Hồi 19:
Thành Hạ Phì, Tào Tháo dùng binh
Lầu Bạch Môn, Lã Bố tuyệt mệnh
Cao Thuận, Trương Liêu đánh trại Quan Công; Lã Bố đánh trại
Trương Phi. Quan, Trương hai ông cùng ra đối địch. Lưu Bị đem binh tiếp ứng hai
trại, Lã Bố chia quân từ đằng sau đánh dồn lại. Hai cánh quân Quan, Trương cùng
vỡ.
Huyền Đức dẫn vài chục kỵ mã chạy về Bái Thành. Lã Bố đuổi
theo. Bị vội gọi quân trên thành buông cầu xuống để cho quân vào.
Lã Bố đã đến nơi rồi mà trên thành không dám bắn xuống, sợ bắn
phải Huyền Đức. Lã Bố thừa thế xông vào thành. Tướng sĩ giữ cửa thành không chống
cự nổi, vùng té chạy cả. Lã Bố hô quân vào thành, Huyền Đức thấy việc đã kíp,
không kịp chạy về nhà nữa, đành bỏ vợ con, một mình cưỡi ngựa, lẻn ra cửa tây
chạy trốn.
Lã Bố đến tận nhà Lưu Bị. My Chúc ra đón, nói với Lã Bố rằng:
- Tôi nghe: phàm đã gọi là đại trượng phu là không hại vợ con
người ta. Nay cùng tướng quân tranh thiên hạ ấy là Tào Tháo, chứ như Huyền Đức
vẫn nhớ ơn ông bắn kích ở nha môn, có khi nào dám quên đâu! Nay bất đắc dĩ phải
theo Tào Tháo. Xin tướng quân thể tất cho.
Bố nói:
- Phải, ta cùng Huyền Đức vốn là bạn cũ với nhau, có đâu lại
nỡ hại vợ con ông ấy!
Rồi sai My Chúc dẫn vợ con Lưu Bị ra Từ Châu ở yên đó. Bố thì
dẫn quân sang Sơn Đông, Duyện Châu, để Cao Thuận, Trương Liêu ở lại giữ Tiểu
Bái.
Bấy giờ Tôn Càn cũng đã trốn ra ngoài thành. Quan, Trương mỗi
người thu nhặt ít quân mã vào đóng ở nơi rừng rú.
Lưu Bị một mình cưỡi ngựa đi trốn, đương đi thấy một người tế
ngựa theo sau. Ngoảnh đầu lại xem ai thì là Tôn Càn. Lưu Bị mới hỏi rằng:
- Nay hai em ta không biết sống chết thế nào, vợ con ta thất
lạc cả. Làm sao bây giờ?
Tôn Càn nói:
- Không bằng hãy về với Tào Tháo rồi sau sẽ liệu.
Huyền Đức nghe lời đi tắt đường nhỏ sang Hứa Đô.
Lúc đi đường nhỡ thiếu lương, phải vào trong làng xin ăn. Đi
đến đâu ai nghe thấy tiếng Lưu Dự Châu cũng tranh nhau dâng đồ ăn uống.
Một hôm vào nghỉ trọ một nhà, trong nhà có một chàng tuổi trẻ
ra lạy. Bị hỏi tên họ là gì, người ấy nói là con nhà săn bắn tên là Lưu An. Lưu
An nghe thấy quan mục Dự Châu đi qua, muốn kiếm đồ dã vị thết đãi, ngặt vì
không tìm được thứ gì bèn giết vợ lấy thịt thết Lưu Bị.
Huyền Đức hỏi:
- Thịt gì?
An thưa:
- Thịt chó sói!
Huyền Đức tưởng thực, ăn một bữa no, rồi tối đi ngủ. Đến sáng
sắp đi, ra đằng sau lấy ngựa, thấy ở dưới bếp có một người đàn bà chết, thịt
cánh tay đã cắt hết. Lưu Bị giật mình, hỏi ra mới biết thịt ăn tối hôm trước là
thịt vợ Lưu An. Huyền Đức thương xót không biết ngần nào, gạt nước mắt, lên ngựa.
Lưu An thưa với Huyền Đức rằng:
- Đáng lẽ tôi cũng xin theo sứ quân, nhưng lại còn mẹ già nên
chưa dám đi.
Huyền Đức từ tạ rồi đi, tìm đường đến Lương Thành, bỗng thấy
trước mặt có bụi bay mù mịt, một toán quân kéo đến. Huyền Đức biết là quân Tào
Tháo, liền cùng với Tôn Càn đi tắt đến trung quân, vào yết kiến Tào công, nói hết
cả sự tình mất Bái Thành, lạc hai em và vợ con bị hãm. Tháo nghe nói chuyện
cũng thương cảm rỏ nước mắt. Bị thuật lại cho Tháo biết chuyện Lưu An giết vợ.
Tháo sai Tôn Càn đem một trăm lạng vàng đến cho Lưu An.
Quân đi đến Tế Bắc, Hạ Hầu Uyên ra đón ra trại, thuật lại
chuyện anh là Hạ Hầu Đôn mất một con mắt, hiện còn ốm chưa khỏi. Tháo vào tận
giường nằm hỏi thăm, rồi sai người đưa về Hứa Đô để phục thuốc. Một mặt sai người
thám thính xem Lã Bố ở đâu. Quân do thám về báo rằng:
- Lã Bố cùng Trần Cung, Tang Bá liên kết với giặc núi ăn cướp
các huyện ở Duyện Châu.
Tháo sai ngay Tào Nhân đem ba nghìn quân sang đánh Bái Thành.
Tháo tự đem đại quân cùng Huyền Đức đi đánh Lã Bố.
Đi đến Sơn Đông, gần cửa ải Tiêu Quan gặp bọn giặc núi là Tôn
Quan, Ngô Đôn, Doãn Lễ và Xương Hi, lĩnh hơn ba vạn quân chắn ngang đường đi.
Tháo sai Hứa Chử ra đánh. Bốn tướng giặc cùng cưỡi ngựa ra. Hứa
Chử cố chết lăn xả vào đánh. Bốn tướng chống cự không nổi đều thua chạy. Tháo
thừa thế đánh dấn, đuổi đến cửa Tiêu Quan.
Có thám mã phi đến báo với Lã Bố. Bấy giờ Lã Bố đã về Từ Châu
rồi, muốn đi với Trần Đăng ra cứu Tiểu Bái, mới sai Trần Khuê giữ lấy Từ Châu.
Khi Trần Đăng đi, bố là Trần Khuê bảo con rằng:
- Xưa Tào công có dặn phàm việc phương đông, giao cho con cả.
Nay Lã Bố đã sắp đến lúc thua, con nên liệu đấy mà làm.
Đăng nói:
- Mọi việc bên ngoài con xin tự lo liệu cả. Hễ Lã Bố có thua
trở về, xin cha cùng My Chúc giữ lấy thành, đừng cho nó vào. Con đã có kế thoát
thân.
- Vợ con Lã Bố ở đây, những tướng tâm phúc nó ở đây cũng nhiều
thì làm thế nào?
Đăng nói:
- Con cũng có cách.
Đăng nói rồi vào ra mắt Lã Bố thưa rằng:
- Từ Châu bốn mặt trống trải. Tháo tất cố sức đánh. Ta nên
nghĩ đường tháo trước. Nên vận tiền lương sang chứa ở Hạ Phì, nếu Từ Châu bị
vây, Hạ Phì có tiền lương thì còn cứu được. Chúa công sao không liệu đi?
Bố nói:
- Anh nói rất phải, để ta đem ngay cả vợ con sang đó.
Liền sai ngay Tống Hiến, Nguỵ Tục hộ vệ vợ con cùng là tiền
lương, đem cả sang Hạ Phì, rồi một mặt dẫn quân cùng Trần Đăng ra cứu Tiêu
Quan.
Đi đến nửa đường, Đăng nói:
- Hãy để tôi đến ải xem Tào binh hư thực thế nào, rồi chúa
công hãy nên đến.
Bố ưng như thế. Đăng đến cửa ải. Lũ Trần Cung ra đón. Đăng
nói:
- Ôn hầu thấy các ông không chịu đánh, lấy làm kỳ quái, muốn
đến để trách mắng các ông đấy.
Cung nói:
- Nay quân Tào thế lớn, không nên khinh địch. Chúng tôi ở đây
giữ vững cửa ải. Ông nên về nói với chúa công giữ lấy Bái Thành cho cẩn thận là
phải hơn.
Trần Đăng thưa:
- Dạ! Dạ! Xin nhận lời.
Đến chiều tối Đăng lên cửa ải nhìn xem, thấy quân Tào đóng
sát ở dưới cửa. Đến đêm Đăng viết luôn ba cái thư, buộc trên đầu tên bắn xuống
dưới ải.
Hôm sau, Đăng từ giã Trần Cung tế ngựa trở về, vào nói với Lã
Bố rằng:
- Lũ Tôn Quan trên ải muốn dâng cửa quan cho Tào Tháo. Tôi đã
dặn Trần Cung giữ gìn ở đó, tướng quân chiều hôm nay nên ra cứu ứng.
Bố nói:
- May quá! Không có ông thì cửa ải thật hỏng mất rồi.
Rồi sai Trần Đăng tế ngựa đến cửa ải, hẹn với Trần Cung làm nội
ứng, đốt lửa làm hiệu. Đăng đến bảo Trần Cung rằng:
- Quân Tào đi lẻn đường nhỏ đã vào lọt trong cửa ải. Từ Châu
nguy mất. Các ông phải về ngay mới được!
Cung liền dẫn quân bỏ cửa ải chạy về. Đăng đốt hiệu lửa ở
trên cửa ải. Quân Lã Bố đang đêm kéo đến, quân Trần Cung cùng quân Lã Bố đánh lộn
nhau trong đêm tối. Quân Tào ở ngoài thấy hiệu lửa, thừa thế đánh ùa vào. Lũ
Tôn Quan chạy tan hoang cả.
Lã Bố đánh mãi đến sáng mới biết rằng mình lại đánh quân
mình, hấp tấp cùng Trần Cung kéo về Từ Châu. Khi đến bên thành gọi cửa. Cửa chẳng
thấy ai mở, chỉ thấy trên thành tên bắn xuống như mưa. Được một lát thấy My
Chúc ở trên địch lâu quát to lên rằng:
- Mày cướp thành trì của chúa tao, nay phải trả. Không được
vào đây nữa!
Lã Bố giận nói rằng:
- Trần Khuê ở đâu?
Chúc nói:
- Tao đã giết nó rồi!
Bố ngoảnh lại hỏi Trần Cung:
- Trần Đăng ở đâu?
Cung nói:
- Tướng quân mê ư, lại còn hỏi thằng giặc nịnh tặc ấy?
Bố sai tìm khắp cả trong quân, chẳng thấy Trần Đăng đâu cả.
Cung khuyên Lã Bố về Tiểu Bái. Bố nghe lời. Đi đến nửa đường
lại thấy một toán quân kéo đến.
Trông ra là Cao Thuận, Trương Liêu. Bố hỏi:
- Đi đâu?
Cao Thuận, Trương Liêu nói:
- Trần Đăng nói rằng chúa công bị vây, sai chúng tôi lại cứu.
Cung nói:
- Đây là kế của thằng nghịch tặc rồi!
Bố giận lắm nói rằng:
- Thế nào ta cũng giết được thằng phản tặc mới nghe!
Kíp tế ngựa đến Tiểu Bái, trên thành đã thấy cắm nhan nhản những
cờ Tào.
Nguyên Tào Tháo đã sai Tào Nhân lừa lấy thành trì và đem quân
đến giữ rồi.
Lã Bố ở dưới thành chửi mắng Trần Đăng. Đăng ở trên thành trỏ
vào Bố mắng lại rằng:
- Tao làm tôi nhà Hán, lại chịu thờ mày là thằng phản tặc hay
sao?
Lã Bố giận lắm, vừa sắp đánh thành, chợt nghe sau lưng có tiếng
reo, rồi thấy một đội quân mã kéo đến. Trương Phi đi đầu.
Cao Thuận ra địch không nổi, phải vào. Lã Bố xông vào. Bấy giờ
ở ngoài trận lại nghe thấy tiếng reo, Tào Tháo kéo cả đại quân đến đánh. Lã Bố
trông chừng đương không nổi, dẫn quân chạy về mặt đông. Tào binh từ đằng xa đuổi
lại. Lã Bố chạy, người đã nhọc ngựa đã mỏi, chợt lại có một toán quân nữa ở đâu
kéo đến, chẹn ngang đường đi, rồi thấy một tướng vác long đao, dừng ngựa lại
thét to lên rằng:
- Lã Bố đừng chạy! Ta là Quan Vân Trường đây!
Lã Bố vội ra tiếp chiến. Sau lưng Trương Phi mới đổ dồn lại.
Bố không dám ham đánh, cùng lũ Trần Cung đánh mở lấy một đường, chạy tắt đến Hạ
Phì. Hầu Thành dẫn quân ra tiếp vào thành.
Quan, Trương từ khi thua chạy trốn, bấy giờ mới gặp được
nhau. Hai người cùng gạt nước mắt, thuật lại cùng nhau chuyện ly tán. Vân Trường
nói:
- Tôi đóng ở trên đường Hải Châu, nghe được tin nên tôi đến
đây.
Trương Phi nói:
- Em ở trong núi Mang Đãng, ở được ít lâu. Hôm nay được gặp
nhau, thực là may quá!
Hai người nói chuyện xong, dắt nhau đến trước Lưu Bị, cùng lạy
xuống đất mà khóc.
Huyền Đức nửa thương nửa mừng, dẫn hai người vào ra mắt Tào
Tháo rồi theo Tháo vào Từ Châu. My Chúc ra tiếp, nói rằng: “Gia quyến đều bình
an cả”. Huyền Đức mừng lắm.
Hai bố con Trần Khuê bấy giờ cũng lại yết kiến Tào Tháo.
Tháo sai mở một tiệc yến lớn để khao các tướng. Tháo ngồi giữa,
sai Trần Khuê ngồi bên tả, Lưu Bị ngồi bên hữu, còn các tướng sĩ cứ thứ tự mà
ngồi.
Ăn yến xong, Tháo khen công bố con Trần Khuê, phong thêm cho
ăn lộc mười huyện, lại cho Đăng làm Phục ba tướng quân.
Tào Tháo lấy được Từ Châu, trong bụng mừng lắm, bàn với các
tướng, muốn khởi binh sang đánh Hạ Phì.
Trình Dục nói:
- Lã Bố nay chỉ có một thành Hạ Phì, nếu ta đánh nó cấp quá,
tất nó liều chết mà đánh để chạy sang với Viên Thuật. Bố mà hiệp sức với Viên
Thuật thì khó lòng mà trị được lắm. Nay nên sai người tài giỏi, giữ chẹn các ngả
đường hiểm Hoài Nam, trong phòng Lã Bố ra, ngoài chống Viên Thuật. Vả lại ở Sơn
Đông, còn có lũ Tang Bá, Tôn Quan chưa quy phục về ta, mặt ấy càng nên phòng giữ
cẩn thận.
Tháo nói:
- Thôi, ta tự giữ mặt Sơn Đông, còn Huyền Đức thì giữ mặt
Hoài Nam.
Lưu Bị nói:
- Thừa tướng sai, tôi xin vâng.
Hôm sau, Lưu Bị để My Chúc, Giản Ung ở Từ Châu, rồi đem Tôn
Càn, Quan Vũ và Trương Phi dẫn quân ra giữ các ngả đường Hoài Nam. Tào Tháo thì
tự dẫn binh đi đánh Hạ Phì.
Lã Bố ở Hạ Phì cậy rằng lương ăn đủ dùng, vả lại có sông Tứ
Thuỷ hiểm trở, vững dạ giữ ở đó, không lo ngại gì nữa. Một bữa Trần Cung nói rằng:
- Nay binh Tào Tháo mới đến, nên nhân lúc nó chưa lập trại
xong, ta thong thả nghỉ ngơi đánh kẻ địch khó nhọc vất vả quyết nhiên là được.
Bố nói:
- Ta vừa mới thua mãi, không nên khinh địch. Đợi khi nào nó đến
đánh, ta sẽ ra đánh, tất quân nó lăn cả xuống Tứ Thuỷ.
Bố không nghe lời Trần Cung.
Được vài hôm, Tào Tháo lập trại xong, đem các tướng đến dưới
thành, gọi Lã Bố ra nói chuyện. Bố đứng trên mặt thành. Tháo gọi bảo rằng:
- Ta nghe Phụng Tiên muốn kết thân với Viên Thuật, cho nên
đem binh đến đây. Thuật có tội phản nghịch lớn, mà ông thì có công đánh Đổng
Trác, sao ông lại bỏ công trước của mình mà đi theo đứa phản tặc. Nếu bây giờ
tôi phá được thành trì của ông, thì ông còn hối sao kịp làm sao? Bằng nay ông
hàng ngay đi, cùng giúp nhà vua, ông sẽ được phong tước hầu.
Bố nói:
- Thừa tướng hãy về đi, để tôi bàn đã.
Trần Cung đứng bên cạnh Bố, thấy Tháo, quát to lên mắng Tháo
là nghịch tặc, rồi bắn một mũi tên xuống, trúng vào lọng Tào Tháo.
Tháo trỏ vào Cung, nghiến răng lại mà rằng:
- Tao thề thế nào cũng giết mày.
Nói rồi dẫn ngay quân vào đánh thành.
Cung bảo với Bố rằng:
- Tào Tháo tự xa đến đây, thế cũng không ở lâu được. Tướng
quân nên đem cả quân bộ quân kỵ ra đóng đồn ở ngoài, tôi thì giữ ở trong thành.
Hễ Tháo đánh tướng quân thì tôi xin đem quân đánh tập hậu, hễ nó đánh thành thì
tướng quân về cứu. Độ mười ngày, quân Tháo hết lương bấy giờ chỉ đánh một trận
là phá được. Thế ấy gọi là thế “ỷ giốc”.
Bố nói:
- Ông nói phải lắm.
Rồi về ngay phủ, thu xếp khí giới, áo giáp.
Bấy giờ đang mùa đông rét mướt, Bố sai quân hầu đem nhiều áo
bông đi.
Vợ Lã Bố là họ Nghiêm nghe thấy thế, ra hỏi chồng rằng:
- Ông sắm sửa đi đâu thế?
Bố kể lại với vợ mưu của Trần Cung.
Họ Nghiêm nói:
- Nay ông bỏ thành không trông gì đến vợ con, đem quân ra tận
xa. Vì dù một mai, có biến thì thiếp sao được trông thấy ông nữa.
Bố nghe nói ngần ngừ, trong bụng không biết định bề nào, ba
hôm không ra đến ngoài.
Cung vào nói rằng:
- Quân Tào Tháo bốn mặt vây thành, nếu không ra ngoài thì khốn
đến nơi.
Bố nói:
- Ta nghĩ chạy ra ngoài xa, sao bằng giữ vững ở đây?
Cung nói:
- Mới rồi tôi vừa nghe thấy tin Tháo hết lương, có sai quân về
Hứa Đô để vận tải đến. Nay mai sắp đến nơi. Tướng quân nên đem tinh binh ra chẹn
đường mang lương. Kế ấy thực là hay.
Bố chịu kế ấy là phải, lại vào hỏi vợ. Họ Nghiêm khóc nói rằng:
- Nếu tướng quân đi thì Trần Cung, Cao Thuận giữ làm sao nổi
được thành này? Ngộ có điều lầm lỡ gì thì hối làm sao? Khi xưa thiếp ở Trường
An đã bị tướng quân bỏ, may nhờ Bàng Thư giấu giếm mới lại được đoàn tụ với tướng
quân. Không ngờ bây giờ tướng quân lại bỏ thiếp mà đi? Đường công danh của tướng
quân còn nhiều, xin chớ nghĩ đến thiếp nữa!
Nghiêm thị nói xong khóc lóc thảm thiết.
Bố nghe nói, trong bụng buồn bã, không biết nghĩ thế nào. Lại
vào nói chuyện với Điêu Thuyền. Thuyền nói:
- Tiện thiếp đã đem thân vào gửi tướng quân là trăm điều
trông cậy ở tướng quân cả. Xin tướng quân nghe thiếp đừng khinh suất ra ngoài.
Bố nói:
- Chớ lo ngại gì. Ta có ngọn hoạ kích này, ngựa Xích thố kia
thì ai dám đến gần ta.
Bèn ra bảo Trần Cung rằng:
- Quân Tào vận lương đến, là chước dối đấy. Tháo nhiều quỷ kế
lắm, ta chưa nên cất quân vội.
Cung trở ra mà than rằng:
- Chúng ta phen này chết không có đất chôn!
Lã Bố từ đó cả ngày không ra đến ngoài, chỉ cùng với họ
Nghiêm và Điêu Thuyền uống rượu giải buồn.
Một bữa có mưu sĩ Hứa Dĩ và Vương Khải vào hầu hiến kế như
sau:
- Viên Thuật ở Hoài Nam thanh thế to lắm, tướng quân trước đã
ước hôn với Thuật, nay sao không sang mà cầu? Giả thử quân Thuật sang cứu ta,
trong đánh ra, ngoài đánh vào, khó gì mà chẳng phá được Tháo.
Bố nghe kế ấy lập tức viết thư, sai ngay hai người ấy đem đi.
Hứa Dĩ nói:
- Phải có quân đưa đường cho chúng tôi mới đi được.
Bố sai Trương Liêu, Hách Manh hai tướng dẫn một nghìn quân
đưa ra khỏi cửa ải.
Canh hai đêm hôm ấy, Trương Liêu đi trước, Hách Manh đi sau
giữ gìn cho Hứa Dĩ, Vương Khải kéo ra cửa thành, chạy qua trại Huyền Đức, các
tướng ra đuổi không kịp, thoát được khỏi cửa ải, Hách Manh đem năm trăm quân đi
theo Dĩ, Khải. Trương Liêu thì dẫn một nửa quân trở về. Khi về đến cửa ải thì gặp
Quan Công ra chẹn đường, nhưng Quan Công chưa kịp đánh, Cao Thuận đã dẫn quân
ra cứu, đón được Trương Liêu vào thành. Hứa Dĩ, Vương Khải đến Thọ Xuân vào bái
kiến Viên Thuật dâng trình thư Lã Bố.
Thuật nói:
- Trước kia giết sứ của ta, lừa ta việc hôn nhân, nay sao lại
đến đây?
Dĩ nói:
- Việc ấy trước vốn là tại mưu Tào Tháo nó làm nhỡ ra. Xin
ngài xét lại cho rõ.
Thuật nói:
- Chủ mày nếu không bị Tào Tháo bức bách sao chịu đem con gái
gả cho con ta.
Vương Khải nói:
- Chủ tôi sai tôi sang đây, chẳng qua cũng là lợi cả hai bên.
Phỏng như bây giờ mà ngài nhất định không cứu, e rằng môi hở răng lạnh cũng
không phải là phúc gì cho ngài đâu.
Viên Thuật nói:
- Phụng Tiên vốn có tính giáo giở, đưa con gái sang đây đã, rồi
ta sẽ cất quân.
Hứa Dĩ, Vương Khải nói mãi không được phải trở về cùng với
Hách Manh, lúc đi sắp đến trại Huyền Đức thì Dĩ nói:
- Ban ngày, không đi được, phải chờ đến nửa đêm hai chúng ta
đi trước. Hách tướng quân đi chặn hậu.
Bàn nhau rồi, đêm hôm ấy đi qua trại Lưu Bị. Hứa Dĩ, Vương Khải
đi trước được thoát còn Hách Manh đương đi thì gặp Trương Phi ra chặn đường,
Hách Manh vào giao chiến, chỉ được một hiệp, bị Trương Phi bắt sống đem đi. Năm
trăm quân đi theo cũng bị Phi đánh giết tan nát cả.
Trương Phi giải Hách Manh vào gặp Lưu Bị, Lưu Bị giải sang
trình Tào Tháo. Hách Manh nói hết cả chuyện hứa hôn cầu cứu. Tháo giận lắm sai
đem Manh ra cửa quân chém, lại truyền lệnh cho các trại “Phải phòng giữ cẩn thận,
trại nào để cho Lã Bố và quân sĩ Lã Bố chạy lọt qua được, sẽ lấy quân pháp xử
trị”. Các trại đều lo sợ, ai nấy canh giữ thực riết.
Lưu Bị về trại, dặn bảo Quan, Trương rằng:
- Trại ta chính ở giữa đường hiểm Hoài Nam, hai em nên giữ cẩn
thận, chớ phạm vào quân lệnh Tào công.
Phi nói:
- Ta bắt được một tướng giặc, Tào Tháo không thấy khen thưởng
gì, lại còn dậm doạ, là làm sao?
Lưu Bị nói:
- Không phải là doạ. Tào công thống lĩnh nhiều quân, không có
quân lệnh, làm sao bắt chúng phục tùng được? Em đừng nên phạm.
Quan, Trương vâng lời rồi ra.
Hứa Dĩ, Vương Khải về được vào hầu Lã Bố nói rằng:
- Viên Thuật muốn được nàng dâu trước rồi mới cất quân đến cứu.
Bố hỏi:
- Đưa dâu đi thế nào được?
Dĩ nói:
- Nay Tào Tháo đã bắt được Hách Manh tất nhiên nó biết cả mưu
của ta rồi, mà đường sá thì tất nó giữ gìn thật nghiêm. Phi tướng quân thân
hành hộ tống, thì không ai lọt ra được.
Bố hỏi:
- Đi ngay hôm nay có được không?
Dĩ nói:
- Hôm nay xấu ngày lắm không nên đi. Ngày mai tốt lắm, nên đi
vào giờ tuất hoặc giờ hợi.
Bố sai Trương Liêu, Cao Thuận dẫn ba nghìn quân mã dặn rằng:
- Phải sắm sẵn một cỗ xe nhỏ, ta đưa con gái ta ra khỏi hai
trăm dặm, rồi hai người đưa sang tận Hoài Nam.
Canh hai đêm hôm sau, Lã Bố lấy bông quấn vào mình con gái,
ngoài mặc áo giáp, rồi cõng ở trên lưng, vác kích nhảy lên ngựa, mở cửa thành
ra. Lã Bố đi trước, Trương Liêu, Cao Thuận đi theo sau.
Lúc sắp đến trại Lưu Bị thì có một tiếng trống nổi lên rồi thấy
Quan, Trương ra chắn ngang đường đi, quát to lên:
- Đừng chạy! Đừng chạy nữa!
Bố bấy giờ không còn dám nghĩ đến chuyện đánh nhau nữa, chỉ cố
chạy cho thoát. Lưu Bị dẫn một toán quân kéo lại hai bên đánh nhau giáp lá cà.
Lã Bố tuy khoẻ, nhưng trên lưng còn cõng con, sợ con bị
thương, không dám xông pha cho lắm, chỉ chống đỡ làm sao cho chạy thoát mà
thôi.
Đằng sau Từ Hoảng, Hứa Chử lại kéo quân đến. Quân sĩ cùng reo
lên rằng:
- Không được để cho Lã Bố chạy thoát!
Bố thấy quân xô lại kíp lắm, lại phải quay vào trong thành.
Lưu Bị thu quân về. Lũ Từ Hoảng ai cũng về trại nấy. Quân Lã
Bố không chạy lọt được một người.
Lã Bố về thành, trong bụng lo buồn, ngày nào cũng chỉ uống rượu.
