Thứ Sáu, 3 tháng 4, 2020

Thủy hử 6

Thủy hử 6
Hồi 26:
Đường Mạnh Châu, Mẫu Dạ Thoa bán thịt người;
Bờ Thập Tự, Võ Đô Đầu gặp hảo hán.
Bấy giờ Võ Tòng nói với bốn người hàng phố rằng:
- Tôi đây vì việc báo thù mà phải giết người phạm tội, thân này dẫu chết cũng cam, duy từ đây trở đi tính mệnh của tôi, phỏng còn sống nữa hay không, cũng chưa biết được. Vậy nhân đây tôi muốn siêu hóa các đồ thờ tự Ca Ca tôi, còn các vật liệu trong nhà, thì xin nhờ các ngài đem bán giúp cho, để lấy tiền theo đòi việc kiện. Bây giờ ta sẽ vào huyện thú nhận các lễ, sau đó tội tình thế nào đã có Quan trên xét đoán, duy các ngài thì cứ lấy sự thực làm chứng giúp cho.
Nói đoạn liền đem các đồ thờ tự, bài cúng vàng mã mà siêu hóa hết cả, rồi lên gác lấy hai cái hòm xuống mở ra, đưa các đồ vật cho bốn người hàng phố thu nhận để bán giúp. Đoạn rồi xách hai cái đầu người, và lôi cổ Vương bà và dẫn bốn người đi thẳng vào huyện.
Hôm đó cả huyện Dương Cốc đều kéo nhau đi xem đông lắm không biết đâu mà kể. Võ Tòng đến công đường bắt Vương bà quỳ xuống trước giữa thềm, rồi chàng đặt hai cái đầu gian phu dâm phụ, cùng đặt con dao mà quỳ xuống thềm bên tả; còn bốn người hàng phố quỳ sang bên hữu dưới thềm. Võ Tòng lấy tờ giấy của Hồ Chánh Khanh viết lúc trước đem ra trình, rồi kêu rõ đầu đuôi cho quan huyện nghe.
Quan huyện cũng kinh ngạc, rồi sai nha lấy khẩu cung Vương bà, và lấy chứng cớ các người hàng phố, rồi sai bắt Hà Cửu Thúc và Vận Kha lên, để lấy giấy chứng cớ rõ ràng một lượt. Đoạn rồi áp giải mấy người đó, cùng ra phố Tử Thạch khám nghiệm xác đứa dâm phụ, và đến trước nhà tửu lâu ở dưới cầu Sư Tử để khám nghiệm xác đứa gian phu, rồi đem về lập án.
Tri huyện sai lấy gông, gông Võ Tòng và Vương bà lại, giam cả xuống ngục, còn các người kia, thì tạm giữ tại phòng ngoài để chờ tra hỏi.
Nguyên Tri huyện đó vốn có lòng biệt đãi Võ Tòng, là người nghĩa khí đảm đang, và lại nhớ đến công việc khi xưa mang các châu báu về kinh, thì lại định tâm muốn tìm kế chu toàn cứu giúp, bèn gọi đám nha lại lên mà định bàn rằng:
- Võ Tòng là người nghĩa trực, xưa nay ai ai cũng biết. Duy hắn thiện tiện giết người, thì không thể nào mà tha ngay được, vậy nay ta nên đem các lời cung của lân bang mà chữa đổi đi.
Chúng vâng lời, chữa các khẩu cung như sau này:
- "Võ Tòng về lễ anh người chị dâu đanh ác không cho lễ, đến nỗi đôi bên cãi nhau, rồi chị dâu đạp đổ cả giường thờ giường tự, vì thế Võ Tòng đến cướp lấy bài vị của anh, mà lỡ tay đánh chết. Về sau Tây Môn Khánh vốn là đứa thông dâm cùng mụ đàn bà kia chạy vào đánh hội, rồi giằng co với Võ Tòng, khi đến cầu Sư Tử thì bị Võ Tòng đánh chết".
Khi chữa xong đem đọc lại cho Võ Tòng nghe, rồi thảo công văn để giải phạm nhân lên phủ Đông Bình. Bấy giờ có mấy nhà nghĩa khí ở huyện Dương Cốc, nghe thấy vậy, liền đem tiền nong gạo nước để tiến tặng Võ Tòng. Võ Tòng liền xin phép quan về phòng để thu nhận các đồ hành lý, và đưa mười lăm lạng bạc cho bố Vận Kha rồi sắp sửa để đi. Các thổ binh theo hầu Võ Tòng khi trước, đều đem rượu thịt đến thiết đãi luôn canh.
Sau đó quan huyện phái người đem các đồ gói tiền gói xương, dao trượng, cùng mấy người phạm án, giải lên phủ Đông Bình. Khi tới phủ các dân sự chung quanh đổ ra xem rất đông đúc.
Quan phủ Đông Bình là Trần Văn Chiêu vốn là tay rất thông minh lanh lợi, nghe biết câu chuyện Võ Tòng đã lâu, nay thấy huyện Dương Cốc giải đến, liền đem các giấy má ra xem, gọi các người vào tra hỏi một lượt, cho đem các đồ hành hung cùng tang vật thu vào trong kho, rồi sai đóng gông rất nặng cho mụ Vương bà giam vào ngục tử tù, còn Võ Tòng thì đóng gông nhẹ, mà giam vào nhà giam thường. Đoạn rồi giao cho huyện lại lĩnh Hà Cửu Thúc, Vận Kha cùng bốn người lân bang cho về huyện Dương Cốc. Còn vợ con Tây Môn Khánh thì giữ lại ở phủ để đợi chờ giấy Bộ tư ra rồi sẽ xét đoán. Các lính tráng ở phủ Đông Bình, thấy Võ Tòng là một người hào hiệp nghĩa khí, trên quan phủ cũng có lòng thương, nên chúng thường đem tâm vì nể, không những không dám hạch sách tiền nong, mà thần thường lại khoãn đãi tử tế. Quan phủ Đông Bình đem các giấy má mà chữa đổi cho nhẹ tội Võ Tòng, rồi tự đem lên trình quan tỉnh, và cắt một người tâm phúc đem mật thư vào kinh sư, để lo cứu cho Võ Tòng. Bấy giờ các quan Hình Bộ cũng nhiều người thân mật với Trần Văn Chiêu, nên khi nhận được giấy thì lập tức cho các quan Tỉnh viện kết án nhẹ đi.
Trong án đại khái nói:
- Cứ như mụ Vương bà dụng tình cố ý manh mối gian dâm, xui giục đàn bà đánh thuốc độc cho chồng chết, lại khiến dâm phụ không cho Võ Tòng vào viếng thân huynh, cho đến nổi sát thương nhân mạng, tội ác nham hiểm làm cho bại hoại luân thường, tội ấy phải khép vào án lăng trì mới đáng. Võ Tòng tuy vì việc báo thù giết chết gian phu là Tây Môn Khánh, song tự mình thú tội, thì giảm nhẹ tội nguyên, bắt đánh bốn mươi trượng, đày ra ngoài hai ngàn dặm. Hai đứa gian phu dâm phụ đã chết không bàn, còn các người can phạm đều tha về hết thảy."
Quan phủ Đông Bình tiếp được văn án, liền sức giấy cho Hà Cửu Thúc, Vận Kha, và bốn người hàng xóm, cùng vợ con Tây Môn Khánh, đến để nghe tuyên án. Khi các người đã tề tựu cả rồi; Quan phủ sai tuyên án cho mọi người nghe, rồi đâu đấy cho về an nghiệp. Đoạn rồi bắt Vương bà ra chợ Đông Bình để hành tội, còn Võ Tòng đánh bốn mươi trượng, thích chữ vào mặt, đem đày sang đất Mạnh Châu.
Bấy giờ Diêu Văn Khanh là người hàng xóm khi trước, mới đem tiền bán các đồ đạc ở nhà mà đưa cho Võ Tòng ra trước chợ Đông Bình xem hành hình Vương bà, rồi trở về thu thập hành lý, theo hai tên công sai sang đất Mạnh Châu. Hai tên công sai vốn biết Võ Tòng là tay hảo hán, nên trong khi giải đi cũng hết lòng tử tế, không dám chút khinh nhờn. Võ Tòng thấy vậy cũng được thư lòng đôi chút, lại nhân trong túi sẵn tiền, nên mỗi khi qua hàng qua điếm, lại chè chén ăn chơi, cho hai người cùng hưởng. Từ khi Võ Tòng giết người ở huyện Dương Cốc, bấy giờ đương dạo tháng ba, sau phải theo đòi việc kiện bị giam giữ trong hai tháng trời, tới nay đày đi sang đất Mạnh Châu, thấm thoát đã tới giữa trung tuần tháng sáu. Hồi đó trời khác chi một lò lửa Tạo nung nấu đàn người, Võ Tòng cùng hai tên công sai đi ước chừng hơn hai mươi ngày, một hôm tới quãng núi kia, ba người cùng ngồi để nghỉ một lúc, rồi lại đứng dậy đi xuống dưới núi, định tìm một hàng rượu để uống.
Khi qua núi chợt trông thấy đằng xa có mấy gian nhà lá, ở vào giữa khóm liễu đôi khe, thấp thoáng ngọn cờ bán rượu, Võ Tòng liền trỏ bảo hai tên công sai rằng:
- Có hàng rượu ở trước mặt kia, chúng ta mau tới đó.
Nói xong cùng kéo nhau đi được mấy bước, thì gặp một anh tiều phu gánh củi đi qua, Võ Tòng đứng dừng lại hỏi rằng:
- Ở đây là xứ nào; nhờ bác bảo cho?
Tiều phu đáp:
- Con đường lên núi đây, gọi là đường Mạnh Châu cách trước mặt núi có khu rừng cây kia, gọi là Thập Tự Phi.
Võ Tòng cám ơn, rồi cùng nhau kéo thẳng đến Thập Tự Phi. Khi gần tới nơi thấy cây cối um tùm, trong đó có một cây rất lớn ước chừng bốn năm vòng tay người ôm không tới, bên trên toàn thị là giây dơ leo cuốn kín mít như rừng. Đi qua gốc cây một hàng rượu, trong có một người đàn bà ngồi, mặc áo lót mình bằng sa lục, trên đầu cài cành thoa vàng lóng lánh, hai bên mái tóc giắt hai bông hoa.
Người đàn bà ấy thấy Võ Tòng cùng hai tên công sai đến cửa, thì vội vàng đứng dậy, mình mặc cái quần lụa màu hồng phơn phớt, mặt bôi đầy những phấn hồng, bỏ trễ áo trước ngực lộ màu da hồng, rồi chạy ra cửa nói rằng:
- Trong hàng có rượu ngon thịt béo, bánh bao tốt, xin mời các ngài ngồi nghỉ chân xơi rượu.
Ba người nghe nói bảo nhau vào ghế ngồi, dựa côn trượng vào một bên, cởi khăn gói hành lý để lên trên bàn, rồi cởi cả đai nịt ra cho mát. Hai tên công sai bảo với Võ Tòng rằng:
- Ở đây không có ai biết đến, tôi xin cởi tháo gông ra, cho Đô Đầu đánh chén cho sướng.
Nói đoạn liền tháo gông ra cho Võ Tòng, mà để cả lên trên bàn đó. Đoạn rồi cùng cởi cả áo xiêm ngoài, mà giắt vào bên dóng cửa sổ.
Bấy giờ mụ hàng miệng cười chúm chím mà bảo rằng:
- Khách quan xơi bao nhiêu rượu?
Võ Tòng đáp:
- Không cần hỏi bao nhiêu, cứ mang rượu ra đây thái ba cân thịt bò một thể rồi tôi tính trả tiền.
- Thưa ngài có bánh bao tốt...
- Mang vài mươi cái ra đây ta ăn điểm tâm.
Mụ hàng nghe nói vừa cười vừa quay vào bưng một thùng rượu lớn, và lấy ba cái chén lớn, ba đôi đũa, thái hai đĩa thịt khệ nệ mang ra, rồi rót bốn năm lượt rượu đưa mời khách uống. Đoạn rồi quay vào bếp bưng một quả bánh ra, để bày trên bàn. Hai tên công sai vớ được, liền nghiến ngấu ăn ngay không hỏi han gì cả.
Võ Tòng cầm lấy bánh bẻ ra xem, rồi gọi mụ hàng đến mà bảo rằng:
- Bánh này làm bằng thịt người hay thịt chó?
Mụ hàng cười khanh khách đáp rằng:
- Ngài nói đùa làm gì thế? Đời này làm gì có bánh làm bằng thịt người hay thịt chó? Bánh của nhà tôi mấy đời nay đều làm bằng thịt bò cả.
- Xưa nay tôi thường đi lại đám giang hồ, từng nghe nói chỗ Thập Tự Phi này, không ai dám đến bao giờ... anh nào béo là đem giết lấy thịt làm bánh bao, mà anh nào gầy là đem lấp sông ngay...
- Chết nỗi! Các ngài nghe nói ở đâu thế? Chắc rằng chỉ ngài nói đặt ra thôi.
- Đây, vì tôi thấy miếng thịt ở trong cái bánh này có mấy cái lông hơi giống như lông gì... Nên tôi càng ngờ lắm.
Nói xong lại hỏi luôn rằng:
- Nương tử ơi! Phu quân nàng sao không thấy ở đây?
- Thưa ngài đàn ông nhà tôi đi xa vắng chưa về.
- Nếu vậy nàng ở đây một mình có lẽ buồn lắm...
Mụ hàng mỉm cười trong bụng rồi nghĩ thầm:"Thằng tù này muốn chết chăng? Đến đây lại toan đùa bỡn với bà, thực là thí thân vào lửa, chả còn trách lỗi tại ai, để ta liệu cho... "Mụ nghĩ vậy liền bảo Võ Tòng rằng:
- Thôi, đừng nói đùa nữa, hãy uống mấy cốc rượu, rồi ra đằng sau mà nghỉ mát. Hôm nay muốn ngủ ở đây... nhà tôi cũng rộng không can gì...
Võ Tòng nghe nói đoán chắc là chị chàng này nham hiểm không vừa, liền đáp rằng:
- Nương tử ơi! Rượu này nhạt lắm, trong nhà có rượu nào tốt cho tôi mấy chén khác.
- Vâng, có rượu tốt ngon thơm hơn, nhưng chỉ vì khí đục một chút.
- Được, càng đục càng hay...
Mụ hàng cười thầm trong bụng, rồi lấy một bình rượu rất đục đem ra.
Võ Tòng xem xong khen rằng:
- Ừ! Hạng rượu này mới là rượu ngon, nhưng phải hâm nóng uống mới tốt.
- Vâng, thế thì ngài sành lắm, để tôi xin đem hâm.
Nói xong cầm bình rượu quay ra, cười thầm trong bụng mà rằng: "Thằng tù này phải chết, uống thuốc mê lại đòi uống nóng, thế thì càng chóng lắm... Hôm nay may mình được món hàng tốt".
Khi hâm rượu nóng xong rót vào ba chén mang ra, rồi cười mà nói rằng:
- Ngài thử nếm rượu này xem?
Hai công sai vớ được rượu, thì nhắm mắt vào uống ngay. Võ Tòng lại bảo mụ hàng rằng:
- Nàng ôi! Thịt hết rồi tôi không quen uống rượu suông được, nàng thái ít thịt nữa ra đây, cho tôi nhắm rượu.
Mụ kia vâng lời quay vào. Võ Tòng liền cầm chén hắt vào tường, rồi giả vờ tắc lưỡi khen rằng:
- Ngon... rượu ngon, nhưng mà bốc lắm thì phải?
Mụ hàng thấy Võ Tòng khen vậy, chắc rằng đã uống rồi, bèn không thái thịt thà gì nữa liền quay ra kêu lên rằng:
- Ngã ngã mau...
Quả nhiên mụ vừa nói xong thì hai anh công sai đờ mồm nhắm mắt, rồi ngã lăn xuống đất, Võ Tòng cũng lờ đờ hai mắt, rồi sau nhắm mắt chặt lại mà ngã ra bên cạnh ghế.
Bấy giờ thấy mụ hành cười ha hả mà rằng:
- Được lắm, cho bây tinh bằng ma qủy, cũng phải uống thuốc rửa chân của bà...
Nói đoạn liền gọi Tiểu Nhị, Tiểu Tam mau ra đây. Chợt thấy thằng xuẩn hán ở đâu huỳnh huỵch chạy đến, khênh hai anh công sai đi trước. Mụ hàng kia chạy đến chỗ hàng rờ vào bao phục của mọi người, thấy sẵn có tiền nong ở đó, thì phá lên cười rằng:
- Hôm nay vớ được ba món hàng hoá, đủ làm bánh bao trong hai ngày nữa.. Rồi lại có được tiền nong đây.
Nói xong xách cả khăn gói bao phục vào lối trong. Một lát thấy hai thằng xuẩn hán chạy ra khiêng Võ Tòng, nhưng sức yếu không khiêng nổi, nằm đườn đườn ở dưới đất, nghe chừng nặng tới trăm cân.
Lại thấy mụ hàng kia quát lên rằng:
- Đồ chết dẫm này, chỉ biết ăn thôi, không được việc gì cả, có thế cũng phải đến bà ra tay. Thằng béo này lúc nãy lại dám đùa bỡn với bà đây.Được, nó béo thế này để làm thịt bò, còn thằng gầy kia thì làm thịt trâu cũng được... Hãy vác vào làm thịt thằng này đã.
Nói đoạn, cởi cả quần ngoài và áo ra để trần trùng trục, rồi cúi xuống cắp bổng Võ Tòng lên như không vậy.
Võ Tòng thừa thế ôm lấy bụng người đàn bà, rồi cho hai chân xuống đánh vào khủy chân mụ kia một cái ngã ngửa hẳn ra, rồi ngồi tót lên trên. Bấy giờ chị chàng ta kêu lên như cháy đồi, rồi hai thằng xuẩn hán đổ xô ra, bị Võ Tòng quát cho một tiếng, anh nào anh nấy tái xanh cả mặt lại, mà không dám xông vào đấy nữa.
Chị chàng kia bị Võ Tòng nén chặt xuống mặt đất, không sao mà cựa được, bèn kêu van rằng:
- Xin hảo hán tha cho tôi.
Vừa hay khi đó có một chàng gánh một gánh củi, đến đâu ở cửa, rồi bước vào trông thấy như thế, thì kêu lên rằng:
- Xin hảo hán bớt giận, hãy tha thứ cho... tôi sẽ thưa chuyện hầu ngài.
Võ Tòng đứng phắt dậy giơ chân trái lên đạp giữ lấy người đàn bà ấy, rồi nắm lấy hai tay quyền mà quay ra nom người kia. Anh chàng kia đầu chít khăn đầu rìu, mình mặc áo vải trắng, chân quấn lá đáp, đi đôi giày gai, lưng thắt dây bao, mặt dài như ba đầu ngón tay chéo, hơi lúng phún mấy cái ria, vào trạc hăm nhăm hăm sáu tuổi.
Chàng ta trông thấy Võ Tòng thì khoanh tay đứng lễ phép mà nói rằng:
- Xin hảo hán cho tôi biết đại danh?
- Ta đây là Võ Đô Đầu, tên Tòng không cần chi phải dấu diếm.
- Chẳng hay ngài đánh hổ ở núi Cảnh Dương đó chăng?
- Phải.
Anh chàng kia vội thụp xuống mà đáp rằng:
- Chúng tôi nghe tiếng ngài đã lâu...
Võ Tòng hỏi:
- Có phải anh là chồng người đàn bà này không?
- Bẩm vâng... Nó ngu dại không biết gì, xin Đô Đầu tha cho.
Võ Tòng nghe nói, tha cho mụ kia dậy, rồi hỏi rằng:
- Ta trông vợ chồng nhà anh cũng không phải người vừa, tên họ là chi, xin cho được biết?
Chàng chưa kịp trả lời, vội bắt vợ ăn mặc tử tế, để ra bái tạ Đô Đầu trước.
Chị Chàng kia bái tạ, Võ Tòng liền xin lỗi rằng:
- Vừa rồi trót lỡ không biết, xin Tẩu Tẩu tha lỗi cho.
Chị chàng kia cũng khiêm tốn mà rằng:
- Đó là lỗi tại tôi không được biết ngài, xin bá bá bỏ qua đi cho, xin mời bá bá hãy ngồi vào chơi đã.
Võ Tòng lại hỏi:
- Hai bác tên họ là chi, sao lại biết tên tôi?
