na Tra"; Một người là Lý Cổn, cũng khiến lá đỏan dài, lưng dắt hai mươi bốn thanh gươm nhọn, tay hưu chống kiếm, phía sau cũng có một lá cờ hiệu, trên viết bốn chữ "Phi Thiên Đại Thánh".
Nguyên hai người đó ở trên núi, nghe báo có quân mã đến đánh liền kéo tiểu lâu la xuống để chống cự. Khi xuống dưới núi, thấy Sử Tiến cùng ba hảo hán đương kìm ngựa đứng đợi ở đó, hai người bèn sai tiểu lâu la khua chiêng gõ trống, kéo xông ra đánh mà không hỏi han chi cả. Bên kia hậu quân của Sử Tiến, bị thua bỏ chạy, Sử Tiến liền thúc quân chống lại, và bọn Chu Vũ coi giữ trung quân để giúp đánh, rồi sau cũng chạy lui ra ngoài bốn mươi dặm. Trong khi lui chạy, Sử Tiến suýt nữa trúng phải phi đao, còn Dương Xuân luống cuống bị một phát phi đao đâm vào chân ngựa, chàng liền bỏ ngựa mà chạy lấy thân cho thoát. Sau Sử Tiến điểm lại nhân mã mất đến quá nữa, chàng lấy làm lo sợ toan sai người về cầu cứu ở Lương Sơn.
Đương khi lo nghĩ vẫn vơ, thì chợt thấy quân sĩ báo rằng:
- Về con đường phía Bắc có một toán nhân mã, ước chừng hai nghìn người kéo đến. Bọn Sử Tiến nghe báo bèn đem ngựa ra nom, thì thấy bóng cờ Lương Sơn phất phới rồi có hai viên Thượng Tướng là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, và Kim Ban Sang Từ Ninh dẫn quân đi đến.
Sử Tiến tiếp đón Hoa Vinh, Từ Ninh, thuật chuyện võ nghệ của Hạng Sung, Lý Cổn cho hai người nghe.
Hoa Vinh nói rằng:
- Tống Công Minh Ca Ca thấy Huynh trưởng đi rồi trong lòng lấy làm áy náy không yên, bèn cho chúng tôi đến đây để giúp.
Bọn Sử Tiến nghe nói cả mừng, liền họp quân vào một chỗ để đóng trại. Sáng hôm sau, đương kéo quân ra đánh, bổng thấy quân sĩ vào báo rằng:
- Con đường bên Bắc lại có một toán nhân mã nữa kéo đến.
Hoa Vinh, Từ Ninh, cúng lên ngựa ra xem, thấy Tống Công Minh cùng Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Sài Tiến, Chu Đồng, Hô Duyên Chước, Mục Hoằng, Tôn Lập, Hoàng Tín, Lã Phương, Quách Thịnh, dẫn ba nghìn nhân mã kéo đến.
Sử Tiến đem chuyện thua thuật lại cho mọi người nghe. Tống Giang nghe nói, lấy làm cả kinh. Ngô Dụng liền khuyên đem quân hạ trại, rồi sẽ bàn định. Tống Giang nóng tính, toan tiến binh bắt đánh ngay, liền kéo binh đến gần núi để xem.
Bấy giờ trời đã gần tối chợt thấy trên núi Mang Đãng có bóng đèn lồng sắc xanh, Công Tôn Thắng bèn nói với mọi người rằng:
- Trong trại giặc thắp đèn xanh thế kia, tất nhiên là có người biết dùng phép thuật yêu tà, vậy chúng ta hãy lui quân ra xa, để sáng mai tôi hiến một phép có thể bắt được mấy người ấy.
Tống Giang cả mừng, truyền lui quân hai mươi dặm để hạ trại, đợi sáng hôm sau phá trận Ma Vương.
Mới hay:
Trông tan thương những chạnh lòng
Trách ai tham cái má hồng mà chi
Vẻ gì một chút tình si,
Thành tan nước mất tội thì tại ai?
Thương thôi lại giận cho đời,
Trăm năm bao hết giống người vô lương?
Có chăng nhờ bút văn chương
Đem tranh chính nghĩa làm gương cho đời.
Lời bàn của Thánh Thán:
Theo tục bản chép một đoạn văn, Lỗ Trí Thâm cứu Sử Tiến thô bỉ đến nổi không muốn đọc, lại lạ cho tác giả sao ngọn bút tồi thay? Khi gặp cổ bản, mới phục nguyên văn tả được thế này? Ta mới than: Văn chương nảy tự trong lòng một ngày của ta, mà truyền đến tay người đời xem mãi, thế nhân chưa thể biết, mà truyền tay nhân thế mãi, ta lại không nhận được, khi đó văn chương không thể nói ra, chỉ tiếp tục bản chép như thế, khiến cho độc giả không thể rơi lệ buồn rầu về nổi văn chương?
Một đoạn tả ngăn thuyền ở Vị Hà, trước tả Chu Đồng, Ngô Dụng đứng đầu thuyền, làm một tổng đề, rồi sau chia làm hai bức, một bức tả Ngô Dụng nói chuyện với quan tiếp khách, rồi chuyển ra Tống Giang, Tống Giang ra Chu Đồng, Chu Đồng chuyển ra trên bờ, có Hoa Vinh, Tần Minh, Từ Ninh, Hô Duyên Chước, đó một dạng thanh thế; một bức tả Tống Giang cùng Thái Úy vấn đáp, rồi chuyển ra Ngô Dụng, Ngô Dụng lại chuyển đến Lý Ứng, Lý Ứng lại chuyển ra trên sông có Lý Tuấn, Trương Thuận, Dương Xuân, đó một dạng thanh thế, rồi sau đến bức thứ ba, tả Tống Giang, Ngô Dụng nhất tề làm ra để tổng kết lại, chương pháp đã tề chỉnh lại biến hoá, thực chẳng phải chỉ viết qua loa.
Cực tả Quan Thái Thú Hoa Châu là người gian hoạt, để mà rõ cớ bắt được Sử Tiến, Lỗ Đạt hai phen thích khách không thành, thế mà đọc đấy lại không thấy dấu vết chỗ nào là bổ tả, đã tự khiến người ta tưởng thấy lúc ấy với việc ấy, xét chẳng phải có bổ tả rõ mới là bổ tả, lại là một phép bổ tả của văn chương.
Sử Tiến một lời than ở núi Mang Đãng, cũng ám dụng việc xưa, thời Nguyễn Tạ không ai anh hùng...áng gọi rằng nên sâu chí của Đại Lang, đối với việc thua ở Mang Sơn, chỉ làm một phép giao chuyển của văn chương cho nảy Công Tôn Thắng chứ đừng vị thế mà tiếc cho chí Đại Lang.
Hồi 59:
Núi Mang Đãng, Công Tôn làm phép;
Chợ Tăng Đầu, Tiều Cái trúng tên.
Tống Giang lui quân đóng trại, rồi sáng hôm sau Công Tôn Thắng bàn với Tống Giang rằng:
- Nay ta nên bày trận Bát Quái, theo như thế trận bằng đá, của Gia Cát Khổng Minh đời trước...Trận ấy có bốn mặt tám phương, chia làm tám tám sáu mươi tư đội, khoảng giữa có viên Đại Tướng coi, thế trận bày ra bốn đầu tám đuôi, quanh bên tả, vòng bên hữu, then Trời Đất gió mây, dựa đúng hổ, chim, rồng, rắn, đợi khi bọn kia xuống núi, thì hai bên mở ra cho họ thẳng xông vào trận, rồi cứ nom hiệu cờ Thất Tinh mà biến ra thế Trường Sà. Bấy giờ tôi sẽ dùng phép để đánh khiến cho bọn họ quanh trước quanh sau, hết đường tiến thoái, không khác chi hãm vào trong hố rồi ta sẽ cho quân cầm dây móc mắc sẵn ở đó mà bắt lấy ba tướng, như thế thì có cơ tất thắng không sai.
Tống Giang nghe nói cả mừng, liền truyền cho các Tướng theo lệnh mà làm. Lại sai tám viên Tướng tài, là Hô Duyên Chước, Chu Đồng, Hoa Vinh, Từ Ninh, Mục Hoằng, Tôn Lập, Sử Tiến, Hoàng Tín, coi giữ mặt trận; Sài Tến, Lã Phương, Quách Thịnh, tạm giữ Trung quân; Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng dẫn Trần Đạt để vẫy cờ ra hiệu, còn Chu Vũ dẫn năm tên quân sĩ đến chỗ gò cao gần núi, để nom thấy trận bên kia mà báo trước.
Ngày hôm đó, vào khoảng giờ Tỵ, các quân mã kéo đến gần núi bày nên thế trận, rồi rung trống khua cờ để khởi đánh. Được một lát thấy trên núi Mang Đãng có tiếng thanh la dậy đất, rồi thấy ba đầu binh dẫn hơn ba nghìn nhân mã kéo nhau xuống núi.
Khi xuống tới nơi, đều dàn thành thế trận, Hạng Sung, Lý Cổn đứng bên tả hữu, còn Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy cỡi con ngựa đen đứng giữa trước cửa trận. Phàn Thụy tuy biết dùng phép yêu quái song không thuộc trận thế ra sao, khi trông thấy trận của Tống Giang thì trong bụng mừng thầm rằng:"Chúng bày trận như thế, là mắc kế ta rồi... "
Nghĩ đoạn liền truyền lệnh cho Hạng Sung, Lý Cổn nếu thấy ngọn gió nổi lên, thì dẫn năm trăm tay đao thủ mà sát vào trong trận. Hai người được lệnh, thì sắp sẵn đỏan bài, cùng các quân khí, để đợi khi Phàn Thụy làm phép mà cùng xông vào.
Bấy giờ Phàn Thụy ngồi trên mình ngựa, tay tả cầm Lưu Tinh Đồng Chùy, tay hữu chống Hỗn Thế Ma Vương Bảo Kiếm, trong miệng lẫm nhẫm đọc mấy câu thần chú rồi quát lên một tiếng "Mau". Chợt thấy một trận cuồng phong rung động; đá chuyển cát bay, trời mờ đất ám, trên bóng Thái Dương bỗng dưng mờ tối, rồi Hạng Sung, Lý Cổn dẫn năm trăm đao phủ, reo hò ầm ĩ mà sấn vào trong trận Tống Giang.
Quân mã Tống Giang thấy vậy, liền rẽ ra hai bên, cho Hạng Sung, Lý Cổn xông vào. Khi đó tên đạn bên trận Tống Giang bắn ra như mưa, Hạng Sung, Lý Cổn chỉ dẫn được bốn năm mươi tên đao phủ đi vào, còn thì phải chạy về bản trận.
Tống Giang thấy hai người đã vào gần đến giữa trận, liền sai Trần Đạt phất cờ Thất Tinh ra hiệu, cho quân sĩ biến thành thế trận Trường Sà, Hạng Sung, Lý Cổn ở giữa trận, xông bên đông đột bên tây, quanh bên tả vòng bên hữu, không sao tìm được lối mà đi, Chu Vũ đứng trên gò cao cầm cờ ra hiệu, hễ hai người chạy về bên nào thì quay ngọn cờ mà trỏ về bên ấy.
Đương khi đó, Công Tôn Thắng cũng đứng trên gò cao trông thấy như vậy, liền rút thanh kiếm Tùng Văn Cổ Địch ra tay, rồi miệng đọc thần chú mà quát lên một tiếng "Mau". Đoạn rồi thế trận cuồng phong kia, cứ theo chân Hạng Sung, Lý Cổn mà cuốn hoài không dứt.
Hạng Sung, Lý Cổn ở trong vòng trận, chỉ thấy trời mờ đất tối, gió thổi ào ào, bốn mặt mênh mông toàn thị hắc khí, quân mã không thấy chút gì nữa, mà những tay đao phủ cũng không thấy đâu hết thảy, hai người thấy vậy, trong lòng sợ hãi kinh hoàng, hết sức tìm đường tháo chạy mà không sao tìm được.
Đương khi xung đột kinh hoàng, bỗng thấy nổ một tiếng sấm rất to, rồi hai người đều bắn vào trong hố, không sao dậy được. Đoạn rồi có người đưa thừng móc ra trói Hạng Sung, Lý Cổn lại để đem nộp Tống Giang.
Tống Giang đứng trên gò cao, cầm roi ra lệnh cho tam quân kéo tràn sang để đánh. Phàn Thụy thấy vậy, bèn kéo quân thua chạy về núi, ba phần quân mã, thiệt mất đến quá nửa phần. Tống Giang thu quân cùng các Đầu Lĩnh trở về trướng.
Bấy giờ quân lính giải Hạng Sung, Lý Cổn về đến dưới trướng. Tống Giang trông thấy vội cởi trói cho hai người, rồi nâng chén rượu mà nói rằng:
- Hai vị tráng sĩ tha lỗi cho tôi, trong khi chiến trận tất phải như thế mới được...Tôi là Tống Giang được nghe tiếng ba các ngài đã lâu, cũng toan mời về sơn trại để cùng nhau tụ nghĩa, song chưa có dịp nào mà nói ra cho tiện. Nay nhân được gặp nhau đây, nếu các ngài có lòng hạ cố, mà cùng nhau về chốn Lương Sơn, thì thực là vô cùng hân hạnh cho chúng tôi.