Tào Tháo đánh ròng rã hai tháng trời mà chưa hạ được. Chợt lại
có người báo rằng:
- Thái thú Hà Nội là Trương Dương, đem quân ra Đông Thị, định
đến cứu Lã Bố, lại bị bộ tướng là Dương Sú giết chết. Sú toan đem đầu Trương
Dương đến dâng thừa tướng, chẳng may lại phải tướng tâm phúc nhà Trương Dương
là Khuê Cố giết mất; Khuê Cố nay đã đi sang Khuyển Thành mất rồi.
Tháo lập tức sai Sử Hoán đuổi theo chém Khuê Cố. Nhân việc ấy
Tháo bàn với các tướng rằng:
- Trương Dương nó bị nội phản mà chết, thế là may cho ta lắm,
nhưng tuy rằng thế, mặt bắc lại còn có Viên Thuật, mặt đông còn có Lưu Biểu,
Trương Tú; cũng là phải lo cả; mà Hạ Phì đây thì vây mãi chưa đánh được. Ta muốn
tha cho Lã Bố, về Hứa Đô, tạm nghỉ ít bữa, các ngươi nghĩ thế nào?
Tuân Du vội vàng ngăn rằng:
- Không nên! Không nên! Lã Bố thua luôn, nhuệ khí đã nhụt.
Quân cốt có tướng, tướng đã suy, lòng quân cũng nản. Trần Cung tuy có mưu nhưng
ứng biến chậm. Nay khí thế của Bố chưa hồi, mưu Trần Cung chưa định, đánh cho gấp,
chắc là bắt được Lã Bố.
Quách Gia lại hiến một kế:
- Tôi có một kế phá được Hạ Phì, kế ấy dùng hai mươi vạn quân
cũng không bằng.
Tuân Úc hỏi:
- Kế ấy có phải là khai sông Nghi, sông Tứ ra không?
Gia cười nói rằng:
- Chính phải!
Tháo mừng lắm, sai ngay quân sĩ khơi đào ngay hai con sông ấy.
Quân Tào đóng trên gò cao, ngồi trông nước chảy vào Hạ Phì.
Thành Hạ Phì chỉ có cửa đông không có nước, còn các cửa đều bị
ngập cả.
Quân sĩ vào báo Lã Bố. Bố nói:
- Ta có ngựa Xích thố, bơi dưới nước như đi trên cạn, có việc
gì mà lo?
Bèn cùng vợ và nàng hầu say sưa suốt ngày, nhân vì tửu sắc
quá độ, hình dáng gầy võ. Một hôm, cầm gương soi, than rằng:
- Ta bị tửu sắc làm hại rồi, từ nay phải chừa mới được.
Bèn truyền lệnh:
- Hễ ai uống rượu thì chém!
Một bữa Hầu Thành có mười lăm con ngựa, bị người giữ ngựa ăn
trộm, muốn đem dâng Lưu Bị. Hầu Thành biết, đuổi giết được người giữ ngựa, cướp
ngựa được đem về. Các tướng đến mừng Hầu Thành.
Thành nhân có nấu được năm sáu hũ rượu, muốn đem ra mời các
tướng cùng uống, nhưng sợ Lã Bố bắt tội, mới đem năm bình đến biếu Lã Bố và bẩm
rằng:
- Nay tôi nhờ oai tướng quân cho nên lại bắt được ngựa mất.
Các tướng đều đến mừng. Tôi có nấu được ít rượu, chưa dám tự tiện, trước xin
đem dâng tướng quân.
Bố nổi giận nói rằng:
- Tao đang cấm rượu, sao mày dám nấu rượu, tụ tập với nhau để
uống? Chúng bay đồng mưu định hại tao hay sao đấy?
Bố sai lôi Hầu Thành ra chém. Lũ Tống Hiến, Nguỵ Tục và các
tướng cùng vào van xin cho Hầu Thành.
Bố nói:
- Cố ý trái lệnh, lẽ ra phải chém, nay nể các tướng hãy đánh
nó một trăm roi.
Các tướng lại xúm vào kêu van, Hầu Thành bị đánh năm mươi
roi, lưng bị lằn cả lên mới được tha.
Các tướng thấy thế ai cũng ngán lòng.
Tống Hiến, Nguỵ Tục đến nhà Hầu Thành hỏi thăm. Hầu Thành
khóc nói rằng:
- Không có các ông thì tôi chết rồi.
Hiến nói:
- Bố chỉ quý vợ con, coi chúng ta như củi rác cả.
Tục nói:
- Quân vây dưới thành, nước quanh bên hào, chúng ta chưa biết
chết ngày nào.
Hiến bàn rằng:
- Lã Bố không có nhân nghĩa gì, chúng ta bỏ nó mà đi. Các ông
nghĩ sao?
Tục nói:
- Bỏ đi không phải là trượng phu, sao bằng bắt nó đem nộp Tào
công.
Hầu Thành nói:
- Tôi vì cướp lại được ngựa mà bị nó đánh, nó cậy có con ngựa
Xích thố, nếu hai ông định bắt nó và dâng thành, tôi sẽ lấy trộm ngựa của nó
đem nộp Tào công trước.
Ba người bàn định xong rồi, đêm hôm ấy Hầu Thành lẻn ngay vào
chuồng ngựa, ăn trộm ngựa Xích thố, chạy ra cửa đông. Nguỵ Tục mở cửa cho ra rồi
lại tảng lờ đuổi theo không kịp.
Hầu Thành đến trại Tào Tháo, đem ngựa dâng lên, nói rằng:
- Tống Hiến, Nguỵ Tục cắm ngọn cờ trắng để làm hiệu, hai người
ấy sắp sẵn để dâng cửa thành.
Tháo nghe nói, liền viết ngay vài chục tờ bố cáo bắn vào
trong thành. Văn rằng:
“Đại tướng quân Tào: phụng chiếu vua, đến đánh Lã Bố, ai dám
kháng cự với quân ta, hễ khi phá thành, cả nhà sẽ bị giết, trên từ tướng hiệu,
dưới đến thứ dân, ai bắt sống được Lã Bố, hoặc lấy đầu đem dâng, sẽ được trọng
thưởng, nay hiểu dụ, để mọi người đều biết”.
Sáng hôm sau, ngoài thành có tiếng reo dậy đất. Lã Bố thất
kinh, vác kích lên thành đi dạo các cửa xem xét, trách mắng Nguỵ Tục để Hầu
Thành chạy thoát, làm mất ngựa quý, định đem Nguỵ Tục ra làm tội. Quân Tào ở dưới
thành, trông thấy trên thành có lá cờ trắng, cố sức đánh thành. Bố phải thân ra
chống giữ, từ sáng đến trưa quân Tào mới lui.
Lã Bố lên lầu tạm nghỉ ở trên tràng kỷ không ngờ ngủ quên mất.
Tống Hiến đuổi tả hữu ra, trước hết ăn trộm cây hoạ kích, rồi gọi Nguỵ Tục vào
cùng ra tay lấy thừng chão trói Lã Bố thật chặt.
Lã Bố đang bàng hoàng giấc ngủ, thấy động, mở choàng mắt ra,
vội vàng gọi tả hữu, đều bị Hiến và Tục đánh tan hết cả. Tống Hiến cầm lá cờ trắng
vẫy một cái, quân Tào đến cả dưới thành. Nguỵ Tục nói to lên rằng:
- Đã bắt sống được Lã Bố rồi!
Hạ Hầu Uyên chưa tin, Tống Hiến ở trên thành ném cây kích xuống,
mở to cửa thành ra. Quân Tào kéo ùa cả vào.
Cao Thuận, Trương Liêu bấy giờ ở cửa tây, nước vòng quanh cả
không sao ra được, cũng bị quân Tào bắt sống. Trần Cung chạy đến cửa nam, bị Từ
Hoảng bắt.
Tào Tháo vào thành, lập tức truyền lệnh cho tháo nước ra, rồi
treo bảng yên dân.
Tháo cùng với Lưu Bị lên ngồi trên lầu Bạch Môn. Quan Vũ,
Trương Phi đứng hầu bên cạnh. Quân lính giải những tù binh đến.
Lã Bố tuy lực lưỡng, nhưng thừng trói chặt quá. Bố nói:
- Trói chặt quá, nới cho một tí.
Tào Tháo nói:
- Trói hổ phải trói cho chặt!
Lã Bố thấy Hầu Thành, Tống Hiến, Nguỵ Tục đứng ở hai bên,
trách rằng:
- Ta đãi các ngươi không bạc, sao nỡ phản ta?
Hiến nói:
- Chỉ nghe lời vợ, không theo mưu tướng, sao gọi là không bạc?
Bố nín lặng.
Được một lát, quân lại giải Cao Thuận đến, Tào Tháo hỏi:
- Ngươi có muốn nói gì không?
Cao Thuận không trả lời, Tào Tháo giận sai đem chém ngay.
Từ Hoảng giải Trần Cung đến.
Tháo hỏi:
- Công Đài vẫn mạnh khoẻ chứ?
Cung nói:
- Bụng dạ ngươi bất chính, cho nên ta bỏ ngươi.
Tháo nói:
- Ông trách tôi là người bất chính, sao ông lại đi theo Lã Bố?
Cung trả lời:
- Lã Bố là người vô mưu mà thôi, chớ không có quỷ trá gian hiểm
như ngươi.
Tháo hỏi:
- Ông tự cho là nhiều mưu trí, sao nay đến nỗi này?
Cung nhìn Lã Bố nói rằng:
- Chỉ giận rằng người này không nghe lời ta. Nếu nghe lời ta
thì chưa chắc.
Tháo hỏi:
- Bây giờ ông nghĩ sao?
Cung nói to lên rằng:
- Bây giờ chỉ có chết mà thôi!
Tháo hỏi:
- Ông đã vậy, còn mẹ già ông và vợ con ông thì làm sao?
Cung nói:
- Tôi nghĩ người nào lấy đạo hiếu trị thiên hạ thì không hại
bố mẹ người ta; người nào thi hành nhân chính ở thiên hạ thì không làm đứt tuyệt
hương hoả người ta. Vậy mẹ tôi và vợ con tôi, sống chết cũng ở trong tay ông.
Tôi đã bị bắt xin chịu chết ngay, trong lòng không còn vướng víu điều gì.
Tháo còn có ý lưu luyến.
Cung không ngoảnh cổ lại.
Tháo truyền cho lính hầu rằng:
- Lập tức phải đem mẹ già và vợ con Công Đài về Hứa Đô để phụng
dưỡng. Hễ ai chậm trễ ta sẽ chém ngay.
Cung nghe lời Tháo nói cũng làm thinh vươn cổ ra cho quân
chém.
Ai trông thấy cũng rỏ nước mắt khóc. Tháo sai lấy quan quách
khâm liệm đem về táng ở Hứa Đô.
Đời sau có thơ khen rằng:
Sống chết khăng khăng vững một lòng,
Khảng khái thay đáng bực anh hùng!
Nhời vàng đá nọ sao không dụng?
Tài sến lim kia huống bỏ không!
Một bụng giúp người, trung với chúa,
Chút tình giã mẹ, xót cho ông,
Bạch Môn khi ấy còn ghi tiếng,
Thiên hạ ai là kẻ sánh cùng!
Đương khi Tào Tháo tiễn Trần Cung xuống lầu, Lã Bố ngoảnh mặt
lại Lưu Bị trách rằng:
- Ông là khách trên ghế, tôi là tù dưới thềm, sao không nói
giúp cho một nhời?
Lưu Bị gật đầu.
Đến khi Tào Tháo trở lên, Bố kêu rằng:
- Ông không lo ngại ai bằng lo ngại tôi. Nay tôi đã chịu ông.
Ông làm đại tướng, tôi làm phó tướng, việc thiên hạ khó gì không định nổi?
Tháo ngoảnh mặt lại hỏi Huyền Đức:
- Thế nào?
Huyền Đức nói:
- Ông còn nhớ chuyện Đinh Kiến Dương và Đổng Trác không?
Bố nhìn vào Lưu Bị nói:
- Thằng này thực là vô tín.
Tháo sai đem xuống lầu thắt cổ. Bố lại ngoảnh lại bảo Lưu Bị
rằng:
- Thằng tai to kia, quên mất công tao bắn kích ở nha môn rồi
à?
Chợt có một người quát to lên rằng:
- Đồ hèn Lã Bố kia! Chết thì chết, sợ gì!
Chúng nhìn xem ai, thì là Trương Liêu, đang bị quân đao phủ dẫn
đến.
Tháo sai đem Lã Bố xuống thắt cổ rồi mới chặt đầu đem bêu.
Đời sau có thơ rằng:
Nước cả mênh mông ngập Hạ Phì
Nhớ khi Lã Bố bắt mang đi!
Ngựa khoe Xích thố, làm gì được?
Kích cậy phương thiên, có ích chi?
Trói hổ còn mong chi trói lỏng?
Nuôi ưng, mới biết cũng nuôi thì.
Nghe lời vợ, chẳng nghe lời tướng,
Mắng kẻ tai to khéo chẳng suy!
Lại có thơ luận về Huyền Đức rằng:
Trói hổ xin đừng trói hững hờ
Kìa! Kìa! Đinh, Đống máu còn nhơ
Đã hay hổ đói hay ăn thịt
Để thịt Tào Man chẳng được dư?
Bấy giờ võ sĩ giải Trương Liêu đến. Tháo trỏ vào Liêu mà bảo
rằng:
- Thằng này trông quen quen!
Liêu nói:
- Phải, gặp nhau trong thành Bộc Dương, đã quên rồi ư?
Tháo cười mà hỏi rằng:
- Thế ra mày còn nhớ à?
Liêu nói:
- Nhưng rất đáng tiếc!
Tháo hỏi:
- Tiếc cái gì?
Liêu nói:
- Tiếc hôm ấy lửa không cháy to đốt chết thằng quốc tặc là
mày!
Tháo giận lắm, mắng rằng:
- Tướng đã thua sao dám làm nhục ta?
Rút gươm ra định giết Trương Liêu. Liêu chẳng sợ hãi vì vươn
cổ chờ chết. Sau lưng Tào Tháo có người giữ tay lại, một người nữa quỳ trước mặt
can rằng:
- Xin thừa tướng hãy dừng tay.
Thế thực là:
Lã Bố kêu van không đáng cứu;
Trương Liêu khảng khái mới nên tha!
Chưa biết hai người đến cứu Trương Liêu là ai, hồi sau mới
phân giải.
Hồi 20:
Tào A Man ra săn ruộng Hứa Điền
Đổng quốc cữu vâng chiếu trong nội các
Người vít cánh tay Tào Tháo là Lưu Bị; người quỳ trước mặt
Tào Tháo là Quan Vũ.
Lưu Bị nói:
- Người có lòng son như thế nên giữ lại.
Quan Vũ nói:
- Tôi vốn biết Văn Viễn (Trương Liêu) là người trung nghĩa,
tôi xin lấy tính mệnh đảm bảo.
Tháo vứt gươm xuống, cười và nói rằng:
- Ta cũng biết Văn Viễn là người trung nghĩa, cho nên đùa đấy
thôi.
Tháo bèn tự tay cởi trói cho Trương Liêu, cởi áo ra mặc cho
Trương Liêu rồi mời ngồi lên ghế.
Liêu cảm phục, bèn xin hàng.
Tháo cất Liêu lên làm trung lang tướng, cho tước Quan nội hầu,
sai đi chiêu dụ Tang Bá. Bá thấy Lã Bố đã chết, Trương Liêu đã hàng, cũng đem
quân bản bộ về hàng. Tào Tháo thưởng cho rất hậu.
Tang Bá lại chiêu an được Tôn Quan, Ngô Đôn và Doãn Lễ, chỉ
còn có Xương Hi là chưa phục.
Tháo phong cho Tang Bá làm tướng huyện Lương Gia. Lũ Tôn Quan
cũng được làm quan cả, Tháo sai lũ ấy giữ mạn bể hai châu Thanh và Từ, rồi sai
đem vợ con Lã Bố về Hứa Đô. Tháo mở tiệc khao quân, nhổ trại mang quân về.
Khi Tháo qua Từ Châu, nhân dân đốt hương bái vọng, đông chật
cả đường, xin để Lưu Bị ở lại làm thân mục.
Tháo nói:
- Lưu sứ quân công to, hãy vào chầu vua phong tước, rồi sẽ ra
nhậm Từ Châu cũng chưa muộn.
Trăm họ lạy tạ. Tháo sai xa kỵ tướng quân là Xa Trụ, quyền
lĩnh chức mục Từ Châu.
Tháo đem quân về Hứa Đô, phong thưởng cho các tướng sĩ. Còn Lưu
Huyền Đức thì để nghỉ ngơi ở nhà bên cạnh tướng phủ.
Hôm sau vua Hiến đế khai trào.
Tháo dâng biểu tâu quân công của Huyền Đức và đem Huyền Đức
vào chầu vua.
Huyền Đức mặc đồ trào phục, lạy dưới thềm son. Vua truyền cho
lên điện, rồi hỏi rằng:
- Tổ người là ai?
Huyền Đức tâu rằng:
- Tôi là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh vương, cháu xa đức Hiếu Cảnh
hoàng đế, cháu Lưu Hùng và con Lưu Hoằng.
Vua sai lấy sổ tôn tộc ra kiểm xem, rồi sai quan tông chính
khanh tuyên đọc:
Hiếu Cảnh hoàng đế sinh mười bốn con, con thứ bảy là Trung
Sơn Tĩnh vương tên là Lưu Thắng; Thắng sinh ra Lục Thành đình hầu là Lưu Chính;
Chính sinh ra Bái hầu là Lưu Ngang; Ngang sinh ra Chương hầu là Lưu Lộc; Lộc
sinh ra Nghi Thuỷ hầu là Lưu Luyến; Luyến sinh ra Khâm Dương hầu là Lưu Anh;
Anh sinh ra An Quốc hầu là Lưu Kiến; Kiến sinh ra Quảng Lăng hầu là Lưu Ai; Ai
sinh ra Giao Thuỷ hầu là Lưu Hiến; Hiến sinh Tổ Ấp hầu là Lưu Thư; Thư sinh Kỳ
Dương hầu là Lưu Nghị; Nghị sinh Nguyên Trạch hầu là Lưu Tất; Tất sinh Dĩnh
Xuyên hầu là Lưu Đạt; Đạt sinh Phong Linh hầu là Lưu Bất Nghi; Bất Nghi sinh Tế
Xuyên hầu là Lưu Huệ; Huệ sinh ra quan lịnh ở Đông Quận là Lưu Hùng; Hùng sinh
Lưu Hoằng; Hoằng không làm quan, sinh ra Lưu Bị.
Vua so trong thế phả thì Huyền Đức vào hàng chú. Vua mừng lắm,
mời vào thiên điện, làm lễ nhận họ. Vua bấy giờ nghĩ bụng rằng:
- Tào Tháo lộng quyền, việc nước không tự ta làm chủ. Nay được
người chú anh hùng, may ra ta có người giúp.
Vua cho ngay Lưu Bị làm tả tướng quân Nghi Thành đình hầu, mở
yến khoản đãi. Tiệc tan, Lưu Bị tạ ơn trở ra. Tự bấy giờ ai cũng gọi là Lưu
hoàng thúc.
Tào Tháo về phủ, Tuân Úc và bọn mưu sĩ vào nói rằng:
- Thiên tử nhận Lưu Bị là chú, chúng tôi sợ có điều bất lợi
cho minh công.
Tháo nói:
- Người ấy đã được nhận làm hoàng thúc, ta lấy chiếu vua sai
khiến, lại càng phải phục tùng ta lắm. Vả ta lại để cho ở Hứa Đô, tiếng rằng gần
vua, nhưng thực ra là ở trong tay ta, ta còn ngại gì. Chỉ lo thái uý Dương Bưu,
vốn là thân thích với Viên Thuật. Nếu Bưu làm nội ứng cho hai anh em họ Viên,
thì có lẽ hại to, nên phải trừ trước đi.
Bàn thế rồi, Tháo sai ngay người vu cáo cho Dương Bưu thông với
Viên Thuật, rồi bắt bỏ ngục, sai Mãn Sủng xét án.
Bấy giờ thái thú Bắc Hải là Khổng Dung ở Hứa Đô, nhân thấy việc
ấy, vào can Tháo rằng:
- Dương công vốn bốn đời nay vẫn có đức thanh liêm, há vì
nhân việc họ Viên mà bắt tội?
Tháo nói:
- Việc ấy là tự triều đình chớ có tại tôi đâu!
Dung hỏi:
- Ngày xưa, giả thử Thành vương giết Thiệu công, thì Chu công
có chối được rằng không biết chăng?
Bất đắc dĩ Tháo phải cách chức Bưu, đuổi về quê.
Bấy giờ có quan Nghi lang là Triệu Phạm thấy Tháo chuyên quyền,
làm sớ tâu vua hạch Tháo rằng:
- Tháo tự tiện không tâu vua dám làm tội đại thần, thế là mạn
phép quá!
Tháo giận lắm, lập tức bắt Triệu Phạm đem giết. Vì thế các
quan ai cũng sợ hãi. Mưu sĩ là Trình Dục nói:
- Nay minh công uy danh mỗi ngày mỗi thịnh, sao không nhân
lúc này mà làm việc vương bá?
Tháo nói:
- Thủ tục triều đình còn nhiều, chưa nên kinh động. Ta nên mời
vua đi săn, để xem ý tứ các quan ra sao đã.
Tháo liền sai chọn ngựa tốt và chim ưng giỏi, chó săn hay,
cung tên đủ cả, trước họp binh ở ngoài thành, rồi mời thiên tử đi săn.
Vua nói:
- Săn bắn không phải là chính đạo.
- Đế vương ngày xưa mùa xuân đi săn gọi là sưu, mùa hạ đi săn
gọi là miêu, mùa thu đi săn gọi là kiển, mùa đông đi săn gọi là thú; bốn mùa
cùng ra ngoài cõi để biểu thị võ lực với thiên hạ. Nay bốn bể đương lúc nhiễu
loạn, bệ hạ chính nên đi săn để giảng việc võ.
Vua chẳng nghe chẳng được, liền lên ngựa Tiêu Diêu, đeo cung
khảm ngọc và tên bịt vàng, bày đồ loan giá ra thành. Huyền Đức cùng Quan,
Trương ba người đeo cung, dắt ngựa, trong mặc áo giáp che bụng, tay cầm đồ binh
khí, dẫn vài chục quân kỵ mã theo vua ra Hứa Xương.
Tào Tháo cưỡi ngựa Phi Diện sắc vàng, dẫn mười vạn quân, cùng
vua đi săn ở Hứa Điền. Quân sĩ vây vòng quanh, rộng hơn hai trăm dặm. Tháo sóng
ngựa cho đi chỉ kém ngựa vua có một đầu, sau lưng toàn là tướng tâm phúc của
Tháo đi theo. Trăm quan văn võ đi tận đằng xa không ai dám đến gần.
Khi vua đi đến Hứa Điền, Lưu Bị nhảy ngựa xuống đứng cạnh đường
hỏi thăm sức khoẻ của vua. Vua nói:
- Trẫm muốn xem tài săn bắn của hoàng thúc.
Lưu Bị lĩnh mệnh lên ngựa. Bỗng trông đám cỏ có một con thỏ
chạy ra. Bị bắn một mũi tên trúng ngay.
Vua reo lên một tiếng.
Đi qua một cái gò, chợt thấy trong bụi gai một con hươu lớn
chạy ra vua bắn luôn ba phát không tin, bèn ngoảnh lại bảo Tháo rằng:
- Ngươi bắn đi!
Tháo xin mượn cung ngọc tên vàng của vua, giương lên bắn một
phát, tin ngay giữa lưng, hươu ngã trong đám cỏ. Các đại thần và các tướng
trông thấy lưng hươu có tên bịt vàng, tưởng vua bắn tin, cùng chạy lên trước mặt
vua reo: Vạn tuế!
Tào Tháo tế ngựa ra đứng trước mặt vua để nhận lấy những lời
chúc mừng.
Trăm quan thấy vậy ai nấy đều tái mặt. Sau lưng Huyền Đức,
Quan Vân Trường giận lắm, mày tằm dựng ngược, mắt phượng giương to, cầm đao,
thúc ngựa định ra chém Tào Tháo. Huyền Đức biết ý, vội vàng vẫy tay đưa mắt.
Quan Công thấy anh ra hiệu, phải chịu đứng im.
Huyền Đức ngoảnh lại mừng Tào Tháo rằng:
- Thừa tướng bắn tài trong đời hiếm có!
Tháo cười nói nhún rằng:
- Ấy cũng nhờ phúc lớn của thiên tử.
Rồi Tháo quay ngựa ngoảnh vào vua chúc mừng, nhưng từ đấy giữ
lấy cung khảm ngọc, không trả vua nữa.
Săn bắn xong, Tháo mở một tiệc yến ở Hứa Điền, rồi rước vua về
Hứa Đô.
Khi các quan tướng đâu đã về đấy rồi, Quan Vũ mới hỏi Lưu Bị
rằng:
- Thằng giặc Tào nó dối vua khinh trên, tôi toan giết nó để
trừ hại cho nước, sao anh lại ngăn tôi?
Lưu Bị nói:
- Ném chuột còn phải lo vỡ đồ quý, Tháo đứng cách vua chỉ có
một đầu ngựa, mà những người tâm phúc nó đi xúm xít cả chung quanh, nếu em nhân
cơn giận làm liều không nghĩ, nhỡ việc không xong, hại đến thiên tử thì có phải
tội tại chúng ta không?
Quan Vũ nói:
- Nay không giết thằng giặc ấy tất sinh vạ về sau.
Lưu Bị nói:
- Hãy giữ kín, không được nói một cách vội vàng.
Vua về cung, nghĩ đến việc đi săn hôm ấy, tủi mà khóc, bảo với
vợ là Phục hoàng hậu rằng:
- Ta từ khi lên ngôi đến giờ, gặp nhiều gian hùng. Trước thì
Đổng Trác, sau thì Thôi, Dĩ. Những điều khổ ải mà người ta chưa từng thấy bao
giờ, ta và hoàng hậu đều nếm trải cả. Đến nay gặp Tào Tháo, tưởng nó là bầy tôi
xã tắc, không ngờ nó lộng quyền, tác oai tác phúc. Ta trông thấy nó bao giờ là
như chông gai cắm vào lưng bấy giờ. Hôm nay đi săn, nó ra nhận lấy lời chúc mừng
của các quan, thật là vô lễ. Nay mai tất có vạ, vợ chồng ta chưa biết chết chỗ
nào.
Phục hoàng hậu nói:
- Công khanh đầy triều đều ăn lộc nhà Hán, chẳng nhẽ lại
không có ai cứu được quốc nạn hay sao?
Phục hoàng hậu chưa nói dứt lời thì có một người ở ngoài bước
vào tâu rằng:
- Xin vua và hoàng hậu đừng lo. Tôi xin cử một người có thể cứu
được nạn nước.
Vua trông ra thì là bố đẻ Phục hoàng hậu là Phục Hoàn. Vua gạt
nước mắt hỏi rằng:
- Quốc trượng cũng biết giặc Tào nó chuyên quyền à?
Hoàn nói:
- Xem như việc bắn hươu ở Hứa Điền thì ai chẳng biết, chỉ vì
cả triều văn võ, phi là họ hàng Tháo thì là đầy tớ nó. Nếu không phải quốc
thích thì ai chịu hết lòng đánh giặc. Lão thần không có quyền thế gì, khó mà
làm nổi việc ấy, nhưng có xa kỵ tướng quân là Đổng Thừa, có thể tin cậy.
Vua nói:
- Đổng quốc cữu nhiều lần liều mình với nạn nước ta vốn đã biết,
nên vời vào trong cung để bàn việc lớn.
Hoàn nói:
- Tả hữu ở đây đều là tâm phúc của giặc Tháo, nếu việc tiết lộ
sẽ xảy ra vạ to.