Chàng kia đáp:
- Tôi họ Trương tên Thanh, trước coi chùa Minh Quang ở gần đây, sau vì tranh cãi một việc nhỏ, tôi nóng tiết giết sư ở chùa ấy, rồi cho, một nắm lửa mà thiêu hóa cả chùa. Dần dần không thấy quan tư động đến, bèn đến lẩn lút ở gốc cây đây, để bóc lột kiếm ăn. Chợt một hôm có một lão già gánh một gánh qua đây, tôi khinh ông ta già yếu, nhảy ra đánh nhau tới hai mươi hiệp, rồi bị ông ta đánh ngã. Nguyên ông cụ ấy khi còn trẻ vẫn chuyên về một mặt ăn sương, nhân thấy tôi là một người nhanh nhẹn, bèn mang tôi về cùng ở trong thành dạy các ngón võ nghệ, rồi đem con gái gả cho, tức là vợ tôi bây giờ ở đây. Tôi ở đó được ít lâu không tiện, lại phải quay về đây làm mấy gian nhà lá bán hàng kiếm ăn. Thỉnh thoảng khách thương qua lại, có món nào khá thì đánh thuốc mê cho chết, rồi lấy thịt mà làm thịt bò, và làm bánh mà gánh đi các nơi mà bán. Chúng tôi cũng kết nạp được nhiều hảo hán giang hồ, thường gọi tôi là Thái Viên Tử Trương Thanh, còn đàn bà nhà tôi vốn người họ Tôn, thuở nhỏ cũng học được ít nhưng võ nghệ của phụ thân, người ta thường gọi là Mẫu Dược Thoa Tôn Nhị Nương. Trước đây tôi vẫn dặn đàn bà ở nhà rằng: Có ba hạng người không nên hại đến: Thứ nhất là các tăng đồ đạo nhân, vốn không can thiệp gì đến việc đời, thì không hại đến; dè đâu một hôm xuýt hại một người kinh thiên động địa, là Lỗ Đạt, Trước làm Đề Hạt dinh Kinh Lược phủ Diên An, sau vì đánh chết anh Trấn Quan Tây, phải trốn lên Ngũ Đài Sơn để đầu phật. Nhân ông ta có thích hoa lên cánh vai, nên vẫn gọi là Hoa Hòa Thượng, nặng tới sáu mươi cân. Một hôm qua đây đàn bà nhà tôi thấy to béo, liền cho thuốc mê để thịt. May sao sắp hạ thủ, thì tôi về nhà, trông thấy cây thuyền trượng, biết ngay bèn đem thuốc cứu tỉnh lại rồi bái làm anh em. Mới đây nghe nói ông ta chiếm chùa Bảo Chân ở núi Nhị Long, cùng một ông là Thanh Diện Thú Dương Chí là Đầu Lĩnh ở đó, đã mấy lần ông ta gửi thư đến đây, bảo tôi cùng đi, nhưng không thể nào mà đi được.
Võ Tòng nói:
- Phải, hai người ấy, tôi cũng thường nghe tiếng xưa nay.
Trương Thanh tiếp luôn rằng:
- Tôi rất tiếc một ông đầu đà, người cao lớn tới bảy tám thước, cũng đánh thuốc mê mà chết mất. Khi tôi về thì đã xả chân tay ra rồi, chỉ còn để lại một cái mũ nhà sư bằng sắt; một bức áo sóng tràng đen, và một tờ hộ điệp ở đây. Những cái ấy không can hệ, duy có hai thứ rất hiếm có trên đời, đây là một chuỗi hạt làm bằng một trăm linh tám cái xương đỉnh đầu của người, và hai thanh giới đao làm bằng một thứ sắt tuyết hoa rất tốt. Tay đàn đà ấy nghe chừng giết người cũng nhiều, nên bây giờ khẩu giới đao ấy, vẫn cứ đêm đêm kêu lên thành tiếng. Tôi tiếc không cứu được nên trong lòng vẫn cứ áy náy đến giờ. Thứ hai là những kỹ nữ giang hồ thì không nên làm hại, vì bọn họ lưu lạc khắp các nơi thành thị thôn dã, gặp đám ra trò, phí tổn biết bao tâm cơ mới kiếm được đồng tiền, nếu giết họ, thì họ đồn đại đi khắp mọi nơi, mà kiếm lời lên chốn hý đài để chế giễu giang hồ hảo hán là không ra gì, còn hạng thứ ba là các người tù tội đi đày. Trong đám ấy phần nhiều là các tay hảo hán, không nên giết hại làm chi! Ba điều đó tôi thường dặn dò kỹ lưỡng xưa nay, dè đâu đàn bà nhà tôi lại không chịu y lời như vậy... Hôm nay nếu tôi chậm về, thì làm sao được gặp Đô Đầu nữa?
Người đàn bà đáp rằng:
- Bản tâm tôi cũng không định hạ thủ, nhưng một là thấy đồ hành lý của bá bá, nghe chừng hơi nặng, hai là quái lạ cho bá bá lại đem lời đùa giỡn, nên mới sinh lòng như vậy.
Võ Tòng nói:
- Tôi đây là một người chỉ chém đầu đẫm huyết, còn khi nào nói đùa bỡn với đàn bà! Nhân thấy Tẩu tẩu có ý muốn dòm dỏ đồ hành lý của tôi, nên tôi phải bày kế như thế để thử xem. Sau tẩu tẩu rót ra ba chén rượu thuốc thì tôi đổ đi ngay, rồi giả vờ làm trúng độc dè đâu tẩu tẩu làm hại tôi thực.
Trương Thanh nghe nói cả cười, liền mời Võ Tòng vào phòng khách phía trong ngồi chơi. Võ Tòng nói với Trương Thanh xin cứu hai người công sai ấy dậy. Trương Thanh lại dẫn Võ Tòng vào nhà làm thịt, thấy trên vách căng mấy cái da người, trên sà nhà treo dăm bảy cái đùi người, còn hai tên công sai thì nằm vật ở trên ghế mổ.
Bấy giờ Trương Thanh hỏi Võ Tòng, vì việc gì mà phải đi đày qua đó? Võ Tòng liền đem nguyên ủy chuyện mình nói cho hai vợ chồng Trương Thanh biết. Hai người nghe nói đều vui mừng kinh sợ mà rằng:
- Chúng tôi muốn thưa câu chuyện này, chẳng hay Đô Đầu nghĩ sao?
Võ Tòng đáp:
- Chẳng hay chuyện gì, đại ca cứ nói, tôi xin sẵn lòng để nghe.
Thực là:
Dây đâu treo nổi địa cầu?
Đất đâu lấp bể, màn đâu che trời?
Đã mang tiếng ở trên đời,
Anh tài phải biết anh tài mới hay,
Cuộc đời còn lắm tỉnh say,
Còn cơn sóng cả còn tay vững chèo!
Kiền khôn là thứ tiêu dao,
Càng nhưng lưu lạc càng nhưng kiến văn,
Trăm năm trong cõi hồng trần,
Những tay khan tế kinh luân thế nào?
Lời bàn của Thánh Thán:
Tả xong câu chuyện Võ Tòng giết chị dâu, tiếp tả Trương Thanh bán thịt người, toàn là những chuyện kinh thiên động địa, khấp qủy kinh thần, tác giả khéo diễn ra những tình tiết ly kỳ, không phải ngọn bút thường mà tả nổi, không phải lòng văn thường mà tưởng tượng nên!
Trương Thanh thuật chuyện Lỗ Đạt ngộ độc, lại thuật luôn chuyện đầu đà, theo phép hư tả, song lẽ Lỗ Đạt là thực, vì còn người, Đầu đà là hư vì đã mất, trong khi thuật chuyện Đầu đà lại có di vật làm thực, mà Lỗ Đạt ở đâu đâu thì lại ra hư, trong thực có hư, trong hư có thực, đều theo bút pháp diễn tả, cho rõ từng ý nghĩa của đoạn văn.
Sách này mỗi khi tả gặp kẻ kỳ tài, lại mất một tay kỳ tài khác cho rõ ngoài vòng vơ vét về sơn bạc, lại có con người dị dạng, đầu tiên đã mất một Vương Tiến, hồi này mất một Đầu đà, sau đả Chúc Gia Trang, lại mất một Loan Đình Ngọc. Hỡi ôi danh lưu sách sử, cũng có người may với kẻ không may, kẻ thành danh muôn thuở, đừng vội bảo rằng: Ngoài đám trai kia không có ngọc châu!
Hồi 27:
Cự mặt Quản Doanh, anh tù cứng cổ;
Mộ danh hảo hán, cậu trẻ ra ân.
Khi đó Trương Thanh nói với Võ Tòng rằng:
- Việc này không phải là chúng tôi có bụng gì ngăn trở, song chỉ e khi Đô Đầu đến đất Mạnh Châu tất nhiên bị nhiều điều khổ nhục, vậy bất nhược đem hai tên công sai này giết đi, rồi Đô Đầu ở tạm đây ít bữa. Nếu sau Đô Đầu có chịu đi lạc thảo, thì tôi xin thân hành đưa ngài sang Nhị Long Sơn, ở với Lỗ Trí Thâm cũng được, ngài nghĩ sao?
Võ Tòng đáp rằng:
- Huynh trưởng có lòng tốt nghĩ đến tôi như vậy, thực là cảm tạ vô cùng. Duy tính tôi xưa nay chỉ quen đánh giết những kẻ chướng ác ở đời, còn như hai tên công sai này, thì họ đối với tôi rất là tử tế, tôi xem ý không phải là đứa xằng, không lẽ nào mà mình lại nỡ hại đi được. Nếu huynh trưởng có lòng yêu tôi, thì xin cứu hai tên ấy vậy, không nên giết hại người ta.
- Đô Đầu đã là bậc trọng nghĩa như vậy, chúng tôi cũng không lẽ nào dám làm trái lương tâm của ngài.
Trương Thanh nói đoạn, liền gọi người nhà, dựng hai tên công sai dậy, rồi Tôn Nhị Nương pha thuốc giải độc đổ vào cho hai người uống.
Được một lúc hai anh kia như người mơ màng trong giấc chiêm bao, rồi bầng mắt ngồi dậy, nhìn Võ Tòng mà nói rằng:
- Chết nỗi! Sao tôi nằm say ở đây? Ta nhớ lấy nhà này, để lần sau về, lại đến đây uống rượu.
Mọi người nghe nói, ai cũng ôm bụng cười mà không nhịn được.
Bấy giờ Trương Thanh sai người nhà đi giết gà vịt làm cơm, dọn ra dưới giàn nho, để thiết VõTòng cùng hai người công sai. Võ Tòng nhường hai tên công sai ngồi trên, mà mình thì ngồi đầu dưới với Trương Thanh còn Tôn Nhị Nương thì ngồi một bên mạn bàn, uống rượu với nhau rất là vui vẻ. Trương Thanh sai lấy đôi khẩu giới đao đưa cho Võ Tòng xem, quả nhiên là một thứ sắt tốt, có tuyết hoa rực rỡ, thực là hiếm thấy xưa nay. Đoạn rồi cùng nhau kể chuyện giang hồ, đôi bên đều lấy làm thú vị. Võ Tòng lại đem chuyện Tống Công Minh là người hào hiệp thế nào, mà hiện nay đương ở nhà Sài Đại quan nhân, kể cho Trương Thanh nghe một lượt. Hai tên công sai nghe thấy chuyện, thì chỉ ngây người lặng tiếng, rồi bái lạy không thôi. Võ Tòng liền bảo với hai người rằng:
- Các bác có lòng tử tế, trông nom cho tôi, trong khi đi đường, nay không lẽ nào đem lòng giết hại. Chúng tôi kể chuyện bọn giang hồ hảo hán với nhau, các bác cứ việc uống rượu, không có điều chi mà sợ.
Sáng hôm sau Võ Tòng từ tạ xin đi. Trương Thanh nhất định không nghe lưu lại ở đó luôn ba bốn hôm để khỏan đãi. Võ Tòng nhân cảm thấy lòng hậu đãi của vợ chồng Trương Thanh, liền xin kết làm anh em, Trương Thanh hơn Võ Tòng chín tuổi, nên bái nhận Võ Tòng làm em.
Khi Võ Tòng sắp sửa ra đi, vợ chồng Trương Thanh lại làm tiệc tiễn hành, rồi đưa ra mươi lạng bạc để tặng Võ Tòng, và lấy ít tiền tiễn hai tên công sai nhân thể. Võ Tòng cảm tạ lòng thành, rồi cùng nhau bái biệt vợ chồng Trương Thanh mà đi sang Mạnh Châu.
Trưa hôm ấy đi đến Mạnh Châu, hai tên công sai giải Võ Tòng vào trong phủ. Quan phủ phê nhận công văn, giao cho hai tên công sai trở về phủ Đông Bình, còn Võ Tòng tống cho xuống trại. Tên lính dong Võ Tòng xuống trại, thấy trước cửa có cái bảng đề ba chữ". Bình an trại"rất lớn. Khi vào đến phòng trại con con, thì thấy mấy người cùng tụi tù đồ, đến mà bảo với Võ Tòng rằng:
- Đại hán mới đến đây, nếu có tiền nong thư tín gì, thì cầm ra tay để một lát nữa đưa cho Sai Bát, kẻo một trăm trượng ra oai, không phải là vừa đâu. Chúng tôi thấy Đại hán cũng một tình cảnh như chúng tôi nên nghĩ lòng thỏ tử hồ bi mà bảo cho hảo hán biết trước, liệu kiếm chi mà đút lót ngay đi, thì mới khỏi trăm trượng ra uy kia được.
Võ Tòng nói:
- Vâng, các ông bảo thế tôi xin cảm ơn, tôi đây cũng có ít tiền hễ họ tử tế thì tôi đưa ngay, bằng họ lại ậm oẹ bướng bỉnh thì một đồng tôi cũng không mất làm gì.
Chúng lại nói:
- Hảo hán ơi! Không nói thế được!quan xa bản nha gần, mình đã có tội đến đây, không lụy người ta không được...
Vừa nói đến đó, thì đã có người nói rằng:
- Sai Bát quan nhân đã đến.
Chúng nghe nói đều lảng vảng chạy mất hết. Võ Tòng bèn cởi khăn gói rồi ngồi xuống đó. Bấy giờ một người chạy vào hỏi tên rằng:
- Anh nào là tù đồ mới đến đây?
Võ Tòng đáp lên rằng:
- Chúng tôi đây.
Người kia nói:
- Thằng nầy người như thế, mà lại đợi ta phải nói à? Mày là một hảo hán đánh hổ ở núi Cảnh Dương, đã làm qua chức Đô Đầu, tưởng là hiểu việc thì phải. Mày đã đến đây, lại không biết ta là Sai Bát à?
Võ Tòng cười nhạt mà đáp rằng:
- A? Thằng nầy lại đến đây mà lôi thôi chực để lão gia biếu tiền hay sao? Gọi là một chữ đây cũng không mất...Đây chỉ có một ít quả đấm thanh tịnh, có thì ta đãi một đôi. Còn tiền ta để đánh chén, xem mày định làm gì? Chỉ có một lẽ là mày lại đem tao về huyện Dương Cốc là cùng.
Sai Bát nghe nói cả giận quay ngoắt đi ra. Bấy giờ bọn tù đồ kia lại chạy vào bảo với Võ Tòng rằng:
- Chết nỗi? Hảo hán cự với lão ta, thế thì chốc nữa sẽ khổ. Bây giờ lão ta đến nói với Quản Doanh, tất lại định hại tính mạng chứ không chơi.
Võ Tòng điềm nhiên mà rằng:
- Không sợ! Mặc xác họ muốn gì thì làm văn giở văn, võ giở võ chứ sao?
Đương khi xao xác chuyện trò, thì thấy ba bốn tên lính chạy đến gọi lên rằng:
- Tù mới là Võ Tòng đâu?
Võ Tòng đáp:
- Lão gia ngồi đây, có chạy đâu mất mà làm ầm lên thế?
Bọn lính xông vào lôi thốc Võ Tòng lên nhà điểm tù. Khi tới nơi thấy Quản Doanh ngồi tên sập, rồi có năm sáu tên giải Võ Tòng lên. Quản Doanh sai tháo gông ra, rồi truyền rằng:
- Tên tù kia, ngươi đã biết cựu chế vua Thái Tổ Vũ Đức Hoàng Đế khi xưa, phàm các đứa phạm tội tù đồ, trước hết phải đánh trăm trượng ra oai đã... Lính đâu đem đánh mau...
Nói dứt lời, thì tụi lính nhâu nhâu túm đến, toan lôi trói để đánh.
Võ Tòng nghiễm nhiên bảo chúng rằng:
- Không cần gì chúng bay phải mó tay vào ta, đánh thì cứ đánh, cũng không cần phải trói giữ, nếu ta có tránh một roi nào, không kể là tay hảo hán đánh hổ, mà xóa cả mấy roi trước, lại đánh bắt đầu từ một trở đi. Nếu ta có kêu một tiếng cũng không phải là thằng con trai giỏi, làm việc ở đất Dương Cốc.
Mọi người đứng đó nghe thấy vậy đều cười rằng:
- Thằng xuẩn hán muốn chết, để xem nó làm ra sao?
Võ Tòng tiếp luôn rằng:
- Muốn đánh thì cứ đánh cho hết sức, đừng nể nang một roi nào, đây không thích thế.
Những người đứng xem chung quanh đều cười ầm cả lên. Đoạn rồi một tên lính vác côn vào xin phép ra roi.
Chợt đâu có một người đứng ở đằng sau Quản Doanh, mình cao sáu thước tuổi ngoài đôi mươi, trên nét mặt trắng, ba nhánh râu thưa, đội khăn tay trắng, mặc áo sa xanh, tay quấn dải lụa trắng, ghé vào tai Quản Doanh nói thì thầm mấy câu. Đoạn rồi thấy Quản Doanh truyền rằng:
- Tên tù mới kia? Ngươi đi đường bị bệnh gì đó?
Võ Tòng đáp rằng:
- Không có bệnh gì cả, uống rượu tốt, thịt nuốt được, cơm ăn được, đi đường cũng được.
Quản Doanh lại nói:
- Tên này chắc là bệnh mới khỏi, ta nom mặt chưa được khoẻ thì phải, thôi hãy gửi cho một trăm trượng đó...
Bấy giờ tụi lính đứng hai bên đều bảo Võ Tòng rằng:
- Tướng công đã có lòng thương thế, anh cứ nói là đương yếu có được không?
Võ Tòng nói:
- Ta không đau yếu gì, cứ đánh luôn cho xong đi, chịu đựng lôi thôi thêm bận ruột, bao giờ cho trả được xong?
Các người kia đều cười không nhịn được. Quản Doanh cũng cười mà nói rằng:
- Chắc anh này bị bệnh nhiệt mà không ra được mồ hôi, nên mới nói lảm nhảm như thế? Thôi không cần nghe hắn nói, hãy cứ đưa xuống dưới phòng trại giữ ở đó.
Mấy tên lính dạ ran, rồi mang Võ Tòng xuống phòng trại, bấy giờ bọn tù đồ đều đến hỏi Võ Tòng rằng:
- Bác có thư tín của ai đưa đến, để nói với Quản Doanh che chở cho không?
Võ Tòng đáp:
- Không có gì cả.
- Nếu vậy họ không đánh bây giờ, tất là nguy với họ. Chắc là họ toan sát hại chứ không chơi.
- Họ sát hại bằng cách nào?
Chiều hôm nay tất họ đưa mấy bát cơm gạo trong kho đến, để bác ăn cho rõ no, rồi họ đem xuống hầm đất trói tròn lại, lấy chăn bó cuộn vào mà đút nút chặt lỗ mũi lỗ mồm, mà dựng lên vách chỉ một lúc là chết.
- Còn có phép gì nữa không?
- Còn một cách nữa là họ đem trói lại, rồi đem một cái túi rất lớn để đè lên người, cũng chỉ một lúc là chết.
Võ Tòng lại hỏi:
- Vậy còn cách gì nặng hơn nữa không?
Chúng đáp rằng:
- Chỉ có hai cách ấy là ghê nhất, còn các lối khác, thì không lấy gì làm nguy hiểm cả.
Chúng vừa nói xong, thì bỗng thấy một tên lính mang cái quả tròn đến mà hỏi rằng:
- Ai là Võ Đô Đầu mới đến ở đây?
Võ Tòng đáp rằng:
- Ta đây, hỏi làm gì?
Người lính nói:
- Quản Doanh sai tôi đưa đồ đến đây cho điểm tâm.
Nói xong đem quả tròn đến để trước mặt Võ Tòng, Võ Tòng trông thấy có một bình rượu lớn, một đĩa thịt, một đĩa bánh, và một bát nước dùng lớn liền nghĩ thầm trong bụng rằng:"Cái này nó mang cho ta ăn, rồi mang trị đây! Ừ thôi, hãy ăn rồi sẽ liệu"
Nghĩ vậy, liền vớ lấy bình rượu uống một hơi vừa hết, rồi ăn uống các thứ, không còn một tý gì. Đoạn rồi tên lính bưng quả mang đi. Võ Tòng ngồi một mình trong phòng vừa nghĩ vừa cười nhạt một mình mà nói lẩm bẩm: " Để xem nó đối với ta là người thế nào?"
Chiều hôm ấy lại thấy tên lính kia đội một quả đến. Võ Tòng hỏi:
- Sao anh lại đến đây làm gì?
Tên lính đáp:
- Tôi đưa cơm chiều đến đây.
Nói đoạn tay đặt cái quả xuống, trong bày một đĩa thịt, một bát canh cá, một thùng cơm, và hai nai rượu rất lớn.
Võ Tòng ngất ngưỡng vừa ăn vừa thầm nghĩ một mình: "Ăn xong bữa này, tất là họ kết quả mình, nhưng vậy mặc lòng, ta có chết cũng làm con ma no mới thích" Ăn uống xong rồi, tên lính thu dọn bát đĩa mà trở đi không nói năng chi cả.
Hồi lâu lại thấy tên lính ấy, cùng một tên nữa, kẻ xách thùng tắm kẻ thì xách thùng nước nóng, đem vào bảo với Võ Tòng rằng:
- Nước đây mời Đô Đầu đi tắm rửa.
Võ Tòng lấy làm lạ; Có lẽ họ cho mình tắm, rồi mới hạ thủ hay sao? Thế nào cũng không cần, ta hãy tắm cái đã..."
Nghĩ đoạn cởi quần áo, nhảy vào thùng nước tắm rửa một lúc, hai tên lính lại đưa khăn tắm vào để lau. Võ Tòng lau ráo mình mẩy mặc quần áo vào rồi, hai tên kia đổ nước, đem thùng vác về.
Đoạn rồi một anh đem màn chiếu đến, để mắc màn trải chiếu, và đưa gối cho Võ Tòng nằm. Võ Tòng đóng cửa nằm một mình không hiểu ý tứ ra làm sao? Hồi lâu bất giác người mệt ngủ thiu đi lúc nào không biết.
Cuộc đời trải chán bể dâu,
Tử sinh kinh cụ hơi đâu bận lòng?
Giang sơn phó một giấc nồng,
Xem trời xoay với anh hùng ra sao?