Hai người kia nghe nói liền lạy rạp xuống đất mà rằng:
- Chúng tôi nghe tiếng Cập Thời Vũ đã lâu, ngờ đâu ngài quả có lòng đại nghĩa như vậy. Anh em chúng tôi thực cưỡng với trời, nay bị bắt đến đây là dẫu chết cũng chưa đáng tội. Nay ngài lại rộng lòng tha thứ đi cho chúng tôi sẽ xin hết sức hết lòng để mà báo đáp. Bây giờ một mình Phàn Thụy không có chúng tôi cũng không làm gì được, song nếu các ngài rộng phép cho chúng tôi cho một người trở về, thì tôi xin rủ Phàn Thụy đến đây lập tức, để đầu hàng dưới trướng chẳng hay các ngài nghĩ sao?
Tống Giang nói rằng:
- Các ngài bất tất phải lưu lại nơi đây, xin cứ về cả cho chúng tôi xin sẵn lòng đợi đây để đón tiếp.
Hai người đều lạy tạ mà rằng:
- Ngài thực là bậc Đại Trượng Phu hiếm có, nếu Phàn Thụy không đầu hàng thì chúng tôi xin bắt về dâng dưới trướng.
Tống Giang nghe nói cả mừng, mời vào Trung quân thiết đãi cơm rượu; rồi sai lấy quần áo mới cho hai người mặc, chọn hai cỗ ngựa tốt cho hai người cưỡi, và sai tiểu lâu la lấy gươm bài ra, trả lại cho hai người về núi, hai người ra đi đều lấy làm khâm phục Tống Giang mà ngợi khen không dứt miệng.
Khi về tới núi Mang Đãng, Phàn Thụy trông thấy lấy làm cả kinh liền hỏi đầu đuôi ra sao? Hạng Sung, Lý Cổn bảo với Phàn Thụy rằng:
- Anh em chúng ta là trái với trời, thực chưa hết tội...
Phàn Thụy ngạc nhiên hỏi rằng:
- Sao anh em lại nói như vậy?
Hai người liền đem nghĩa khí của Tống Giang mà nói cho Phàn Thụy nghe, Phàn Thụy nói rằng:
- Tống Công Minh đã có lòng đại nghĩa như vậy, chúng ta không nên trái cưỡng với Trời, Sáng mai ta nên lập tức đầu hàng mới phải.
Hai người nói:
- Chúng tôi trở về đây, cũng vì việc đó mà thôi. Nay đã đồng tâm như vậy, thì xin thu xếp mau đi.
Nói đoạn cùng nhau thu thập hết cả sơn trại, rồi sáng hôm sau cùng nhau kéo đến bái yết Tống Giang. Khi tới nơi ba người lạy rạp xuống đất.Tống Giang liền đỡ dậy, mời vào cùng nói chuyện.
Ba người thấy Tống Giang ra lòng thân mật, không chút gì ra vẻ hiềm nghi, thì cùng nhau vui ve bội phần, và đem hết chuyện bình sinh mà thuật lại cho mọi người cùng biết, và mới các vị Đầu Lĩnh lên chơi núi Mang Đãng để giết ngựa mổ trâu thiết đãi, cùng là khao thưởng tam quân. Khi yến ẩm xong Phàn Thụy bái Công Tôn Thắng làm thầy, Tống Giang liền lập Công Tôn Thắng làm giáo chủ, để truyền Ngũ Lôi Thiên Tâm Chính Pháp cho Phàn Thụy. Phàn Thụy lấy làm cảm tạ vui mừng vô hạn.
Cách mấy hôm sau bọn Phàn Thụy thu nhặt lừa ngựa tiền nong, đốt bỏ sơn trại, rồi theo Tống Giang về cả Lương Sơn. Khi về gần tới Lương Sơn đang sắp sẳn quân mã qua đò về núi, thì bổng thấy một hảo hán đến trước mặt Tống Giang cúi rạp xuống đất lạy rằng.
Tống Giang thấy vậy liền xuống ngựa đỡ dậy, mà hỏi rằng:
- Túc hạ là ai? ở đâu tới đây? Chúng tôi không được biết...Người kia nói rằng:
- Chúng tôi họ Đoàn tên Cảnh Trụ, người ta thấy tóc đỏ râu vàng, nên người ta thường gọi là Kim Mao Khuyển. Nguyên tôi quán ở Trác Châu, bình sinh kiếm ăn bằng nghề trộm ngựa ở mạng Bắc, tới mùa xuân năm nay qua núi Sơn Can lấy được con ngựa rất quý toàn trắng như tuyết, suốt mịn không có một cái lông nào khác sắc; Từ đầu chí cuối vừa dài được một trượng, từ lưng tới móng cao tám thước hơn, một ngày có thể đi được nghìn dặm, vẫn có tiếng là Chiến Dạ Ngọc Sư Tử xưa nay. Con ngựa đó nguyên chúng tôi lấy của con vua Đại Kim, thả ở trên núi Sương Can, định đem làm lễ mừng để yết kiến ngài đây...Bất đồ đi qua chợ Tăng Đầu phía tây nam Lăng Châu, bị đám Tăng Gia Ngũ Hổ sấn ra cướp lấy. Bấy giờ chúng tôi có nói dối rằng:
- Con ngựa này của Tống Công Minh ở Lương Sơn Bạc, để hòng chúng trả lại cho. Ai ngờ chúng nghe nói, lại giở những lời thô bỉ hỗn hào, không thể nào chịu được, bởi vậy tôi phải vội vàng trốn về đây, để báo cho mọi người biết.
Tống Giang thấy người đó, tóc đỏ râu xoắn, không phải là tay thường tục, liền có ý vui thầm trong bụng mà bảo rằng:
- Nếu vậy hãy xin mời về sơn trại, rồi ta sẽ thương nghị sau.
Nói đoạn mời Đoàn Cảnh Trụ xuống thuyền, để cùng về sơn trại.Khi thuyền về gần tới bến Kim sa, Tiều Cái dẫn các Đầu Lĩnh ra đón vào Tụ Nghĩa Sảnh, rồi Tống Giang bảo Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn, và Đoàn Cảnh Trụ, đến chào hỏi các vị Đầu Lĩnh trong sơn trại, mà cùng vào dự tiệc với nhau. Bấy giờ Tống Giang sai Lý Vân, Đào Tôn Vượng đốc thúc thợ thuyền, làm thêm phòng ốc, cùng các trại, để cho các Đầu Lĩnh mới đến ở.
Đoạn rồi Đoàn Cảnh Trụ nhắc đến con ngựa Ngọc Sư Tử, Tống Giang bèn phái Đới Tung ra chợ Tăng Đầu, để tham thính tin tức.
Cách bốn hôm sau, Đới Tung trở về báo với các vị Đầu Lĩnh rằng:
- Trên chợ Tăng Đầu có tới ba nghìn nhà ở, trong đó có một nhà gọi là Tăng Gia Chủ, chủ nhà nguyên là người nước Đại Kim, tên Tăng Trưởng, sinh được năm người con, gọi là Tăng Gia Ngũ Hổ(năm con hổ nhà họ Tăng). Người con lớn tên là Tăng Đồ, thứ hai là Tăng Mật, thứ ba là Tăng Sách, thứ tư Tăng Khôi, thứ năm Tăng Thăng, lại có một ông giáo sư là Sử Văn Cung, và một ông phó giáo sư là Tô Định, cung nhau tụ năm bảy nghìn lâu la họp ở chợ Tăng Đầu, làm nhà đóng trại, chế sẳn hơn năm mươi cổ xe tù, thề cùng sống chết với bọn Lương Sơn Bạc, và thế nào cũng bắt hết bọn Lương Sơn mới nghe. Con ngựa Ngọc Sư Tử đó, thì hiện nay để cho giáo sư Sử Văn Cung cởi...Có một điều nữa rất đáng giận là chúng nó tung ra mấy câu hát, dạy cho trẻ con hát trong chợ suốt cả ngày, nghe ra thực thống thiết. Chúng hát rằng:
Lay động thiết hoàn linh,
Quỹ thần đều kinh sơ.ï
Xe sắt cùng khoá sắt:
Dưới trên có chốt đanh.
Quét sạch Lương Sơn lấp Thủy Bạc;
Dong cổ Tiều Cái về Đông Kinh.
Bắt sống Cập Thời Vũ,
Trói chặt Trí Đa Tinh.
Họ Tăng có năm hổ
Thiên hạ nức uy danh.
Tiều Cái nghe đến đó, đùng đùng nổi giận mắng rằng:
- Quân súc sanh vô lễ đến thế...tôi phải đi phen này, nếu không bắt được chúng, xin thề không về núi nữa. Phen này chỉ xin cắt hai nghìn nhân mã, và hai mươi Đầu Lĩnh xuống núi giúp tôi, còn các vị Đầu Lĩnh xin ở nhà coi trại với Tống Công Minh.
Nói đoạn liền cắt Lâm Xung, Hô Duyên Chước, Từ Ninh, Mục Hoằng, Trương Thuận, Dương Hùng,, Thạch Tú, Tôn Lập, Hoàng Tín, Yến Thuận, Đặng Phi, Âu Bằng, Dương Lâm, Lưu Đường, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Bạch Thắng, Đỗ Thiên, Tống Vạn, công tất cả hai mươi Đầu Lĩnh dẩn ba quâ xuống núi đi đánh. Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, cùng các vị Đầu Lĩnh, đều đưa chân đến bến Kim Sa, để nâng chén rượu tiễn hành.
Đương khi nâng chén qua hà, bổng có một trận cuồng phong đưa đến, thổi gãy ngay ngọn cờ quân lệnh của Tiều Cái mới chế ra. Mọi người trông thấy đều kinh ngạc, biến hẳn ngay sắc mặt đi.
Ngô Học Cứu Can Tiều Cái rằng:
- Ca Ca vừa mới ra quân, bỗng ngọn gió thổi gãy cờ, như thế là điều bất lợi, vậy xin Ca Ca hãy lui quân vào trong trại vài bữa, rồi sẽ ra đi...
Tiều Cái nói rằng:
- Trời đất có khi mưa khi gió, lấy gì làm lạ!Bây giờ đương dạo mùa xuân ấm áp, nếu không thừa thế, khử trừ nó đi, thì còn đợi đến bao giờ nữa? Việc này xin chớ ngăn trở, thế nào tôi cũng xin đi một phen mới được.
Ngô Dụng nghe nói đành phải lặng yên cho Tiều Cái ra đi. Khi Tiều Cái đi rồi, Tống Giang liền quay về sơn trại, sai Đới tung xuống núi đi theo, để thăm dò tình thế.
Hôm đó Tiều Cái dẩn năm nghìn quân mã, cùng hai mươi vị Đầu Lĩnh đến chợ Tăng Đầu, liền đóng trại đối với trại giặc bên kia. Ngày hôm sau Tiều Cái cùng các vị Đầu Lĩnh cưỡi ngựa đi ra chợ Tăng Đầu, để thăm nom địa thế,
Đương khi đó, bỗng thấy trong rừng liền có một toán nhân mã ước chừng bảy tám trăm người kéo ra, có một anh hảo hán là Tăng Khôi con thứ tư Tăng Gia đi đầu, quát lên rằng:
- Lũ bay là quân giặc cỏ, làm loạn vùng Lương Sơn, ta đương toan đến để tróc nã...Nay trời lại rung rủi cho bay đến đây, thì thực là tiện lắm...Bay không xuống ngựa chịu trói ngay đi, còn đợi đến bao giờ nữa?
Tiều Cái nghe nói cả giận, quay đầu lại toan gọi người ra đánh, thì đã thấy một người xông ngựa ra để đánh nhau với Tăng Khôi. Người này nguyên là một người bắt đầu kết nghĩa từ khi mới đến Lương Sơn, tức Báo Tử Đầu Lâm Xung đó. Lâm Xung đánh nhau hơn mười hiệp, Tăng Khôi liệu thế không địch nổi, liền cắp giáo quay ngựa chạy về rừng, Lâm Xung thấy vậy cũng kềm ngựa lại, mà không đuổi theo.
Tiều Cái liền dẩn quân mã về trại để bàn cách đánh phá.
Lâm Xung bàn rằng:
- Ngày mai dẩn binh ra chợ mà khơi đánh, để xem tình hình thực hư thế nào, rồi ta sẽ liệu.
Tiều Cái khen phải mà nghe lời. Sáng hôm sau dẩn cả năm nghìn quân mã, ra khu đất rộng trước cửa chợ Tăng Đầu, bày thành trận thế gỏ mõ khua chiên mà gọi đánh.