Vua hỏi:
- Thế thì nên làm thế nào?
Hoàn nói:
- Tôi có một kế: Bệ hạ nên cho may một cái áo bào và làm một
cái đai ngọc, mật ban cho Đổng thừa; ở trong đai để tờ mật chiếu, khi về nhà thấy
tờ chiếu, Thừa sẽ ngày đêm nghĩ kế tiến hành, thế thì dù quỷ thần cũng không biết
được.
Vua lấy làm phải. Phục Hoàn lui ra.
Vua tự làm tờ chiếu, cắn đầu ngón tay lấy máu viết, mật sai
Hoàng hậu may vào trong lần lót gấm tía ở trong đai ngọc; rồi sai nội sứ triệu
Đổng Thừa vào.
Thừa vào ra mắt, lễ xong, vua nói:
- Tối hôm qua, trẫm và hoàng hậu nói chuyện lại những sự khổ ải
ở Bá Hà khi trước, nhân nhớ đến công to của quốc cữu, nên cho vời vào có mấy lời
uý lạo.
Thừa rập đầu lạy tạ. Vua dắt Thừa ra điện đến Thái miếu rồi
lên gác công thần. Vua đốt hương lễ xong, dẫn Thừa đến xem tranh truyền thần, bức
tranh giữa vẽ tượng Hán Cao tổ.
Vua nói:
- Cao Tổ hoàng đế ta xuất thân ở đâu? Sáng nghiệp thế nào?
Thừa giật mình tâu rằng:
- Bệ hạ hỏi bỡn tôi, việc thánh tổ sao ngài lại chẳng biết.
Cao hoàng đế xuất thân làm đình trưởng ở Tứ Thuỷ, cầm thanh gươm ba thước chém
rắn khởi nghĩa, tung hoành bốn bể, ba năm phá được nhà Tần, năm năm diệt được
nước Sở, bởi vậy mới có thiên hạ, lập cơ nghiệp muôn đời.
Vua bèn nói:
- Quốc cữu thử ngẫm xem: tổ tôn anh hùng như thế mà con cháu
thì hèn mạt thế này, chẳng xót lắm ru!
Vua nói thế, rồi trỏ vào hai bức tranh hai bên mà hỏi Thừa rằng:
- Đây có phải Lưu hầu Trương Lương không? Đây có phải Tản hầu
Tiêu Hà không?
Thừa tâu rằng:
- Phải, đức Cao tổ khi xưa cũng nhờ sức hai người ấy mà dựng
nên cơ đồ.
Vua ngoảnh lại, thấy tả hữu đứng xa cả, mới sẽ bảo Thừa rằng:
- Ngươi cũng nên đứng bên cạnh trẫm như hai người ấy.
Thừa nói:
- Tôi chẳng có tấc công nào, đâu dám sánh với các ông ấy?
Vua nói:
- Trẫm nghĩ công ngươi cứu giá ở Tây Đô, không bao giờ quên,
chưa lấy gì trả lại được.
Rồi trỏ vào áo bào và đai bảo Thừa:
- Ngươi mặc áo này, thắt đai này cũng như thường đứng bên cạnh
mình trẫm.
Thừa rập đầu lạy tạ. Vua cởi áo cởi đai đưa cho Thừa vào bảo
thầm rằng:
- Người về nên nhìn cho kỹ, đừng phụ lòng trẫm!
Thừa biết ý, mặc áo đeo đai, rồi bái từ xuống gác trở ra.
Có người báo với Tào Tháo rằng:
- Thấy vua cùng Đổng Thừa lên gác công thần nói chuyện.
Tháo lập tức vào triều xem.
Đổng Thừa đi ra, vừa qua cửa cung, gặp ngay Tào Tháo đến,
không thể ẩn núp vào đâu được, phải đứng ở cạnh đường, vái chào. Tháo hỏi:
- Quốc cữu đi đâu vậy?
Thừa nói:
- Thiên tử vừa cho vời vào ban cho áo gấm và đai ngọc này.
Tháo nói:
- Nhân việc gì mà vua ban cho thế?
Thừa nói:
- Nhân thiên tử nhớ đến công cứu giá ở Tây Đô ngày xưa nên
ban cho những đồ quý ấy.
Tháo nói:
- Cởi đai cho ta xem!
Thừa cũng đoán trong đai có mật chiếu, sợ Tháo khám thấy, ngần
ngừ không cởi. Tháo sai tả hữu lột ra, xem ước chừng nửa giờ, rồi cười mà nói rằng:
- Quả nhiên là đai ngọc đẹp lắm. Cởi nốt áo ta xem!
Thừa trong lòng sợ hãi, không dám cưỡng, phải cởi áo đưa ra.
Tháo cầm lấy, soi lên bóng mặt giời nhìn xem từng tý. Xem xong Tháo mặc vào
mình, đeo cả đai rồi hỏi tả hữu:
- Dài hay vắn?
Tả hữu khen áo đai vừa vặn lắm. Tháo bảo Thừa:
- Quốc cữu cho lại ta áo này, đai này có được không?
Thừa nói:
- Của vua ban cho, tôi không dám biếu. Xin về may bộ khác để
dâng thừa tướng.
Tháo hỏi:
- Quốc cữu nhận áo đai ấy, ở trong có ý gì không?
Thừa thất kinh nói rằng:
- Tôi đâu dám thế! Có phải thừa tướng muốn dùng tôi xin dâng.
Tháo nói:
- Quốc cữu chịu ơn vua, ta sao nỡ cướp! Ta nói bỡn đấy thôi.
Rồi cởi áo và đai trả Đổng Thừa.
Thừa từ biệt Tháo về nhà, đến đêm ngồi một mình trong thư
phòng, đem áo bào ngắm đi ngắm lại, chẳng thấy gì. Thừa nghĩ: “Vua cho áo và
đai, dặn xem kỹ, tất là có thâm ý nay không thấy dấu vết gì là cớ làm sao”. Lại
đem đai ngọc ra xem, chỉ thấy ngọc trắng lóng lánh, thêu con rồng nhỏ vờn trong
đám hoa, đằng sau lót gấm đỏ, đường chỉ thực vuông vắn phẳng phiu, tịnh không
có một dấu vết nào. Thừa lấy làm ngờ, đặt ở trên án thư, giở đi giở lại tìm
tòi. Lúc lâu, mỏi lắm, Thừa toan nằm xuống nghỉ, bỗng nhiên hoa đèn rơi vào
đai, cháy đến lần lót. Thừa vội vàng gạt đi, nhưng đã cháy hết một chỗ, lộ ra lần
lụa trắng, trông hình như có vết máu. Thừa lấy ngay dao tách ra xem, thì thấy tờ
mật chiếu của vua, viết bằng máu. Trong chiếu nói rằng:
“Trẫm nghe: Trong đạo nhân luân, cha con là trọng; trong phận
tôn ty, vua tôi là trọng. Lâu nay giặc Tháo hống hách lộng quyền, khinh rẻ quân
phụ, kết hợp bè đảng, làm nát chính thế của triều đình; thưởng, phạt, sắc,
phong, lấn cả chủ quyền của trẫm. Trẫm đêm ngày lo nghĩ, sợ thiên hạ nguy cấp đến
nơi. Ngươi là đại thần nhà nước, lại là chí thân với trẫm, nên nhờ đến Cao Đế
ngày xưa, dựng nghiệp khó nhọc, tập hợp lấy người trung nghĩa, trừ giết kẻ gian
thần, để yên xã tắc, thì may cho tổ tông nhà Hán lắm.
Trẫm cắn ngón tay lấy máu, viết thư cho ngươi, ngươi nên nghĩ
ba bốn lần cho kỹ, chớ phụ ý trẫm.
Niên hiệu Kiến An, năm thứ bốn, tháng ba, viết tờ chiếu này”.
Đổng Thừa xem xong, nước mắt chảy ròng ròng, suốt đêm không
ngủ được. Sớm ngày đứng dậy, Thừa lại đến thư phòng xem lại tờ chiếu hai ba lần,
chưa nghĩ được mưu kế gì. Thừa bèn đặt tờ chiếu trên ghế, lo tìm kế trừ Tào,
nhưng chưa nghĩ được kế gì thì nhọc quá gục xuống kỷ ngủ thiếp đi.
Chợt có quan thị lang là Vương Tử Phục đến chơi. Người nhà biết
Tử Phục với Đổng Thừa là chỗ bạn thân, không dám ngăn trở. Tử Phục vào thẳng tư
phòng, thấy Thừa ngủ say, ở dưới tay áo lại để một mảnh lụa trắng hơi lộ ra chữ
“Trẫm”. Tử Phục lấy làm nghi, sẽ nâng tay áo, cầm lấy mảnh lụa, xem xong, giấu
vào ống tay áo mình, rồi đánh thức Thừa dậy:
- Quốc cữu thật là rỗi quá! Sao mà ngủ được kỹ thế?
Thừa giật mình, nhìn không thấy tờ chiếu, sợ hãi mất vía,
chân tay luống cuống.
Tử Phục nói:
- Ngươi định giết Tào công, ta phải ra thú!
Thừa khóc nói rằng:
- Nếu anh làm thế, nhà Hán hỏng mất!
Tử Phục nói:
- Ta nói đùa đó, tổ tôn ta mấy đời ăn lộc nhà Hán, há lại
không có lòng trung? Ta xin giúp anh một tay để giết thằng quốc tặc.
Thừa nói:
- Anh có bụng ấy, thực là may lớn cho nhà nước!
Tử Phục cầm tay Đổng Thừa, dắt vào nhà trong mà nói rằng:
- Nên vào mật thất, để cùng lập nghĩa trạng, liều bỏ ba họ để
báo ơn vua.
Thừa mừng lắm, lấy ngay một bức lụa trắng, trước ký tên mình
vào, rồi Tử Phục cũng ký tên. Ký xong, Tử Phục nói:
- Tôi có người bạn thân là tướng quân Ngô Tử Lan, nên để cho
ông ấy cùng bàn mưu với ta.
Thừa nói:
- Trong cả đám đại thần chỉ có tràng thuỷ hiệu uý Chủng Tập
và nghị lang Ngô Thạc là tâm phúc với tôi. Hai người ấy tất cũng cùng bàn mưu với
ta được.
Đang bàn chuyện, người nhà vào báo có Chủng Tập và Ngô Thạc đến
chơi.
Thừa nói:
- Thực là trời giúp ta đó!
Thừa bảo Tử Phục hãy núp vào sau bình phong, mời hai người
vào thư viện, ngồi chơi uống nước. Uống nước rồi, Chủng Tập hỏi Đổng Thừa rằng:
- Việc đi săn ở Hứa Điền, ông có tức không?
Thừa nói:
- Tức thì tức, nhưng làm gì được?
Thạc nói:
- Ta muốn giết nó đi, nhưng giận rằng chẳng có ai giúp đỡ.
Tập lại nói:
- Trừ hại cho nước, dù có chết cũng không tiếc gì thân.
Bấy giờ Vương Tử Phục núp ở sau bình phong mới chạy ra nói rằng:
- Các ngươi muốn giết Tào công, ta phải ra thú, hiện có Đổng
quốc cữu làm chứng.
Chủng Tập nổi giận nói rằng:
- Chúng ta là trung thần có sợ gì chết! Chúng ta chết làm ma
nhà Hán, còn hơn nhà ngươi sống mà a dua với đứa phản tặc.
Đổng Thừa cười nói rằng:
- Chúng tôi cũng vì việc ấy mà muốn tiếp hai ông ở đây để
bàn, Vương thị lang nói đùa đó.
Nói rồi móc ống tay áo, lấy tờ mật chiếu ra đưa cho hai người
xem. Hai người đọc chiếu, nước mắt tuôn ra hai hàng.
Thừa mời hai người ký tên. Tử Phục nói:
- Xin ba ông hãy ở đây, để tôi đi mời Ngô Tử Lan nữa.
Tử Phục đi được một hồi, rồi cùng với Tử Lan đến. Mọi người
chào nhau, cùng ký tên cả. Thừa mời vào nhà trong uống rượu. Chợt có quân vào
báo rằng:
- Có thái thú Tây Lương là Mã Đằng đến thăm.
Thừa bảo đầy tớ ra nói dối rằng Thừa mệt không ra tiếp kiến
được.
Lính canh cửa ra bảo thế, Mã Đằng giận nói rằng:
- Tối hôm qua ở ngoài cửa Đông Hoa, trông thấy mặc áo gấm đeo
đai đi ra, nay cớ sao lại nói dối rằng ốm? Ta không phải vô cớ đến đây, sao lại
từ chối ta?
Lính canh vào lại kể rõ Mã Đằng giận và nói những gì, Thừa mới
đứng dậy nói rằng:
- Xin các ông ngồi chờ tôi đây, để tôi ra một lát thôi.
Rồi Thừa ra mời Mã Đằng vào công đường. Chào lễ xong, ngồi
yên rồi. Đằng mới trách rằng:
- Tôi vào chầu sắp trở về, cho nên lại đây để từ biệt, sao lại
cáo bệnh không muốn tiếp?
Thừa nói:
- Vì mới bị đau cho nên không ra nghênh tiếp được, xin chịu tội
với sứ quân.
Đằng nói:
- Mặt phớn phở xuân sắc thế kia, bệnh ở đâu thế?
Thừa không biết trả lời thế nào. Đằng vung tay áo đứng dậy,
than thở bước xuống thềm nói rằng:
- Lũ này không phải là những kẻ cứu nước!
Thừa thấy nói thế, cố giữ lại hỏi rằng:
- Ông bảo ai không phải là người cứu nước?
Đằng nói:
- Việc đi săn ở Hứa Điền ta còn tức đầy ruột, ông là chí
thích của nhà nước, cứ mê mải về tửu sắc, chẳng lo gì đến việc giết giặc, sao
được gọi là người phù tai cứu nạn của nhà vua?
Thừa còn sợ Đằng đánh lừa, giả cách giật mình nói rằng:
- Tào thừa tướng là đại thần nhà nước, triều đình trông cậy
vào cả, sao ông dám nói thế?
Đằng hầm hầm mặt lại mắng rằng:
- Ngươi còn cho thằng giặc Tào là người tốt à!
Thừa xua tay nói:
- Ở đây tai vách mạch rừng, xin ông nói khẽ chứ!
Đằng lại mắng rằng:
- Đối với đồ ham sống sợ chết không thể cùng bàn việc lớn!
Nói xong đứng dậy toan về. Thừa biết Mã Đằng là người trung nghĩa,
mới nói rằng:
- Ông hãy nguôi cơn giận, xin xem cái này!
Liền mời Mã Đằng vào thư phòng, lấy tờ chiếu cho xem. Đằng đọc
xong, tóc lông dựng ngược cả lên, nghiến răng rít lưỡi, máu chảy đầy mồm, bảo
Thừa rằng:
- Hễ ông khởi sự, tôi xin đem cả quân Tây Lương đến làm ngoại
ứng.
Đoạn Mã Đằng trỏ vào năm người ngồi trên nói rằng:
- Giá ta được mười người cùng như thế này cả thì việc tất phải
xong.
Thừa nói:
- Người trung nghĩa không thể có nhiều, nếu cộng sự với những
người không ra gì thì lại làm hỏng việc.
Mã Đằng mượn sổ tên các quan trong triều xem một lượt, từng
tên một, để tính xem đồng mưu ước được bao nhiêu người. Xem đến chỗ tôn tộc họ
Lưu, Đằng vỗ tay lên hỏi rằng:
- Sao không bàn với người này?
Mọi người hỏi:
- Người nào vậy?
Mã Đằng thong thả nói tên người ấy ra.
Thế thực là:
Vốn là quốc cữu vâng lời chiếu
Lại gặp tôn thần giúp việc vua.
Chưa biết Mã Đằng nói ai, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Hồi 21:
Tào Tháo uống rượu luận anh hùng
Quan Công lừa mưu giết Xa Trụ
Đổng Thừa vội hỏi Mã Đằng:
- Ông muốn rủ ai?
Đằng nói:
- Hiện bây giờ có Dự Châu mục là Lưu Huyền Đức ở đây, sao
không tìm đến?
Thừa nói:
- Người ấy tuy là chú vua, nhưng cũng nương dựa vào Tào Tháo,
sao chịu làm việc này?
Đằng nói:
- Tôi xem trong cuộc đi săn hôm trước, khi Tào Tháo đứng trước
mặt vua nhận lời chúc mừng của các quan, Vân Trường đứng sau Huyền Đức, vác dao
toan giết Tháo, nhưng Huyền Đức đưa mắt, lại thôi. Huyền Đức không phải là
không muốn giết Tào Tháo vì sợ nanh vuốt của Tào Tháo nhiều, sức mình không làm
nổi đấy thôi. Ông thử đến xem, người ấy tất đồng tâm với ta.
Ngô Thạc nói:
- Việc ấy không nên hấp tấp, xin hãy để bàn bạc cho chín đã.
Năm người đều về nhà.
Đêm khuya hôm sau Đổng Thừa mang tờ chiếu đến nhà Huyền Đức.
Lính canh vào báo, Huyền Đức ra đón mời vào trong gác ngồi chơi, Quan, Trương đứng
hầu bên cạnh. Huyền Đức hỏi:
- Canh khuya, quốc cữu đến đây tất có việc gì gấp?
Huyền Đức lấy rượu khoản đãi. Thừa nói:
- Bữa nọ trong cuộc đi săn, Vân Trường muốn giết Tào Tháo, tướng
quân lại đưa mắt lắc đầu để ngăn đi, là ý làm sao?
Huyền Đức thất kinh nói:
- Sao ông biết?
Thừa nói:
- Người ta không ai trông thấy, chỉ có tôi biết mà thôi.
Huyền Đức không thể giấu được mới nói thực rằng:
- Em tôi thấy Tháo lấn quyền vua nên tức giận đó.
Thừa che mặt khóc nói rằng:
- Giả sử tôi con triều đình, ai cũng được như Vân Trường, thì
lo gì thiên hạ chẳng được thái bình?
Huyền Đức sợ là Tào Tháo sai đến dò la, bèn nói giả cách rằng:
- Tào thừa tướng sửa sang việc nước lo gì không thái bình?
- Ông là hoàng thúc nhà Hán, cho nên ta vạch gan moi ruột để
nói chuyện với ông, sao ông còn nói dối?
Huyền Đức nói:
- Tôi sợ quốc cữu không thực bụng, nên phải thử.
Đổng Thừa đưa ngay tờ chiếu ra cho Huyền Đức xem, Huyền Đức lấy
làm xót xa căm tức. Thừa lại dưa ra xem tờ nghĩa trạng, có sáu người ký tên là:
Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Chủng Tập, Ngô Thạc, Ngô Tử Lan và Mã Đằng.
Huyền Đức nói:
- Quốc cữu đã phụng chiếu đánh giặc, tôi dám đâu không cố sức
khuyển mã.
Thừa lại tạ mời ký tên, Huyền Đức ký “Tả tướng quân, Lưu Bị”,
rồi đưa lại Thừa nhận lấy.
Thừa nói:
- Nên mời thêm ba người nữa, họp đủ mười người trung nghĩa để
trừ quốc tặc.
Huyền Đức nói:
- Nên thong thả, chớ hấp tấp khinh thường để tiết lộ việc lớn.
Hai người cùng nhau luận bàn đến canh năm mới chia tay.
Huyền Đức bấy giờ sợ Tháo nghi mình mưu đồ gì, bèn làm một vườn
rau ở sau nhà ngày ngày vun xới tưới tắm, để làm cách che mắt Tháo khỏi ngờ.
Quan, Trương thấy vậy hỏi rằng:
- Anh không lưu tâm đến việc lớn thiên hạ, học làm chi cái việc
của kẻ tiểu nhân này?
Huyền Đức nói:
- Hai em biết đâu ý anh!
Hai người từ đó không dám nói gì nữa.
Một hôm Quan Vũ, Trương Phi cùng đi chơi vắng, Huyền Đức đang
lom khom tưới rau, bỗng thấy Hứa Chử và Trương Liêu dẫn vài chục người vào vườn,
nói rằng:
- Thừa tướng sai chúng tôi mời sứ quân đến ngay phủ.
Huyền Đức giật mình, hỏi:
- Việc gì khẩn cấp thế, hai ông?
Hứa Chử thưa:
- Hai chúng tôi thấy sai thì vâng lệnh đi mời, chứ không biết
việc chi.
Huyền Đức theo hai người vào phủ yết kiến Tháo, Tháo cười nói
rằng:
- Huyền Đức độ này ở nhà làm một việc lớn lao đấy nhỉ?
Huyền Đức sợ tái mặt. Tháo cầm tay Huyền Đức dắt vào vườn ở
sau nhà, nói rằng:
- Huyền Đức học làm việc vườn, chắc cũng không phải là việc dễ
dàng?
Huyền Đức bây giờ mới vững dạ, đáp rằng:
- Không có việc gì, làm để tiêu khiển đó thôi.
Tháo nói:
- Vừa rồi thấy trên cành mai đã có quả xanh, sực nhớ khi trước
đi đánh Trương Tú, đi đường không có nước, tướng sĩ khát cào cuống họng. Bấy giờ
ta nghĩ được một kế, cầm roi trỏ hão nói rằng: trước mặt có rừng mơ. Quân sĩ
nghe nói đến mơ, ai cũng ứa nước dãi, đỡ được khát nước. Nay có mơ thật, nên
hái xuống mà thưởng. Vả lại rượu nấu vừa chín, cho nên mời sứ quân đến tiểu
đình uống rượu.
Huyền Đức bây giờ trấn tĩnh lại được, theo đến tiểu đình, đã
thấy bày mâm bát, giữa bàn bày một đĩa mơ xanh, một bình rượu nóng.
Hai người ngồi đối diện, ăn uống vui vẻ. Lúc rượu ngà ngà
say, chợt thấy mây đen mù mịt, cơn mưa sắp kéo đến.
Quân hầu trỏ lên trời bẩm:
- Có vòi rồng lấy nước.
Tháo và Huyền Đức dựa vào bao lơn ngắm xem. Tháo nói:
- Sứ quân có biết rồng nó biến hoá thế nào không?
Huyền Đức nói:
- Tôi chưa được tường.
Tháo nói:
- Rồng lúc thì to, lúc thì nhỏ, lúc thì bay, lúc thì nấp. Lúc
to thì nổi mây phun mù; lúc nhỏ thì thu mình ẩn bóng; khi bay ra thì liệng
trong trời đất; khi ẩn thì lẩn núp ở dưới sóng. Nay đang mùa xuân, rồng gặp thời
biến hoá, cũng như là người ta lúc đắc chí, tung hoành trong bốn bể. Rồng ví
như anh hùng trong đời. Huyền Đức lâu nay đã đi khắp bốn phương, bao nhiêu anh
hùng đời nay, hẳn đã biết cả, xin thử nói cho nghe.
Huyền Đức thưa:
- Bị này người trần mắt thịt, biết đâu được anh hùng.
Tháo nói:
- Huyền Đức không nên nhún mình quá!
Huyền Đức nói:
- Bị nay được nhờ ơn thừa tướng làm quan trong triều, anh
hùng trong thiên hạ thực không được biết.
Tháo nói:
- Đã đành không biết mặt, nhưng cũng có nghe tiếng chứ?
Huyền Đức nói:
- Viên Thuật ở Hoài Nam, binh lương nhiều, có thể cho là anh
hùng được chăng?
Tháo cười nói:
- Xương khô trong mả, chỉ nay mai là ta bắt được!
Huyền Đức lại nói:
- Anh Viên Thuật là Viên Thiệu ở Hà Bắc, bốn đời làm tam
công, có nhiều đầy tớ cũ; hiện nay là con hổ dữ hùng cứ ở Ký Châu; bộ hạ nhiều
tay tài giỏi, có thể cho là anh hùng được chăng?
Tháo lại cười nói:
- Viên Thiệu ngoài mặt mạnh bạo, trong bụng nhút nhát, thích
mưu mẹo mà không quyết đoán, làm việc lớn lại lo đến bản thân, thấy lợi nhỏ thì
lại quên mình, không thể gọi là anh hùng được!
Huyền Đức lại nói:
- Có một người nổi tiếng trong tám tuấn kiệt, uy danh khiếp cả
chín châu, là Lưu Cảnh Thăng, có thể cho là anh hùng được chăng?
Tháo lại cười:
- Lưu Biểu có hư danh nhưng không có thực tài, không phải anh
hùng.
Huyền Đức lại nói:
- Có một người, sức lực đương khoẻ, đứng đầu xứ Giang Đông,
là Tôn Bá Phù, hẳn là anh hùng?
Tháo nói:
- Tôn Sách nhờ danh tiếng của bố, không phải anh hùng.
Huyền Đức lại nói:
- Lưu Quý Ngọc ở Ích Châu có phải là anh hùng không?
Tháo nói:
- Lưu Chương, tuy là tôn thất, nhưng chỉ là con chó giữ nhà,
sao gọi là anh hùng được?
Huyền Đức lại nói:
- Như bọn Trương Tú, Trương Lỗ và Hàn Toại thì thế nào?
Tháo vỗ tay cười to:
- Lũ tiểu nhân nhung nhúc ấy thì nói làm gì!
Huyền Đức nói:
- Ngoài những người ấy ra, Bị thực không còn biết ai nữa.
Tháo nói:
- Anh hùng là người trong bụng có chí lớn, có mưu cao, có cái
bao trùm được cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia.
Huyền Đức mới nói:
- Ai có thể xứng đáng được như thế?
Tào Tháo lấy tay trỏ vào Huyền Đức, rồi lại trỏ vào mình nói
rằng:
- Anh hùng thiên hạ bây giờ chỉ có sứ quân và Tào Tháo mà
thôi.
Huyền Đức nghe nói, giật nảy mình, cái thìa đôi đũa đương cầm
ở trong tay, rơi cả xuống đất. Giữa lúc bấy giờ, con mưa u ám, có một tiếng sét
thực dữ. Lưu Bị từ từ cúi xuống nhặt đũa và thìa, nói tảng rằng:
- Gớm ghê! Tiếng sét dữ quá!
Tào Tháo cười hỏi rằng:
- Trượng phu cũng sợ sấm à!
Huyền Đức nói:
- Đức thánh ngày xưa gặp lúc sấm dữ gió to cũng đổi sắc mặt,
huống chi là tôi đây sao lại không sợ?
Huyền Đức đã che đậy được hết cả việc giật mình đánh rơi cả
thìa đũa khi nghe Tháo gọi mình là anh hùng.
Tháo thấy thế không ngờ gì Huyền Đức nữa.
Đời sau có thơ rằng:
Gượng vào hang ổ, tạm nương mình
Nói rõ anh hùng sợ thất kinh
Mượn tiếng sấm vang ra vẻ sợ
Tuỳ cơ ứng biến thật tài tình!
Giời vừa mưa xong, có hai người tay cầm bảo kiếm, xông vào tận
vườn sau, đến thẳng tận trước đình, lính canh ngăn lại không được. Tháo trông
ra thì là Quan Vũ và Trương Phi.
Nguyên là hai người ra ngoài thành săn bắn vừa về, nghe thấy
Huyền Đức bị Trương Liêu, Hứa Chử mời đi, vội vàng chạy ngay đến tướng phủ dò
xem việc gì. Thấy nói ở sau vườn sợ có xảy ra điều gì, nên hai người xông thẳng
vào. Vào đến nơi thấy Huyền Đức đang ngồi uống rượu với Tào Tháo, hai người bèn
cầm gươm đứng hầu.
Tháo hỏi:
- Hai người đi đâu?
Vân Trường thưa:
- Chúng tôi nghe thừa tướng cùng anh tôi uống rượu, nên chúng
tôi lại đây múa gươm để mua vui!