Sáng hôm sau chàng trở dậy, vừa mới mở cửa ra, đã thấy tên lính bưng nước nóng cho Võ Tòng súc miệng rồi lại đem lược vào chải đầu búi tóc cho Võ Tòng. Lại có một người nữa bưng cơm sáng vào mời Võ Tòng ăn. Võ Tòng vừa ăn vừa nghĩ lẩm nhẩm buồn cười, không hiểu tình ý ra sao cả.
Khi cơm nước xong, có một người vào nói với Võ Tòng rằng:
- Ở đây không được sạch sẽ, xin mời Đô Đầu sang phòng kia để nghỉ.
Nói xong liền dọn dẹp hành lý và dẫn Võ Tòng đi. Võ Tòng càng lấy làm ngờ vực lạ lùng, xong cũng liều bước đi theo, để xem trò đời hay, dở? Đi tới một nơi, đẩy cửa bước vào thấy ở trong màn giường sạch sẽ, hai bên bàn ghế, toàn là mới kê bày cả.
Võ Tòng bước chân vào, trong lòng ám tưởng; "chắc phen này họ đút mình vào hầm đất thì phải... sao mà lại dắt đến đây?"
Chàng vẩn vơ nghĩ ngợi, ngồi mãi đến gần trưa, lại thấy tên lính bưng một mâm lớn tướng, tay xách một nậm rượu đưa vào, trong mâm bày đủ các thức hoa quả, thịt cá rất là sang trọng, rồi tên lính rót rượu mời Võ Tòng uống. Võ Tòng ăn uống no say, rồi nghĩ thầm rằng:"Đám tù vừa nói với ta như vậy, ta cũng chắc rằng như vậy, ngờ đâu họ lại xử ngay một cách khác hẳn, khiến mình không biết xét đoán ra sao mà xử trí!".
Đoạn rồi chàng thủng thẳng đi ra chơi mát trong trại.
Bấy giờ đương dạo tháng sáu, trời nắng chang chang, bọn tù đồ kẻ thì gánh nước, kẻ thì bổ củi, nhất luật đều phải phơi trãi ngoài sân mà làm các việc. Võ Tòng thấy vậy, liền hỏi chúng rằng:
- Trời nắng nôi thế này, các người vội gì mà phơi mãi ra đấy cho khổ?
Chúng nghe nói cười mà đáp rằng:
- Bác không biết, chúng tôi được làm việc ở đây, còn là phúc bằng cái đình ấy... Bây giờ còn có những hạng kém tiền đút lót, thì nhốt cả vào trong Đại lao kia, rồi khóa kìm cùng kẹp, sống cũng dở chết cũng dở, lấy đâu đã được thế này...
Chàng nghe vậy, lặng ngắt mà quay đi, khi tới phía sau Thấy đôn đá rất to, bên cạnh có lỗ thủng, chắc là một chỗ để trói buộc người ta. Chàng liền ngồi trên đó để ngủ. Hồi lâu lại một mình lững thửng về phòng.
Từ đó trở đi, luôn ba bốn hôm, bữa nào cũng có người đưa cơm rượu đến, mà hầu hạ cung phụng rất là tử tế, Võ Tòng không hiểu ra sao.
Một hôm vào giữa buổi trưa, nhân khi có người mang cơm đến, Võ Tòng liền hỏi rằng:
- Anh là người nhà ai? Sao lại mang cơm rượu đến mời tôi vậy?
Người kia nói:
- Thưa ngài, hôm nọ tôi đã nói với ngài rằng:
- Tôi là người nhà Quản Doanh tướng công đó.
- Tôi hãy hỏi anh, ai sai anh đem cơm rượu cho tôi như vậy?
- Thưa ngài, đây là tiểu Quản Doanh tướng công, sai tôi đưa đến để mời ngài.
- Tôi là một người phạm tội, xưa nay chưa từng quen biết Quản Doanh bao giờ, vậy cớ sao lại đã tôi tử tế như vậy?
- Cái đó chúng tôi cũng không được biết. Chỉ thấy Quản Doanh dặn tôi rằng:"Cứ đưa cơm nước phụng sự Đô Đầu trong ba tháng, hay là nửa năm rồi hãy nói chuyện".
Võ Tòng ngạc nhiên mà rằng:
- Quái lạ! Có dễ họ nuôi ta cho béo, để họ thịt chăng? Thế này thì ta không thể nào mà ăn uống cho yên lòng được. Ngươi hãy nói cho ta biết, Tiểu Quản Doanh là người thế nào, thì ta sẽ ăn uống bữa cơm hôm nay.
Người kia đáp:
- Thưa ngài, Tiểu Quản Doanh là người cao lớn quấn lụa trắng ở tay, mà đứng bên cạnh Quản Doanh tướng công hôm trước đó.
- Có phải chính là người mặc áo xanh hôm ấy không?
- Bẩm, chính phải.
- Vậy thì hôm ấy ai nói cho tôi khỏi bị đánh?
- Bẩm, chính ông ta đấy.
- Nếu vậy thì quái lạ lắm! Tôi đây là người huyện Thanh Hà, ông ta là người ở Mạnh Châu, xưa nay không quen biết bao giờ, mà lại xử đãi như thế? Ông ta tên họ là gì?
- Bẩm, ông ta họ Thi tên Ân, tài giỏi võ nghệ, người ta thường gọi là Kim Nhỡn Bưu.
Võ Tòng nghe nói, liền bảo người kia rằng:
- Có lẽ người ấy cũng là một tay hảo hán nam tử ở trên đời... Vậy anh hãy mời ông ta đến đây, rồi sẽ ăn cơm, bằng không thì cơm nước từ đây tôi không dám nhận.
- Bẩm ngài, chuyện đó Tiểu Quản Doanh tôi đã dặn dò cẩn thận không cho nói trước, lẽ đâu tôi dám mời đến đây bây giờ?
- Không, anh cứ mời ông ấy đến đây, tôi sẽ nói cho.
Người kia do dự đã toan nhất định không đi, sau bị Võ Tòng thúc bách mãi, liền bất đắc dĩ phải theo lời mà đi mời Tiểu Quản Doanh ra đó.
Khi Thi Ân ra tới Phòng, trông thấy Võ Tòng, thì xụp xuống vái chào, Võ Tòng cũng đáp lễ lại mà hỏi rằng:
- Tôi là kẻ tù tội đến đây, xưa nay không được biết ngài, mà cũng không có công lao gì đối với ngài, vậy mà ngài lại cứu cho thoát khỏi sự đánh đập, rồi lại thiết đãi cơm rượu như thế, thực trong lòng lấy làm áy náy không hiểu tình ý ra sao, xin ngài cho tôi được biết rõ?
Thi Ân đáp:
- Tiểu đệ nghe danh ngài đã lâu, chỉ vì đường xá xa xôi, mà chưa sao được gặp, nay đã vì sự không may của ngài, phải dời gót đến đây, tôi muốn nhân cơ hội để bái kiến ý tôn nhân, song chưa biết lấy gì làm lễ tương kiến, nên chưa dám hầu ngài được.
- Vừa rồi thấy tên người nhà nói là, ngài dặn đợi trong ba tháng nữa sẽ nói chuyện cho tôi biết, chẳng hay Tiểu Quản Doanh có chuyện gì, xin cho Võ Tòng được biết rõ.
- Dám thưa Huynh trưởng: đó là thằng đầy tớ nó ngu si không biết nên mới đường đột nói với huynh trưởng như vậy, chứ tôi đây có khi nào mà tháo thứ nói ngay ra bây giờ?
- Nếu Tiểu Quản Doanh xử như vậy, thì tôi lấy làm phiền lòng, mà không thể nào yên được. Vậy có việc gì xin ngài nói cho nghe?
Thi Ân ngần ngừ hồi lâu rồi nói với Võ Tòng rằng:
- Tên người nhà đã trót nói lỡ mồm với ngài như thế, tôi đây không lẽ nào lại giấu huynh trưởng được, vậy xin huynh trưởng bỏ quá mà nhận lời cho. Nguyên tôi nghe tiếng huynh trưởng là một bậc Đại trượng phu lừng lẫy xưa nay, nên ý muốn phiền ngài một việc, mà việc ấy chỉ có một mình ngài là đảm đang mới được. Song huynh trưởng vừa mới đi đường xa tới đây, chắc là trong mình hãy còn mệt nhọc, vậy xin để đợi năm ba tháng nữa, huynh trưởng khoẻ rồi sẽ nói rõ thì hơn.
Võ Tòng cười vang lên mà rằng:
- Tiểu Quản Doanh ơi! Ngài chưa được rõ tôi đây dạo năm ngoái bị bệnh sốt rét tới ba tháng trời mà cũng chỉ dùng cẳng chân nắm tay đánh chết được hổ trên núi Cảnh Dương nữa là ngày này... Đành vậy, nhưng hiện nay nói ra cũng là vô ích, vậy xin khi nào huynh trưởng khoẻ mạnh ung dung rồi sẽ hay.
- Tiểu Quản Doanh cho tôi là không khoẻ, vậy hôm trước tôi trông thấy ở Thiên Vương Đường có cái đôn đá không biết rằng nặng bao nhiêu cân...
- Có lẽ nặng tới bốn năm trăm cân thì phải.
- Nếu vậy tôi với ngài thử đi qua đó xem tôi nhắc nổi được không?
- Vâng, ngài dạy thế cũng xin vâng, song hãy xin uống mấy chén rượu rồi sẽ xin đi.
Võ Tòng quyết định nói rằng:
- Hãy xin đi một lúc đã.
Thi Ân từ chối không được, liền cùng với Võ Tòng dắt tay nhau mà đi ra Thiên Vương Đường. Bấy giờ các tù đồ trông thấy Võ Tòng cùng Tiểu Lý Quảng đi ra đó, thì ai nấy đều cúi rạp người xuống để chào mà ngạc nhiên không biết ra sao?
Võ Tòng đi đến chỗ đôn đá, giơ tay sẽ lay qua một cái rồi cười mà nói rằng:
- Có lẽ tôi yếu đuối thực không thể nào vần lên được...
Thi Ân nói:
- Một hòn đá nặng có tới bốn năm trăm cân, nói chơi...
Võ Tòng lại cười ha hả mà rằng:
- Tiểu Quản Doanh chắc rằng tôi không nhắc nổi phải chăng? Ngài hãy thử coi xem thế nào?
Nói đoạn liền cởi áo ngoài ra, hai tay ôm đôn đá nhắc bổng lên rồi vứt xuống đất đến thình một cái; lõm hẳn xuống đất tới một thước sâu. Bọn tù đồ đứng quanh đấy trông thấy đều lấy làm kinh sợ lạ lùng.
Võ Tòng lại giơ tay phải nâng hòn đá tung lên hơn một trượng rồi ngửa tay lên hứng lấy, rồi đặt nguyên vào chỗ cũ. Đoạn rồi quay ra nhìn mọi người, nét mặt vẫn tự nhiên như thường, không có chút gì ra vẻ khó nhọc. Thí Ân thấy vậy bèn chạy đến vái Võ Tòng mà nói rằng:
- Huynh trưởng thật là thiên thần chứ không phải người thường ví được?
Các tù đồ cũng sụp xuống lại mà nói rằng:
- Ngài thực là người thần vậy.
Đoạn rồi Thi Ân mời Võ Tòng về nhà riêng chơi. Võ Tòng nói với Thi Ân rằng:
- Bây giờ xin Tiểu Quản Doanh cho tôi biết công việc của Tiểu Quản Doanh?
Thi Ân nói:
- Xin ngài hãy ngồi chơi đợi lát nữa gia nghiêm tôi ra chào, rồi xin nói chuyện.
- Nếu ngài dạy có việc gì, thì xin cứ nói ngay, đừng theo lối đàn bà trẻ con như vậy... không phải là lối làm việc. Tôi đây dẫu có việc gì nguy hiểm đến đâu. Cũng xin hết sức giúp ngài ngay được, ngài cứ nói ngay cho.
Cho hay là:
Tấm thân đạp đất đội trời,
Nước non đâu chẳng là nơi hữu tình?
Đã lòng cốt nhục tử sinh,
Dẫu rằng dâu bể, tung hoành sá chi.
Xưa nay phận sự nam nhi,
Chẳng qua gánh vác nặng vì non sông,
Liều thân dấn với bụi hồng,
Mà xem chim các vẫy vùng ra sao?
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi trên tả Võ Tòng giết người coi nhẹ như cỏ rác, mực giây nét máu bút vướng hơi tanh; thế mà đến hồi này đối với hai tên công sai, lại cứu sống ra, thấy rằng con người Đại nhân từ trong thiên hạ, chưa nhân từ hơn Võ Tòng việc ấy, thế thì bao nhiêu vết máu thây tanh ở một hồi trên, đến đây như rửa sạch. Ý tác giả tả Võ Tòng lúc đó, muốn cho ra một bậc người trời; Mới có cử chỉ khi mừng thì gió êm mưa dịu; khi giận thì sấm mắng sét oai, không cái gì nên, không cái gì là chẳng nên, nào phải như loại Tống Giang thấy người thì muốn khóc; hay Nguyễn Tiểu Thất thấy người thì muốn đâm, không thể nào đem ví ra cho được?
Đọc hồi này thấy Võ Tòng chợt đâu đem lời nói cảm kích vợ chồng Trương Thanh. Than ôi! Há chẳng đau lòng! Việc vợ chồng trong đời vốn hai người với nhau hết mọi nhân sự, tại sao anh ruột chị dâu Võ Tòng, cũng đôi vợ chồng, lại không được như thế? Tại Trời ư? Tại Người ư? Xét cha mẹ ngươi Tòng sinh ngươi Tòng, chẳng khỏi sinh ra anh ngươi Tòng đó là Trời, chẳng phải ở người vậy, nhưng nếu anh ngươi Võ Tòng chẳng lấy họ Phan, Tây Môn Khánh không có chuyện gì, mà chính ngươi Tòng chẳng muốn xa anh. Quan huyện cũng không nhờ đến, thì cũng do trời, đâu phải tự người, thì rõ ràng lắm vậy, khiến Võ Tòng không dám tin ai, khắp trong thiên hạ, nào ai chồng thuận vợ hòa. Thế mà mới ra khỏi phủ đình, vào vòng tiếp vật, lại gặp một đôi vợ chồng Trương Thanh như thế đáng yêu, kết bạn với chàng, thì chàng há chẳng quay mặt vào vách, gạt thầm giọt lệ đau thương!!! Tác giả mới tả rằng: Võ Tòng chợt đâu đem lời cảm kích vợ chồng Trương Thanh, thì hỡi ôi! Thực cây bút tuyệt.
Tả luôn Tiểu Quản Doanh khỏan đãi Võ Tòng, nào tự nhiên thấy một người đem quả đến, nào thịt, nào rượu, nào bánh, nào cơm, đến chiều lại thế cũng tả rõ ra nào bình rượu, đĩa thịt, liễn cơm... rồi sau lại một người đem thùng tắm, một người đem nước tắm, sau lại thay phòng ngủ hầu hạ đủ từ lấy nước cho súc miệng rửa mặt, lấy lược chải đầu, ba bốn ngày hầu hạ ăn uống, sau lại dạo chơi quanh, thế rồi về phòng lại cơm sẵn rượu kề ta thấy chép rõ ràng ra, mà chính Võ Tòng lại hoài nghi thắc mắc, một đoạn tả rõ như vậy, cho thấy biểu lộ con người hậu đãi ấy Thi Ân.
Sắp tả Võ Tòng uy trấn trại Bình An, đã dự trước một ngày, dạo chơi trước Thiên Vương Đường, bèn nhắc hòn đá xanh làm lò thiêu hương nặng sức, lạ thay! Rất lạ là tới sáng ngày chính lúc Võ Tòng giở thần oai ra diễn võ, lại không trực tả, chỉ tả một nữa phần thôi, như chép thấy hòn đá mà xin nhắc thử, rồi nhẹ nhàng nhấc lên cao lại ra tay quật mạnh xuống, làm đất lõm sâu một thước, thế rồi lại lần nữa nhắc lên, để lại chỗ cũ, mới thấy thần lực Võ Tòng, tận tình trổ ra, lại tả nốt nửa phần nữa thần oai như mặt không hồng, mồm không thở, tay không núng. Đoạn một không ngờ có đoạn hai, đọc đoạn hai không ngờ còn đoạn ba, văn thế ly kỳ, chẳng phải mở mắt ra mà xem hết.
Hồi 28:
Trại Bình An, lạy cầu có nghĩa sĩ;
Rừng Khoái Hoạt say đánh Tưởng Môn Thần.
Khi đó Thi Ân bảo với Võ Tòng rằng:
- Xin huynh trưởng hãy ngồi chơi, việc này để tiểu đệ kể rõ ràng đầu đuôi thì mới rõ được.
Võ Tòng có ý nóng nảy mà rằng:
- Tiểu Quản Doanh bất tất phải lôi thôi dài dòng văn tự...có thế nào xin cứ nói thực ngay cho tôi được biết.
- Tiểu đệ từ thuở nhỏ theo đòi võ nghệ, cũng biết được qua loa dăm ngón còn quyền, nhận thế đất Mạnh Châu thường gọi là Kim Nhỡn Bưu...  Ở gần cửa bên đông trại này có một nơi phố xá, tên là Khoái Hoạt Lâm, xưa nay các thương khách ở Sơn Đông Hà Bắc đến đó buôn bán rất đông. Trong phố có hơn trăm nhà khách sạn lớn, và hai ba mươi sòng đánh bạc lớn. Trước đây tiểu đệ nhờ có đôi chút võ nghệ, bèn bắt tám chín mươi tên tên tù đồ khỏe mạnh ở trong trại, đem ra đó mở một ngôi tửu điếm; rồi bắt các khách sạn cùng các sòng bạc quanh đó, nếu khi có đám kỹ nữ nào qua lại, là phải đem đến tửu điếm của tiểu đệ trước, rồi mới được chia đi các nơi. Nhân thế mà tính mỗi tháng tất cả tiền vặt vãnh có thể kiếm tới hai ba trăm lạng bạc. Dè đâu có ông Trương Đoàn Huyện, người ở Đông Lộ Châu mới đến, lại dắt thêm anh chàng to lớn, tên là Tưởng Trung cũng đến ở đây...Anh chàng này mình dài chín thước, tay gậy tay quyền ít người đo kịp, bọn giang hồ vẫn gọi là Tưởng Môn Thần (thần giữ cửa họ Tưởng) xưa nay. Anh ta thường nói khoác là: Trong ba năm trời ở Thái Nhạc đánh nhau không hề có ai đối thủ, khắp trong thiên hạ chỉ một người như hắn mà thôi, nhân vậy hắn cướp lối kiếm ăn của tiểu đệ. Tiểu đệ đã khẳng khái không chịu nhường, sau bị hắn đánh một trận, có tới hơn hai tháng giời mới dậy được. Hôm nọ huynh trưởng mới đến đây, chính tiểu đệ vẫn còn đau tay phải buộc đó. Tiểu đệ nghĩ đến chuyện ấy, thực là căm tức vô cùng toan đem người đến đánh báo thù một mẻ, song lại e hắn ta với Trương Hoành Huyện rất thân, lỡ có thế nào thì ở trong trại đây làm lắm điều không tiện, bởi thế mà chưa sao báo trả được xong. Nay nghe tiếng huynh trưởng có lòng hạ cố giúp đỡ một tay, để tiểu đệ được sạch tan gánh giận vô cùng ấy, thì dẫu chết cũng được hả lòng. Duy huynh trưởng mới đến đây, e khi đường xá xa xôi, trong mình chưa khỏe, nên muốn đợi dăm ba tháng cho huynh trưởng khỏe mạnh, rồi sẽ nói ra, ai ngờ bây giờ...
Võ Tòng nghe đến đó, cười ha hả mà rằng:
- Anh Tưởng Môn Thần ấy, có mấy đầu mấy tay?
Thi Ân đáp:
- Hắn cũng một đầu hai tay thôi, chứ làm gì mà có nhiều hơn ai!
Võ Tòng cười mà rằng:
- Tôi tưởng hắn ta ba đầu sáu tay tài giỏi như Na Tra ngày trước, thì tôi cũng sợ thực, nhưng nếu có một đầu hai tay, không được tài giỏi như Na Tra, thì có làm chi mà sợ.
- Đành vậy, song tiểu đệ sức lực yếu kém, nên chỉ sợ không tài nào địch nổi hắn.
- Tôi đây không phải nói khoác, nhưng cứ võ nghệ của tôi thì bao nhiêu những thằng ngang ngạnh, không biết điều trong thiên hạ, đều không coi vào đâu cả. Bây giờ các bác cứ đem rượu đi đường để uống rồi tôi với bác cùng đến xem nó ở đâu, để tôi đánh cho một mẻ như con hổ hôm trước, nếu có chết, tôi xin đền mạng.
Thi Ân nói:
- Xin huynh trưởng cứ ngồi chơi, lát nữa gia nghiêm tôi về đây, sẽ xin nói chuyện. Việc này không vội được, hãy để sáng mai tôi cho người đi dò xem, nếu nó còn ở nhà, thì hôm sau ta đến đó, bằng không thì hãy thư thả rút giây sợ động rừng, lỡ bị nói đánh lại thì không phải chuyện chơi.
Võ Tòng ra dáng xấn xổ mà rằng:
- Tiểu Quản Doanh phải biết rằng, nếu để nó đánh được, thì ta không phải là thằng con trai. Đi thì đi ngay, cần gì phải đợi hôm nay hôm khác, Tiểu Quản Doanh cho mau mau mới được.
Đương khi hăm hở nói cười, thì bỗng thấy Lão Quản Doanh ở sau bình phong chạy ra nói rằng:
- Nghĩa sĩ ơi, lão há nghe chuyện nghĩa sĩ đã lâu rồi...Nay thằng cháu được gặp ngài thật là vén mây trông thấy mặt trời... Xin mời ngài hãy vào trong nhà, ta nói chuyện.