Bấy giờ trong chợ Tăng Đầu nghe có tiếng trống hiệu nổi lên, rồi thấy đại đội nhân mã kéo ra dàn trận, có bảy vị hảo hán đứng đầu: Khoảng giữa là giáo sư Sử Văn Cung, phía trên là phó giáo sư Tô Định, phía dưới là con trưởng Tăng Gia tên là Tăng Đồ, bên tả thì Tăng Mật, Tăng Khôi, bên hữu thì Tăng Thăng, Tăng Sách. Bảy người này đều nai nịch nghiêm chỉnh, coi rất oai vệ. Giáo sư Sử Văn Cung, lưng đeo cung tên, mình cưỡi ngựa Thiên Lý Ngọc Sư Tử, tay cầm một cây Thiên Phương Hoạt Kích, rõ ra một tướng anh hùng.
Khi ba hồi trống trận vừa dứt, thì bên Tăng Gia đẩy ra một xe tù ra trước mặt, rồi Tăng Đồ chỏ mắng bọn Tiều Cái rằng:
- Quân giặc cỏ phản bội nhà nước kia, có thấy cỗ xe của ta đó không?Chúng Ta đây nếu không giết chết chúng bây, thì không phải là tay hảo hán, nay ta vớ được đứa nào là bắt sống đứa ấy để đem nhốt vào xe tù, mà mang nộp Kinh Sư, thế mới rõ là tay Ngũ Hổ ở Tăng Gia. Nếu bay có biết điều thì xuống ngựa mà chịu trói trước đi, thì ta sẽ liệu giảm tội đi cho...
Tiều Cái nghe nói tức giận, múa gươm thúc ngựa thẳng xông ra đánh Tăng Đồ, rôi các tướng nhất tề cũng xông ra để đánh, đôi bên đánh nhau lộn bậy một hồi, quân mã Tăng Gia vừa đánh vừa lui vào trong thôn.
Lâm Xung, Hô Duyên Chước xung đột đánh theo, sau thấy đường sá hiểm trở không lối, liền thu binh kéo về trại.
Hôm đó hai bên đánh nhau, đều thua mất nữa nhân mã, mà không định được thua ra sao. Khi trở về trong trại, Tiều Cái lấy làm lo nghĩ băn khoăn.
Các tướng can rằng:
- Ca Ca phải nên tỉnh tâm, chớ lo nghĩ chi cho mệt nhọc. Trước đây Tống Công Minh ra trận, vẫn bị thua luôn, sau cũng được toàn thắng trở về...Và ngày nay hai bên đánh nhau đều có thiệt hại cả, mình cũng không đến nổi thua kém gì, Ca Ca phải nghĩ....
Tiều Cái nghe vậy, trong lòng vẫn lấy làm ngay ngáy không vui. Sau đó luôn ba ngày đêm quân ra chợ khơi đánh, mà không thấy một ai.
Ngày hôm thứ tư bổng có hai nhà sư, đi thẳng vào sơn trại để xin chào Tiều Cái, Chúng dẩn vào tới nơi, hai người quỳ trước mặt Tiều Cái mà nói rằng:
- Chúng tôi là Giám Tự ở chùa Pháp Hoa mé bên hông chợ Tăng Đầu, nhân bị Tăng Gia Ngũ Hổ, thần thường đến quấy nhiễu trong chùa và sách nhiểu lấy tiền nong của cải rất là khó chịu. Vả chúng tôi ở đây đã lâu, biết rỏ được tình thế của họ, vậy xin đến đây để hiến Đầu Lĩnh một kế, mà cướp trại đêm nay, để khử trừ họ đi, thì thực là may cho dân chúng.
Tiều Cái nghe nói cả mừng, liền mời hai nhà sư ngồi, và rót rượu để thiết. Khi đó Lâm Xung can rằng:
- Ca Ca chớ nên nghe vội, vì trong đó không khéo có kế lừa cũng nên...
Tiều Cái nói nói rằng:
- Người ta là kẻ Thái Úy hành, có khi nào lại nỡ nói càng nói bậy...Bọn Lương Sơn ta xưa nay vốn theo đường nhân nghĩa, đi đến đâu không hề quấy nhiễu lương dân, vậy thì hai người này có thù hằn gì với ta mà nở nói dối? Vả chăng bọn Tăng Gia vị tất đã đánh được nổi quân của ta, còn can chi mà phải nghi ngại? Việc nay xin anh em chớ nên rùi rắn mà lỡ mất chuyện to, đêm nay ta phải đi mới được...
Lâm Xung có ý can mà rằng:
- Nếu Ca Ca quyết định đi, thì tôi xin chia nữa quân mã đến cướp trại, còn Ca Ca tiếp ứng ở ngoài.
- Nếu tôi không đi thì ai chịu ra sức, hiền đệ giữ một nữa quân ở bên ngoài tiếp ứng, để tôi vào cướp trại cho.
- Ca Ca định mang ai đi cùng?
- Tôi định lấy hai nghìn nhân mã và mười vị nhân Đầu Lĩnh để vào cướp trại.
Nói đoạn liền gọi Lưu Đường, Hô Duyên Chước, Nguyễn Tiểu Ngũ, Yến Thuận, Nguyễn Tiểu Thất, Tiểu Thiên, Bạch Thắng, Tống Vạn, chỉnh điểm nhân mã, đợi chiều hôm đó đến cướp trại. Đêm hôm đó trời vừa sẩm tối, cơm nước xong rồi, ba quân đều ngậm tăm im phắc, ngựa tháo nhạc ra, rồi cùng hai người thầy chùa, mà kéo vào chùa Pháp Hoa.
Khi tới nơi, Tiều Cái xuống ngựa đi vào, thấy quả nhiên là một khu chùa cổ, mà không có sư mô ở đó, liền hỏi hai người sư kia rằng:
- Đây là một nơi chùa lớn, mà sao không có pháp sư ở đây?
Nhà sư đáp rằng:
- Nhân vì mấy đứa súc sinh nhà họ Tăng quấy nhiểu, nên các sư đều sợ hãi mà bỏ đi cả, duy còn có sư phụ và mấy người đồ đệ thì ở tháp viện trong kia...Xin Đầu Lĩnh tạm nghỉ nhân mã đây, rồi canh khuya tôi sẽ đưa tới trại chúng.
- Trại chúng ở chỗ nào?
- Chúng nó có bốn trại, song bên bắc là chỗ anh em họ Tăng đóng binh, nếu đánh được chỗ đó, thì trại bên kia phá dễ như chơi.
- Đợi lúc nào thì đi?
- Bây giờ mới canh hai, xin đợi đến canh ba sẽ đi.
 Bấy lâu nổi tiếng giang hồ,
Một phen phó mặc cơ đồ cho ai?
Hết thân chưa dứt chuyện đời,
Gươm thù còn gửi lại người nước non...
Bấy giờ Tống Giang thấy Tiều Cái mất, thì trong lòng lấy làm thảm thiết, cất tiếng khóc nức nở, không khác gì cha mẹ mất vậy.
Các Đầu Lĩnh thấy vậy đều dìu Tống Giang ra để chủ trương các việc.
Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng khuyên Tống Giang rằng:
- Ca Ca chớ nên phiền não cho lắm người ta sống chết bởi tại mệnh trời, dẩu than khóc cũng không làm chi được nữa. Vậy xin Ca Ca hãy lý hội việc lớn là hơn.
Tống Giang nghe nói liền gạt nước mắt, rồi sai lấy nước hương hoa tắm cho Tiều Cái, khâm liệm áo xiêm tử tế, mà đưa ra Tụ Nghĩa Sảnh.
Các Đầu Lĩnh đều đến đó mà khóc lóc làm lễ, rồi sai đóng quách, chọn ngày lành tháng tốt mà đưa ra chính sảnh, đặt linh sàng viết bài vị mấy chữ "Lương Sơn Bạc Chủ, Thiên Vương Tiều Công Thần Chủ" để thờ.
Các vị Đầu Lĩnh trong sơn trại cùng Tống Giang trở xuống; đều ăn mặc đại tang, còn các tiểu đầu mục cùng các tiểu lâu la cũng chít khăn để tang.
Lâm Xung đem mũi tên thề ở trước linh sàng Tiều Cái, rồi sơn trại dựng cành phan, thỉnh các sư ở chùa gần đó, về làm chay siêu thoát cho Tiều Thiên Vương.
Từ đó hàng ngày Tống Giang lại dẩn các vị Đầu Lĩnh đến trước linh sàng khóc lóc, không có bụng nào nghĩ đến việc sơn trại. Lâm Xung cùng Ngô Dụng, Công Tôn Thắng và các vị Đầu Lĩnh bàn nhau tôn Tống Giang lên làm chủ, để coi giữ hiệu lệnh trong sơn trại.
Sáng hôm sau thiết bày vị hương hoa đền nến, rồi Lâm Xung dẩn các Đầu Lĩnh mời Tống Giang ra ngồi ở Tụ Nghĩa Sảnh mà nói rằng:
- Dám bẩm Ca Ca, trong nước không thể một ngày không có vua, trong nhà không thể một ngày không có chủ. Nay Tiều Đầu Lĩnh đã hết mệnh chầu trời, công việc ở trong sơn trại, không thể không có người chủ trương được. Vậy Ca Ca là một người đại nghĩa anh tài trong thiên hạ không ai là không biết tiếng, vậy chúng tôi xin chọn ngày lành tháng tốt, để mời Ca Ca lên làm chủ sơn trại, cho anh em được cùng theo hiệu lệnh của Ca Ca mới được.
Tống Giang từ chối mà rằng:
- Khi Tiều Thiên Vương sắp nhắm mắt có dặn lại rằng: "Ai bắt được Sử Văn Cung thì cho làm chủ Lương Sơn Bạc"Điều đó các Đầu Lĩnh ai ai cũng biết. Vậy nay tên thề vẫn còn để kia, có lẽ nào đã quên được hay sao?, vả chăng chưa ai báo cừu rửa hận cho xong, có khi nào đã ở ngôi ấy được?
Ngô Học Cứu nói rằng:
- Đã đành Tiều Thiên Vương nói vậy, song việc sơn trại không thể một ngày không có chủ được, nếu Ca Ca không nhận ngôi ấy, thì các Đầu Lĩnh toàn là những kẻ dưới, cọn ai dám nhận mà làm? Vả chăng anh em đây phần nhiều toàn thị tâm phúc của Ca Ca, chắc cũng không ai dám dị nghị vào đó, vậy xin Ca Ca hãy tạm quyền ít lâu, rồi sau này sẽ liệu.
Tống Giang nói rằng:
- Quân sư dạy thế cực phải, nay tôi xin quyền tạm ở đây, ngày sau ai bắt được Sử Văn Cung, thì xin nhường vào vị đó.
Bấy giờ Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đứng bên cạnh kêu lên rằng:
- Ca Ca làm Đại Tống Hoàng Đế cũng được, cử gì chủ một Lương Sơn Bạc này.
Tống Giang cả giận quát lên rằng:
- Thằng đen lại đến đó mà nói nhắng...còn nói câu nữa thì ta cắt lưỡi đó.
Lý Quỳ nói:
- Tôi có bảo Ca Ca đừng làm đâu? Tôi mời Ca Ca làm Hoàng Đếù mà cũng cắt lưỡi..? Ngô Học Cứu nói rằng:
- Ca ca là một người không biết thời thế, nói làm chi ta hãy xong việc lớn đã.
Nói đoạn Tống Giang đốt hương xong, rồi Lâm Xung, Ngô Dụng mời Tống Giang lên ngồi ghế chính giữa, phía trên có Ngô Dụng, phía dưới có Công Tôn Thắng; dãy bên tả có Lâm Xung làm đầu, dãy bên hữu có Hô Duyên Chước làm đầu, còn các thue lĩnh theo thứ tự mà ngồi.
Khi các thủ lỉnh vái chào cùng ngồi yên vị rồi Tống Giang nói rằng:
- Ngày nay tôi tạm quyền chủ vị ở đây, dám xin anh em hết lòng hết sức ràng buộc lấy nhau, để cùng thay trời làm Đạo, Trong sơn trại hiện nay, nhân mã đông đúc, công việc bộn bề, không phải tầm thường như ngày trước. Vậy xin anh em chia ra làm sáu trại để đóng. Tụ Nghĩa Sảnh lại đổi là Trung Nghĩa Đường, trước sau tả hữu xin đặt bốn trại trên bộ, sau núi làm hai trại con, trước cửa núi ba toà quan ải, dưới núi một trại thủy quân, hai bên có hai trại nhỏ, cùng chia nhau canh giữ các nơi, Trung Nghĩa Đường thì tôi tạm giữ ngôi chủ, rồi thứ nhì đến quân sư Ngô Ngọc Cứu, thứ ba đến pháp sư Công Tôn Thắng, thứ tư đến Hoa Vinh, thứ năm đến Tần Minh, Thứ sáu đến Lã Phương, thứ bảy đến Quách Thịnh; trong tả trại thứ nhất thì Lâm Xung, thứ nhì Lưu Đường, thứ ba Sử Tiến, Thứ tư Dương Hùng, thứ năm Thạch Tú, thứ sáu Đỗ Thiên, thứ bảy Tống Vạn; Trong trại hữu quân thứ nhất Hô Duyên Chước, thứ nhì Chu Đồng, thứ ba Đới Tung, thứ tư Mục Hoằng, thứ năm Lý Quỳ, thứ sáu Âu Bằng, thứ bảy Mục Xuân; Tiểu trại thứ nhất Lý Ứng, thứ nhì Từ Ninh, thứ ba Lỗ Trí Thâm, thứ tư Võ Tòng, thứ năm Dương Chi, thứ sáu Mã Lân, thứ bảy Tri An; Hậu trại thứ nhất SÀi Tiến, thứ nhì Tôn Lập, thứ ba Hoàng Tín, thứ Tư Hàn Thao, thứ năm Bàng Dĩ, thứ sáu Đặng Phi, thứ bảy Tiếc Vĩnh. Trong trại thủy quân thứ nhất Lý Tuấn, Thứ nhì Nguyễn Tiểu Nhị, thứ ba Nguyễn Tiểu Ngũ, Thứ Tư Nguyễn Tiểu Thất, thứ năm Trương Hoành, thứ sáu Trương Thuận, thứ bảy Đồng Uy, Đồng Mảnh. Sáu trại cộng bốn mươi ba viên Đầu Lĩnh.