Tháo cười, nói rằng:
- Đây có phải là “hội Hồng Môn” đâu mà phải dùng đến Hạng
Trang, Hạng Bá.
Huyền Đức cũng cười.
Tháo sai lấy rượu “để hai Phàn Khoái uống cho tan cơn sợ”.
Quan, Trương lạy tạ. Một lát tiệc tan, Huyền Đức cáo từ ra về.
Vân Trường nói:
- Anh làm chúng tôi sợ chết đi được!
Huyền Đức thuật lại chuyện đánh rơi đũa. Quan, Trương hỏi:
- Thế là ý làm sao?
Huyền Đức nói:
- Độ này ta chịu khó làm vườn cuốc đất, cốt là để cho Tào
Tháo không nghi ta có chí lớn. Ai ngờ nó lại trỏ ngay vào ta mà bảo ta là anh
hùng đời nay. Ta nghe nói rụng rời, đánh rơi cả đũa, lại sợ Tào Tháo ngờ, cho
nên mượn cớ là sợ sét để che giấu đi.
Quan, Trương khen rằng:
- Anh thực là cao kiến!
Hôm sau Tào Tháo lại mời Lưu Bị đến uống rượu. Trong khi
đương tiệc có người vào báo rằng:
- Mãn Sủng đi dò tin tức của Viên Thuật đã về.
Tháo gọi vào hỏi, Sủng trình rằng:
- Công Tôn Toản đã bị Viên Thuật phá vỡ.
Huyền Đức vội vàng hỏi rằng:
- Xin cho biết đầu đuôi làm sao?
- Tôn Toản đánh nhau với Thiệu không được, mới đắp thành
chung quanh một vùng, trong dựng một cái lầu cao mười trượng, gọi là “dịch
kinh”, chứa ba mươi vạn hộc lúa để ăn giữ thành. Đôi khi, quan trong thành ra
vào bị quân Thiệu rình bắt, quân trong xin ra cứu, Toản không cho ra, bảo rằng:
“Nếu cứu một lần, lần sau có ai đánh nhau chỉ mong người đến cứu thì không cố
chết mà đánh nữa”. Bởi thế lúc quân Thiệu đánh vào, quân Toản nhiều người ra
hàng. Lúc Toản thế cô lắm có sai người đem thư đến Hứa Đô cầu cứu, không ngờ đi
nửa đường lại bị quân Thiệu bắt được. Toản lại đưa thư cho Trương Yên, hẹn nhau
đốt lửa làm hiệu, trong đánh ra ngoài đánh vào. Người đưa thư lại bị Viên Thiệu
bắt nốt. Thiệu được thư ấy cứ như lời Toản hẹn với Yên, đốt lửa làm hiệu, Toản ở
trong ngờ là hiệu lửa của Trương Yên, mới tự ra đánh, không ngờ ra đến ngoài, bốn
mặt quân phục nổi dậy. Quân mã của Toản mất quá nửa, còn non một nửa lui về để
giữ thành, lại bị Viên Thiệu đào ngầm dưới đất, đem quân vào tận dưới lầu Toản ở,
phóng hoả đốt lầu, Toản không có đường chạy, trước giết vợ con, rồi tự thắt cổ
chết, cả nhà cùng bị lửa cháy. Nay Viên Thiệu được cả quân của Toản, thanh thế
to lắm. Em Thiệu là Viên Thuật ở Hoài Nam, kiêu ngạo, xa xỉ quá độ, không
thương gì đến quân dân, cho nên họ đều nổi loạn, Thuật nhường đế hiệu cho Viên
Thiệu. Thiệu muốn lấy ngọc tỷ. Thuật hẹn xin tự đem đến. Hiện giờ Thuật muốn bỏ
Hoài Nam về Hà Bắc. Nếu để hai người hợp sức với nhau, thì rất khó đánh được,
xin thừa tướng liệu trừ trước đi.
Huyền Đức nghe tin Công Tôn Toản đã chết, nghĩ đến ơn tiến
mình ngày xưa, rất là thương xót, lại không biết Triệu Tử Long ở đâu, không
đành dạ chút nào, nhân nghĩ vụng rằng: “Ta không nhân dịp này tìm kế thoát
thân, còn đợi đến bao giờ?” liền đứng lên thưa với Tào Tháo rằng:
- Nếu Thuật sang với Thiệu, tất phải đi qua Từ Châu, tôi xin
lĩnh một cánh quân đón đường đánh, chắc bắt được.
Tháo cười nói:
- Để ngày mai tâu vua, rồi sẽ khởi binh.
Hôm sau Huyền Đức vào tâu vua. Tào Tháo lại sai Huyền Đức đốc
suất năm vạn quân mã, lại sai Chu Linh, Lộ Chiêu cùng đi. Lúc Huyền Đức vào từ
biệt vua, vua khóc tiễn đi.
Huyền Đức về nhà trọ, suốt đêm thu xếp khí giới và ngựa chiến,
đeo ấn tướng quân, đốc thúc để cho chóng. Đổng Thừa ra ngoài mười dặm tràng
đình để tiễn. Huyền Đức nói:
- Xin quốc cữu hãy yên tâm. Chuyến này tôi đi tất có thể đáp
lại ý muốn của ngài.
Thừa nói:
- Ông nên lưu tâm, chớ phụ lòng vua.
Hai người từ giã nhau.
Quan, Trương hai người ngồi trên ngựa bấy giờ mới hỏi anh rằng:
- Sao phen này anh đi vội vàng vậy?
Lưu Bị nói:
- Ta ở Hứa Đô như chim lồng cá chậu, chuyến này được đi như
cá vào bể lớn, chim lên mây xanh, không bị giam hãm trong lồng trong chậu nữa.
Nói xong, hai người thúc quân mã Chu Linh, Lộ Chiêu đi mau.
Bấy giờ ở Hứa Đô, Quách Gia và Trình Dục đi kiểm tra tiền
lương vừa về, nghe thấy Tào Tháo sai Lưu Bị đem quân sang Từ Châu, vội vàng vào
bẩm rằng:
- Sao thừa tướng lại sai Lưu Bị đi đốc binh?
Tháo nói:
- Cho ra để chẹn đường Viên Thuật.
Dục nói:
- Lúc Lưu Bị còn giữ chức mục ở Dự Châu, chúng tôi xin thừa
tướng giết đi, thừa tướng không nghe, nay lại cho đi cầm quân, thế là thả rồng
xuống bể, đuổi hổ về rừng, sau này muốn trừ đi còn làm sao được nữa?
Quách Gia nói:
- Nếu thừa tướng không giết Lưu Bị cũng chớ nên sai đi ra
ngoài. Cổ nhân có nói rằng: “Một ngày thả giặc, để lo muôn đời”. Xin thừa tướng
xét lại.
Tháo nghe ra, liền sai Hứa Chử đem năm trăm quân đuổi theo gọi
Lưu Bị về.
Hứa Chử vâng lệnh đi liền.
Huyền Đức đang đi, ở mặt sau bỗng thấy bụi mù, liền bảo với
Quan, Trương rằng:
- Đây chắc quân Tào Tháo đuổi theo.
Nói rồi lập trại, đóng quân lại, sai Quan, Trương cầm binh
khí đứng hai bên. Hứa Chử đến, thấy binh uy nghiêm chỉnh tề, bèn xuống ngựa vào
trại, ra mắt Huyền Đức. Huyền Đức hỏi:
- Ông đến có việc gì?
Chử nói:
- Phụng mệnh thừa tướng, mời tướng quân trở lại bàn bạc việc
khác.
Huyền Đức nói:
- Tướng đã ở ngoài, mệnh lệnh của vua cũng có điều không phải
vâng theo, huống chi tôi đã chầu vua, lại được vâng lời thừa tướng mà đi. Nay
không còn việc gì phải bàn nữa, xin ông trở về ngay bẩm lại với thừa tướng cho
tôi.
Hứa Chử nghĩ rằng:
- Thừa tướng vốn đối đãi tử tế với Huyền Đức, nay không thấy
dặn phải đánh nhau, vậy hãy đem lời Lưu Bị về bẩm lại, tuỳ ý ngài định đoạt.
Chử liền từ giã Huyền Đức về, vào hầu Tào Tháo thuật lại lời
của Huyền Đức. Tháo ngần ngại chưa quyết, Trình Dục, Quách Gia nói rằng:
- Lưu Bị không chịu đem quân trở lại, tất là thay lòng đổi dạ
rồi.
Tháo nói:
- Ta đã sai Chu Linh, Lộ Chiêu đi kèm Lưu Bị, vị tất hắn đã
dám sinh biến. Vả ta đã sai, không nên hối lại.
Bèn không đuổi theo Huyền Đức nữa.
Người sau có thơ rằng:
Gióng ngựa giục quân, lòng vội vã,
Nỗi lo canh cánh chiếu trong đai,
Hổ tung cũi sắt về rừng rậm,
Rồng phá then vàng, ra bể khơi…
Mã Đằng bấy giờ ở Hứa Đô, thấy Huyền Đức đã đi, ở châu mình lại
có quân đến báo nhiều việc kíp, cho nên cũng về Lương Châu.
Huyền Đức đem quân tới Từ Châu, thứ sử là Xa Trụ ra đón, yến
tiệc xong, lũ Tôn Càn, My Chúc đều lại yết kiến. Huyền Đức về nhà thăm vợ con,
một mặt sai người dò xem tin tức Viên Thuật.
Thám tử về báo:
- Viên Thuật xa xỉ quá độ. Tướng Thuật là Lôi Bạc, Trần Lan
cũng bỏ Thuật về núi Tung Sơn, thế Thuật đã suy, Thuật phải đưa thư nhường đế
hiệu cho Viên Thiệu và đương thu binh nhặt mã và các đồ cung cấm ngự dụng, sắp
qua Từ Châu.
Lưu Bị nghe Viên Thuật sắp đến, dẫn Quan, Trương và Chu Linh,
Lộ Chiêu đem năm vạn quân ra đón đánh, thì gặp tiên phong của Thuật là Kỷ Linh
đến.
Trương Phi ra đánh nhau với Kỷ Linh mới được mươi hợp, liền
thét lớn một tiếng, đâm chết Kỷ Linh ngã xuống chân ngựa. Quân lính thua chạy
trốn cả. Thuật tự dẫn binh đến đánh, Huyền Đức chia quân làm ba đường. Chu
Linh, Lộ Chiêu ở tả; Quan, Trương ở hữu, tự mình đứng trung quân, ra ngoài cửa
cờ mắng Thuật rằng:
- Thằng phản nghịch vô đạo kia! Ta nay phụng chiếu ra đánh,
mày nên tự trói tay mà hàng, ta sẽ tha cho khỏi chết.
Viên Thuật mắng lại rằng:
- Thằng dệt chiếu đóng dép kia! Sao mày dám khinh ta?
Nói xong đốc binh vào đánh. Huyền Đức tạm lui, cho quân tả hữu
hai bên ra đánh, quân Thuật thây nằm khắp đồng, máu chảy thành vũng, sĩ tốt trốn
đi không biết bao nhiêu, lại bị Lôi Bạc, Trần Lan ở Tung Sơn ra cướp mất tiền
nong lương thảo. Thuật muốn về Thọ Xuân, lại bị trộm cướp đến đánh tập hậu, phải
đóng lại ở Giang Đình. Bấy giờ Thuật chỉ còn hơn một nghìn quân, toàn những người
già yếu. Trời đang nóng nực, lương thực hết, chỉ còn ba mươi hộc lúa, phát cho
quân sĩ, người nhà phải nhịn, chết đói nhiều. Thuật ăn cơm gạo xấu, không nuốt
được, sai nhà bếp lấy mật ăn cho khỏi khát. Nhà bếp nói:
- Mật không có, chỉ có nước máu!
Thuật đương ngồi trên giường, kêu to một tiếng, đâm nhào xuống
đất, thổ ra đến một chậu máu, rồi chết.
Bấy giờ là tháng sáu, năm thứ bốn, niên hiệu Kiến An (199).
Người sau có thơ rằng:
Cuối Hán, binh đao nổi bốn phương,
Khéo đâu Viên Thuật cũng ngông cuồng!
Mấy đời không nghĩ nền công tướng
Chút phận hòng toan vị đế vương
Tỷ ngọc vào tay thêm ngạo ngược,
Điềm trời trước mắt, uổng khoe khoang.
Khát tìm mật uống tìm đâu thấy?
Thổ huyết nằm queo chẳng kẻ thương!
Viên Thuật chết rồi, cháu là Viên Dận đem hài cốt cùng vợ con
Thuật chạy về Lư Giang, bị tên Từ Cầu giết sạch, cướp lấy ngọc tỷ đem đến Hứa
Đô dâng lên Tào Tháo. Tháo mừng lắm phong cho Từ Cầu làm thái thú ở Cao Lăng. Từ
bấy giờ ngọc tỷ lại vào tay Tào Tháo.
Huyền Đức thấy Viên Thuật đã chết, dâng biểu cho triều đình,
và đưa thư trình Tào Tháo biết, sai Chu Linh, Lộ Chiêu về Hứa Đô, còn bao nhiêu
binh mà đều lưu lại để giữ Từ Châu, một mặt chiêu dụ những nhân dân lưu tán trở
về an cư lạc nghiệp.
Chu Linh, Lộ Chiêu về Hứa Đô vào hầu Tào Tháo thuật lại việc
Huyền Đức giữ binh mã. Tháo giận lắm muốn chém ngay hai người. Tuân Úc can rằng:
- Quyền ở Lưu Bị, hai người làm thế nào được.
Tháo mới tha tội cho hai người.
Úc lại bàn rằng:
- Thừa tướng nên viết thư cho Xa Trụ, sai ở đó tìm cách trừ
Lưu Bị.
Tháo nghe kế ấy, mật sai người đến bảo Xa Trụ. Trụ mời Trần
Đăng đến bàn.
Đăng nói:
- Việc ấy thực dễ, nay Lưu Bị ra ngoài thành chiêu dụ nhân
dân, không mấy ngày nữa sẽ về. Tướng quân nên phục quân dưới cửa cuốn ở ngoài
thành, giả cách ra đón, đợi khi Lưu Bị cưỡi ngựa đến, chém cho một nhát, tôi
thì ở trên thành bắn xuống để chặn hậu quân của Lưu Bị, thế là xong việc.
Trụ nghe theo kế ấy.
Trần Đăng về nói lại với bố là Trần Khê. Trần Khê sai Đăng ra
báo trước cho Huyền Đức biết. Đăng vừa ra khỏi thành gặp Quan Vũ, Trương Phi
bèn nói chuyện cho hai người hay.
Nguyên là Quan, Trương về trước, Huyền Đức về sau. Trương Phi
nghe nói, muốn chạy vào đánh ngay. Vân Trường ngăn lại nói rằng:
- Nó phục binh dưới cửa cuốn bên thành, nếu vào thì mắc mẹo
nó. Ta có một kế giết được Xa Trụ; nhân ban đêm, ta giả làm quân Tào đến Từ
Châu, Xa Trụ tất ra đón, ra đến nơi thì ta giết đi.
Quân bộ hạ của Quan, Trương sẵn có cờ hiệu của Tào, y giáp
cũng giống nhau, đang nửa đêm, đến ngay cửa thành gọi mở. Trên thành hỏi ai.
Chúng thưa:
- Quân mã Trương Văn Viễn. Tào thừa tướng sai đến.
Quân giữ thành vào báo với Trụ. Trụ mời Trần Đăng lại bàn rằng:
- Không ra đón thì sợ có chuyện nghi kị, ra đón lại sợ có
chuyện lừa dối.
Trụ lên thành nói rằng:
- Đêm khuya khó phân biệt được thực hư, xin để sáng mai hãy mở
cửa.
Ở dưới thành đáp rằng:
- Chỉ sợ Lưu Bị biết. Xin mở cửa mau.
Xa Trụ ngần ngừ chưa quyết, dưới thành thì cứ giục mở cửa
mãi. Trụ đành phải mặc áo giáp lên ngựa, dẫn một nghìn quân mã ra ngoài thành.
Đi khỏi cầu, Trụ gọi to rằng:
- Văn Viễn ở đâu?
Trong bóng lửa thấy ngay Vân Trường cầm đao tế ngựa lại, xông
thẳng vào Xa Trụ thét rằng:
- Thằng kia! Sao dám lừa dối muốn hại anh tao?
Trụ giật mình, đánh chưa được vài hiệp, chống đỡ không nổi,
quay ngựa chạy về. Chạy đến đầu cầu, Trần Đăng ở trên thành bắn tên xuống như
mưa. Vân Trường sấn lại, phất long đao một nhát chém Trụ ngã lăn xuống đất rồi
chặt lấy đầu, quay mặt vào thành giơ đầu Trụ lên hô rằng:
- Phản tặc là Xa Trụ ta đã giết rồi. Quân sĩ không có tội,
hàng thì tha cả.
Quân sĩ đều cầm ngược khí giới, xin hàng. Từ ấy quân dân đều
được yên ổn cả.
Vân Trường mang đầu Xa Trụ lại đón Huyền Đức nói rằng:
- Xa Trụ muốn mưu hại anh, nay đã giết được rồi.
Huyền Đức thất kinh nói rằng:
- Tháo nó lại, thì làm thế nào?
Vân Trường nói:
- Hễ nó lại, thì hai em xin đánh chứ sao!
Huyền Đức ân hận mãi, rồi vào Từ Châu. Các cụ già và trăm họ
đón rước đầy đường. Lưu Bị đến phủ, tìm Trương Phi, thì Trương Phi đã bắt cả
nhà Xa Trụ đem giết rồi. Huyền Đức giận nói:
- Giết mất người tâm phúc của Tháo, sao nó chịu thôi?
Trần Đăng nói:
- Tôi có một kế, có thể lui được Tào Tháo.
Thế thực là:
Cô thân đã thoát ra hang hổ
Diệu kế còn toan rập khói lang [1]
Chưa biết Trần Đăng bàn kế gì, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Chú thích:
1. Khói lang: Phân lang sói phơi khô, đốt
lên, khói đặc khó tan, thời cổ dùng để làm lửa hiệu trong chinh chiến. Sau dùng
khói lang để chỉ loạn binh.
Hồi 21:
Tào Tháo uống rượu luận anh hùng
Quan Công lừa mưu giết Xa Trụ
Đổng Thừa vội hỏi Mã Đằng:
- Ông muốn rủ ai?
Đằng nói:
- Hiện bây giờ có Dự Châu mục là Lưu Huyền Đức ở đây, sao
không tìm đến?
Thừa nói:
- Người ấy tuy là chú vua, nhưng cũng nương dựa vào Tào Tháo,
sao chịu làm việc này?
Đằng nói:
- Tôi xem trong cuộc đi săn hôm trước, khi Tào Tháo đứng trước
mặt vua nhận lời chúc mừng của các quan, Vân Trường đứng sau Huyền Đức, vác dao
toan giết Tháo, nhưng Huyền Đức đưa mắt, lại thôi. Huyền Đức không phải là
không muốn giết Tào Tháo vì sợ nanh vuốt của Tào Tháo nhiều, sức mình không làm
nổi đấy thôi. Ông thử đến xem, người ấy tất đồng tâm với ta.
Ngô Thạc nói:
- Việc ấy không nên hấp tấp, xin hãy để bàn bạc cho chín đã.
Năm người đều về nhà.
Đêm khuya hôm sau Đổng Thừa mang tờ chiếu đến nhà Huyền Đức.
Lính canh vào báo, Huyền Đức ra đón mời vào trong gác ngồi chơi, Quan, Trương đứng
hầu bên cạnh. Huyền Đức hỏi:
- Canh khuya, quốc cữu đến đây tất có việc gì gấp?
Huyền Đức lấy rượu khoản đãi. Thừa nói:
- Bữa nọ trong cuộc đi săn, Vân Trường muốn giết Tào Tháo, tướng
quân lại đưa mắt lắc đầu để ngăn đi, là ý làm sao?
Huyền Đức thất kinh nói:
- Sao ông biết?
Thừa nói:
- Người ta không ai trông thấy, chỉ có tôi biết mà thôi.
Huyền Đức không thể giấu được mới nói thực rằng:
- Em tôi thấy Tháo lấn quyền vua nên tức giận đó.
Thừa che mặt khóc nói rằng:
- Giả sử tôi con triều đình, ai cũng được như Vân Trường, thì
lo gì thiên hạ chẳng được thái bình?
Huyền Đức sợ là Tào Tháo sai đến dò la, bèn nói giả cách rằng:
- Tào thừa tướng sửa sang việc nước lo gì không thái bình?
Thừa tái mặt đứng dậy nói rằng:
- Ông là hoàng thúc nhà Hán, cho nên ta vạch gan moi ruột để
nói chuyện với ông, sao ông còn nói dối?
Huyền Đức nói:
- Tôi sợ quốc cữu không thực bụng, nên phải thử.
Đổng Thừa đưa ngay tờ chiếu ra cho Huyền Đức xem, Huyền Đức lấy
làm xót xa căm tức. Thừa lại dưa ra xem tờ nghĩa trạng, có sáu người ký tên là:
Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Chủng Tập, Ngô Thạc, Ngô Tử Lan và Mã Đằng.
Huyền Đức nói:
- Quốc cữu đã phụng chiếu đánh giặc, tôi dám đâu không cố sức
khuyển mã.
Thừa lại tạ mời ký tên, Huyền Đức ký “Tả tướng quân, Lưu Bị”,
rồi đưa lại Thừa nhận lấy.
Thừa nói:
- Nên mời thêm ba người nữa, họp đủ mười người trung nghĩa để
trừ quốc tặc.
Huyền Đức nói:
- Nên thong thả, chớ hấp tấp khinh thường để tiết lộ việc lớn.
Hai người cùng nhau luận bàn đến canh năm mới chia tay.
Huyền Đức bấy giờ sợ Tháo nghi mình mưu đồ gì, bèn làm một vườn
rau ở sau nhà ngày ngày vun xới tưới tắm, để làm cách che mắt Tháo khỏi ngờ.
Quan, Trương thấy vậy hỏi rằng:
- Anh không lưu tâm đến việc lớn thiên hạ, học làm chi cái việc
của kẻ tiểu nhân này?
Huyền Đức nói:
- Hai em biết đâu ý anh!
Hai người từ đó không dám nói gì nữa.
Một hôm Quan Vũ, Trương Phi cùng đi chơi vắng, Huyền Đức đang
lom khom tưới rau, bỗng thấy Hứa Chử và Trương Liêu dẫn vài chục người vào vườn,
nói rằng:
- Thừa tướng sai chúng tôi mời sứ quân đến ngay phủ.
Huyền Đức giật mình, hỏi:
- Việc gì khẩn cấp thế, hai ông?
Hứa Chử thưa:
- Hai chúng tôi thấy sai thì vâng lệnh đi mời, chứ không biết
việc chi.
Huyền Đức theo hai người vào phủ yết kiến Tháo, Tháo cười nói
rằng:
- Huyền Đức độ này ở nhà làm một việc lớn lao đấy nhỉ?
Huyền Đức sợ tái mặt. Tháo cầm tay Huyền Đức dắt vào vườn ở
sau nhà, nói rằng:
- Huyền Đức học làm việc vườn, chắc cũng không phải là việc dễ
dàng?
Huyền Đức bây giờ mới vững dạ, đáp rằng:
- Không có việc gì, làm để tiêu khiển đó thôi.
Tháo nói:
- Vừa rồi thấy trên cành mai đã có quả xanh, sực nhớ khi trước
đi đánh Trương Tú, đi đường không có nước, tướng sĩ khát cào cuống họng. Bấy giờ
ta nghĩ được một kế, cầm roi trỏ hão nói rằng: trước mặt có rừng mơ. Quân sĩ
nghe nói đến mơ, ai cũng ứa nước dãi, đỡ được khát nước. Nay có mơ thật, nên
hái xuống mà thưởng. Vả lại rượu nấu vừa chín, cho nên mời sứ quân đến tiểu
đình uống rượu.
Huyền Đức bây giờ trấn tĩnh lại được, theo đến tiểu đình, đã
thấy bày mâm bát, giữa bàn bày một đĩa mơ xanh, một bình rượu nóng.
Hai người ngồi đối diện, ăn uống vui vẻ. Lúc rượu ngà ngà
say, chợt thấy mây đen mù mịt, cơn mưa sắp kéo đến.
Quân hầu trỏ lên trời bẩm:
- Có vòi rồng lấy nước.
Tháo và Huyền Đức dựa vào bao lơn ngắm xem. Tháo nói:
- Sứ quân có biết rồng nó biến hoá thế nào không?
Huyền Đức nói:
- Tôi chưa được tường.
Tháo nói:
- Rồng lúc thì to, lúc thì nhỏ, lúc thì bay, lúc thì nấp. Lúc
to thì nổi mây phun mù; lúc nhỏ thì thu mình ẩn bóng; khi bay ra thì liệng
trong trời đất; khi ẩn thì lẩn núp ở dưới sóng. Nay đang mùa xuân, rồng gặp thời
biến hoá, cũng như là người ta lúc đắc chí, tung hoành trong bốn bể. Rồng ví
như anh hùng trong đời. Huyền Đức lâu nay đã đi khắp bốn phương, bao nhiêu anh
hùng đời nay, hẳn đã biết cả, xin thử nói cho nghe.
Huyền Đức thưa:
- Bị này người trần mắt thịt, biết đâu được anh hùng.
Tháo nói:
- Huyền Đức không nên nhún mình quá!
Huyền Đức nói:
- Bị nay được nhờ ơn thừa tướng làm quan trong triều, anh
hùng trong thiên hạ thực không được biết.
Tháo nói:
- Đã đành không biết mặt, nhưng cũng có nghe tiếng chứ?
Huyền Đức nói:
- Viên Thuật ở Hoài Nam, binh lương nhiều, có thể cho là anh
hùng được chăng?
Tháo cười nói:
- Xương khô trong mả, chỉ nay mai là ta bắt được!
Huyền Đức lại nói:
- Anh Viên Thuật là Viên Thiệu ở Hà Bắc, bốn đời làm tam
công, có nhiều đầy tớ cũ; hiện nay là con hổ dữ hùng cứ ở Ký Châu; bộ hạ nhiều
tay tài giỏi, có thể cho là anh hùng được chăng?
Tháo lại cười nói:
- Viên Thiệu ngoài mặt mạnh bạo, trong bụng nhút nhát, thích
mưu mẹo mà không quyết đoán, làm việc lớn lại lo đến bản thân, thấy lợi nhỏ thì
lại quên mình, không thể gọi là anh hùng được!
Huyền Đức lại nói:
- Có một người nổi tiếng trong tám tuấn kiệt, uy danh khiếp cả
chín châu, là Lưu Cảnh Thăng, có thể cho là anh hùng được chăng?
- Lưu Biểu có hư danh nhưng không có thực tài, không phải anh
hùng.
Huyền Đức lại nói:
- Có một người, sức lực đương khoẻ, đứng đầu xứ Giang Đông,
là Tôn Bá Phù, hẳn là anh hùng?
Tháo nói:
- Tôn Sách nhờ danh tiếng của bố, không phải anh hùng.
Huyền Đức lại nói:
- Lưu Quý Ngọc ở Ích Châu có phải là anh hùng không?
Tháo nói:
- Lưu Chương, tuy là tôn thất, nhưng chỉ là con chó giữ nhà,
sao gọi là anh hùng được?
Huyền Đức lại nói:
- Như bọn Trương Tú, Trương Lỗ và Hàn Toại thì thế nào?
Tháo vỗ tay cười to:
- Lũ tiểu nhân nhung nhúc ấy thì nói làm gì!