Võ Tòng đứng dậy, theo Lão Quản Doanh vào nhà trong. Lão Quản Doanh mời Võ Tòng ngồi, Võ Tòng khiêm tốn mà rằng:
- Tôi là một người phạm tội đến đây, đâu dám xấc xược như vậy.
Lão Quản Doanh cười rằng:
- Nghĩa sĩ không nên câu nệ như thế, cháu được gặp nghĩa sĩ là may rồi.
Võ Tòng nghe nói, liền xin phép ngồi đối diện với Lão Quản Doanh, còn Thi Ân thì đứng ở một bên. Võ Tòng lại nói với Lão Quản Doanh xin phép cho Thi Ân cùng ngồi để nói chuyện. Được một lát người nhà dọn rượu lên, Lão Quản Doanh cất chén mời Võ Tòng mà rằng:
- Nghĩa sĩ là một bậc anh hùng như vậy, thiên hạ ai không đem lòng kính phục... ? Thằng cháu ở đây có mở ngôi hàng ở Khoái Hoạt Lâm, chủ ý cũng không phải bán buôn cầu lợi, đó chẳng qua là muốn nuôi thêm hào khí cho đất Mạnh Châu, để cùng non sông đóng góp. Ngờ đâu bị tên Tưởng Môn Thần ỷ thế hào cường mà công nhiên chiếm mất, nay nếu không gặp nghĩa sĩ thì có lẽ khó lòng mà báo thù được. Vậy nếu nghĩa sĩ có lòng thương đến thì cháu xin bốn lạy làm huynh trưởng, để gọi tỏ tấm lòng thành cùng nghĩa sĩ.
Võ Tòng cung kính đáp rằng:
- Chúng tôi có tài học gì mà dám nhận lời như thế!
Nói xong cất chén rượu uống một hơi cạn hết. Thi Ân đứng dậy lạy Võ Tòng bốn lạy bái làm huynh trưởng, kết nghĩa anh em, Võ Tòng vội đứng dậy đáp lễ, rồi cùng ngồi uống rượu với nhau, đến khi Võ Tòng rất say, rồi mới vực về phòng, để nghỉ.
Sáng hôm sau, cha con Thi Ân bàn với nhau rằng:
- Hôm qua Võ Đô Đầu uống rượu say quá, chắc hôm nay còn trúng tửu, chưa có thể làm việc được, vậy ta hãy nói dối là sai người đi dò xem, thấy hắn không có ở nhà, đành để hoãn đến mai sẽ liệu.
Khi bàn định xong, rồi Thi Ân liền đến bảo với Võ Tòng rằng:
- Tiểu đệ sai người đến dò xét hẳn hòi, song hắn còn đi vắng vậy để sáng mai xin mời huynh trưởng đi cho.
Võ Tòng nghe nói, lại có ý sốt sắng mà rằng:
- Hôm nay lại nghỉ một ngày thì thực phiền cho tôi quá.
Khi cơm nước xong, Võ Tòng cùng Thi Ân đi ra trước trong dinh chơi mát một hồi, rồi lại trở về phòng khách nói chuyện võ nghệ với nhau. Trưa hôm ấy, Thi Ân mời Võ Tòng ăn cơm ở trong nhà. Trong khi thiết rượu, chỉ mời dăm ba chén, rồi cất đi mà đem cơm lên ngay. Võ Tòng đương cao hứng uống rượu, nhưng thấy vậy cũng không hiểu đầu đuôi tình ý ra làm sao? Khi cơm nước xong. Võ Tòng trở về phòng nghỉ, có hai tên đầy tớ đem nước tắm rửa đến. Võ Tòng liền hỏi rằng:
- Sáng hôm nay Tiểu Quản Doanh thiết cơm, lại không để cho uống rượu là tình ý làm sao?
Tên đầy tớ đáp rằng:
- Chẳng giấu gì Đô Đầu; Lão Quản Doanh cùng Tiểu Quản Doanh tôi đã định hôm nay là mời Đô Đầu hành sự, song lại e hôm qua Đô Đầu uống nhiều rượu, thì hôm nay chắc trúng tửu mà lỡ mất việc to bởi vậy nên không dám đem rượu ra mời Đô Đầu, mà cốt dưỡng sức khỏe để mai nhờ Đô Đầu giúp việc cho.
Võ Tòng nghe nói bật cười mà rằng:
- Như thế mà sợ ta say rượu, lỡ mất việc to, thì cũng lạ thực!
Đêm hôm ấy Võ Tòng nóng lòng sốt ruột mong sao cho chóng sáng để dậy mà đi. Sáng hôm sau chàng trở dậy sớm rửa mặt súc miệng, đội khăn mỏ xéo, mặc áo vải mùi thâm, thắt lưng đỏ, chân quấn lá đáp đi đôi giày gia, rồi lấy miếng lá cao dán đè chỗ kim ấn trên mặt. Vừa khi chỉnh đốn xong, thì Thi Ân đã đến mời Võ Tòng vào trong nhà ăn cơm.
Khi cơm nước xong, Thi Ân liền sai đầy tớ đóng ngựa để đi, Võ Tòng gạt đi mà rằng:
- Chân tôi có việc gì mà phải đi ngựa, cái đó không cần. Duy có một điều này, Tiểu Quản Doanh phải nghe tôi mới được..
Thi Ân nói:
- Có điều gì xin huynh trưởng cứ cho biết, nào tiểu đệ dám không theo.
- Bây giờ tôi với Tiểu Quản Doanh cùng đi, cần phải nhớ một câu là "Không ba chẳng qua vọng".
- Thế nào là "Không ba chẳng qua vọng", tiểu đệ không hiểu ý ra sao cả?
Võ Tòng cười mà rằng:
- Tôi nói cho chú nghe; Nếu chú có cần cho tôi đánh Tưởng Môn Thần, thì cứ bước chân ra khỏi thành, hễ gặp hàng rượu nào là phải mời tôi uống ba chén rượu; nếu không có ba chén rượu, thì tôi không đi qua vọng tử nữa, thế là không ba chẳng qua vọng.
Thi Ân nghe nói, nghĩ một lát mà đáp rằng:
- Khoái Hoạt Lâm cách đông môn mười bốn mười lăm dặm đường, trong quãng đó có tới mười hai mười ba hàng rượu, nếu qua mỗi hàng mà uống ba chén, thì tất cả, phải đến ba nhăm ba sáu chén rượu, như thế e khi huynh trưởng quá say, thì còn làm việc thế nào được?
Võ Tòng cả cười mà rằng:
- Tiểu Quản Doanh sợ tôi say rồi kém sức hay sao? Phải biết rằng, tôi uống một phần rượu thì tài giỏi một phần chứ uống đến mười phần rượu, thì tài sức lại ở đâu đâu kéo đến, không biết thế nào mà kể? Nếu không phải là say rượu to gan, thì nào có đánh được con đại trùng ở trên núi Cảnh Dương. Lúc đó cứ để cho tôi say mê say mệt, thì sức mới mạnh được.
Thi Ân nói:
- Nếu vậy thì càng hay lắm. Hôm qua chỉ sợ huynh trưởng quá say lỡ việc, nên không dám đem rượu ra mời. Nay huynh trưởng đã nói như vậy, thì nhà tôi sẵn có rượu ngon, xin cho người cứ gánh sắn cả hoa quả rượu chè đi, rồi đến đó sẽ dùng.
- Thế thì vừa ý tôi lắm! Có dăm ba chén rượu mới có khí lực, chứ đánh suông thì khó lòng đánh được. Hôm nay tôi đánh thằng ấy, gọi là để cho họ buồn cười một mẻ vỡ bụng mà chơi.
Bấy giờ Thi Ân sai hai tên người nhà gánh rượu nhắm đi trước, rồi Lão Quản Doanh lại chọn vài ba mươi tên khỏe để ứng tiếp theo sau, đoạn rồi Thi Ân cùng Võ Tòng ra đi. Ra khỏi trại Bình An tới cửa Đông Môn đi được bốn năm mươi bước, thì thấy bên cạnh đường có một ngôi hàng rượu phất tử phỏ phất ở trên, hai tên người nhà đã gánh rượu đến trực đó. Thi Ân liền mời Võ Tòng vào ngồi, rồi đem bày các thức rượu nhắm ra.
Võ Tòng bảo với Thi Ân rằng:
- Cái này tất phải dùng ba chén lớn, chứ chén nhỏ thì không ăn thua.
Người nhà nghe nói, liền lấy ra ba cái chén thực lớn, rồi Thi Ân rót rượu ra mời. Võ Tòng không cần khiêm nhượng mời chào, cất chén uống ba hơi hết cả, rồi đứng phắt dậy ngay. Người nhà lại thu xếp đồ đạc mà gánh mau đi trước.
Võ Tòng cười bảo Thi Ân rằng:
- Ba chén rượu thực là nở ruột gan dễ chịu lắm, thôi ta đi đi!
Nói đoạn hai người cùng ra đi. Bấy giờ đương dạo tháng bảy, trời còn nắng bức gió tây, hai người liền cởi phanh cả áo ra mà đi cho mát. Đi được độ một dặm đường nữa, lại đến một nơi tửu điếm thấp thoáng, lá cờ bay ở trong giữa rừng cây. Thi Ân đứng dừng lại hỏi Võ Tòng rằng:
- Chỗ này là một hàng rượu nhà quê, huynh trưởng cũng tính là một vọng chăng?
Võ Tòng đáp:
- Phải lắm, uống ba chén rồi sẽ đi.
Nói đoạn hai người lại vào hàng ngồi, rồi người nhà đem rượu vào rót ba chén để Võ Tòng uống. Uống xong lại đứng dậy cùng đi.
Từ đó cứ mỗi khi gặp hàng rượu, lại vào uống ba chén rồi đi. Dần dần đi qua có tới mươi chốn hàng rượu, Thi Ân thấy Võ Tòng vẫn chưa có dáng say, thì lại càng lấy làm vui trong dạ.
Bấy giờ Võ Tòng hỏi Thi Ân rằng:
- Từ đây đến Khoái Hoạt Lâm, ước chừng còn bao nhiêu nữa.
Thi Ân đáp:
- Không còn bao lâu nữa, ở ngay khu rừng trước mặt kia rồi.
- Nếu vậy thì Tiểu Quản Doanh nên tránh một nơi khác, mà đợi tôi, để một mình tôi tìm đến hắn cũng được.
- Vâng, huynh trưởng dạy thế thì phải lắm, song cần nên cẩn thận dụng tâm, chớ có khinh địch mới được.
Võ Tòng cười rằng:
- Cái đó không cần phải dặn, cứ cho bọn người nhà nó đưa tôi đi, còn gặp hàng rượu nào thì tôi phải uống nữa.
Thi Ân liền dặn người nhà đi theo Võ Tòng, còn tự mình thì đi lánh một nơi.
Võ Tòng đi qua ba bốn dặm đường lại uống thêm mười chén rượu nữa. Lúc đó vào khoảng sắp trưa, khi trời nóng bức, thỉnh thoảng mới hây hây hơi có chút gió. Võ Tòng nghe chừng hơi rượu bốc lên, cũng có dăm bảy phần chếch choáng. Chàng liền cởi phăng áo vải làm bộ say mười phần rồi ngả bên đông vẹo bên tây, mà khệnh khạng đi vào trong rừng.
Lũ người nhà trỏ vào đằng trước mặt mà nói rằng:
- Đến con đường chữ Thập kia, tức tửu điếm của Tưởng Môn Thần rồi đó.
Võ Tòng nói:
- Gần đến đây rồi, thì các ngươi nên lánh cho xa, để khi nào ta đánh ngã hắn rồi sẽ đến.
Nói đoạn đi thốc vào trong rừng, thấy một anh đại hán như tượng Kim Cương, khoác cái áo vải trắng, tay cầm cái phất xua ruồi, bắc ghế ngồi ở gốc cây hòe hóng mát. Võ Tòng càng giả mặt say, liếc mắt nhìn qua một lượt rồi trong bụng nghĩ thấm: "Anh chàng này tất là Tưởng Môn Thần hẳn? " Chàng nghĩ vậy lại sồng sọc đi vào.
Đi được dăm ba mươi bước đã đến quãng đường chữ Thập, có một tửu điếm rất lớn, trước cửa treo là cờ viết bốn chữ "Hà Dương phong nguyệt" rất to. Khi đến tận cửa thấy một dãy chắn song sơn đầu, hai bên treo hai cái biển vàng viết hai câu: "Rượu Thánh vung Trời đất; Bầu Tiên tít tháng ngày". Trong đó một bên kê đặt giường thịt dao thớt và các thức đồ dùng, còn một bên thì lò bếp và các đồ làm bánh. Phía trong có ba cái chum đựng rượu rất lớn, chôn ngập một nửa xuống đất. Khoảng giữa mặt một cái quầy, cười ó một người đàn bà trẻ tuổi ngồi trong. Người ấy là vợ lẽ Tưởng Môn Thần mới lấy, nguyên là một tay con hát khi xưa.
Bấy giờ Võ Tòng chạy thẳng vào hàng, đến bên quầy ngồi đối diện với người đàn bà, rồi đăït hai bàn tay lên quầy mà nhìn chị chàng kia không chớp mắt. Người đàn bà thấy vậy, thỉnh thoảng mặt nom đi chỗ khác.
Võ Tòng lại nom vào trong, thấy có năm bảy tên tửu bảo ở đó, chàng bèn gõ bàn gọi lên rằng:
- Nào chủ hàng rượu ở đâu?
Vừa gọi xong thì có một tên tửu bảo chạy đến, nhìn Võ Tòng rồi hỏi rằng:
- Ngài muốn lấy bao nhiêu rượu?
Võ Tòng nói:
- Lấy hai vò, nhưng hãy đem đây ta nếm xem đã.
Tên tửu bảo chạy đến bên quầy bảo người đàn bà, lấy hai vò rượu đổ vào thùng rồi đem lên một chén đưa cho Võ Tòng uống mà bảo rằng:
- Rượu đây xin ngài nếm cho.
Võ Tòng cất lấy chén rượu xem qua một lượt, lắc đầu mà nói rằng:
- Không tốt, không tốt, lấy thứ khác đây.
Tên tửu bảo biết ý Võ Tòng, đã ra dáng say, bèn cầm đến quầy bảo người đàn bà rằng:
- Nương tử đổi cho hắn thứ khác vậy.
Người đàn bà liền cất rượu ấy đi, rồi đổi lấy thứ rượu thực tốt đưa ra, tửu bảo lại hâm nóng một chén đưa ra cho Võ Tòng nếm.
Võ Tòng sẽ nhấp một tý rồi lại kêu lên rằng:
- Rượu này cũng không ngon? Muốn sống thì đổi thứ khác đây.
Tên tửu bảo cố nín hơi không nói, rồi đem đến cho người đàn bà mà nói rằng:
- Nương tử dầu lòng đổi thứ khác vậy, lão này nghe chừng say rồi, chỉ muốn sinh sự thôi, ta đừng chấp họ mới được.
Người đàn bà nghe nói đổi lấy một thứ rượu thượng hạng đưa cho tửu bảo. Tên tửu bảo hâm nóng tử tế, rồi rót một chén đưa cho Võ Tòng. Võ Tòng cất lên rồi nói rằng:
- Ừ! Cái rượu này còn hơi có mùi mẽ một chút...Này thằng kia, chủ nhân nhà mầy họ gì?
Tên tửu bảo đáp rằng:
- Chủ nhân tôi họ Tưởng.
Võ Tòng liền nói:
- Sao lại họ Lý?
Chị đàn bà nghe vậy lấy làm khó chịu, liền nói với tên tửu bảo rằng:
- Thằng chó nầy lại muốn chết chăng?
Tên tửu bảo nói:
- Nghe chừng anh ta ở đâu mới đến đất này, chưa biết thế nào, nên mới liều lĩnh như thế!
Võ Tòng liền hỏi rằng:
- Các người nói chuyện gì đấy?
Tên tửu bảo đáp rằng:
- Chúng tôi nói chuyện riêng đằng này ngài cứ xơi rượu đi.
Võ Tòng tiếp luôn rằng:
- Ngươi bảo người đàn bà ấy ra đây uống rượu với ta một lúc.
Tên tửu bảo gạt đi rằng:
- Chết nỗi! Sao nói càn thế? Bà ấy là vợ ông chủ nhà tôi đấy.
- Vợ ông nữa thì làm sao? Uống rượu với ta phỏng đã việc gì?
Chị chàng kia nghe nói cả giận mắng lên rằng:
- Đồ chết toi này hỗn thực. Nói xong toan đẩy cái quầy để chạy ra. Võ Tòng vội cởi phăng cái áo bên trên ra thắt ngang xuống bụng, cầm thùng rượu hắt một cái đổ tóe ra đất rồi nhảy vào trong quầy. Vừa khi chị chàng kia mới đứng dậy toan đi ra, bỗng bị Võ Tòng sấn đến một tay nắm đầu tóc, một tay cầm chặt lấy thắt lưng rồi xách qua mặt quầy mà ném ngay vào trong chum rượu. Khi đó có một tên tửu bảo nhanh chân chạy đến toan đánh Võ Tòng, bất đồ bị Võ Tòng nắm xách cổ lên mà bỏ ngay vào chum rượu; rồi lại có một tên tửu bảo nữa chạy đến, cũng bị tóm lấy ném ngay vào chum rượu nốt. Ba người đều giãy lục đục ở trong chum rượu, mà không anh nào nhảy ra được. Sau có hai tên tửu bảo nữa ở trong nhà chạy xông ra, cũng bị Võ Tòng đánh cho mỗi tên một cái đá ngã ệp xuống mà không dậy được. Đoạn rồi Võ Tòng xông vào đánh tất cả mọi người nhà bếp anh nào anh ấy, đều thục thân mà chạy cho mau để báo với Tưởng Môn Thần.
Tưởng Môn Thần nghe báo tin thì ngạc nhiên cả kinh, liền đẩy ngã ghế ra, phất một cái đuôi ruồi xuống đất, rồi vội vàng chạy đến hàng xem. Vừa đến khoảng đường rộng ở trước cửa, thì gặp Võ Tòng cũng ra đến đó. Tưởng Môn Thần tuy có sức lớn hơn người, song ít lâu nay tửu sắc ham mê, sức lực cũng có phần hao kém, bởi thế mà thoạt khi trông thấy Võ Tòng thì trong bụng đã hơi hơi núng, Tuy vậy song chàng vẫn khinh thị Võ Tòng còn đương say rượu, nên cứ thị hùng mà sấn vào để đánh.
Khi xông vào tới nơi, thì Võ Tòng giơ tay quyền lên, nhằm giữa mặt Tưởng Môn Thần đánh dứ một cái rồi quay ngoắt mà chạy ngay. Tưởng Môn Thần cả giận, xông vào đến đuổi, bất đồ bị Võ Tòng mau chân đá phi một cái trúng ngay vào giữa bụng.
Tưởng Môn Thần giơ tay lên đỡ, rồi phi quyền để đánh lại, Võ Tòng né mình tránh tay quyền của Tưởng Môn Thần, rồi lại giơ chân bên hữu đá phi một cái nữa, trúng ngay vào thái dương Tưởng Môn Thần.
Tưởng Môn Thần bị cái đá ngã lộn về đằng sau, Võ Tòng liền xông vào đạp chân lên bụng, giở quả đấm ra đánh luôn. Nguyên trước Võ Tòng đánh nhử một cái, rồi quay ngoắt mình đi, mà phi chân trái đá trúng một bên, rồi lại phi chân phải đá luôn bên nữa. Phép đánh đó gọi là "Ngọc Hoàn Bộ Uyên ương cước" là một ngón võ nghệ biệt tài của Võ Tòng thao luyện xưa nay, không phải những tay tầm thường ví được. Bấy giờ Võ Tòng đánh luôn năm bảy cái đấm, Tưởng Môn Thần không sao bò ngóc dậy được, chịu nằm ép dưới đất mà kêu van xin tha.
Võ Tòng nghe vậy dừng tay đánh mà bảo với Tưởng Môn Thần rằng:
- Nếu ngươi muốn ta tha, thì phải nghe ba việc này mới được.
Tưởng Môn Thần kêu lên rằng:
- Hảo hán tha cho tôi, dẫu đến trăm việc tôi cũng xin theo, huống chi là ba việc.
Võ Tòng bèn lấy chân dậm lên trên bụng Tưởng Môn Thần, mà nói ra ba việc cho nghe.
Mới hay là:
Giang hồ say tỉnh tỉnh say,
Ngang trời dọc đất thân này xem không,
Bấy lâu xuôi ngược bềnh bồng,
Biết nhau chăng có non sông với mình,
Tuồng gì là giống hôi tanh,
Thế gian thêm để bất bình riêng ai,
Trăm năm cõi tục còn dài,
Nam nhi xin chớ phụ lời bồng tang!