Tước cửa quan lần thứ nhất do Lôi Hoành Phàn Thụy Giữ. Cữa quan thứ hai do Giả Trân, Giải Bảo giữ, cữa quan thứ ba do Hạng Sung, Lý Cổn giữ. Tiểu trài ở bến Kim Sa sai Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ, cùng Khổng Minh, Khổng Lượng coi, tiểu trại ở bến Aùp Chủy giao cho Lý Trung, Chu Thông, Trâu Uyên, Trâu Thuận giữ. Hai tiểu trại đằng sau núi có Dương Nuỵ Hổ, Nhất Trượng Thanh và Tào Chính, bên hữu có Chu Vũ, Trần Đạt Dương Xuân coi giữ. Trong Trung Nghĩa Đường về dãy phòng bên tả có Tiêu Nhượng coi việc văn thư, Bùi Tuyên coi việc thưởng phạt, Kim Đại Kiện coi việc ấn tín, Tưởng Kinh coi việc tính toán tiền nong; Dãy bên hữu có Lăng Chấn coi việc tiền nong, Mạnh Khang coi việc đóng thuyền, Hầu Kiện coi việc chế mũ giáp. Đào Tôn Vương coi việc xây dựng thành quách. Còn các người ở Trung Nghĩa Đường, thì có Lý Vân coi việc dựng nhà cửa, Thăng Long đốc thúc thợ rèn, Chu Quý coi việc chế rượu chè, Tống Thanh coiviệc cỗ bàn yến tiệc. Đỗ Hưng Bạch Thắng coi sóc các đò vặt vãnh. Ngoài núi làm bốn ngôi tữu điếm nguyên giao cho bọn Chu Quý, Nhạc Hoà, Thời Thiên, Lý Lập, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương chia giữ, còn Dương Lâm Thạch Dũng, Đoàn Cảnh Trụ thì chuyên việc mua lừa ngựa về phía bắc.
Khi cắt đặt xong rồi, các Đầu Lĩnh lớn nhỏ ở Lương Sơn Bạc, đều nhất làm theo lệnh Tống Giang, mà không hề có điều chi ngang trái.
Sáng hôm sau Tống Giang lại họp các vị Đầu Lĩnh mà bàn rằng:
- Lẽ ra ta nên vì Tiều Thiên Vương mà đem quân đi đánh Tăng Đầu Thị để báo thù ngay lập tức. Song hiện nay trong lúc cư tang, ta kinh động như thế, thì là bất tiện. Vậy xin để ra ngoài trăm ngày, rôi sẽ cử binh đi đánh, cũng không lấy gì làm chậm trễ....
Các Đầu Lĩnh nghe lời đều lui ra coi giữ sơn trại, và ngày ngày lại đón thầy làm chay niệm phật để tịnh độ siêu sinh cho Tiều Cái.
Một hôm có một vị có pháp danh là Đại Viên, Nguyên là pháp chủ trong chùa Long Hoa, tại phủ Đại Danh Thành Bắc Kinh, nhân đi vân du qua mạn Lương Sơn, bọn Lương Sơn liền đón và để làm chay, cúng Phật; Trong khi trò chuyện Tống Giang hỏi đến nhân vật cùng phong thổ ở Bắc Kinh.
Nhà sư hỏi Tống Giang rằng:
- Đầu Lĩnh không biết ông Ngọc Kỳ Lân ở đất Hà Bắc hay sao?
Tống Giang nghe nói, chợt nghĩ ra, liền nói với nhà sư rằng:
- Ngài nom chúng tôi chưa già, có bao giờ quên được việc ấy. Trong thành Bắc Kinh Viên Ngoại họ Lư tên Tuấn Nghiã, biệt hiệu là Ngọc Kỳ Lân, đứng vào hạng Tam Kiệt ở Bắc Hà đấy... Ông ta võ nghệ cao cường, côn quyền không ai địch nổi, nếu ở Lương Sơn Bạc có được ông ấy, thì trong bụng tôi không lo nghĩ một điều chi nữa.
Ngô Dụng nghe nói cười mà rằng:
- Ca Ca can chi nói những câu bất đắc chi như vậy? Nếu muốn được người ấy lên núi, thì có khó gì?
Tống Giang nói rằng:
- Ông ta là một trưởng giả bậc nhất ở Bắc kinh.
Xưa nay tôi vẫn nghĩ đến luôn, vì dạo này bận rộn nên lãng quên đi mất... tôi chỉ thi hành một kế cỏn con thì khả dĩ đưa được người ấy lên đây ngay có ngại gì?
Tống Giang nghe vậy, khen ngợi Trí Đa Minh, và hỏi xem kế sách ra sao?
Mới hay:
Anh hùng đứng giữa trần ai,
Tri âm đâu dể lọt ngoài mắt xanh?
Nặng lòng kẻ tử người sinh,
Nước bèo tan hợp chút tinh dể quên.
Mong cho chung thủy vẹn tuyền,
Thắt dày liên lạc làm duyên giang hồ.
Máu riêng chung đúc một lò,
Ra tay gánh lấy cơ đồ xem sao?
Lời bàn của Thánh Thán:
Đọc Thủy Hử theo tục bản, đến chỗ này, thấy bỗng đâu hết ý, không hiểu rõ ra, tới khi đọc đến cổ bản, mới ngậm ngùi than: Hỡi ôi khéo thay; văn chương hay đến bậc này!
Xét từ trước Tiều Cái muốn đi đánh Chúc Gia Trang thì Tống Giang đón lấy, can rằng: Ca Ca là chủ sơn trại, không động; Tiều Cái muốn đánh Cao Đường, Tống Giang cũng lại khuyên rằng: Ca Ca là chủ sơn trại, không nên khinh động; cho tới đánh Thanh Châu, đánh Hoa Châu, Tống Giang đều một điệu nói ấy, đón lấy mà đi.
Sao đến đánh Tăng Đầu Thị, thì Tiều Cái quyết đi, Tống Giang lặng im không nói câu nào, Tống Giang chẳng ngăn, mà Tiều Cái đã chết vì việc đó, ta đây cũng chẳng biết sự thực ra sao? Song theo quân tử mà xem thư pháp, suy đến tình trạng, dẫn chuyện Hứa Thế Tử chẳng nếm thuốc qua để đoán việc ngục, thì Tống Giang đã giết Tiều Cái, quyết không dung thứ, đó chẳng phải mũi tên của Sử Văn Cung, mà thực ra chết ở trên tay Tống Giang vậy, cũng chẳng phải là Tống Giang biết rõ năm hổ ở chợ Tăng Đầu, có thể giết chết Tiều Cái mà chẳng đem binh cứu viện, vì Tiều Cái chết chẳng phải Tống Giang nghĩ biết tới, song lẽ Tiều Cái chết thì hay cho Tống Giang, chẳng phải chỉ ngày ấy mà nghĩ tới. Ta biết đó vì sao? Vì Tiều Cái mỗi khi muốn hạ sơn, Tống Giang lại đón ngăn đi, Tống Giang không muốn Tiều Cái hạ sơn kia, là chẳng muốn Tiều Cái có sơn trại nữa, lại chẳng muốn mọi người coi có Tiều Cái nữa, đã chẳng muốn Tiều Cái còn sơn trại nữa, thì sơn trại phải một sớm sẽ không còn của Tiều Cái, Tống Giang cả mừng; lại chẳng muốn mọi người coi có Tiều Cái, thì Tiều Cái tuy chưa chết ở trong tay Sử Văn Cung, song đã chết ngay ở trên tay mọi người trên sảnh dưới sảnh không hưởng ứng lời, đâu phải chỉ một ngày mà thôi vậy, như thế, ngày nay Tiều Cái chết ở tay Sử Văn Cung đã dư cái chết từ trước, cái chết của Tiều Cái vốn lâu rồi, thế mà Tiều Cái đến chết mới kinh hoảng, là thấy ở trên tay Sử Văn Cung của Tăng Gia Ngũ Hổ, vì Tống Giang thấy Tiều Cái ra đi, rồi đến chết, mà đành vậy. Cho nên từng khuyên đừng đánh Chúc Gia Trang, đừng đi đánh Cao Đường, đừng đi đánh Thanh Châu, Hoa Châu... thì đủ biết rằng đi đánh Tăng Gia thì cũng phải khuyên rồi, thế mà tác giả đối với những trận trước thì chép ra Tống Giang khuyên, đến lần này, chép bỏ sự khuyên đi, cho rõ cái ác tâm của Tống Giang để định tội vậy. Đó là thâm ý của tác giả, dùng ngòi bút kỳ quan chép sử, cho rõ cong ngay, nếu không đọc cổ bản, thì không thấy rõ.
Suốt thiên này đều dùng ngòi bút tả ra, cho rõ tội Tống Giang, muốn giết Tiều Cái, như gió thổi gãy cờ, chỉ một Ngô Dụng can thôi, đó là một tội; Đới Tung đi thám thính, giấu chuyện về báo, hai tội vậy; Năm tướng cứu chết, còn mọi người chỉ biết mình, ba tội vậy; Sao chủ soái sa, mọi người chẳng đổi về, bốn tội vậy; chỉ biết khóc lóc, không lo thuốc thang, năm tội vậy; Tiều Cái để lại lời thề, mà rằng chẳng quái, sáu tội vậy; Vội lên ngôi lớn, sắp đặt khác đi, bảy tội vậy; Bỏ mặc tang chế chẳng báo thù ngay, tám tội vậy; Thù lớn chưa xong, gặp thầy tăng rỗi bàn, chín tội vậy; Bỏ chết Thiên Vương, bắt sống Kỳ Lân, mười tội vậy.
Hồi thứ hai tả Thiếu Hoa Sơn, hồi thứ tư tả Đào Hoa Sơn, hồi mười sáu tả Nhị Long Sơn, hồi ba mươi mốt tả Bạch Hổ Sơn, đến hồi này tóm thâu hết lại, thực là kỳ bút, thế mà còn hiềm rằng cùng giống nhau, cùng giống nhau như sao? Như bày tất cả con cờ, đến kết cục cùng thu lại cả. Sau đọc đến thiên này, lại có thêm một Hỗn Thế Ma Vương, trước chưa từng có, bỗng đâu nảy ra, gặp một sự hư này, cùng với bốn sự thực kia, vậy sau biết đến văn chương có phép tương cứu vậy.
Hồi 60:
Lừa Ngọc Kỳ Lân Ngô Dụng lập mẹo:
Quấy Kim Sa Đọ Trương Thuận trổ tài
Khi đó Ngô Dụng nói với Tống Giang rằng:
- Tôi xin dùng ba tấc lưỡi vào tới Bắc Kinh, thuyết cho Lư Tuấn Nghĩa, đi đến Lương Sơn thực dể như thò bàn tay vào trong túi lấy đồ vật vậy. Song phải có một số người nào mặt mũi kỳ quái đi với tôi thì mới được.
Ngô Dụng vừa nói dứt lời, thì Hắc Toàn Phong Lý Quỳ kêu to lên rằng:
- Quân sư Ca Ca cho tôi đi với...
Tống Giang quát mắng rằng:
- Anh đi không được, có phải là việc đốt nhà giết người, cướp kho phá phủ, thì mới dùng đến anh, còn việc này phải cẩn thận vững vàng, mà tính khí anh như thế, thì đi làm sao được?
Lý Quỳ nói rằng:
- Lần nào cũng thế, ông bảo tôi xấu... chê tôi...không cho tôi đi...
Không Phải là chê, nhưng ở trong phủ Đại Danh bọn do thám rất nhiều, nếu lỡ ra họ biết, thì uổng mạng không?
- Không cần, Nếu tôi không đi, thì chắc cũng chả người nào trúng ý quân sư được.
Ngô Dụng bảo Lý Quỳ rằng:
- Nếu ngươi y được ba điều này, thì ta cho đi, bằng không thì cứ ngồi yên ở nhà đó...
Lý Quỳ đáp rằng:
- Đến ba mươi điều tôi cũng y được cả, cứ gì ba điều.