Huyền Đức nói:
- Ngoài những người ấy ra, Bị thực không còn biết ai nữa.
Tháo nói:
- Anh hùng là người trong bụng có chí lớn, có mưu cao, có cái
bao trùm được cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia.
Huyền Đức mới nói:
- Ai có thể xứng đáng được như thế?
Tào Tháo lấy tay trỏ vào Huyền Đức, rồi lại trỏ vào mình nói
rằng:
- Anh hùng thiên hạ bây giờ chỉ có sứ quân và Tào Tháo mà
thôi.
Huyền Đức nghe nói, giật nảy mình, cái thìa đôi đũa đương cầm
ở trong tay, rơi cả xuống đất. Giữa lúc bấy giờ, con mưa u ám, có một tiếng sét
thực dữ. Lưu Bị từ từ cúi xuống nhặt đũa và thìa, nói tảng rằng:
- Gớm ghê! Tiếng sét dữ quá!
Tào Tháo cười hỏi rằng:
- Trượng phu cũng sợ sấm à!
Huyền Đức nói:
- Đức thánh ngày xưa gặp lúc sấm dữ gió to cũng đổi sắc mặt,
huống chi là tôi đây sao lại không sợ?
Huyền Đức đã che đậy được hết cả việc giật mình đánh rơi cả
thìa đũa khi nghe Tháo gọi mình là anh hùng.
Tháo thấy thế không ngờ gì Huyền Đức nữa.
Đời sau có thơ rằng:
Gượng vào hang ổ, tạm nương mình
Nói rõ anh hùng sợ thất kinh
Mượn tiếng sấm vang ra vẻ sợ
Tuỳ cơ ứng biến thật tài tình!
Giời vừa mưa xong, có hai người tay cầm bảo kiếm, xông vào tận
vườn sau, đến thẳng tận trước đình, lính canh ngăn lại không được. Tháo trông
ra thì là Quan Vũ và Trương Phi.
Nguyên là hai người ra ngoài thành săn bắn vừa về, nghe thấy
Huyền Đức bị Trương Liêu, Hứa Chử mời đi, vội vàng chạy ngay đến tướng phủ dò
xem việc gì. Thấy nói ở sau vườn sợ có xảy ra điều gì, nên hai người xông thẳng
vào. Vào đến nơi thấy Huyền Đức đang ngồi uống rượu với Tào Tháo, hai người bèn
cầm gươm đứng hầu.
Tháo hỏi:
- Hai người đi đâu?
Vân Trường thưa:
- Chúng tôi nghe thừa tướng cùng anh tôi uống rượu, nên chúng
tôi lại đây múa gươm để mua vui!
Tháo cười, nói rằng:
- Đây có phải là “hội Hồng Môn” đâu mà phải dùng đến Hạng
Trang, Hạng Bá.
Huyền Đức cũng cười.
Tháo sai lấy rượu “để hai Phàn Khoái uống cho tan cơn sợ”.
Quan, Trương lạy tạ. Một lát tiệc tan, Huyền Đức cáo từ ra về.
Vân Trường nói:
- Anh làm chúng tôi sợ chết đi được!
Huyền Đức thuật lại chuyện đánh rơi đũa. Quan, Trương hỏi:
- Thế là ý làm sao?
Huyền Đức nói:
- Độ này ta chịu khó làm vườn cuốc đất, cốt là để cho Tào
Tháo không nghi ta có chí lớn. Ai ngờ nó lại trỏ ngay vào ta mà bảo ta là anh
hùng đời nay. Ta nghe nói rụng rời, đánh rơi cả đũa, lại sợ Tào Tháo ngờ, cho
nên mượn cớ là sợ sét để che giấu đi.
Quan, Trương khen rằng:
- Anh thực là cao kiến!
Hôm sau Tào Tháo lại mời Lưu Bị đến uống rượu. Trong khi
đương tiệc có người vào báo rằng:
- Mãn Sủng đi dò tin tức của Viên Thuật đã về.
Tháo gọi vào hỏi, Sủng trình rằng:
- Công Tôn Toản đã bị Viên Thuật phá vỡ.
Huyền Đức vội vàng hỏi rằng:
- Xin cho biết đầu đuôi làm sao?
Sủng nói:
- Tôn Toản đánh nhau với Thiệu không được, mới đắp thành
chung quanh một vùng, trong dựng một cái lầu cao mười trượng, gọi là “dịch
kinh”, chứa ba mươi vạn hộc lúa để ăn giữ thành. Đôi khi, quan trong thành ra
vào bị quân Thiệu rình bắt, quân trong xin ra cứu, Toản không cho ra, bảo rằng:
“Nếu cứu một lần, lần sau có ai đánh nhau chỉ mong người đến cứu thì không cố
chết mà đánh nữa”. Bởi thế lúc quân Thiệu đánh vào, quân Toản nhiều người ra
hàng. Lúc Toản thế cô lắm có sai người đem thư đến Hứa Đô cầu cứu, không ngờ đi
nửa đường lại bị quân Thiệu bắt được. Toản lại đưa thư cho Trương Yên, hẹn nhau
đốt lửa làm hiệu, trong đánh ra ngoài đánh vào. Người đưa thư lại bị Viên Thiệu
bắt nốt. Thiệu được thư ấy cứ như lời Toản hẹn với Yên, đốt lửa làm hiệu, Toản ở
trong ngờ là hiệu lửa của Trương Yên, mới tự ra đánh, không ngờ ra đến ngoài, bốn
mặt quân phục nổi dậy. Quân mã của Toản mất quá nửa, còn non một nửa lui về để
giữ thành, lại bị Viên Thiệu đào ngầm dưới đất, đem quân vào tận dưới lầu Toản ở,
phóng hoả đốt lầu, Toản không có đường chạy, trước giết vợ con, rồi tự thắt cổ
chết, cả nhà cùng bị lửa cháy. Nay Viên Thiệu được cả quân của Toản, thanh thế
to lắm. Em Thiệu là Viên Thuật ở Hoài Nam, kiêu ngạo, xa xỉ quá độ, không
thương gì đến quân dân, cho nên họ đều nổi loạn, Thuật nhường đế hiệu cho Viên
Thiệu. Thiệu muốn lấy ngọc tỷ. Thuật hẹn xin tự đem đến. Hiện giờ Thuật muốn bỏ
Hoài Nam về Hà Bắc. Nếu để hai người hợp sức với nhau, thì rất khó đánh được,
xin thừa tướng liệu trừ trước đi.
Huyền Đức nghe tin Công Tôn Toản đã chết, nghĩ đến ơn tiến
mình ngày xưa, rất là thương xót, lại không biết Triệu Tử Long ở đâu, không
đành dạ chút nào, nhân nghĩ vụng rằng: “Ta không nhân dịp này tìm kế thoát
thân, còn đợi đến bao giờ?” liền đứng lên thưa với Tào Tháo rằng:
- Nếu Thuật sang với Thiệu, tất phải đi qua Từ Châu, tôi xin
lĩnh một cánh quân đón đường đánh, chắc bắt được.
Tháo cười nói:
- Để ngày mai tâu vua, rồi sẽ khởi binh.
Hôm sau Huyền Đức vào tâu vua. Tào Tháo lại sai Huyền Đức đốc
suất năm vạn quân mã, lại sai Chu Linh, Lộ Chiêu cùng đi. Lúc Huyền Đức vào từ
biệt vua, vua khóc tiễn đi.
Huyền Đức về nhà trọ, suốt đêm thu xếp khí giới và ngựa chiến,
đeo ấn tướng quân, đốc thúc để cho chóng. Đổng Thừa ra ngoài mười dặm tràng
đình để tiễn. Huyền Đức nói:
- Xin quốc cữu hãy yên tâm. Chuyến này tôi đi tất có thể đáp
lại ý muốn của ngài.
Thừa nói:
- Ông nên lưu tâm, chớ phụ lòng vua.
Hai người từ giã nhau.
Quan, Trương hai người ngồi trên ngựa bấy giờ mới hỏi anh rằng:
- Sao phen này anh đi vội vàng vậy?
Lưu Bị nói:
- Ta ở Hứa Đô như chim lồng cá chậu, chuyến này được đi như
cá vào bể lớn, chim lên mây xanh, không bị giam hãm trong lồng trong chậu nữa.
Nói xong, hai người thúc quân mã Chu Linh, Lộ Chiêu đi mau.
Bấy giờ ở Hứa Đô, Quách Gia và Trình Dục đi kiểm tra tiền
lương vừa về, nghe thấy Tào Tháo sai Lưu Bị đem quân sang Từ Châu, vội vàng vào
bẩm rằng:
- Sao thừa tướng lại sai Lưu Bị đi đốc binh?
Tháo nói:
- Cho ra để chẹn đường Viên Thuật.
Dục nói:
- Lúc Lưu Bị còn giữ chức mục ở Dự Châu, chúng tôi xin thừa
tướng giết đi, thừa tướng không nghe, nay lại cho đi cầm quân, thế là thả rồng
xuống bể, đuổi hổ về rừng, sau này muốn trừ đi còn làm sao được nữa?
Quách Gia nói:
- Nếu thừa tướng không giết Lưu Bị cũng chớ nên sai đi ra
ngoài. Cổ nhân có nói rằng: “Một ngày thả giặc, để lo muôn đời”. Xin thừa tướng
xét lại.
Tháo nghe ra, liền sai Hứa Chử đem năm trăm quân đuổi theo gọi
Lưu Bị về.
Hứa Chử vâng lệnh đi liền.
Huyền Đức đang đi, ở mặt sau bỗng thấy bụi mù, liền bảo với
Quan, Trương rằng:
- Đây chắc quân Tào Tháo đuổi theo.
Nói rồi lập trại, đóng quân lại, sai Quan, Trương cầm binh
khí đứng hai bên. Hứa Chử đến, thấy binh uy nghiêm chỉnh tề, bèn xuống ngựa vào
trại, ra mắt Huyền Đức. Huyền Đức hỏi:
- Ông đến có việc gì?
Chử nói:
- Phụng mệnh thừa tướng, mời tướng quân trở lại bàn bạc việc
khác.
Huyền Đức nói:
- Tướng đã ở ngoài, mệnh lệnh của vua cũng có điều không phải
vâng theo, huống chi tôi đã chầu vua, lại được vâng lời thừa tướng mà đi. Nay
không còn việc gì phải bàn nữa, xin ông trở về ngay bẩm lại với thừa tướng cho
tôi.
Hứa Chử nghĩ rằng:
- Thừa tướng vốn đối đãi tử tế với Huyền Đức, nay không thấy
dặn phải đánh nhau, vậy hãy đem lời Lưu Bị về bẩm lại, tuỳ ý ngài định đoạt.
Chử liền từ giã Huyền Đức về, vào hầu Tào Tháo thuật lại lời
của Huyền Đức. Tháo ngần ngại chưa quyết, Trình Dục, Quách Gia nói rằng:
- Lưu Bị không chịu đem quân trở lại, tất là thay lòng đổi dạ
rồi.
Tháo nói:
- Ta đã sai Chu Linh, Lộ Chiêu đi kèm Lưu Bị, vị tất hắn đã
dám sinh biến. Vả ta đã sai, không nên hối lại.
Bèn không đuổi theo Huyền Đức nữa.
Người sau có thơ rằng:
Gióng ngựa giục quân, lòng vội vã,
Nỗi lo canh cánh chiếu trong đai,
Hổ tung cũi sắt về rừng rậm,
Rồng phá then vàng, ra bể khơi…
Mã Đằng bấy giờ ở Hứa Đô, thấy Huyền Đức đã đi, ở châu mình lại
có quân đến báo nhiều việc kíp, cho nên cũng về Lương Châu.
Huyền Đức đem quân tới Từ Châu, thứ sử là Xa Trụ ra đón, yến
tiệc xong, lũ Tôn Càn, My Chúc đều lại yết kiến. Huyền Đức về nhà thăm vợ con,
một mặt sai người dò xem tin tức Viên Thuật.
Thám tử về báo:
- Viên Thuật xa xỉ quá độ. Tướng Thuật là Lôi Bạc, Trần Lan
cũng bỏ Thuật về núi Tung Sơn, thế Thuật đã suy, Thuật phải đưa thư nhường đế
hiệu cho Viên Thiệu và đương thu binh nhặt mã và các đồ cung cấm ngự dụng, sắp
qua Từ Châu.
Lưu Bị nghe Viên Thuật sắp đến, dẫn Quan, Trương và Chu Linh,
Lộ Chiêu đem năm vạn quân ra đón đánh, thì gặp tiên phong của Thuật là Kỷ Linh
đến.
Trương Phi ra đánh nhau với Kỷ Linh mới được mươi hợp, liền
thét lớn một tiếng, đâm chết Kỷ Linh ngã xuống chân ngựa. Quân lính thua chạy
trốn cả. Thuật tự dẫn binh đến đánh, Huyền Đức chia quân làm ba đường. Chu
Linh, Lộ Chiêu ở tả; Quan, Trương ở hữu, tự mình đứng trung quân, ra ngoài cửa
cờ mắng Thuật rằng:
- Thằng phản nghịch vô đạo kia! Ta nay phụng chiếu ra đánh,
mày nên tự trói tay mà hàng, ta sẽ tha cho khỏi chết.
Viên Thuật mắng lại rằng:
- Thằng dệt chiếu đóng dép kia! Sao mày dám khinh ta?
Nói xong đốc binh vào đánh. Huyền Đức tạm lui, cho quân tả hữu
hai bên ra đánh, quân Thuật thây nằm khắp đồng, máu chảy thành vũng, sĩ tốt trốn
đi không biết bao nhiêu, lại bị Lôi Bạc, Trần Lan ở Tung Sơn ra cướp mất tiền
nong lương thảo. Thuật muốn về Thọ Xuân, lại bị trộm cướp đến đánh tập hậu, phải
đóng lại ở Giang Đình. Bấy giờ Thuật chỉ còn hơn một nghìn quân, toàn những người
già yếu. Trời đang nóng nực, lương thực hết, chỉ còn ba mươi hộc lúa, phát cho
quân sĩ, người nhà phải nhịn, chết đói nhiều. Thuật ăn cơm gạo xấu, không nuốt
được, sai nhà bếp lấy mật ăn cho khỏi khát. Nhà bếp nói:
- Mật không có, chỉ có nước máu!
Thuật đương ngồi trên giường, kêu to một tiếng, đâm nhào xuống
đất, thổ ra đến một chậu máu, rồi chết.
Bấy giờ là tháng sáu, năm thứ bốn, niên hiệu Kiến An (199).
Người sau có thơ rằng:
Cuối Hán, binh đao nổi bốn phương,
Khéo đâu Viên Thuật cũng ngông cuồng!
Mấy đời không nghĩ nền công tướng
Chút phận hòng toan vị đế vương
Tỷ ngọc vào tay thêm ngạo ngược,
Điềm trời trước mắt, uổng khoe khoang.
Khát tìm mật uống tìm đâu thấy?
Thổ huyết nằm queo chẳng kẻ thương!
Viên Thuật chết rồi, cháu là Viên Dận đem hài cốt cùng vợ con
Thuật chạy về Lư Giang, bị tên Từ Cầu giết sạch, cướp lấy ngọc tỷ đem đến Hứa
Đô dâng lên Tào Tháo. Tháo mừng lắm phong cho Từ Cầu làm thái thú ở Cao Lăng. Từ
bấy giờ ngọc tỷ lại vào tay Tào Tháo.
Huyền Đức thấy Viên Thuật đã chết, dâng biểu cho triều đình,
và đưa thư trình Tào Tháo biết, sai Chu Linh, Lộ Chiêu về Hứa Đô, còn bao nhiêu
binh mà đều lưu lại để giữ Từ Châu, một mặt chiêu dụ những nhân dân lưu tán trở
về an cư lạc nghiệp.
Chu Linh, Lộ Chiêu về Hứa Đô vào hầu Tào Tháo thuật lại việc
Huyền Đức giữ binh mã. Tháo giận lắm muốn chém ngay hai người. Tuân Úc can rằng:
- Quyền ở Lưu Bị, hai người làm thế nào được.
Tháo mới tha tội cho hai người.
Úc lại bàn rằng:
- Thừa tướng nên viết thư cho Xa Trụ, sai ở đó tìm cách trừ
Lưu Bị.
Tháo nghe kế ấy, mật sai người đến bảo Xa Trụ. Trụ mời Trần
Đăng đến bàn.
Đăng nói:
- Việc ấy thực dễ, nay Lưu Bị ra ngoài thành chiêu dụ nhân
dân, không mấy ngày nữa sẽ về. Tướng quân nên phục quân dưới cửa cuốn ở ngoài
thành, giả cách ra đón, đợi khi Lưu Bị cưỡi ngựa đến, chém cho một nhát, tôi
thì ở trên thành bắn xuống để chặn hậu quân của Lưu Bị, thế là xong việc.
Trụ nghe theo kế ấy.
Trần Đăng về nói lại với bố là Trần Khê. Trần Khê sai Đăng ra
báo trước cho Huyền Đức biết. Đăng vừa ra khỏi thành gặp Quan Vũ, Trương Phi
bèn nói chuyện cho hai người hay.
Nguyên là Quan, Trương về trước, Huyền Đức về sau. Trương Phi
nghe nói, muốn chạy vào đánh ngay. Vân Trường ngăn lại nói rằng:
- Nó phục binh dưới cửa cuốn bên thành, nếu vào thì mắc mẹo nó.
Ta có một kế giết được Xa Trụ; nhân ban đêm, ta giả làm quân Tào đến Từ Châu,
Xa Trụ tất ra đón, ra đến nơi thì ta giết đi.
Phi chịu rằng phải.
Quân bộ hạ của Quan, Trương sẵn có cờ hiệu của Tào, y giáp
cũng giống nhau, đang nửa đêm, đến ngay cửa thành gọi mở. Trên thành hỏi ai.
Chúng thưa:
- Quân mã Trương Văn Viễn. Tào thừa tướng sai đến.
Quân giữ thành vào báo với Trụ. Trụ mời Trần Đăng lại bàn rằng:
- Không ra đón thì sợ có chuyện nghi kị, ra đón lại sợ có
chuyện lừa dối.
Trụ lên thành nói rằng:
- Đêm khuya khó phân biệt được thực hư, xin để sáng mai hãy mở
cửa.
Ở dưới thành đáp rằng:
- Chỉ sợ Lưu Bị biết. Xin mở cửa mau.
Xa Trụ ngần ngừ chưa quyết, dưới thành thì cứ giục mở cửa
mãi. Trụ đành phải mặc áo giáp lên ngựa, dẫn một nghìn quân mã ra ngoài thành.
Đi khỏi cầu, Trụ gọi to rằng:
- Văn Viễn ở đâu?
Trong bóng lửa thấy ngay Vân Trường cầm đao tế ngựa lại, xông
thẳng vào Xa Trụ thét rằng:
- Thằng kia! Sao dám lừa dối muốn hại anh tao?
Trụ giật mình, đánh chưa được vài hiệp, chống đỡ không nổi,
quay ngựa chạy về. Chạy đến đầu cầu, Trần Đăng ở trên thành bắn tên xuống như
mưa. Vân Trường sấn lại, phất long đao một nhát chém Trụ ngã lăn xuống đất rồi
chặt lấy đầu, quay mặt vào thành giơ đầu Trụ lên hô rằng:
- Phản tặc là Xa Trụ ta đã giết rồi. Quân sĩ không có tội,
hàng thì tha cả.
Quân sĩ đều cầm ngược khí giới, xin hàng. Từ ấy quân dân đều
được yên ổn cả.
Vân Trường mang đầu Xa Trụ lại đón Huyền Đức nói rằng:
- Xa Trụ muốn mưu hại anh, nay đã giết được rồi.
Huyền Đức thất kinh nói rằng:
- Tháo nó lại, thì làm thế nào?
Vân Trường nói:
- Hễ nó lại, thì hai em xin đánh chứ sao!
Huyền Đức ân hận mãi, rồi vào Từ Châu. Các cụ già và trăm họ
đón rước đầy đường. Lưu Bị đến phủ, tìm Trương Phi, thì Trương Phi đã bắt cả
nhà Xa Trụ đem giết rồi. Huyền Đức giận nói:
- Giết mất người tâm phúc của Tháo, sao nó chịu thôi?
Trần Đăng nói:
- Tôi có một kế, có thể lui được Tào Tháo.
Thế thực là:
Cô thân đã thoát ra hang hổ
Diệu kế còn toan rập khói lang [1]
Chưa biết Trần Đăng bàn kế gì, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Chú thích:
1. Khói lang: Phân lang sói phơi khô, đốt
lên, khói đặc khó tan, thời cổ dùng để làm lửa hiệu trong chinh chiến. Sau dùng
khói lang để chỉ loạn binh.
Hồi 22:
Viên, Tào đều cất ba quân mã bộ
Quan, Trương cùng bắt hai tướng Vương, Lưu
Trần Đăng hiến kế cho Lưu Bị rằng:
- Tào Tháo chỉ sợ Viên Thiệu. Thiệu nay như hổ ngồi giữ ở các
quận Ký, Thanh, U và Tinh. Quân mặc áo giáp có vài trăm vạn; văn quan võ tướng
rất nhiều, sao không viết thư sang đó mà cầu cứu?
Huyền Đức nói:
- Thiệu và tôi chưa có đi lại với nhau bao giờ, vả lại vừa
đánh em hắn, sao hắn chịu giúp.
Đăng nói:
- Ở đây có một người, ba đời thông gia với họ Viên, nếu được
người ấy đưa thư sang cho Thiệu, tất Thiệu đem quân lại cứu.
Huyền Đức hỏi ai, Đăng nói:
- Người ấy là người ông xưa nay vốn kính lễ, sao nay lại
quên?
Huyền Đức chợt nghĩ ra, hỏi:
- Có phải Trịnh Khang Thành tiên sinh không?
Đăng cười, nói:
- Chính phải!
Nguyên Trịnh Khang Thành tên là Huyền, chăm học, nhiều tài,
khi trước là học trò Mã Dung. Mỗi khi Dung dạy học, bao giờ cũng treo một bức
màn đỏ, ngoài thì học trò ngồi, trong thì đông những nhà trò, con gái đứng hầu.
Trịnh Huyền đến học trong ba năm, mắt không trông ngang. Dung lấy làm lạ. Đến
khi Trịnh Huyền học xong, trở về nhà. Dung than rằng:
- Học được bí truyền của ta, chỉ có một Trịnh Huyền.
Trong nhà Trịnh Huyền, thị tì đều thuộc Mao Thi[1].
Có một thị tì làm trái ý Huyền, Huyền bắt quỳ mãi dưới thềm,
một thị tì khác hỏi đùa:
- “Hồ vi hồ nê trung?” [2]
Người kia lập tức đáp ngay:
- “Bạc ngôn vãng tố, phùng bỉ chi nộ”. [3]
Như thế thực là phong nhã.
Đời vua Hoàn đế, Trịnh Huyền làm quan thượng thư. Đến sau gặp
loạn mười tên hoạn quan, Huyền bỏ quan về ở Từ Châu làm ruộng. Huyền Đức khi ở
Trác Quận đã thờ làm thầy, đến khi làm mục ở Từ Châu, thường thường vẫn đến hầu
rất mực tôn kính.
Bấy giờ Huyền Đức nghĩ ra người ấy, lấy làm may mắn, liền
cùng Trần Đăng đi đến nhà Trịnh Huyền, xin Huyền viết thư cho Viên Thiệu. Huyền
nhận lời viết ngay một bức thư, giao cho Huyền Đức. Huyền Đức sai Tôn Càn đi suốt
ngày đêm đưa thư đến Viên Thiệu.
Thiệu xem xong nghĩ rằng:
- Huyền Đức vừa đánh em ta, đáng nhẽ không giúp, nhưng vì có
lời của Trịnh thượng thư, đành phải đi cứu.
Mưu sĩ là Điền Phong can rằng:
- Mấy năm khởi binh luôn, nhân dân mỏi mệt, kho tàng trống rỗng,
không nên lại khởi đại quân. Trước hết hãy sai người dâng biểu tâu công thắng
trận lên thiên tử, nếu biểu không dâng lên được, bấy giờ sẽ kể tội cho Tào
Tháo, rồi đem binh đóng ở Lê Dương, làm thêm thuyền bè ở Hà Nội, sửa sang khí
giới, phân phát tinh binh, đóng đồn ngoài biên ải. Như thế trong ba năm, việc lớn
có thể xong được.
Mưu sĩ khác là Thẩm Phối lại nói rằng:
- Điền Phong nói thế không phải. Lấy oai thần võ của minh
công, sẵn có nền giàu mạnh ở đất Hà Sóc, đem binh đánh Tào Tháo, dễ như trở bàn
tay, hà tất phải kéo dài ngày tháng.
Mưu sĩ thứ ba là Thư Thụ nói:
- Cái mưu đánh được, không cứ gì ở sự cường thịnh, Tào Tháo
đã có quyền trong tay, thi hành được pháp lệnh, quân lính lại tập luyện giỏi,
không như bọn Công Tôn Toản ngồi bó tay một chỗ. Nay không dùng mưu của Điền
Phong, dấy một đội quân vô danh[4] tôi trộm nghĩ là không phải.
Lại có một mưu sĩ nữa là Quách Đồ nói:
- Thế cũng không phải, đem binh đánh Tào Tháo sao gọi là vô
danh? Ông nên kịp thời mưu tính sớm định nghiệp lớn. Xin ông nghe nhời Trịnh
thượng thư, cùng Lưu Bị đem nghĩa lớn đánh giặc Tào, trên hợp ý trời, dưới hợp
lòng dân, thực là may mắn.
Bốn người tranh luận mãi. Viện Thiệu trù trừ chưa quyết. Chợt
có Hứa Du, Tuân Thầm ở ngoài vào.
Thiệu nói:
- Hai người kiến thức rộng, thử xem chủ trương thế nào?
Hai người thi lễ xong. Thiệu hỏi:
- Trịnh thượng thư gửi thư đến, bảo ta khởi binh giúp Lưu Bị
đánh Tào Tháo. Nên khởi binh hay không khởi binh?
Hai người đồng thanh nói:
- Minh công lấy nhiều đánh ít, lấy khoẻ đánh yếu, giết giặc
Tào để giúp nhà Hán, khởi binh là phải lắm.
Thiệu nói:
- Hai người nói chính hợp ý ta!
Lập tức truyền lệnh cất quân; cho Tôn Càn về trước báo với Trịnh
Huyền, và hẹn Huyền Đức chuẩn bị sẵn sàng để tiếp ứng; một mặt sai Thẩm Phối, Phùng
Kỷ làm thống quân, Điền Phong, Tuân Thầm, Hứa Du làm mưu sĩ. Nhan Lương, Văn Sú
làm tướng quân, khởi quân mã mười lăm vạn, quân bộ mười lăm vạn, cả thảy ba
mươi vạn tinh binh, tiến về Lê Dương.
Xếp đặt đâu đấy rồi, mưu sĩ là Quách Đồ tiến lên nói:
- Minh công lấy nghĩa lớn đánh Tào Tháo, phải nên làm một bài
văn hịch, nêu hết sự tàn ác của Tào Tháo, truyền tờ hịch đi các quận, kể rõ lẽ
tại sao mình đem quân đến đánh, thế mới là danh chính ngôn thuận.