Lời bàn của Thánh Thán:
Xét đến viết Sử, việc của quốc gia, mà người cầm bút, việc của văn sĩ, chép việc quốc gia, phải đâu chỉ theo lối tự sự có sao nói thế mà thôi, còn ngòi bút phả vẫy vùng ngang dọc, làm sao cho tỏ những ý nghĩa uống ẩm của từng chuyện người trong Sử, như thế mới gọi là kỳ văn! Như Sử Ký Tư Mã Thiên đã soạn, Tư Mã Thiên chép chuyện Bá Di, thì đâu phải chỉ ở Bá Di mà chép chuyện du thủ du thực, thì phải đâu ở du thủ thực; Đến như chép chuyện của Hán Võ, chỉ là chuyện của Hán Võ mà chẳng phải chí như chí của Hán Võ...Có ghét gì những chí ấy, như kiểu tuyên truyền hay chê bai chỉ là văn chương mà thôi vậy. Mã Thiên chép ra, là văn của Mã Thiên, Mã Thiên trong bút chép ra để mà tự sự, thì có tài liệu của văn Mã Thiên, vì chép ra những việc lớn của đời, như triều nghị nghiêm trang, lễ nhạc long trọng, chiến trận ngu cấp, tế lễ thận trọng, mưu kế phiền toái, hình ngục khiếp thươn.. Phải cung tài liệu cho kỳ văn tuyệt thế, mà quân tướng chẳng đến hỏi đến, vì rằng làm ra mọi, là quyền quân tướng, chẳng phải thư sinh được dự bàn, mà chép ra sử sách,là quyền văn sĩ, dù quân tướng ngôi cao mà đâu có thể cấm đoán! Có gì đâu quân tướng có thể làm ra những việc dở thay, nhưng không thể làm ra những việc ấy còn mãi với đời, có thể làm cho việc của quân tướng được mãi với đời, cho đến trăm ngàn muôn đời, hãy còn ca ngợi kính yêu, thì phải nhờ đến công của kỳ văn tuyệt bát mà việc của quân tướng, khác nào vuốt theo đuôi ngựa mà thấy rõ ra.
Thế cho nên Mã Thiên làm văn, ta thấy rằng việc to thô quá, thì thu vén lại thấy rằng việc nhỏ nhen quá, thì phô phang ra. Hoặc thấy rằng việc còn thiếu sót, thì phụ thêm vào, trái lại việc đầy đủ thừa ra, thì bỏ bớt đi, đó là kế vì vãn, đâu phải kế vì việc, nếu khiến văn của ta trở nên một kỳ văn tuyệt thế, thì ta phải truyền cho việc, nên muốn chỉ truyền lại công việc, lại khiến cho đầy đủ không mất đi, thì ta làm văn phải được hế nào, đã trở nên kỳ văn tuyệt thế, nếu không đem văn chương của chúng ta ra truyền, thì làm sao mà truyền nổi chuyện hãy còn mãi mãi? ? ? Đức Khổng Tử chả nói rằng: Câu chuyện thì của Tề Hoàn, Tấn Văn, còn về văn chương thì của Sử Ký, câu chuyện là của Tề Hoàn, Tấn văn, thành ra chỉ là chép việc chứ không là văn, còn văn chương thì của Sử Ký, lại hóa ra chỉ có văn mà không phải việc, còn văn là của văn chương thì câu chuyện cũng khỏi chép đến Tề, Tấn, nên thuyết về Văn Liệu, Khổng Tử cũng nói qua đến vậy.
Hỡi ôi! Bậc quân tử từ xưa, nhận mạng vua cầm bút, vì chép chuyện một đời, moi móc gấm thêu châu ngọc tự trong lòng, trở nên tuyệt thế kỳ văn, há có một nhà văn nào, mà không chép hết ra mọi chuyện, chẳng qua muốn thành tuyệt thế kỳ văn, để tự vui sướng, mà phải Trương đúng là Trương, Lý đúng là Lý, không một chút cong ngay ngang dọc tô điểm tô mầu, với cái chí kinh doanh thảm đạm vậy! Thì đọc Sử Tỳ Quan, mà lại quái đến Tống Tử Kinh, cho rằng đặt để nên lời, chẳng đọc sách Tàn Đường hay sao?
Hồi này tả Võ Tòng, vì Thi Ân đánh Tưởng Môn Thần chép việc đấy, Võ Tòng uống rượu, lại thêm văn đấy, đánh Tưởng Môn Thần, là liệu vậy, uống rượu, là moi gấm thêu châu ngọc ở trong lòng, vì có rượu phải có người đại hán đánh hổ trên núi Cảnh Dương, là tay uống rượu đệ nhất của muôn thủa;Có rượu phải có chỗ, ra khỏi cửa đông Mạch Châu, đến rừng Khoái Hoạt phải mười bốn mười lăm dặm đường, lại là nơi uống rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu lại có lúc, trời hè nóng bức, hiu hắt gió Tây, cởi áo ngoài ra đón gió, lại là lúc đáng uống rượu vào đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu phải ra lệnh uống; Không ba chẳng qua Vọng, lại là lệnh uống rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu còn có Giám Sát, uống luôn là ba chén phải đi ngay, lại là giám sát uống rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu phải có đếm, cứ mười hai mười ba nhà là một vọng tử, lại là tửu trù đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu lại có người kèm theo, gần đến chỗ Vọng, đã sửa soạn ra ba chép trước, uống xong gấp gấp chạy đi, lại là người kèm rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu lại có món đưa cay, chợt nghĩ đến vong huynh, mà phóng thanh khóc rống, chợt đâu căm lũ gian dâm, mà vỗ bàn kêu lên, lại là món đưa cay rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu phải nhớ, nhớ đến Tống Công Minh ở trang Sài Tiến Vương Tôn, lại là uống rượu nhớ đệ nhất của muôn đời; Uống rượu có thói say, chờ cho Tưởng Môn Thần không được ở đường đất Mạnh Châu lại là thói uống say đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu có thán thưởng, bốn chữ Hà Dương Phong Nguyệt, hai câu Rượu Thánh vung trời đất; Bầu Tiên tít tháng ngày, lại là thưởng rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu có đề tài, là Khoái Hoạt Lâm (Rừng sống thú), lại là tửu đề đệ nhất của muôn thủa...Bao nhiêu thứ đó, đều do văn của hồi này, đâu phải việc của hồi này, nếu là việc của hồi này mà thôi ấy, thì Thi Ân đem Võ Tòng đi đánh Tưởng Môn Thần, một đường uống hết ba mươi nhăm, sáu chén rượu chỉ y theo lệ Tống Tử Kinh, chép qua một lượt là đủ, việc gì phải phiền đến Thi Lại An soạn ra văn một hồi này. Ngán thay! Đời không kẻ đọc nổi chuyện, thì ta còn biết làm sao???
Hồi 29:
Thi Ân ba phen vào lao ngục,
Võ Tòng một phen náo phi vân.
Khi đó Võ Tòng trỏ vào mặt Tưởng Môn Thần mà bảo rằng:
- Điều thứ nhất ngươi phải đi khỏi rừng Khoái Hoạt; bao nhiêu đồ đạc để lại đây trao trả cho chủ củ là Kim Nhỡn Bưu Thi Ân...Ai cho ngươi được chiếm nhậm chốn này?
Tưởng Môn Thần vội vàng kêu van rằng:
- Xin vâng...Xin vâng...
- Điều thứ hai: Bây giờ ta tha ngươi, ngươi hãy đi mời tay anh hùng đầu chóp ở chốn này, để đến đây tiếp chuyện với Thi Ân.
- Vâng, chúng tôi xin theo được..
- Điều thứ ba: Từ đây phải lập tức trở về làng nước, không cho ở đất Mạnh Châu đây. Nếu còn vất vưởng loanh quanh, ta gặp một lần là đánh một lần, bắt gặp mười lần là đánh mười lần, nhẹ ra thì đánh cho kỳ ốm, mà nặng ra thì đánh chết cũng nên, ngươi nghĩ sao?
Tưởng Môn Thần kêu luôn lên rằng:
- Được, tôi xin vâng lời hết thảy.
Võ Tòng nghe vậy, bèn kéo Tưởng Môn Thần đứng dậy, thấy mặt mũi tái nhợt, máu chảy đầm đìa, chàng liền trỏ vào mặt mà mắng rằng:
- Ngươi phải biết con hổ trên núi Cảnh Dương, ta chỉ đánh ba cẳng tay cũng đủ chết,...nhà ngươi đây phổng sức lực được là bao nhiêu... ? Muốn sống phải trao trả ngay, chậm một tý là ta đánh chết.
Tưởng Môn Thần nghe đến đó mới hiểu ra Võ Tòng, bèn vâng dạ luôn mồm mà xin giao trả.
Đương lúc ấy Thi Ân dẫn hai ba mươi tên lính đến, định để đánh giúp, khi thấy Võ Tòng đã đánh được Tưởng Môn Thần rồi, thì lấy làm vui mừng vô hạn.
Võ Tòng trỏ vào Tưởng Môn Thần mà nói rằng:
- Hiện chủ cũ ở đây rồi, ngươi phải mau mau trả ngay, và cho người đến nói lại, mau đi.
Tưởng Môn Thần đáp rằng:
- Xin mời hảo hán hãy vào trong hàng đã.
Nói đoạn liền dẫn Võ Tòng cùng mọi người vào trong tửu điếm. Khi vào tới nơi, thấy rượu chè be bét cả ra nhà cửa, mấy đứa trong chum ngoi ngóp bò lên ướt như chuột lột, còn đám người nhà thì chạy mất tăm, không còn ai dám lảng vảng ở đấy. Bấy giờ Võ Tòng ngồi vào trong ghế, quát bảo Tưởng Môn Thần phải mau mau thu thập hành lý, tống chị đàn bà đi trước, rồi nhất diện sai bắt mấy đứa tửu bảo không bị thương, cho đi tìm mươi người đầu sỏ ở quanh đấy, đến để bàn giao. Khi mọi người đã đến đông đủ. Võ Tòng liền sai lấy các thứ rượu ngon ra dọn bàn, mời mọi người cùng uống. Được một lát Võ Tòng nói với chúng rằng:
- Dám thưa các vị cao lân tôi từ khi ở huyện Dương Cốc sang đây, nghe nói Khoái Hoạt Lâm vốn là một cái cơ nghiệp của Tiểu Quản Doanh Thi Ân ngày trước, sau bị Tưởng Môn Thần đến đó ỷ thế mà lấn hiếp cướp mồi. Tôi đây tuy không có can thiệp gì vào đó, song tính tôi bình sinh hay đánh những kẻ tham mê vô lý giữa đường thấy sự bất bình, tất phải ra tay trừ khử, dẫu chết cũng cam tâm. Ngày này bản ý tôi muốn đánh chết Tưởng Môn Thần, để trừ cái hại cho thiên hạ, song tôi còn vị nể các vị cao lân đây, nên đã giữ mạng anh ta ở đó. Hiện bây giờ anh ta phải lập tức đi xứ khác, bằng tôi còn gặp mặt ở đây thì xin theo như con hổ trên núi Cảnh Dương mà trị.
Bấy giờ chúng nghe nói, mới hiểu Võ Tòng chính là anh hùng đánh hổ trên núi Cảnh Dương, liền tề thanh đứng dậy nói đỡ Tưởng Môn Thần rằng:
- Xin hảo hán thư tâm, tức khắc Tưởng Môn Thần sẽ trả lại chủ cũ.
Tưởng Môn Thần kinh sợ vô cùng, liền đem tất cả các đồ đạc trao cho Thi Ân, rồi thuê một cỗ xe, xếp một ít hành lý, và bẽn lẽn từ tạ mọi người mà đi thẳng. Đoạn rồi Võ Tòng cùng Thi Ân mời mọi người ở đó uống rượu, mãi đến chiều hôm mới tan. Lão Quản Doanh nghe tin Thi Ân lại chiếm được Khoái Hoạt Lâm, liền cưỡi ngựa đi đến tửu điếm tạ ơn Võ Tòng, rồi ăn mừng luôn mấy hôm rất vui vẻ. Khi đó ở Khoái Hoạt Lâm mọi người nhận biết Võ Tòng, thì ai nấy đều lấy làm kính trọng, mà đến chào mừng suốt lượt. Thi Ân liều lưu Võ Tòng lại ở đó, rồi sửa sang hàng quán buôn bán rất là sầm uất gấp năm gấp bảy khi xưa...Từ khi Thi Ân nhờ được Võ Tòng báo thù trả oán, lại chiếm được lợi quyền đối với các hàng rượu sòng bạc hơn trước, thì trong lòng rất khâm phục Võ Tòng không khác gì cha mẹ sinh ra.
Thấm thoát hơn một tháng trời, bây giờ nắng hè đã nhạt, ngọn gió thu đã rải rác hơi sương trên mặt đất. Một hôm Thi Ân đương ngồi trong tửu điếm, cùng Võ Tòng nói chuyện côn quyền. Chợt đâu có ba tên lính dắt một con ngựa đến trước cửa điếm mà nói rằng:
- Chúng tôi vâng lệnh Đô Giám tướng công, nghe nói Võ Đô Đầu ở đây.
Thi Ân nhận biết mấy tên đó là người nhà Đô Giám binh mà Trương Mông Phương ở đất Mạnh Châu, liền chạy ra mà hỏi rằng:
- Các bác hỏi Đô Đầu làm chi?
Đám kia trả lời:
- Chúng tôi vâng lệnh Đô Giám tướng quân nghe nói Võ Đô Đầu là bậc hảo hán, nên sai chúng tôi đến đây để mời, hiện có thiếp của tướng công ở đây.
Thi Ân cầm lấy cái thiệp xem xong nghĩ thầm trong bụng: "Trương Đô Giám là Thượng Ty của phụ thân ta, thì sai khiến điều gì không được! Huống chi Võ Tòng lại là một người bị tội đến đây, cũng thuộc quyền người ta cai trị, có lẽ nào mình dám giữ lại mà không cho đi? Nghĩ đoạn rồi quay vào nói với Võ Tòng rằng:
- Nay có quan Trương Đô Giám sai người mang ngựa đến đây, để đón huynh trưởng, vậy huynh trưởng nghĩ sao?
Võ Tòng vốn là người cương trực xưa nay, không cần chi hỏi đến điều ủy khúc, bèn đáp ngay rằng:
- Người ta đã đến tìm mình, thì cứ đi một chuyến xem sao?
Nói đoạn liền thay khăn áo, đem một tên nhỏ theo hầu, rồi lên ngựa theo vào Mạnh Châu.
Khi tới trước cửa dinh Đô Giám, Võ Tòng liền xuống ngựa, theo bọn lính đi vào trong dinh. Bấy giờ Trương Đô Giám đương ngồi ở tiền sảnh, thấy nói Võ Tòng bước vào sảnh cúi đầu lễ chào, rồi khoanh tay đứng ở một bên.
Trương Đô Giám hỏi Võ Tòng rằng:
- Ta nghe nói anh là một tay Đại trượng phu hảo nam tử anh hùng vô địch, dám vì người sống cũng liều, vậy nay trong quân ta còn thiếu một người như thế, chẳng hay anh có chịu giúp ta làm một tay thân mật ở trong nhà hay không?
Võ Tòng cúi đầu tạ ơn rằng:
- Chúng tôi là một kẻ tù tội ở bên dưới, nếu nay tướng công lại có lòng đề cử lên cho, thì chúng tôi xin vâng lệnh theo hầu dưới trướng.
Đô Giám cúi đầu tạ ơn rằng:
- Chúng tôi là một kẻ tù tội ở bên dưới, nếu nay tướng công lại có lòng đề cử lên cho, thì chúng tôi xin vâng lệnh theo hầu dưới trướng.
Đô Giám nghe nói cả mừng, bèn sai lấy hoa quả rượu ngon lên, và từ rót mời Võ Tòng uống thực say, rồi sai dọn một gian phòng ở nhà dưới để Võ Tòng nghỉ. Sáng hôm sau lại sai người đến nhà Thi Ân, lấy các đồ hành lý cho Võ Tòng, rồi lưu luôn ở trong dinh Đô Giám.Từ đó Đô Giám đối với Võ Tòng rất là thân mật, không lúc nào là không gọi đến luôn luôn. Dần dần để cho Võ Tòng đi lại khắp chốn nhà trong nhà ngoài, chẳng khác chi họ hàng thân thích vậy. Đô Giám lại cho gọi thợ, may áo mùa thu cho Võ Tòng mặt rất là tử tế.
Võ Tòng cũng lấy làm vui lòng, gặp một người ân đức như vậy, nên hết sức trông nom, mà không chút gì trễ. Bởi vậy chàng cũng không có lúc nào trở về Khoái Hoạt Lâm mà nói chuyện với Thi Ân được nữa. Thỉnh thoảng Thi Ân có cho người thăm hỏi Võ Tòng, song nhiều khi bị người ngăn trở ở ngoài, mà không được gặp. Được ít lâu nhiều người nhờ đến Võ Tòng nói giúp việc quan, Trương Đô Giám đều thuận tình cho cả. Nhân thế mà không bao lâu các đồ kim ngân tài bạch của dân gian tặng đãi rất nhiều, Võ Tòng liền mua một cái hòm mà chứa cả vào đó.
Một hôm giữa độ Trung Thu tháng tám, Trương Đô Đầu bày tiệc trông trăng ở dưới lầu Uyên Ương trong một khu nhà sâu kín, rồi cho Võ Tòng vào dự tiệc. Võ Tòng có quyền thuộc Đô Giám đều ngồi ăn tiệc ở đó, thì có ý rụt rè, uống một chén rượu, rồi đứng lên mà cất lẻn đi.
Trương Đô Giám thấy vậy, thì hỏi rằng:
- Đương uống rượu, sao lại đi đâu thế?
Võ Tòng khép nép thưa rằng:
- Ân tướng có lòng yêu, ban cho ăn uống, song trên có ân tướng lại có Phu Nhân cùng quý quyến ở đây, chúng tôi đâu dám mạn phép như thế!
Trương Đô Giám cười mà bảo rằng:
- Anh lầm rồi, ta kính anh là một người nghĩa sĩ, nên mới đặc cách mời vào đây uống rượu cũng như người nhà thân vậy. Sao lại chối từ như thế?
Võ Tòng bẩm rằng:
- Chúng tôi là một kẻ phạm tội, không khi nào dám thế xin ân tướng tha cho.
Trương Đô Giám lại than vãn rằng:
- Nghĩa sĩ không nên nghĩ tỉ mỉ làm gì, ở đây có ai là người ngoài đâu! Nghĩa sĩ cứ ngồi uống rượu cho vui.
Võ Tòng hai ba lầm từ chối.Trương Đô Giám nhất định không nghe, bắt Võ Tòng phải cùng ngồi uống rượu. Võ Tòng không thể nào từ chối được, đành phải xin phép, rồi bắc cái ghế xa xa phía dưới mà nghiêng mình ngồi đó.
Trương Đô Giám liền sai con hầu lên rót rượu mời Võ Tòng uống.
Uống được dăm ba chén, rồi Trương Đô Giám lại bảo với Võ Tòng rằng:
- Đại trượng phu uống rượu, cần gì phải dùng đến thứ chén nhỏ nhen này?
Nói đoạn sai lấy chén lớn rót luôn mấy chén để mời Võ Tòng.
Bấy giờ bóng Nga vằng vặc, soi cửa bên đông. Võ Tòng uống rượu chừng đã hơi hơi chếnh choáng, dần dần quên cả lễ độ giữ gìn, mà uống tràn một lúc. Trương Đô Giám lại gọi con tì nữ đáng yêu duyên dáng, là Ngọc Lan ra để ca mừng tiệc rượu. Đoạn rồi lại trỏ bảo Ngọc Lan rằng:
- Ở đây không có ai xa lạ, duy có Võ Đô Đầu thì là một người tâm phúc của ta, vậy nhân tết Trung Thu nầy, người nên hát khúc "Trung Thu bối Nguyệt" để cho chúng ta nghe.
Ngọc Lan vâng lời cầm phách gõ, rồi cất lên tiếng hát bài ca Trung Thu thủy điêu của ông Tô Đông Pha rằng:
Cái bóng trăng kia có tự bao giờ!
Tay nâng chén rượu hỏi khật khờ dăm câu:
Chốn cung Trời muôn trượng cao cao,
Đêm nay là cái đêm nao hỡi trời?
Anh cũng toan cưỡi gió về chơi,
E khi lầu ngọc xa khơi thêm lạnh lùng:
Xênh xang múa giỡn bóng trăng trong,
Khác nào vơ vẫn trong vòng trần ai?
Buông rèm châu thấp thoáng xa xôi,
Can chi hờn giận lựa thời em mới trốn khuôn?
Khách trên đời tan hợp với vui buồn,
Bóng trăng kia khi mờ tỏ với khuyết tròn kể cũng bao phen?
Trải ngàn xưa ai đã vững chu tuyền!
Lòng riêng chỉ nguyện với bóng thuyền cho được dài lâu.
Ngọc Lan hát xong đặt phách xuống đứng ra một bên. Trương Đô Giám lại sai Ngọc Lan đi rót rượu khuyên mời. Ngọc Lan vội vàng vâng lời rót một chén rượu đưa mời Đô Giám, một chén rượu đưa mời phu nhân rồi đến chén thứ ba đưa mời Võ Tòng.
Võ Tòng cúi đầu xa xa đứng dậy, nâng tiếp chén rượu mời; xin phép Đô Giám cùng phu nhân rồi mới dám uống. Trương Đô Giám lại trỏ Ngọc Lan mà bảo Võ Tòng rằng:
- Con bé nây thông minh lắm, không những là thuộc biết âm luật ca hát, mà lại giỏi nghề thêu vá nữa. Nếu nghĩa sĩ không chê là tầm thường, thì trong mấy bữa nữa ta sẽ chọn ngày lành tháng tốt, mà cho cùng nhau kết lứa nhân duyên, nghĩa sĩ nghĩ sao?
Võ Tòng đứng dậy vái mà rằng:
- Chúng tôi có khi nào dám mạn phép quá thế?
Trương Đô Giám cười rằng:
- Ta đã nói vậy tất là phải làm, anh chớ nên từ chối, không khi nào phụ lời ta mới được!
Nói đoạn lại bắt Võ Tòng uống luôn ba chén rượu nữa.
Bây giờ đêm đã hơi tĩnh, Võ Tòng nghe chừng hơi rượu đã hăng, chàng sợ lỡ ra có điều thất lễ, bèn đứng dậy xin phép cáo lui. Khi về tới phòng chàng thấy trong bụng còn no đầy chưa có thể ngủ được, liền cởi áo bỏ khăn lấy cái gậy ra giữa sân, đứng dưới bóng trăng trong mà múa chơi một lúc. Hồi lâu ngửa mặt nom trời, ước đã vào khoảng canh ba, chàng liền cất gậy vào phòng để nghỉ.
Chợt đâu ở nhà trong có tiếng kêu cướp ầm ĩ cả lên. Võ Tòng nghe thấy vậy trong lòng tự nghĩ: " Trương Đô Giám có lòng yêu ta như vậy, hiện bây giờ trong nhà có cướp, tất nhiên ta phải vào cứu mới xong" chàng nghĩ đoạn, vội vớ lấy thanh gậy mà chạy thốc vào nhà trong.
Khi ấy gặp nữ Ngọc Lan, lật đật ở trong nhà chạy ra, trỏ bảo Võ Tòng rằng:
- Một thằng cướp chạy vào lối vườn hoa ở đằng sau kia.
Võ Tòng nghe nói liền gậy chạy rảo vào vườn hoa, tìm khắp lượt không thấy gì, lại quay trở ra. Đương khi lật đật chạy dưới bóng cây nhấp nhoáng, chàng ta vô ý vấp ngay phải quãng thừng chăng ngang lối đi mà ngã đâm nhào xuống đất. Bỗng đâu thấy bẩy tám tên lính đổ xô ra reo ầm lên rằng:
- Cướp đây rồi, bắt lấy.
Đoạn rồi chúng co giây, trói ngay Võ Tòng lại. Võ Tòng kêu vội lên rằng:
- Tôi đây, không phải cướp đâu?
Chúng nghe nói, mặc kệ cứ trói ghi lại mà không phân phải trái chi cả. Một lát thấy ở trên nhà sảnh có đèn đóm sáng trưng rồi thấy Trương Đô Giám quát lên rằng:
- Trói cổ nó đem đến đây.
Chúng nghe nói, đều túm vào lôi kéo Võ Tòng vừa đi vừa đánh, mà dong lên trước sảnh.
Võ Tòng liền kêu lên rằng:
- Tôi là Võ Tòng đây có phải cướp đâu?
Trương Đô Giám nom thấy cả giận, biến hẳn nét mặt mà quát lên rằng:
- Quân tù tội khốn nạn kia, mày thực là một thằng mắt giặc, ruột giặc, gan giặc...ta đây cất nhắc cho mày được nên người có điều chi phụ bạc với mày không? Vừa rồi ta còn cho ngồi chung uống rượu, chỉ mong cất nhắc cho mày được nên danh giá con người ai ngờ mày lại xử tệ với ta như thế?
Võ Tòng kêu lên rằng:
- Việc nầy có can hệ gì đến chúng tôi? Tôi đương đuổi bắt cướp. Tôi đây đầu đội trời, chân đạp đất, không khi nào chịu làm việc như thế bào giờ?
Trương Đô Giám lại quát lên rằng:
- Quân quái này, thôi đừng xoen xoét cái mồm nữa; Bây hãy ra khám ở phòng nó xem có tang vật gì không.
Bọn lính vâng dạ, rồi lôi Võ Tòng ra phòng để khám. Khi mở hòm ra thấy ở trên có ít quần áo, còn ở dưới thì toàn thị là các đồ dùng bằng vàng bạc cả. Võ Tòng thấy vậy ngẩn người, không biết kêu nói làm sao cho được. Chúng lại giải Võ Tòng, và khiêng hòm lên trước cửa sảnh.
Trương Đô Giám thấy vậy quát mắng ầm ĩ lên rằng:
- Quân này vô lễ đến thế thì thôi! Tang vật rành rành ở trước hôm kia còn cãi được không! Người ta thường nõi: "Chúng sinh còn độ được, đến người thì khó lòng mà độ được!" Té ra mày chỉ có ngoài mặt là người, còn trong lòng ruột cũng không khác gì cầm thú... !
Nói đoạn, liền sai phong tang vật lại, rồi cho đem Võ Tòng vào cơ mật hãy giam ở đó. Nhất diện sai người sang nói với Tri Phủ, và đem đút lót các chốn Áp Ty, Khổng Mục để lên án Võ Tòng.Sáng hôm sau đám hộ tập quan sát bắt Võ Tòng giải sang bên phủ, và đem các tang vật đến trình. Trương Đô Giám cũng sai người nhà đem giấy trình sự mất cướp ở trước mặt phủ quan.
Tri Phủ xem xong quát tả hữu trói chặt Võ Tòng lại, rồi gọi lấy các hình phạt đem ra. Võ Tòng vừa toan cất mồm lên kêu, thì quan phủ lại quát lên mà rằng:
- Thằng này nguyên là một thằng phát vãng đến đây, nay lại trông thấy các đồ vàng bạc thế kia, lẽ nào mà không sinh lòng cướp bóc? Chúng đâu không cần hỏi nó làm gì, cứ đem ra mà đánh hết sức đi...Lính nghe nói dạ dăm dắp một lượt rồi đem roi ra tra đánh Võ Tòng đen đét như mưa rào trên mặt đất vậy.
Võ Tòng không biết thế nào mà chống cự nổi, bèn liều má xưng nhận là:
- Tối hôm Rằm tháng Tám có thừa cơ vào nhà trong, mà lấy trộm các đồ kim ngân mọi lẽ...
Quan Phủ sai lấy cung rồi lại lấy gông, gông cổ Võ Tòng mà giam xuống nhà lao. Võ Tòng bị giam xuống nhà lao, bấy giờ trong bụng mới tỉnh ngộ mà nghĩ thầm rằng: "Cái này chắc là thằng Trương Đô Giám bày mẹo, để hãm hại mình như vậy! Nếu sau này có phen thoát tội được ra, thì quyết nhiên phải liệu cho nói một phen mới được".
Chàng nghĩ vậy thì trong lòng căm tức vô cùng. Còn mấy tên coi ngục đều nhận được tiền của Trương Đô Giám, nên đem Võ Tòng bỏ vào nhà đại lao, rồi cùm chân khóa tay, gông cổ, trói lại nghiêm ngặt.
Hùm thiêng khi đã sa cơ,
Rừng cây gai góc giờ có ai?
Bên kia Thi Ân nghe tin Võ Tòng bị bắt, bèn vội vàng về thành bàn với Lão Quản Doanh. Lão Quản Doanh nói rằng:
- Việc này chắc là Trương Đoàn Luyện muốn báo thù cho Tưởng Môn Thần, nên mới nói với Trương Đô Giám mà mưu sự như thế, chắc rằng các chốn cùng môn trên dưới đều có đút lót tiền nong, mà giết hại Võ Tòng chứ không chơi. Cứ như bụng ta, ta tưởng Võ Tòng cũng không đến nỗi nào tử tội, vậy nên ta cho người đến nói lót với hai người Ấp Lao và Tiết Cấp để duy trì tính mạng cho Võ Tòng, rồi ta ở ngoài mà liệu cách xoay sau:
Thi Ân nói:
- Hiện người Tiết Cấp coi tù bây giờ là người họ Khang, vốn thân mật với con xưa nay, hay đến đó mà nói...
- Phải lắm, người ta vì con mà đến nỗi bị quan tư bắt bớ, nay con không cứu người ta, thì đợi đến bao giờ nữa!
Thi Ân liền lấy mấy trăm lạng bạc, đem đến nhà Khang Tiết Cấp để đút lót. Khi tới nơi Thi Ân đem đầu đuôi chuyện Võ Tòng nói cho Tiết Cấp nghe. Khang Tiết Cấp nghe nói liền bảo Thi Ân rằng:
- Chẳng dấu gì huynh trưởng, việc này toàn mưu mẹo của Trương Đô Giám, cùng Trương Đoàn Luyện là hai anh em kết nghĩa với nhau đó. Hiện nay Tưởng Môn Thần vẫn ở nhà Trương Đoàn Luyện, sai người đem tiền đi đút lót khắp cả các nơi, trên có quan Phủ làm chủ, rồi đến chúng tôi đây, ai ai cũng được tiền cả, chỉ tính sao kết quả Võ Tòng nữa là xong. Duy ở đây có một người Khổng Mục họ Diệp, coi là có trung trực nghĩa khí, không chịu hãm hại lương dân, bởi thế mà Võ Tòng cũng đỡ được nhiều điều nguy hiểm. Nay nếu ngô huynh đến cứu giúp Võ Tòng, thì bao nhiêu những việc trong ngục phó để mặc tôi, tôi sẽ liệu đường mà khoan dung tử tế, còn ngô huynh phải nhờ người đến nói với Khổng Mục họ Diệp, để liệu sớm kết đoán cho ra! Thì mới có thể cứu tính mệnh được.
Thi Ân nghe nói, bèn đưa ra một lạng bạc để tạ ơn Khang Tiếp Cấp, Tiết Cấp hai ba lần từ chối, nhưng Thi Ân nhất định không nghe, bất đắc dĩ về sau phải nhận. Đoạn rồi Thi Ân bái biệt Tiết Cấp mà trở về dinh, tìm biết một người quen biết Diệp Khổng Mục, mà nhờ đưa một trăm lạng bạc để nói giúp.
Nguyên Diệp Khổng Mục vốn biết tiếng Võ Tòng là hảo hán, nên vẫn có lòng thương nể, mà đem các văn án định lòng lựa đổi giản dị. Duy Tri Phủ thì ăn nặng, song chẳng qua là một tội cướp trộm đồ vật, chưa lấy gì mà kết tử tội cho được. Nhân thế Tri Phủ vẫn cứ dùi dắng rảnh chuyện. Nay Diệp Khổng Mục, thấy có người đem tiền đến nói cứu mạng cho Võ Tòng, thì trong lòng càng mừng rỡ, bèn hết sức đem cái văn án giảm nhẹ bớt đi, rồi đến khi mãn hạn sẽ thi hàn kết đoán. Ngày hôm sau Thi Ân sửa soạn rượu nhắn chững chạc, nhờ Khang Tiết Cấp dẫn vào đại lao, để thiết đãi Võ Tòng. Bấy giờ Võ Tòng nhờ có Khang Tiết Cấp tử tế trông nom, khoan thứ các đồ hình nặng nên chàng cũng được ung dung không đến nỗi nguy nan như trước. Thi Ân lại đưa tiền cho các người canh gác mà dặn dò trông nom cẩn thận cho Võ Tòng. Khi cơm nước xong, Thi Ân ghé vào tai Võ Tòng bảo thầm các câu chuyện, và dặn dò cứ yên tâm, rồi sau sẽ có ngày thoát khỏi.
Võ Tòng từ ngày được Khang Tiết Cấp khoan túng dễ dàng, thì chàng đã định ý toan vượt ngục, nay thấy Thi Ân nói vậy;thì rầu lòng nấn ná xem sao? Cách hai hôm sau, Thi Ân lại mang cơm rượu tiền nong, nhờ Khang Tiết Cấp dẫn vào lao để đưa cho Võ Tòng, và các người canh gác ở đó.Đoạn rồi Thi Ân lại nhờ người nói lót các nơi, để mau mau sửa soạn văn thư cho chóng xong mọi việc.
Cách mấy hôm nữa, Thi Ân lại sắp rượu thịt cùng quần áo, để đưa vào cho Võ Tòng ăn uống và thay giặt. Trong mấy hôm đó, Thi Ân vào trong nhà lao thăm hỏi Võ Tòng được ba buổi, bất đồ bị người nhà Trương Đoàn Luyện dò biết tình hình, liền đem chuyện về báo với Trương Đoàn Luyện ngay lập tức. Trương Đoàn Luyện nghe nói, bèn đem sự thực sang nói với Trương Đô Giám. Trương Đô Giám lại sai người đem vàng lụa đến đút lót Tri Phủ, và nói hết mọi lẽ cho Tri Phủ nghe.
Tri Phủ vốn một tay tham nhũng xưa nay, khi nhận vàng lụa rồi, liền sai người lảng vảng trông nom trên dưới nhà lao, và tra xét các người qua lại. Thi Ân nghe biết chuyện ấy đành phải chịu phép ở nhà, không dám ra vào trông nom chi nữa. Tư đó Võ Tòng nhờ được Khang Tiết Cấp cùng mấy tên canh gác trông nom tử tế, còn Thi Ân thỉnh thoảng đến nhà Tiết Cấp để dò la tin tức mà thôi.
Thấm thoát trong hai tháng trời, Diệp Khổng Mục hết sức đem các việc oan khuất của Võ Tòng, để giải bày cùng Tri Phủ, và hết sức bênh vực mọi điều. Bấy giờ Tri Phủ biết rõ việc đó là Trương Đô Giám ăn lễ của Tưởng Môn Thần, mà thêu đặt nên chuyện, để hãm hại Võ Tòng, thì trong bụng cũng lấy làm nản mà tự nghĩ rằng: "Té ra họ được ăn tiền, mà để tiếng giết người cho ta, thì làm sao cho tiện? " Nhân thế Tri Phủ cũng để mặc đó, mà không lý hội gì đến nữa.
Dần dần đến hạn sáu mươi ngày, Tri Phủ bắt Võ Tòng ở trong ngục ra, thay bỏ gông trói, rồi Diệp Khổng Mục đem án ra tuyên cáo, định tội Võ Tòng phạt hai mươi trượng đày sang Ân Châu, còn tang vật ăn trộm, thì giao trả chủ cũ. Trương Đô Giám đến nhận các đồ tang vật. Đoạn rồi Tri Phủ gọi thợ, khắc kim ấn vào mặt Võ Tòng, đánh hai mươi trượng, gông thứ gông nặng, và thảo công văn sai hai tên công sai đi áp tải Võ Tòng. Nguyên khi Võ Tòng bị đánh, đã nhờ được Lão Quản Doanh xuất tiền nói lót các nơi, lại được Diệp Khổng Mục có lòng trông nom giúp đỡ, và Tri Phủ cũng thương là oan khuất không may, nên mấy chục trượng đòn cũng không lấy gì đau đớn. Hôm đó Võ Tòng nhịn tức theo giữ phép công, đeo gông vào cổ mà theo hai tên công sai đi thẳng ra thành. Đi được hơm một dặm đường, chợt thấy Thi Ân ở bên cạnh đường, chạy ra đón rước mà rằng:
- Tiểu đệ đợi quan anh đã lâu rồi...
Võ Tòng trông thấy Thi Ân lại có quấn lụa trên tay, chàng liền hỏi rằng:
- Mới ít lâu nay không được gặp Tiểu Quản Doanh, sao đã lại đau tay như thế?
Thi Ân đáp rằng:
- Chẳng dấu gì Ca Ca, từ hôm tiểu đệ vào thăm Ca Ca được ba lần rồi, sau quan Phủ sai người cấm đoán, nên không dám vào đấy nữa. Bất đồ được nửa tháng trời, một hôm tiểu đệ đương ở Khoái Hoạt Lâm, bỗng thấy Tưởng Môn Thần lại đem bọn người đến để đánh nhau. Tiểu đệ lại bị hắn đánh một trận rất đau rồi lại chiếm giữ Khoái Hoạt Lâm và bắt tiểu đệ phải tìm các người ở quanh đó để nói lại. Nhân thế trong mấy hôm trời, tiểu đệ phải nằm nghỉ ở nhà mà không đi đâu được. Nay nghe tin huynh trưởng phải đi đày ở Ân Châu, đệ đem hai tấm áo bông đến để Ca Ca thay mặc đi đường, và có hầm hai con vịt chín để trong hàng kia, xin mời Ca Ca vào uống mấy chén rượu rồi sẽ đi.
Nói đoạn quay ra mời hai người công sai vào hàng một thể.
Hai tên công sai nhất định từ chối mà rằng:
- Khi nào chúng tôi lại ăn uống với thằng giặc tù này, lỡ ra quan tư biết đến thì sao?
Lại quay lại bảo với Võ Tòng rằng:
- Nếu anh không muốn đánh đòn, thì phải đi ngay mới được.
Thi Ân biết nói thế không ăn thua gì, liền đem mười lạng bạc đến tặng đám công sai, đám kia nhất định không lấy rồi ra uy sừng sộ bắt Võ Tòng phải đi.
Thi Ân liền rót hai chén rượu đưa Võ Tòng uống rồi buộc khăn gói áo vào lưng rồi, treo hai con vịt lên đầu gông cho Võ Tòng, mà ghé vào tai dặn rằng:
- Trong gói đó có hai áo bông, một bọc tiền và mấy đôi giầy gai ở đó...Song đường xá xa xôi, phải nên để phòng cẩn thận, mấy thằng công sai này, nghe chừng không có bụng tốt đâu?
Võ Tòng gật đầu nói rằng:
- Bất tất phải dặn, tôi đã hiểu rồi...cho nó thêm hai thằng nữa đến đây, cũng không sợ gì chúng nó. Chú cứ về tôi khắc có xử trí.
Nói đoạn Thi Ân liền bái biệt Võ Tòng, rồi sùi sụt gạt lệ trở ra về.
Một phen tri kỷ cùng nhau,
Vì ai nên nỗi bể dâu hỡi trời?
Rồi đây non nước xa vời,
Anh hùng mang giận muôn đời bao tan!
Võ Tòng, từ khi theo hai người công sai lên đường, đi được khoảng vài dặm, hai tên công sai bàn vụng với nhau rằng:
- Sao chưa thấy hai thằng ấy đến đây... ?
Võ Tòng nghe biết ý chúng, liền cười thầm mà tự nghĩ rằng "Quân khốn nạn này, lại muốn trêu lão gia đây!" Chàng nghĩ vậy, thì tay phải sẽ rút đanh một bên gông để tháo tay trái ra, rồi để con vịt quay vào cho tay phải cẩm, còn tay trái thì xé thịt để ăn. Đi được năm dặm đường, thì chàng đã ăn hết hai con vịt chín. Bấy giờ chừng đi khỏi thành độ tám chín dặm đường, chợt thấy phía trước có hai người vác đao giáo đứng đợi ở đó. Khi hai người trông thấy tụi công nhân dong Võ Tòng đến, thì cùng đổ ra mà đi một thể.
Võ Tòng liếc mắt hai anh kia, cùng hai công sai đưa mắt cho nhau, ra ám hiêïu bảo nhau, thì trong lòng cũng đã hiểu ngầm ý tứ, song vẫn vờ làm ra mặt không biết. Đi được vài dặm đường nữa, thì bỗng đến một nơi bến nước mênh mông, bốn mặt toàn là bãi sâu sông rộng.Năm người cùng nhau tiến bước, tới một cái cầu to rộng, bên cạnh có một cái lầu để bia, trong bia khắc ba chữ "Phi Vân Phố" rất to.
Võ Tòng thấy vậy, bèn giả vờ nói rằng:
- Chỗ này là chỗ nào đây?
Hai tên công sai đáp rằng:
- Mắt anh mù đâu! Không trông mấy chữ Phi Vân Phố để ở bên kia à?
Võ Tòng đứng lại mà nói rằng:
- Tôi muốn đi cầu một cái đã.
Vừa nói dứt lời, thì hai anh đứng đón lúc nãy bỗng vác dao sấn gần vào, Võ Tòng liền quát lên một tiếng, đá thốc luôn cho một cái ngã lăn xuống nước. Còn một anh nữa vừa toan quay mình, thì đã bị chàng đá luôn cho một cái nữa, ngã quay đơ ra, mà lặn tùm xuống nước. Hai tên công sai thấy vậy vội trông lối dưới cầu mà toan chạy xuống. Võ Tòng thét lên rằng:
- Chúng bây chạy đi đâu?
Nói xong cầm gông bẻ một cái, gãy tan ra làm đôi, rồi sấn xuống dưới cầu để đuổi. Một tên công sai thấy Võ Tòng đuổi đến, thì kinh sợ rụng rời, mà tự ngã lăn ra đất, còn tên kia thục thân cố chạy, cũng bị chàng đuổi tới, mà đánh cho một cẳng tay vào sau lưng ngã lăn xuống đó.
Đoạn rồi Võ Tòng vớ lấy thanh đao quăng rơi ở bến nước, quay lại đâm cho mỗi thằng một nhát, kết quả tính mạng hai tên công sai. Bấy giờ hai anh ngã lăn xuống nước vừa mới lóp ngóp bò lên, toan cất cẳng để chạy, bất đồ bị Võ Tòng đuổi đến, đâm chết một anh, còn một anh nữa, thì chàng ta nắm đầu giữ lại, rồi quát lên rằng:
- Muốn sống thì phải thực ta tha cho, ai xui mày đến đây như thế!
Anh kia run sợ mà kêu rằng:
- Chúng tôi là đồ đệ Tưởng Môn Thần, sư phụ tôi cùng Trương Đoàn Luyện bàn nhau, sai chúng tôi đến đây, để giúp hai tên công sai mà hại hảo hán đó.
- Sư phụ mầy là Tưởng Môn Thần, hiện bây giờ ở đâu?
- Khi chúng tôi ra đi, thì hiện đương cùng Trương Đoàn Luyện uống rượu ở lầu Uyên Ương tại nhà Trương Đô Giám, để đợi tin chúng tôi về báo.
Võ Tòng nghe nói liền bảo tên kia rằng:
- Nếu vậy thì ta không thể nào tha cho mầy được.
Nói đoạn giơ dao lên một nhát, ngã chết còng queo ra đó.
Đao nầy mình định giết ai?
Vì đâu bỗng hóa ra ai giết mình!
Nực cười trời khéo xoay nhanh,
Thanh đao kia để vô tình với ai... ?
Bấy giờ Võ Tòng lần các con dao lưng, chọn lấy một con rất tốt giắt vào mình. Lại e hai tên kia chưa chết hăn, liền đâm thêm cho mỗi anh mấy nhát, vất cả xuống bến nước, rồi lên cầu đứng vẫn vơ một mình mà nghĩ. Chàng nghĩ thầm rằng: Bầy giờ ta đã giết xong bốn đứa này rồi, song còn đám Trương Đô Giám, Trương Đoàn Luyện, Tưởng Môn Thần, vẫn còn ở đó thì bao giờ cho thỏa lòng tức giận bấy nay!" Chàng nghĩ vậy, thì vác đao quanh quẩn hồi lâu, rồi thốt nhiên định bụng, mà xăm xăm về lối Mạnh Châu, mới hay:
Trông giang sơn luống ngại ngùng!
Giết người mang tiếng để lòng mang oan,
Hay chi đồng loại tương tàn,
Mà đem giọt máu tưới tan khối thù,
Giận trời còn lắm phàm ngu,
Trăm năm để khách giang hồ bận tay,
Phi Vân còn bến nước đây.
Còn về còn nhớ đến ngày rửa oan...
Lời bàn của Thánh Thán:
Tác giả tả Khoái Hoạt Lâm, sớm Tưởng tối Thi, nay Thi mai Tưởng, bèn khiến người chẳng còn trở lại khoái ý, Sử quan có ích cho đời, xét ra không ít, vì không muốn cho bọn cường hào tranh chiếm của thiên hạ với nhau.
Trương Đô Đầu cho Võ Tòng đi lại trong nhà, để lừa cho chết, nào ngờ lại bị chết, cái cơ họa phúc không lường, độc giả đến lạnh lùng khiếp sợ.
Sau khi Võ Tòng giết chết chị dâu, lại tả ra rất nhiều thú phong lưu khinh bạc, như loại Thập Tự Phi, Khoái Hoạt Lâm, lại chợt đâu tả ra ở dưới lầu Uyên Ương nhà Trương Đô Giám, giữa tết Trung Thu yến ẩm, toàn những chuyện tình, hoặc đưa đến, hoặc gợi ra vui đùa... đến đem Ngọc Lan hứa gả, khiến anh em Võ Đại, Võ Nhị, có Kim Liên với Ngọc Lan, bỗng thấy nên đôi, lòng vàng gấm vóc moi ra, thực là tuyệt thế.
Tả Võ Tòng sau khi đã giết bốn người, chợt dùng bốn chữ "Vác dao dùng dằng", thực khéo dùng như Trang Tử, khiến độc giả sau này, chẳng rõ là Thủy Hử dùng theo Trang Tử, hay là Trang Tử dùng theo Thủy Hử.
 Hồi sau tả máu ngập lầu Uyên Ương, một chuyện lộn trời đảo đất, mà trước đã tả câu bốn chữ này, chợt khiến người đọc suy xét, ngọn bút thần diệu là thế, đâu phải người đời dễ biết ra ngay!
Hồi 30:
Trăng sáng mài dao, báo oán giết nhà Đô Giám;
Trời đêm lánh nạn, giả sư qua núi Ngô Công.
Võ Tòng vác đao trở về Mạnh Châu, vừa đi đường vừa nghĩ quanh co, lại càng căm giận cho bọn nhà họ Trương, không thể nào mà buông tha không giết được. Khi về tới trong thành, thì vừa hay đã tối, chàng liền tìm đến một chỗ tàu ngựa ở sau vườn hoa nhà Trương Đô Giám để nấp. Được một lát nghe có tiếng cửa mạch ở góc mở cót két, chàng ngó cổ vào xem, thì thấy tên bồi hầu ngựa, cầm cái đèn lồng ở trên nhà đi xuống tàu ngựa, rồi quay mà cài cửa lại. Đoạn rồi tên bồi bỏ cỏ cho ngựa ăn, treo đèn lên một chỗ, mà trải chăn chiếu cởi áo xống lên giường nằm ngủ. Võ Tòng nghe tiếng trống vừa điểm một canh bốn khắc, chàng bèn lén gót đến trước cửa ở chỗ tàu ngựa mà khua rung làm bộ như người cậy cửa. Tên bồi ngựa nằm trong quát lên rằng:
- Lão gia vừa ngủ mà mầy toan đến ăn cắp quần áo à? Còn sớm lắm... !
Võ Tòng lặng ngắt, dựng thanh đao vào một bên, rút dao ra cẩm ở tay, rồi lại cạy cửa lạch cạch luôn một lúc.Tên bồi ngựa nằm trong nóng tiết nhảy bổ dậy, không kịp mặc áo xống, vội vớ lấy cái đòn gánh, rút then cửa toan mở ra để đánh. Dè đâu vừa mới rút được then cửa ra, thì bị Võ Tòng đẩy sấn cánh cửa bước vào mà nắm chặt lấy cánh tay. Cậu bồi ta toan cất tếng kêu lên, lại trông thấy thanh đao sáng nhoáng ở dưới bóng đèn, thì kinh hồn khiếp vía, rời rụng chân tay, mà sẽ xin kêu van để tha mạng.
Võ Tòng nói:
- Có nhận ra ta là ai không?
Tên bồi ngựa nghe thấy tiếng, mới biết Võ Tòng liền kêu rằng:
- Ca Ca ơi! Có việc gì đến tôi xin Ca Ca tha cho tôi!
Võ Tòng lại hỏi:
- Mầy phải nói thực, hiện giờ Trương Đô Giám ở đâu?
- Hôm nay Trương Đô Giám cùng Trương Đoàn Luyện và Tưởng Môn Thần uống rượu suốt ngày, hiện còn ở lầu Uyên Ương đó.
- Mầy nói có thực không?
- Tôi nói dối thì lên đinh ở mồm.
Võ Tòng nói:
- Ừ, nếu vậy thì ta cũng không thể tha cho mầy được!
Nói đoạn đâm chết thằng bồi ngựa ra đó. Đoạn rồi lau đao bỏ vào bao, đến trước bóng đèn cởi khăn gói lấy hai tấm áo bông của Thi Ân đưa cho, mà thay mặc cẩn thận rồi vớ lấy cái chăn đơn của tên bồi ngựa bọc lấy tiền nong vặt vãnh treo vào một bên cửa. Bấy giờ chàng dựng cánh cửa chéo lên tường thổi tắt ngọn đèn, đi ra cửa cầm lấy thanh đao, rồi nhờ bóng trăng suông mà nhảy qua tường vào phía trong. Khi vào tới trong tường, chàng mở then cửa mạch, đi vào rồi khép luôn hai cánh cửa lại. Đoạn rồi theo ánh đèn sáng mà đi thẳng lên bếp.
Võ Tòng nấp bên cạnh bếp, nghe tiếng hai đứa thị nữ, đương đứng ở trong bếp, phàn nàn với nhau rằng:
"Hầu hạ suốt ngày hôm nay, bây giờ chưa ngủ...lại còn nước nước với nôi nôi... ! Hai anh khách ấy rõ không biết dơ, chén đã say khướt ra, thế mà còn chưa chịu xuống lầu đi ngủ, không hiểu rằng chuyện trò đến bao giờ? "
Hai ả đương oán hận với nhau ở trong bếp, thì Võ Tòng ngoài này dựng thanh đao một chỗ, rồi rút con dao còn vấy máu ở trong túi ra, đẩy cửa mở bếp mà nhảy tót vào, vớ lấy chị ả đứng ngoài đâm cho một nhát. Còn chị kia toan té cẳng chạy, thì gân cốt rủn ra mà không sao chạy được, toan há mồm để kêu thì mồm lưỡi lýu lại, mà không kêu lên, đành cứ tái người sạm mặt đứng im đấy chịu chết. Võ Tòng sấn đến đâm một nhát dao ngã lăn xuống đất rồi tắt đèn trong bếp, quay ra theo bóng trăng mà lên nhà trên.
Nguyên Võ Tòng trước đã ở đó ít lâu, nên đường ngang lối tắt đều thuộc cả, chàng liền theo lối tắt đi thẳng đến lầu Uyên Ương. Khi tới chân thang, chàng ta sẽ rón chân tay, sờ bò lần lên thang gác.
Bấy giờ bọn đầy tớ hầu hạ đã mỏi mệt, không còn anh nào đứng lảng vảng ở gần đấy, chỉ nghe tiếng ba người là Trương Đô Giám, Trương Đoàn Luyện và Tưởng Môn Thần vẫn còn nói chuyện với nhau.
Võ Tòng lắng tai nghe thấy Tưởng Môn Thần tán tụng luôn mồm mà rằng:
- Việc này nhờ ở Tướng Công, nên mới bào thù được thế...Chúng tôi sẽ hết lòng bào đáp Tướng Công.
Trương Đô Giám nói rằng:
- Cái đó nếu tôi không nể Trương Đoàn Luyện đây, thì có khi nào làm thế được. Cũng may ông tuy tốn mất ít tiền, song được như thế là tốt lắm!...Bây giờ thằng ấy chết rồi thì phải. Tôi bảo nó đưa đến Phi Vân Phố là hạ thủ, không biết đã xong chưa? Để sáng mai bốn đứa ấy về đây sem sao?
Rồi thấy Trương Đoàn Luyện nói rằng:
- Bốn thằng giết một thằng, thì làm gì chẳng xong?
Lại đến Tưởng Môn Thần nói rằng:
- Chúng tôi cũng dặn mấy tên đồ đệ như vậy, chắc là sáng mai thế nào cũng có tin về báo.
Võ Tòng nghe ngần ấy câu chuyện, thì lửa giận trong lòng dần dật bốc lên cao mấy nghìn trượng, như xung đột tới trời, liền tay phải cầm đao, tay trái xòe năm ngón tay, rồi nhảy sấn vào trong lầu. Khi đó dăm ba ngọn nến thắp linh tinh, một vài chỗ bóng trăng soi chếch mếch. Trong lầu sáng như gương, các đồ cốc chén cốc rượu chè đều chưa thu dọn sạch. Tưởng Môn Thần ngồi ở trên ghế, chợt trông thấy Võ Tòng nhảy vào, thì giật mình hết vía, bao nhiêu đảm lượng can tâm, đều theo lên mây trời mất cả. Chàng ta hất hải vội đứng mau dậy, dè đâu thấy đến vút một cái, thì con dao Võ Tòng đã ném luôn một nhát cả người lẫn ghế đều đổ lăn ra. Võ Tòng chém xong vừa quay người lại, thì thấy Trương Đô Giám đương té cẳng toan chạy, chàng liền chém cho một nhát vào đầu, xẻ hẳn từ tai đến cổ mà ngã vật ra sàn gác. Còn Trương Đoàn Luyện nguyên là một tay quan võ sĩ xuất thân, bây giờ tuy có chếch choáng hơi men, song sức lực cũng còn hăng hái, nhân trông thấy hai người bị đâm chết, một mình khó chạy cho xong, liền vớ lấy một cái ghế múa lên để đánh Võ Tòng.
Võ Tòng hăng máu bắt lấy ghế, đẩy cho một cái thực mạnh, Trương Đoàn Luyện bị ngã lăn chiêng ra đằng sau, rồi Võ Tòng sấn vào mà cắt hẳn lấy đầu. Đằng kia Tưởng Môn Thần tuy bị một nhát thương, song vẫn còn khí lực, liền cố mà lóp ngóp bò dậy, Võ Tòng lại quay lại, phi chân trái đá lăn ngã xuống, rồi chân phải đè lên bụng mà chém đứt lấy đầu. Đoạn rồi quay lại mà cắt lấy đầu Trương Đô Giám.
Bấy giờ trên bàn còn bày rượu thịt ở đó, Võ Tòng liền rót rượu uống luôn mấy cốc, rồi xé lấy một miếng áo của bọn chết kia, mà thấm máu, viết mấy chữ to lên vách vôi: "Kẻ giết người chính là Võ Tòng đánh Hổ".
Chàng giết xong quay ra chọn cốc chén ở trên bàn lấy một vài thứ quý báu giắt vào mình, còn thì vất bừa ở đó, rồi trở ra toan xuống gác. Vừa khi ấy nghe tiếng Phu nhân ở dưới nói lên rằng:
- Bọn các quan ở trên gác say rượu lắm hẳn? Bây đâu lên gác đỡ các ngài đi nghỉ đi!
Phu nhân nói chưa dứt lời thì đã có hai người ở dưới đi lên thang gác.
Võ Tòng nấp vào đầu thanh gác nom ra, thì chính là hai đứa thân hầu Trương Đô Giám, vừa mới trói mình dạo trước, chàng liền đứng nấp vào xó tối, để nhường cho hai anh đi vào gác, rồi đứng ra mà chặn đường xuống. Hai anh kia vào đến sàn gác, thấy ba cái xác chết nằm sóng sượt ở trên vũng máu, thì kinh sợ hết hồn, cứng lưỡi không thể nào kêu lên thành tiếng, vừa toan tháo chạy ra, thì Võ Tòng đã tiến vào giết phăng một anh, còn anh nữa thì quỳ xuống kêu xin tha mạng. Võ Tòng miệng nói: - Không tha được!
Tay thì nắm chặt lấy thằng kia, rồi cũng cho một nhát dao kết quả nốt.
Đoạn rồi chàng nghĩ thầm: "Đánh rắn phải đánh dập đầu, dẫu cho chết đến trăm đứa, cũng chỉ một chết mà thôi". Liền lăm lăm vác đao đi xuống gác. Phu nhân ở dưới nhà hỏi lên rằng:
- Trên gác làm gì mà ầm ĩ gớm lên thế?
Vừa hỏi xong, thì Võ Tòng đã đi vào đến trước cửa phòng. Phu nhân thấy người to lớn bước vào trong bụng lấy làm quái lạ, cất mồm vừa hỏi một tiếng.
- Ai?
Thì Võ Tòng đã đưa dao vào chém ngay một nhát; ngã lăn xuống đất, Võ Tòng lấy chân đè lên mà cắt lấy đầu. Dè đâu cưa mãi không thấy đứt. Võ Tòng giơ dao lên hé bóng trăng soi cửa để xem, thì thấy lưỡi dao đã quăn mẻ ra, như người bằm hỏng vậy. Chàng thấy thế, vội vàng quay xuống bếp, vớ lấy thanh đao, rồi lại sồng sộc đi lên trên nhà. Khi đó dưới bóng đèn sáng trông thấy đứa bé đương cầm đèn soi xác của Phu nhân trên mặt đất mà kêu lên rằng:
- Trời ơi! Khổ!
Võ Tòng thấy vậy, vác dao vào chém chết Ngọc Lan, còn hai đứa bé con cũng cho mỗi đứa một nhát. Đoạn rồi chạy ra nhà giữa, trước hết cài kín cửa ngoài, rồi quay vào lùng quanh trong nhà, thấy có ba người đàn bà ở đó, liền chém cho mỗi người một nhát nằm chết đứ đừ ra đất. Lúc đó máu uất ở trong mình, cùng với ngọn máu giết người đã tiêu tan đi hết, Võ Tòng liền nói một mình rằng:
- Bây giờ ta mới được vừa lòng, thôi đi ngay mới được...
Nói đoạn bỏ hết bao dao, cầm một thanh đao lớn đi ra ngoài cửa mạch, đến tầu ngựa vớ lấy khăn gói, bỏ thêm mấy thứ cốc chén vào trong đó, rồi gói bọc cẩn thận, buộc kỹ vào lưng, mà quay ra vườn sau để đi.
Canh khuya gió oán tung trời,
Gươm pha máu đỏ trăng soi dạ vàng.
Trăm năm qua gác Uyên Ương
Thử xem hàng máu trên tường bao phai
Võ Tòng đi tới thành tự nghĩ:
- Nếu dùng dằng đợi khi mở cổng thành mới ra, thì tất là bị bắt bất nhược thừa lúc ban đêm mà chạy lấy thoát cho rảnh. Nghĩ đoạn liền nhảy lên mặt thành đứng nom ra ngoài thấy địa thế cũng không cao là mấy, chàng liền ném thanh đao xuống trước, rồi co cẳng mà nhảy theo xuống sau. Khi nhảy xuống bên cạnh hào thấy bóng trăng soi sáng, hào nước không sâu, chàng lại xắn quần cởi lá đáp, rồi xắn quần xắn áo lội qua hào mà sang bên kia.
Sang đến bờ hào bên kia, chàng sực nhớ đến trong gói có mấy đôi giầy của Thi Ân mang cho, liền cởi gói ra lấy một đôi để đi. Bấy giờ nghe tiếng trống trong thành đã điểm bốn canh ba khắc, chàng lại nói thầm một một mình rằng: "Trời ơi! Cái lòng phẫn uất của ta bây giờ mới được thỏa, nhưng quanh đây không còn chỗ nào khả dĩ lưu luyến được lâu, âu là ta đợi tìm nơi khác mà xa lánh thì hơn."
Chàng nghĩ vậy, vác dao theo đường nhỏ mà đi sang bên hông. Đi được một quãng xa ước chừng gần hết trống canh năm, trời còn tối mờ mịt chưa sáng. Võ Tòng xông pha hăng hái suốt đêm, đến đó nghe trong mình mệt nhọc, các đầu roi bị đánh, lại phát lên rất là đau đớn. Chợt đâu thấy một tòa nhà cổ miếu ở trong đám rừng cây gần đó, Võ Tòng liền đi rảo bước chạy vào, đựng đao vào một chỗ, rồi cởi khăn gói làm gối, mà nằm vật xuống để ngủ.
Võ Tòng vừa toan nhắm mắt ngủ, thì bỗng có hai người đem dây móc vào móc chặt lấy cổ Võ Tòng rồi hai người nữa chạy xổ ra, mà trói chặt lại. Bốn người bàn với nhau rằng:
- Thằng này to béo lắm, ta đem mau về cho Đại ca mới được.
Nói xong cướp lấy đao và khăn gói Võ Tòng, rồi túm nhau vào kéo như kéo dê, không cho đặt chân xuống đất, mà dong thẳng đi.
Lũ kia vừa đi vừa nói với nhau rằng:
- Thằng cha nầy trên mình có vệt máu, không biết rằng ở đâu đến đây? Có lẽ nó đi trộm cướp ở đâu hẳn.
Võ Tòng nghe vậy, lặng ngắt không mở mồm nói một câu gì cả.
Đi được độ bốn năm dặm đường, đến một nơi nhà cỏ, liền kéo Võ Tòng mà lôi vào đó. Khi tới nơi, chúng thắp đèn lên, rồi lột xống áo Võ Tòng ra mà trói vào cột. Võ Tòng liếc mắt nom thấy trên sà nhà bên bếp treo toàn thị thịt đùi người, thì nghĩ thầm trong bụng rằng: "Mình đen quá, lại vớ phải thần chết rồi, còn sống thế nào được nữa. Nếu biết rằng cơ hội thế nầy, thì thà rằng ra thũ ngay ở Tri Phủ Mạnh Châu, để cho nó chém cho một nhát, lại còn để tiếng được với đời."
Bấy giờ bốn người kia trói xong rồi, cầm lấy khăn gói của Võ Tòng mà gọi lên rằng:
- Đại ca, Đại tẩu dậy mau mau, chúng tôi đã tìm được một món hàng hóa ở đây.
Nói đoạn thì thấy có tiếng ở nhà trước ứng lên rằng:
- Ta đến đây, chúng bây chớ hạ thủ vội.
Được một lát có hai người ở nhà ngoài đi vào, Võ Tòng ngửa cổ lên nom, thấy một người đàn bà đi sau anh chàng to lớn mà sồng sộc bước vào.
Hai người nhìn kỹ Võ Tòng, rồi người đàn bà nói lên rằng:
- Chết nỗi! Có phải là Thúc thúc đó không?
Anh chàng đàn ông cũng kêu lên rằng:
- Thôi phải rồi, chính phải là anh em ta đây rồi. Hai người ấy là ai? Nguyên vợ chồng Thái viên tử Trương Thanh, kết nghĩa anh em với Võ Tòng khi trước.
Bấy giờ hai người thấy vậy, liền cởi trói cho võ Tòng; rồi mời ra nhà ngoài nói chuyện. Võ Tòng đem hết mọi chuyện, từ khi bái biệt vợ chồng Trương Thanh, cho đến khi bị bắt ở đây, kể hét cho hai người nghe.
Khi ấy bốn tên bắt Võ Tòng lúc nãy, nghe chuyện liền quỳ xuống mà nói rằng:
- Chúng tôi là người trong nhà Trương Thanh đại ca đây, nhân vì mấy hôm nay đánh bạc thua luôn phải vào rừng kiếm cách xoay xở, bất đồ thấy ngài ra dáng mệt nhọc vào miếu để nằm, nên chúng tôi mới dám hạ thủ trói bắt. Song cũng may Đại ca tôi dặn, chỉ cho bắt sống, đem về không được hại, nếu không thế, thì có lẽ hại đến tính mệnh ngài. Điều đó thực chúng tôi lầm lỡ xin ngài tha tội cho.
Vợ chồng Trương Thanh cười rằng:
- Chúng tôi cũng vì hơi ngại trong lòng, nên bấy lâu bao nhiêu hàng hóa phải để nguyên sống mang về mà không cho hạ trước, nhưng nào có ai hiểu đâu được tâm sự của mình...Nay nếu anh em ta đây mà không nhọc mệt, thì không nói gì đến bốn các người, dẫu đến bốn mươi kẻ cũng khó lòng mà tới gần được.
Bốn anh kia nghe nói chỉ cúi đầu lạy tạ Võ Tòng không thôi. Võ Tòng bảo chúng đứng dậy mà nói rằng:
- Thôi được, bây giờ các anh không có tiền đánh bạc, để đây ta thưởng cho.
Nói đoạn bắt lấy khăn gói mở ra. Lấy mười lượng bạc vụn cho bốn người chia nhau. Trương Thanh thấy vậy cũng lấy ra ba lạng bạc nữa mà thưởng thêm cho chúng. Chúng được tiền lạy tạ Võ Tòng và Trương Thanh mà đem ra chia nhau.
Trương Thanh bảo với Võ Tòng rằng:
- Nguyên hiền đệ không biết: Từ khi hiền đệ đi rồi, chỉ e hoặc có khi lỡ xẩy việc chi mà lại trở về đây, nên tôi phải phòng bị dặn chúng từ trước hoặc khi chúng gặp mà lỡ ra e cự không nổi, thì chúng tất hành hung, bởi thế lại phải cấm không cho đem dao mác gì đi theo cả. Vừa rồi tôi chợt nghe nói, đã có bụng ngờ, quả nhiên là hiền đệ...
Tôn Nhị Nương nói rằng:
- Mấy hôm trước tôi chỉ nghe tin thúc thúc say rượu đánh được Tưởng Môn Thần, ai ai cũng lấy làm kinh sợ; đến nỗi bao nhiêu đám khách thương ỏ Khoái Hoạt Lâm qua lại đây, không ai là không tán tụng luôn luôn. Ai ngờ về sau lại xẩy ra những việc kinh thiên động địa, thế mà vợ chồng tôi không biết chi cả. Bây giờ thúc thúc đương mệt nhọc xin vào trong phòng nghỉ một lúc rồi sẽ nói chuyện...
Trương Thanh bèn dẫn Võ Tòng vào buồng khách nghỉ, rồi hai vợ chồng sai làm cơm rượu để sắp sửa thết đãi Võ Tòng.
Nói về bọn người nhà Trương Đô Giám ở Mạnh Châu, có kẻ lẩn nấp trốn được mãi đến khi trời sáng mới dám thò ra, hô gọi các quân lính cùng người nhà người cửa túm vào xem xét, rồi bảo nhau sang trình quan phủ. Quan phủ nghe nói cả kinh, hỏa tốc sai người đến kiểm soát số người bị chết, và dò xem lối quân hung phạm ra sao.
Hôm sau chúng về báo Tri Phủ rằng:
- Thoạt tiên quân cướp vào tầu ngựa, trút bỏ hai tấm áo cũ ở đó. Sau vào đến bếp giết chết hai đứa thị nữ và bỏ một con dao hành hung đã quằn mẻ tại bên cửa bếp. Đoạn rồi lên lầu Uyên Ương Trương Đô Giám cùng hai tên người nhà và người khách là Trương Đoàn Luyện, Tưởng Môn Thần rồi lấy máu viết mấy chữ: "Kẻ giết người chính là Võ Tòng đánh hổ" lên tường vôi. Dưới nhà gác lại giết một Phu nhân, một thị nữ tên là Ngọc Lan, hai người con bé và ba người đàn bà, cộng tất cả là giết chết mười lăm mạng, và mất một bộ sáu cái chén uống rượu bằng vàng bạc.
Tri Phủ nghe rõ đầu đuôi liền sai người canh giữ bốn mặt cổng phủ, rồi kiểm soát quân mã cùng các viễn bộ tập, các thầy Trưởng Phố đến khắp các nơi để khám bắt Võ Tòng.
Sáng hôm sau lại thấy Lý Trưởng sở tại Phi Vân Phố đến trình bốn người bị giết chết, hiện còn vệt máu tươi dưới chân cầu, và xác chết ở vũng nước. Tri Phủ tiếp được giấy trình, liền gọi Huyện Uùy lên, nhất diện sai người đến Phi Vân Phố khiêng bốn xác chết lên để khám, hai người là lính phủ còn hai người nữa, đều có người nhà đến nhận xác đem chôn, và làm giấy kêu quan bắt hung thủ đền mạng. Trong thành bắt đóng cửa luôn ba ngày để đến từng nhà khám xét.
Tri Phủ lại sức giấy cho các viên cai quản các thuộc địa hạt trong phủ, phải đến từng xã, từng thôn, từng xóm mà tìm bắt hung thủ. Lại viết tên tuổi và hình dung Võ Tòng xuất tiền ba nghìn quan treo giải thưởng cho người nào bắt được tên phạm. Đoạn rồi thảo công văn Tân Ước sức các nơi, ai biết chỗ Võ Tòng trốn tránh, đem lên trình quan được thưởng; bằng ai chứa chấp nếu bắt được, thì bị tội cùng với phạm nhân.
Cách ba hôm sau, tiếng tăm ầm ĩ khắp nơi, đám thám tử cùng đám tập bộ không đâu là không lai vãng dò xét. Trương Thanh nghe tin ấy, liền báo với Võ Tòng rằng:
- Ngày nay nếu quan quân nhân truy nã riết như vậy, thì hiền đệ ở đây rất là không tiện. Việc này không phải là tôi sợ chi, song nếu lỡ ra quan quân dò xét đến nơi, thì bây giờ làm sao cho được? Vậy nay tôi nghĩ chỉ chốn này, trước đây cũng đã nói qua cho hiền đêï biết rồi nhưng chẳng hay hiền đệ có thuận đi cho không?
- Trong mấy hôm nay, tôi đã nghĩ ở đây không sao mà yên được. Song như tôi có một người anh đã bị chị dâu bất nhân giết chết đi, đến đất này lại bị người ta hãm hại, thân thế gian truân họ hàng không còn có ai, để mà nương tựa! Nay ca ca có lòng tốt mà tìm chốn cho tiểu đệ nương thân, thì còn có điều chi mà không thuận? Ca Ca cứ nói cho tôi biết là ở đâu?
- Chính là chùa Bảo Châu trên núi Nhị Long ở Thanh Châu là nơi ca ca Lỗ Trí Thâm tôi, cùng Dương Chí đương làm bá một phương đó. Nay hiền đệ nếu muốn an thân thì tất phải đến đấy mới xong, còn có đi đâu được hơn nữa? Vả chăng ở đấy đã nhiều phen viết giấy bảo tôi nhập bọn song ý tôi còn lưu luyến chỗ này chưa có thể đi được. Vậy nay tôi xin viết thư nói rõ đầu đuôi, và tiến dẫn hiền đệ lên đó, thì chắc là họ phải vui lòng mà nhận, hiền đệ nghĩ sao?
- Đại ca nói phải lắm! Tôi cũng định bụng đã lâu, song chưa phải thời, nên chưa làm được.
Trương Thanh liền viết một phong thư kỹ lưỡng, đưa cho Võ Tòng rồi bày tiệc để tiễn.Bấy giờ Tôn Nhị Nương chợt bảo với Trương Thanh rằng:
- Làm thế không được! Nếu thúc thúc cứ thế mà đi, ngộ lỡ ra bị người ta bắt được thì sao?
Võ Tòng nói:
- Tẩu tẩu thử nói xem, làm sao mà tôi đi không được? Làm sao mà họ bắt được tôi?
Tôn Nhị Nương nói:
- Hiện nay quan tư sức giấy đi các nơi, vẽ hình vẽ ảnh, thưởng ba nghìn quan tiền để bắt; Vả chăng trên trán thúc thúc có kim ấn rõ ràng, còn ai không biết?
Như thế mà đi đường thì giấu thế nào nổi được người ta? Trương Thanh nói:
- Kim ấn trên mặt thì dán miếng thuốc cao che đi cũng được chứ sao?
Tôn Nhị Nương cười rằng:
- Thiên hạ chỉ có một mình khôn, con người ta dễ thường ngu ngốc cả. Bọn công nhân bây giờ phỏng làm như thế mà bịt mắt họ được chăng? Tôi có một cách này chỉ sợ thúc thúc không chịu nghe thôi.
Võ Tòng nói:
- Tôi đã là thằng tù lánh nạn, thì còn việc gì mà không theo được nữa?
Tôn Nhị Nương cả cười mà rằng:
- Tôi nói ra đây, thúc thúc đừng giận nhé.
- Xin tẩu tẩu cứ nói, thế nào tôi cũng vâng.
- Hai năm trước có một người đi qua đây, bị tôi giết chết, câu chuyện ấy thúc thúc đã nghe rồi. Hiện nay còn một cái mũ nhà sư bằng sắt, một cái áo xống tràng đen, một cái thắt lưng thưa sắc tạp, một bản hộ điệp, một chuỗi tràng hạt, bằng một trăm linh tám cái trối xương người, một đôi giầy bằng da cá nhà táng, và hai khẩu giới đao bằng xác hoa. Hai khẩu đao ấy đêm đêm thỉnh thoảng lại kêu, ngày trước thúc thúc đã xem rồi thì phải. Ngày nay đã định trốn nạn, thì trừ phi cắt tóc giả làm một người hành giả đội mũ che kim ấn đi, rồi cầm lấy tờ hộ điệp ấy để hộ thân, thì mới có thể được. Thúc thúc mặt mũi cũng giống, tuổi tác cũng vừa, thực là nhân duyên tiền kiếp, cứ nhận ngay tên họ người ấy mà đi, không còn ai hỏi đến nữa. Thế có được không?
Trương Thanh vỗ tay khen rằng:
- Được lắm, thế mà không nghĩ tới, thúc thúc định sao?
Võ Tòng nói:
- Cái đó thì tôi bằng lòng rồi, song chỉ sợ không giống được mà thôi.
Trương Thanh nói:
- Để tôi thử mặc vào cho thúc thúc xem sao.
Tôn Nhị Nương liền vào buồng đem các thứ mũ áo ra cho Võ Tòng mặc.
Võ Tòng liền mặc áo thắt lưng, bỏ xõa tóc xuống rồi đội mũ đen đeo tràng hạt không khác gì một nhà sư vậy.
Trương Thanh cùng Tôn Nhị Nương cả cười mà rằng:
- Thực là kiếp trước đã định, cho nên mới được như thế.
Võ Tòng liền cầm gương soi mặt cũng phải phì cười, mà không nhận được.
Trương Thanh hỏi:
- Thúc thúc cười chi như thế?
Võ Tòng nói:
- Tôi trông tôi, tôi cũng bật cười... không biết làm sao, tự nhiên lại hóa ra một nhà sư. Bây giờ đại ca đem cắt tóc cho tôi vậy.
Trương Thanh liền lấy kéo ra cắt tóc cho Võ Tòng rồi sắp sửa đồ đạc cho Võ Tòng đi. Trương Thanh lại bảo Võ Tòng để các đồ chén bạc của Trương Đô Giám lại đây, rồi bọc thêm một ít tiền nữa vào cho Võ Tòng và sai thợ khâu một cái túi gấm, đựng tờ hộ điệp để cho Võ Tòng buộc sát vào trước bụng. Chiều hôm ấy Võ Tòng cơm rượu xong rồi, thu thập các đồ hành lý, giắt hai khẩu giới đao, vào lưng, rồi từ tạ vợ chồng Trương Thanh mà đi lánh nạn.
Trương Thanh cầm tay than vãn dặn rằng:
- Hiền đệ đi đường phải nên cần để tâm cẩn thận., rượu không nên uống lắm, không nên tranh khí với ai, phàm các công việc chớ có làm liều làm bạo, thế mới giữ được thái độ kẻ tu hành, mà khỏi bị người ta dò biết. Khi nào đến Nhị Long Sơn, thì viết thư về ngay cho tôi biết, vợ chồng tôi ở đây cũng không phải là kế cửu, có lẽ nay mai sẽ xếp dọn mà theo lên đó cũng nên. Hiền đệ cần phải bảo trọng lấy thân và nói với Lỗ, Dương, hai Đầu lĩnh rằng vợ chồng tôi xin gửi lời bái chúc.
Võ Tòng vâng lời rồi từ tạ ra đi. Hai vợ chồng đứng trông theo một lúc, rồi vỗ tay mà khen rằng:
- Quả nhiên rõ là một ông hành giả, không còn ai dám ngờ nữa?
Bấy giờ đương dạo thàng mười, ngày ngắn không đầy gang tấc, Võ Tòng giã từ Thập Tự Phi đi vội vàng được một lúc thì trời đã sắp tối, được vào khoảng năm mươi dặm đường, chợt trông thấy một tòa núi cao đứng sừng sững ở trước mặt. Võ Hành Giả liền mau bước mà đi lên núi. Khi lên tới gần đỉnh núi, chàng đứng dừng lại, quay trông sang phía bên đông, đã thấy vừng trăng mới mọc sáng rọi cây cỏ trên non, rất là thích mắt.
Đương khi trông ngắm ngẩn ngơ thì chợt thấy có tiếng người cười ở khu rừng trước mặt. Võ Hành Giả liền nói một mình rằng: "Quái lạ ở đây núi non tịch mịch thế này, còn làm chi mà có tiếng người cười nói? " Chàng nghĩ đoạn rảo bước đi sang bên rừng để xem. Chợt thấy trong rừng thông bên cạnh núi có một tòa am, ướt có mười mấy gian nhà lá, nhà mở hai cánh cửa sổ có một tiên sinh cùng mấy người con gái cùng ngồi, đương đùa rỡn xem trăng ở đó. Võ Hành Giả thấy vậy, thì ngạc nhiên nghĩ thầm rằng: " Anh này trông ra mặt tu hành xuất gia, mà sao dám làm những việc thế kia!"
Chàng vừa nghĩ vừa rút hai khẩu giới đao sáng nhoáng, giơ ra bóng trăng để xem, rồi lại nói một mình rằng: "Mấy khẩu đao này tốt thực, vào tay ta, ta chưa thử một lần nào... ? Âu là ta đem tiên sinh khốn nạn này mà thí nghiệm một cái xem sao?
Chàng nói vậy, liền để một khẩu ở ngoài, còn một khẩu lại đút vào trong bao, xắn hai tay áo lên đến vai, rồi lượn ra lối trước am mà gõ cửa...Tiên sinh ngồi trong nghe tiếng gõ cửa liền khép hai cánh cửa sổ đằng sau lại. Võ Hành Giả lại tìm một tảng đá mà gõ ầm lên. Chợt có tiếng ken két, cánh cửa bên cạnh mở tung ra, rồi có một tên đạo đồng chạy ra quát rằng:
- Anh là người nào? Nửa đêm gà gáy dám đến đây gõ cửa làm ấm ĩ đến thế?
Võ Hành Giả trợn ngược hai con mắt ghê gớm, rồi quát lên rằng:
- Hãy đem thằng đạo đồng này mà tế đao đã.
Nói xong giơ đao lên đánh beng một cái, tên đạo đồng mất hẳn đầu ra một bên, mà ngã vật ngay xuống đất. Bấy giờ tiên sinh kia ngồi trong am mà kêu to lên rằng:
- Đứa nào dám giết thằng đạo đồng của ta?
Nói xong nhảy tót xuống múa hai thanh bảo kiếm xông ra để đánh Võ Tòng.
Võ Hành Giả cười mà rằng:
- À! Thằng nầy lại gãi chính vào chỗ ngứa...Được đến đây để ta thử đao.
Nói đoạn rút khẩu giới đao nữa ở trong bao ra rồi hai tay múa hai khẩu đao đón đánh tiên sinh kia. Đôi bên đấu nhau ở dưới bóng trăng thanh, kẻ đi người lại, kẻ đỡ người đâm, lên xuống quanh quẩn như bốn đạo hào quang, kết thành một đoàn lãnh khí vậy.
Hai bên cự địch đương hăng, thì bỗng dưng có tiếng đao vang động, rồi có một người ngã lăn ra đất.
Mới hay:
Mấy hàng mưa tuyết đầu người rụng,
Tiếng bóng trăng hàn tiếng kiếm reo,
Làm trai thứ nhất ba điều,
Một là thân thế riêng chiều tự do.
Hai là giết sạch quân thù,
Moi gan tàn ác đền bù núi sông.
Ba là ngang dọc vẫy vùng.
Làm cho tỏ mặt anh hùng ngàn thu.
Ví chăng sống chẳng ra trò,
Thì tu mi với liễu bồ khác chi?
Lời bàn của Thánh Thán:
Đọc hết một hồi máu chảy lầu Uyên Ương, mà than cho người thiên hạ mài dao giết người, sao thấy lạ thay! Thầy Mạnh nói: Giết cha người ta ắt người ta phải giết lại cha mình; Giết anh người ta, ắt là người ta phải giết lại anh mình, trong lúc ta mài dao, với kẻ kia mài dao, nào khác gì đâu! Thế thì chẳng phải tự sát, chẳng qua gián tiếp, đổi tay dao mã để giết cha anh...Hỡi ôi! Há chỉ thế đâu, đổi tay dao mà giết, còn lấy dao ta để giết người, để cho dao người giết lại ta, cũng đều là tự sát, như thế ta chỉ thấy dao giết người của ta, mà không thấy dao giết ta của người, đến khi họa cơ đưa lại, mới giật nảy mình, như lũ ba người Trương Đô Giám, Trương Đoàn Luyện, và Tưởng Môn Thần ngộ hại, còn đau mà chẳng đau lòng!!! Đương khi trao ý kiến cho công sai, mà còn khiến thêm hai đồ đệ đi theo giúp sức, há chẳng từng ân cần hỏi đến: Ngươi có mang dao không? Hai người trả lời có dao! Thì lại hỏi đến: Dao có sắc không? Hai người nói: Tốt! Thì lại hỏi đến: Dao đã mài chưa? Hai người nói: Mới mài! Thì lại hỏi đến: Dao ấy có giết nổi một Võ Tòng không? Hai người lại nói: Đến mươi lăm thằng như Võ Tòng cũng giết nổi; há một Võ Tòng?
Đương khi ấy há chẳng khoe dao tốt mà đi, cầm mà múa bay mà tới để chém cho đứt, thế rồi, đầu Võ Tòng phải rơi, máu Võ Tòng phải đổ, oan Võ Tòng phải báo, mệnh Võ Tòng phải hết...Bấy giờ thử mà xem, chém mà xách, đem về cho mọi người thấy, để ngợi khen uống rượu vui mừng?
Lũ ba người Trương Đô Giám, Trương Đoàn Luyện, Tưởng Môn Thần, coi ở trong thiên hạ to lớn kia, với quần chúng muôn nhà, không còn ai được vui sướng cho bằng cuộc yến ẩm trên lầu Uyên Ương giết được kẻ thù! Có ngờ ngoài bến Phi Vân tay sai bị giết, trong Tàu ngựa tắt đèn? ? ? Hỡi ơi! Dao sắc đã mang đi cửa trước, nào ngờ dao sắc khác đưa đến cửa sau, lại theo họ Võ bấy giờ nghĩ lại lúc mài dao, chỉ sợ rằng đầu thử trước! Nào ngờ đêm ấy mười chín mạng người, đã đem đầu thử trước! Hởi ơi! Há nói chơi đâu! Xét ra thì lúc mua dao, để lại đeo dao, đeo dao lâu ngày chưa giết một ai, chẳng thà đừng mua dao nữa mà lại càng không nên đeo, dù là sẵn có, tự khi mua dao, để lại đeo dao, đeo dao lâu ngày, đêm nay giết thử một ngày, muốn giết chưa xong, lại lật lại tự mình chịu giết, mà bị đến mười chín mạng người, thế mua dao để tự sát mới mua dao; Đeo dao cũng để tự sát mới đeo dao, chả còn lạ nữa! Hới ôi! Tai vạ nấp sẵn, bí ẩn khôn hay, đến lúc đưa lại, nhanh không thể trốn, từ xưa tới nay, thường thường như thế cả, sao người đời còn say chưa tỉnh, không đọc đến đoạn văn này của Thủy Hử chăng? ? ?
Đoạn văn này rất khéo, chẳng tả Võ Tòng lòng thô tay bạo gặp người là muốn giết ngay, hãy nên coi tác giả tả từng chi tiết trong ngòi bút tả, nào ngòi bút nhọn, nào phép bút nghiệm, nào sức bút cứng, nào đường bút tới nơi...Như câu tả người bồi ngựa nghe quen tiếng, nhận biết Võ Tòng và câu Liễu hoàn mắng thầm khách nọ chưa dọn tiệc xong...Phi nhân chợt tự hỏi "Ai". Đó là nhàn bút, mới tả ra hết đủ đầy; Khi giết bồi ngựa, thổi tắt đèn đi, mở cửa mạch lách vào, kéo cánh cửa lại, giết chết Liễu Hoàn, tắt đèn trong bếp, chạy ra trước cửa...Tả những câu đến thế, do ngòi bút sắc; Mới đầu tả người canh bốn điểm, sau rồi tả bốn canh ba điểm, trước giơ bọc lấy áo của Thi Ân và tiền sau lại lấy ra dùng giày gai, đó là bút pháp được nghiêm; Lẻn vào cửa sau. Giết kẻ bồi ngựa, rồi đánh nhoàng ra cửa sau, giở đến bọc dao, mở cánh cửa mạch, mấy lần lãnh ra lãnh vào khép cánh, sấn vào trên lầu, giết chết ba tên, rồi lại xuống thang lầu, nhường cho hai người đi lên, giết chết ba tên, rồi lại xuống thang lầu, nhường cho hai người kia đi lên, rồi trở lên lầu giết nốt, rồi trở xuống lầu giết nốt Phu Nhân, trở lại dưới bếp lau dao, chạy tới trung đường, đi ra khỏi cửa, bao nhiêu lần chuyển thân hành động, đó là sức bút cáp lớn lao, một mạch tả gồm mười một chỗ tả đèn bốn chỗ tả trăng, đó là lối bút chia ra cách biệt.
Trên lầu Uyên Ương, ta xét biết ra, với nghĩa rằng, việc đắc ý và thất ý khéo đi đôi không rời khỏi nhau, như đôi chim sống mái liền nhau vậy.
Một đoạn văn Võ Tòng qua núi Ngô Công, ý tứ đối ngầm với việc Lỗ Đạt qua chùa Ngõa Quan, hai đoạn văn cũng vừa mới được giới đao, chém bọn giả tu hành, giới đao ấy vốn con dao cảnh cáo.
Thi Nại Am
Dịch giả: Á Nam Trần Tuấn Khải
Theo https://www.sachhayonline.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nguyễn Huy Thiệp - Con sông vẫn "Thao thiết" chảy

Nguyễn Huy Thiệp - Con sông vẫn "Thao thiết" chảy Cuốn Anh hùng còn chi của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp vừa được NXB Hội Nhà văn ph...