Ngô Dụng nói rằng:
- Điều thứ nhất là tánh ngươi nóng nảy như lửa, từ nay phải bỏ rượu đi, rồi trở về mới được uống; điều thứ hai, khi đi đường phảiû ăn mặc giả làm đạo đồng theo ta; hễ ta bảo câu gì không được ngang trái. Còn điều thứ ba thì khó lắm đây. Bắt đầu từ ngày mai trở đi ngươi không được nói phải giả làm thằng câm vậy...Có y được ba điều đó; thì ta sẽ cho đi.
Lý Quỳ lắc đầu đáp rằng:
- Không uống rượu cũng được, tôi xin vâng cả. Duy bắc tôi không được nói, thì khổ chết tôi mất.
Người há miệng ra lại sinh sự lôi thôi, không được.
Lý Quỳ vỗ tay mà rằng:
- Được rồi, tôi ngậm tay vào miệng là được rồi...
Các Đầu Lĩnh nghe nói đều cười ầm cả lên.
Đoạn rồi trong sơn trại đặc ngay tiệc tiễn hành ngay chiều hôm ấy. Đến sáng hôm sau Ngô Dụng sắp sửa hành lý, cho Lý Quỳ ăn mặc giả làm đạo đồng, quảy gánh xuống núi. Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh đưa chân Ngô Dụng ra bến Kim Sa dặn dò cẩn thận về việc trông coi Lý Quỳ rồi mới cùng nhau về trại.
Người cùng Lý Quỳ đi trong mấy hôm, Ngô Dụng bị Lý Quỳ cằn nhằn rất là khổ sở. Cách mấy hôm đi đến thành Bắc Kinh, hai người tìm vào hàng trọ. Chiều hôm đó Lý Quỳ xuống làm cơm, không biết làm sao đến tên tiểu nhị ở hàng cơm, đỗ cả máu mồm máu mũi ra.
Tên tiểu nhị liền mách với Ngô Dụng rằng:
- Tên đạo đồng cửa ngài dữ tợn quá chừng. Tôi đốt lữa khí chậm một chút, mà hắn đến tôi hộc cả máu mồm ra đây.
Ngô Dụng dỗ dành tên tiểu nhị, đưa đền cho mươi quan tiền để yên chuyện đi, rồi mắng trách Lý Quỳ suốt đêm hôm ấy.
Sáng hôm sau dậy sớm cơm nước xong rồi, Ngô Dụng gọi Lý Quỳ vào phòng mà dặn rằng:
- Ngươi là quá cố sống chết đòi đi, rồi đi đường cẳn rẳn suốt ngày, thực là khổ cho người ta...Ngày nay vào thành, không phải chuyện chơi, ngươi đừnh làm uổng chết mạng người ta mới được.
Lý Quỳ nói rằng:
- Làm gì tôi không biết mà phải dặn....
Ngô Dụng lại nói rằng:
- Bây giờ ta có một ám hiệu này, nươi phải nhớ mới được. Hễ khi nào ta lắc đầu, thì ngươi không được cựa động gì đấy...
Lý Quỳ gật đầu dâng lời, rôi hai người cùng thay hình đổi dạng mà vào thành, Ngô Dụng đội cái khăn sa gần đến mi mắt, mình mặc áo đạo phục lụa trắng viền đen, thắc lưng màu rực rỡ, đi đôi giày vải mũi vuông tay cầm cái chuông đồng con con. Lý Quỳ kết tóc làm hai trái đào ở trên đầu, mặc áo rộng ngắn bằng vải thường, thắc lưng tua ngắn, đi đôi giày tồi tàn, quảy một mẩu gỗ, treo giấy cáo bachf lên trên, viết mấy chũ "Xem số đoán vận, mỗi quẻ lạng bạc".
Hai thầy trò ăn mặc xong, rồi cùng nhau vào cửa thành Bắc Kinh. Bấy giờ đương hồi trộm cướp rất nhiều châu huyện cũng đều phòng bị rất nghiêm ngặt cả. Gia dĩ ở đây là một nơi phồn hoa đệ nhất ở Bắc Hà, lại có quan Lương Trung Thư thống lãnh đại binh ở đó, nên sự canh phòng lại càng cẩn thận hơn các nơi.
Ngô Dụng và Lý Quỳ đi vào cửa thành, thấy có bốn năm mươi tên lính đứng hầu một ông quan coi thành ở đó. Ngô Dụng bèn chạy đến chắp tay vái chào.
Quân sĩ liền hỏi rằng:
- Nhà thầy ở đâu tới đây? Ngô Dụng đáp:
- Tôi họ Vương tên Dụng, tên đạo đòng này họ Lý, hai thầy trò đi đoán số kiếm ăn, nay định đến quý quạân đây, xem ai có lòng muốn xem số mệnh, thì tôi xin đoán giúp.
Nói đoạn giở quyển văn số ra để dẩn cho chúng xem.
Bọn lính bảo Ngô Dụng rằng:
- Thằng đạo đồng nhà thầy, trông hai con mắt nó như thằng ăn cướp thế kia...
Lý Quỳ nghe nói toan sừng sộ lên. Ngô Dụng vội lắc đầu cho Lý Quỳ im đi, rồi nói với bọn lính rằng:
- Các ngài không biết, chúng tôi thật là khổ quá, thằng bé này vừa câm vừa điếc, chỉ được cái sức khoẻ hơn người, vả chăng là con cháu trong nhà, nên bất đắc dĩ phải mang nó đi, mà thực nó chẳng biết một chút gì cả, xin các ngài tha lỗi cho.
Nói đoạn vái chào mà đi. Lý Quỳ tập tễnh theo sau, bước thấp bước cao cùng đi vào lối chợ.
Ngô Dụng lắc chuông loong coong miệng đọc rằng:
Nhan Hồi chết sớm vì đâu?
Để ông Bành Tổ sống lâu ngót nghìn.
Cam La sớm đã uy quyền,
Tử Nha đầu bạc mới nên tướng tài.
Phạm Đang nghèo khổ nhất đời,
Thạch Sùng giàu có bới trời xui nên.
- Đó là thời vận mà mệnh trời đó. Ai muốn biết vận mạng một đời, sang hèn sống chết, thì xin cho một lạng bạc.
Nói đoạn lại lắc chuông loong coong mà đi. Tụi trẻ con ở thành Bắc Kinh có năm mươi đứa chạy theo, vừa cười vừa nói ầm ĩ cả lên.
Ngô Dụng đi qua cửa nhà Lưu Viên Ngoại lúc ấy đương cùng chủ quản ngồi giải ở trong nhà, nghe ngoài phố có tiếng huyên náo ầm ầm. Liềm gọi người nhà lên hỏi rằng:
- Trên phố xá có việc gì mà ầm ầm lên thế?
- Bẩm ngài, có chuyện buồn cươi quá: Ngoài phố có một thầy số ở đâu mới đến, đòi mỗi quẻ lấy một lạng bạc, thì ai có tiền mà xem? Ông ta lại có một thằng đạo đồng đi sau, trông rất nghe tởm, hết đi rồi lại lại, chúng tôi không sao mà nhịn cười được.
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Họ nói đắc như vậy, chắc là họ biết rộng, bay ra đón vào đây ta xem.
Tên người nhà quay ra bảo Ngô Dụng rằng:
- Tiên Sinh ôi! Viên Ngoại cho mời tiên sinh vào.
Ngô Dụng hỏi:
- Viên ngoại nào mời tôi?
Ông Lư Viên Ngoại mời thầy đấy.
Ngô Dụng liền cùng với đồng đạo, theo tên người nhà vào. Khi vào đến đầu nhà Ngô Dụng chõ chỗ ghế ở đó, cho Lý Quỳ ngồi đợi, rồi vào chào Lư Tuấn Nghĩa.
Lư Tuấn Nghĩa đứng chào Ngô Dụng rồi hỏi rằng:
- Tiên sinh quý tính cao danh là gì?
Ngô Dụng đáp:
- Tôi họ Vương tên Dụng, biệt hiệu là Thiên Khẩu, nguyên quán ở đất Sơn Đông, biết số Hoàng Cực Tiên Thiên, rõ được sự sống chết, hèn sang trong một đời người. Mỗi quẻ cứ đủ một lạng bạc, thì tôi mới đoán.
Lư Tuấn Nghĩa nghe nói, mời Ngô Dụng vào ngồi cái gác nhỏ ở nhà trong, rồi sai người pha nước uống. Đoạn rồi gọi người nhà lấy lên một lạng bạc đặt quẻ, và nhờ Ngô Dụng đoán số giúp cho.
Ngô Dụng hỏi:
- Năm nay ngài bao nhiêu tuổi? Sinh ngày tháng nào?
Lư Tuấn Nghĩa đáp:
- Thưa thầy tôi chỉ hỏi việc dữ, không cần phải hỏi việc phú quý vinh hoa...Tôi năm nay ba mươi hai tuổi, sinh giờ Đinh mão, ngày Bính Dần, tháng Aát Sửu, năm Giáp Tý, xin ngài xem sự hành tàng sau này thế nào?
Ngô Dụng nghe đoạn lấy ra một con toán bằng sắt tính toán một lúc, rồi đập con toán kêu lên rằng:
- Quái lạ!
Lư Tuấn Nghĩa kinh ngạc hỏi rằng:
- Có việc gì, lành dữ thế nào, xin thấy cứ nói...
- Tôi nói cho đúng, chắc ngài lại cạnh lòng.
- Có can chi, chúng tôi chỉ nhờ tiên sinh, chỉ bảo đường mê, xin tiên sinh cứ nói cho.
- Cứ như cung mệnh của Viên ngoại, thì chỉ trong một trăm ngày nữa, tất có cái nạn đao huyết, gia tư cũng khó lòng giữ được, mà phải bị chết vì đao kiếm chứ không chơi!
Lư Tuấn Nghĩa cười mà rằng:
- Tiên sinh nói sai rồi, tôi ở đất Bắc Kinh, sinh trưởng vốn nhà hào phú, trong họ không có con trai nào phạm phép, trong nhà không có con gái nào hai chồng. Vả chăng tôi đây xưa nay tính nết cẩn thận, việc gì vô lý không làm, của nào phi nghĩa không lấy, lẽ nào ngày nay lại bị nạn đao huyết thế được?
Ngô Dụng nghe vậy biến sắc mặt, cầm trả tiền Lư Tuấn Nghĩa, rồi đứng phắt vậy thở dài mà rằng:
- Thiên hạ nguyên chỉ thích những người a dua xiểm nịnh cả... thôi, rõ ràng là "Chỉ đường trỏ lối cho hẳn hoi, lại cho nói thẳng là lời bất lương". Thối xin chào ngài tôi xin đi...
Lư Tuấn Nghĩa vội ôn tồn mà rằng:
- Sao Tiên sinh vội giận thế? Tôi nói đùa đó thôi... có can chi...? Xin Tiên sinh hãy thử lai để chỉ giáo cho tôi.
- Thưa ngài, xưa nay những lời nói thực vẫn khó tin...
- Thôi, Tiên sinh chớ vội giận, cứ nói cho tôi biết, thế nào tôi vẫn vâng lời dạy...
- Ngài phải biết trong cung số của ngài, nhất thiết điều gì cũng tốt. Duy năm nay phạm sao Tuế Quân, cho nên mới gặp hoạn nạn, như chỉ trong trăm ngày nữa; thì tất là đầu xác lìa nhau, không thể nào tránh được.
- Tiên sinh có cách gì khả dĩ thoát được chăng?
Ngô Dụng lại cầm con toán tính một lúc nữa, rồi nghĩ ngợi hồi lâu mà lẩm bẩm rằng:
- Phen này duy có đi về mạn Tốn Phương, ở về phía Đông Nam, chừng hơn ngàn dặm, thì may ra mới có thể thoát nạn được. Nhưng cũng có điều đáng sợ, duy không việc gì đến tính mạng mà thôi.
Lư Tuấn Nghĩa cảm tạ mà rằng:
- Nếu tôi được thoát nạn này sẽ xin hậu tạ Tiên Sinh.
Ngô Dụng nói:
- Tôi có bốn câu thơ đoán về cung số của ngài, xin đọc để ngài nghe. Ngài nên viết trên vách, rồi sau này nghiệm ra, mới biết tôi nói không sai.
Lư Tuấn Nghĩa gọi người nhà lấy nghiêng bút, rồi bảo Ngô Dụng đọc bốn câu thơ, mà tự viết trên vách vôi.
Ngô Dụng đọc bốn câu thơ rằng:
Lư hoa phơ phất chiếc thuyền bơi,
Tuấn kiệt dong chơi buổi tối trời,
Nghĩa đến khi cùng là số mệnh.
Phân minh lánh nạn dễ như chơi
Lư Tuấn Nghĩa viết xong, Ngô Dụng thu nhặt con toán, rồi vái chào đi ra.
Lư Tuấn Nghĩa nói rằng:
- Tiên sinh ở chơi ăn cơm rồi sẽ đi.
Ngô Dụng từ tạ rằng:
- Cám ơn Viên Ngoại, chúng tôi xin đi để đoán số, không thì trễ mất, để lần sau xin đến hầu ngài.
Nói đoạn quay gót đi ra. Lư Tuấn Nghĩa đưa chân ra đến cửa, rồi Ngô Dụng vái chào Lư Tuấn Nghĩa mà cùng Lý Quỳ trở về hàng cơm. Khi về tới hàng cơm, Ngô Dụng tính trả tiền hàng, thu dọn hành lý, rồi bảo với Lý Quỳ rằng:
- Công việc xong rồi, ta phải về ngay sơn trại, để sắp sửa đón Lư Viên Ngoại, chỉ nay mai là ông ta đến đó.
Nói đoạn hai thầy trò quảy hành lý mà trở về trên trại Lương Sơn.
Về phần Lư Tuấn Nghĩa, sau khi nghe lời Ngô Dụng đoán số, thì trong bụng lấy làm băn khoăn khó chịu, ngồi đứng không yên, chiều chiều thường vơ vẫn một mình ở trước cửa nhà, mà trông trời than thở. Một hôm chàng bối rối tâm trí không sao chịu được, liền cho gọi người Chủ Quản trong nhà đến dẻ bàn việc. Trong bọn chủ quản, có một người họ Lý tên Cố, nguyên quê ở đất Đông Kinh, sau vì đi đến Bắc Kinh tìm người quen không gặp, bị rét mướt nằm co ở trước nhà Lư Tuấn Nghĩa. Tuấn Nghĩa thấy vậy liền cứu vào nuôi ở trong nhà, rồi dần dần thấy tính nết cẩn thận chăm chỉ bèn giao cho trông coi các việc trong ngoài. Được dăm năm sau, Tuấn Nghĩa lại càng yêu mến cho làm một người chủ quản đứng đầu, mà giao quyền cho coi sóc cả nhà. Trong tay Lý Cố cai quản có tới bốn năm mươi người hành tài cùng quản cán, cho nên đám người nhà thường nịnh mà tôn gọi là Lý Đô Quản.
Hôm đó Lý Cố nghe Viên ngoại gọi, liền dẩn cả bọn thủ hạ đến hầu, Lư viên ngoại nom suốt một lượt, rồi hỏi rằng:
- Sao không thấy một người kia của ta ở đây?
Nói vừa dứt lời thì chợt thấy một người mình cao sáu thước, tuổi ngoại đôi mươi, lưng nhỏ vai rộng, ria mọc kín mồm, mình mặc áo sa trắng, lưng thắt lụa màng nhện đỏ, chân đi đôi giầy vàng, đầu đội khăn lòng rua, sau gáy có một đôi kim hoàn, bên tai cài bông hoa tứ quý, cùng chạy ra trước thềm để đứng hầu Viên Ngoại. Người này nguyên quán ở đất Bắc Kinh, từ thuở nhỏ cha mẹ đầu mất, Lư Viên Ngoại đem về nuôi, sau Viên Ngoại thấy chàng ta trắng trẻo đẹp đẽ, da như miếng tuyết, bèn gọi thợ trổ hoa vào khắp cả mình, chả kh1c nào trên cột ngọc đình, mà treo thêm những vẻ gấm hoa, không ai là không thấy làm thích mắt. Anh chàng này đàn địch múa hát cũng giỏi, nói năng chữ nghĩa cũng thông, thuộc đủ các thứ tiếng của bọn bán buôn chợ búa, lại tài giỏ về nghề quyền vũ, anh ta thường dùng cây nỏ Tứ Xuyên, và ba mũi tên ngắn để dong chơi ngoài nội, mỗi khi bắn ra tất phải trúng được một vật, tính người lại linh lợi nhanh nhẹn, hễ chuyện gì hơi hé miệng là anh ta biết được cả. Anh ta họ Yến tên Thanh, bài vai thứ nhất, người quen đó thường gọi anh ta là Lãng Tử Yến Thanh, vốn là một người tâm phúc của Lư Viên Ngoại xưa nay.
Bấy giờ Lý Cố đứng ở bên tả, anh ta chạy lên đứng vào phía bên hữu, rồi Lư Tuấn Nghĩa bảo với mọi người rằng:
- Mới đây ta xem một quẻ số, nói rằng trong trăm ngày nữa, tất phải gặp nạn đao huyết? Chỉ trừ ra xa lánh về phía Đông Nam, một nghìn dặm thì mới có thể thoát được. Ta tưởng về phía đó, chỉ có miếu thờ Thiên Tề Nhân Thánh Đế, ở núi Đông Nhạc Thái Sơn là nơi rất thiêng liêng chính trực, đã từng cứu nạn cho khắp nhân gian. Vậy ta muốn đi sang đó, một là để lễ cầu thoát tội, hai là tránh qua tai nạn nay mai, và ba là buôn bán loanh quanh để dạo xem phong cảnh các nơi, cho khuây lòng đôi chút? Nay Lý Cố sắp cho ta mười xe thái bình, xếp đủ các thứ hoa vật ở Sơn Đông, và thu xếp hành lý để cùng đi với ta, còn Yến Thanh tiểu ất ở nhà trông nom then khoá kho tàng cho cẩn thận, Lý Cố phải nên xếp đặt mau đi, chỉ trong ba ngày nữa là ta khởi trình đó.
Lý Cố đáp rằng:
- Sao chủ nhân lại nghĩ như vậy? Người ta thường nói là bói toán quàng xiên, chắc đâu tin được? Xin chủ nhân cứ yên nhà, có việc chi mà ái ngại?
Viên Ngoại nói:
- Đó là trong cung số ta, Trời định như vậy, ngươi chớ nên gàn trở, rồi bấy giờ lỡ ra, thì không còn hối kịp.
Yến Thanh bẩm rằng:
- Tôi nghe con đường đi sang Thái An Châu ở bên Sơn Đông, tất phải qua Lương Sơn Bạc, ở đó mới có một người tên là Tống Giang tụ họp bọn cường đạo để cướp bóc thôn dân, Quan Tư đã mấy phen tróc nã, mà không sao trị được. Vậy chủ nhân có muốn đi sang đó thì nên đợi lúc thái bình vô sự sẽ đi, chủ nhân chớ nên tin anh thầy số đó, không khéo nó lại là đồng đảng với bọn Lương Sơn; đến đây để lừa dối chủ nhân cũng nên. Tôi tiếc rằng lúc đó không có tôi ở nhà, để hỏi tiên sinh ấy mấy câu cho vỡ chuyện ra thì mới thú.
Lư Tuấn Nghĩa gạt đi rằng:
- Các ngươi đừng nói càn, ai dám đến đánh lừa ta? Mấy thằng giặc cỏ ở Lương Sơn thì thấm vào đâu, ta chỉ coi nó như cỏ rác mà thôi. Ta đương định đến bắt nó, để đem cái tài học võ nghệ bình sinh mà phô trương ra với thiên hạ, thế mới đáng là mặt đại trượng phu.
Chàng vừa mới nói dứt lời, thì người vợ là nàng Cổ Thị ở đằng sau bình phong chạy ra can rằng
- Xin phu quân nghe lời chúng là phải. Người ta thường nói sẩy nhà ra thất nghiệp, vậy can chi mà nghe anh thầy số, bỏ cả cửa nhà cơ đồ mà đem thân đến chốn hang hùm để buôn bán mà chơi? Chi bằng ở lại nhà đây, sửa lấy một thư phòng tĩnh mịch mà nằm khểnh cầu vui, tự khắc tai qua nạn khỏi, thế chẳng thú hơn sao?
Lư Tuấn Nghĩa cả quyết mà rằng:
- Ngươi là đàn bà con trẻ biết đâu đến đó, chủ ý ta đã định, bất tất phải nói lắm làm chi.
Yến Thanh lại nói rằng:
- Nếu vậy thì tôi nhờ phúc ấm chủ nhân cũng học được đôi món côn quyền, nay tôi xin đi hầu chủ nhân, ngộ lỡ ra gặp đám giặc cỏ quấy nhiễu, thì tôi cũng có thể đánh đuổi được dăm ba đứa, không ngại điều chi... Xin chủ nhân cho Lý Đô Quản ở nhà thì phải.
Lư Tuấn Nghĩa đáp rằng:
- Ta đây các việc buôn bán không được tinh thạo, phải để Lý cố đi để giúp ta, còn ngươi ở nhà, thì việc tính toán đã có người khác, ngươi cứ trông coi đó thôi...
Lý Cố bẩm rằng:
- Chúng tôi mấy bữa nay chân hơi đau đau, không chắc có đi xa được.
Lư Tuấn Nghĩa gắt lên rằng:
 - "Nuôi binh nghìn ngày, cần dùng một lúc". Nay ta muốn đem ngươi cùng đi, ngươi chỉ xoen xoét kiếm đường từ chối là sao? Nếu đứa nào còn ngăn trở nữa, ta sẽ cho quả đấm cho biết mùi...
Lý Cố nghe vậy, ngây hẳn người ra, đứng nhìn Cổ Thị mà không dám nói chi nữa. Cổ Thị liền thủng thỉnh đi vào, rồi bọn người nhà cũng tan đi hết cả. Bấy giờ lui ra xếp dọn các đồ hành lý, cùng đồ hàng hoá, chọn mười cổ xe thái bình xếp hàng hoá lên xe, gọi mười tên phu gánh, và bốn năm mươi tên phu xe, để sắp sửa ra đi.
Hôm đó Lư Tuấn Nghĩa cũng sắp đặt chỉnh đốn, rồi đến ngày thứ ba, làm lễ thần, và gọi tất cả người nhà, mà dặn dò một lượt rất là cẩn thận.
Chiều hôm ấy, Lư Tuấn Nghĩa cho Lý Cố cùng hai người bạn đáng dẫn xe cộ đi trước, để đón ở ngoài thành. Cổ Thị thấy xe cộ đem ra, chỉ gạt nước mắt khóc thầm, mà không sao nói được.
Sáng hôm sau, Lư Tuấn Nghĩa dậy từ đầu trống canh năm, tắm gội xong thay hết quần áo mới, ăn cơm uống nước, lấy các khí giới, vào bái biệt từ đường, rồi quay ra ngoài cửa.,
Khi ra ngoài cửa chàng dặn dò Cổ Thị rằng:
- Tôi đi đây chầy ba tháng, mà chóng ra thì chỉ độ năm mươi ngày, là về ngay lập tức.
Cổ Thị vâng lời mà rằng:
- Trượng phu đi đó xin cẩn thận giữ gìn, thỉnh thoảng lại viết thơ về cho tôi biết.
Yến Thanh cũng sụt sùi rơi lệ mà bái biệt.
Lư Tuấn Nghĩa dặn rằng:
- Tiểu Ất ở nhà, việc gì ngươi cũng phải xem sóc đến nơi đến chốn, không nên hồ đồ mới được.
Yến Thanh vâng lời đáp lại rằng:
- Chủ nhân đi như vậy, chúng tôi ở nhà đâu dám trễ nải, xin chủ nhân cứ yên tâm...
Nói đoạn Lư Tuấn Nghĩa vác côn lên vai, mà từ biệt ra thành. Khi ra tới thành vừa gặp Lý Cố đón tiếp. Lư Tuấn Nghĩa liền bảo Lý Cố rằng:
- Ngươi nên dẩn hai người bạn đáng đi trước, thấy chỗ hàng nào sạch sẽ, thì bảo làm cơm nước sẵn sàng, để cho bọn phu xe đến đó cùng ăn một thể, cho khỏi mất thì giờ.
Lý Cố vâng lời, vác côn cùng hai người bạn đáng đi trước, rồi Lư Tuấn Nghĩa cùng mấy tên theo hầu dẩn xe cộ đi sau.
Lư Tuấn Nghĩa đi đường thấy nước non sáng sủa, đường lối thênh thang trong bụng lấy làm vui thích mà rằng: "Nếu ta núp ở mĩa trong nhà, thì bao giờ cho được nom thấy những quang cảnh vui thú như vậy?"
Đi được vài bốn mươi dặm đường, đã thấy Lý Cố đón vào hàng để ăn uống, rồi Lý Cố lại xin phép mà ra đi trước, khi Lư Tuấn Nghĩa ăn xong lại dẫn xe cộ đi, độ bốn mươi dặm đường, thì lại gặp Lý Cố đón tiếp vào hàng ăn uống và nghỉ luôn ở đó, để đến sáng mai ra đi.
Cách mấy hôm sau, một hôm đến trọ ở hàng kia, buổi sáng hôm sau cơm nước xong vừa toan sắp sữa ra đi thì thấy tên điếm Tiểu Nhị nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Thưa ngài, tôi xin nói để ngài biết rằng:
- Cách hai mươi dặm là phía trước núi Lương Sơn Bạc, trên núi có Tống Công Minh Đại Vương ở đó, Đại Vương tuy không làm hại đến ai, song ngài cũng phải yên lặng mà đi, chớ nên làm ầm ĩ lên mới được.
Lư Tuấn Nghĩa nghe nói liền cười mà nói rằng:
- Thế mà ta không biết.
Nói đoạn sai đầy tớ đem hòm áo đến, mở ra lấy lá cờ lụa trắng, hỏi tên điếm Tiểu Nhị, lấy bốn cái cán trục, buộc bốn lá cờ vào, và trên bốn lá đề bốn câu rằng:
Bắc kinh Lư Tuấn Nghĩa là đây,
Hòm vàng cháp ngọc qua chốn này.
Lấy hết vật lạ trên núi nọ,
Chất vào mười xe thái bình đây.
Lý Cố cùng bọn phu xe gánh thấy vậy, lấy làm kinh sợ, không hiểu tình ý ra sao?
Tên điếm Tiểu Nhị liền hỏi Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Chẳng hay ngài có quen thân với Tống Đại Vương trên núi không?
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Ta là một nhà tài chủ ở đất Bắc Kinh, làm chi quen với lũ giặc ấy.Nay ta đến đây, ta định bắt thằng Tống Giang đó.
- Chết nổi! Ngài nói sẽ chứ, không có lại khổ đến chúng tôi... không phải là chuyện chơi, dẫu ngài có đến hàng vạn nhân mã, cx không gần họ được đâu!
- Thằng quái này, mày cx cùng một đảng đó phải không.
Tên Tiểu Nhị thấy vậy, bịt tai lại mà không dám nghe nữa, bọn phu xe cũng kinh người mà len lét cả một lượt.
Đoạn rồi Lý Cố cùng mấy người theo hầu cùng quỳ xuống mà nói rằng:
- Xin chủ nhân thương đến chúng tôi, để Chúng tôi được toàn tính mạng mà trở lại quê nhà, còn hơn là ngài làm trời làm đất ở đâu đâu...
Lư Tuấn Nghĩa quát lên rằng:
- Các ngưới biết gì, bọn chim chích ấy, địch sao được với Diều hâu mà sợ? Ta đây bình sinh học biết bao nhiêu võ nghệ, chưa có chỗ nào mà bán được, nay gặp có cơ hội ở đây, lại không đem ra mà bán, thì đợi đến bao giờ? Trong xe của ta có hàng hoá gì đâu, đó toàn thị là những thùng chảo đay gai, sắp sẵn để đó hễ lũ giặc kia, đứa nào vô phúc mà gặp phải tay ta, thì cứ mỗi đứa ta cho một nhát, rồi trói tất cả vất lên xe cho ta, hàng hoá không can chi cả. Cứ trói chúng nó đem về kinh để lấy thưởng, thì mới bỏ cái chí bình sinh của ta. Các ngươi nếu đứa nào không đi, thì trước hết ta hãy đem chém các ngươi ở đây cả.
Nói đoạn sai dàn bốn cỗ xe đi trước, mỗi xe cắm một lá cờ lụa trắng, còn sáu xe nữa lục tục đi sau, bọn Lý Cố sụt sụt sùi không ai dám trái, đành phải vâng lời đi cho xong việc.
Lư Tuấn Nghĩa lấy thanh đao ra cầm trên đầu gậy, chêm chặt cẩn thận rồi dẫn xe đi thẳng qua lối Lương Sơn.
Bọn Lý Cố thấy đường đi ghập ghềnh cao thấp, thì đi được một bước lại kinh sợ một bước, duy Tuấn Nghĩa thì cứ hăm hở tiến lên, không hề quảng ngại chi cả.
Mấy người đi từ sáng sơm cho đến lúc giờ Tý, trông thấy xa xa có một khu rừng lớn, những cây lớn hơn ôm, không biết đến mấy nghìn mà kể. Đi một lúc nữa đến cạnh khu rừng, chợt nghe tiếng còi thổi véo von, Lý Cố cùng mọi người kinh sợ hải hùng, run lên nhung nhúc.
Lư Tuấn Nghĩa bắt dàn xe ra một bên, bọn phu xe cùng mọi người đều nấp cả vào dưới xe, mà len lét kêu khổ với nhau.
Lư Tuấn Nghĩa quát lên rằng:
- Hễ ta chém chết thằng nào, thì chúng bây trói lại cho ta...
Nói chưa dứt lời, thì chợt thấy trong rừng có tới năm sáu mươi tên lâu la đổ ra. Đoạn rồi nghe tiếng thanh la khua ầm cả lên, và lại có tới bốn năm trăm tiểu lâu la chặn lấy lối sau.
Lại nghe thấy trong rừng có một tiếng nổ đánh đoàng, rồi thấy có một hảo hán tay cầm song phủ quát lên rằng:
- Lư Viên Ngoại còn nhớ đứa đạo đồng câm hay không?
Bấy giờ Lư Tuấn Nghĩa sịch nhớ ra, liền quát lên rằng:
- Ta định đến bắt bọn cường đạo chúng bây đã lâu...Nay ta đã đến đây, hãy bảo Tống Giang xuống lạy hàng ngay lập tức, bằng không thì một giờ nữa sẽ chết hết, không còn sống sót móng nào...
Tên đạo đồng câm là Lý Quỳ cả cười mà rằng:
- Viên Ngoại ôi! Nay ông bị Quân sư tôi an bài như thế rồi, ông lên núi mà ngồi vào ghế chéo kia thôi.
Lư Tuấn Nghĩa cả giận múa đao xông vào đến Lý Quỳ, Lý Quỳ cũng múa song phủ lên đến lại. Hai người đến nhau chưa được ba hiệp, Lý Quỳ liền nhảy ra ngoài vòng, quay ngoắt vào rừng mà chạy thẳng. Lư Tuấn Nghĩa liền vác đao sấn vào để đánh.
Lý Quỳ ẩn bên Đông núp bên Tây chạy vài bước, đứng vài bước, làm cho Lư Tuấn Nghĩa phát cáu lên, cố tìng đuổi cho kỳ được. Lý Quỳ lại chạy quá vào trong rừng, rồi lẩn đi đâu mất.
Lư Tuấn Nghĩa đuổi mãi vào trong không thấy một ai, bèn hầm hầm tức giận mà quay trở ra. Đương khi đó lại thấy trong rừng có một toán người kéo đến, trong đó một người kêu to lên rằng:
- Viên Ngoại không nên chạy nữa, mấy khi đã đến chốn này, hãy đứng lại mà xem ta đây.
Lư Tuấn Nghĩa nghe nói, liền quay lại nom, thì thấy một ông sư phệ bụng, mình mặc áo xống tràng, tay cầm thuyền trượng lững thững đi ra.
Lư Tuấn Nghĩa quát lên rằng:
- Anh này là sư ở đâu thế?
Nhà sư cả cười mà đấp rằng:
- Tôi là Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm, vâng lệnh Quân Sư đến đón Viên Ngoại đi lánh nạn đây?
Lư Tuấn Nghĩa nổi giận thét mắng rằng:
- À, ra thằng trọc này vô lễ quá, nói đoạn múa đao vào đánh Lỗ Trí Thâm, Lỗ Trí Thâm cũng múa thuyền trượng để chống cự,...
Đôi bên đánh nhau chưa được ba hiệp, Lỗ Trí Thâm liền gạt đao ra rồi rảo bước kéo chạy.Lư Tuấn Nghĩa vác đao đuổi theo.
Đuổi được mươi bước thì thấy Võ Tòng ở trong đám lâu la múa hai khẩu giới đao, chạy ra kêu lên rằng:
- Viên Ngoại cứ theo tôi đi, là sẽ tránh khỏi sự đao huyết.
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, lại bỏ Lỗ Trí Thâm mà xông vào đánh với Võ Tòng. Võ Tòng đánh nhau vài hiệp, rồi cũng bỏ chạy nốt.
Lư Tuấn Nghĩa cả cười mà rằng:
- Lũ bây làm gì được ta không bõ đuổi hoài hơi...
Nói vừa dứt lời thì thấy ở bên sườn núi có người nói lên rằng:
- Lư Viên Ngoại ôi! Đừng nói khoác nữa, Quân Sư đẫ bày mẹo, để khuôn xếp đây, chẳng tránh thoát được đâu. Mà tưởng...Bây giờ sắt đã vào lò, bó tay chịu đi là phải Lư Viên Ngoại nghe nói, liền quay lại hỏi:
- Anh là anh nào?
Người kia lại cười mà đáp rằng:
- Tên tôi là Xích Phát Quỹ Lưu Đường đây...
Lư Tuấn Nghĩa nổi giận mà mắng rằng:
- Quân giặc cỏ đừng xấc, bay chạy được chăng?
Nói đoạn xông đánh Lưu Đường. Vừa đánh được vài hiệp, thì có một người ở bên cạnh xông ra kêu lên rằng:
- Viên ngoại ôi! Có Mộc Già Lạn Mục Hoằng ở đây thường...
Nói đoạn cùng xông lại để đánh Lư Tuấn Nghĩa.
Bấy giờ, Mục Hoằng cùng Lưu Đường, đương múa đao đánh với Lư Tuấn Nghĩa, thì bỗng lại có một người nữa đến, Lư Tuấn Nghĩa cùng quát lên một tiếng. Lưu Đường cùng Mục Hoằng đều lui lại mấy bước, rồi lại cùng với người kia đều xông vào để đánh.
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, vẫn ung dung điềm nhiên để đấu lại với ba người, không hề chút khó nhọc.Đương khi ấy chợt thấy trên đỉnh núi có tiếng thanh la nổi lên rồi ba người kia đều lừa cơ nhảy ra ngoài vòng mà chạy cả. Lư Tuấn Nghĩa thấy chúng chạy cũng không đuổi làm chi liền quay lại chỗ bên đường, để tìm xe cộ cùng người nhà.
Khi quay lại tới nơi thấy mất cả xe lẩn người không còn sót chút gì, chàng lấy làm ngạc nhiên kinh lạ, liền trèo lên chõ gò cao mà trông khắp cả các mạn để tìm, chàng nom quanh nom quẩn, thấy về góc núi bên kia có một bọn lâu la, đương dong cái xe, và trói lũ Lý Cố dài dằng dặc một xâu mà đến trống khua la đưa về bên mạn rừng thông.
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, liền sốt ruột như lữa nóng. Bèn vác đao chạy thốc sang để đuổi.
Vừa chạy khỏi góc núi, chừng mấy bước, thì bổng thấy Chu Đồng, Lôi Hoành xông ra quát lên rằng:
- Đi đâu thế này?
Lư Tuấn Nghĩa tức mình quát ầm ầm:
- Quân giặc cỏ này, muốn sống đem xe cộ cung người nhà trả lại ta đây, Chu Đồng vuốt râu cười ha hả mà rằng:
- Lư Viên Ngoại sao không hiểu thời thế như vậy, Quân Sư tôi đẫ định kế sẳn sàng còn đi đâu được? Chi bằng Viên Ngoại lên ngồi vào ghế chéo cho xong.
Lư Tuấn Nghĩa tức giận không nói năng chi, liền múa đao xông vào đánh hai người. Chu Đồng, Lôi Hoành cùng đánh chừng vài ba hiệp rồi bỏ chạy cả.
Bấy giờ Lư Tuấn Nghĩa nghĩ thầm rằng: "Tất ta phải chém lấy một thằng, thì mới có thể lấy lại xe cộ được? "Nghĩ đoạn lại xông ra để đuổi.
Khi đuổi đến góc núi, lại không thấy hai người đâu, chàng lấy làm tức giận, không biết nghĩ sao cho được.
Chợt đâu nghe trên đỉnh núi có tiếng trống dóng sáo kêu, chàng ngẩn cổ lên nom, thấy một lá cờ vàng phất phới, trên đề bến chữ"Thế Thiên Hành Đạo"rất to. Chàng lại đi quanh xem, thì thấy có một bọn đến sáu bảy mươi người, đứng ở trên núi và có Tống Giang che tàn vàng đứng giữa, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng đứng ở hai bên, đều đồng thanh chào Viên Ngoại, rồi nói rằng:
- Chúc mừng Viên Ngoại được bình yên...
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, lại càng tức giận, chỏ lên núi mắng nhiết ầm lên.
Ngô Dụng đứng trên núi khuyên rằng:
- Viên Ngoại không nên quá giận, Tống công Minh tôi mộ danh ngài đẫ lâu, nên mới sai tôi đến tận nhà mời đón lên núi, để cùng nhau mà thay Trời làm Đạo, xin Viên Ngoại đừng bỉ thử làm chi...
Lư Tuấn Nghĩa càng giận, mắng luôn rằng:
- Quân giặc cỏ, tự nhiên vô cớ dám lừa ta đến đây...
Mắng chưa dứt lời thì thấy đằng sau Tống Giang có Tiêu Lý Quảng Hoa Vinh nhô ra, dương cung đặt tên, quát bảo Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Lư Viên Ngoại không nên cậy tài, hãy xem mủi tên thần của Hoa Vinh đây.
Nói xong, bổng nghe đánh tách một cái, rồi có mủi tên bắn đứt ngay cái tua đỏ ở trên mũ Lư Tuấn Nghĩa. Lư Tuấn Nghĩa giật mình cả kinh, bèn cắm đầu quay chạy. Chợt lại thấy trên núi trống dóng vang lừng, rồi có Tích Lịch Hỏa Tần Minh, Báo Tử Đầu Lâm Xung, dẩn một toán nhân mã phất cờ reo hò từ mạn bên Đông núi kéo đến; lại thấy Song Chiên
Tướng Hô Duyên Chước cùng Kim Sang Thủ Từ Ninh cũng kéo một toán nhân mã phất cờ reo hò từ phía Tây núi kéo sang. Lư Tuấn Nghĩa cuống lên, không có lối nào để chạy...
Bấy giờ mặt trời đã xế chiều, Lư Tuấn Nghĩa vừa mệt vừa đói hoang mang không kịp tìm đường, liền theo những lối nhỏ đường hẻm mà ra sức mãi miết để chạy...
Chàng chạy được một lúc thì trời đã nhá tối, ngẩn trông lên thì trăng khuất sao nhiều, khói sương mù mịt mà cúi nom xuống, bốn bề man mác, như bể tuyệt vời, thì không còn biết đâu là đường đi lối lại.
Chàng lại chạy một lúc nửa, thấy đường cùng lầy lụa khó đi, liền dừng lại để nom. Nom quẩn nom quanh, thấy trước mặt toàn thị nước trắng mênh mông, đầy bờ lau lách, đường đi cũng hết, lối lại cũng cùng, thì trong bụng lấy làm băng khoăn hối hận, ngửa trông lên trời, thở dài mà than rằng:
- "Chỉ vì ta nghe lời họ nói, mới xãy ra tai hoạ ngày nay!"
Đường lau bể nước mênh mông,
Anh hùng này nước cùng đường hỏi ai?
Ví chăng non nước ghen tài,
Thì tay kinh tế chẳng hoài lắm ru?
Đương khi phiền nảo vẫn vơ, bỗng trên bờ lại thấy một anh chài chèo chiếc thuyền con đếm gần đo, nhìn kỹ lên Lư Tuấn Nghĩa mà nói rằng:
- Ông nào mà to gan thế, đây là một chỗ của bọn Lương Sơn Bạc thường ra vào luôn luôn, thế mà đêm hôm khuya khoắt ông dám đến đó làm chi?
Lư Tuấn Nghĩa nghe hỏi, liền đáp rằng:
- Tôi đi lạc đường lỡ đến đây, không tìm được chỗ nghỉ, xin nhờ cứu tôi một chút.
Anh chài nói:
- Gần đây có một dãy phố, nhưng đi đường bộ, thì xa tới hơn mươi dặm, mà đường lối tào tạp, khó lòng tìm được, duy đi đường thủy, thì chỉ độ dăm ba dặm nước là đến được ngay... Vậy ông có cho tôi mười quan tiền, thì tôi xin đem thuyền chở ông đi.
Lư Tuấn Nghĩa vui mừng mà rằng:
- Nếu bác chở tôi đến phố nào mà tìm được hàng trọ, thì tôi xin đưa cho mấy lạng bạc.
Anh chài liền ghe thuyền vào bờ cho Lư Tuấn Nghĩa xuống, rồi cầm gậy đẩy thuyền ra mà kẻo kẹt đi.
Thuyền đi ước chừng hai ba dặm nước, chợt thấy ở khóm lau trước mặt, có tiếng chèo kẽo kẹt, rồi có chiếc thuyền nhỏ vùn vụt chèo ra. Trên thuyền có hai người, một người cởi trần trùng trục, tay cầm cái sào thuyền bằng gỗ, ngồi ở phía trước, và có một người chèo thuyền ở phía sau.
Bấy giờ người ngồi trên thuyền kia, hoành sáo thuyền mà hát rằng:
Anh hùng chẳng thích đọc thi thư,
Cùng bạn Lương Sơn thú sớm trưa,
Sắp sẵn cạm hầm thu hổ mạnh,
Mồi thơm sẽ bắt cá ngao to.
Lư Tuấn Nghĩa nghe hát cả kinh, ngồi yên không dám lên tiếng, chợt thấy trong đám lau ở phía bên tả, cũng có hai người chèo thuyền lững thững đi ra, một anh ngồi sau mái chèo kẽo kịt...Còn một anh cx ngồi đằng trước cx hoành sáo hát rằng:
Ta đây tuy thị tợn hơn đời,
Giết giặc xưa nay chẳng giết người.
Tay vỗ beo xanh in trước bụng.
Xem kỳ lân ngọc ở thuyền ai?
Lư Tuấn Nghĩa nghe đến đó lại càng kinh ngạc, mà trong bụng kêu khổ một mình.
Bỗng lại thấy phía giữa cũng có một chiếc thuyền vun vút như bay chèo đến, trên mũi thuyền cũng có một người cầm cây sáo hát lên rằng:
Lư hoa phơ phất chiếc thuyền bơi,
Tuấn kiệt rong chơi buổi tối trời,
Nghĩa đến khi cùng là số mệnh,
Phản mình lánh nạn dễ như chơi.
Hát đoạn rồi ba chiếc thuyền cùng xô đến mà cất tiếng chào. Nguyên ba thuyền đó, khoảng giữa là Nguyễn Tiểu Nhị, bên tả là Nguyễn Tiểu Ngũ, bên hữu là Nguyễn Tiểu Thất.
Khi ba chiếc thuyền cùng xông đến thuyền Lư Tuấn Nghĩa, Tuấn Nghĩa tự nghĩ mình không biết bơi lội thì làm chi cho thoát, liền kêu anh chèo mà bảo rằng:
- Anh chở tôi lên bờ mau mau...
Anh chài cười ha hả mà nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Viên Ngoại ôi! Trên thì trời xanh, dưới thì nước biếc, tôi xưa ở sông Tầm Dương, mới nhập đảng vào Lương Sơn Bạc, chẳng dấu gì ngài. Hỗn Giang Long Lý Tuấn là tôi đó. Nay nếu Viên ngoại không chịu đầu hàng, thì uổng mất tính mạng mà thôi...
Lư Tuấn Nghĩa ngạc nhiên kinh sợ quát lên rằng:
- Mày không chết thì ta chết này...
Nói đoạn giơ đao đâm vào bụng Lý Tuấn. Lý Tuấn bèn chống bơi chèo nhảy ùm xuống nước ngay, rồi thấy chiếc thuyền của Lư Tuấn Nghĩa cứ quay long lóc giữa dòng nước. Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, liền cầm dao chém luôn xuống nước mấy cái.
Đoạn rồi thấy đằng sau thuyền có một người ở dưới nước nhô lên quát rằng:
- Ta là Lãng Lý Bạch Điều trương Thuận đây.
Nói xong liền cầm lấy cạp thuyền ra sức ấn một cái rất mạnh, rồi thấy con thuyền lật nghiêng, mà Lư Tuấn Nghĩa lăn tòm xuống nước.
Mới hay:
Nước non bỡ ngỡ một mình,
Anh hùng trong lúc vô tình hơn ai?,
Bây giờ hồ thẳm vực khơi,
Tiếng oan họa có kêu trời cũng xa,
Đem thân liều với phong ba,
Thân tàn dù thác gan già chửa thay,
Sóng lần sóng vỗ từ đây,
Cho thiên hạ biết mặt này mới ngoan,
Lời bàn của Thánh Thán:
Ngô Dụng đi đoán thẻ, dùng Lý Quỳ đi theo, đó chỉ tạm mượn cái hình xấu của Lý Quỳ, chứ chưa dùng hết cái tài của Lý Quỳ vậy, chợt mượn cái xấu, thì không thể chả tả ra lấy một hai chuyện, mà chưa đụng đến tài, thì đâu có tả ra. Đó chẳng qua lấy phụ bút chép tới, chứ chưa từng đem chính bút tả ra, cho nên sau khi vào thành, là đoạn chính bút, chính bút thì tả chuyện Lư Viên Ngoại chưa rồi, còn rảnh đâu lại tả thêm Lý Quỳ được nữa. Nếu như trước khi chưa vào thành, tả ra làm phụ bút, phụ bút cũng không thể, tiếc đến một vài lời mà tả lấy một hai chuyện, cho ra bản sắc Thiết Ngưu để làm cho náo động, nảy ra Viên Ngoại đón mời.
Trung gian tả Tiểu Nhi tự nhạo Lý quỳ, Viên Ngoại tự kinh với Thiên Khẩu (Ngô Dụng) người đời lớn nhỏ thấy cách quãng nhau, khiến ta luống ngậm ngùi than thở? Hỡi ôi? Cùng đọc sách thánh hiền, mà có kẻ để cầu phú quý; Có kẻ lại sùng đức nghiệp; Cùng theo trong cửa Thánh hiền, mà hoặc để khoe danh lợi, hoặc để học hỏi thấu đáo, thì với chuyện trẻ con kia, có lạ gì đâu?
Trong bản truyện tả Lư Viên Ngoại, bỗng đâu lại tả ra hai đoạn văn ngắn, nói về Lý Cố, Yến Thanh, truyện của Lý thì rất ân số, truyện của Yến thì rất phong lưu, ngờ đâu với kẻ chịu ơn, chả những không báo, còn phản lại cắn chủ; Mà kẻ phong lưu lại giốc trung trinh, liều chết không lầm vậy sau mới biết người xưa than thở; Loài lang thói dữ, nuôi chỉ hại thôi, mới hay ơn cũng không dễ bàn ra, mà lấy mặt chọn người, đến nỗi như ngươi Tử Vũ, mà xét người cũng không thể coi thường, nên Tỳ Quan chéo sử có răn có khuyên, ở hồi này làm cực vậy.
Lý Cố làm ra con người Lý Cố; Yến Thanh làm ra con người Yến Thanh, Cổ Thị làm ra con người Cổ Thị...ều ở hồi sau, chưa tả ra đây, nhưng độc giả đầu lòng đáy mắt, đã sớm đo lường tính tình hành động của ba người ấy được. Vì mới chép ra một chút, song dụng ý hở ra rồi chép ra một chút vì chưa hết đầu đuôi, đã hở ra rồi, vì tính đã bày ra xấu tốt, cũng ý kinh Xuân Thu, dự luận thế nào, đều dùng phép hở ra một chút.
Tả Viên Ngoại sau khi gặp Ngô Dụng, cũng viết chữ ra với cái giọng ngông nghênh, cờ lụa trắng, với chão dây thừng, chính là một mãnh hùng tâm, toàn thân nghề võ giỏi, không ai đụng tới, mà chợt đâu xúc động lời thầy bói mà nghe số mệnh, nhân đó thử chơi với đám Lương Sơn, lại còn tự cho cái chí chim hồng, không thèm mưu cùng lũ chim sẽ, chẳng đừng được ngóng không mà ngông nghênh cho sướng với lòng... Tả anh hùng Viên Ngoại, phải dùng ngòi bút ấy, mới có khí thế, thế mà tục bản lại chép là nghe lầm Ngô Dụng như vạch tấm lòng, sao mà có thói xấu ác như thế? Trước đã tả Ngô Dụng có bốn câu thơ bói quẻ, sau lại tả Viên Ngoại có bốn câu thơ khoe cờ, đã là một việc kỳ thuật đối nhau, khi đọc đến cuối hồi, chẳng những chỉ hiện ra bốn câu bói quẻ, còn một hai câu nữa, cho rõ hành động theo tính tình Viên Ngoại, vậy luận chương pháp phải biết như diễn liên châu, mỗi lần bốn câu, đưa vào nhập diệu, thì thực chẳng giảm với những câu kỳ tuyệt ở cờ đình vẽ vách kia vậy; Thế mà tục bản đổi lại những lời đường đột, sao mà xấu ác đến thế?
Tả rất nhiều đám dụ binh, chợt ở đâu ra, chợt vì đâu biến mất, bao phen thấy khác, người người kéo đùa, lạ thay; Lại càng lạ hơn nữa, nhủ Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lưu Đường, Mục Hoằng, Lý Ứng...ã qua rồi, lại tiếp đến cướp xe cỗ, người phu, độc giả đến đấy, ai chả cho là thu lại mà có biết đâu mới tả nửa bước, rồi từ từ lại tả Chu Đồng, Lôi Hoành dẫn ra Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng một lũ sáu bảy chục người, thực là dũ xuất, dũ kỳ, việt chuyển việt diệu, bấy giờ bỗng đâu lại tả nảy ra thần tiễn của Hoa Vinh, tưởng là đã rứt độc giả đến đây cho rằng đã thu lại rồi, ai ngờ vẫn còn ở nửa bức, lại từ từ tả xa Lâm Xung, Tần Minh, Hô Duyên Chước, Từ Ninh, bốn tướng giáp công, rồi sau mới dẫn vào trong bóng câu ca đoán quẻ... Hỡi ôi! Chương pháp thấy kỳ, khiến độc giả đến mê, lại thấy trận pháp kỳ kia, sao khỏi Viên Ngoại lại không trúng kế?.
Thi Nại Am
Dịch giả: Á Nam Trần Tuấn Khải
Theo https://www.sachhayonline.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXXThời của thánh thần 4

Thời của thánh thần 4 Chương 22 Người trở về Cơn mưa rả rích khiến đêm thật dài. Nghe rất rõ cành cây khô bên đầu trái nhà rơi xuống m...