Thiệu bèn sai thư ký là Trần Lâm làm bài hịch. Lâm tự là Khổng
Chương, vốn có danh tiếng. Đời vua Hoàn đế làm chủ bạ, nhân can Hà Tiến không
nghe, lại gặp loạn Đổng Trác, Trần Lâm lánh nạn ở Ký Châu, Thiệu dùng làm thư
ký. Bấy giờ vâng lệnh thảo hịch, cầm bút viết xong ngay. Bài hịch như sau:
“Thường nghe rằng: minh quân chúa nhân nguy để bày kế; trung
thần lo nạn để lập công. Bởi thế, phải có người phi thường, mới lập được việc
phi thường; có việc phi thường, mới có công phi thường. Cái công phi thường ấy,
vốn không phải người thường có thể làm nổi.
“Trước kia nhà Tần vua yếu, Triệu Cao lộng quyền, hống hách
trong triều, một tay tác oai tác phúc. Người bấy giờ bị ức hiếp, không ai dám
nói cầu gì, đến nỗi có biến ở cung Vọng Di[5] tổ tông nhà nó bị tiêu diệt,
để tiếng nhơ nhuốc đến ngày nay, làm gương cho đời.
“Cuối đời Lã hậu, Sản, Lộc, chuyên chính, trong giữ hai đạo
quân, ngoài thống lĩnh nước Lương, nước Triệu; chuyên quyền ỷ thế, xử việc ở
trong cấm sảnh, kẻ dưới lăng loàn, người trên suy yếu, bốn bể ai cũng lo sợ. Bởi
thế Giáng hầu và Chu Hữu hầu tức giận nổi dậy giết sạch kẻ bạo nghịch, lập vua
Thái tông[6] nhờ thế đạo vương hưng thịnh, sáng sủa và rõ rệt, ấy tức là
cái nêu cao lập công của kẻ đại thần.
“Tư không là Tào Tháo ngày nay: Ông nó là trung thường thị
tên Đằng, cùng với bọn Tả Quan, Từ Hoàng hưng yêu tác quái, tham lam rông rỡ,
nát đạo hại dân. Bố nó là Tung, làm con nuôi của Đằng, nhân có nhờ đút lót mà
được chức vị, xe vàng khiêng ngọc, đem nộp cửa quyền, trộm giữ ngôi cao, làm
nghiêng đổ quyền lớn. Đến Tháo: nòi giống sót của hoạn quan, vốn không có đức hạnh,
gian giảo độc ác, thích gây ra sự biến loạn, vui mừng thấy sự tai vạ.
“Mạc Phủ[7] đây thống suất hùng binh, quét trừ kẻ hung
nghịch, gặp khi Đổng Trác lấn quan hại nước, bèn chống gươm khua trống, phát lịnh
ra cõi Đông Hạ, thu dụng anh hùng, bỏ nết xấu để dùng được việc, cho nên mới
cùng Tháo hợp mưu, trao cho chức tì tướng, tưởng là tài ưng khuyển có thể dùng
được. Không ngờ nó ngu dại, kém mưu lược, khinh thường sự tiến quân và lui
quân, đến nỗi thất bại làm tổn thiệt quân sĩ.
“Mạc Phủ lại chia thêm cho quân tinh nhuệ, sửa sang bù đắp
cho nó, tâu xin cho nó sang Đông Quận lĩnh chức thứ sử ở Duyện Châu; thân dê
chó đội lốt hổ, để nó có chút quyền hành, mong rằng nó sẽ có phen báo thù được
trận thua trước như quân Tần báo thù được nước Tấn khi xưa[8]. Nhưng Tháo lại
thừa thế bạt hổ, bạo ác càn rỡ, tàn dân, hại người lương thiện. Vì thế quan
thái thú Cửu Giang là Biên Nhượng, tài cán giỏi giang, thiên hạ biết tiếng, nói
thẳng lòng ngay, không a siểm ai, cũng bị nó hãm hại, đầu phải bêu, vợ con phải
tàn sát. Từ đó, sĩ phu ai cũng tức tối, nhân dân lại càng oán ghét; một người
vung cánh tay cả châu cùng hưởng ứng; cho nên thân nó bị thua ở Từ Châu, đất nó
bị cướp về tay Lã Bố; bơ vơ cõi Đông, không nơi nương tựa, Mạc Phủ nghĩ đến
nghĩa gốc mạnh cành yếu[9] và thương nó, không buộc nó vào đảng của kẻ phản
nghịch, cho nên lại giương cờ, mặc áo giáp, cất quân sang đánh. Chiêng trống
vang lừng, Lã Bố tan vỡ, cứu cho nó khỏi chết, và khôi phục lại chức phương bá
cho nó, thế là Mạc Phủ ta tuy không có công gì với dân Duyện Châu, nhưng thực
là làm phúc cho Tào Tháo to lắm. Đến khi loan giá trở về, giặc cướp quấy rối
(loạn Thôi, Dĩ), bấy giờ Ký Châu đang có việc đề phòng ở cõi bắc, ta chưa rờ ra
ngoài được, cho nên sai tùng sự trung lang là Từ Huân sang truyền cho Tháo phải
sửa sang chốn giao miếu, giúp đỡ vua nhỏ. Nhưng Tháo dám rông rỡ làm càn, hiếp
vua thiên đô, khinh nhờn nhà vua, nát phép loạn kỷ, ngồi giữ cả việc ba đài[10] chuyên
chế triều chính, muốn thưởng ai thì thưởng, muốn giết ai thì giết; yêu ai thì
người ấy sung sướng đến cả năm ngành; ghét ai thì người ấy phải chết cả ba họ;
ai bàn tán phải trái thì trị tội công khai, ai thầm vụng chê bai, thì bị giết
ngầm ngấm. Vì thế trăm quan buộc miệng, đường sá đưa mắt nhìn nhau. Còn các
quan thượng thư thì chỉ nhớ buổi vào triều đến hội cho có mặt; công khanh thì
chỉ gọi là có chức phẩm mà thôi!
“Cho nên quan thái uý là Dương Bưu, từng giữ hai chức tư
không và tư đồ, nhất phẩm trong nước, Tháo nhân thế mang lòng ganh ghét, vu cho
tội trạng, đánh đập tàn nhẫn, đủ cả năm thứ hình cụ; tự ý làm càn, không nghĩ đến
phép nước.
“Quan nghị lang là Triều Ngạn, lời ngay nói thẳng, có thể
nghe theo, vì thế vua nghe nói động lòng, thay đổi nét mặt, tỏ ý khen thưởng,
nhưng Tháo định che lấp lẽ phải, chặn lắp đường nói năng của mọi người, tự tiện
bắt Triệu Ngạn giết đi, không tâu vua biết.
“Lương Hiếu vương, là anh em ruột với tiên đế, lăng mộ của
người là nơi tôn quý, dẫu đến cây cối trên mả, cũng phải kính cẩn gìn giữ, thế
mà Tháo đem tướng sĩ, khai quật phá áo quan, bỏ lộ thây, cướp lấy vàng báu, đến
nỗi vua phải chảy nước mắt, dân sĩ phải đau lòng.
“Nó lại đặt ra quan trung lang tướng, đào mả quan hiệu uý bới
vàng; đi đến đâu tàn hại đến đó, xương trong mả phải bới ra cả ngoài. Nó ở ngôi
Tam công, làm việc trộm cướp, nhơ cả nước, khổ đến dân, làm hại cả người sống lẫn
người chết. Vả lại chính sự tế toái thảm khốc, luật lệ bày ra thật nhiều, khác
gì dò bẫy đầy cả khe, hang hố lấp cả đường, giơ tay mắc phải lưới, đụng chân vấp
phải cạm. Cho nên ở Duyện, Dự có những người đau buồn, kinh đô có những nhời
than vãn. Xem hết cả sử sách xưa nay, những kẻ làm tôi vô đạo, tham tàn ác nghiệt,
đến Tháo là cùng.
“Mạc Phủ ta đang phòng ngoại gian, chưa kịp dạy bảo nó, và
cũng có ý khoan dung, mong cho nó tu tỉnh lại. Nhưng nó bụng dạ sài lang, mang
tâm gây vạ, muốn đạp đổ cột rường, làm cho nhà Hán suy yếu, trừ giết kẻ trung
chính chuyên làm kẻ kiêu hùng.
“Trước kia ta gióng trống sang mặt bắc, đánh Công Tôn Toản,
quân cường khấu nghịch tặc cự nhau với quân ta một năm, Tháo nhân quân ta chưa
đánh được, ngầm đưa thư cho Toản, ngoài mặt giả làm giúp quân ta, kì thực nó định
đánh úp quân ta, may được người mang thư tiết lộ mưu gian, Toản phải thua chết.
Cho nên nhuệ khí của nó phải nhụt và mưu đồ của nó cũng không thành.
“Nay nó đóng giữ Ngao Xương, chẹn sông giữ biển, muốn đem
cánh tay con bọ ngựa chặn đường của xe thần sét.
“Mạc Phủ nay phụng oai linh nhà Hán, dẹp yên bờ cõi, kích dài
trăm vạn, ngựa khoẻ nghìn đàn, đem những tướng mạnh như Trung Hoàng, Hạ Dục, Ô
Hoạch[11]; dùng cái thế cung cứng nỏ bền, từ Minh Châu vượt núi Thái Hàng; từ
Thanh Châu qua sông Tế, sông Luỹ, đại quân qua sông Hoàng Hà đánh mặt trước;
quân Kinh Châu xuống đất Uyển, Diệp đánh mặt sau. Sấm vang, hổ sợ, khác gì cầm
bó lửa đốt mớ bòng bong, dốc nước bể tưới đống tro tàn, còn cái gì không bị
tiêu diệt?
“Vả lại quân sĩ của Tháo người nào có thể đánh trận được toàn
là người ở U, Ký, hoặc là quân sĩ của bộ hạ cũ, đều oán giận muốn về quê hương,
rỏ nước mắt trông về phía bắc. Còn như dân ở Duyện, Dự và quân sót của Lã Bố,
Trương Dương, đều là bị ức hiếp, tạm bợ đi theo nó, vết thương chưa khỏi, quân
nọ quân kia thù địch lẫn nhau. Nếu ta lên núi cao đánh tiếng trống, phất cờ trắng
chiêu hàng, thế tất đất lở ngói tan, không đợi lưỡi gươm phải dây máu mới dẹp
yên được.
“Hiện nay nhà Hán suy đồi, kỷ cương trễ nải, triều đình không
có một người phù tá nào giỏi, chân tay của vua không có thể đánh dẹp được giặc;
trong kinh đô, những người lão luyện, đều phải cúi đầu khép cánh, không biết
trông cậy vào đâu; tuy có kẻ trung nghĩa cũng bị nó ức hiếp, không làm thế nào
thổ lộ được khí tiết của mình?
“Vả lại Tháo sai bảy trăm binh lính bộ hạ của nó, vây chốn
cung khuyết, ngoài mặt giả làm giữ gìn cho vua, kì thực là nó giam cấm vua.
Chúng ta sợ rằng cái mầm thoán nghiệp, nảy ra từ đó. Ấy thực là buổi óc gan lầm
đất của trung thần và cái hội lập công của hào kiệt, chúng ta chẳng nên gắng sức
dư!
“Tháo nó lại mạo làm chiếu vua, sai sứ cất quân. Ta sợ những
châu quận ở xa, tưởng là chiếu của vua thực, cấp quân cho nó, thế là trái với lòng
dân và vào hùa với quân phản nghịch, phi cả tiếng mình, lại để thiên hạ chê cười.
Những bậc minh triết, tất không làm thế.
“Nay mai, quân U, Tinh, Thanh, Ký, bốn châu cùng tiến lên.
Thư ta đưa đến Kinh Châu, xin phải cất quân ngay, cùng quan Kiến trung tướng
quân (Trương Tú) họp lại làm cho thanh thế được mạnh.
“Các châu quận cũng nên họp sẵn nghĩa binh, dàn khắp bờ cõi,
thị võ dương oai, cùng giúp ấy nền xã tắc. Thế là cái công phi thường sẽ được
rõ rệt dựng nên.
“Những bộ khúc tướng tá ai chịu quy hàng, đều tha tội hết. Mở
rộng ân tín, ban bố phong thưởng. Nay làm tờ hịch này báo cáo thiên hạ, để ai nấy
đều biết mà vua đang có lệnh nguy cấp.
“Cấp cấp như luật lệnh!”
Thiệu xem hịch xong mừng lắm, liền sai sứ giả đưa đi khắp cả
châu huyện và yết thị các nơi cửa ải, bến đò. Bài hịch truyền tận Hứa Đô. Bấy
giờ Tào Tháo đang bị chứng nhức đầu, nằm trên giường. Tả hữu đem bài hịch vào
trình. Tháo xem xong rợn tóc rùng mình, mồ hôi toát ra như tắm, khỏi cả nhức đầu,
từ giường vùng dậy, ngoảnh lại hỏi Tào Hồng:
- Ai làm bài hịch này?
Hồng nói:
- Bài ấy nghe đâu của Trần Lâm soạn.
Tháo cười nói:
- Có văn hay phải có võ lược đi kèm, văn Trần Lâm, tuy hay
nhưng võ lược của Viên Thiệu lại dở, thì làm thế nào!
Bèn họp các mưu sĩ bàn việc nghênh địch. Khổng Dung thấy thế,
vào nói với Tào Tháo rằng:
- Viên Thiệu to thế, không nên đánh nhau, hoà thì hơn.
Tuân Úc nói:
- Viên Thiệu là người vô dụng, hoà với nó làm gì?
Dung lại nói:
- Viên Thiệu có đất rộng, dân mạnh, bộ hạ như bọn Hứa Du,
Quách Đồ, Thẩm Phối, Phùng Kỷ, đều là những người mưu trí; Điền Phong, Thư Thụ
đều là trung thần; Nhan Lương, Văn Sú sức khoẻ hơn ba đội quân; còn như Cao
Lãm, Trương Cáp, Thuần Vu Quỳnh toàn là những danh tướng đời nay. Sao lại bảo
Thiệu là vô dụng?
Úc cười, nói:
- Thiệu binh nhiều mà không nghiêm chỉnh; Điền Phong tính
cương trực hay phạm người trên; Hứa Du tham mà không khôn, Thẩm Phối hay tự cho
mình là phải mà không có mưu mẹo; Phùng Kỷ tính cả quyết nhưng không làm được
việc. Mấy người ấy không ưa nhau, tất rồi cũng có nội biến; Nhan Lương, Văn Sú
tuy khoẻ, nhưng đồ thất phu ấy chỉ đánh một trận là bắt được; còn những đồ tầm
thường nhung nhúc, dẫu có trăm vạn cũng chẳng kể vào đâu.
Khổng Dung ngồi nín lặng.
Tháo cười to, nói:
- Đều không ra ngoài sự tính toán của Tuân Văn Nhược.
Liền gọi tiền quân là Lưu Đại, hậu quân là Vương Trung dẫn
năm vạn quân mang cờ hiệu “Thừa tướng” sang Từ Châu đánh Lưu Bị.
Lưu Đại vốn làm thứ sử Duyện Châu, sau hàng Tào Tháo, Tháo
cho làm thiên tướng. Cho nên Tháo sai hắn cùng Vương Trung mang quân đi trước.
Tháo tự dẫn đại quân hai mươi vạn ra Lê Dương để chống Viên
Thiệu.
Trình Dục nói:
- Lưu Đại, Vương Trung hai người mà thừa tướng sai đi cùng
không xứng việc.
Tháo nói:
- Ta cũng đã biết hai người ấy không phải tay địch nổi Lưu Bị,
nhưng để hư trương thanh thế.
Tháo lại dặn hai người:
- Không được khinh tiến, đợi ta phá được Thiệu, bấy giờ mới
quay binh về đánh Lưu Bị.
Lưu Đại, Vương Trung lĩnh binh đi.
Tháo đến Lê Dương, hai bên cách nhau tám mươi dặm, cùng đào
hào đắp luỹ, giữ nhau không đánh, từ tháng tám đến tháng mười. Nguyên là Hứa Du
không bằng lòng để Thẩm Phối cầm quân; Thư Thụ thì giận Viên Thiệu không dùng
mưu của mình, nội bộ lủng củng không hoà thuận với nhau, chẳng ai nghĩ gì đến
việc tiến binh cả.
Tháo thấy vậy mới gọi hàng tướng là Tang Bá, thủ hạ của Lã Bố
sai giữ miền Thanh, Từ; Vu Cấm, Lý Điển đóng đồn trên sông Hà; Tào Nhân thì thống
lĩnh đại quân, đóng ở Quan Độ. Còn Tháo thì tự dẫn một đội quân về Hứa Đô.
Đây nói Lưu Đại, Vương Trung dẫn năm vạn quân đến cách Từ
Châu một trăm dặm đóng trại, trong quân giả vờ dựng một lá cờ hiệu Tào thừa tướng,
không dám tiến binh vội, chờ đợi tin tức Hà Bắc.
Trong thành Từ Châu, Lưu Bị cũng không biết hư thực thế nào,
chưa dám dấy quân, cũng nghe ngóng tin tức Hà Bắc.
Chợt Tào Tháo sai người giục Lưu Đại, Vương Trung tiến binh.
Hai người ở trong trại bàn nhau. Đại bảo Trung:
- Anh đi đánh trước.
Trung nói:
- Thừa tướng sai anh đi đánh trước kia mà!
Đại nói:
- Ta là chủ tướng, sao lại ra đánh trước được?
Trung nói:
- Thế thì anh với tôi cùng đi.
Đại nói:
- Chúng ta rút thăm, phải tên người nào người ấy đi.
Vương Trung rút phải chữ “tiên” phải lĩnh một nửa quân mã, đến
đánh Từ Châu.
Huyền Đức biết tin, mời Trần Đăng đến thương nghị, nói rằng:
- Viên Thiệu tuy có đóng quân ở Lê Dương, nhưng các mưu sĩ, đại
thần không hoà thuận với nhau, vẫn chưa tiến binh. Còn Tào Tháo thì không biết ở
đâu, nghe như trong quân Lê Dương không có cờ hiệu Tháo, sao ở đây lại có cờ hiệu
Tháo?
Đăng nói:
- Tào Tháo trăm nghìn quỷ kế, tất nó lấy Hà Bắc làm trọng, phải
tự mình đôn đốc ở đấy, cố ý giấu cờ hiệu đi, còn cờ hiệu ở đây chỉ là hư trương
thanh thế, tôi chắc chắn Tào Tháo không có ở đây.
Huyền Đức ngoảnh lại hỏi Quan, Trương:
- Hai em, ai đi dò xem hư thực?
Trương Phi xin đi.
Huyền Đức bảo:
- Em táo bạo quá, không nên đi.
Trương Phi nói:
- Cho có ngay Tào Tháo em cũng xin bắt nó đem về!
Vân Trường nói:
- Để em xin đi.
Huyền Đức nói:
- Nếu Vân Trường đi, anh mới vững dạ.
Vân Trường dẫn ba nghìn quân mã ra khỏi Từ Châu.
Bấy giờ bắt đầu mùa đông, mây mờ u ám, hoa tuyết bay tán loạn.
Quân mã xông vào trong tuyết bày trận. Vân Trường tế ngựa cắp đao, gọi to Vương
Trung ra nói chuyện.
Trung nói:
- Thừa tướng đến đây sao không hàng?
Vân Trường nói:
- Người về mời thừa tướng ra trước trận, ta sẽ thưa chuyện.
Trung nói:
- Thừa tướng nào lại thèm ra nói chuyện với mày!
Vân Trường giận lắm, quất ngựa lên trước. Vương Trung vác
giáo lại địch. Hai ngựa vừa gặp nhau, Vân Trường quay ngựa chạy lại, quát to một
tiếng, múa long đao vào đánh. Trung địch không nổi, sắp sửa quay ngựa chạy trốn,
Vân Trường tay trái cắp ngược bảo đao, tay phải nắm lấy thắt lưng Vương Trung,
lôi xuống cắp ngang trên mình ngựa quay về.
Quân Vương Trung chạy tán loạn cả.
Vân Trường áp giải Vương Trung về Từ Châu vào nộp Huyền Đức.
Huyền Đức hỏi:
- Mày là người nào, hiện làm chức gì, dám trá xưng là Tào thừa
tướng?
Trung nói:
- Tôi nào dám thế, thừa tướng sai tôi lại đây hư trương thanh
thế để làm nghi binh, thừa tướng thực không có ở đây.
Huyền Đức sai lấy quần áo cho mặc, và cho cơm rượu tử tế rồi
cho tạm giam lại, đợi bắt được Lưu Đại sẽ bàn định sau.
Vân Trường nói:
- Tôi biết anh có ý muốn hoà giải, cho nên tôi mới bắt sống
đem về.
Huyền Đức nói:
- Anh cũng sợ Dực Đức nóng nảy giết mất Vương Trung, cho nên
anh không dám sai đi. Những người này giết đi vô ích; để lại còn có thể làm chỗ
hoà giải.
Trương Phi ra nói:
- Anh hai bắt sống được Vương Trung, còn Lưu Đại em xin ra bắt
sống đem về.
Huyền Đức nói:
- Lưu Đại trước làm thứ sử Duyện Châu, khi ở Hổ Lao đánh Đổng
Trác, y là một vị chư hầu ở một trấn, nay làm tiền quân, em không nên khinh thường.
Phi nói:
- Bọn ấy có xá gì, em sẽ như anh hai, bắt sống đem về cho mà
xem.
Huyền Đức nói:
- Chỉ sợ em làm hại mất tính mạng nó, lại làm lỡ việc lớn.
Phí nói:
- Hễ em giết nó, em xin đền mạng.
Huyền Đức bèn trao cho ba nghìn quân. Phi dẫn quân đi.
Lưu Đại thấy Vương Trung bị bắt, cứ giữ không ra đánh. Trương
Phi mỗi ngày đến trước trại chửi mắng, Đại biết rằng Trương Phi không dám thò
ra. Phi giữ vài ngày, không thấy Đại ra, nghĩ ngay được một kế, bèn truyền lệnh
cho quân rằng:
- Canh hai đêm nay đi cướp trại.
Cả ngày hôm ấy, Trương Phi chỉ ngồi trong trướng uống rượu,
giả vờ say, tìm bới một lỗi nhỏ của một tên lính canh, đánh cho một trận, trói ở
trong dinh, truyền rằng: “Đợi đến lúc nào ra quân sẽ tế cờ”; rồi bảo thầm tả hữu
cởi trói cho nó trốn đi. Tên lính ấy được thoát, lẻn ra ngoài dinh, đi tắt ngay
đến trại Lưu Đại, báo trước cho Lưu Đại biết việc Phi cướp trại đêm hôm ấy. Lưu
Đại thấy quân hàng mình mẩy bị trọng thương, chắc là nó nói thực, tối đến để trại
không, đem quân phục ở ngoài.
Đêm hôm ấy, Trương Phi chia quân ra làm ba đường, giữa sai ba
mươi người vào cướp trại phóng hoả, còn hai đường lẻn ra đằng sau trại, trông lửa
cháy làm hiệu thì đánh ập lại. Đến canh ba, Trương Phi dẫn tinh binh chẹn hẳn đằng
sau Lưu Đại. Đường giữa ba mươi người kéo vào trại đốt lửa, phục quân Lưu Đại sắp
kéo vào đánh, quân hai mặt của Trương Phi đều xô ra.
Quân Đại rối loạn, không biết quân Phi nhiều ít thế nào, vỡ
tan chạy trốn cả. Lưu Đại dẫn một đội tàn quân cướp đường mà chạy, chẳng may gặp
ngay Trương Phi. Trong quãng đường cùng, khó lòng lánh ẩn, đánh nhau mới được một
hiệp, Đại đã bị Trương Phi bắt sống. Quân sĩ đều xin hàng.
Phi sai người về Từ Châu báo tin trước. Huyền Đức bảo Vân Trường
rằng:
- Dực Đức xưa nay tính tình thô lỗ, bây giờ cũng biết dùng
mưu, ta không lo gì nữa.
Liền thân đi ra ngoài thành để đón Lưu Đại.
Phi hỏi:
- Anh vẫn chê em táo tợn, bây giờ thế nào?
Huyền Đức nói:
- Không nói khích, đời nào em chịu dùng mưu mẹo.
Huyền Đức thấy Lưu Đại bị trói, vội vàng xuống ngựa cởi trói,
nói:
- Em nó nhỡ xâm phạm đến mình ngài, xin ngài miễn chấp cho.
Nói rồi đón về Từ Châu, tha Vương Trung ra, khoản đãi hai người
tử tế. Huyền Đức nói rằng:
- Trước kia Xa Trụ muốn hại tôi, cho nên tôi bất đắc dĩ phải
giết đi, thừa tướng lại ngờ là tôi làm phản, sai hai tướng quân đến hỏi tội.
Tôi đội ơn thừa tướng, đang mong báo đáp, có đâu lại dám làm phản. Vậy nhờ hai
tướng quân về Hứa Đô phân trần giúp tôi, thì thật may cho tôi lắm.
Lưu Đại, Vương Trung nói:
- Chúng tôi được đội ơn sâu sứ quân không giết. Nay về hầu thừa
tướng xin hết lòng tìm đường giảng giải, đem cả lớn bé già trẻ hai nhà chúng
tôi lĩnh cho sứ quân.
Huyền Đức cảm tạ.
Hôm sau Huyền Đức trả lại cả quân mã cho hai người, lại tiễn
ra ngoài thành. Lưu Đại, Vương Trung đi chưa được mười dặm, bỗng một tiếng trống
nổi, Trương Phi đứng giữa đường quát to lên rằng:
- Anh ta sao khờ thật vậy! Bắt được tướng giặc sao lại tha
ra!
Hai người ngồi trên ngựa run lẩy bẩy. Trương Phi trừng mắt, cầm
giáo xô lại. Bỗng đâu sau lưng một người tế ngựa lại mắng:
- Không được vô lễ!
Trông ra thì là Vân Trường. Lưu Đại, Vương Trung bây giờ mới
vững dạ. Vân Trường nói:
- Huynh trưởng đã tha, sao em lại không tuân lệnh?
Phi nói:
- Phen này tha, lần sau nó lại đến.
Vân Trường nói:
- Khi nào họ lại đến, sẽ giết cũng chưa muộn.
Hai người đồng thanh nói:
- Dù thừa tướng giết cả ba họ chúng tôi, chúng tôi cũng không
dám đến nữa, xin tướng quân tha cho.
Trương Phi nói:
- Cho cả Tào Tháo đến nữa, ta cũng đánh cho nó không còn manh
giáp. Lần này ta hãy gửi hai cái đầu đấy.
Lưu Đại, Vương Trung ôm đầu thui thủi đi. Quan, Trương cùng về,
nói với Huyền Đức:
- Tào Tháo tất nhiên lại đến.
Tôn Càn bảo Huyền Đức rằng:
- Từ Châu là đất trống cả bốn mặt, không ở lâu được, không bằng
chia quân đóng ở Tiểu Bái, giữ gìn Hạ Phì làm thế ỷ giốc để phòng Tào Tháo đến.
Huyền Đức nghe theo, sai Vân Trường giữ Hạ Phì, hai vợ là Cam
phu nhân và My phu nhân cũng để ở đó.
Cam phu nhân là người Tiểu Bái, My phu nhân là em My Chúc.
Còn Tôn Càn, Giản Ung, My Chúc, My Phương giữ Từ Châu, Huyền Đức và Trương Phi
đóng ở Tiểu Bái.
Lưu Đại, Vương Trung về Hứa Đô vào hầu Tào Tháo, nói việc Lưu
Bị không làm phản. Tháo giận mắng rằng:
- Những đồ làm nhục quốc thể, để chúng bây sống làm gì!
Bèn gọi tả hữu lôi ra chém.
Thế thực là:
Chó lợn đấu sao cùng hổ mạnh,
Cá tôm tranh được với rồng thiêng?
Chưa biết hai người chết sống thế nào, xem đến hồi sau mới
rõ.
Chú thích:
1. Mao Thi: kinh Thi do họ Mao chú
thích. Tương truyền: Mao Hanh người nước Lỗ, làm ra Mao Thi.
2. Làm sao ở trong đống bùn? Câu này
trích trong kinh Thi.
3. Vừa định phân trần lại gặp lúc người
ta đang có cơn giận. Câu này cũng trích ở kinh Thi).
4. Không có bằng cớ gì buộc tội kẻ địch.
5. Vua Nhị thế đời Tần, bị Triệu Cao bức
bách, phải tự tử ở cung Vọng Di.
6. Thái tông tức là Hán Văn đế.
7. Đại bản doanh của Viên Thiệu, ở đây
chỉ Viên Thiệu.
8. Đời Xuân thu, Mạnh Minh là tướng nước
Tần đánh nhau với quân nước Tấn, bị thua; vua nước Tần không hỏi tội, để cho Mạnh
Minh lập công chuộc tội, về sau Mạnh Minh đánh được quân nước Tấn.
9. Gốc mạnh mà cành yếu, thì gốc cũng
không vững; ý nói nên gây dựng lấy vây cánh.
10. Theo quan chế đời Hán, trung đài,
hiêu đài, ngoại đài, mỗi đài có chức vụ riêng biệt.
11. Ba dũng sĩ nổi tiếng ở đời cổ.
Hồi 23:
Nễ Chính Bình khỏa thân mắng giặc
Nễ Chính Bình khỏa thân mắng giặc
Cát thái y giấu độc bị hình
Tào Tháo muốn chém Lưu Đại và Vương Trung. Khổng Dung can rằng:
- Hai người vốn không phải là địch thủ của Lưu Bị, nếu thừa
tướng chém đi, tôi e mất lòng tướng sĩ.
Tháo liền tha tội, nhưng cách tuột cả chức tước và bổng lộc,
và muốn tự khởi binh đến đánh Huyền Đức. Khổng Dung can rằng:
- Nay đương mùa đông, trời rét, chưa nên động binh, đợi sang
xuân cũng chưa muộn. Thừa tướng nên sai người đến chiêu an Trương Tú, Lưu Biểu
trước đã, rồi sau hãy tính đến Từ Châu.
Tháo nghe Khổng Dung, sai Lưu Việp đến dụ Trương Tú. Việp đến
Trương Thành, trước tiên vào gặp Giả Hủ, khoe ngợi thịnh đức của Tào công. Hủ
lưu Việp ở lại nhà mình, rồi hôm sau vào gặp Trương Tú, nói chuyện việc Tào
công sai Lưu Việp đến chiêu an. Trong khi đang bàn chuyện, chợt báo cáo sứ giả
của Viên Thiệu đến. Tú cho gọi vào. Sứ giả trình thư, Tú xem xong. Đó cũng là
thư chiêu an. Giả Hủ hỏi:
- Mới rồi Viên tướng quân cất quân đánh Tào Tháo, được thua
thế nào?
Sứ giả đáp:
- Trời đông, tháng rét, còn tạm bãi binh. Nay thấy tướng quân
cùng Lưu Biểu ở Kinh Châu đều có phong độ của kẻ quốc sĩ, cho nên sai tôi lại mời.
Hủ cười, nói:
- Người về nói với Bản Sơ, anh em trong nhà còn chẳng dung được
nhau, nữa là quốc sĩ thiên hạ!
Nói rồi xé vụn bức thư ngay trước mặt sứ giả rồi đuổi sứ giả
về. Trương Tú nói:
- Hiện giờ Viên khoẻ, Tào yếu; nay xé thư mắng sứ, nếu Thiệu
đến đánh, thì làm thế nào?
Hủ nói:
- Không bằng theo với Tào Tháo.
Tú nói:
- Trước ta đã có thù với Tào Tháo, hắn dung sao được ta?
Hủ nói:
- Theo Tào có ba nhẽ phải: một là Tháo phụng chiếu thiên tử,
đánh dẹp thiên hạ; hai là bây giờ Thiệu đương cường thịnh, ta lực bé mà đi
theo, nó chẳng cho vào đâu, Tháo đang yếu ta theo tất mừng; ba là Tào Tháo có
chí lớn mưu nghiệp bá vương tất không nghĩ đến thù riêng, để rõ đức tốt của bốn
bể. Xin tướng quân đừng ngần ngại.
Tú nghe Hủ, mời Lưu Việp vào tương kiến. Việp tâng bốc thịnh
đức của Tào Tháo lên, và nói:
- Nếu thừa tướng còn nhớ oán cũ, sao lại sai tôi đến đây kết
hiếu với tướng quân?
Tú mừng lắm, lập tức cùng Giả Hủ đến Hứa Đô đầu hàng. Tú vào
bái kiến Tào Tháo, lạy ở dưới thềm. Tháo vội vàng nâng dậy, nói:
- Những lầm lỗi nhỏ, xin đừng để bụng.
Bèn phong Tú làm Dương vũ tướng quân, phong Giả Hủ làm chấp
kim ngô sứ; lại sai Tú viết thư sang chiêu an Lưu Biểu. Giả Hủ đứng lên thưa:
- Lưu Biểu thích kết nạp những bậc danh lưu[1], nay nên sai một
danh sĩ đi, mới có thể chiêu hàng được.
Tháo hỏi Tuân Du:
- Ai đi được?
- Khổng Văn Cử có thể đi được.
Tháo lấy làm phải. Du ra gặp Khổng Dung, nói:
- Thừa tướng muốn có một danh sĩ, sung vào chức hành nhân[2],
ông có nhận được chức này không?
Dung nói:
- Tôi có người bạn tên là Nễ Hành, tự là Chính Bình, tài giỏi
gấp mười tôi, người ấy nếu được hầu ở bên cạnh vua, không những là sai đi sứ được
và có thể sung chức hành nhân. Nên tiến lên để thiên tử dùng.
Rồi viết ngay tờ biểu dâng thiên tử. Bài biểu như sau:
“Tôi nghĩ: nước lớn ngập tràn, vua mong người giúp, tìm khắp
bốn phương, mời đón những bậc hiền tuấn[3]. Xưa nay Thế tông[4] kế vị, mở
rộng cơ nghiệp; gặp buổi thịnh trị, mọi kẻ sĩ hưởng ứng đến giúp. Bệ hạ là bậc
minh quân, vâng nối nghiệp lớn, gặp phải ách vận, lo bận suốt ngày; núi non
thiêng liêng, sinh ra nhiều người lạ. Tôi trộm thấy một ẩn sĩ ở Bình Nguyên tên
là Nễ Hành, năm nay hai mươi bốn tuổi, tên tự là Chính Bình, phẩm chất kiên
trinh, tài năng siêu việt; theo nghề văn học, hiểu biết rộng sâu. Mắt thấy cái
gì, miệng nói ngay ra được; tai nghe cái gì, bụng nhớ mãi không quên. Tính tình
hợp với đạo lý, suy nghĩ như có thần minh.
“So với người khéo suy tính như Hoằng Dương, người có tài nhớ
lâu như An Thế[5], Nễ Hành chẳng thua kém gì. Trung trinh chính trực, chí khí
trong sạch như tuyết sương, nghe thấy điều thiện thì giật mình tỉnh ngộ, ghét kẻ
gian ác như thù địch; so với đức hạnh của Nhâm Toạ, tiết tháo của Sử Ngư[6] cũng
không hơn được Nễ Hành. Hàng trăm chim ưng, không bằng một chim bằng. Nếu cho
Hành được ở trong triều, chắc có nhiều việc tốt đẹp. Biện luận hăng hái, khí thế
mạnh mẽ, có thể giải quyết được nhiều nghi vấn, và cho đi chống với địch cũng
có thừa sức.
“Xưa Giả Nghị[7] muốn đi thử tài ở cõi ngoài, toan dùng
mưu mẹo bắt chúa Thiền Vu; Chung Quân[8] định lấy dải mũ dài khiên chế nước
Việt; chí khí khảng khái của những thanh niên, rất được đời trước khen ngợi; gần
đây Lộ Toái, Nghiêm Tượng cũng vì có tài lạ được cân nhắc làm đài lang; Nễ Hành
có thể ví được với những người ấy. Nếu cho Nễ Hành được như rồng bay trên trời,
chim vỗ cánh trên mây, nổi tiếng ở ngôi Tử Vi[9] nhả ánh sáng hồng nghê[10],
tất có thể làm vẻ vang cho sĩ phu trong triều, và thêm sự oai nghiêm cho bốn
cõi. Nơi tấu khúc quảng nhạc ở Quân Thiên[11] phải có vẻ kì diệu; chốn
cung điện nhà vua, nên có thứ báu phi thường, cũng như lũ Nễ Hành, thật là hiếm
có. Những điệu hay như khúc Khích Sở, khúc Dương Kha[12], đều là nghề nhạc phải
chuộng; những ngựa hay như ngựa phí thỉ, ngựa yêu niễu, phi chạy rất nhanh đều
là bọn Lương, Nhạc[13] rất cần. Dù ý kiến nhỏ mọn, tôi cũng xin bạo dạn
tâu lên vua nghe. Nhà vua dùng người rất cẩn thận, xin hãy thử xem. Xin cho
phép Hành là người áo vải được gọi vào bệ kiến. Nếu Hành không có tài năng gì,
tôi xin cam chịu dối vua.”
Vua xem xong bài biểu, đưa cho Tào Tháo, Tháo sai người đi mời
Hành đến. Hành đến, lễ xong, Tháo không mời ngồi. Hành ngửng mặt lên trời than
rằng:
- Giời đất rộng thế này, sao không có một người nào?
Tháo nói:
- Thủ hạ ta vài mươi người đều là anh hùng đời nay, sao bảo
là không có người?
Hành nói:
- Xin cho biết.
Tháo nói:
- Tuân Úc, Tuân Du, Quách Gia, Trình Dục, có nhiều mưu trí,
dù Tiêu Hà, Trần Bình ngày xưa vị tất đã bằng. Trương Liêu, Hứa Chử, Lý Điển,
Nhạc Tiến khoẻ không ai địch nổi, dù Xầm Bành, Mã Vũ ngày xưa chưa thấm vào
đâu. Lã Kiền, Mãn Sủng làm tùng sự; Vu Cấm, Từ Hoảng làm tiên phong; Hạ Hầu Đôn
là bậc kì tài trong thiên hạ; Tào Hồng là vị phúc tướng trên đời. Sao dám bảo
là không có người.
Hành cười, đáp rằng:
- Ông nói lầm rồi! Những nhân vật ấy, tôi biết cả. Tuân Úc
nên sai đi viếng tang thăm bệnh, Tuân Du nên sai đi giữ mả coi mồ; Trình Dục
nên cho đứng gác cửa ngõ; Quách Gia nên để bình phú ngâm thơ; Trương Liêu cho
đi đánh trống khua chiêng; Hứa Chử cho đi chăn trâu dắt ngựa; Nhạc Tiến cho đi
nhận thư đọc chiếu; Lý Điển cho đi chạy giấy đưa thư; Lã Kiền nên để mài đao
đúc gươm; Mãn Sủng nên để uống rượu ăn dấm; Vu Cấm thì được việc khiêng ván đắp
tường; Từ Hoảng thì giỏi về mổ lợn giết chó; Hạ Hầu Đôn thì gọi là tướng quân
có đủ tay chân; Tào Hồng thì gọi là thái thú vòi tiền; còn những đồ kia là đồ
giá áo túi cơm, thùng rượu bị thịt cả.
Tháo giận hỏi:
- Mày có tài gì?
Hành đáp:
- Thiên văn, địa lý, không thứ gì không biết; tam giáo, cửu
lưu[14] không thứ gì không hiểu, trên có thể giúp nhà vua làm được bậc
Nghiêu, Thuấn, dưới có thể sánh đạo đức với bậc Khổng, Nhan. Ta nào thèm bàn chuyện
với hạng người tầm thường đâu!
Bấy giờ Trương Liêu đứng bên cạnh, tuốt gươm toan chém Nễ
Hành, Tào Tháo nói:
- Ta đương thiếu một cổ lại (người đánh trống), nay mai trong
triều có việc yến hạ nên sai Hành sung vào chức ấy.
Hành chẳng chối từ gì cả, nhận lời rồi đi ra.
Liêu hỏi Tháo:
- Người ấy nói xấc, sao không giết đi?
Tháo nói:
- Người ấy vốn có hư danh, gần xa đều biết, nay giết nó đi, sợ
thiên hạ chê ta không biết dùng người. Nó đã tự khoe khoang thế, ta bắt làm cổ
lại cho nó nhục.
Hôm sau Tháo mở yến tiệc trên sảnh đường thết các tân khách,
sai cổ lại ra đánh trống. Người cổ lại cũ nói rằng:
- Đánh trống phải mặc áo mới.
Hành cứ mặc áo cũ đi vào, đánh ba hồi trống theo khúc Ngư
Dương[15], âm điệu tiêu tao lắm, chìm bổng nhịp nhàng như tiếng kim tiếng thạch.
Những người ngồi ăn nghe đều cảm thương chảy nước mắt. Tả hữu quát rằng:
- Sao không thay áo?
Hành cởi tuột quần áo, khoả thân đứng dậy, khách ngồi ai cũng
che mặt. Hành lại khoan thai mặc quần áo, sắc mặt không thay đổi. Tháo mắng:
- Trên chỗ miếu đường, sao được vô lễ?
Hành nói:
- Dối vua lừa trên mới gọi là vô lễ, ta lộ cái hình của cha mẹ
sinh ra là để tỏ cái thân thể thanh bạch của ta đấy!
Tháo hỏi:
- Mày là thanh bạch, thì ai là dơ đục?
Hành đáp:
- Mày không biết người hiền, người ngu là mắt đục; không học
thi, thư, là mồm đục; không nghe lời trung là tai đục; không hiểu chuyện xưa
nay, là thân đục; không dung các chư hầu là bụng đục; thường muốn cướp ngôi là
ruột đục. Tao là danh sĩ thiên hạ, mày dùng làm cổ lại, khác gì Dương Hoá khinh
đức Khổng Tử, Tang Thương chê thầy Mạnh Tử. Mày muốn dựng nghiệp vương bá mà lại
khinh người ta thế à?
Bấy giờ Khổng Dung cũng ngồi ở đó, sợ Tháo giết Nễ Hành,
khoan thai tiến lên nói:
- Nễ Hành tội bằng kẻ tù đồ, không xứng đáng với lòng mong đợi
người hiền của tướng công.
Tháo trỏ Nễ Hành bảo:
- Nay cho người sang Kinh Châu, nếu dụ được Lưu Biểu qua hàng
ta sẽ dùng ngươi làm chức công khanh.
Hành không chịu đi. Tháo sai chuẩn bị ba con ngựa, bắt hai
người kèm thúc phải đi, lại sai văn võ thủ hạ đặt tiệc ở ngoài cửa đông để tiễn.
Tuân Úc dặn mọi người rằng:
- Hễ thấy Nễ Hành đến, đừng ai đứng dậy.
Khi Hành đến, xuống ngựa vào chào, mọi người đều ngồi yên.
Hành cất tiếng khóc hu hu, Tuân Úc hỏi:
- Cớ sao khóc?
Hành đáp:
- Đi trong đám áo quan người chết, sao lại không khóc.
Mọi người đều nói:
- Chúng ta là thây chết, còn mày thì là con ma điên không đầu.
Hành nói:
- Tao là bầy tôi nhà Hán, không vào đảng với Tào man, sao chẳng
có đầu?
Mọi người muốn giết Hành, Úc ngăn lại nói:
- Nó như con chuột, con sẻ, giết chẳng bõ bẩn gươm.
Hành nói:
- Tao là chuột, sẻ còn tính người. Chúng bay chỉ giống sâu bọ[16]!
Mọi người tức giận đứng dậy về cả.
Hành đến Kinh Châu vào yết kiến Lưu Biểu, miệng tuy khen ngợi
đức tốt, nhưng vẫn có ý trào phúng. Biểu không bằng lòng, sai đến Giang Hạ gặp
Hoàng Tổ. Có người hỏi Biểu rằng:
- Nễ Hành dám xấc đùa với chúa công, sao chúa công không giết
đi?
Biểu nói:
- Nễ Hành nhiều lần làm nhục Tào Tháo. Tháo không giết, sợ mất
lòng thiên hạ, cho nên mới sai hắn đến đây, có ý mượn tay ta giết hắn để cho ta
mắc tiếng hại người hiền. Bởi vậy ta sai Hành đến gặp Hoàng Tổ, để cho Tháo biết
là ta không dại gì đâu.
Mọi người đều khen phải.
Bấy giờ Viên Thiệu cũng sai sứ đến. Biểu hỏi các mưu sĩ:
- Bản Sơ sai sứ đến, Mạnh Đức cũng sai Nễ Hành đến nên theo
bên nào?
Tùng sự trung lang tướng là Hàn Tung đứng dậy nói:
- Nay hai nhà ấy đang kình địch nhau, tướng quân nếu muốn làm
việc lớn, nên thừa cơ xem bên nào được thì đánh, nếu không bên nào giỏi thì
theo. Nay Tào Tháo khéo dùng binh, người hiền tuấn theo nhiều, thế tất đánh
Viên Thiệu trước, rồi đem binh quay sang Giang Đông, tôi sợ tướng quân không chống
nổi. Chi bằng đem Kinh Châu hàng Tào Tháo, Tháo tất trọng đãi tướng quân.
Biểu nói:
- Người hãy đến Hứa Đô, xem động tĩnh sao đã, rồi sẽ làm sau.
Tung nói:
- Vua tôi đều định phân rõ ràng. Nay tôi nhờ tướng quân, dù
tướng quân sai tôi nhảy vào nước sôi, lửa nóng, tôi không dám từ. Nếu tướng
quân thực lòng trên thờ thiên tử, dưới theo Tào công thì hãy sai tôi đi. Nếu
còn dùng dằng chưa quyết, một khi tôi đến kinh sư, thiên tử cho tôi một chức
quan nhỏ, thì bấy giờ tôi là tôi con của thiên tử, không còn là người liều chết
theo tướng quân nữa.
Biểu nói:
- Người cứ đi. Ta đã có chủ ý.
Tung đến Hứa Đô ra mắt Tào Tháo. Tháo cho Tung làm thị trung,
lĩnh chức thái thú ở Linh Lăng.
Tuân Úc nói:
- Thằng Tung đến đây để do thám, chưa có công lao gì, sao đã
trọng thưởng cho chức ấy? Nễ Hành chưa thấy tin tức gì, sao thừa tướng lại lờ
đi không hỏi.
Tháo nói:
- Nễ Hành làm nhục ta quá, cho nên mượn tay Lưu Biểu giết nó
đi, còn hỏi làm gì?
Tháo sai Hàn Tung về Kinh Châu dụ Lưu Biểu. Tung về ra mắt
Lưu Biểu, xưng tụng thịnh đức triều đình, và khuyên Biểu cho con vào chầu. Biểu
giận lắm, nói:
- Mày hai lòng chăng?
Toan sai đem chém. Tung kêu to:
- Tướng quân phụ tôi, tôi có phụ tướng quân đâu.
Khoái Lương nói:
- Trước khi đi, Tung đã phân trần rõ rồi.
Lưu Biểu bèn tha cho Tung. Lúc ấy có người vào báo:
- Hoàng Tổ chém Nễ Hành rồi.
Biểu hỏi cớ làm sao, người báo thưa:
- Hoàng Tổ, Nễ Hành cùng uống rượu, hai người đều say. Tổ hỏi
Hành: “Ngươi ở Hứa Đô có biết ai là người khá?” Hành đáp: “Có thằng bé nhớn là
Khổng Văn Cử, thằng bé con là Dương Đức Tổ, ngoài hai đứa ấy, không có đứa nào
nữa!” Tổ hỏi: “Như ta thì thế nào?” Hành đáp: “Người như tượng thần trong miếu,
tuy được người ta cúng tế nhưng chẳng thiêng liêng gì!” Tổ giận nói: “Mày bảo
tao là tượng gỗ à?” rồi sai đem chém. Nễ Hành chửi Hoàng Tổ đến lúc chết không
dứt mồm.
Lưu Biểu nghe tin Nễ Hành chết, cũng thương hại giờ lâu, rồi
sai táng bên bãi Anh Võ.
Người sau có thơ than rằng:
Hoàng Tổ ra chi lượng hẹp hòi
Nễ như ngọc quý bỗng chôn vùi
Đến nay qua viếng châu Anh Võ
Chỉ thấy vô tình nước chảy xuôi…
Tào Tháo nghe tin Nễ Hành bị hại, cười nói:
- Gươm lưỡi của kẻ hủ nho, mình lại giết mình!
Tháo không thấy Lưu Biểu đến hàng, muốn đem ngay quân đến hỏi
tội, Tuân Úc can:
- Viên Thiệu chưa dẹp được, Lưu Biểu chưa giết được, mà muốn
dùng binh ở Giang, Hán, khác nào bỏ chỗ gan ruột mà chỉ nhìn chân tay. Nay nên
diệt Viên Thiệu trước, rồi đánh Lưu Bị, còn Giang, Hán thì chỉ quét một nhát là
sạch.
Tháo nghe theo.
Đây nói Đổng Thừa từ Huyền Đức ra đi, ngày đêm bàn soạn cùng
lũ Vương Tử Phục, nhưng không nghĩ được kế gì.
Năm Kiến An thứ năm (200), nhân ngày nguyên đán, các quan vào
chầu mừng vua. Đổng Thừa thấy Tào Tháo ngang ngược kiêu căng quá, tức giận
thành bệnh. Vua biết tin có sai quan thái y đến chữa. Quan thái y là người Lạc
Dương, họ Cát tên Thái, tự là Xưng Bình, người ta vẫn gọi là Cát Bình, là thầy
thuốc giỏi lúc bấy giờ, bình đến phủ Đổng Thừa, dùng thuốc điều trị, sớm tối
không rời lúc nào. Bình thường thấy Đổng Thừa thở ngắn thở dài nhưng không dám
hỏi rõ.
Gặp hôm rằm tháng giêng, Cát Bình cáo từ xin về nhà, Đổng Thừa
mời ở lại, hai người cùng uống rượu. Uống đến canh khuya, Thừa mỏi mệt, cứ mặc
cả áo, ngả mình xuống ngủ. Chợt thấy người báo:
Thừa ra đón vào.
Tử Phục nói:
- Việc lớn xong xuôi rồi!
Thừa hỏi:
- Xin cho biết đầu đuôi.
Tử Phục nói:
- Lưu Biểu kết liên với Viên Thiệu, khởi năm mươi vạn quân
chia làm mười đường kéo đến, Mã Đằng kết liên với Hàn Toại, khởi quân Tây Lương
bảy mươi hai vạn từ mặt bắc đánh lại. Tào Tháo đem hết cả binh mã ở Hứa Xương,
chia đường ra địch, trong thành bỏ không. Nếu chúng ta họp cả gia nhân năm nhà
cũng được hơn một nghìn người. Nhân đêm nay trong tướng phủ ăn tiệc to, vui tiết
nguyên tiêu, chúng ta vây tướng phủ, xông vào giết Tào. Không nên để lỡ cơ hội
này.
Thừa mừng lắm, lập tức gọi gia nhân nhặt nhạnh các đồ khí giới,
tự mình mặc áo giáp, cầm giáo lên ngựa, hội ở cửa trong tướng phủ, cùng tiến
quân vào. Canh hai đêm hôm ấy, các quan đều đến. Đổng Thừa tay cầm bảo kiếm đi
bộ thẳng vào, thấy Tào Tháo đang ăn tiệc ở nhà sau, gọi to lên rằng: “Giặc Tháo
không được chạy!” rồi phất gươm một nhát, Tháo gục ngay xuống… Thừa mở choàng mắt
dậy, thì là một giấc chiêm bao. Miệng Thừa còn lảm nhảm chửi Tào tặc.
Cát Bình đến trước mắt, hỏi:
- Ông muốn hại Tào công à?
Thừa sợ cứng lưỡi không nói. Cát Bình nói:
- Xin quốc cữu cứ yên tâm, tôi tuy là một thầy thuốc, nhưng
không bao giờ quên nhà Hán. Mấy hôm nay tôi thấy quốc cữu thở than, chưa dám hỏi.
Vừa rồi nghe lời nói trong mộng, biết rõ thực tình, xin đừng giấu giếm; nếu quốc
cữu có dùng được tôi vào việc gì, dù bị giết cả chín họ, tôi cũng không hối hận
gì.
Thừa bưng mặt khóc:
- Chỉ sợ ngươi không có bụng thực!
Bình bèn cắn đứt một ngón tay ra để thề. Thừa đem tờ mật chiếu
cho Bình xem, rồi nói:
- Nay mưu việc chưa xong, là vì Huyền Đức, Mã Đằng đi cả.
Không nghĩ được kế gì, nên ta thương cảm thành bệnh.
Cát Bình nói:
- Không cần các ông phải dụng tâm, tính mệnh Tào Tháo chỉ
trong tay tôi.
Thừa hỏi vì cớ gì. Bình nói:
- Tháo thường có bệnh nhức đầu, đau thấu xương tuỷ. Mỗi khi bệnh
phát là gọi tôi đến chữa. Phỏng thử nay mai có gọi, chỉ cho một liều thuốc độc
là nó đi đời.
Thừa hỏi:
- Nếu được như thế, cứu được xã tắc nhà Hán, đều nhờ ông cả.
Cát Bình từ giã trở về. Thừa mừng thầm, đi vào nhà trong, gặp
ngay người đầy tớ là Trần Khánh Đồng đang cùng con hầu là Vân Anh thì thầm nói
chuyện với nhau trong xó tối.
Thừa cả giận gọi tả hữu sai đem giết cả hai người. Phu nhân
can xin tha chết, chỉ đánh mỗi người bốn mươi trượng, rồi đem Khánh Đồng giam
vào trong buồng lạnh.
Khánh Đồng tức lắm, nhân đêm bẻ gãy khoá, nhảy qua tường ra
ngoài, chạy tắt ngay đến phủ Tào Tháo cáo có việc cơ mật. Tháo gọi vào trong
nhà kín gạn hỏi. Khánh Đồng nói:
- Tôi thấy Vương Tử Phục, Ngô Tử Lan, Chủng Tập, Ngô Thạc, Mã
Đằng, năm người ở trong phủ chủ tôi, bàn việc bí mật, chắc là bày mưu hại thừa
tướng. Chủ tôi đem một đoạn lụa trắng, không biết viết những gì. Mấy hôm nay
Cát Bình cắn ngón tay ăn thề, tôi cũng trông thấy.
Tào Tháo giấu Khánh Đồng trong phủ. Đổng Thừa tưởng là nó trốn
đi phương khác, cũng chẳng tìm bắt.
Đến hôm sau, Tào Tháo giả tảng nhức đầu, cho mời Cát Bình đến
chữa thuốc.
Cát Bình nghĩ thầm:
- Số thằng này đến ngày chết!
Bèn ngầm đem một lọ thuốc độc vào phủ. Tháo nằm trên giường,
sai Bình bốc thuốc. Bình nói:
- Bệnh này, thừa tướng chỉ uống một nước thuốc là khỏi.
Tháo sai đem siêu thuốc đến, sắc ngay trước mặt. Thuốc sắp cạn,
Bình ngầm đổ thuốc độc vào, rồi rót ra, dâng lên. Tháo đã biết trước, cố ý chậm
chạp không uống vội. Bình nói:
- Thuốc đương nóng, thừa tướng uống ngay cho ra mồ hôi thì khỏi.
Tháo đứng lên nói:
- Ngươi đã đọc sách, tất biết lễ nghĩa. Vua có bệnh uống thuốc,
bầy tôi phải nếm trước; bố có bệnh uống thuốc, con phải nếm trước. Ngươi là tâm
phúc với ta, sao không nếm đi?
Cát Bình nói:
- Thuốc để trị bệnh, sao lại bảo người nếm được?
Bấy giờ Cát Bình biết là việc đã bị lộ, bước nhanh lên trước
định nắm lấy tai Tháo đè xuống để đổ thuốc vào. Tháo đẩy thuốc ra, đổ cả xuống
đất, gạch đều nứt vỡ. Tháo chưa kịp nói, tả hữu đã bắt ngay Cát Bình trói lại.
Tháo nói:
- Tao có đau đâu, cốt thử mày đó thôi! Mày thực có bụng hại
tao!
Nói rồi gọi hai mươi người ngục tốt lực lưỡng điệu Bình ra vườn
sau khảo tra. Tháo ngồi trên đình, Bình bị trói nằm dưới đất. Bình mặt mũi tươi
tỉnh như thường, không hề sợ hãi. Tháo cười mà hỏi rằng:
- Thứ mày là một thằng thầy thuốc, sao dám mưu hại tao? Tất
nhiên có người xúi giục, hễ xưng ra thì tao tha cho.
Bình mắng:
- Mày là thằng giặc dối vua lừa trên, cả thiên hạ đều muốn giết
mày, có gì một mình tao!
Tháo lại hai ba lần tra hỏi. Bình giận nói:
- Tự tao muốn giết mày, sao lại bảo có người sai tao? Nay việc
không thành, chỉ có chết là cùng.
Tháo giận lắm sai ngục tốt đánh thật đau. Đánh suốt hai giờ[17] nát
da xé thịt, máu chảy đầy thềm. Tháo sợ đánh chết không có ai làm dối chứng, bèn
sai ngục tốt đem ra chỗ tĩnh, tạm cho nghỉ ngơi.
Tháo truyền lệnh hôm sau mở tiệc mời các quan đến uống rượu.
Hôm sau các quan đến cả, duy có Đổng Thừa cáo ốm không đến. Lũ Vương Tử Phục sợ
Tháo sinh nghi, đành phải có mặt. Tháo mở tiệc trong hậu đường. Rượu được vài
tuần, Tháo nói:
- Trong bữa tiệc chẳng có gì làm vui, nay tôi có một người có
thể làm các quan tỉnh rượu.
Liền gọi hai người ngục tốt:
- Điệu ra đây cho ta!
Một lát thấy Cát Bình, cổ đeo một cái gông dài, bị lính điệu
đến. Tháo nói:
- Các quan không biết: người này kết liên với ác đảng, muốn
làm phản triều đình, mưu hại tôi. Nay trời làm cho mưu gian của nó bại lộ, xin
các quan nghe lời cung của nó.
Tháo sai đánh cho một chập, Bình nằm lịm ở dưới đất. Lính lấy
nước phun vào mặt, Bình tỉnh lại trợn mắt nghiến răng mắng:
- Giặc Tháo! Không giết tao đi, còn đợi đến bao giờ!
Tháo nói:
- Trước có sáu người đồng mưu, cộng mày vào nữa là bảy, có phải
không?
Bình chỉ mắng chửi ầm lên. Lũ Vương Tử Phục bốn người đưa mắt
nhìn nhau, khác nào ngồi trên bàn chông. Tháo sai lính vừa đánh vừa lấy nước
phun vào mặt, Bình tuyệt nhiên không hở miệng van xin. Tháo thấy không xưng,
sai hãy mang đi.
Các quan tan tiệc trở về. Tháo chỉ lưu bọn Vương Tử Phục bốn
người ở lại để ăn tiệc đêm. Bốn người không còn hồn vía nào nữa phải ở lại.
Tháo nói:
- Đáng lẽ tôi cũng không muốn lưu bốn ông lại làm gì, nhưng
có chút việc muốn hỏi. Bốn ông cùng Đổng Thừa bàn nhau những việc gì?
Tử Phục nói:
- Không có bàn việc gì cả!
Tháo lại hỏi:
- Thế trên mảnh lụa trắng, viết những gì?
Lũ Tử Phục đều chối. Tháo lại sai gọi Khánh Đồng ra làm chứng.
Tử Phục nói:
- Mày trông thấy ở chỗ nào!
Khánh Đồng nói:
- Các người sáu người bí mật họp một chỗ viết chữ lên mảnh lụa,
chối sao được!
Tử Phục nói:
- Thằng này là đầy tớ thông dâm với nàng hầu của quốc cữu, vì
phải đòn nên tức mà vu càn cho chủ, xin thừa tướng đừng nghe.
Tháo nói:
- Cát Bình định đánh thuốc độc cho ta, phi Đổng Thừa sai nó
thì còn ai?
Lũ Tử Phục đều nói là không biết.
Tháo nói:
- Bây giờ thú ngay còn có thể tha được. Nếu đợi đến việc vỡ
ra thì không sao dung được nữa đâu!
Lũ Tử Phục đều nói là không có việc ấy.
Tháo quát tả hữu đem bốn người bỏ ngục.
Hôm sau, Tào Tháo đem mọi người thẳng đến phủ Đổng Thừa nói
là để thăm bệnh.
Thừa phải ra đón. Tháo hỏi:
- Sao đêm qua quốc cữu không lại dự tiệc?
Thừa nói:
- Bệnh chưa được khỏi, nên không dám đi.
Tháo nói:
- Đó là cái bệnh lo việc quốc gia chứ gì?
Thừa giật mình. Tháo hỏi:
- Quốc cữu có biết việc Cát Bình không?
Thừa nói không biết. Tháo cười mát nói:
- Sao quốc cữu lại không biết?
Rồi bảo tả hữu:
- Điệu nó ra đây để chữa bệnh cho quốc cữu.
Đổng Thừa rụng rời cả chân tay.
Được một lát, hai mươi tên ngục tốt dắt Cát Bình đến dưới thềm.
Bình mắng lớn:
- Nghịch tặc Tào Tháo!
Tháo bảo Thừa:
- Cát Bình đã xưng ra bọn Tử Phục bốn người, ta đã bắt giam cả
rồi, nay còn một người nữa, chưa bắt được.
Nhân hỏi Bình:
- Ai sai mày đến đánh thuốc độc cho tao, phải xưng ngay lập tức?
Bình nói:
- Trời sai tao đến giết thằng nghịch tặc!
Tháo giận thét đánh. Trên mình Cát Bình không còn chỗ nào
đánh được nữa.
Thừa ngồi trông, lòng như dao cắt. Tháo lại hỏi Bình:
- Mày mười ngón tay, sao còn có chín?
Bình nói:
- Còn ngón nữa tao cắn ra để thề giết thằng quốc tặc rồi!
Tháo sai mang dao chặt nốt chín ngón tay Bình và bảo:
- Cắt cả để cho mày ăn thề!
Bình nói:
- Mất tay, ta hãy còn mồm để nuốt giặc, còn lưỡi để chửi giặc.
Bình nói:
- Hãy thong thả! Chịu hình không nổi, cởi trói ra để ta xưng.
Tháo nói:
- Thả chẳng ngại gì!
Bèn sai cởi trói ra. Bình đứng dậy quay mặt về cửa khuyết, thụp
xuống lạy, và nói:
- Tôi nay không giết được giặc để cứu nước, cũng là số trời.
Lạy xong, đập đầu xuống thềm mà chết. Tháo sai xé thây ra để
hiệu lệnh. Bấy giờ là tháng giêng, năm thứ năm, niên hiệu Kiến An.
Sử quan có thơ rằng:
Hán triều đang vận yếu
Thầy thuốc có Xưng Bình
Xin thề trừ gian đảng
Liều thân báo thánh minh
Cực hình không chịu khuất,
Chết thảm vẫn như sinh.
Mười ngón đầm đìa máu
Muôn thuở còn lưu danh.
Tháo thấy Cát Bình đã chết, sai lính dẫn Khánh Đồng vào. Tháo
hỏi:
- Quốc cữu dễ cũng biết người này chứ?
Thừa giận quát lên rằng:
- Quân đầy tớ đi trốn sao lại về đây, nên đem giết đi!
Tháo nói:
- Người ấy tố cáo kẻ làm phản, nay đến đối chứng, ai dám giết?
Thừa nói:
- Sao thừa tướng lại để tai nghe lời một đứa đi trốn?
Tháo nói:
- Bọn Vương Tử Phục ta đã bắt cả, chúng đã cung xưng rõ ràng,
mày còn chối à?
Lập tức sai tả hữu lôi Đổng Thừa xuống, cho lính vào khám xét
chỗ buồng nằm, tìm được tờ mật chiếu khâu trong đai và tờ nghĩa trạng. Tháo đọc
xong, cười nói:
- Lũ chuột, sao dám làm như thế?
Rồi sai bắt cả nhà Đổng Thừa tống giam, không để cho một người
nào chạy thoát.
Tháo về phủ đem tờ chiếu và tờ trạng cho các mưu sĩ xem, bàn
muốn bỏ Hiến đế, lập vua khác.
Thế thực là:
Mấy hàng chiếu đỏ mơ thành hão
Một mảnh thư thề xảy vạ to!
Chưa biết tính mệnh Hiến đế ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Chú thích:
1. Người có danh vọng.
2. Chức sứ giả.
3. Bốn câu đầu đại ý nói lúc loạn phải cần
người hiền.
4. Chỉ Hán Vũ đế, đời có nhiều nhân tài.
5. Tang Hoằng Dương, một nhà giỏi về kế
toán tài chính; Trương An Thế, một người có tài nhớ lâu, cái gì đã xem, không
bao giờ quên.
6. Nhâm Toạ người đời Chiến quốc, làm
quan nước Nguỵ, tính rất trung trực, thường kể những lỗi lầm của vua nước Nguỵ
không hề kiêng nể. Sử Ngư đời Xuân thu, làm quan nước Vệ, liều chết can vua nước
Vệ.
7. Giả Nghị người đời Tây Hán, muốn sang
sứ Nung Nô dụ chúa Thiền Vu.
8. Chung Quân đi sứ Nam Việt dụ được Triệu
Uý Đà.
9. Tên một toà sao trên trời; chỉ triều
đình nhà vua.
10. Cầu vồng và mống.
11. Chỗ Ngọc hoàng thượng đế ở.
12. Tên hai khúc nhạc hay.
13. Tên hai người đời xưa sành xem tướng
ngựa.
14. Tam giáo: đạo Nho, đạo Lão, đạo Phật;
Cửu lưu; Nho giáo, Đạo gia, Âm dương gia, Danh gia, Mặc gia, Pháp gia, Tung
hoành gia, Tạp gia, Nông gia.
15. Tên một điệu nhạc bi đát.
16. Nguyên văn là khoả trùng: con tò vò.
17. Đời trước, theo 12 chi: Tý, Sửu, Dần,
Mão,… gọi cả ngày đêm là 12 giờ.
Hồi 24:
Quốc tặc hành hung giết quý phi
Hoàng thúc thua chạy sang Viên Thiệu
Tào Tháo xem chiếu xong, bàn với các mưu sĩ muốn bỏ Hiến đế
đi, tìm người nào có đức lập nên. Trình Dục can rằng:
- Minh công sở dĩ oai khắp bốn phương, hiệu lệnh được thiên hạ,
cũng là bởi phụng danh hiệu nhà Hán. Nay minh công chưa dẹp được các chư hầu,
mà làm ngay việc phế lập, tất là gây cái cớ cho thiên hạ khởi binh đó.
Tháo mới thôi, chỉ đem bọn Đổng Thừa năm người và già trẻ mấy
họ ấy, điệu ra các cửa thành chém hết. Cả thảy bảy trăm người bị tàn sát. Quan
dân trong thành ai trông thấy cũng ứa nước mắt.
Đời sau có thơ than Đổng Thừa rằng:
Mật chiếu trong đai dặn
Lời vua cửa cấm truyền
Công to từng cứu giá
Nay lại đội ơn trên
Nạn nước lo thành bệnh
Trừ gian mộng chẳng quên
Chớ kể thành hay bại
Nghìn thu trung nghĩa bền!
Lại có thơ than bọn Vương Tử Phục bốn người rằng:
Ký tên mảnh lụa phận tôi con,
Khảng khái mong đền nghĩa bể non.
Trăm miệng khá thương buồng mật đỏ,
Nghìn năm còn mãi tấm lòng son!
Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi, cũng chưa nguôi hết cơn giận,
đeo gươm vào cung để giết Đổng quý phi. Quý phi là em gái Đổng Thừa đã có mang
năm tháng.
Hôm ấy, vua ngồi trong hậu cung, đang cùng với Phục hoàng hậu
bàn việc Đổng Thừa, chưa biết tin tức làm sao. Bỗng thấy Tào Tháo đeo gươm vào
cung, mặt hầm hầm giận, vua sợ thất sắc, Tháo hỏi:
- Đổng Thừa mưu làm phản, bệ hạ biết không?
Vua tảng nghe nhãng, nói:
- Đổng Trác đã bị giết rồi kia mà!
Tháo quát to:
- Không phải Đổng Trác, mà là Đổng Thừa!
Vua run cầm cập nói:
- Trẫm thực không biết.
Tháo lại hỏi:
- Cắn ngón tay lấy máu viết mật chiếu, đã quên rồi à?
Vua không biết trả lời thế nào. Tháo thét võ sĩ bắt Đổng phi
đến. Vua vội vàng nói:
- Đổng phi có mang năm tháng, xin thừa tướng thương cho.
Tháo nói:
- Nếu không phải lòng trời làm cho mưu gian bại lộ, thì ta đã
bị hại rồi. Há lại cho đứa con gái này sống để gây vạ về sau cho ta.
Phục hậu nói:
- Xin hãy đem Đổng phi giam ra ngoài lãnh cung, cho nó sinh nở
xong giết cũng chưa muộn.
Tháo nói:
- Muốn lưu cái giống nghịch ấy lại để về sau báo thù cho mẹ
hay sao?
Đổng phi khóc nói:
- Xin cho vẹn toàn thân thể mà chết, đừng lột áo xống.
Tháo sai đem tấm lụa trắng đến để trước mặt Đổng phi. Vua
khóc bảo phi:
- Ái khanh xuống suối vàng đừng có oán trẫm!
Nói xong khóc như mưa, Phục hậu cũng nức nở khóc.
Tháo giận nói:
- Lại còn giở cái thói đàn bà con trẻ à?
Rồi quát võ sĩ đưa Đổng phi ra thắt cổ ở cửa cung.
Người sau có thơ than rằng:
Ân ái đền xuân cũng uổng thôi,
Trứng rồng tan vỡ đáng thương ôi!
Đường đường đế chủ không sao cứu,
Che mặt nhìn suông nước mắt trôi…
Tào Tháo giết Đổng phi rồi truyền lệnh cho quân giữ cung rằng:
- Từ nay về sau những người ngoại thích và tôn tộc nhà vua
không được phép ta mà tự tiện vào cung thì cứ chém. Những người canh giữ không
cẩn thận cũng bị tội như thế.
Tháo lại sai ba nghìn quân tâm phúc sung làm quân ngự lâm,
cho Tào Hồng thống lĩnh để đề phòng và tra xét.
Tháo lại bảo Trình Dục rằng:
- Nay bọn Đổng Thừa tuy đã bị giết, nhưng còn Mã Đằng, Lưu Bị
là những người còn sót ở trong bọn ấy, không trừ không xong.
Dục nói:
- Mã Đằng hiện đóng quân ở Tây Lương, chưa dễ trừ được. Nên
đưa thư uý lạo, đừng cho họ sinh nghi, rồi dụ vào kinh đô, sẽ tìm cách trị. Còn
Lưu Bị, hiện ở Từ Châu, chia quân giữ thế ỷ giốc, cũng không nên khinh địch. Vả
lại Viên Thiệu đóng quân ở Quan Độ, thường có ý dòm ngó Hứa Đô. Nếu ta đánh Lưu
Bị, Bị tất nhiên sẽ cầu cứu Viên Thiệu, Thiệu sẽ nhân dịp kinh đô bỏ trống, đem
quân đến đánh úp thì làm thế nào?
Tháo nói:
- Lưu Bị là kẻ hào kiệt, nếu không đánh ngay, đợi nó thành
vây cánh rồi, thì khó lòng trị nổi. Viên Thiệu dẫu bây giờ thế mạnh, nhưng làm
việc hay hồ nghi rụt rè, không đáng sợ.
Trong khi đang bàn luận, Quách Gia ở ngoài vào. Tháo hỏi:
- Ta muốn sang đánh Lưu Bị, lại sợ Viên Thiệu thì làm thế
nào?
Gia nói:
- Thiệu tính chậm chạp mà lại đa nghi; bọn mưu sĩ ghen ghét lẫn
nhau, có lo ngại gì. Lưu Bị mới sửa sang quân bị, lòng người chưa phục, bây giờ
thừa tướng cứ đem binh sang đánh, chỉ một trận là xong.
Tháo mừng lắm:
- Chính hợp ý ta lắm!
Rồi khởi hai mươi vạn quân chia làm năm đường đi đánh Từ
Châu.
- Ta phải đến Viên Thiệu cầu cứu mới giải thoát được nguy
này.
Liền viết một phong thư sai Tôn Càn đến Hà Bắc. Càn đến gặp
Điền Phong trước, nói rõ tình đầu, nhờ tiến dẫn hộ. Phong dẫn Càn vào yết kiến
Viên Thiệu, dâng thư.
Phong thấy Viên Thiệu hình dong tiều tuỵ, áo mũ xốc xếch bèn
hỏi:
- Hôm nay chúa công làm sao thế?
Thiệu nói:
- Ta sắp chết đây!
Phong ngạc nhiên quá hỏi:
- Sao chúa công lại nói thế!
Thiệu nói:
- Ta sinh được năm con, duy có thằng út là vừa ý ta! Nay bị
ghẻ lở sắp chết, ta còn bụng nào nghĩ đến việc khác nữa?
Phong nói:
- Nay Tào Tháo sang đông đánh Lưu Bị, Hứa Xương bỏ không, nếu
ta cất ngay nghĩa binh, thừa cơ tiến vào, trên giúp thiên tử, dưới giúp muôn
dân, đó là cơ hội không mấy khi gặp. Xin minh công xét cho.
Thiệu nói:
- Ta cũng biết thế là hay, nhưng trong bụng đương bối rối thế
này, sợ đi có điều bất lợi chăng?
Phong nói:
- Việc gì mà bối rối?
Thiệu nói:
- Trong năm thằng con, chỉ có thằng này là kỳ khôi hơn cả, nếu
có điều gì, ta cũng chết mất.
Thiệu nhất quyết không cất quân và bảo Tôn Càn:
- Ngươi về gặp Huyền Đức nói rõ duyên cớ như thế. Nhỡ ra có
điều gì không được như ý, cứ lại đây, ta sẽ giúp cho.
Điền Phong lấy gậy đập xuống đất và nói:
- Gặp được dịp may mắn thế này, lại lấy nê đứa trẻ ốm, bỏ mất
cơ hội, khá tiếc lắm thay!
Rồi giẫm chân, thở dài, đi ra.
Tôn Càn thấy Viên Thiệu không chịu cất quân, vội vàng về ngay
Tiểu Bái trình với Huyền Đức. Huyền Đức sợ lắm, nói:
- Như thế thì làm thế nào?
Trương Phi nói:
- Huynh trưởng chớ lo. Quân Tào đi đường xa, tất nhiên mỏi mệt.
Ta nhân lúc mới đến, đi cướp trại ngay làm gì không phá tan được.
Huyền Đức nói:
- Ta vẫn tưởng em chỉ là một dũng phu, nhưng ngày nọ bắt Lưu
Đại, đã biết dùng mẹo; nay bày kế này cũng hợp binh pháp.
Bèn nghe lời Trương Phi, chia quân đi cướp trại.
Tào Tháo vừa đem quân đến Tiểu Bái. Lúc đang đi đường, bỗng
có cơn dông nổi lên, chợt nghe đánh ầm một tiếng, một lá nha kỳ bị gãy. Tháo
truyền lệnh cho quân sĩ dừng lại, rồi họp các mưu sĩ hỏi điềm lành dữ làm sao.
Tuân Úc hỏi:
- Gió từ phương nào đến? Lá cờ gãy sắc gì?
Tháo nói:
- Gió từ mé đông nam lại, thổi gãy một lá nha kỳ, sắc cờ vừa
xanh vừa đỏ.
Úc tính một lát rồi thưa:
- Đêm nay tất Lưu Bị đến cướp trại.
Tháo gật đầu, chợt có Mao Giới vào trình:
- Vừa rồi gió đông nam thổi gãy lá nha kỳ xanh đỏ, chúa công
bảo là điềm lành hay dữ?
Tháo không nói, hỏi:
- Ông nghĩ thế nào?
Mao Giới thưa:
- Tôi thiết nghĩ đêm nay tất có người đến cướp trại.
Có thơ rằng:
Ngán cho thế Hán đã cô cùng!
Cướp trại còn mong một chút công,
Cờ gãy báo điềm cho biết trước,
Trời già sao tựa đứa gian hùng?
Tháo nói:
- Điềm trời đã báo trước, ta nên đề phòng cẩn thận.
Bèn chia quân làm chín đội, chỉ để một đội đi lên trước, lập
trại bỏ trống, còn tám mặt thì chia quân mai phục.
Đêm hôm ấy, trăng sáng lờ mờ, Huyền Đức bên tả, Trương Phi
bên hữu, chia quân làm hai đội kéo đến, chỉ để một mình Tôn Càn giữ Tiểu Bái.
Trương Phi tự lấy làm đắc kế, lĩnh quân khinh kỵ đi trước,
xông ngay vào trại Tào Tháo, chỉ thấy lơ thơ quân mã, bốn mặt lửa cháy sáng rực,
tiếng reo rầm rĩ. Phi biết là trúng kế, vội vàng chạy ra thì đông Trương Liêu,
tây Hứa Chử, nam Vu Cấm, bắc Lý Điển, đông nam Từ Hoảng, tây nam Nhạc Tiến,
đông bắc Hạ Hầu Đôn, tây bắc Hạ Hầu Uyên, quân mã tám mặt đánh dồn lại. Trương
Phi xông bên nọ xáo bên kia, che đằng trước đỡ đằng sau. Quân Trương Phi vốn là
thủ hạ cũ của Tào Tháo, thấy thế đã nguy, đầu hàng Tháo hết. Khi đang xung đột
gặp ngay Từ Hoảng. Phi đánh nhau với Hoảng, đằng sau Nhạc Tiến lại kéo đến. Phi
đánh riết mở một đường máu, chỉ còn có vài mươi tên kỵ mã đi theo. Phi muốn về
Tiểu Bái, nhưng đường đi nghẽn mất rồi. Muốn sang Từ Châu hay Hạ Phì, lại sợ
quân Tào chẹn đường. Nghĩ mãi không biết đi đằng nào, phải chạy về phía núi
Mang Đãng.
Còn Huyền Đức cũng dẫn quân đến cướp trại Tào, khi gần đến cửa
trại, nghe thấy tiếng reo, sau trại có một toán quân xông ra, chẹn ngay mất một
nửa quân mã. Hạ Hầu Đôn lại kéo quân đến. Huyền Đức vội vàng chạy ra, Hạ Hầu
Uyên từ đằng sau đuổi lại. Huyền Đức ngoảnh lại, chỉ thấy có hơn ba mươi tên kỵ
mã chạy theo. Muốn chạy về Tiểu Bái; muốn về Từ Châu, Hạ Phì, lại thấy quân Tào
khắp núi đầy đồng nghẽn cả đường đi. Huyền Đức không còn đường nào về, bụng
nghĩ:
- Viên Thiệu trước đó có dặn ngộ sau này có điều gì bất như ý
thì sang đó mà nương tựa. Hay là nay ta hãy chạy sang đấy, tạm làm chỗ nương
thân, rồi sẽ liệu kế khác về sau.
Nói rồi quay ngựa chạy về Thanh Châu. Đương đi lại gặp Lý Điển
chẹn đường, Huyền Đức một mình một ngựa lạc lõng chạy về phía bắc, những tên kỵ
mã đi theo, đều bị Lý Điển bắt mất cả.
Lưu Bị một mình một ngựa, đi ba trăm dặm tới Thanh Châu, đến
dưới thành gọi cửa. Quân canh hỏi tên họ, rồi vào báo với thứ sử. Thứ sử là con
cả Viên Thiệu, tên là Viên Đàm. Đàm vốn kính phục Huyền Đức, nghe thấy Huyền Đức
một mình cưỡi ngựa đến, vội vàng mở cửa ra đón, mời vào công đường, hỏi rõ
duyên cớ. Huyền Đức kể hết sự tình. Đàm mời Huyền Đức nghỉ trong nhà khách, rồi
viết thư báo cho bố biết, một mặt sai quân mã hộ tống Huyền Đức đến Bình
Nguyên. Viên Thiệu tự đem quân ra khỏi Nghiệp Quận ba mươi dặm đón rước, Huyền
Đức lạy tạ, Thiệu vội vàng đáp lễ, nói:
- Bữa nọ vì đứa trẻ sài ghẻ, không đến cứu viện được, trong bụng
rất là áy náy không yên. Nay may được gặp nhau, thực là được thoả lòng ái mộ bấy
nay.
Huyền Đức nói:
- Bị nay cô cùng, vẫn muốn nương nhờ dưới cửa ngài, nhưng
chưa gặp được cơ hội nào. Nay bị Tào Tháo đến đánh, vợ con đều bị thất lạc,
nghĩ rằng tướng quân rộng lượng dung nạp kẻ sĩ bốn phương, cho nên cũng chẳng
ngại thẹn thùng, xin đến nương nhờ, mong tướng quân thu dụng, thế nào tôi cũng
xin có ngày báo đáp lại.
Thiệu mừng lắm, khoản đãi rất hậu, rồi mời về Ký Châu.
Tào Tháo đương đêm lấy được thành Tiểu Bái, liền cho tiến
quân ngay đi đánh Từ Châu. My Chúc và Giản Ung giữ thành không nổi, đành bỏ
thành chạy trốn. Trần Đăng dâng ngay Từ Châu. Tào kéo quân vào thành phủ dụ dân
chúng, rồi gọi các mưu sĩ bàn mưu lấy Hạ Phì.
Tuân Úc nói:
- Vân Trường trông nom vợ con Huyền Đức, tất cố chết giữ
thành. Ta không lấy ngay, e sẽ bị Viên Thiệu cướp mất.
Tháo nói:
- Ta vẫn mến tài võ nghệ của Vân Trường, chỉ mong được hắn về
với ta. Sao bằng hãy cho người dụ hắn quy hàng.
Quách Gia nói:
- Vân Trường là người nghĩa khí, chắc không chịu hàng, sai
người đến dụ không khéo bị hại.
Dưới trướng có một người bước ra nói:
- Tôi cùng Quan Vũ có hơi quen nhau, xin đi dụ.
Các tướng ngoảnh lại xem ai, thì là Trương Liêu.
Trình Dục nói:
- Văn Viễn tuy quen Vân Trường, nhưng tôi e người ấy không phải
lấy lời mà dụ được. Tôi có một kế làm cho Vân Trường tiến lui không còn đường
nào, bấy giờ Văn Viễn hãy đến dụ, Vân Trường tất phải về với thừa tướng.
Ấy là:
Giương phòng nỏ cứng rình hùm dữ,
Mắc sẵn mồi thơm giật cá ngao.
Chưa biết mẹo Trình Dục ra làm sao, xem đến hồi sau phân giải.
La Quán Trung
Người dịch: Hồng Việt
Theo https://www.sachhayonline.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét