Hồi 21:
Hùa đảng gian dâm, trước nơi cửa huyện;
Hùa đảng gian dâm, trước nơi cửa huyện;
Tha người hiếu nghĩa, trong chốn nhà hầm
Khi đó chúng đem Diêm Bà cùng Đường Ngưu Nhị vào đến huyện
quan. Huyện nghe nói việc giết người, bèn vội vàng ra công đường để hỏi.
Chúng dẫn Diêm Bà quỳ bên hữu, Đường Ngưu Nhị quỳ bên tả, rồi
quan Huyện ngồi trên hỏi rằng:
- Việc gì? Giết người thế nào? Nói ta nghe.
Diêm Bà bẩm:
- Lão tôi người họ Diêm, có con gái tên là Bà Tích, dạo nọ
bán cho Tống Áp Ty làm tỳ thiếp, đến hôm qua con gái tôi cùng Tống Giang uống
rượu trên gác, thì có tên Đường Ngưu Nhị này đến sinh sự, rồi ra phố chửi rủa ầm
ầm, cả phố sá ai cũng biết. Sáng hôm nay thấy Tống Giang ở nhà ra phố một lúc,
rồi trở về mà giết chết con gái tôi, sau tôi kéo được Tống Giang đến cửa huyện,
thì bị tên Đường Ngưu Nhị này lại đánh tháo cho đi mất, vậy xin kêu để quan lớn
xét cho.
Tri Huyện hỏi đến Đường Ngưu Nhị rằng:
- Sao thằng kia dám đánh tháo cho kẻ hành hung?
Bẩm quan lớn:
- Con không biết đầu đuôi ra sao cả, nguyên tối hôm qua con
có đến tìm Tống Áp Ty ở đấy, thì bị mụ này đuổi ra. Sáng hôm nay con đi bán
hàng sớm, lại thấy mụ này đương lôi kéo Tống Áp Ty, nên con chạy đến để can, rồi
Tống Áp Ty bỏ đi đâu mất thực là không biết chuyện giết người chi cả.
Quan Huyện quát lên rằng:
- Mầy nói láo! Tống Giang là người thành thực quân tử, có khi
nào lại giết càn như thế? Việc này chắc chính mầy làm ra, tả hữu đâu?
Tri Huyện nói đoạn, liền gọi nha lại lên thấy khẩu cung. Bấy
giờ Trương Văn Viễn nghe nói là Tống Giang giết con Diêm Bà, là nhân tình của
mình, thì trong lòng tức giận, vội vàng ra lấy khẩu cung mọi người, rồi lại viết
đơn giúp cho Diêm Bà để kêu. Đoạn rồi đem các người kêu biên án, và cho gọi Trưởng
Phố và các nhà lân bang, đến mở cửa nhà Diêm Bà để khám nghiệm xác chết. Khi tới
nơi, khám thấy người chết bị mấy nhát dao trên đầu và ở thái dương, còn con dao
hành hung thì vất trên xác. Chúng biên khám đoạn rồi cho lấy áo quan mà bỏ xác
chết vào, mà đem ra quàn tại tự viện, rồi đem các người ấy về trình huyện.
Quan Huyện xưa nay đối với Tống Giang rất là tử tế, có ý muốn
thoát tội cho Tống Giang, liền bắt Đường Ngưu Nhị ra mà tra hỏi ba bốn lần.
Đường Ngưu Nhị nhất định cung rằng:
- Không biết đầu đuôi chuyện giết người ra sao cả.
Tri Huyện nói:
- Thằng nầy, nửa đêm mày đến nhà người ta mà sinh sự cãi cọ,
thì tất có can thiệp đến đây.
Đường Ngưu Nhị lại kêu:
- Bấy giờ con chỉ tìm Tống Áp Ty có chút việc chứ thực không
có ý gì cả.
Tri Huyện quát lên rằng:
- Nói lạ! Tả hữu đâu, đem đánh nó xem!
Quan Huyện vừa nói dứt lời, thi hai tên lính như hùm như beo
đổ ra, trói Đường Ngưu Nhị đánh đến ba bốn mươi roi. Đường Ngưu Nhị tuy bị đau,
nhưng vẫn cứ khăng khăng nói một mực như trước.
Khi ấy quan Huyện cũng biết rằng không phải tự Đường Ngưu Nhị,
song nhất tâm định cứu cho Tống Giang được thoát, liền lấy hạng gông lớn gông
Đường Ngưu Nhị lại, rồi giam vào nhà giam.
Trương Văn Viễn lên công đường bẩm với quan Huyện rằng:
- Đã đành quan xử thế, song việc này hiện còn có con dao bên
cạnh người chết, là con dao của Tống Giang, vậy thế nào cũng phải bắt Tống
Giang đến hỏi, mới biết đoan đích được.
Quan Huyện bị Trương Văn Viễn kêu đi kêu lại, không thể nào
mà im được, bất đắc dĩ phải sai người đi bắt Tống Giang. Sau bắt không được Tống
Giang, lại phải bắt mấy người lân bang đến hỏi, thì ai cũng khai Tống Giang đi
đâu mất, không thấy đâu cả.
Trương Văn Viễn lại bẩm với quan Huyện rằng:
- Phạm nhân là Tống Giang đi trốn đi mất, song hiện còn bố là
Tống Thái Công và em là Tống Thanh ở trong thôn trang, vậy xin đến đó bắt bố
cùng em phải đến quan, rồi lặc hạn cho đi tìm phạm nhân để đem về nộp, thì hắn
không còn trốn đi đâu được nữa.
Quan Huyện nghe nói, biết rằng phải lẽ, song chủ ý cốt tha
cho Tống Giang, nên cứ dùi rằng đổ tội cho Đường Ngưu Nhị để sau sẽ kiếm kế mà
gỡ dần ra.
Ai ngờ Trương Văn Viễn cố lòng thu xếp văn án, rồi lại xúi giục
Bà Tích đến kêu nài mọi lẽ, làm cho quan Huyện không còn thể nào mà bỏ im đi được,
đành phải thảo công văn, sai ba tên lính, đến Tống gia trang để bắt Tống Thái
Công và Tống Thanh.
Khi ba yên lính đi đến Tống gia trang, Tống Thái Công ra đón
tiếp mời vào thảo đường, rồi mấy người lính đưa công văn ra cho Tống Thái Công
xem.
Tống Thái Công xem xong bảo với bọn lính rằng:
- Xin các bác hãy ngồi chơi, để tôi thưa chuyện: Nguyên lão
tôi từ thuở trước vẫn chăm chỉ việc canh nông, quanh năm trông nom vườn ruộng ở
đây, để kiếm kế sinh nhai, không hề có điều chi trái phép. Còn như thằng con bất
hiếu là Tống Giang, thì nó vẫn ngỗ nghịch từ thuở nhỏ, không chịu theo giữ phép
nhà, mà nhất định đi làm lại. Sau tôi can gián nó cũng không nghe, nên hồi mấy
năm trước tôi đã đến quan để trình sự ngỗ nghịch của nó, và xin xuất tịch tên
nó không nhận là người ở trong trang nầy nữa. Từ đó nó vẫn ở đâu ngoài Huyện,
còn tôi đây cùng con là Tống Thanh vẫn làm ăn quanh quẩn trong chốn thôn ở gần
đây, hai đằng tịnh không có điều gì can thiệp đến nữa. Tôi lại e khi nó làm gì
trái phép mà liên lụy đến tôi, cho nên tôi có xin chữ quan trước phê cho để làm
bằng chứng, hiện còn giữ đây ở kia, để tôi lấy ra cho các bác sao lại, đem về
trình quan.
Bọn lính vốn xưa nay có lòng tử tế đãi với Tống Giang, và thấy
Tống Thái Công đã có bằng cớ, không can thiệp gì đến với Tống Giang, thì cũng
không tội chi mà bới vẽ thêm rầy, liền nói với Thái Công rằng:
- Vâng, nếu cụ đã có giấy má như vậy, thì xin cho chúng tôi
sao lại, để đem về trình huyện cho xong.
Tống Thái Công nhất diện sai người giết gà vịt làm cơm, để
thiết đãi bọn lính, nhất diện đem giấy ra cho bọn ấy sao, rồi lại đưa mười lạng
bạc ra để tiễn. Xong đâu vào đấy, chúng liền từ giã Thái Công trở về huyện bẩm
với quan trên mọi lẽ, và đưa bản giấy sao ra để trình.
Quan Huyện cũng không có lòng nào muốn bắt Tống Giang, nay thấy
báo về vậy, thì cũng lấy làm vừa ý mà bảo chúng rằng:
- Ông lão ấy có giấy quan làm bằng đây, vả chăng Tống Giang
cũng không còn có thân thuộc nào nữa, thì truy nã vào đâu được? Bây giờ chỉ có
một lẽ treo thưởng một nghìn quan tiền để yết thị đi các nơi, cho người ta bắt
giúp mà thôi.
Trương Văn Viễn lại xúi Diêm Bà làm bộ rũ rượi lăn khóc, mà
kêu lên với Quan Huyện rằng:
- Việc ấy thực là Tống Thanh còn dấu diếm Tống Giang ở trong
nhà, xin quan lớn thương đến thân già, mà cứ cho đi bắt Tống Giang đến đây
cho...
Quan Huyện quát lên rằng:
- Ba bốn năm trước phụ thân nó đã lên cáo tội ở quan để truất
tịch đi rồi, hiện có giấy quan phê ở đây, còn bắt thế nào nhà người ta được nữa?
Diêm Bà lại kêu rằng:
- Bẩm quan lớn, ở đây ai không biết anh ta là Hiếu Nghĩa Hắc
Tam Lang, vậy giấy này chắc là giả mạo, xin tướng công xét kỹ lại cho.
- Bây nói lạ! Hiện có chữ và ấn tín của quan trước phê cho mà
mày bảo giả mạo thế nào?
Diêm Bà thấy quan truyền vậy, thì rên rỉ khóc lóc mà rằng: -
Việc mạng người là to, nếu tướng công không xét cho, thì tôi xin lên Châu Phủ
tôi kêu lên, để quan trên xét. Con tôi chết oan khổ lắm!
Bấy giờ Trương Văn Viễn lại ở ngoài kêu luôn với quan Huyện rằng:
- Việc này nếu tướng công không cho người đi thì mụ này tất
nó lên kêu ở thượng ty, bấy giờ lỡ ra quan trên có đòi đến, thì khó lòng mà trả
lời sao được!
Quan Huyện nghe nói, không biết làm thế nào được, đành phải
cho thảo công văn, sai Chu Đồng, Lôi Hoành đem lính đến Tống gia trang mà vây bắt
Tống Giang. Hai Đô Đầu Lĩnh công văn đem bốn mươi tên lính đến Tống gia trang,
Tống Thái Công nghe báo, vội vàng ra để nghinh tiếp.
Lũ Chu Đồng bảo với Thái Công rằng:
- Xin Thái Công tha lỗi, chúng tôi vâng lệnh quan sai đến đây
để bắt Tống Giang, vậy Tống Giang ở đâu, xin Thái Công cho biết?
Tống Thái Công đáp:
- Xin nhị vị Đô Đầu xét cho: Thằng nghịch tử Tống Giang đối với
tôi không có can thiệp chi cả. Hiện trước tôi đã có giấy kêu quan, quan đã phê
cho làm bằng... Trong mấy năm nay nó đã lập ra sổ bộ khác, không còn ở đây với
tôi, và cũng không về đến đây bao giờ.
Chu Đồng nói:
- Đã đành như vậy, song chúng tôi là kẻ công nhân cứ theo giấy
bắt người, vậy không biết rằng trong trang có ai hay không? Cũng phải cho chúng
tôi khám hết một lượt, rồi mới về bẩm quan được.
Nói xong liền cho binh bổ vây khắp bốn mặt gia trang; rồi tự
đứng canh trước cửa, mà bảo Lôi Hoành vào khám tìm một lượt.
Lôi Hoành đi vào trong trang, tìm khắp cả đằng trước đằng
sau, rồi ra bảo với Chu Đồng rằng:
- Thực ở trong trang không thấy.
Chu Đồng nói:
- Tôi chưa được vào khám, thì chưa lấy gì làm chắc, vậy bác
hãy giữ ngoài cửa đây, để tôi vào khám kỹ lại lượt nữa xem sao?
Tống Thái Công nói:
- Lão tôi là một người biết pháp luật, có khi nào dám dấu ở
trong trang!
Chu Đồng nói:
- Cái đó là mệnh lệnh bề trên tất chúng tôi phải làm cho tời
nơi tới chốn, xin Thái Công đừng trách.
- Vâng, xin ngài cứ tự tiện mà làm.
Chu Đồng lại dặn Lôi Hoành rằng:
- Lôi Đô Đầu hãy giữ Thái Công ở đây, đừng để Thái Công trốn
đi mới được.
Nói xong đi sộc vào trang, dựng thanh đao xuống bên vách khép
cửa lại, rồi đi thẳng vào điện thờ Phật của Tống Thái Công. Tới đó Chu Đồng nhắc
giường thờ để qua một bên, mở tấm cửa dưới mặt đất lên, rồi vớ lấy cái đầu thừng
ở dưới cánh cửa, đập một cái thực mạnh, thì nghe có tiếng boong boong ở dưới, rồi
thấy Tống Giang ở trong hầm đi ra.
- Công Minh ca ca ơi! Ca ca đừng tưởng là tiểu đệ đến bắt
đâu! Vì ngày trước có khi đánh chén với nhau, ca ca thường nói với tôi rằng:"Trong
Phật Đường nhà ca ca có một cái hầm trên bày bàn thờ Tam Thế Phật, và có đậy
cánh cửa bằng đất hễ có việc gì khẩn cấp là chui vào ở đó". Bởi vậy nên tiểu
đệ mới biết được chỗ này. Hôm qua quan Huyện sai Lôi Hoành cùng tiểu đệ đến
đây, cũng là sự bất đắc dĩ, phải che mắt thế gian cho xong chuyện, chứ quan Huyện
thực có lòng vì nể ca ca lắm. Chỉ vì con mụ già ấy nó bị thằng Trương Văn Viễn
xúi giục lên quan, nếu quan không xét, thì nó đến tận Châu Phủ để kêu, bởi thế
nên phải sai chúng tôi đến đây để bắt. Lúc nãy Lôi Hoành vào đây, tôi chỉ sợ lỡ
gặp ca ca mà hắn lại không biết cách để chu toàn thì nguy lắm, nhân thế tôi phải
chạy vào đây, để báo cho ca ca biết. Ở đây tuy cũng được, nhưng không phải là
chỗ an thân, vì sợ khi có kẻ biết được đến đây, thì bấy giờ làm sao cho tiện?
Tống Giang nói:
- Tôi đã nghĩ đến quãng đó, ai ngờ lại được hiền huynh chu
toàn cho, bằng không thì Tống Giang tất bị bắt chứ không chơi.
- Thôi bây giờ huynh trưởng phải tìm chỗ khác mà lánh mình mới
được.
Tiểu đệ nghĩ kỹ, chỉ có ba chỗ yên thân được: - Một là nhà Tiểu
Đoàn Phong Sài Tiến ở quận Hoành Hải, bên Thương Châu, hai là Tiểu Lý Quãng Hoa
Vinh ở trại Thanh Phong bên Thanh Châu, và ba là nhà Khổng Thái Công ở bên núi
Bạch Hổ, Khổng Thái Công có hai người con trai, người con trưởng là Mao Đầu
Tinh Khổng Minh, và người thứ tên là Đạc Hỏa Tinh Khổng Lượng, thỉnh thoảng vẫn
đến huyện đây chơi bời với tôi. Chỉ có ba chỗ ấy, nhưng chưa biết rằng đi chỗ
nào cho tiện!
Huynh trưởng nên nghĩ mau mau, liệu đi đâu thì đi ngay đi, chớ
để chậm trể thì khốn!...
- Còn các việc quan tư ở đây, xin nhờ huynh giúp cho. Nếu có
cần gì vàng lụa đưa đón các nơi đâu, thì xin cứ cho đến đây mà lấy.
- Việc ấy huynh trưởng cứ phóng tâm tôi xin cáng đáng được.
Huynh trưởng nên liệu kế mà đi đi.
Tống Giang tạ ơn Chu Đồng rồi đi vào trong hầm, Chu Đồng liền
đậy cánh cửa đất lại, rồi nhắc giường thờ kê lại tử tế, mà lấy dao trở ra đi.
Khi ra tới ngoài, Chu Đồng bảo với Lôi Hoành rằng:
- Tôi tìm khắp lượt, quả nhiên không thấy đâu thực, chẳng hay
ta bắt Thái Công đem đi có được không?
Lôi Hoành nghe Chu Đồng nói lấy làm ngạc nhiên mà nghĩ thầm rằng:
"Mọi ngày Chu Đồng đối với Tống Giang vẫn là tử tế, sao ngày nay hắn lại
toan xử như thế? Hoặc là trong bụng hắn đã đổi khác đi chăng? Nếu hắn còn nhắc
đến câu ấy, thì ta phải liệu sao mà cứu giúp Thái Công mới được!". Đoạn rồi
hai người thu gọi lính lại, mà cùng đi vào thảo đường.
Tống Thái Công vội vàng sai làm rượu để khỏan đãi. Chu Đồng gạt
đi mà rằng:
- Thái Công đừng cho ăn uống nữa, xin mời Thái Công cùng Tứ
Lang đi đến huyện một thể.
Lôi Hoành hỏi Thái Công rằng:
- Sao không thấy Tứ Lang ở nhà đây?
Thái Công nói:
- Tôi mới sai nó sang thôn gần đây, để đánh ít đồ dùng làm ruộng
không có ở nhà, còn thằng Tống Giang thì ba năm trước, tôi đã kêu quan xóa sổ,
không còn ở trong trang đây, hiện có giấy quan phê làm chứng kia.
Chu Đồng nói:
- Cụ nói thế không xong, chúng tôi vâng lệnh quan Huyện đến
đây, bắt hai ông con nhà cụ, vậy thế nào cũng phải đến huyện mới được.
Lôi Hoành can Chu Đồng rằng:
- Chu Đô Đầu, bác nghe tôi nói: - Tống Áp Ty tuy nhiên phạm tội,
nhưng ở trong tất có duyên cớ làm sao, chứ chưa chắc đã là tử tội! Huống chi
Thái Công đây lại có văn thư ấn tín làm bằng, cũng không phải là giả mạo gì, vậy
chúng ta nên nghĩ đến tình với Áp Ty khi trước mà che chở mới được. Nay ta cứ
sao tờ giấy này, để về trình quan xem sao đã.
Chu Đồng nghe nói liền đáp rằng:
- Bác nói thế, thì tôi cũng không nỡ nào làm ác nghiệt cho
đành.
Tống Thái Công bèn đứng dậy tạ ơn hai người, rồi sai người
nhà dọn rượu lên thiết, và đưa 20 lạng bạc lên tiễn Chu Đồng và Lôi Hoành, hai
người nhất định không nhận, sau giao cho bọn thổ binh mỗi người chia nhau một
tí, đoạn rồi sao lấy giấy má cẩn thận mà cùng nhau từ tạ Tống Thái Công để về
huyện. Khi tới huyện, hai Đô Đầu đem căn do lên trình với quan Huyện rằng:
- Chúng tôi vâng lệnh đến đó, để vây bắt gia trang tìm trước
tìm sau, tịnh không thấy tung tích đâu cả. Tống Thái Công thì hiện đương bị cảm
nằm đó, nghe chừng nguy cấp đến nơi, còn Tống Thanh thì nghe đâu đi từ tháng
trước, tới nay chưa về, nhân vậy chúng tôi sao giấy tờ Thái Công trình quan khi
trước để đem nộp.
Tri Huyện nghe nói, biết rằng Tống Giang đã trốn thoát được rồi,
thì cũng không cần làm chi cho phiền nhiễu, liền nhất diện cho thảo giấy trình
lên bản phủ, và nhất diện thảo công văn tự đi các nơi.
Bấy giờ các người có hàm ơn với Tống Giang khi trước, đến nói
với Trương Văn Viễn để im thôi việc ấy đi. Trương Văn Viễn phần thì nể lời
chúng nói, phần thì tự mình khi trước cũng có chịu ơn của Tống Giang, còn như
Bà Tích thì cũng chết đi rồi, cũng không làm sao được nữa, nhân đó cũng đành bỏ
mặc mà không nói làm chi.
Chu Đồng lại kiếm ít tiền, đưa cho Diêm Bà khuyên giải, không
cho lên châu phủ để kêu nài chi nữa. Còn các nơi châu phủ thì Chu Đồng đã sai
người đưa tiền đến đút lót cẩn thận, không còn đâu đòi hỏi lôi thôi. Lại được
quan Huyện Vận Thành hết lòng che chở, nên chỉ xuất một nghìn quan tiền thưởng
mà bảo công văn tư đi truy nã các nơi, còn Đường Ngưu Nhị thì kết án là cố tha
người phạm bắt hai mươi trượng đày ra ngoài năm mươi dặm, và các người liên can
việc ấy đều cho về an cư lập nghiệp.
Nói về Tống Giang vốn là một nhà làm ruộng vì cớ sao mà có
nhà hầm như vậy?
Nguyên thời nhà Tống khi trước, làm quan dễ mà làm lại rất
khó, trong triều đình vô đạo, các gian thần xàm nịnh, đều lộng lẫy chuyên quyền,
cứ kẻ thân thì dùng, kẻ có tiền thì cất, bởi thế mà làm quan rất dễ. Còn như
làm lại thí dụ một chức Áp Ty này nếu lỡ có phạm tội trách gì, nhẹ ra thì chạm
mặt đày đi sung quân, những chốn xa khơi, mà nặng ra thì biên tịch gia tài,
chém ngay lập tức, bởi vậy phải dự bị một nơi ẩn mình từ trước. Lại còn sợ khi
liên lụy đến bố mẹ, nên bố mẹ phải làm một giấy thưa trình ở quan, để lấy chữ
quan phê làm chứng như thế.
Bấy giờ Lôi Hoành, Chu Đồng đi rồi, Tống Giang liền ở trong hầm
bò ra mà nói với Tống Thái Công rằng:
- Hôm nay sở dĩ con được thoát tội là nhờ có Chu Đồng là người
tử tế, vậy ơn ấy không bao giờ quên được. Duy anh em con thì ngày nay tất phải
tìm nơi lánh nạn xa xôi, rồi sau này hoặc có được tha, thì bấy giờ chúng con mới
có thể về nhà được. Vậy nay thân phụ ở nhà, xin thân phụ sai người đưa tiền cho
Chu Đồng, để nhờ ông ta nói lót các nơi, và tư cấp cho mụ Diêm Bà một ít, để nó
khỏi lên thượng ty kêu khiếu lôi thôi.
Thái Công nói:
- Hai anh em con cứ thu xếp ra đi, phải cẩn thận rồi đến đâu
thì cứ viết giấy về đây cho ta biết, còn ở nhà mặc ta lo liệu các con không phải
bận lòng.
Chiều hôm ấy Tống Giang cùng Tống Thanh thu thập hành lý, rồi
đầu trống canh tư sáng hôm sau, dậy sớm sắp sửa ra đi. Tống Giang đầu đội nón
chiên trắng, mình mặc áo đoạn trắng, thắt dây lưng thêu, chân đi đôi giày gai,
còn Tống Thanh thì đeo khăn gói, ăn mặc ra người theo hầu, rồi cùng ra trước thảo
đường để bái biệt Thái Công.
Tống Thái Công rơm rớm hai hàng nước mắt mà dặn rằng:
- Hai con đi đây muôn dặm xa xôi, chớ kêu nghĩ điều chi cho
phiền não.
Tống Giang, Tống Thanh cùng vâng lời, rồi dặn dò trang khách,
phải sớm khuya hầu hạ Thái Công, chớ để có một điều gì trái đạo. Đoạn rồi hai
anh em đều giắt đao lưng, vác thanh đao lớn, mà cùng nhau từ giã gia trang.
Thanh đao thẳng chống lên đường.
Giang hồ một gánh tuyết sương lưng trời.
Bốn phương non nước mù khơi.
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời từ đây.
Bấy giờ đương độ thu tàn đông tới, hai anh em Tống Giang vừa
đi vừa bàn với nhau, không biết đi đâu cho tiện.
Tống Thanh nói với Tống Giang rằng:
- Tôi nghe thấy tiếng đồn ở quận Hoành Hải bên Thương Châu,
có Sài Đại quan nhân, là dòng dõi Đại Chu Hoàng Đế khi xưa, mà chưa được bái yết
bao giờ. Thấy nói ông ta là một người trọng nghĩa khi tài hay kết nạp bọn giang
hồ, cứu giúp người nguy bách, thực là một Mạnh Thường Quân đời nay, hay là anh
em thử đến đấy xem sao?
Tống Giang đáp rằng:
- Trong bụng ta cũng nghĩ như thế... Mọi khi ông ta vẫn thường
thư từ đi lại với ta luôn nhưng cũng chưa được gặp bao giờ, nay nhân tiện ta đến
đó.
Hai người bàn định xong rồi, liền lên đường đi về lối Thương
Châu. Trong khi đi đường, thôi thì lần mò lánh trốn, dãi nắng dầm mưa, ăn có
khi phải bát của người ốm, nằm phải giường của người chết, ở những hàng quán,
không dám từ nan.
Được ít lâu đi tới Thương Châu, hai anh em liền hỏi thăm đến
thôn trang Sài Tiến. Khi tới cổng trang, Tống Giang hỏi thăm trang khách rằng:
- Sài Đại quan nhân có nhà chăng?
Trang Khách đáp:
- Đại quan nhân tôi sang thu thóc ở bên Đông trang.
- Đây sang Đông trang đường đi xa hay gần?
- Đây sang đấy có tới bốn mươi dặm đường.
- Vậy thì đi lối nào được?
Trang khách thấy hỏi ân cần liền hỏi rằng:
- Chúng tôi hỏi khí không phải, quý tính cao danh của ngài là
gì, cho chúng tôi được biết.
Tống Giang đáp:
- Tôi là Tống Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành tới đây.
- Có phải ngài là Cập Thời Vũ Tống Áp Ty chăng?
- Phải chính tôi đây.
- Nếu vậy thì Đại quan nhân tôi thường nói luôn đến tên ngài,
mà vẫn oán giận là không được gặp. Nay ngài đến đây thì tôi xin đưa ngài sang
Đông trang cho tiện.
Nói đoạn liền dẫn Tống Giang, Tống Thanh ra đi.
Đi bộ ba bốn giờ đã tới Đông trang, trang khách dẫn hai người
vào một mái đình, mời ngồi đó, rồi đi vào báo với Sài Tiến.
Tống Giang cùng Tống Thanh cởi khăn gói dựng đao vào một bên,
và bỏ cả đao lưng ra, rồi ngồi đợi ở trên đình. Được một lát thấy trong trang cửa
giữa mở toan ra, rồi thấy Sài Tiến dẫn năm ba người theo hầu vội vàng ra đón.
Khi ra đến tiền đình, Sài Tiến trông thấy Tống Giang liền vái sụp xuống đất mà
nói rằng:
- Thật là khao khát tiếng ngài quá nỗi, may sao trời lại giun
rủi đến đây, cho tôi được gặp, thực lòng nầy vui vẻ biết bao.
- Tôi là thằng tiểu lại ngu dốt, hôm nay đến nương nhờ ngài ở
đây.
Sài Tiến vội vàng đỡ dậy mà nói rằng:
- Hôm qua nhà có hoa đèn, sáng nay lại quẹt kêu trước ngõ, dè
đâu chính là quý huynh giáng lâm tới đây.
Nói xong miệng cười tươi tỉnh như được của vậy, Tống Giang thấy
Sài Tiến tiếp đãi trân trọng thì trong lòng vui mừng, liền bảo em ra lạy chào
Sài Tiến. Sài Tiến đáp lễ xong rồi, sai người hầu đem các đồ hành lý của Tống
Giang, để vào phòng bên tây phía trong. Đoạn rồi Sài Tiến dắt tay Tống Giang đi
vào nhà chính ở trong, mời ngồi chơi nói chuyện.
Sài Tiến hỏi Tống Giang rằng:
- Nghe nói huynh trưởng làm việc quan bên huyện Vận Thành,
sao nay lại rảnh mà đến chơi ở chốn hoang thôn này được? này được?
- Tôi được nghe tiếng Đại quan nhân đã lâu, khác nào
như sét đánh ngang tai vậy, lại nhiều khi tiếp được thư từ của ngài gửi đến,
trong lòng thực là hâm mộ không biết đến đâu mà kể. Nhưng ngặt vì bấy lâu nay
chỉ quanh co bận việc tầm thường, nên không sao đến hầu ngay được, ngày nay
cũng vì tài hèn trí kém lỡ xẩy ra một việc bất thần, hai anh em nghĩ đi nghĩ lại
không có đâu là chỗ nương thân, song sau chợt nghĩ đến ngài đây là bậc khinh
tài trọng nghĩa, cho nên cùng kéo đến đây để nương nhờ ít bữa.
Sài Tiến nghe nói cười mà rằng:
- Xin huynh trưởng cứ yên tâm, dẫu có người phạm tội đến tội
Thập ác đại tội mà đã đến đây, thì cũng không lo gì cả. Không phải là Sài Tiến
tôi nói ngoa, song tha hồ cho quan quân truy nã chưa dễ ai đã dám coi khinh một
chỗ tiểu trang ở đây.
Bấy giờ Tống Giang mới đem chuyện giết Diêm Bà Tích và sự bắt
bớ thế nào kể cho Sài Tiến nghe. Sài Tiến cười và nói rằng:
- Nếu vậy thì xin huynh trưởng cứ vững tâm, dẫu cho giết một
Đại Thần ở trong triều hay là cướp ngay tiền ở trong kho tàng, Sài Tiến nầy
cũng dám chứa ở đây.
Nói đoạn mời hai anh em đi tắm rửa, rồi lấy ra hai bộ quần áo
khăn giầy sạch sẽ, để cho hai người thay.
Khi tắm rửa xong rồi, trang khách mang quần áo cũ của hai người
vào một phòng kín ở nhà trong để uống rượu. Bấy giờ Tống Giang ngồi chính giữa,
Sài Tiến ngồi đối diện Tống Giang, còn Tống Thanh vì có anh ngồi ở trên, nên phải
khiêm tốn mà ngồi về một bên. Ba người ngồi xong, thì có mấy người trang khách
thân mật, cùng thấy anh chủ quán đứng hầu để lần lượt rót rượu.
Trong khi đó Sài Tiến mời chào rất ân cần, hai anh em Tống
Giang lại lấy làm khâm phục vô cùng, rượu được vài tuần, thì ba người cùng đem
lòng khát vọng của mình xưa nay mà giải bày cùng nhau, rất là vui vẻ.
Được một lát sắc trời đã tối, người nhà thắp đèn lên, rồi Tống
Giang từ tạ xin thôi, không uống rượu được nữa. Sài Tiến nhất định không nghe,
cố ép cho Tống Giang phải uống.
Tống Giang bắt đắc dĩ phải vâng lời, rồi ngồi uống rượu mãi
cho đến hết canh một, bấy giờ mới xin được phép đứng dậy đi rửa. Tống Giang đứng
dậy đi rửa.
Sài Tiến liền sai trang khách, cầm đèn lồng đưa Tống Giang ra
tận khỏi góc nhà bên Đông để đi rửa. Tống Giang đứng dậy vừa đi vừa nói một
mình rằng:"Ta phải trốn mấy chén rượu mới được". Nói xong liền sồng sộc
đi xuống dãy nhà ở trước mặt. Bấy giờ Tống Giang đã chếnh choáng hơi men, chân
đi không vững, nên chàng cứ bước liều mà không biết gì hết cả.
Khi ấy dưới nhà có một đại hán đương bị ngược tật, trong mình
lạnh rét khó chịu, liền lấy cái xẻng đựng lửa, để gần chỗ ngồi mà sưởi. Dè đâu
Tống Giang đương say rượu, chân bước lập cập dẫm lên phải cái xẻng làm cho than
lửa trong xẻng bắn tung ra cả lên mặt đại hán kia.
Đại hán giật mình toát mồ hôi ra, rồi hăng máu nhảy choàng dậy,
nắm lấy cánh tay Tống Giang mà quát lên rằng:
- Anh là thằng nào? ở đâu? Dám đến đây mà tiêu khiển với ta?
Tống Giang cả kinh, lúng túng chưa biết nói làm sao. Bấy giờ
tên trang khách cầm đèn nghe thấy vậy, thì vội vàng chạy lại kêu lên rằng:
- Không được vô lễ, ông ấy là vị khách quan rất trọng đãi của
Đại quan nhân đấy.
- Khách quan với chả khách quan, ta đây lúc mới đến, cũng là
khách quan, mà cũng là trọng đãi đấy, thế mà bây giờ sao lại khinh mạn ta? Thế
mới biết là:"Mấy người tử tế giữ gìn được lâu".
Nói xong giơ tay toan đánh Tống Giang. Người trang khách vội
vất đèn xuống, mà xông vào để can giữ lại. Đương khi đôi bên giằng nhau, thấy
hai ba cái đèn lồng ở đàng kia chạy đến, rồi thấy Sài Tiến cũng chạy đến mà nói
rằng:
- Tôi đi theo Áp Ty không kịp, sao Áp Ty lại lôi thôi ở đây?
Tên trang khách liền đem chuyện Tống Giang dẫm phải xẻng lửa
mà thuật lại cho Sài Tiến nghe. Sài Tiến cả cười mà nói rằng:
- Đại hán không biết vị Áp Ty danh tiếng nầy hay sao?
Đại hán đáp rằng:
- Lừng lẫy có bằng Tống Áp Ty ở huyện Vận Thành ta chăng?
Sài Tiến lại cười mà rằng:
- Bác biết Tống Áp Ty không?
- Tôi chưa gặp mặt bao giờ, nhưng vẫn nghe tiếng Cập Thời Vũ
Tống Công Minh là tay hảo hán đã lâu.
- Làm sao lại biết được ông ấy là tay hảo hán?
- Khoan, tôi đã nói xong đâu! Ông ta là người Đại trượng phu
có đầu có đuôi, có sau có trước, tôi chỉ đợi bao giờ khỏi bệnh, là đi tìm đến
ông ta đấy...
- Bác có muốn gặp ông ấy không?
- Không muốn gặp thì nói đến làm gì?
Sài Tiến trỏ Tống Giang mà bảo đại hán rằng:
- Bác ơi! Xa nghìn dặm đường, mà gần thì chỉ trước mắt đó
thôi. Chính ông nầy là Cập Thời Vũ Tống Công Minh đó.
Đại hán ngạc nhiên nhìn Tống Giang mà nói rằng:
- Không lẽ là ông ta đây?
Tống Giang đáp:
- Chính tôi Tống Giang thực.
Đại hán kia nhìn lại một lượt, rồi cúi đầu xuống lạy mà nói rằng:
- Không ngờ hôm nay được gặp huynh trưởng ở đây...
Tống Giang thấy vậy liền hỏi:
- Vì cớ sao mà đại hán lại quá yêu tôi thế.
Đại hán đáp:
- Vừa rồi tôi thực vô lễ, xin ngài tha lỗi cho. Thực có mắt
mà không trông thấy Thái Sơn.
Nói đoạn quỳ ngay xuống đất, mà không đứng nữa.
Mới hay là:
Những cơn thất ý xưa nay,
Thường là cơ hội cho tay anh tài.
Ví không trừ bỏ chông gai,
Tấm thân sao thoát ra ngoài cơ mi,
Ở đây càng trải gian nguy càng hung!
Mở gương kim cổ mà trông,
Anh hào mấy kẻ cam lòng thân an.
Sống không biết mặt giang sơn,
Thì oan nghiệt ấy ai bàn làm chi?
Lời Bàn Của Thánh Thán:
Xưa kia Bá Nha có khúc đàn lưu thủy cao sơn, sau khi Tử Kỳ đã
chết, thì không dạo đàn nữa, khiến đời sau thuật chuyện, nghĩ đến đau lòng, ai
không vì đó mà than: Sao ta không được đồng thời, để gặp Bá Nha, kết bạn tri
ân! Hỡi ơi! Sao mà nói nghe dễ dàng thế nhỉ? Vì ta xét đến nghĩa thanh âm rất
là vi diệu, xét tới rất khó, xin đừng nói dễ mà biết thẩm âm, so đến văn chương
thấy dễ hơn nhiều, vì trong văn chương đời nay còn dễ xem hơn nữa một tầng, như
các Sử quan này, thử mở con mắt minh nguyệt, và giở trái tim châu ngọc, uốn ngọn
lưỡi sán hoa, mà giải truyện Thủy Hử của Thi Nại Am tiên sinh, thì lựa là phải
nghe đàn Bá Nha, mới phải là nghe tiếng đàn mà biết ý nhã? ? ?
Đây xen đến án mạng Tống Giang giết Bà Tích, tác giả phải
dùng đến nhiều bút mực, trăm nghìn khúc chiết, đưa lại cho Tống Giang một sự giết
người, do lòng văn của tác giả, muốn làm cho Tống Giang phải bỏ Vận Thành đi đến
Thương Châu, khi đó Trương Tam thì muốn tróc nã, mà Huyện Quan lại muốn dong
tha, nếu khi ấy không có Trương Tam làm thầy dùi cho sọm già, để Huyện Quan đổ
tội cho Đường Ngưu Nhị, há rằng đem những văn tự hồi trên, để nói về Đường Ngưu
Nhị tất cả hay sao?
Phải tả Trương Tam để thầy dùi sọm già, chủ bắt Tống Giang, để
làm cốt truyện, mà tả Huyện Quan với mọi người trong thành, để hết sức bênh vực
Tống Giang, mà sợ rằng phải đến tróc nã, để làm thêm văn, cho đủ câu chuyện. Nếu
Trương Tam không thầy dùi, thì sọm già không thưa kiện, mà sọm già không thưa
kiện, thì Huyện Quan chẳng bắt nữa, Huyện Quan không bắt nữa thì Tống Giang không
phải trốn, Tống Giang không phải trốn, thì không đưa ra chuyện Võ Tòng, câu
chuyện phải dính lýu nhau như thế, sao người đời xem đến chuyện này, còn cứ chê
trách Quan Huyện, bực tức Trương Tam, mà còn tự cho mình hiểu nổi Bá Nha, thì
than ôi! Còn biết Bá Nha là bậc người nào?
Tả hai người Chu Đồng, Lôi Hoành đều có tâm sự, đều có pháp
văn, lại đều chẳng như nhau, mà đều hết sức, từng câu đều thoáy ý, cùng với khi
tha Tiều Thiên Vương, chính là một dạng kỳ bút, lại là hai dạng kỳ bút, cho nên
cái tài của kẻ tài, ta không biết đến đâu mà hạn lượng nổi.
Hồi 22:
Quận Hoành Hải, Sài Tiến tiếp tân,
Núi Cảnh Dương, Võ Tòng đánh hổ
Bấy giờ Tống Giang thấy đại hán kia quỳ xuống đất, liền giơ
tay đỡ dậy mà hỏi rằng:
- Chẳng hay quý tánh cao danh túc hạ là gì, xin cho tôi được
biết?
Sài Tiến trỏ vào đại hán ấy mà bảo với Tống Giang rằng.
- Bác nầy người ở huyện Thanh Hà, họ Võ tên Tòng, ở vai thứ
hai, đến chơi đây đã một năm nay đó.
Tống Giang cả mừng mà rằng:
- Xưa nay vẫn thường nghe tiếng Võ Nhị Lang, mà ai ngờ lại vơ
vẩn gặp đây, cái cơ hội ấy rất là hiếm có, vậy xin đón lên nhà để nói chuyện một
thể.
Tống Giang lấy làm vui mừng liền dắt tay Võ Tòng cùng đi lên
trên nhà, rồi bảo anh em là Tống Thanh ra chào. Sài Tiến mời Võ Tòng vào ngồi dự
tiệc. Tống Giang có ý mời Võ Tòng cùng ngồi ngang hàng, song Võ Tòng nhất định
không nghe mà ngồi vào ghế thứ ba.
Sài Tiến sai người nhà dọn lại bàn tiệc rồi hết sức khuyên mời
ba người sơi rượu... Bấy giờ dưới bóng đèn sáng Tống Giang nom rõ mặt Võ Tòng
là một người hiên ngang khác chúng, thì trong lòng càng vui vẻ bội phần. Nhân lại
hỏi Võ Tòng rằng:
- Nhị Lang làm sao cũng quanh quẩn đến đây?
Võ Tòng đáp rằng:
- Nguyên tiểu đệ khi ở Thanh Hà có cãi nhau với một anh làm
việc quan, rồi nóng người tiết lên đánh anh ta một đấm nằm vật ra đấy, tiểu đệ
chắc rằng thế nào anh ta cũng chết mà liên lụy đến thân nên phải chạy sang Sài
Đại quan nhân đây để mà lánh mặt, tới nay đã hơn một năm rồi. Sau tiểu đệ hỏi
thăm thấy nói là anh ta không việc gì cả, liền muốn trở về qua làng rồi đi sang
tìm đến ca ca dè đâu lại bị sốt rét ngồi sưởi thì gặp ca ca dẫm phải cái xẻng lửa,
làm cho tiểu đệ giật mình toát cả mồ hôi, có lẽ lại khỏi cả bệnh sốt.
Tống Giang nghe nói cả mừng cùng ngồi uống rượu với nhau đến
canh ba mới tan. Đoạn rồi Tống Giang dắt Võ Tòng xuống tây hiên để cùng ngủ...
Sáng hôm sau Sài Tiến sai giết dê mổ lợn để khỏan đãi Tống
Giang mà lưu giữ ở đây. Cách mấy hôm sau Tống Giang lấy tiền nhờ người may quần
áo cho Võ Tòng mặc. Sài Tiến thấy vậy liền lấy ra một hòm vải đoạn sai thợ ở
trong nhà may áo, may xiêm cho tất cả ba người mà không dám để cho thiệt hại đến
tiền của Tống Giang.
Nguyên Võ Tòng từ khi mới đến ở đấy, Sài Tiến cũng khoản đãi
tử tế không có chút gì trễ nải. Duy tính khí Võ Tòng là người chướng trực mỗi
khi đánh chén say vào thì lại hay sinh sự với người nhà, người cửa, lỡ ra anh
nào có điều gì sơ xuất, thượng cẳng tay hạ cẳng chân liền, đánh đá luôn ngày mà
không nể anh nào cả. Bởi thế bọn người nhà là không ai bằng lòng với Võ Tòng cả,
mà thường khi lại đem chuyện lên để nói cho Sài Tiến biết. Sài Tiến thấy vậy
thì cũng không có lòng nào khinh bỉ đuổi đi, song từ đó cách tiếp đãi cũng dần
dần không được chu tất như là khi trước nữa.
Ngày nay may được có Tống Giang đến đây, hàng ngày lại bạn bè
tiếp đãi với Võ Tòng, làm cho Võ Tòng cũng hả vui trong dạ mà khỏi cả bệnh
xưa... Ở đó được mười lăm hôm, thì Võ Tòng có ý muốn trở về làng để thăm
anh cả, song Sài Tiến cùng Tống Giang cố giữ lại mà không cho đi.
Võ Tòng nói với hai người rằng:
- Tôi còn có anh cả ở nhà, mà lâu nay không thấy có tin tức
gì đến đây, vậy thế nào cũng xin về qua mới được.
Tống Giang nói:
- Nếu quả là Nhị Lang, có lòng muốn về, thì cũng không nên cưỡng
là lưu lại, xong có lúc nào rảnh rỗi thì lại xin mời đến đây để xem cơ hội ra
sao?...
Võ Tòng vâng lời mà cảm tạ Tống Giang, Sài Tiến lại lấy một
ít tiền bạc đưa tiễn Võ Tòng.
Võ Tòng tạ ơn mà rằng:
- Chúng tôi ở đây đã lâu thực là phiền nhiễu Đại quan nhân lắm
lắm.
Nói đoạn thu xếp khăn gói hành lý để sắp sửa ra đi.
Sài Tiến lại đặt tiệc tiễn hành, mấy người chè chén trò chuyện
với nhau đến khi quá vui rồi Võ Tòng mới xin bái biệt để đi.
Bấy giờ Võ Tòng mình mặc áo trừu đỏ mới, đầu đội nón chiên trắng,
lưng đeo khăn gói; tay xách gậy mà từ biệt mọi người để lên đường.
Trong khi sắp sửa ra đi, Tống Giang còn cầm lại rồi chạy về
phòng lấy mấy lạng bạc giắt vào lưng mà bảo với Võ Tòng rằng:
- Tôi xin đưa chân hiền đệ đi một quãng cho vui.
Nói đoạn Võ Tòng từ biệt Sài Tiến, ra đi, hai anh em Tống
Giang cũng xin phép để đi tiễn chân một thể.
Ba người ra khỏi Đông Trang được độ dăm bảy dặm đường, Võ
Tòng liền quay lại vái Tống Giang mà rằng:
- Tới đây đã xa rồi xin huynh trưởng trở về kẻo Sài Đại quan
nhân mong đợi.
Tống Giang đáp rằng:
- Để tôi đưa chân hiền đệ một quãng nữa có hại gì.
Nói đoạn ba người lại cùng đi cùng nói chuyện với nhau.
Vào khoảng hai ba dặm đường nữa, Võ Tòng lại cầm tay Tống
Giang mà rằng:
- Tôi xin đưa chân đến chỗ tửu điếm ở bên đường cái kia, để
ta cùng uống với nhau mấy chén rượu nữa rồi ta sẽ trở về.
Đoạn rồi ba người, cùng dấn bước đến chỗ tửu điếm bên đường...
Khi tới nơi, Tống Giang ngồi đầu bàn dưới, còn Tống Thanh thì ngồi một bên, rồi
tửu bảo dọn rượu lên ba người cùng uống.
Bấy giờ mặt trời đã xế non Tây, Võ Tòng liền nói với Tống
Giang rằng:
- Ca ca đã có lòng hạ cố mà không bỏ Nhị Lang này thì xin ca
ca nhận cho bốn lạy để bái nghĩa làm huynh.
Tống Giang rất lấy làm vui mừng liền nhận bốn lạy của Võ Tòng
rồi lấy ra một đĩnh mười lạng bạc đưa tiễn Võ Tòng.
Võ Tòng từ chối không lấy mà rằng:
- Cái đó xin để ca ca chi dụng.
Tống Giang nói:
- Hiền đệ bất tất phải từ chối, nếu hiền đệ không lấy thì ta
không dám nhận làm anh em...
Võ Tòng bất đắc dĩ phải nhận lấy mà bọc vào khăn gói tử tế, Tống
Giang lại lấy ít tiền lẻ ra để tính trả tiền rượu, đoạn rồi Võ Tòng cầm lấy gậy
mà cùng nhau đứng dậy đi ra ngoài tửu điếm... Khi ra tới cửa Võ Tòng lại gạt lệ
bái biệt mà đi. Còn hai người anh em Tống Giang thì đứng trước cửa hàng trông
theo mãi đến khi người xa xa khuất mới cùng nhau lui gót trở về.
Trông chừng trời đổ non tây
Anh hùng này lúc chia tay cũng sầu!
Rồi đây một bước xa nhau
Kinh trời động đất biết đâu có người
Bây giờ Tống Giang cùng Tống Thanh trở về đến nửa đường thì gặp
Sài Tiến cưỡi ngựa và sau lưng dắt hai con ngựa đi không để ra đón, Tống Giang
trông thấy cả mừng liền cùng nhau lên ngựa dóng cương cùng về trang viện. Đoạn
rồi Sài Tiến lưu hai anh em Tống Giang cùng ở đó mà cung phụng rất là tử tế...
Võ Tòng từ khi bái biệt Tống Giang đi được mấy thôi đường thì
trời đã tối, liền tìm vào một tửu điếm để nghỉ. Sáng hôm sau cơm nước xong rồi
lại một mình ra đi thực sớm. Chàng vừa đi vừa nghĩ thầm trong bụng rằng:"Xưa
nay chỉ nghe tiếng bọn giang hồ nói là Cập Thời Vũ Tống Công Minh mà không được
gặp. Ngày nay mới biết là quả nhiên danh bất hư truyền, kết giao được một người
như thế, để làm anh em, thực cũng khỏi phí một đời hảo hán".
Võ Tòng nghĩ như vậy, thì trong lòng cũng lấy làm vui vẻ, và
hâm mộ vô cùng. Cách vài hôm sau, một hôm vào khoảng quá trưa, chàng đi tới gần
địa hạt huyện Dương Cốc, nghe trong bụng cũng có đôi phần đói khát, muốn tìm
vào tửu điếm để ăn. Chợt trông thấy trước mặt có một ngôi hàng rượu, trước cửa
cắm lá cờ chiêu bài, viết mấy chữ rằng: "Ba chén không qua được núi".
Chàng ta thấy vậy liền xăm xăm đi vào hàng, kiếm ghế ngồi và
dựa gậy vào một chỗ, rồi gọi nhà hàng lấy rượu. Bấy giờ thấy chủ hàng mang ra
ba cái chén, một đôi đũa và một đĩa rau chín, đặt lên trên bàn, rồi bảo với chủ
hàng rằng:
- Cái rượu này tốt, uống vào dễ chịu lắm, chủ nhân có thức gì
nhắm đem lại đây.
Chủ hàng đáp:
- Hàng tôi chỉ có thịt bò chín thôi.
- Được, thái vài ba cân thịt, đem đây nhắm rượu.
Chủ hàng vâng lời ra thái hai cân thịt, để vào một cái đĩa lớn
đem lên rồi lại rót ra thêm một chén rượu nữa là ba. Khi uống xong chủ hàng cất
rượu đi mà không rót nữa. Võ Tòng liền vỗ bàn mà kêu lên rằng:
- Nhà hàng sao không rót rượu nữa ra đây?
Nhà hàng đáp:
- Ngài xơi thịt nữa thì tôi đem lên thôi.
- Ta uống rượu nữa và thái thịt lên đây một thể.
- Ngài cần thịt thì tôi xin thái thêm, chứ rượu thì tôi không
bán nữa.
- Quái lạ? Sao không bán rượu cho ta nữa?
- Ngài có trông thấy trên cửa tôi yết rằng:"Ba chén
không qua được núi" chăng?
- Rượu của tôi đây đâu phải là rượu của quê nhà, nhưng cũng
không kém gì các thứ rượu tăm, phàm ai đến hàng này uống vào ba chén, là say
ngay không thể nào qua được núi. Bởi vậy nên bao nhiêu người tới đây cũng chỉ uống
ba chén, mà không ai gọi lấy thêm bao giờ.
Võ Tòng cười mà rằng:
- Thế sao ta uống hết ba chén cũng không thấy say?
- Thứ rượu của tôi đó, gọi là rượu Thấu bình hương là thơm thấu
ra ngoài bình, lại gọi là rượu Xuất môn tảo, nghĩa là mới uống vào thì ngọt như
rượu nếp, rồi một lúc ngã say người ra.
- Thôi đừng nói khoác, không rót ba chén nữa đây, thì không
trả tiền nữa.
Chủ hàng thấy Võ Tòng quả nhiên chưa có gì là say, liền lấy
rượu rót thêm ba chén cho Võ Tòng nuống. Võ Tòng uống lại khen rằng:
- Rượu tốt thực! Chủ hàng ôi! Ta uống chén nào trả tiền chén ấy,
cứ rót đây cho ta.
- Chết rồi, ngài chớ uống liều thế, rượu nầy say chết người,
không ai mà chữa được đâu?
- Thôi anh đừng nói láo, sanh có bỏ thuốc mê vào đó, thì ta
đây cũng có mũi chứ...
Chủ hàng không biết làm thế nào được, lại phải rót ra ba chén
nữa, Võ Tòng lại gọi lấy thêm hai cân thịt nữa lên, rồi uống luôn mấy chén rượu,
ra dáng khoái hoạt vô cùng.
Khi uống hết mấy chén rồi, Võ Tòng bỏ ra ít tiền lẻ để bàn, rồi
gọi chủ hàng đến mà bảo rằng:
- Anh thử xem tiền tôi có đủ trả tiền rượu không.
Chú hàng đếm thấy nhiều tiền liền đáp rằng:
- Đây còn thừa của ngài, để trả lại ngài.
- Không cần trả lại, cứ rót rượu ra đây là được rồi.
- Ngài muốn uống nữa, đây cũng còn đến dăm sáu chén, nhưng chỉ
sợ ngài không uống được thôi.
- Có dăm sáu chén, thì cứ mang tất cả ra đây.
Chủ hàng nghe nói liền đáp rằng:
- Ông to lớn thế này, mà ngã lăn ra thì ai nâng dậy được?
Võ Tòng cười mà rằng:
- Ta lại cần đến anh nâng đỡ dậy, thì đã không phải là tay hảo
hán.
Chủ hàng nghe nói mặc lòng, nhất định không đem rượu ra bán nữa.
Võ Tòng nổi giận lên mắng rằng:
- Ta không thèm uống quịt của các ngươi, các ngươi đừng trêu
tức lão gia, mà lại tan cả nhà bây giờ!
Chủ hàng nghĩ thầm trong bụng:"Anh này đã chếng choáng rồi,
mặc thây hắn ta, chẳng dây vào làm gì nữa!". Nghĩ đoạn liền đem rượu ra
rót luôn năm sáu chén cho Võ Tòng uống. Võ Tòng uống xong, tính tất cả trước
sau có tới mười tám chén rượu liền vớ lấy gậy đứng phắt dậy mà nói rằng:
- Nào ta có say gì đâu?
Nói đoạn đi ra đến cửa lại cười ha hả lên rằng:
- Nào ta có say gì đâu? Thế mà chả nói rằng ba chén không qua
được núi!
Đoạn rồi vác gậy chạy xông đi. Bấy giờ chủ hàng chạy ra gọi
lên mà bảo rằng:
- Này ông khách đi đâu đấy?
Võ Tòng nghe nói đứng dừng lại mà rằng:
- Gọi ta làm cái gì? Ta có thiếu tiền của anh đâu mà gọi?
- Tôi gọi vì có lòng tử tế đó thôi, ông hãy vào nhà tôi mà
xem giấy của quan yết thị đã.
- Hiện nay ở trên núi Cảnh Dương có một con cọp rất lớn, cứ đến
chiều là ra đón ở đường, để hại người qua lại, xưa nay giết hại đã có tới hai
ba mươi tên hảo hán, mà chưa ai làm sao trị nổi. Bởi vậy quan trên đã nghiêm sức
cho bọn săn bắn đi lùng bắt, và yết giấy cho các hành khách, tất phải đợi nhau
kết thành một tụi trong khoảng giờ tị, giờ ngọ, giờ mùi (tức khoảng trưa) thì mới
được đi qua núi, còn buổi sớm chiều hôm và khách đi một mình, thì cấm không cho
đi qua đấy. Nhân thế rồi sợ ông đi có một mình, mà lại gần tối rồi, lỡ ra thiệt
đến tính mạng thì nguy, vậy bất nhược, ông hãy tạm nghỉ ở nhà hàng tôi, để đợi
sáng mai có đông người rồi sẽ đi mới được.
Võ Tòng nghe nói cười mà đáp rằng:
- Ta đây người ở huyện Thanh Hà, xưa nay đi qua núi Cảnh
Dương này, ít ra cũng có vài mươi lần, nào có thấy ai nói đến chuyện beo cọp gì
đâu? Anh đừng giở đến chuyện ấy mà lòe ta mới được. Mà cho hẳn có cọp nữa, thì
ta đây nào có sợ gì!
Nhà hàng nói:
- Đấy là lòng tốt của tôi, tôi muốn cứu ông, nếu không tin,
thì lại xem bảng yết ở đây thì biết.
Võ Tòng gạt phắt đi mà rằng:
- Thôi đừng nói nữa... Dù có có cọp thực nữa, lão gia đây
cũng không sợ.. Anh định giữ ta ở lại đêm nay cướp tiền hại ta, rồi lại đem cọp
ra lòe ta hay sao?
Chủ hàng lấy làm bực mình liền đáp lại rằng:
- Ông không biết lòng cho tôi, được, thôi tùy ý, không tin
thì cứ đi đi.
Nói xong lắc đầu, ra vẻ tức mình mà mà trở vào nhà.
Võ Tòng lại điềm nhiên vác gậy lên vai, bước khoát đạt lên
núi Cảnh Dương. Đi được bốn năm dặm đường, đến chỗ chân núi, thấy bên đường có
một cây lớn gọt trắng một quãng vỏ, có viết mấy hàng chữ lên trên. Võ Tòng đứng
dừng lại ngửa mặt lên xem, thì thấy chữ yết rằng:
"Trên núi Cảnh Dương có con cọp lớn hại người, vậy phàm
có khách thương qua lại, tất phải đợi đến giờ Tị, giờ Ngọ, Giờ Mùi, mà tụ họp
đông người, sẽ đi qua núi. Xin chớ có liều mà chết".
Võ Tòng xem xong cười mà nói rằng:
- Cái này là mưu mẹo của thằng hàng cơm, nhưng ta đây có sợ
gì, định lừa người ta phải trọ lại ở hàng nó đây... nhưng ta đây có sợ gì?...
Nói đoạn lại vung ngang cây gậy mà đi lên núi. Bấy giờ vào khoảng giờ Thân, mặt
trời đã sắp tà tà lặn, Võ Tòng thừa lúc hơi men cao hứng, cứ vùn vụt bước tràn
lên núi.
Đi độ nửa dặm đường, đến một tòa miếu cổ, chợt trông thấy trước
cửa miếu dán một tờ bảng yết, chàng liền đứng dừng lại ngẩng lên để xem. Trong
bảng yết rằng:
"Huyện Dương Cốc yết thị cho các hành khách bộ hành cùng
biết. Hiện nay trên núi Cảnh Dương có con cọp lớn giết hại nhiều người. Bản huyện
đã sắc cho các nhà đi săn lùng bắt chưa được. Vậy phàm khách thương đi đến đây,
tất phải đợi có đông người, mà chờ đúng giờ Thìn, giờ Tỵ, giờ Ngọ, giờ Mùi thì
mới qua núi được. Còn các giờ khác và khách đi một mình, đều cấm không cho đi
qua núi, e khi thiệt hại tính mạng không chơi".
Nay yết thị. Ngày... tháng... năm niên hiệu Chính Hòa.
Võ Tòng nom đến đấy, đã có ấn tín quan tư cẩn thận, bấy giờ mới
tin trên núi có hổ, liền toan quay lại xuống núi để nghỉ. Đoạn rồi lại nghĩ thầm
trong bụng rằng:
"Nếu bây giờ ta về đấy, tất nhiên bị chủ điếm chê cười,
như thế là không phải tay hảo hớn... làm thế nào cho tiện? ".
Chàng nghĩ vơ vẩn một lát, rồi lại nói một mình rằng: Sợ cái
gì? Ta thử đi xem đã làm sao?... Nói xong lại vác gậy mà sồng sộc đi lên.
Rượu này sức ấy tài kia,
Trời còn coi bé huống chi vật thường?
Ví không thiết thạch can trường
Gánh sao cho nổi tang thương với đời?
Khi Võ Tòng đi được mấy bước, nghe chừng hơi rượu đã bốc lên
hừng hực, liền lật cái nón khoác về sau lưng, rồi cắp gậy vào một bên sườn, mà
hăm hở bước đi. Hồi đó đương dạo tháng 10, đêm dài ngày ngắn, nên đi chữa được
mấy chút đường thì thấy mặt trời đã lặn, chàng liền nói lẩm bẩm một mình rằng:
- Ở đây làm gì có hổ, chẳng qua họ chỉ sợ không dám đi lên đó
thôi.
Nói đoạn lại dấn bước đi lên, bấy giờ hơi rượu càng ngày càng
ngấm, lại càng nóng bức khó chịu, chàng liền một tay cầm gậy, một tay cởi phanh
áo ngực mà đi thốc vào lối rừng cây. Chợt trông thấy viên đá xanh lớn để ở một
bên đường, Võ Tòng liền dừng lại, dựng thanh gậy vào mạn rồi nằm lăn lên viên
đá toan ngủ.
Đương khi nghiêng ngả thích tình, thì bỗng có một trận cuồng
phong đưa đến, rồi nghe thấy ở đằng sau bụi cây có tiếng gầm lên dậy đất, đoạn
rồi một con cọp rất lớn ở đâu xuất hiện ra.
Võ Tòng trông thấy, kêu lên một tiếng"Ái chà", rồi
nhẩy bổ dậy vớ thanh gậy nấp vào bên cạnh viên đá. Con cọp kia đương khi đói,
miệng khát, trông thấy có mồi ăn, liền gầm lên một tiếng, cong vót đuôi lên,
giơ hai vuốt chân trước cào xuống đất mấy cái, rồi nhún mình nhằm nơi Võ Tòng nấp
mà nhẩy vọt xuống đánh sầm một cái, khác nào như đất lở trời long vậy.
Võ Tòng thấy vậy giật mình đổ toát mồ hôi, thành ra hơi rượu
đương nồng, mà bỗng dưng mát lạnh, rồi vất mình đến vút một cái, mà tránh hẳn về
sau lưng cọp.
Hổ ta trông về phía sau không được, liền đập hai hàng vuốt
trước xuống đất, rồi ném mình mà quay ngoắt để vồ. Võ Tòng lại lùi sang một bước
mà tránh hẳn về một bên. Hổ ta thấy vồ không trúng, thì gầm thét lên một tiếng
như sấm đánh lưng trời, cơ hồ đất núi Cảnh Dương cũng phải ầm ầm chuyển động, rồi
dựng thẳng đuôi lên cứng như gậy sắt và vật sang để đánh. Võ Tòng lại lánh về một
bên, thành ra anh hổ lại đánh cái trẫng.
Nguyên giống hổ bắt người, thường dùng ba cách: Một là tát,
hai là vồ, ba là đánh; Nay thấy dùng hết ba cách ấy, mà không ăn thua gì, trong
lòng dạ đã chột đi một nửa phần, liền gầm lên một tiếng nữa, mà quay chồm trở lại.
Võ Tòng thấy hổ ta quay chồm lại, liền hai tay múa cây gậy,
ráng hết sức bình sinh, giơ thực thẳng cánh, vụt một cái nghe rắc một tiếng, rồi
có một cây to đổ ngay trước mặt.
Chàng định tình lại để nom thì té ra ngọn gậy đánh gấp quá,
không trúng vào con cọp, mà lại trúng ngay vào cây khô ở bên, làm cho cây cũng
gãy xuống mà gậy thì mất phăng đi một nửa, chỉ còn một nửa ở tay.
Bấy giờ con cọp nóng tiết, lại gầm thét ầm ĩ mà quay lại vồ
luôn cái nữa.
Võ Tòng vội giật lùi lại vào khoảng hai mươi thước, vừa hay
khi ấy hai chân trước của cọp ta vồ soài xuống chỗ đất ở trước mặt Võ Tòng,
chàng liền vứt văng gậy ra một bên, rồi vung hai tay ra nắm lấy bờm con hổ mà ấn
xuống đất.
Hổ ta hết sức cựa dậy, song bị Võ Tòng cũng hết đè xuống, mà
giơ gót cẳng nhè giữa mặt con hổ mà rọi lấy rọi để một hồi. Hổ tức mình kêu gầm
rít lên, rồi hai chân sau cào đập cào xuống mặt đất, làm cho đống đất đằng sau
lõm xuống hẳn như vũng sâu vậy. Mãi sau hổ ta mệt nhoài mệt lử không còn hơi sức
nào cự lại được, Võ Tòng liền tay trái giữ chặt lấy bờm ấn xuống đất, rồi rút
tay phải ra mà giơ những nắm đấm tay như sắt, hết sức bình sinh, đánh luôn cho
năm bảy mươi quả đấm nữa.
Hổ ta bị đấm một lúc, vọt máu tươi ra khắp cả mồm mũi và hai
mắt, rồi chỉ thở lên hồng hộc, mà lử đi không cựa được.
Bấy giờ Võ Tòng buông tay ra, rồi chạy đến bên gốc cây tìm lấy
đoạn cây gãy, mà đem đến đánh luôn mấy chục cái nữa, cho hổ chết hẳn mới thôi.
Đoạn rồi chàng sấn vào vũng máu, định xách con hổ đem xuống
dưới núi, song vì lúc trước dùng sức quá mạnh, thành thử bấy giờ chân tay đều rời
rả cả ra, mà không sao nhắc nổi lên được.
Võ Tòng thấy vậy, liền bỏ con hổ ở đấy, rồi lại lên trên viên
đá ngồi nghỉ. Một lúc chàng nghĩ thầm rằng:"Bây giờ trời đương tối tăm thế
này, nếu ta ngồi đây mà lỡ có con hổ nào nữa bò ra, thì cự địch làm sao được? Bất
nhược ta hãy xuống núi tìm chỗ ngủ, rồi sáng mai sẽ liệu".
Nghĩ đoạn liền lấy nón, lại khoác lên vai rồi quanh quất theo
lối rừng cây mà đi lần xuống núi... Vừa đi được nửa dặm đường thì quả nhiên lại
thấy hai con cọp nữa đương ở trong đám bụi cỏ hiện ra, chàng bèn kêu một tiếng"Trời
ơi" mà rằng:
- Phen này thì ta nguy mất!.
Nói đoạn thì thấy hai con cọp ấy bỗng dưng đứng dựng ngay lên
mà đi. Võ Tòng địng tình lại để xem thì té ra là hai người đầu đội lốt hổ, mà mỗi
người tay cầm một cái đinh năm đi đến.
Hai người ấy trông thấy Võ Tòng thì lấy làm kinh ngạc mà hỏi
rằng:
- Anh... anh nầy có dễ... ruột beo, gan sư tử, mật lớn bọc cả
lấy thân hay sao mà đêm hôm không có khí giới gì ở trong tay lại dám đi qua đây
như vậy? Anh... anh là người hay ma?
Võ Tòng lại hỏi rằng:
- Hai các anh là người thế nào?
Hai người kia đáp rằng:
- Chúng tôi là đám đi săn ở bản xứ đây.
- Các anh định lên núi làm gì?
Hai anh kia lại chếnh choáng người lên mà rằng:
- Chết nỗi anh không biết à? Ở đây có một con cọp rất to, đêm
đến vẫn ra ăn thịt người, đám đi săn chúng tôi hiện đã thiệt mất bảy tám mạng,
còn đám thương khách qua lại cũng chết hại không biết đến đâu mà kể. Bây giờ
quan huyện sức giấy cho lý trưởng làng tôi phải loan cho bọn đi săn để lùng bắt,
nhưng giống gớm ghê ấy nào đã ai dám đến gần được nó ở đâu? Bởi thế mà chúng
tôi bị đòn vọt mấy lần cũng chưa sao bắt được. Hôm nay anh em kéo đến mười mấy
tên dân phu trong làng, anh nào anh nấy đều phải mang gậy cung tên thuốc mà nấp
ở các nơi để rình. Vừa rồi trông thấy anh ở trên núi đi xuống chúng tôi lấy làm
kinh sợ tưởng hắn đã ra, ai ngờ lại là người, mà sao dám đi bây giờ? Thế anh có
trông thấy con cọp ấy không?
Võ Tòng cười mà đáp rằng:
- Ta đây là Võ Nhị Lang người ở huyện Thanh Hà, vừa rồi đi
qua đám rừng cây ở trên, bỗng có con cọp ra đó bị ta đánh cho mấy cẳng tay chết
rồi.
Hai anh đi săn nghe nói ngây hẳn người ra một lúc rồi mới nói
rằng:
- Không có lẽ thế?
- Các anh không tin, thử nom xem trên mình ta có máu me be
bét ra đây không?
- Làm thế nào mà đánh được nó?
Võ Tòng liền đem chuyện lúc đánh nhau với hổ thuật cho hai
người nghe.
Hai người nghe xong thì hoảng hốt mơ hồ vừa mừng vừa sợ, rồi
gọi đám phu cùng đến đó mà nói chuyện cho chúng nghe.
Võ Tòng bảo với tụi đi săn rằng:
- Các anh thử theo ta lên núi nầy mà xem.
Chúng nghe nói vẫn còn nửa tin nửa ngờ chưa dám quả quyết đi
lên. Sau các người đều có dao gang đá lửa liền bàn nhau thắp đèn đến dăm bảy bó
đuốc mà liều theo Võ Tòng đi lên núi.
Khi tới giữa núi, quả nhiên có con hổ nằm chết lăn queo ở đó
chúng thấy mừng rũ người ra, rồi bảo nhau về báo cho Lý Trưởng biết. Còn mấy
tên dân phu thì lấy thừng chão ra trói chặt con hổ lại mà khiêng xuống núi. Vừa
đến chân núi thì đã thấy một tụi bảy tám người ầm ầm kéo đến, rồi khiêng một cỗ
kiệu để đón Võ Tòng về nhà huynh dịch ở làng để ngủ. Khi tới nơi, Lý Trưởng
trong làng đã đến đấy đón tiếp Võ Tòng vào, rồi chúng khiêng con hổ về ở thảo sảnh.
Bấy giờ các đàn anh trong làng, cùng hai ba mươi tên tay săn đều kéo đến chào
Võ Tòng mà hỏi thăm tên họ và việc say rượu đánh hổ, kể suốt đầu đuôi cho chùng
nghe một lượt.
Chúng liền cả mừng mà rằng:
- Ngài thực là anh hùng hảo hán, hiếm có xưa nay.
- Nói đoạn các tay săn liền đem mấy món dã vị, để tạm mời Võ
Tòng uống rượu. Nhân khi đánh hổ xong, nghe trong mình mệt nhọc liền nói với mọi
người để tìm nơi yên nghỉ. Các đàn anh thấy vậy, sai trang khách dọn một phòng,
để mời Võ Tòng vào nghỉ.
Đến sáng hôm sau cho mấy người lên huyện báo trước, rồi nhất
diện xếp đặt chõng thừng dự bị để đem hổ lên trình huyện. Khi Võ Tòng trở dậy rửa
mặt mũi xong, thì đám huynh dịch trong làng đã giết xong một con dê và đem một
gánh rượu đến để tiếp đãi. Võ Tòng mặc khăn áo chỉnh tề, rồi ra tiếp kiến mọi
người.
Bấy giờ các đàn anh đều cất chén mời Võ Tòng mà nói rằng:
- Dân chúng tôi đây bị con cọp già ấy quấy nhiễu làm hại bao
nhiêu người mà các tay săn cũng bị mấy phen đánh phạt. Nay nhờ có ngài ra tay
trừ được nó đi, một là hạnh phúc cho nhân dân chúng tôi, mà hai là bọn hành
khách được bình an vô sự, thật là ơn nặng nghĩa dầy, không biết đâu mà kể, vậy
chúng tôi xin nâng chén rượu này để mừng ngài vạn phúc!
Võ Tòng từ tạ mà nói lại rằng:
- Đó là nhờ phúc ấm của các ngài đây, chứ như tôi có gì mà
tài giỏi?
Nói xong mọi người đều đến chào mừng và mời Võ Tòng uống bữa
rượu hôm ấy rất là vui vẻ.
Khi uống rượu xong, chúng liền khênh hổ ra đặt vào chõng và
đem tấm đoạn hoa hồng ra khoác lên cho Võ Tòng, còn hành lý của Võ Tòng thì gửi
ở đó, mà nhất diện cùng nhau lên huyện. Ra tới cổng trang đã thấy quan Huyện
Dương Cốc sai người đến đón Võ Tòng cùng lên kiệu cùng chúng cùng đi. Chúng
khênh chõng hổ đi trước mà cũng phủ tấm đoạn hoa hồng lên trên.
Bấy giờ nhân dân huyện Dương Cốc nghe đồn đánh chết hổ trên
núi Cảnh Dương, thì đâu đấy đi đón xem chật ních cả đường, Võ Tòng ngồi trong
kiệu nom ra đã thấy chen vài thích cánh hết vòng trong đến lớp ngoài rộn rịp, ầm
ầm, những người túm vào xem hổ, không biết cơ man nào mà kể!
Khi tới huyện đường, quan Huyện Dương Cốc trông thấy Võ Tòng,
quả nhiên là một tay anh hùng dũng, lại trông thấy con cọp lông gấm to lớn như
thế, thì trong bụng nghĩ thầm:"Nếu không phải một tay đại hán như thế kia,
thì làm sao đánh được con hổ ấy!".
Nói đoạn liền cho mời Võ Tòng lên công đường, rồi hỏi thăm đầu
đuôi chuyện đánh hổ ra sao? Võ Tòng lại đem chuyện thuật lại một lượt cho mọi
người nghe, các người đứng quanh đấy, nghe rõ đầu đuôi, thì ai nấy cũng đều
choáng người kinh lạ, mà nhìn chòng chọc vào cả Võ Tòng.
Quan Huyện lại sai rót rượu mừng Võ Tòng trước nơi công
chúng, đoạn rồi sai lấy món tiền một nghìn quan của các huynh dịch gom lại để
đem thưởng cho Võ Tòng. Võ Tòng không nhận tiền thưởng từ tạ với mọi người rằng:
- Đó chả qua là phúc ấm của dân dự miền nầy nên trong khi bất
ý ngẫu nhiên mà trừ ngay đi được, chứ chúng tôi đây công lao gì mấy, mà dám nhận
tiền thưởng của các ngài. Tôi nghe nói những tay săn ở đây chỉ vì con cọp già ấy,
mà phải bị trách phạt bao nhiêu phen, vậy thiết thưởng nên đem một nghìn quan
tiền đó, mà chia cho các người ấy thì phải hơn.
Quan Huyện cùng mọi người ấy đều đáp rằng:
- Cái đó xin tùy ý tráng sĩ.
Võ Tòng cả mừng, liền đứng trước mặt công chúng mà lấy món tiền
một nghìn quan ấy ra, chia thưởng cho các tay đi săn hết cả.
Mới hay:
Giữa đường gai góc ra tay,
Anh hùng phận sự xưa nay thường tình.
Vì đâu dẹp nỗi bất bình,
Há rằng trục lợi tham danh như người.
Quan Huyện Dương Cốc thấy Võ Tòng vừa phần lực lưỡng khác người,
mà lại có lòng trung hậu hào hiệp như thế, thì lấy làm hâm mộ, mà có ý muốn đài
cử lên, liền hỏi rằng:
- Hảo Hán vốn là người huyện Thanh Hà, cùng với huyện Dương Cốc
không xa mấy, vậy bản chức muốn lưu hảo hán ở lại đây, làm một chức Đô Đầu
trong bản huyện, hảo hán nghĩ sao?
Võ Tòng có ý ngần ngừ một lát, rồi đáp rằng:
- Tướng công đã có lòng hạ cố chúng tôi cũng xin vâng.
Quan Huyện nghe nói cả mừng, bèn sai gọi Áp Ty đến lập tức thảo
giấy cấp cho Võ Tòng làm chức Đô Đầu ở đó. Đám huynh dịch thấy vậy, đều đến cất
chén mừng Võ Tòng, có tới ba bốn ngày mới dứt.
Võ Tòng ở huyện Dương Cốc nhận chức Đô Đầu, được quan trên có
lòng yêu nể, dân dưới cũng nghe tiếng mà phục tòng, không còn điều chi e ngại.
Duy có một điều là chàng định về thăm anh, mà chưa đi được, thì thỉnh thoảng
cũng không khỏi áy náy trong lòng đôi chút.
Một hôm chàng đi chơi mát ở ngoài phố huyện, chợt đằng sau có
tiếng gọi lên rằng:
- Võ Đô Đầu ơi! Nay Đô Đầu đã phát đạt rồi, không còn biết
nhìn đến anh em nữa nhỉ?
Võ Tòng nghe nói, thì giật mình quay nhìn rồi kêu lên một tiếng:
- Ối trời ơi! Kìa!...
Cho hay là:
Đã sinh ra kiếp đa tài,
Đem thân đảm lấy việc đời mới cam.
Những khi thú độc sơn lâm,
Ở đời hổ dữ lang tham còn nhiều...
Bể Đông đã quyết tay chèo,
Dẫu cho máu nổi ngọn triều cũng chơi!
Ví không tâm huyết hơn người,
Thi tài kia với vô tài khác đâu.
Lời Bàn Của Thánh Thán:
Trong thiên hạ người ta nói chuyện ma qủy thì dễ, mà nói ra
hùm beo thì khó, tại sao? Vì ma qủy âm thầm, mà hùm beo, dữ dội, nói ma qủy thì
đâu đích xác, chỉ theo ý nghĩ nói ra, còn nói hùm beo thì phải có thực, nói ra
nó phải thế nào, cho nên bộ truyện Thủy Hử không tả chuyện quỷ quái, mà tả hổ
cũng nhiều, đến hai ba lần, với ý tả ra việc dễ không cần, chỉ tả việc khó, mà
thấy vui như nom trước mắt.
Tả hổ như là hổ sống, đã tả hổ ra như sống, phải tả đến người
vồ bắt hổ, tả người vồ bắt hổ, lại hai ba lần vồ mới trúng, cho rõ ra sức hổ thế
nào, mới đọc thấy như là con hổ sống, đấy là bút lực hơn đời.
Ta thường nói, tài tử với bất tài cách xa nhau, nào phải chỉ
mươi mười lăm dặm, như tả hổ này phải làm cho sống lại, tả hổ sống lại cần tả
lúc vồ người, nay đem họp hàng nghìn người lại, vận ra ngàn lòng, duỗi ra ngàn
tay, cầm lấy ngàn bút, chép ra không rõ con hổ, thì không thấy được rõ là tả hổ,
chỉ có Thi Nại Am, chỉ một người, một lòng, một tay, một bút, đối với giấy tờ,
không phí bút nhiều, như vẽ ra một hổ một người, thấy như sống động, lại tả phụ
thêm nào gió bay cát bụi, cây đá núi rừng... người như người thần, hổ như hổ dữ,
gió bụi đá cây, chính nơi rừng hổ, khiến cho người đọc, choáng mắt rối lòng,
như thế mấy ai tả nổi?
Đọc một thiên tả hổ, mà khen người ấy người thần, hổ kia hổ dữ,
phải đâu tả dễ dàng ra, mà lại còn khéo nữa, sau khi xem xong bảng văn cửa miếu
mới tin rằng có, muốn quay trở lại, đã thấy sợ oai hùm, tới lúc gió reo hùm lại,
càng ghê khiếp nữa, lại phải nấp vào sau tảng đá, tới khi hổ to lớn lại gầm
lên, khiến người phải kinh, mà mồ hôi toát ra tỉnh cả hơi rượu, nghĩ phải đánh
hổ cho bằng được, dùng hết khí lực, chân tay rời rã, sau lại ngồi nghỉ trên tảng
đá xanh, sắc trời đã tối nhá nhem, còn sợ lại gặp hổ nữa, phải lần xuống núi,
xuống núi chẳng bao xa, thấy trong đám bụi cây nhảy ra đôi hổ, lại kinh khiếp
chùn tay, vì đả hổ mệt rồi, sợ không còn sức nữa... tả ra những đoạn văn như đứng
trong nguy hiểm đó, cùng với hồi sau này giết hổ ở Nghi Lĩnh, không một nét bút
giống nhau, mới thấy tài tình.
Hồi 23:
Gặp anh em thỏa lòng hòa thuận;
Lừa Trai gái ghét giống gian dâm.
Khi đó Võ Tòng nghe có người gọi, bèn quay lại nom, thì chính
người ấy là Võ Đại Lang. Anh ruột của mình, liền thụp ngay xuống đất lạy mà rằng:
- Ca ca cũng ở đây hay sao? Hơn một năm nay tiểu đệ không được
gặp ca ca, trong bụng lấy làm áy náy vô cùng.
Võ Đại Lang đáp lại rằng:
- Nhị đệ đi trong bấy nhiều lần, làm sao mà không gửi thơ về
cho ta, khiến cho ta vừa oán giận, mà lại nhớ mong hoài.
- Sao ca ca lại nói vừa oán giận vừa nhớ mong hoài?
- Ta oán giận là khi chú còn ở huyện Thanh hà chỉ uống rượu
say, rồi lại đánh nhau với người khác để cho ta bị quan tư đòi hỏi quấy rầy, đến
mấy tháng trời mới gỡ được xong... Ta mong là mong vì ta mới lấy được người vợ ở
Thanh Hà, rồi bao quân khốn nạn nó cứ làm rắc rối cả ngày; nếu có chú ở nhà,
thì còn đứa nào dám đến mà xấc láo. Bây giờ ta ở đây cũng được yên thân, lại phải
dọn đến phố đây thuê nhà mà ở bởi thế càng mong nhớ lắm.
Nguyên Võ Tòng cùng Võ Đại Lang, là hai anh em ruột, cùng cha
mẹ sinh ra, song Võ Tòng thì mình cao tám thước, tướng mạo đường đường, sức lực
kể có trăm ngàn cân nặng, bởi thế mới đánh được hổ trên núi Cảnh Dương, mà lẫy
lừng danh tiếng. Còn Võ Đại thì người ngắn không đầy năm thước, hình dung xấu
xí, đầu tóc mặt mũi trông rất buồn cười, người huyện Thanh Hà thấy anh ta tủn
hoẳn như thế, nên thường gọi anh ta là Tam Thốn Đinh Xác Thụ Bì.
Trong hạt huyện Thanh Hà có một nhà phú hộ, nuôi một đứa hầu
con tên là Kim Liên, hơn hai mươi tuổi, nhan sắc cũng có vẻ ưa nhìn. Phú hộ có
ý muốn gạ gẫm, song Kim Liên nhất định không nghe, toan đi mách với bà chủ là vợ
phú hộ. Nhân thế lão phú hộ tức giận, bèn đem con Kim Liên gả cho Võ Đại Lang
mà không lấy một đồng một chữ nào cả. Từ khi Võ Đại Lang lấy được Kim Liên về,
thì bọn nhàn đãng chơi bời ở quanh đấy, cứ hàng ngày đến nhà để chế diễu, làm
cho Võ Đại Lang tức bực muôn phần.
Còn Kim Liên thấy hình dạng Võ Đại tủn hoẳn, tùn hoằn, nhân vật
không ra nhân vật, mà không có chút gì ra vẻ phong lưu, thì cũng đem lòng khinh
dễ, mà ngày ngày phóng túng tự do.
Thỉnh thoảng mấy đứa tụi du đãng lại vơ vẩn đến cửa mà nói rằng:"Miếng
thịt dê rơi vào miệng chó", làm cho Võ Đại Lang càng tức bực, nên trong
lòng phải thu xếp cửa nhà mà dọn đi nơi khác.
Khi tới huyện Dương Cốc, thuê một gian nhà, hai vợ chồng cùng
ở, rồi mỗi ngày Võ Đại Lang làm bánh chưng ra phố bán để kiếm ăn. Hôm ấy nhân
gánh hàng đi bán, chợt gặp Võ Tòng, thì hai nhưng em chuyện trò với nhau rất là
vui vẻ. Bấy giờ Võ Đại bảo với Võ Tòng rằng:
- Này em này, hôm nọ ta thấy phố sá đồn ầm lên rằng có người
họ Võ đánh chết con hổ trên núi Cảnh Dương, rồi quan huyện cho làm chức Đô Đầu ở
đây. Ta vẫn đoán chắc là em, nhưng chưa làm sao mà biết đích xác, nay được gặp ở
đây, thực là may lắm. Thôi, ta hãy nghỉ sự buôn bán, để cùng về nhà chơi đã.
- Ca ca thuê nhà ở đâu?
Võ Đại Lang trỏ ra trước mặt mà bảo rằng:
- Nhà ở ngõ Tử Thạch kia.
Võ Tòng bèn gánh đỡ hàng cho anh, rồi theo Võ Tòng về ngõ Tử
Thạch. Khi tới cửa, Võ Đại gõ cửa gọi người ra mở. Đoạn rồi thấy một người đàn
bà trẻ trung là vợ Võ Đại ở trong nhà, chạy ra mà hỏi rằng:
- Sao mình về sớm thế?
Võ Đại trỏ vào Võ Tòng mà bảo rằng:
- Chị mầy không biết, chú nó đã về đây, đi ra mà chào đi.
Nói đoạn nhắc lấy gánh hàng cất vào trong nhà, rồi chạy ra bảo
em rằng:
- Nhị đệ vào trong nhà này chào chị đi.
Võ Tòng vâng lời, vén màn vào chào chị dâu.
Võ Đại có dáng vui mừng bảo với vợ rằng.
- Đại tẩu ơi! Người họ Võ đánh hổ trên núi Cảnh Dương, mới rồi
nhận chức Đô Đầu, tức là em ta đây.
Người đàn bà nghe nói, liền chấp tay vái chào lại Võ Tòng.
Võ Tòng vội mời chị dâu ngồi trên, rồi cúi xuống lạy.
Người đàn bà chạy đến nâng Võ Tòng dậy mà nói rằng:
- Thúc thúc chớ làm như vậy không tiện.
- Xin tẩu tẩu cứ ngồi lên nhận lễ.
- Lẽ đâu dám thế? Mọi hôm tôi nghe thấy mụ Vương Bà bên cạnh
vách đây nói chuyện có người đánh chết hổ, đã toan rủ nhau đi xem, nhưng mà bận
việc nên không đi được, ai ngờ lại chính là thúc thúc đây. Xin mời thúc thúc
lên gác ngồi chơi nói chuyện.
Nói đoạn ba người cùng lên gác ngồi, rồi vợ Võ Đại bảo với chồng
rằng:
- Để tôi ngồi tiếp thúc thúc đây đại ca đi kiếm thức gì, về mời
thúc thúc xơi rượu.
Võ Đại nói:
- Phải lắm, nhị đệ hãy ngồi chơi đấy, rồi tôi lên ngay bây giờ.
Nói xong liền ba chân bốn cẳng chạy đi xuống gác.
Bấy giờ người đàn bà thấy tướng mạo Võ Tòng như vậy, thì nghĩ
thầm trong bụng rằng: "Hai anh em nhà nầy, cùng cùng một cha mẹ sinh ra,
sao mà Võ Tòng lại lực lưỡng thế kia, ví phỏng ta lấy được người chồng như thế,
thì cũng đáng một đời... như ông chồng mình thì khổ quá, người chẳng ra
người, ma chẳng ra ma, không còn thể nào mà chịu được! Ừ! Như vậy anh Võ Tòng
kia, hổ anh ta còn đánh được, trách nào mà khí độ chẳng hơn người? Nghe nói anh
ta chưa vợ, hay tiện đây ta bảo đến cùng ở chung một nhà, thì cái đoạn nhân
duyên sau nầy há chẳng thú lắm sao? "
Nghĩ đoạn tủm tỉm cười mà hỏi Võ Tòng rằng:
- Thúc thúc ở đây được bao lâu?
Võ Tòng đáp:
- Mới đến đây được mười lăm hôm nay.
- Thúc thúc ở đâu?
- Tôi hiện ở tạm trong huyện.
- Nếu thế thì không tiện lắm nhỉ?
- Tôi có một mình cũng dễ xử, vả chăng sớm khuya đã có đám thổ
binh hầu hạ.
- Bọn ấy nó hầu hạ làm sao được chu tất? Chi cho bằng thúc
thúc dọn về ở cả đây, để tôi trông nom cơm nước một thể, thỉnh thoảng thúc thúc
có muốn ăn uống gì, cũng đỡ phải phiền lòng nghĩ đến, như thế chẳng tiện hơn
sao?
- Vâng xin cám ơn tẩu tẩu.
- Chẳng hay là có thiếm ấy ở đâu? Thì đem về cũng tiện.
Võ nhị nói:
- Tôi chưa có vợ con chi cả.
- Năm nay thúc thúc bao nhiêu tuổi.
- Võ nhị tôi hai mươi lăm tuổi.
Người đàn bà mỉm cười mà rằng:
- Vậy thì thúc thúc hơn tôi ba tuổi, dạo trước thúc thúc ở
đâu đến đây?
- Tôi ở Thương Châu hơn một năm, vẫn tưởng ca ca còn
ở huyện Thanh Hà, ai ngờ cũng dọn đến đây rồi.
- Thúc thúc không biết, nói ra dài lắm, từ khi tôi lấy ca ca
rồi, bị người ta nói khinh rẻ khó chịu, bất đắc dĩ mới phải dọn đến đây ở, giá
được hùng tráng như thúc thúc, thì đứa nào dám ho he đến nữa.
- Vì ca ca tôi xưa nay vốn tính không liều lĩnh như tôi.
Chị chàng ta lại cười mà rằng:
- "Người không xương cứng, sao vững được thần" Tính
tôi xưa nay thích nhanh nhẹn, chứ những người lì lì gọi ba lần chẳng thưa, bốn
lần chẳng chuyển như thế, thì chịu làm sao được?
Võ Tòng nói:
- Tuy thế gia huynh tôi không sinh sự, không phiền đến tẩu tẩu
phải lo.
Đương khi nói chuyện, thì Võ Đại đã mua rượu thịt và cùng các
thứ hoa quả đem về bếp, rồi chạy lên gọi vợ mà bảo rằng:
- Mình xuống dọn rượu mang lên đây.
Chị chàng nghe nói liền bảo Võ Tòng rằng:
- Chú tính người thế, thì còn biết gì nữa, chú đương ngồi ở
đây mà gọi tôi đứng dậy thì sao cho tiện?
Võ Tòng nói:
- Xin tẩu tẩu cứ tự tiện cho.
Người đàn bà lại lên tiếng bảo Võ Đại rằng:
- Sao không nhờ Vương Bà ở bên kia sang dọn giúp cho? Có thế
cũng không biết làm sao được.
Võ Đại liền gọi Vương Bà ở nhà liền vách sang dọn tử tế, rồi
bày lên bàn trên gác. Đoạn rồi bảo vợ ngồi vào bàn chủ vị ở giữa, để Võ
Tòng ngồi đối diện, còn mình ngồi ra một bên. Bây giờ Võ Đại nâng bầu rượu rót
ra ba chén, rồi người vợ nâng chén rượu lên mà nói với Võ Tòng rằng:
- Thúc thúc chớ cười, ở đây không có gì thết đãi, xin thúc
thúc xơi chén rượu suông.
Võ Tòng nói:
- Cám ơn tẩu tẩu, sao tẩu tẩu dạy quá lời thế?
Bên kia Võ Đại thì lúi húi vừa hâm rượu vừa rót rượu, mặc cho
hai người thù tạc với nhau, mà không nói câu gì cả.
Người đàn bà cười nụ mà nói rằng:
- Cá thịt đây sao thúc thúc không chịu ăn một miếng nào cả, để
tôi xin gắp cho thúc thúc xơi.
Võ Tòng thấy vậy, cho là tình ruột thịt chị em trong nhà, nên
cứ điềm nhiên ăn uống không lý hội gì đến tình kia ý khác.
Còn Võ Đại vốn tính vụng về, xưa nay có biết tiếp đãi đến ai,
vì thế nên khi chị chàng kia phóng ý tự nhiên, uống dăm ba chén rượu, rồi
giương hai con mắt nhìn chòng chọc vào Võ Tòng mà không chớp, Võ Tòng thấy vậy
thì có ý ngượng, cúi đầu xuống mà không dám trông lên.
Uống rượu được một lúc, rồi Võ Tòng xin phép trở về huyện, vợ
chồng Võ Đại cố lưu lại không được, liền cùng nhau đưa Võ Tòng xuống dưới gác.
Khi xuống đến dưới nhà, chị chàng ta lại nói với Võ Tòng rằng:
- Thúc thúc tất phải dọn đến đây mà ở, nếu không thì hai vợ
tôi mang tiếng người ta chê cười, là anh em không bằng người ngoài. Mình nên
thu xếp một gian phòng. Để mời thúc thúc về đây cho vui, chứ ở phố xá người ta
mai mỉa.
Võ Đại nói:
- Đại tẩu nói phải đấy, nhị đệ nên dọn về đây ở cho tôi đỡ buồn.
Người đàn bà lại dặn khan dặn vãn rằng:
- Thúc thúc phải nhớ mới được, tôi ở đây mong đợi thúc thúc
đó.
Võ Tòng vâng lời, chào anh chị mà đi về huyện.
Về tới huyện. Võ Tòng liền đem chuyện kêu với quan Huyện và
xin phép dọn ra ngõ Tử Thạch cùng ở với anh, và hằng ngày xin đúng giờ vào hầu
việc. Quan Huyện nghe nói khen Võ Tòng là người hiếu để liền y lời cho phép
ngay. Võ Tòng tạ ơn Quan Huyện, rồi thu thập hành lý cùng các đồ vật, và gọi một
tên thổ binh để gánh ra nhà Võ Đại.
Võ Đại thấy em đến, thì trong lòng vui mừng khôn xiết, liền
tìm thợ mộc về ngăn một gian phòng rồi kê giường ghế, bàn và lò sưởi để cho Võ
Tòng ở đó.
Nước non nghĩa nặng,
Cốt nhục tình sâu,
Tài cao chí cả đến đâu,
Anh em cốt nhục dễ hầu dám khinh.
Thế gian lắm kẻ bạc tình,
Bỏ nhà làm bộ tung hoành nước non.
Biết đâu hiếu để tan hồn,
Thì lòng chủng loại phổng còn được chăng.
Võ Tòng từ khi đến ở nhà cùng anh thì người chị dâu hết sức
chiù chuộng, sáng dậy nước sôi hầu hạ, trưa đến cơm cháo trông nom, không hề
chút gì trễ nãi. Võ Tòng thấy chị dâu khó nhọc như vậy, toan bắt một tên thổ
binh ra để hầu hạ thổi nấu, song vợ Võ Đại nhất định không nghe mà tự xin đảm
nhiệm hết cả.
Mấy hôm sau Võ Tòng lại đưa tiền cho Võ Đại mua các thức trà
bánh, để mời phố xá xóm giềng đến chơi nói chuyện. Các nhà hàng phố cũng đem
trà bánh đến biếu đãi anh em Võ Tòng, đi lại rất là tử tế.
Võ Tòng lại lấy một tấm đoạn hoa đưa tặng người chị dâu để
may áo xiêm. Vợ Võ Đại thấy vậy, thì hớn hở mừng thầm mà rằng:
- Thúc thúc có lòng yêu như vậy, tôi xin vâng lĩnh ngay,
không dám từ chối.
Từ đó Võ Tòng cứ ngày hai buổi đi vào hầu trong huyện, rồi lại
trở về ăn ngủ ở nhà Võ Đại, còn Võ Đại thì vẫn giữ nghề bán bánh để kiếm ăn như
trước. Mỗi khi Võ Tòng ở huyện về bất cứ sớm khuya, người đàn bà đều chỉnh đốn
cơm canh, mà thờ phụng Võ Tòng một cách vui vẻ thân mật, làm cho Võ Tòng phải e
ngượng không đành tâm. Thỉnh thoảng chị ta lại kiếm chuyện khơi đùa, song Võ
Tòng là một người ngay thẳng vẫn cứ điềm nhiên, có chuyện thì nói, không chuyện
thì thôi, cũng không lấy gì làm nghi ngại.
Thấm thoát hơn một tháng trời, bấy giờ vào khoảng tháng chạp
mùa đông, ngày nào cũng gió bấc đìu hiu, mây đen kín mít, mà tuyết phủ sương
che rất chiều lạnh lẽo. Một buổi sáng hôm kia, Võ Tòng vào hầu huyện, mãi quá
trưa không về ăn cơm. Vợ Võ Đại ở nhà, cơm nước trưa xong, liền giục chồng đi
bán hàng chiều, rồi nhờ Vương Bà ở bên cạnh vách, mua các thứ rượu nhắm mang về,
và quạt một lò lửa để sẵn vào đó. Đoạn rồi trong bụng nghĩ thầm rằng:"Hôm
nay ta phải tìm cách để khiêu ghẹo anh này, không có lẽ anh ta là đá gỗ mà
không động tình được! "Nàng nghĩ vậy, thì trong bụng hớn hở mừng thầm, liền
ra trước rèm để đợi ngóng Võ Tòng.
Được một lát thấy Võ Tòng lặn lội trên đá, tuyết đi về, chị
chàng ta vội mở cánh cửa rèm ra đón mà nói rằng:
- Thúc thúc hôm nay rét lắm nhỉ?
Võ Tòng cảm ơn đáp lại, rồi bước vào vào trong cửa mà bỏ nón
xuống, chị chàng kia liền hai tay đỡ nón xuống cho Võ Tòng. Võ Tòng thực bụng
thấy vậy nói rằng:
- Có đâu dám phiền tẫu tẩu như vậy?
Nói đoạn treo nón lên vách, rồi cởi đai nịt và áo dài ra, mà
đem treo vào phòng. Người đàn bà bảo với Võ Tòng rằng:
- Sáng hôm nay tôi đợi suốt buổi, sao không thấy thúc thúc về
ăn cơm?
- Tôi có anh em bạn ở trong huyện mời ăn sáng, nên không về
được. Vừa rồi lại có người mời uống rượu, nhưng tôi không muốn ở lại, đành phải
tháo để về đây.
Người đàn bà cười mà rằng:
- Nếu vậy thúc thúc vào lò sưởi cho ấm.
Võ Tòng vâng lời rồi tháo giày ướt, đi sang đôi giầy khác,
mà ngồi vào ghế bên cạnh lò lửa ở phòng khách để sưởi.
Chị chàng kia đóng cửa trước cài cửa sau cẩn thận, rồi đem
các thức nhắm bày vào bàn trong phòng Võ Tòng.
Võ Tòng thấy vậy liền hỏi:
- Ca ca đi đâu chưa về?
- Ca ca còn đi bán hàng đã về đâu, tôi xin hầu thúc thúc mấy
chén rượu cho vui.
- Xin để đợi ca ca về sẽ uống.
- Đợi thế nào được, biết bao giờ mà đợi?
Người đàn bà nói xong liền đem rượu ra hâm.
Võ Tòng nói.
- Xin tẩu tẩu ngồi đây, để tôi dọn đỡ.
Chị chàng cười mà rằng.
- Thúc thúc cứ ngồi, để tôi làm cũng được.
Nói đoạn cũng kéo chiếc ghế, để bên cạnh lò lửa để ngồi, rồi
rót rượu ra cầm ở tay mà bảo với Võ Tòng rằng:
- Trời đương rét lạnh thế này, xin thúc thúc uống một chén rượu
thành đôi nữa.
Võ Tòng lại tiếp lấy uống hết, rồi cũng rót một chén đưa
mời chị dâu. Người đàn bà uống xong lại rót luôn chén nữa, để lên bàn trước
mặt Võ Tòng, hơi lộ da bụng, bỏ rũ tóc mây, miệng cười chúm chím như bông hoa,
mà bảo Võ Tòng rằng:
- Tôi thấy người ta nói rằng: Thúc thúc có nuôi một người con
hát, ở phố bên kia trước cửa huyện, không biết rằng có thực chăng?
Võ Tòng đáp rằng:
- Tẩu tẩu đừng nhge người ta nói càn làm gì, tôi đâu có phải
một người như thế đâu?
Người đàn bà lại nói:
- Chẳng chắc đâu! Miệng thế nhưng lòng lại khác thì sao?
- Tẩu tẩu không tin, cứ hỏi ca ca thì biết.
- Người ấy thì còn biết gì, nếu biết được những việc ấy, thì
chả phải đi bán bánh, xin mời thúc thúc xơi chén rượu nữa.
Nói xong lại rót rượu mà uống luôn ba bốn chén nữa. Bấy giờ
người đàn bà đã hơi men chếnh choáng, lại càng khiêu động lòng xuân không ai giữ
được, liền kiếm chuyện để khiêu ghẹo Võ Tòng.
Võ Tòng đã hơi biết ý, chỉ cúi đầu mà không nói câu gì nữa.
Đoạn rồi người đàn bà đứng dậy đi hâm rượu, thì Võ Tòng lấy cái que cời ra để gảy
lò than mà nghĩ ngợi một mình. Khi người đàn bà hâm rượu xong đem vào buồng,
thì một tay cầm vò rượu, một tay vỗ ngay vào vai Võ Tòng mà nói rằng:
- Thúc thúc chỉ mặc thế nầy mà không lạnh à?
Võ Tòng thấy vậy, đã có sáu bảy phần khó chịu trong lòng bèn
im mà không nói gì cả.
Người đàn bà giơ tay giật lấy cái que cời mà rằng:
- Thúc thúc không quen cời lửa để tôi làm cho. Làm sao cũng
được như lò lửa thường nóng luôn mới được.
Võ Tòng lại thấy khó chịu lên đến tám chín phần, đành phải
ngôi im thin thít. Bấy giờ dục tâm của người đàn bà chừng đã bốc lên như lửa
cháy, không còn hiểu đâu đến Võ Tòng có đồng ý hay không liền vứt cái que cời
xuống, rồi rót ra chén rượu uống hết một nửa, còn một nửa đưa cho Võ Tòng mà bảo
rằng:
- Nếu có phải là người hữu tình, thì uống hết nửa chén nầy.
Võ Tòng giật lấy chén rượu hất xuống đất mà nói rằng:
- Tẩu tẩu không nên dơ dáy như thế?
Nói đoạn đẩy người đàn bà một cái, rồi trợn mắt lên mà rằng:
- Võ nhị nầy là thằng con trai đội trời đạp đất, không phải
giống chó mà làm bại hoại phong hóa, bỏ mất luân lý kia! Tẩu tẩu chớ nên giở lối
vô liêm sĩ như vậy, lỡ khi có đến thế nào thì mặt Võ Nhị nầy còn nhận thấy tẩu
tẩu, chứ cái nắm tay kia không biết tẩu tẩu đâu... Từ nay xin đừng thế mới được.
Chị chàng kia nghe như vậy, thì chết nửa phần ruột, vừa tức vừa
thẹn, rồi đẩy cái ghế ra mà nói rằng.
- Người ta đùa cho vui, thế mà cho là thực hay sao? Người đâu
không biết lòng kính trọng của người ta?
Nói đoạn dọn bát chén đi thẳng xuống bếp. Còn Võ Tòng thì buồn
bực uất ức mà ngồi ở trên buồng một mình.
Được một lát Võ Đại đi bán hàng về, vừa bước chân vào đến cửa
đã thấy người đàn bà khóc sướt mướt, hai mắt đỏ hoe, chàng ngạc nhiên mà hỏi rằng:
- Đánh nhau với ai đó?
Chị chàng vừa khóc vừa nói:
- Anh tệ bạc quá, nỡ lòng nào dắt người ngoài đến, để khinh bỉ
tôi!
- Ai dám đến đây mà khinh bỉ?
- Ông Võ Nhị nhà anh chứ ai! Tôi thấy hắn đi về rét mướt, vội
vàng đem rượu cho uống. Ai ngờ hắn thừa cơ vắng vẻ, mà toan trêu ghẹo lả lơi,
không còn ra thể thống gì nữa?
Võ Đại nghe nói vậy liền gạt đi rằng:
- Em tôi xưa nay là người trung trực, không khi nào như thế,
thôi đừng nói to nữa mà hàng xóm người ta cười cho đấy.
Nói đoạn bỏ mặc vợ đó mà lên buồng Võ Tòng.
Vẽ chi một chữ ái tình,
Để cho xương thịt tan tành sao đang!
Thế gian vạn kẻ khôn ngoan,
Hỏi lòng hữu ái được thường thế chăng?
Võ Đại lên buồng liền gọi em mà hỏi rằng:
- Em đã ăn cơm chưa! Ta cùng đi ăn một thể cho vui.
Võ Tòng thấy anh hỏi, thì ngồi yên không nói nửa lời, trong bụng
nghĩ vơ vẩn một lúc, rồi đứng dậy thay giầy khoác áo, thắt lưng đội nón mà ra
đi.
Võ Đại thấy vậy, liền gọi lên rằng:
- Nhị đệ đi đâu đấy?
Võ Tòng lẳng lặng đi ra không đáp.
Võ Đại thấy Võ Tòng đi rồi, liền xuống bếp hỏi vợ rằng:
- Tại làm sao ta gọi hắn cũng không thưa, cứ cắm đầu đi thẳng
không biết rằng đi đâu thế.
Người đàn bà làm bộ mắng chồng rằng:
- Sao mà ngu thế, nó thẹn, không còn mặt mũi nào trông thấy
mình, thì phải cút đi chứ làm sao? Từ đây trở đi, tôi cấm không lưu người ấy ở
nhà nầy nữa.
- Nếu để cho hắn dọn đi, thì phố xá người ta nói mình còn ra
gì nữa.
- Nói lạ, nó đùa bỡn tôi thì thiên hạ không cười!... Thôi anh
ở với hắn, tôi đây không mặt chó thế được, anh cho tôi một tờ ly hôn, rồi anh
rước hắn đến đây mà ở.
Võ Đại nghe như vậy, thì cứng lưỡi ra, không làm sao mà nói
được. Đương khi ấy thì Võ Tòng dẫn một tên thổ binh đem đôi quang gánh đến, đi
thẳng vào buồng thu thập các đồ đạc, rồi lại gánh ra mà đi ngay, Võ Đại chạy theo
ra cửa hỏi rằng:
- Nhị đệ làm sao lại dọn đi đâu thế?
Võ Tòng quay lại đáp rằng:
- Ca ca không cần phải hỏi, cứ để mặc tôi đi là được rồi.
Nói xong liền đi thẳng, mà không hề quay lại.
Võ Đại lấy làm lạ, không hiểu ra sao, mà cũng không dám hỏi một
câu nào nữa. Bấy giờ người đàn bà đứng ở trong vẫn lẩm bẩm mắng luôn miệng rằng:
- Được lắm! Ai bảo rằng có em làm Đô Đầu, thì tất nuôi được cả
chị lẫn anh, ngờ đâu lại đến đây mà khoét hại! Rõ là giống Hoa Mộc Qua chỉ tốt
mã bề ngoài... Thôi, đi đi cũng là phúc, ta cảm ơn trời đất, bớt được cái nợ
oan gia ở trước mặt...
Võ Đại thấy vợ nói vậy, thì lại càng áy náy trong lòng không
biết đầu đuôi ra sao. Rồi đó hằng ngày Võ Đại lại đi buôn bán như thường mấy
phen toan vào huyện, để tìm em về ở nhưng lại bị người vợ xỉa xói ngăn đón mà
không cho đi, cũng đành lòng mà chịu vậy.
Nói về quan Huyện Dương Cốc, từ khi về để nhiệm ở huyện đó tới
nay, thấm thoát đã được hơn hai năm trời, tuy không độc ác là mấy, song khoét của
dân gian cũng không biết cơ man nào mà kể. Bấy giờ định bụng muốn chuyển của về,
gửi một nhà thân quyến ở Đông Kinh, để lo liệu kiếm đường thăng quan tiến chức,
nhưng lại e đường sá xa xôi, nhiều tay trộm cướp, mà chưa có ai, là người đảm
đang tâm phúc, nên chưa dám sai đi.
Một hôm chợt nghĩ Võ Tòng là tay anh hùng đảm lược, liền cho
gọi đến mà bảo rằng:
- Ta có người bà con thân ở Đông Kinh, nay muốn đưa một ít lễ
vật, và một phong thư vào để hỏi thăm gia sự, nhưng chỉ vì đường sá xa xôi, nhiều
đều không tiện vậy ngươi có thể vì ta mà đảm đang đi được, thì sau này ta sẽ trọng
thưởng cho.
Võ Tòng vâng lời mà rằng:
- Chúng tôi nhờ được ơn ngài đài cử lên cho dẫu có việc gì
sai khiến, chúng tôi cũng không dám từ nan, và đất Đông Kinh là nơi đô hội,
chúng tôi cũng muốn qua trải một phen, vậy xin ngài cứ sắp sửa đi cho, chúng
tôi cũng hết lòng tuân lệnh?
Nói đoạn quay về nhà trọ, lấy ra một ít tiền, gọi một tên thổ
binh ra phố mua một bình rượu và các thức nhắm, rồi đi tới phố Tử Thạch, tìm
vào nhà Võ Đại. Khi tới nơi, Võ Tòng ngồi đợi ngoài cửa rồi sai tên thổ binh
đem các thứ đồ ăn vào bếp để dọn.
Vợ Võ Đại trông thấy Võ Tòng đến, thì tơ lòng lại vấn vương
không dứt, trong bụng nghĩ thầm, tưởng là Võ Tòng lại hồi tâm đến mình, nên vội
vàng lên gác sửa sang phấn sáp, chỉnh đốn khăn áo rồi chạy xuống cửa đón Võ
Tòng mà nói rằng:
- Thúc thúc! Sao lâu nay không thấy về đến đây? Tôi lấy làm
phiền lòng quá! Mấy hôm giục ca ca vào huyện tìm thúc thúc để nói lại, nhưng
nào có thấy ở đâu? Hôm nay thúc thúc về chơi đây, sao lại còn mua sắm cho phí
tiền như thế?
Võ Tòng đáp rằng:
- Võ nhị có một câu chuyện muốn nói với ca ca cùng tẩu tẩu
nên mới về đây.
Người đàn bà nói:
- Vậy xin mời thúc thúc lên gác chơi.
Bấy giờ Võ Đại cũng đi bán hàng mới về, ba người liền cùng
nhau lên gác rồi kéo ba cái ghế ngồi quây quần vào bàn. Được một lát thì tên thổ
binh dọn rượu lên. Võ Tòng liền rót rượu mời hai anh chị uống.
Người đàn bà đưa mắt trông liếc Võ Tòng luôn luôn. Võ Tòng
không hề nhìn đến, chỉ rót rượu mời, rồi lại cúi xuống mà uống rượu.
Rượu được vài tuần, Võ Tòng liền rót một chén đầy, cầm lên
tay nói với Võ Đại rằng:
- Dám thưa ca ca, nay Võ Nhị tôi vâng lệnh quan Huyện sáng
mai phải đi Đông Kinh có việc, lâu ra thì vài tháng, mà chóng ra thì độ bốn năm
mươi ngày, mới về đây được, vậy tôi có mấy câu này xin để ca ca biết: Ca ca vốn
xưa nay là một người nhu nhược, mà tôi lại đi vắng không ở nhà, chỉ sợ phố phường
lắm quân vô đạo, bất miễn nó lại đến đây sinh sự lôi thôi. Vậy từ đây trở đi
đáng lẽ mỗi ngày bán mươi chiếc bánh, thì rút lại chỉ bán năm chiếc, mà phải
nên đi muộn về sớm, không nên rượu chè la cà ở đâu cả, khi về tới nhà thì phải
buông rèm đóng cửa cho cẩn thận, để khỏi mang tiếng người ta chê cười. Nếu ai
có điều gì xấc láo, ca ca không nên cãi cọ làm chi, cứ đợi tôi về đây, rồi tôi
sẽ liệu. Nếu ca ca theo lời tôi, thì xin uống hết chén rượu này.
Võ Đại cất chén rượu mà rằng:
- Em nói phải lắm, tôi xin nghe lời hết cả.
Nói xong uống một hơi hết. Võ Tòng lại rót chén rượu thứ hai
cất lên mà nói với người đàn bà rằng:
- Tẩu tẩu là người sắc sảo tinh ngoan, không cần phải nói lắm.
Duy ca ca tôi là người phác trực, phàm việc gì cũng nhờ tẩu tẩu trông nom giúp
cho. Người ta thường nói:"Lệnh ông không bằng cồng bà". Nếu tẩu tẩu
thu xếp được yên ổn cửa nhà thì ca ca tôi còn chi phiền muộn. Tẩu tẩu há lại
không nhớ câu:"Giậu kín thì chó hết vào" hay sao?
Người đàn bà bị Võ Tòng nói đúng mấy câu tâm lý như vậy, thì
đỏ hồng mặt lên, rồi trỏ vào Võ Tòng mà mắng luôn rằng:
- Đồ thối thây việc gì mà đem chuyện đâu đâu đến nói xấc với
lão nương? Phải biết rằng ta đây chỉ kém thằng đàn ông một nước không đội mũ
lên đầu mà thôi. Ta đây đứng trên nắm tay cũng được, chứ không phải là một con
ươn hèn khốn nạn gì đâu? Từ khi ta lấy Võ Đại đến nay thực con kiến cũng không
lọt vào đến nhà, còn có điều chi mà bảo rằng: Giậu ngăn không kín để chó chạy
vào nữa! Đừng đem những câu ấy mà nói xấc láo ở đây mới được!...
Võ Tòng cười mà rằng:
- Nếu được tẩu tẩu hết lòng như thế, thì còn gì hơn nữa? Chỉ
e bụng ở không được như miệng nói mà thôi. Vậy nay Võ Nhị nầy xin nhớ hết mọi lời,
và xin uống hết chén nầy cho.
Chị chàng kia tức giận đẩy chén rượu ra, rồi sồng sộc bước xuống
dưới gác. Đi đến nữa chừng thang lại quay mặt lên mà nói rằng:
- Người đã là một tay thông minh lanh lợi, sao không nhớ đến
câu: Chị dâu cũng như mẹ... ? Khi ta lấy Võ Đại, nào có thấy anh nào em nào, thế
mà bỗng dưng ở đâu đến, rồi thì thân với chẳng thân, lại toan làm bố người ta nữa.
Lão nương cũng là xúi vận, cho nên mới gặp những chuyện không ra gì như thế!...
Nói đoạn vừa khóc vừa đi xuống, vừa nói lảm nhảm hết câu nọ đến
câu kia không dứt miệng. Trên nầy hai anh em Võ Đại ngồi uống rượu với nhau một
lúc nữa, rồi Võ Tòng đứng dậy xin về.
Võ Đại nắm lấy tay mà bảo Võ Tòng rằng:
- Em nên đi mau về sớm, cho anh em lại được gặp nhau ở đây
nhé?
Nói đoạn nhìn Võ Tòng mà lã chã tuôn rơi hàng lụy, Võ Tòng thấy
vậy liền bảo anh rằng:
- Nếu ca ca không muốn buôn bán gì thì cứ ở nhà, rồi tiền
nong tôi sẽ đưa đến cho.
Võ Đại nghe nói, lại càng ra dáng cảm động trong lòng, mà đưa
em xuống gác. Khi tới cửa, Võ Tòng lại dặn rằng:
- Đại ca, những lời tôi dặn, chớ nên quên mới được.
Nói xong bái biệt Võ Đại, mà cùng tên thổ binh trở về huyện.
Bâng khuâng đất khách quê người,
Cảm tình cốt nhục nặng lời chia ly,
Thói đời trông thấy mà ghê!
Người dưng nước lã chắc gì ai đâu?
Sáng hôm sau, Võ Tòng sửa soạn khăn gói hành lý rồi lên trình
với quan Huyện để đi. Quan Huyện lấy một cỗ xe để các hòm đồ vật vào đó, rồi bắt
hai tên binh sĩ khoẻ mạnh và hai người nhà tâm phúc cho đi theo kèm với Võ
Tòng. Đoạn rồi Võ Tòng từ tạ quan huyện Dương Cốc mà vác đao khoác gói, coi áp
tải xe cùng bốn người kia thẳng trỏ Đông Kinh.
Võ Đại từ khi Võ Tòng đi rồi, bị người vợ đay rứt nhiếc móc đến
ba bốn ngày trời, chỉ cắn răng chịu vậy, mà không thèm nói lại nửa lời nào cả.
Duy các công việc trong nhà thì từ đó nhất nhất theo lời Võ Tòng đã dặn, làm
bánh rút đi một nửa, rồi sáng ngày nửa buổi mới đi, mà chiều đến quá trưa đã về
nhà, cất rèm đóng cửa không hề xao nhãng đi đâu. Người đàn bà thấy vậy, trong
lòng rất lấy làm khó chịu, liền trỏ vào mặt Võ Đại mà mắng nhiếc rằng:
- Suốt ngày ta không được trông thấy mặt trời, lại phải đóng
cửa làm chi? Thiên hạ người ta tưởng nhà này cấm ma quỷ gì mới phải bưng bít cả
ngày như thế! Nghe những đồ anh em khốn nạn ấy, không sợ người ta nhổ vào mặt
hay sao?
Võ Đại điềm nhiên đáp lại rằng:
- Mặc xác thiên hạ, ta cứ nghe lời của em ta, khỏi sinh sự
lôi thôi khó chịu.
Người vợ lại nói:
- Ôi cha! Một thằng đàn ông, không biết tự chủ lấy mình hay
sao? Lại phải nghe người ta sai khiến!
Võ Đại cả quyết đáp rằng:
- Những lời nói của em ta là vàng là ngọc, ta phải theo mới
được, không cần dùng đến ai!
Từ đó mỗi ngày đi về thì người đàn bà lại sinh sự nói nầy nói
nọ, Võ Đại cũng cứ điềm nhiên mặc kệ, chỉ cốt giữ sao cho đúng lời em dặn thì
thôi.
Dần dần chị chàng kia nói lắm mỏi mồm, cũng không ăn thua gì
cả, liền phải theo ý Võ Đại, cứ mỗi khi Võ Đại sắp về, thì lại đóng cửa buông
rèm như trước. Võ Đại thấy vậy thì lòng cũng hơi mừng, đỡ phải lo nghĩ băn
khoăn như trước.
Cách dăm ba hôm, đến một ngày kia, bấy giờ đông đã gần tàn,
khí trời cũng hơi ấm áp, vào lúc buổi chiều, Võ Đại đi bán hàng sắp về, người vợ
liền chăm chăm cầm cái nạng ra để nhắc rèm xuống, dè đâu vừa giơ lên toan đỡ đầu
rèm, thì tay cầm không vững, bị tuột một cái đổ cả đầu gậy ra ngoài, đập ngay
vào khăn anh chàng đi qua ngoài phố.
Anh chàng kia đương đi, đứng dừng lại toan cự mắng mấy câu,
hay đâu khi quay mặt lại trông thấy người đàn bà có vẻ mỹ miều phong lịch, thì
ngây hẳn người ra, tan hết nộ khí ngay lập tức, mà tủm tỉm cười không nói năng
chi cả. Chị đàn bà thấy thế, thì chắp tay vái mà nói rằng: - Chúng tôi lỡ tay,
xin ngài tha lỗi cho.
Người kia giơ tay sửa lại khăn trên đầu, rồi cũng đáp lễ lại
mà rằng:
- Không hề chi, xin quý nương cứ tự tiện.
Bấy giờ mụ Vương Bà đương ngồi dưới rèm ở ngoài hàng, trông
thấy như vậy, liền cười mà hỏi người đàn ông rằng:
- Ai bảo Đại quan nhân đi qua thềm nhà người ta mà đi
khéo thế?
Người đàn ông cũng cười mà nói rằng:
- Cái đó thì tôi không phải, xin nương tử tha lỗi cho.
Vợ Võ Đại lại cười mà đáp rằng:
- Có đâu dám thế, quan nhân tha lỗi cho tôi là tốt lắm rồi.
Anh chàng kia liếc mắt nhìn vợ Võ Đại rồi nói to lên một tiếng
mà rằng:
- Dạ! Tôi không dám...
Nói xong, lững thững đi ra, song vẫn còn quay lại nom theo,
mãi đến khi người đàn bà đã cất rèm trở vào rồi mới đi hẳn.
Người ấy nguyên là một tay tài chủ, khi trước cũng lọc lừa
gian dối du đãng võ viền, không còn thiếu một ngón gì là không có, ít lâu nay mới
phát tích lên, mới mở một ngôi hàng bán thuốc bắc ở trước cửa huyện, rồi lại
chuyên nghề luồn lọt với đám quan lại cùng các người làm việc trong huyện, để đưa
đón việc quan, mà xoay sở kiếm tiền kiếm lễ. Nhân thế mà khắp trong hàng huyện,
ai trông thấy anh ta cũng vị nể hơn người.
Anh ta người họ Tây Môn, tên là Khánh, bày vai hàng thứ nhất,
trước đây vẫn gọi là Tây Môn Khánh Đại Lang. Mới đây nhân vì phú quý phong lưu
hơn trước, nên người ta lại gọi là Tây Môn Đại quan nhân.
Bấy giờ chàng ta đi một lúc, rồi lại quay về chỗ hàng Vương
Bà, ngồi chơi nói chuyện. Vương Bà cười mà bảo rằng:
- Vừa rồi Đại quan nhân dạ một tiếng nghe oai thế?...
Tây Môn Khánh cũng cười mà hỏi rằng:
- Bà ơi! Tôi hỏi thực, người đàn bà bấy giờ là vợ con ai thế?
Vương Bà đáp rằng:
- Người ấy là em vua Diêm La Đại Vương, con ông Ngũ Đạo tướng
quân đấy, hỏi làm gì?
- Tôi hỏi tử tế, bà đừng nói đùa thế?
- Sao quan nhân lại không biết? Người ta là vợ anh hàng quà ở
trước cửa huyện đó mà.
- Có phải vợ anh Tam Tứ bán kẹo táo đó chăng?
Vương Bà lắc đầu đáp rằng:
- Nếu thế thì đã hay lắm. Đại quan nhân thử đoán xem ai?
- Hay là vợ anh hàng bạc Lý Nhị đấy?
Vương Bà lại lắc đầu mà rằng:
- Không phải, nếu vậy thì xứng đáng lắm rồi.
- Thôi có lẽ vợ anh Tiểu Ất hẳn.
Vương Bà cả cười mà đáp rằng:
- Nào có phải, thế thì còn nói gì nữa? Đại quan nhân cứ thử
đoán xem?
Tây Môn Khánh lắc đầu làm thinh. Vương Bà cả cười nói tiếp:
- Tôi nói để quan nhân cười vỡ bụng ra nhé? Bà ấy là vợ ông
Võ Đại, vẫn bán bánh chưng ở phố đấy.
Tây Môn Khánh nghe nói dậm chân cười sằng sặc mà rằng:
- Có phải là anh Võ Đại Lang, mà người ta vẫn gọi là Tam Thốn
Đinh Xác Thụ Bì đó chăng?
- Chính hắn đấy.
- Khổ chưa! Rõ là một miếng thịt dê lạc vào miệng chó... - Ấy
người ta thường nói:"Thằng hèn lại cưỡi ngựa hay, vợ tài đảm lắm, phải tay
chồng đần!" Ông tơ xe chỉ thế có thú không?
Tây Môn Khánh lại hỏi Vương Bà rằng:
- Vương Bà ơi! Tôi còn thiếu bao nhiêu tiền nước của bà nhỉ?
- Chưa có là bao, quan nhân để bao giờ trả cũng được.
- À! Thằng con trai bà nó đi đâu với ai?
- Ngài hỏi đến chuyện ấy thì tôi lại sốt ruột lắm, cháu nó đi
theo một người khách đi sang Hoài Thương, đến nay chưa về, không biết rằng còn
sống hay là chết rồi đấy?
- Sao không cho nó theo tôi có tiện không?
- Nếu được Đại quan nhân có lòng thương, thì còn nói gì hơn nữa?
- Được cứ để nó về đây, rồi sẽ liệu có khó gì?
Nói đoạn lại tán dăm ba câu chuyện láo, thế rồi đứng dậy ra về.
Ít lâu sau Tây Môn Khánh lại đến một cái ghế ở trước cửa hàng
Vương Bà, mà ngồi quay mặt sang nhà Võ Đại Lang. Được một lát, Vương Bà chạy ra
hỏi rằng:
- Đại quan nhân có xơi dấm mơ chăng?
- Tốt lắm; bà cho tôi một bát, cho nhiều mơ vào.
Vương Bà quay vào làm một bát dấm mơ, đưa cho Tây Môn Khánh
ăn.
Tây Môn Khánh ăn xong, bỏ bát lên chõng hàng rồi bảo Vương Bà
rằng:
- Bà làm thứ dấm mơ này tốt lắm, trong nhà có nhiều không?
Vương Bà nói rằng:
- Lão tôi một đời làm mối, có để ai ở nhà đâu?
- Lạ chưa? Tôi hỏi dấm mơ, mà bà lại nói chuyện làm mối, là ý
nghĩa gì?
- Tôi tưởng Đại quan nhân bảo tôi làm mối tốt?
- Ừ! Thì bà làm mối cho tôi một món này, rồi tôi sẽ trọng tạ
bà về sau.
- Đại quan nhân nói làm gì thế? Bà ấy ở nhà biết, thì phổng
có chết không?
- Không; đàn bà nhà tôi tốt lắm, rất có bụng thương người xưa
nay. Hiện bây giờ cũng đương dung mấy người ở nhà đấy, nhưng không có một người
nào là hợp ý tôi cả. Nếu bà có bụng giúp, thì xin bà cứ giúp tôi, không ngại
gì, cốt sao cho hiệp ý tôi là được rồi.
- Hôm nọ có món tốt lắm, chỉ sợ quan nhân không thích thôi?
- Nếu vậy thì cứ làm mối cho tôi, tôi xin hậu tạ.
- Người ấy thì dư cái đẹp đi rồi, chỉ có một điều là khí cao
tuổi một chút.
- Hơn một vài tuổi, cũng không can gì.
- Người ấy tuổi Mậu Dần, cầm tinh hổ, năm nay mới có chín
mươi ba tuổi thôi.
Tây Môn Khánh cười ầm lên rằng:
- Bà này điên hay sao, chỉ nói chuyện buồn cười mãi.
Nói xong vừa cười vừa đứng dậy đi. Bấy giờ đã nhá nhem tối,
Vương Bà liền chạy vào thắp đèn, rồi định quay ra để đóng cửa. Dè đâu vừa bước
ra đã thấy Tây Môn Khánh, lại đến ngồi ở đầu ghế mà chầu sang nhà Võ Đại rồi.
Vương Bà thấy vậy liền hỏi rằng:
- Quan nhân xơi một bát thang Hòa hợp có được chăng?
Tây Môn Khánh đáp rằng:
- Tốt lắm, bà đem ra đây.
Vương Bà múc một bát thang Hòa hợp ra cho Tây Môn Khánh.
Tây Môn Khánh ăn xong đứng dậy bảo Vương Bà rằng:
- Tiền để đến mai tính một thể nhé?
Nói xong cười mà về.
Sáng hôm sau Vương Bà vừa mới mở cửa toan dọn hàng, thì lại
thấy Tây Môn Khánh quanh quẩn đương đi đi lại lại ở trước cửa rồi.
Vương Bà thấy vậy nghĩ thầm rằng:"Thằng cha này chăm đến
đây thế? Xưa nay chỉ quen xoay người ta mãi, phen này bà bôi cho một tí mỡ vào
mũi, gọi là còn thèm thuồng, còn thờ phụng bà mới được!" Nghĩ đoạn liền mở
cửa ra rồi, quay quạt hỏa lò và bày các thứ bán hàng.
Bấy giờ Tây Môn Khánh chạy tót vào hàng ngồi vào một cái ghế
bên cạnh rèm mà trông sang nhà Võ Đại. Vương Bà cứ lúi húi cầm quạt quạt hỏa
lò, mà giả vờ ra dáng không biết.
Tây Môn Khánh liền gọi Vương Bà mà bảo rằng:
- Bà cho tôi mấy chén trà ra đây?
Vương Bà nghe nói, vội ngẩng đầu lên nhìn, rồi cười mà nói rằng:
- Kìa Đại quan nhân đã đến đấy à? Lâu nay ít khi được gặp
quan nhân, xin mời ngài ngồi chơi.
Nói đoạn rót hai chén Khương trà bưng ra. Tây Môn Khánh bảo
Vương Bà rằng:
- Bà ngồi chơi đây, uống với tôi một chén nước.
Vương Bà đáp:
- Tôi có phải là người theo dõi đuôi đâu?
Tây Môn Khánh cười khanh khách mà rằng:
- Bà ơi! Ở bên nầy họ bán gì thế?
- Họ bán thứ canh Hà lậu tử, rất nóng và rất nhiều vị cay vào
đó.
- Cái bà này chỉ nói đùa thế thôi...
Vương Bà nói rằng:
- Nào có phải tôi nói đùa, người ta đã có chồng rồi đấy... -
Tôi nói thực câu nầy, anh ta làm bánh ngon, tôi muốn thử dăm chục cái có được
không?
- Nếu muốn mua thì đợi lát nữa, người ta về rồi mua, chứ có
việc gì đến đây?
- Bà nói phải lắm, để đợi lát nữa vậy.
Nói xong ngồi uống nước một lúc, rồi lại đứng lên mà bảo
Vương Bà rằng:
- Bà nhớ biên vào sổ hàng cho tôi.
- Vâng, tôi xin biên cẩn thận ạ.
Tây Môn Khánh lại cười nhạt rồi quay đi.
Bấy giờ Vương Bà ở trong hàng, liếc mắt nom Tây Môn Khánh,
thì thấy chàng cứ đi sang bên Đông, rồi lại quay về bên tây, quay về tây rồi lại
sang đông, quanh quanh quẩn quẩn ghé ghé nom nom, có tới năm lần bảy lượt, rồi
lại chạy vào hàng Vương Bà. Vương Bà thấy vậy bảo Tây Môn Khánh rằng:
- Sao quan nhân ít đi thế? Lâu nay mới lại được gặp...
Tây Môn Khánh cười phá lên, móc túi ra lấy một lạng bạc đưa
cho Vương Bà mà nói rằng:
- Tôi hãy đưa bằng nầy, để trả tiền trước, xin bà nhận lấy
cho.
Vương Bà cười nói rằng:
- Sao quan nhân đưa nhiều thế?
- Bà cứ cầm lấy đã.
Vương Bà trong bụng đã mừng thầm, liền giơ tay cất lấy món tiền
rồi nói rằng:
- Tôi xem chừng Đại quan nhân có dáng khát, vậy xin ngài xơi
bát nước chè non nhé!
- Sao bà khéo đoán thế?
Vương Bà cười đáp rằng:
- Có khó gì mà không đoán được! Người ta bảo rằng:"Cần
gì hỏi trước han sau, Cứ trông nhan sắc biết nhau rành rành... " Tôi đây dẫu
kẻ nghiêu khê dị dạng đến đâu, cũng có thể đoán được cả.
- Vậy hiện nay tôi có chút tâm sự, nếu bà đoán được tôi xin
đãi bà năm lạng bạc.
- Tôi đây không cứ gì ngũ trí thần thông, cũng có thể đoán được
mười phần thế sự. Đại quan nhân ghé tai lại lại đây tôi bảo. "Mấy hôm nay
nhà thầy chỉ quanh quẩn dòm nom cái đám bên cạnh vách kia chứ gì!" tôi
đoán thế có phải không?
Tây Môn Khánh ra dáng bẽn lẽn rồi cười mà đáp rằng:
- Bà lão này thực khôn hơn Tùy Hòa mẹo hơn Lục Giả tôi không
dám dấu bà; không biết vì cớ sao mà tự hôm tôi trông thấy mặt chị chàng ta, đến
nay thì ba hồn bảy vía đều biến theo đi đâu mất cả. Hiện nay tôi vơ vẩn, không
biết ai là người dắt lối đưa đường, không biết rằng bà có cách gì giúp được tôi
không?
Vương Bà cười khanh khách mà đáp rằng:
- Lão tôi chả dấu gì Đại quan nhân; nhà tôi đây bán nước như
qủy cầm canh vậy; Từ hôm mồng ba tháng sáu cách ba năm nay, trời mưa tuyết lớn,
không có bán gì nữa đâu! Quanh quẩn chỉ nhờ nghề bắt thóp xằng để kiếm ăn mà
thôi.
- Thế nào là nghề bắt thóp xằng?
Vương Bà lại cười mà nói rằng:
- Tôi đây nhất là làm mối, rồi thì làm mụ dầu, làm bà đỡ, đi
dỗ mấy người làm, anh mồi chài rồi đi buôn người, ngón nào cũng thạo.
- Nếu bà tác thành giúp tôi, tôi xin hậu tạ ơn bà mười lạng bạc.
- Ngài phải biết rằng: Việc bợm bãi xưa nay, rất là việc khó,
phải sao có đủ năm cái tư cách này mới được: Một là phải đẹp như Phan An, hai
là phải có sức khỏe mạnh, ba là phải có tiền như Đặng Thông, bốn là phải rất nhẫn
nại, năm là phải tốn công phu; Năm điều ấy nếu thiếu một điều, thì không thể được.
Tây Môn Khánh có vẻ mừng rỡ rằng:
- Chẳng dấu gì bà già, năm điều ấy tôi có đủ cả rồi; Điều thứ
nhất mặt tôi tuy không không được như Phan An, nhưng cũng có thể thương thực;
Điều thứ hai khi tôi cỏn nhỏ cũng giữ được thân thể mạnh khỏe; Điều thứ ba
trong nhà tôi dẫu không lấy của đâu được bằng Đặng Thông, song tiền của cũng dư
dật; Điều thứ tư tôi đây rất có tính nhẫn nại, dẫu ai đánh đến bốn trăm cái,
tôi cũng không đánh trả bao giờ; Điều thứ năm tôi thực chịu khổ công phu, bằng
không thì sao có lần mò thế này? Bà ơi! Bà cố sức tác thành cho tôi, tôi xin hậu
tạ.
- Đành rằng năm điều ấy ngài có đủ rồi, song còn có một việc
này khó lắm, có lẽ ngài không theo được!
- Bà cứ nói thử xem, xem có điều gì làkhó?
- Ngài chớ nên giận tôi nói thẳng mới được! Phàm sự bợm đãi
đã đủ mười phần tư cách rồi, song còn một thứ tiền, nếu chỉ tiêu đến chín phần
ly, mà còn thiếu một ly nữa là vất đi cả. Thế mà nhà thầy thì vốn là người hà
tiện, xưa nay không chịu tiêu phí đồng tiền, như thế thì có lẽ khó lòng làm nổi.
- Tưởng gì, chứ bệnh ấy thì dễ chữa, bây giờ tôi cứ theo ý bà
là được chứ sao?
- Nếu vậy thì tôi có một cách này, làm cho Đại quan nhân có
thể được giáp mặt người ấy, nhưng chả biết rằng:
- Ngài có bằng lòng không?
- Bà muốn bảo thế nào, thì tôi cũng xin bằng lòng cả, ba có kế
gì là diệu?
Vương Bà cười nói rằng:
- Hôm nay trời đã muộn rồi, Đại quan nhân hãy cứ đi về, rồi
trong nửa năm nay hay là ba tháng nữa, sẽ đến đây bàn định...
Tây Môn Khánh nghe vậy, thì quỳ xuống mà nói rằng:
- Bà ơi! Bà ơi! Bà không nên độc ác như thế?
- Tôi có một kế sách này, dẫu chưa đến bậc vào miếu Võ Thành
Vương, song cũng hơn cách Tôn Vũ Tử dạy nữ binh bắn mươi người, thì trúng được
chín kia đấy. Bây giờ tôi nói cho Đại quan nhân nghe nhé! Người ấy con nuôi nhà
phú hộ ở huyện Thanh Hà, thì nghề kim chỉ tất là khéo lắm, vậy ngài mua cho tôi
một tấm lụa trắng, một tấm vóc lam, một tấm vải trắng và mươi lạng chỉ tơ, cốt
để mang đến đây. Đoạn rồi tôi đến nói dối người ấy là, có một ông tài chủ đem đến
cho tôi bộ áo tống chung, và sang đó mượn lịch xem ngày để tìm thợ về cắt. Như
thế mà người ấy nghe nói cứ điềm nhiên, không hỏi đến chuyện ấy nữa, thì việc ấy
tất hỏng mất. Nhưng nếu người ấy lại hứa lời cắt giúp tôi, thì tất có một phần
bợm đó rồi. Khi tôi mời nàng sang nhà để cắt, nếu nàng không chịu sang thì cũng
là hỏng mất. Nếu nàng lại vui lòng mà nhận lời sang nhà để giúp, thì lại có hai
phần bợm rồi đó. Khi nàng sang nhà tôi, thì phải dọn các thức rượu nhắm để đó
thiết đãi, nhưng ngày thứ nhất, thì cậu không được đến đây; Còn đến ngày thứ
hai, nếu nàng nhận lại từ chối, mà đem về nhà khâu, thì cũng lại là hỏng mất. Bằng
như nàng ở đấy mà khâu cho, thì việc ấy có ba phần bợm đó. Ngày hôm ấy
cũng không đến được, phải đợi đến ngày thứ ba, cậu sẽ ăn mặc cho chững chạc, rồi
đến cửa đằng hắng một cái mà nói lên rằng: "Sao lâu nay không thấy
Vương bà đâu?" Bấy giờ tôi nghe tiếng, rồi tôi ra mời vào ngồi
chơi, nếu nàng ta thấy thế mà đứng dậy ra về là hỏng mất. Bằng nàng thấy vậy mà
cứ ngồi im khâu, thì việc ấy có bốn phần hên đó.
Khi ngồi chơi tôi sẽ khoe với nàng rằng: "Cậu là người
tài chủ mà làm phúc cho tôi, mà nhà cậu rất là sang trọng tử tế, rồi cậu lại phải
tán tỉnh thêm vào, nếu thế mà nàng không bắt chuyện, thì việc cũng vất đi mất!
Nhưng nếu nàng cũng hé răng ra ứng đáp, thì có được năm phần bợm, rồi đó. Bấy
giờ tôi lại tán là hai tay tài chủ, kẻ xuất công người xuất của, nếu không phải
là may mắn cho tôi, thì sao có gặp được nương tử ở đây, vậy xin quan nhân tạm
làm chủ thiết đãi nương tử giúp tôi, đoạn rồi cậu đưa tiền cho tôi đi mưa rượu.
Nhưng nếu nàng đứng dậy ra về, lại là hỏng mất. Nhược bằng nàng điềm nhiên ngồi
lại, thế là có được sáu phần bợm rồi đó.
Khi cầm tiền rồi, thì tôi lại nói nhờ nàng ngồi tiếp Đại quan
nhân giúp để tôi đi mua các thức nhắm, nếu nàng từ chồi đứng dậy ra về, là việc
cũng hỏng. Bằng nàng ưng ý mà ngồi lại, là việc ấy có bảy phần bợm đó. Đến lúc
mua được thức nhắm về, tôi lại nhờ nàng xếp đồ khâu lại, để cùng ngồi uống rượu
cho vui, thế mà nàng không chịu ngồi là việc hư hỏng. Nếu nàng bằng lòng ngồi
cho, thì việc ấy có tới tám phần bợm rồi đó. Uống dăm ba chén rượu, tôi giả vờ
là hết rượu,bảo cậu phải mua thêm. Bấy giờ cậu sẽ nhờ tôi đi mua hộ, đoạn rồi
tôi đi khép cửa, để mặc hai người ở đó, thế mà nàng hoảng hốt đòi về là hỏng việc.
Bằng nàng cứ ngồi yên không nói chi, là việc có chín phần bợm rồi đó.
Đến đó chỉ còn thiếu có một phần nữa là xong, nhưng phần này
thì rất là khó; Bấy giờ cậu ngồi ở đấy, phải lựa lời đem những câu chuyện ngon
ngọt mà khơi gợi dần dần, chớ có bạo động mà lỡ việc, thì tôi không biết đâu đến
được nữa! Trước hết phải giơ tay áo lên bàn, giả cách đánh rơi chiếc đũa, rồi lại
vội vàng cúi xuống nhặt, và rờ tay vào chân nàng mà nắm một cái, nếu nàng gắt
giận cự mắng, thì tôi sẽ chạy vào cứu, song như thế cũng là hỏng việc, không
còn làm thế nào được nữa! Nhược bằng nàng lẳng lặng không nói gì, thì bấy giờ
có đủ mười phần bợm rồi đó. Kế sách ấy thế nào?
Tây Môn Khánh nghe xong cả cười mà rằng:
- Được lắm, dầu chưa lên được đến gác Lăng Yên, song ấy thế
thực là diệu kế.
- Nhưng cốt nhất là phải nhớ đưa mười lạng bạc mới được.
- Cái đó chắc lắm, có khi nào được ba miếng quất bì, mà lại
quên hồ Động Đình được? Nhưng kế sách ấy, bao giờ bà bắt đầu làm cho?
- Chỉ chiều hôm nay là có tin rồi, bây giờ nhân lúc Võ Đại
chưa về, tôi phải sang nói qua trước xem sao, cậu về cho người mang vóc lụa đến
ngay cho tôi mới được.
Tây Môn Khánh hớn hở mừng ra mặt mà nói rằng:
- Nếu được bà tác thành cho, thì khi nào tôi dám sai lời.
Nói xong từ tạ Vương bà quay ra phố mua các vật liệu đùng như
Vương bà đã dặn, rồi bọc gói cẩn thận, và đem thêm năm lạng bạc lẻ đưa đến cho
Vương bà, Vương bà nhận các đồ bảo vật, bảo Tây Môn Khánh hãy về, rồi một mình
xăm xăm theo lối cửa sau mà sang nhà Võ Đại. Vợ Võ Đại thấy Vương bà đến, liền
mời lên gác ngồi nói chuyện.
Vương bà hỏi:
- Sao mấy hôm nay nương tử lại không sang chơi nhà tôi xơi nước?
Chị chàng kia đáp rằng:
- Mấy hôm nay tôi không được khỏe trong mình, nên không muốn
đi đâu cả.
- Chẳng hay nhà nương tử có cuốn lịch không? Nhờ nương tử xem
giúp già tôi xem ngày nào có thế may áo được?
- Bà may áo gì thế?
- Ối chào! Chả giấu gì nương tử; Tôi bây giờ cũng đau yếu
luôn, chẳng chắc rằng trời đất ra thế nào, bởi thế muốn may một áo tống chung,
để phòng bị cho đỡ lo về sau. May lại có một tài chủ ở gần đây có lòng tốt
thương đến già tôi, đem cho mấy tấm vóc lụa, vẫn cứ để ở nhà mãi mà không sao
may được? Ngày nay nhân thấy trong mình đã già yếu, nên muốn may đi cho xong,
nhưng mấy hôm trước thì anh thợ may đằng kia cứ kêu là bận việc không may được,
thành ra nấn ná mãi đến nay, nương tử nghĩ có khổ không?
Chị chàng nghe nói cười mà rằng:
- Tôi đây khâu vá vụng về lắm, nhưng nếu bà có bằng lòng dùng
tạm, thì tôi xin may giúp cho.
Vương bà cũng cười hớn hở mà đáp lại rằng:
- Nếu được nương tử giúp cho, thì tôi chết cũng thỏa lòng,
nương tử vốn là tay khéo, xưa nay tôi đã biết, nhưng có khi nào dám phiền đến
nương tử như thế?
- Có can chi việc ấy! Tôi đã hứa giúp bà thì tất nhiên tôi hết
lòng giúp, để tôi đem lịch ra chọn ngày nào là ngày Hoàng đạo, rồi ta may cũng
được chứ sao?
- Nương tử có lòng giúp tôi như thế, thực là một vị Phúc tinh
tới nơi, còn cần chi phải chọn ngày nữa?.. Hôm trước tôi cũng nhờ người xem, họ
nói đến ngày mai là ngày Hoàng đạo nhưng tôi tưởng mai áo thì không cần ngày
Hoàng đạo nên cũng không nhớ làm gì.
- May áo Thọ chính phải cần ngày Hoàng đạo, nếu vậy thì không
cần phải xem nữa.
- Vâng, nương tử đã có lòng tốt như thế, thì đến mai tôi xin
sang đây dọn dẹp để nhờ nương tử khâu giúp cho... nhưng có điều không ai coi
nhà cho tôi bên ấy.
- Được, để sáng mai tôi ăn cơm nước xong rồi sẽ sang đấy khâu
giúp bà, bất tất phải mang sang đây cũng được.
Vương bà nghe nói thì lấy làm mừng rỡ cảm ơn, rồi tạ từ trờ về
báo cho Tây Môn Khánh biết rồi để dự bị việc ngày mai.
Sáng hôm sau Vương bà dậy sớm dọn dẹp buồng the sạch sẽ, đem
các đồ hoa quả và sắp sẵn nước non bày ra bàn để đợi. Bên kia vợ Võ Đại đợi khi
chồng cất gánh hàng ra đi, rồi mới treo rèm ra cửa, quay vào lối cửa sau mà đi
sang nhà Vương bà. Vương bà vội vàng đón vào, mời xơi nước nôi và hoa quả, rồi
đem các thứ vải vóc ra cho vợ Võ Đại đo cắt. Vương bà đứng xem lối cắt áo và
may, thì tán tụng thêm lên: Thật là khéo léo, lão già đã bảy tám mươi rồi chưa
từng thấy ai may áo khéo thế! Khi người đàn bà may đến trưa, Vương bà bày dọn
cơm canh mời ăn uống tử tế, xong rồi lại khâu vá cho đến chiều tối mới về.
Khi về nhà vừa gặp Võ Đại bán hàng về, nàng liền cuốn rèm mở
cửa cùng vào, Võ Đại thấy vợ má hồng lên, liền hỏi:
- Hôm nay nàng uống rượu ở đâu mới về?
Người vợ đáp:
- Vương bà ở cạnh vách đây, có sang nói may giúp chiếc áo tống
chung, rồi tôi sang may giúp, đến trưa, có mời ăn uống, chứ có uống rượu ở nơi
nào.
Võ Đại nói:
- Ối chào! Thôi đừng uống rượu nữa, mình cũng có nhiều khi phải
cậy đến Vương bà, nếu ngày mai còn phải sang giúp bà ta, thì đừng uống rượu nữa,
mà mang sẵn tiền sang mua rượu uống với bà ta cho phải lối với nhau, vì rằng:
Bán anh em xa mua láng giềng gần, phải xử như thế mới được, nếu không muốn mời
lại, thì đem vải vóc về nhà khâu vá cho xong, rồi đem sang trả cũng được.
Người vợ nghe xong, không nói năng gì.
Hôm sau Võ Đại đi chợ, Vương bà lại sang khuyên dỗ đón mời
sang làm giúp, nàng lại đi sang, Vương bà đem trà nước rồi, ngồi vào làm việc,
đến gần trưa, nàng đưa ra một ít tiền nói với Vương bà rằng:
- Hôm nay tôi mang tiền sang đây, bà mua rượu về rồi bà con
mình cùng chén.
Vương bà nói:
- Ồ! Thế ra nghĩa lý gì, tôi mời nàng sang đây làm giúp, thì
tôi phải mời rượu sao lại để cho nàng mang tiền sang đây mua rượu nhắm ăn uống,
thì ra làm sao?
Người đàn bà nói:
- Hôm qua tôi có nói chuyện với chồng tôi, thì chồng tôi bảo
rằng đã giúp bà thì giúp cho hết sức, vì chỗ xóm giềng còn nhờ vả nhau nhiều,
nên tôi mới xử như vậy.
Vương bà nói:
- Đại Lang là người tốt qúa, vậy tôi xin nhận tấm lòng tốt,
mua thêm nhiều rượu thức ăn, để cùng ăn uống cho vui.
Vương bà nhận tiền, mua những thứ ngon lành, ân cần mời
khuyên, sau khi ăn uống xong, rồi nàng lại làm giúp cho đến chiều mới về, Vương
bà khéo léo tạ ơn, làm cho nàng vui vẻ.
Ngày thứ ba, Vương bà dòm biết Võ Đại đi bán hàng rồi, lại chạy
sang ân cần đón rước làm giúp cho xong. Người đàn bà được lòng mà nói:
- Tôi vốn định sang ngay, chả cần bà phải sang đón.
Liền vào trong buồng Vương bà làm giúp, theo thường lệ Vương
bà lại đem quà nước mời khuyên. Tây Môn Khánh đúng ngày hẹn ấy, ăn mặc chải chuốt
kịch sự, đến thăm Vương bà, đem thêm một món tiền nữa, tới nơi liền nói to lên
rằng:
- Sao Vương bà lâu nay không thấy đến tôi?
Vương bà chợt thấy tiếng hỏi, thì hỏi lại:
- Ai đấy?
Tây Môn Khánh nói:
- Tôi đây!
Vương bà chạy ra cười nói:
- Ô! Tôi tưởng là ai ngờ đâu Thí chủ Đại Quan nhân đã tới,
quý hóa lắm! Vậy xin mời ngài vào chơi, tôi đương may chiếc áo thọ.
Rồi kéo tay áo Tây Môn Khánh vào buồng nói với người đàn bà
kia rằng:
- Đây là Thí chủ quan nhân đã giúp vải vóc cho tôi may áo.
Tây Môn Khánh thấy người đàn bà ấy liền chào. Người đàn bà
cũng vội vàng ngừng tay, mà bái chào lại. Vương bà liền trỏ vào người đàn bà mà
nói với Tây Môn Khánh rằng:
- Lão già đã may mà được quan nhân cho vải vóc, hơn một năm
chưa may được, đến nay lại may mà gặp được mong nương tử đây ra sức làm cho, thật
là vừa khéo vừa hỹ, Đại quan nhân hãy xem thử, coi có thực tay thợ giỏi không.
Tây Môn Khánh nghe lời, liền cầm xem rồi khen rằng:
- Ừ khéo thật! Chả biết rằng nương tử học được ở đâu, mà may
cắt khéo như thần tiên thế vậy?
Người đàn bà cười nói:
- Xin Đại quan nhân đừng cười, chúng tôi còn vụng lắm!
Tây Môn Khánh hỏi lại Vương bà:
- Dám hỏi khí không phải, chẳng hay nương tử này ở đâu đến?
- Đại quan nhân quên à?
- Tôi quên làm sao?
Vương bà cười nói:
- Nương tử đây là vợ Võ Đại Lang ở khít vách đây hôm nọ đã
làm đụng cái nạng vào đầu quan nhân có lẽ không đau chăng, mà vội quên ngay được?
Người đàn bà thẹn đỏ ửng mặt lên mà nói:
- Ngày nọ tôi trót lỡ tay, mong rằng Đại quan nhân tha thứ.
Tây Môn Khánh đáp:
- Thôi nhắc làm chi việc nhỏ ấy.
- Đại quan nhân đây là người hòa nhã, không nhớ lâu đâu, thực
là người tốt.
Tây Môn Khánh nói:
- Trước kia tôi không biết ra, nàng là vợ của Đại Lang vốn là
người làm ăn, bán hàng ngoài phố, đối với mọi người lớn nhỏ đều hòa thuận tốt nết,
thực là khó lấy được một người chồng như thế.
Vương bà đón lời ngay:
- Vương tử lấy được Đại Lang, khi cần đến việc gì, Đại Lang
cũng chiều chuộng thân yêu lắm.
Người đàn bà ra chiều chán ngán nói luôn:
- Ối chà! Làm gì đồ vô dụng ấy! Xin Đại quan nhân chớ chê cười!
Tây Môn Khánh nói lại:
- Nương tử lầm rồi, người xưa đã dạy: Mềm nhũn là cái gốc lập
thân, cương ngạnh chỉ gây mầm tai vạ, Đại Lang của nương tử lành hiền như thế,
là để phúc đức về sau, chả là hay lắm ư?
Vương bà đón luôn:
- Phải, phải, quan nhân dạy đúng.
Tây Môn Khánh tán tụng láo một hồi, rồi ngồi xuống ghế, đối
diện với nàng.
Vương bà nói chuyện:
- Nương tử! Có biết đến vị quan nhân này chăng?
Người đàn bà nói:
- Có được đi đến đâu mà biết!
Vương bà khoe:
- Đại quan nhân đây là một tay tài chủ huyện ta, thường đi lại
với Quan Lớn Tri Huyện, nên gọi là Tây Môn Đại quan nhân, mở hiệu thuốc ở trước
cửa, nhà giàu có, nào tiền nhiều hơn sao Bắc đẩu, thóc lắm hơn lúa Trần Thương,
nào ngọc, vàng, châu báu, không thiếu thứ gì, thực là triệu phú.
Người đàn bà cúi đầu xuống khâu may. Tây Môn Khánh thấy Phan
Kim Liên con người tình tứ, bụng đã mừng thầm. Vương bà đi rót hai chén trà,
dâng một chén mời Tây Môn Khánh, và dâng một chén mời Kim Liên mà nói:
- Nương tử hãy cùng Đại quan nhân đây uống trà cho vui.
Rồi thấy người đàn bà không e thẹn gì, Vương bà lấy bàn tay
ra hiệu bảo ngầm với Tây Môn Khánh biết, việc đã thắng năm phần. Rồi Vương bà lại
nói:
- Nếu Đại quan nhân không tới, thì già nầy không dám đến mời
thực một là Trời đã xếp lại, hai là đến được vừa lúc, người ta thường nói rằng:
Một khách chả nên phiền hai chủ, đã Đại quan nhân xuất tiền lại quý nương tử xuất
lực, may mắn cho thân già, nay quan nhân làm chủ cho, để xin mởi nương tử cùng
uống rượu mừng cho tôi thì quý lắm.
Tây Môn Khánh đáp:
- Vâng, đây là chút tiền bà mua rượu về đây cho tôi.
Người đàn bà nói:
- Thế thì phiền Đại quan nhân quá.
Miệng tuy nói, nhưng vẫn ngồi làm, Vương bà lấy tiền mua rượu
người đàn bà không đứng dậy đi. Vương bà ra cửa lại nói:
- Xin phiền nương tử ở nhà ngồi tiếp chuyện Đại quan nhân, để
tôi đi một lúc.
Người đàn bà nói:
- Được bà cứ đi.
Không đứng dậy về, đều tỏ ra tình ý với nhau lúc ấy.
Bấy giờ Tây Môn Khánh đối mặt nhìn người đàn bà, cũng thấy liếc
trộm lại mình, đã biết ưng ý bảy tám phần rồi vậy, mới lựa lời nói chuyện gần
xa... Chẳng bao lâu Vương bà mua thịt rượu ngon lành về mới sửa soạn bày ra để
ăn uống, và bảo người đàn bà nghỉ tay, để bồi tiếp Đại quan nhân. Người đàn bà
nói:
- Lão bà hãy tiếp Đại quan nhân tôi đâu dám thế.
Nhưng vẫn không ngừng tay đứng dậy về, Vương bà nói:
- Chính bữa rượu này để thù lao nương tử, sao lại chối từ.
Vương bà bày biện xong, rồi ba người cùng ngồi uống rượu. Tây
Môn Khánh đưa chén rượu lên nói:
- Xin nương tử uống cạn chén này.
Người đàn bà nói:
- Đa tạ hậu ý của Đại quan nhân.
Vương bà nói:
- Lão đây biết nương tử uống rượu được hãy xin uống cạn cho mấy
chén này.
Tây Môn Khánh lại nói:
- Lão bà thay tôi mời nương tử giúp.
Vương bà lại mời khuyên, người đàn bà uống một lúc luôn ba tuần
rượu. Vương bà chạy đi hâm rượu nóng lại.
Tây Môn Khánh nói:
- Dám hỏi khí không phải, chẳng hay nương tử năm nay chừng mấy
thanh xuân?
Người đàn bà nói:
- Tôi vừa 23 tuổi.
- Như vậy tôi hơn 5 tuổi.
- Dạ, quan nhân đem trời đọ đất làm chi!
Vương bà chạy lại nói:
- Nương tử đây là người giỏi lắm, nào phải may khâu mà thôi,
còn thuộc làu chữ nghĩa.
Tây Môn Khánh nói:
- Kể ra thì buồn lắm, chỉ tiếc cho tôi, phận mỏng không tìm
được người nào như nương tử đây.
Vương bà nói:
- Người vợ cả của Đại quan nhân chắc là hay lắm?
- Khỏi phải nói, người vợ trước của tôi còn sống, thì đâu đến
nỗi cửa nhà bê bối như ngày nay, đến nay trong nhà sáu bảy miệng ăn, mà chả làm
được nên việc gì cả.
Người đàn bà hỏi:
- Chẳng hay vợ trước của Đại quan nhân đã mất bao lâu?
- Giấu gì nương tử, vợ trước của tôi, vốn con nhà nghèo, cho
nên việc gì làm cũng thạo, giúp nên cơ nghiệp cho tôi, chẳng may mất đi đã được
ba năm, khiến tôi bấy lâu công việc bê trễ, thất điên bát đảo cả người, cho nên
có đi đâu được, chỉ ở nhà lo liệu không xong.
Vương bà nói:
- Nói cho đúng ra thì xin Đại quan nhân đừng giận, vợ trước của
ngài đâu bằng Võ Đại nương đây, khéo từ việc may vá.
Tây Môn Khánh nói:
- Vợ trước của tôi thì kém phần lịch sự như nương tử thực.
Vương bà lại hỏi:
- Đại quan nhân có nuôi cô nào ở phố đông kia mà không cho
già nầy ăn uống với.
Tây Môn Khánh đáp:
- À cô Trương Tích, vốn con hát tầm thường, nên tôi đâu có
thiết, đó là y muốn theo tôi.
Vương bà lại nói:
- Vậy quan nhân với Lý Kiều ở với nhau đã bao lâu?
- Cô ấy hiện ở nhà, giả thử được như nương tử đây, thì cũng
cho làm vợ cái con cột rồi.
Vương bà lại nói:
- Nếu có một người nào như là nương tử, tôi đến mách cho, liệu
có lấy làm vợ cả được không?
- Cha mẹ tôi đã mất, thì tôi tự chủ, có ai ngăn cản vào đấy.
Vương bà nói:
- Rồi tôi sẽ kiếm quan nhân một người vừa ý muốn.
- Cám ơn Vương bà, tôi chỉ ngại vợ chồng không tốt số mà
thôi.
Bấy giờ Tây Môn Khánh chuyện với Vương bà kẻ tung người hứng
với nhau một hồi.
Vương bà nói:
- Đương thích uống rượu, mà bầu đã cạn rồi, để tôi đi mua một
bầu rượu nữa nhá?
Tây Môn Khánh nói:
- Trong khăn gói tôi còn 5 lạng bạc đấy, xin dưa cho Vương bà
mua rượu về đây.
Vương bà nhận lấy, tạ lại mấy lời, rồi thấy hai người ý tứ đã
ăn nhau có rượu ngon.
Người đàn bà đáp:
- Thôi mua nữa làm chi, xin cho thế là đủ.
Nhưng nói thế thôi, chứ không chối hẳn.
Vương bà ra khỏi cửa, lấy dây buộc cửa lại, ra ngoài đường xa
ngồi chơi. Bấy giờ Tây Môn Khánh ở trong phòng với Kim Liên, liền rót rượu
khuyên mời, rồi lựa tay áo làm rơi chiếc đũa xuống đất, lại xuống ngay ở chỗ dưới
chân nàng, chàng mới vội cúi mình xuống nhặt, thấy hai gót chân nàng trắng nhỏ,
chiếc đũa ngay đấy, chàng không nhặt đũa, lại thò tay nắm gót chân nàng một
cái.
Người đàn bà cười nói:
- Quan nhân sao lại như vậy?
Tây Môn Khánh bèn quỳ xuống nói:
- Mong nương tử thương đến tôi đây!
Người đàn bà liền nâng Tây Môn Khánh lên, tỏ ý bằng lòng. Thế
rồi hai người vào phòng Vương bà cởi xiêm lột áo, vấy cuộc mây mưa...
Sau khi tan cuộc sửa soạn áo xiêm, thì Vương bà đẩy cửa bước
vào, giận nói:
- Hai người giở trò gì thế?
Tây Môn Khánh và người đàn bà nom thấy cả kinh!
Vương bà nói:
- Chao ôi! Chao ôi! Tôi mời chị đến đây may áo mà chị lại vụng
trộm tình yêu, Võ Đại biết đến, thì ta liên lụy, bất nhược ta đi bảo trước bây
giờ.
Nói xong chạy ra. Người đàn bà mặc quần xong rồi nói:
- Xin bà bớt giận.
Tây Môn Khánh cũng rằng:
- Xin bà nói khẽ cho.
Vương bà cười nói:
- Nếu muốn ta tha các người, thì phải theo một điều kiện.
Người đàn bà nói:
- Chả cứ một điều kiện, mười điều tôi cũng vâng theo.
Vương bà nói:
- Bắt đầu từ nay trở đi, nàng phải dấu trộm Võ Đại mà sang
đây với Đại quan nhân, không được phụ lời, thì ta mới thôi, nếu một ngày không
sang, thì ta bảo với Võ Đại.
Người đàn bà ấy y lời.
Vương bà lại nói:
- Tây Môn Khánh quan nhân, ngài chớ để lão già nói lắm. Công
việc mười phần đã xong hứa cho những cái gì, không được thất tín, nếu người phụ
ta, thì ta mách Võ Đại.
Tây Môn Khánh nói:
- Vương bà yên tâm, tôi không bao giờ thất tín.
Rồi ba người lại ngồi uống rượu với nhau vài chén nữa, thì đã
xế chiều. Người đàn bà nói:
Rồi ra đằng cửa sau, cuốn mành lên, thì Võ Đại vừa về.
Bấy giờ Vương bà bảo Tây Môn Khánh rằng:
- Thủ đoạn giỏi không?
- Xin bái phục Vương bà rồi. Tôi về nhà đem vàng đến cho bà
đây, và đem những thứ gì đã hứa.
- Tôi xin trong bóng cờ tinh, tấu khúc khải hoàn đây.
Tây Môn Khánh cười rồi đi.
Từ đó vợ Võ Đại cứ hằng ngày, vắng chồng, liền đi lẻn lối
sau, sang nhà cùng với Tây Môn Khánh ở trong phòng ân ái, tình ý với nhau gắn
chặt keo sơn. Thế rồi tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa, chỉ chừng nửa tháng
xóm giềng hàng phố đều biết chuyện này, chỉ có Võ Đại là không biết.
Bấy giờ hàng huyện có một cậu bé, chừng mười lăm mười sáu tuổi,
vốn họ Kiều, nhân vì theo hầu binh lính từ Vận Châu đến ở, nên gọi Vận Kha,
trong nhà còn bố già, cậu bé ấy tinh ranh, chỉ đem những hoa quả bán cho các
quán rượu ở trước huyện để sinh sống, thường bán chịu hàng cho Tây Môn Khánh.
Ngày kia có một dành quả tuyết lê, đem đến phố tìm Tây Môn Khánh, không gặp sau
có lẻ mau miệng bảo rằng:
- Vận Kha! Mầy muốn tìm hắn, thì ta chỉ cho một chỗ mà tìm.
Vận Kha nói:
- Chú ơi! Làm ơn bảo cho tôi biết hắn ở đâu để tôi bán lấy
vài chục tiền về nuôi sống cha già thì tôi cảm ơn lắm!
Người nhanh miệng ấy nói:
- Tây Môn Khánh bây giờ đã ôm ấp vợ Võ Đại bán bánh chưng hằng
ngày ở trong buồng Vương bà ở phố Tử Thạch, hắn ở trong ấy, chú mầy trẻ con, cứ
vào đấy chẳng ngại gì.
Vận Kha nghe nói tạ ơn người ấy, rồi ranh con đem cái rành quả
đi đến phố Tử Thạch, vào thẳng trong phòng trà, thì gặp ngay Vương bà ngồi ở
chõng ngoài, Vận Kha bỏ dành quả xuống chào hỏi.
Vương bà nói:
- Vận Kha! Mày đến đây có việc gì?
- Tôi muốn tìm Đại quan nhân để xin tiền tiêu!
- Đại quan nhân nào?
- Bà còn lạ gì ông ấy, tôi chỉ hỏi ông ấy,chứ còn hỏi ông nào
nữa?
- Đành rằng ông ấy nhưng cũng phải có họ tên mới được chứ?
- Phải, họ có hai chữ ấy mà.
- Hai chữ gì?
- Bà còn hỏi đùa mãi, tôi muốn tìm Tây Môn Khánh quan nhân chứ
còn ai nữa?
Nói xong chạy thộc vào trong nhà, Vương bà nắm lại mà mắng rằng:
- Ranh con đi đâu thế, nhà người tà có buồng trong nhà ngoài,
lại có chủ mà dám tự tiện vào được.
- Tôi tìm ông Tây Môn Khánh ra đây, bà còn giấu mãi.
- Ranh con, làm gì có Tây Môn Khánh ở đây?
- Không nên ăn cả một mình như thế, phải để phần cho tôi một
chút mới được. Người ta lại không biết rồi hay sao?
Vương bà quát ầm lên mắng rằng:
- Khỉ con, biết cái gì mà biết... ?
- Ối chao ôi! Lại còn giấu voi ruộng mạ mãi, tôi nói bây giờ,
chỉ sợ anh hàng bánh biết thì khốn đấy.
Vương bà lại càng nổi giận đùng đùng quát mắng lên rằng:
- Ranh con mày ở đâu đến đây mà nói láo thế?
Vận Kha cười nhạt mà rằng:
- Tôi đây là ranh con, thì bà cũng là bợm già chứ gì?
Vương bà càng tức giận, nắm lấy Vận Kha toan đánh cho mấy cái
tát. Vận Kha kêu lên rằng:
- Sao bà lại được đánh tôi.
Vương bà nói:
- Mày kêu to bà đánh bây giờ.
Nói rồi đánh cho mấy cái tát tai.
- Á, con sọm già dám đánh ta.
Vương bà liền tát luôn mấy cái nữa, lại hắt cả dành quả của Vận
Kha ra phố, và cố đuổi ra ngoài.
Vận Kha vừa khóc, vừa chửi, vừa chạy vừa lúi húi nhặt hoa qủa
bỏ vào dành, rồi chửi mà nói rằng:
- Được rồi, tao bảo cho mày, mày giấu được tao, thì tao đã có
người khác trị lại cho mày biết.
Nói xong liền xách dành giỏ mà đi thẳng.
Lời bàn của Thánh Thán:
Tả Võ Nhị coi anh như cha, vốn là đặc tính của hào kiệt có chỗ
hơn người, song ta coi chẳng khó về việc Võ Đại coi em như con vậy. Chao ôi!
Trong tình anh em đến như ngày nay sao dễ xử vậy thay! Một lần vì Võ Nhị đánh
người, bị lây đến anh,phải tìm nơi xa bán bánh, một lần nữa Võ Nhị đã hiển đạt,
như quên cả tình anh, như thế một lần khiến tan nát vì nỗi tiểu nhân và một lần
khiến tan nát về lối quân tử vậy.
Hỡi ơi! Tan nát về thói tiểu nhân, lỗi vì thô bỉ, còn có thể
cứu lại! Tan nát về lối quân tử, lỗi vì giả dối, không thể cứu lại, lỗi vì Tiểu
nhân do trong lòng thô bỉ, mà ngoài không đến nỗi giả dối, còn có thể đem giáo
hóa của thánh vương mà dạy lại. Lỗi vì Quân tử, do sự giả dối bên trong lòng
cũng thô bỉ mà thôi, thì không còn đem giáo hóa thánh vương mà dạy nổi? Cho nên
Võ Nhị coi anh như cha, vốn đạo của người học vấn, Võ Đại coi em như con, vốn
là của người sẵn tính trời, do sự học vấn mà thờ anh như cha được như Võ Nhị
người ta còn có thể bắt chước. Do tính trời mà coi em như con được như Võ Đại,
khó mà bắt chước được như thế? Cho nên tác giả tả Võ Nhị, để cứu lại cái thô bỉ
của tiểu nhân, tả Võ Đại, để cứu lại cái giả dối của quân tử. Hỡi ơi! Trong
tình anh em, một gốc sinh ra tất phải yêu nhau vốn sẵn tính trời, học vấn cũng
đến như thế vậy bất đắc dĩ phải bỏ học vấn như tiểu nhân kia, theo sẵn tính trời
mà xử, dù cho quân tử cũng không khỏi tính trời.
Hồi trên tả Võ Nhị đả hổ, chuyển rừng động núi, khiến người
khiếp sợ. Hồi này tả Võ Nhị gặp chị dâu, đào non liễu yếu, khiến người mê say,
ta từng thấy sau khi múa đao rồi thổi sáo ngâm thơ. Sau khi chém giết, uống rượu
vui vầy, sao mà Thi Âm khéo tiếp tay tả ra như vậy?
Tả Tây Môn Khánh mấy phen xoay chuyển, khéo về cứu thế, khéo
về đổi thay, khéo về cần gấp, khéo về lạnh lùng, khéo về thong thả, khéo về muốn
ngay, khéo về phá đi, khéo về mượn lại, khéo về đón lấy, khéo về đẩy ra... Thực
là một thiên gấm bật mầu hoa, rõ ra văn tự!
Tả Vương bà định kế, chỉ mấy câu là đủ, xem hắn từng một dư một
kiệt, một nuốt một nhả, tùy tâm gỡ ý, bày ra năm phần Quang, trước khi bày mười
phần Quang, còn đặt ra năm điều kiện, thực tác giả tài nhiều bằng bể thế bút mực
như sóng lên trào xuống, diễn xuất không cùng!
Suốt hồi tả Tây Môn Khánh muốn gian dâm, chỗ chỗ đều vào
trong tay bợm Già thao túng, miêu tả ra một lũ tiểu nhân, chỉ cùng một việc, lại
đều theo sở thích riêng nhau, kẻ tiền tài người sắc đẹp, thực là đáng ghét và
đáng cười, ta thường dậy sớm mở cửa nom ra đường, thiết nghĩ biết bao kẻ ruổi
rong xe ngựa chẳng ai vì một nếp sống riêng, nay đọc đến hồi này mà cười cho sự
thế.
Hồi 24:
Bày mưu gian, bợm già dỗ khách;
Ham tình dục, gái đĩ giết chồng.
Khi đó Vận Kha tức giận xách giỏ đi thẳng tới chỗ Võ Đại bán
hàng. Vừa đi tới nơi thấy Võ Đại gánh hàng ở phố kia, mới lại gần kiếm chuyện hỏi
đùa rằng:
- Lâu nay không gặp Đại Lang, sao dạo này béo thế?
Võ Đại nói:
- Xưa nay ta vẫn bình dạng như thế này có gì làm béo?
- Hôm nọ ta vẫn tìm lúa ngô mà không đâu có, người ta nói nhà
Đại Lang có.
- Nhà ta không nuôi ngan vịt, làm gì có thứ ấy?
- Nhà ông không có nuôi ngan vịt, thì ông được vợ để cho ăn
được béo thế kia?
Võ Đại mắng rằng:
- Đồ khỉ này, vợ tao không đi chim chuột với ai, sao mày dám
bảo tao là vịt?
- Phải, vợ ông không chim trai, nhưng có trai chim vợ ông đấy.
Võ Đại lại hỏi rằng:
- Ai đấy! Chú nói anh nghe, anh có biết gì đâu?
Vận Kha nói:
- Tôi nói đùa thế thôi, nhưng có nói ra thực thì cũng ngại,
chả lẽ vợ ông như thế mà ông lại không biết hay sao?
Võ Đại nói:
- Chú bảo thực cho anh, tôi xin biếu chú mươi cái bánh.
- Thôi, không cần đến bánh chưng, có muốn hỏi đến ai, thì mời
tôi vào quán uống vài chén rượu, tôi nói khẽ mà nghe.
- Được, chú muốn uống rượu, thì theo tôi vào hàng.
Võ Đại quảy gánh cùng Vận Kha vào một quán hàng. Khi đặt gánh
xuống vào hàng hai người cùng ngồi, Võ Đại lấy rượu thịt, và bóc một vài chiếc
bánh chưng, rồi mời Vận Kha.
Vận Kha nói:
- Rượu uống ít thôi, lấy thêm thịt ăn thì tốt.
Võ Đại bảo Vận Kha:
- Chú nói cho tôi biết đi?
- Việc này không thể vội, đợi tôi ăn uống xong đã.
Sau khi ăn xong, Võ Đại hỏi, thì Vận Kha nói cho hay rằng:
- Vừa rồi, tôi đem một giỏ quả tuyết lê, tìm Tây Môn Khánh để
đòi tiền, mà tìm y không thấy, có người bảo ở trong buồng Vương bà, cùng với vợ
Võ Đại dan díu bấy lâu, tôi mới đến đấy cốt để kiếm y mà hỏi tiền nợ, không may
bị mụ Vương bà chó má ấy, không cho vào buồng tìm, rồi sinh sự lôi thôi mụ tát
tôi mấy cái, mới tức bực mà tìm đến Đại Lang, nếu lúc nãy không kiếm một vài
câu nói khích thì ông đâu có chịu hỏi tôi.
- Có thực thế ư?
- Tôi bảo ông là vịt, để cho hai đứa nói vui sướng với nhau
mà! Tôi nói thực, ông cứ đến buồng Vương bà, xem thực hay giả?
- Tôi có biết đâu, vợ tôi vẫn nói là sang Vương bà khâu vá,
khi về thấy má ửng hồng, tôi đã hơi nghi, ai ngờ lại thế, bây giờ tôi gửi hàng
đây, để đi bắt gian phu dâm phụ có nên chăng?
- Ông già cả mà không hiểu biết, con mụ chó Vương bà nó ghê gớm
lắm, làm sao ông dám ra tay, nó ba người ám hiệu cho nhau, như ông đến nó nom
thấy, thì họ lẩn ngay thoát được, mà Tây Môn Khánh lại thằng côn đồ, nó đánh
cho ông mươi cái, thì nguy nếu có kiện thưa, nó có tiền có thế, mà ông một mình
ở đây, thì làm sao, có thể nó giết ông cho khỏi mang tiếng.
Võ Đại nghe nói, liền bảo rằng:
- Phải, chú nói đúng, vậy làm thế nào?
- Tôi bị con mụ Vương bà chó má ấy đánh còn tức giận đây, hôm
nay có lẽ chúng tan rồi, phải rình ngày mai mới được. Vậy chiều nay ông có về
nhà, thì cứ như mọi ngày, đừng nói năng gì và lộ ra nghi hoặc tức tối, rồi ngày
mai làm ít hàng thôi, quảy ra chợ bán, tôi ở ngõ hẻm đợi ông, ông đặt gánh hàng
ở đó, tôi tới, tôi đến khiêu khích mụ già, cho nó đánh tôi, tôi làm cho giỏ quả
rơi ra, ông chạy giả vờ can rồi nhặt hộ, khi ấy, tôi nắm lấy mụ già sinh sự,
thì ông chạy thộc vào buồng mà bắt lấy gian dâm phụ, kế ấy thế nào?
- Hay quá! Thế mới thực là anh em, tôi có ít tiền đãi chú
mang về mua gạo, sáng mai cơm nước xong, đến phổ Tử Thạch đợi tôi để làm việc ấy.
Vận Kha nhận tiền và mấy cái bánh rồi về, Võ Đại trả tiền rượu,
đi bán bánh một lúc nữa về nhà. Nói đến vợ Võ Đại bấy lâu nay khinh miệt chồng,
thì cũng biết rằng không phải, nay đã khá hơn trước ít nhiều, khi thấy Võ Đại về,
cũng vui vẻ như mọi ngày, thấy chồng có dáng uống rượu thì hỏi rằng:
- Đại Lang hôm nay uống rượu ở đâu hẳn?
- Có, gặp mấy người quen uống ở hàng mấy chén với nhau thôi.
Người vợ lại bày rượu cơm cùng chồng ăn uống, đêm hôm ấy Võ Đại
không giở đến việc nghi ngờ.
Sáng ra Võ Đại chỉ làm ít bánh, rồi gánh đi bán, người vợ bấy
lâu chỉ mải mê với trai, có biết đâu làm ít hay nhiều, đợi chồng đi khỏi, lại lẻn
cửa sau sang buồng bợm già để đợi tình nhân.
Võ Đại quảy gánh ra ngõ hẻm, đón Vận Kha rồi hỏi:
- Thế nào, chú thấy nó đến chưa?
- Nó chưa đến, ông hãy đi bán hàng một lát đã. Rồi ông đến
bên tả ngõ hẻm này đợi tôi.
Võ Đại quảy hàng đi bán một lúc, rồi trở lại; Vận Kha bảo Võ
Đại:
- Bây giờ chúng nói với nhau rồi, để tôi mang giỏ quả đến
khiêu chiến Vương bà, rồi thi hành kế.
Võ Đại y lời gánh hàng gửi một chỗ, rồi ra rình ở một nơi.
Vận Kha đem giỏ đến hàng Vương bà rồi mắng rằng:
- Con mụ già chó má kia! Sao hôm qua mày đánh tao.
Vương bà chợt thấy Vận Kha lại đến mắng chửi, liền uất khí
xông lên, chạy ra nắm lấy Vận Kha mà đánh, mắng luôn:
- Ranh con! Tao với mày không có chuyện gì, sao lại cứ đến
đây chửi bởi?
- Tao chửi mày là đồ sọm già với tính chó má đấy!
Vương bà tức quá nắm lấy mà đánh, làm Vận Kha tung cái giỏ
ra, rồi Vận Kha kêu to lên. Hai bên ẩu đả nhau ấm ỹ, thì chợt thấy Võ Đại sắn
quần áo ở đâu chạy thẳng vào buồng. Vương bà định bỏ ranh con ra, để chạy lại
ngăn Võ Đại, nhưng ranh con nắm chặt lấy không buông, Vương bà chỉ còn cách kêu
lên "Võ Đại đến ", làm cho người vợ nghe thấy vội vàng chạy ra đóng
chặt cửa lại. Tây Môn Khánh chui xuống gầm giường để trốn.
Võ Đại đấm phá cửa buồng không nổi, miệng kêu gào lên
"Gian phu dâm phụ"...Người vợ nói ra:
- Bấy lâu múa mỏ khoe tài, bây giờ mới biết là đồ hổ giấy, ai
sợ chi ngươi!
Người vợ nói câu này, có ý bảo Tây Môn Khánh ra đánh Võ Đại,
cướp đường mà chạy. Tây Môn Khánh nằm ở gầm giường nghe chị chàng nói, thì hiểu
ý ngay, liền đâm choàng chạy ra mở tung cánh cửa mà nói rằng:
- Đứa nào dám đánh ta?
Võ Đại thấy vậy, vừa toan nắm lấy Tây Môn Khánh, thì bị Tây
Môn Khánh giơ chân trái đá cho một cái vào bụng, ngã lật ra đằng sau, rồi rảo
bước chạy cút thẳng một mạch về nhà.
Vận Kha thấy Võ Đại bị ngã, Tây Môn Khánh chạy mất, bèn bỏ
Vương bà mà chạy nốt. Bấy giờ phố sá đổ ra xem, thì thấy Tây Môn Khánh đã trốn
rồi, nên không ai nói năng gì đến nữa. Vương bà thấy Vận Kha buông tha ra, liền
chạy vào trong buồng, thấy Võ Đại mồm mép chảy máu ra lênh láng, mà nét mặt xám
hẳn lại, liền gọi chị chàng kia ra lấy nước lạnh rửa sạch, rồi vực theo ngõ hẻm
về nhà, đưa lên gác nằm đó.
Ngày hôm sau Tây Môn Khánh dò là tin tức, thấy không động chạm
gì thưa kiện, thì lại điềm nhiên đi lại như cũ. Còn Võ Đại thì một mình ốm đau
nằm ở trên giường, tới bốn năm ngày vẫn chưa dậy được, nước uống không có nước,
mà vợ không thèm đếm xỉa đến, chỉ sáng nào cũng phấn sáp chỉnh đốn quần áo đi
mãi đến chiều, khi về thì lại hai má đỏ hồng, rõ ra một tuồng dâm đãng. Võ Đại
thấy vậy thì cay đắng trong lòng, mà không biết làm sao được.
Một hôm chàng gọi vợ đến mà bảo rằng:
- Công chuyện của các ngươi làm ta biết cả rồi, ta định bắt đứa
gian tặc kia, ai ngờ ngươi lại hùa với nó mà đánh ta sống giở chết giở thế này,
mà ngươi cứ hú hí vui đùa với nhau. Ta ngày nay dẫu chết cũng không làm gì, song
còn em ta là Võ Nhị, thì các ngươi đã biết, nó không phải tay vừa, nếu nay mai
nó về đây, tất sinh sự lôi thôi, không thể nào im được. Vậy các ngươi tử tế
trông nom cho ta, thì khi hắn về ta sẽ ngơ cho, bằng không thì bấy giờ ta sẽ liệu.
Chị chàng nghe vậy không nói năng chi cả, cứ lẳng lặng đi
sang bên cạnh mà thuật lại cho Vương bà, Tây Môn Khánh biết.
Tây Môn Khánh nghe vậy thì dậm chân xuống đất mà kêu lên rằng:
- Trời ơi, nếu vậy thì biết làm thế nào? Ta phải biết rằng Võ
Đô Đầu đánh hổ núi Cảnh Dương là một tay đệ nhất hảo hán ở Huyện Thanh Hà, nếu
mình chạm vía với lão ấy thì còn sống thế nào được? Cái ân ái của đôi ta đến
quãng này thực là khó nghĩ, không lẽ nào cho đành. Vậy còn biết làm sao cho được?
Vương bà nghe nói thì cười nhạt mà rằng:
- Tôi chưa từng thấy một người đẩy thuyền như tôi đây còn
chưa sợ, mà một người cầm lái như cậu đã cuống chân tay như thế bao giờ... !
Tôi thực là làm một thằng con trai, nhưng đến những lúc này
thì thực không có cách gì gỡ cho ra được, chẳng hay bà có kế gì không?
- Các người định làm vợ chồng lâu hay làm vợ chồng ngắn?
- Thế nào là vợ chồng lâu, thế nào là vợ chồng ngắn?
- Nếu làm vợ chồng ngắn thì bắt đầu từ hôm nay hãy rẽ duyên
đi đôi ngả, đợi khi Võ Đại yếu dậy sẽ nói lại với hắn, thì Võ Nhị về đây tất cũng
im chuyện rồi sau này nếu khi Võ Nhị có đi việc quan đâu thì bấy giờ lại xum họp
cùng nhau, thế là gọn nhất. Bằng muốn làm vợ chồng lâu mà cùng nhau sống mãi
mãi không còn sợ đến điều chi, thì tôi có một kế sách này, nhưng cũng khó lòng
bảo cho các người được.
- Vâng, xin bà hết sức che chở mà bảo cho chúng tôi lấy cách
lâu dài với nhau.
- Cái kế sách này cần dùng đến một vật, giá mọi nhà thì không
có, nhưng giời xui khiến vậy nhà cậu lại sẵn rồi.
- Cần có vật gì, hay là bà bảo tôi khoét mắt đưa cho bà chăng?
- Hiện bây giờ lão ấy đương đau yếu ta nên thừa cơ mà hạ
thủ ngay mới được. Cậu về lấy một miếng tì sương đem đến đây cho nương tử mua một
liều thuốc đau bụng về cho lão uống, đến khi chết rồi thì ta đem đốt đi thế là
hết tích. Sau này Võ Nhị có về đến đây thì chị dâu với em chồng có phép nào mà
tra hỏi được, bấy giờ cũng đành chịu thôi chứ gì? Đoạn rồi ta cứ đi lại kín đáo
với nhau, đợi khi hết tang thì sẽ cưới về, như thế há không phải một kế trăm
năm bền vững hay sao?
- Bà ôi! Nếu vậy thì tội nghiệp lắm! Nhưng mà không làm thế
nào cũng được.
- Cậu phải biết rằng: Giẫy cỏ phải trừ gốc, nếu không cẩn thận
thì tất là khổ về sau, cậu phải về mau lấy đem đến đây, để tôi bảo nương tử hạ
thủ, rồi khi thành công phải đền ơn tôi mới được.
Độc thay tâm địa đàn bà,
Mưu kia thế nọ chẳng qua vì tiền.
Xét xoi chăng hỡi Hoàng Thiên?
Sinh chi những giống đảo điên khổ đời.
Bấy giờ ma ngũ sắc đương ám ảnh mê hồn làm cho Tây Môn Khánh
mất cả tâm thần trí tuệ, không còn trông trước trông sau chi nữa, bèn lập tức
đi mau về nhà mà lấy ngay thuốc độc đem đến đưa cho Vương bà.
Vương bà cầm lấy thuốc độc rồi bảo chị chàng kia rằng:
- Vừa rồi Võ Đại bảo nàng nên trông nom tử tế thì sau này
không nói với Võ Nhị nữa, vậy bây giờ nàng nên nhân câu ấy mà làm ra mặt thương
yêu hối hận để phục dịch anh ta. Nếu anh ta có đòi uống thuốc thì nàng pha một
chút tỳ sương này vào thuốc đau bụng mà đổ cho anh ta uống; rồi chạy lánh đi một
chỗ. Đến khi nào thuốc ngấm làm cho đứt ruột đứt gan mà anh ta kêu lên, thì
nàng sẽ đem chăn vào đắp kín cho hắn, mà phải cẩn thận vững vàng chớ cho ai
nghe tiếng mới được. Đoạn rồi đun sẵn một nồi nước nóng và lấy một khăn lau để
đó, hễ khi anh ta chết rồi thì thất khiến phải chảy máu tươi, bấy giờ nàng sẽ bỏ
chăn ra, mà lấy giẻ sấp nước nóng, lau kỹ đi một lượt, rồi sau sẽ khâm liệm bỏ
vào áo quan mà khiêng đi thiêu hóa là xong...
Chị chàng kia ung dung đáp rằng:
- Làm thế thì tốt lắm nhưng tay chân tôi mềm yếu, không biết
rằng có thi hành nổi hay không?
Vương bà nói:
- Cái đó thì khó gì? Bấy giờ nàng sẽ gọi cửa đây, rồi tôi
sang giúp cho.
Tây Môn Khánh lấy làm đắc sách, bảo hai người rằng:
- Các bà phải làm ăn cho cẩn thận, rồi sáng mai tôi sẽ đến
đây xem sao?
Nói xong từ biệt mà về. Bấy giờ Vương bà mài tỳ sương nhỏ biến
ra rồi bọc lại cẩn thận cho chị chàng kia. Chị chàng ta giắt thuốc vào mình, rồi
trở về nhà, bèn đến chỗ Võ Đại nằm, thấy Võ Đại đã mê mệt lờ đờ như người sắp
chết, nàng liền giả cách ra chiều thương xót mà khóc òa lên. Võ Đại thấy vậy, hỏi
rằng:
- Làm sao mà nàng khóc?
Chị chàng lau nước mắt đáp rằng:
- Tôi trót dại bị người ta lừa dối để đến nỗi chàng phải chịu
thiệt thòi như thế, thực trong lòng hối hận vô cùng. Nay tôi tìm được một nơi
thuốc hay, nhưng chỉ sợ chàng còn nghi ngại, nên không dám đem về đưa chàng uống.
Võ Đại rên rỉ mà rằng:
- Nếu nàng cứu được cho ta khỏi, thì ta không còn chấp chi những
chuyện trước, mà cũng không khi nào nói với Võ Nhị. Nàng cứ lấy thuốc về đây
cho ta uống.
Chị chàng nghe nói vội vàng lấy ít tiền chạy sang nhà Vương
bà ngồi, bảo Vương bà mua cho một liều thuốc đau bụng, rồi xăm xăm đưa về cho
Võ Đại xem mà nói rằng:
- Đây thứ thuốc đau ruột, thầy thuốc dặn đến nửa đêm uống, rồi
lấy chăn đắp kín mít cho toát mồ hôi ra, là sáng ngày khỏi
Võ Đại gật đầu khen rằng:
- Nếu vậy thì tốt lắm, đêm nay nàng phải tỉnh ngủ mà cho tôi
uống mới được.
Bấy giờ trời đã tối mịt, chị chàng kia thắp ngọn đèn lên để
đó, rồi bắc nồi nước lã lên lò, rồi bỏ một cái khăn lay vào đó đun sẵn cho
nóng. Đến đầu trống canh ba, chị chàng bỏ thuốc độc vào chén, rồi múc một chén
nước lã lên hỏi Võ Đại lấy thuốc đau bụng mà hòa lẫn vào đó, rồi đổ cho Võ Đại
uống.
Võ Đại uống được một hớp, rồi bảo với vợ rằng:
- Sao thuốc này khó uống quá?
Chị chàng kia đáp rằng:
- Sao cho khỏi bệnh là hơn, cần gì khó uống.
Nói xong lại nâng chén thuốc đổ cho Võ Đại, Võ Đại vừa há mồm
ra, thì chị chàng cầm cả thuốc đổ dốc vào cuống họng, rồi để nằm vật xuống đó
mà vội vàng đứng dậy chạy ra. Được một lát thì Võ Đại kêu lên một tiếng
"Oái trời ôi!" rồi nói lên rằng:
- Nàng ơi sao uống thuốc vào, lại đau ruột quá lên thế?
Chị chàng thấy kêu như vậy, liền chạy đến kéo chăn lên mà đắp
trùm cả đầu đuôi cho rõ kín.
Võ Đại lại kêu lên rằng:
- Hơi tức lắm không sao chịu được.
Chị chàng đứng bên cạnh đáp rằng:
- Thầy thuốc dặn phải thế mới ra được mồ hôi. Nói đoạn lại sợ
Võ Đại cựa dậy, liền nhảy lên trên mình Võ Đại, mà giữ chặt lấy bốn đầu chăn,
làm cho anh kia không sao mà cựa được. Võ Đại nằm trong chăn kêu lên một tiếng,
thở hộc lên mấy hơi nữa, rồi ruột xé gan bào, phút chốc đã hồn về chín suối.
Thương ôi!
Vì đâu đạo nghĩa tan tành,
Càng trông thế thái nhân tình càng cay!
Mênh mang trời rộng đất dầy,
Nộc tình giết hại xưa nay bao người?
Căm gan muốn đập kêu trời,
Bày chi tai mắt cho đời oái oăm?
Khi ấy chị chàng đốn mạt kia mở chăn ra, thấy Võ Đại đã nằm
chết ra thẳng đuỗn, nghiến hai hàm răng làm một, mà trong thất khiếu đều chảy
máu tươi ra, nàng liền nhảy xuống giường, rồi chạy xuống gác đi ra cửa sau lên
tiếng đằng hắng cho Vương bà biết.
Vương bà nghe tiếng, liền chạy ra hỏi rằng:
- Đã xong chưa?
- Xong rồi, nhưng chân tay mềm yếu, không làm sao thi thố được.
- Có khó gì, để tôi sang giúp cho.
Nói đoạn liến xắn áo đi sang, bưng nồi nước nóng lên gác, cuốn
chăn lại mà lau sạch máu me cho Võ Đại rồi khiêng xuống dưới gác, lấy áo xiêm
khăn giấy mặc cho Võ Đại tử tế, đặt lên giương nằm, lấy mảnh giấy phủ trên mặt,
và lấy cái khăn sạch sẽ đắp lên cho chàng. Đoạn rồi hai người lại lên trên gác
dọn dẹp gọn gàng đâu đấy, rồi Vương bà trở về nhà yên nghỉ, chị chàng kia vờ
vĩnh khóc cho đến sáng. Vào khoảng đầu trống canh năm, Tây Môn Khánh đã bò đến
nhà Vương bà để dò hỏi tin tức, Vương bà liền đem đầu đuôi mọi chuyện thuật lại
cho chàng nghe, rồi chàng đưa tiền cho Vương bà, để mua sắm quan khách cùng các
đồ tống táng.
Bấy giờ Vương bà gọi chị chàng độc ác kia sang để bày chuyện.
Chị chàng kia nói với Tây Môn Khánh rằng:
- Bây giờ Võ Đại đã chết rồi, còn thân tôi đây hoàn toàn
trông cậy vào cậu cả đấy.
Tây Môn Khánh nói:
- Cái đó tất nhiên, nàng không cần phải nói:
Vương bà nói rằng:
- Bây giờ có một việc rất cần, là tên Đoàn Cầu Hà Cửu Thúc, vốn
là người sắc sảo xưa nay, nếu lỡ ra nó biết mà nó không chịu khâm liệm cho, thì
bấy giỡ sẽ làm ra sao?
Tây Môn Khánh nói:
- Việc đó để tôi bảo hắn, tất là phải nghe lời.
Vương bà nói:
- Nếu vậy thì cậu phải đi ngay mới được.
Tây Môn Khánh nhận lời rồi đi ngay. Bấy giờ trời đã sáng tỏ,
Vương bà đi mua quan quách cùng các thức vàng hương đem về cho chị chàng kia.
Đoạn rồi phố sá đôi bên đổ đến thăm viếng, thì chị chàng ta lại giả vờ khóc
lóc, làm ra bộ thương xót vô cùng.
Phố sá có hỏi đến bệnh tật gì, vì sao mà chết thì chị chàng
đáp rằng:
- Chỉ vì chứng đau bụng chữa mãi không khỏi, rồi sau càng
ngày càng nặng, mà không sao cứu được nữa.
Chị chàng nói xong, lại làm bộ khóc váng cả nhà lên. Đám phố
sá thấy vậy, ai cũng biết là Võ Đại chết oan, song không có việc gì can thiệp đến
ai, nên cũng làm ngơ mặc đó mà khuyên giải mấy câu cho xong chuyện, rồi ai về
nhà nấy. Vương bà cho đi mời Hà Cửu Thúc về để khâm liệm, và đón hai vị sư về để
làm độ vong.
Bấy giờ Hà Cửu Thúc được tin mời, liền sai bọn đầy tớ đi trước
đến để sắp sửa đồ đạc, rồi mình lững thững đi sau. Khi tới đầu phố Tử Thạch bỗng
gặp Tây Môn Khánh gọi mà bảo rằng:
- Hà Cửu Thúc đi đâu bây giờ đấy.
Hà Cửu Thúc đáp:
- Tôi đến khâm liệm cho Võ Đại Lang ở trong phố đây.
- Hãy đến đây tôi nói câu chuyện này đã.
Tây Môn Khánh nói xong, bèn dắt Cửu Thúc vào một hàng rượu ở
gần góc phố đó, rồi mời vào nói chuyện.
Hà Cửu Thúc chối từ rằng:
- Chúng tôi đâu dám ngồi với ngài như thế.
Tây Môn Khánh nói:
- Cần chi Cửu Thúc phải khiêm tốn như thế, hãy cứ ngồi đây
tôi nói chuyện.
Nói đoạn hai người cùng ngồi xuống, rồi gọi nhà hàng đem rượu
cùng hoa quả thức ăn lên mời Cửu Thúc cùng uống.
Cửu Thúc nghĩ thầm trong bụng: "Anh chàng này có ăn uống
với mình bao giờ, cái này tất lại có chuyện rắc rối gì đây?" Nghĩ đoạn hai
người cùng uống rượu với nhau.
Một lát Tây Môn Khánh lấy 10 lạng bạc ra để bàn, bảo Hà Cửu
Thúc rằng:
- Cái này Cửu Thúc hãy nhận lấy cho, rồi sau đây tôi xin đưa
tạ ơn nữa.
Hà Cửu Thúc chấp tay đáp rằng:
- Chúng tôi không có công lao gì, lẽ đâu nhận tiền của ngài,
vả chăng ngài có sai bảo gì, chúng tôi cũng không dám thế.
- Không, Cửu Thúc cứ cầm lấy, rồi tôi nói chuyện.
- Vâng, xin ngài hãy cứ nói, thế nào chúng tôi cũng xin vâng.
- Tôi chỉ có một việc là lát nữa Cửu Thúc khâm liệm cho Võ Đại,
thì Cửu Thúc che đậy mà kín đáo giúp cho, thì tôi cảm ơn lắm.
- Việc ấy tầm thường lắm, có chi tôi dám nhận tiền.
- Nếu không nhận tiền là Cửu Thúc không chịu giúp tôi rồi,
xin cứ lấy cho.
Hà Cửu Thúc vốn xưa nay sợ Tây Môn Khánh là tay gian hoạt,
hay đi lị đám quan tư mà bắt nạt đám dân gian, nên bất đắc dĩ phải nhận lấy rồi
cáo từ mà ra đi.
Khi bước chân ra khỏi cửa, Tây Môn Khánh lại dặn với rằng:
- Cửu Thúc nhớ chớ để tiết lộ mới được, rồi sau sẽ tạ ơn. - Cửu
Thúc vâng lời rồi chia tay mỗi người mỗi ngả. Hà Cửu Thúc vừa đi vừa nghĩ lẩm
nhẩm: "Quái lạ, ta liệm cho Võ Đại, thì việc gì đến anh chàng này, mà lại
cho nhiều tiền như thế? Chẳng hay ở trong lại có điều chi rắc rối đó chăng?
"Chàng nghĩ vậy, thì trong bụng lấy làm nghi hoặc vô cùng, khi tới trước cửa
nhà Võ Đại, đã thấy những đầy tớ đứng đợi ở đó. Cửu Thúc hỏi rằng:
- Võ Đại chết về bệnh gì thế?
Lũ đầy tớ nói rằng:
- Chúng tôi thấy người nhà nói là bị đau bụng mà chết.
Hà Cửu Thúc nghe đoạn, vén bức rèm bước vào thấy Vương bà đón
mà nói rằng:
- Sao Hà Cửu Thúc đến chậm thế?
Hà Cửu Thúc đáp:
- Tôi bận có tí việc, nên chậm một chút.
Bấy giờ vợ Võ Đại cũng giả vờ mặc áo xiêm trắng, khóc từ
trong nhà mà đi ra.Hà Cửu Thúc liền nói rằng:
- Thôi, nương tử khóc làm gì nữa? Tội nghiệp! Đại Lang mất thế
mà tôi không biết gì cả.
Chị chàng lại bưng vờ lên mặt mà nói rằng:
- Khốn nạn Đại Lang nhà tôi chỉ đau bụng có năm ba hôm mà thiệt
mạng, thực là cay đắng cho tôi lắm.
Cửu Thúc nhìn kỹ chị chàng một lượt, rồi tự nói một mình rằng:
"Xưa nay chỉ nghe tiếng Võ Đại nương tử là đẹp, nay mới biêt được rõ người
như thế, cái mười lạng bạc của anh chàng Tây Môn Khánh nầy, tất là có duyên cớ
chi đây!" Nghĩ đoạn chạy vào chỗ xác Võ Đại nằm, cất cành phan lên, mở tờ
giấy phủ mặt ra, rồi dùng hai con mắt thần trong suốt như bảo ngọc, mà định
tình nhìn kỹ vào mặt Võ Đại. Đoạn rồi bỗng dưng kêu lên một tiếng ngã vật ra đằng
sau, miệng hộc máu ra; năm đầu ngón tay tím lại, nét mặt tái nhợt đi, mà hai
con mắt lờ đờ như người sắp chết vậy. Cả nhà thấy vậy, ai nấy đều kinh ngạc,
không hiểu ra ý làm sao. Than ơi!
Máu tình pha lẫn tỏi tanh,
Lấy ai cứu vớt phù sinh cho đời?
Bắc thang lên hỏi ông trời,
Thuốc đâu chữa được con người táng tâm?
Đường nhân lối nghĩa âm thầm,
Nghe như nước réo non gầm đâu đây?
Giấc tình một tỉnh mười say,
Tiền nhân hậu quả sau này xem sao?
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi này kết lại hồi trên tả Tây Môn Phan Thị gian dâm, để này
ra hồi sau Võ Nhị báo thù, cũng là văn tự tả qua, song từng chỗ đều tả ra tinh
tế, chứ không tả sơ sài, dù không phải là văn chính truyện.
Đoạn thứ nhất tả Vận Kha định kế, đoạn thứ hai tả Võ Đại bắt
gian, đoạn thứ ba tả Vương bà giúp sức, đoạn thứ tư tả dâm phụ giết chồng, đến
đoạn cuối tả Cửu Thúc suy nghĩ, tinh thần từng đoạn, xuất sắc từng việc, đừng
cho là hồi nhỏ coi thường.
Tả tâm độc của gái đĩ, mấy lần toan gấp sách không xem, muốn
chóng đến hồi sau xem báo thù cho khoái, như đánh trống mà tẩy uế đi.
Hồi 25:
Cửu Thúc giấu xương chờ khách hiệp;
Võ Tòng giết chị tế hồn anh.
Lúc đó Hà Cửu Thúc nằm vật xuống, thì người nhà người cửa đều
xúm đen cả vào, kẻ thì phun nước, người thì kêu gọi, hồi lâu mới dần dần tỉnh dậy,
rồi Vương bà sai người vực về nhà để chữa.
Khi lũ đầy tớ vực Cửu Thúc về tới nhà, đặt nằm ở trên giường,người
vợ thấy vậy bèn đến bên cạnh khóc lóc mà nói rằng:
- Lúc bước chân ra đi thì hớn hở vui cười, sao bây giờ trở về
thì lại như thế? Xưa nay nào có thế bao giờ?
Bấy giờ Cửu Thúc trông ra không có ai ở đó, bèn bảo sẽ với
người vợ rằng:
- Nàng không phải lo nghĩ, tôi đây có việc gì đâu? Cái này chỉ
vì sáng hôm nay khi tôi ra đi, gặp Tây Môn Khánh là anh chàng bán thuốc trước cửa
huyện, mời đi đánh chén, mà lại đưa mười lạng bạc, mà dặn việc khâm liệm Võ Đại
nên cẩn thận kín đáo giúp cho. Sau đến nhà Võ Đại trông thấy chị chàng ấy không
phải là người lương thiện, thì trong bụng đã hơi có ý nghi ngờ. Kịp đến lúc
trông vào mặt Võ Đại, thì quả nhiên thấy nét mặt tím bầm, trong thất khiếu đều
có vết máu, mà trên môi đều có lộ vết răng cắn vào, chắc là chết vì trúng độc.
Bấy giờ đã toan hô hoán lên, song ngặt vì hiện đấy không có ai là người chủ
trương, mà dây với thằng Tây Môn Khánh không phải tay vừa tất là lỡ chuyện. Sau
cũng toan im đi khâm liệm cho xong, nhưng lại sợ Võ Đại có người em là Võ Đô Đầu
đánh hổ trên núi Cảnh Dương khi trước, vốn là một tay giết người mà không nháy
mắt, nay mai sắp về tới đây, thì việc này phải lôi thôi không tài nào tránh khỏi...
Người vợ nghe đến đó thì nói luôn rằng:
- Phải, mấy hôm nọ tôi đã nghe rằng, con ông Kiều Lão ở phố
sau là Vận Kha, đến phố Tử Thạch giúp Võ Đại bắt gian phu ầm cả phố lên, có lẽ
là việc ấy hẳn, để tôi hỏi hắn xem sao? Còn đằng kia cứ để đám đầy tớ khâm liệm
cho người ta, nếu người ta còn quàn đấy, để đợi Võ Đô Đầu về mới chôn, hoặc đem
chôn ngay thì cũng chẳng việc gì mà ngại. Duy họ đem siêu hóa đi, thì tất là có
sự rắc rối, bây giờ ta sẽ đến đấy đánh lộn sòng mà thủ lấy mấy miếng trối xương
rồi bọc với mười lạng bạc kia để làm tang chứng, sau này Võ Đô đầu về đây mà
không hỏi đến thì ta cũng mặc đó, để lưu chút nhân tình với nhà Tây Môn Khánh,
mà thỉnh thoảng kiếm gạo của hắn cũng được chứ sao?
Hà Cửu Thúc nghe nói khen phải, liền gọi đám đầy tớ đến mà bảo
rằng:
- "Hôm nay ta bị trúng cảm, không thể nào đến đấy được,
vậy ta cho các ngươi cứ đến đấy khâm liệm cho người ta, rồi hỏi xem bao giờ đem
táng, thì về báo cho ta biết. Các ngươi làm cho cẩn thận, tiền nong ở đấy ta
cho tất cả mà chia nhau, đây không cần lấy đến".
- Ba ngày nữa cất đám ra ngoài thành để siêu hóa.
Hà Cửu Thúc nghe nói xong cho tiền chúng đem về chia nhau, rồi
bàn với vợ đến ngày thứ ba để thi hành kế sách.
Bên kia Vương bà hết sức giúp đỡ việc tang cho vợ Võ Đại,
ngày thứ hai đón bốn vị sư về tụng kinh, rồi đến ngày thứ ba thì đưa ra Hoà
Nhân Trường ở ngoài thành để siêu hóa. Hôm ấy cùng mấy người phố xá gần đấy đi
đưa đám. Còn chị chàng kia thì cũng ăn mặc tang phục mà khóc vờ khóc vĩnh, đi
theo linh cữu Võ Đại ra đến Hóa Trường.
Khi mới tới nơi vừa mới bắt đầu phát hỏa, thì thấy Hà Cửu
Thúc tay cầm một nắm giấy tiền ở đâu chạy đến. Vương bà cùng chị chàng kia vội
đến mà hỏi rằng:
- May quá Cửu Thúc hôm nay đã được mạnh khỏe rồi...
Cửu Thúc nói:
- Dạo trước tôi có mua của Đại Lang một cái bánh bao lớn mà
chưa kịp trả tiền; nay đem ít tiền giấy ra đây mà đốt trả Đại Lang vậy.
Nói xong cầm giấy tiền vào đốt, rồi lại túm vào để giúp việc
siêu hóa. Vương bà cùng chị chàng kia đến cảm ơn mà rằng:
- Cửu Thúc lại có lòng tốt như thế, thì thực là hiếm có, về
nhà chúng tôi xin tạ ơn.
Hà Cửu Thúc đáp:
- Được, cái này là bổn phận của chúng tôi, tôi xin bà với
nương tử cứ đến trai đường tiếp khách, để tôi xin trông nom ở đây.
Nói đoạn Vương bà cùng chị chàng kia đều quay ra trai đường.
Bấy giờ Hà Cửu Thúc sấn vào đống lửa vớ lấy hai mảnh xương trối rồi tắt lửa đi
để xem, thì thấy đầu xương đều mềm đen hết cả, chàng bèn giấu vào bọc, rồi cùng
đi vào trai đường nói chuyện.
Được một lát việc siêu hóa đã xong, bọn đầy tớ đem xương tàn
lấp bỏ xuống ao, rồi mỗi người kéo đi về một ngả. Hà Cửu Thúc mang hai mảnh
xương về nhà, rồi lấy giấy viết rõ ràng ngày tháng tên tuổi các người đi tống
táng, rồi bọc với mười lạng bạc kia vào một cái túi, mà cất ở trong buồng cẩn
thận. Bên kia từ khi vợ Võ Đại đưa ma trở về, cũng bày dặt linh sàng cùng các đồ
vàng mã để thờ chồng ở nhà dưới mà che mắt thế gian, còn tự mình, thì cùng đi lại
với Tây Môn Khánh ngày ngày trò chuyện vui đùa ở trên gác, mưa sớm, mây hôm,
mây chiều trăng tối tha hồ phỉ chí tự do, không còn ngại ai ngăn cấm. Cái cảnh
tượng hai gã gian dâm vụng trộm ở nhà mụ Vương bà trước nay bỗng biến thành đôi
nhân duyên như đúc như sơn như keo như rựa, khiến cho phố xá gần xa, không ai
là không biết chuyện. Duy Tây Môn Khánh vốn là tay gian hoạt, đã từng có tiếng
xưa nay, bởi thế ai cũng bỉm đi, mà mặc cho thỏa lòng sở dục.
Nhưng than ôi! Cái sự vui sướng chính đáng trên đời, xưa nay
ông Hóa công không đãi người được trọn, huống chi là một kẻ tàn bạo đê hèn bỏ hết
thiên lý nhân tâm để cầu lấy sự khoái lạc bên ngoài bì tướng thì lẽ nào mà hưởng
thụ được lâu! Bởi thế cho nên thắm thoắt mới được hơn tháng trời, mà cái nông nổi
cực lạc sinh bi đã từ đâu đưa đến vậy.
Võ Tòng khi tuân lệnh quan huyện áp tải các đồ châu báu vào
kinh, giao cho thân nhân của quan huyện cẩn thận, rồi một mình quay ra dạo chơi
phong cảnh Đông Kinh trong mấy bữa mới nhận giấy trở về Dương Cốc. Khi đi trời
còn tàn đông nên lạnh lẽo, đến khi trở vế đã bắt đầu sang tiết tháng ba, khí trời
rất là ôn hoà dễ chịu duy trong lòng thì hoảng hốt không yên, mà mong sao về
ngay tới huyện, để thăm anh cả ở nhà.
Một hôm Võ Tòng về tới huyện Dương Cốc, quan huyện xem giấy
má, thấy công việc đến nơi đến chốn cẩn thận, thì vui mừng trong dạ, liền thưởng
cho một đĩnh bạc lớn, và thiết cơm rượu rất là chu đáo, Võ Tòng nhận các đồ thưởng
rồi vội vàng trở về phòng, thay đổi khăn áo, khóa cửa phòng lại, đi ra phố Tử
Thạch thăm anh. Bấy giờ hai bên hàng phố trông thấy Võ Tòng đã về, thì ai nấy đều
lấy làm kinh sợ, mà sắp sinh sự tới nơi. Khi Võ Tòng đến nhà Võ Đại, vén bức
rèm lên bước chân vào cửa, chợt trông thấy phía trong có kê bàn thờ, trên bài vị
đề mấy chữ " linh vị vong phu Võ Đại Lang ", thì giật mình kinh ngạc,
đứng dừng lại mà mở mắt to ra nhìn, rồi nói một mình rằng:
- Có lẽ ta hoa mắt hay sao?
Than ơi:
Cách nhau trăng chửa thêm ba,
Mà sao phong cảnh nay đà khác xưa!
Đoái trông mây khói mịt mờ,
Đào phai lý nhạt bây giờ hỏi ai?
Đoạn rồi lên tiếng gọi rằng:
- Tẩu tẩu ơi! Võ Nhị đã về đây...
Khi đó Tây Môn Khánh đương cùng chị kia hú hí nô đùa ở trên
gác, bỗng nghe tiếng Võ Nhị gọi, thì kinh sợ mất vía mà chạy tót lối sau cửa,
sang nhà Vương bà để trốn mất. Còn chị chàng khốn nạn kia hoảng hốt bất thần,
miệng thì nói rằng:
- Thúc thúc ngồi chơi, tôi xuống bây giờ!
Tay thì vội vàng rửa hết son phấn, tháo hết trâm thoa, trút bỏ
các đồ trang sức, với các đồ dùng vô loại xưa nay, rồi mặc quần áo tang chế
vào, mà giả vờ khóc hờ hờ để đi xuống gác.
Võ Tòng thấy chị dâu bước xuống, liền hỏi ngay rằng:
- Tẩu tẩu hãy im đừng khóc nữa! Ca Ca tôi mất từ bao giờ? Bệnh
tật gì, uống thuốc ai?
Chị chàng khốn nạn kia vừa khóc vừa trả lời rằng:
- Sau khi chú đi được mười lăm hôm, thì bỗng dưng Ca Ca bị
đau ruột đến tám chín ngày, tôi đã đi xem bói, tìm thầy thuốc, phí tổn không biết
bao nhiêu, nhưng cũng không thế nào cứu được.
Võ Tòng lại nói:
- Quái lạ, xưa nay Ca Ca tôi chưa hề có chứng đau bụng bao giờ,
sao ngày nay như thế mà thiệt mạng được.
Bấy giờ Vương bà ở bên cạnh vách nghe tiếng Võ Tòng đã về,
thì sợ khi lỡ chuyện gian dâm, nên cũng chạy sang đấy để liệu chiều che chở, liền
bảo Võ Tòng rằng:
- Đô Đầu không nên nghĩ thế, trời còn có lúc mưa gió bất thần,
huống chi người ta lại giữ được suốt đời không việc gì hay sao?
Chị chàng kia lại nói đế thêm rằng:
- Mấy hôm nọ các công việc ở nhà, đều nhờ ở tay bà này giúp cả,
nếu không có bà ấy thì quanh đây không ai giúp đỡ đến tôi.
Võ Tòng hỏi:
- Vậy thì bấy giờ mai táng ở đâu?
Chị chàng đáp:
- Cả nhà có một mình tôi, không thể nào tìm được đất mà mai
táng, sau để đến ba bốn ngày, rồi đành phải đem ra siêu hóa vậy.
- Ca Ca tôi mất đã mấy ngày hôm nay rồi?
- Hai hôm nữa là đoạn thất rồi.
Võ Tòng nghe nói ngần ngừ một lúc nghĩ ngợi, rồi quay ra về
huyện.
Ngậm ngùi một bước một đau,
Vì ai non nước vương sầu với xuân.
Võ Tòng trở về tới huyện, liền thay mặc quần áo trắng, và thắt
lưng đay ra ngoài để tang anh, rồi dắt con dao chân dài chuôi ngắn, lưỡi mỏng,
sống dày, lấy mấy lạng bạc giắt lưng, và gọi một tên thổ binh đi theo, để ra phố
mua sắm các đồ lễ vật.
Tối hôm ấy Võ Tòng sai tên thổ binh mang cơm canh vàng hương,
đến bày ở giường thờ Võ Đại, rồi chàng thắp đèn hương quỳ xuống trước linh sàng
cúi lạy mà khấn rằng:
- Trăm lạy Ca Ca, lúc sinh thời Ca Ca vẫn là người nhu nhược,
song ngày nay linh hồn cũng chẳng xa đâu, vậy nếu có điều chi oan khuất, xin Ca
Ca báo mộng cho hay, để em sẽ vì Ca Ca trả thù trắng nợ.
Khóc xong thì cất tiếng khóc to, rất chiều thảm thiết, khiến
cho phố xá ai nghe cũng phải cảm động, bồi hồi mà mang lòng thương xót:
Hồn oan vơ vẫn non sông,
Hạt châu tầm tả anh hùng ngẩn ngơ
Võ Tòng lăn khóc hồi lâu rồi trở dậy, sai thổ binh dọn cơm
canh xuống hai người cùng ăn. Đoạn rồi lấy hai cái chiếu, cho tên thổ binh một
cái để trãi bên cạnh cửa trong mà nằm, còn Võ Nhị thì trãi nằm ở dưới linh sàng
Võ Đại. Bấy giờ chị chàng kia trông thấy Võ Tòng nằm đó thì cũng lên gác mà đi
nghỉ một mình.
Võ Tòng nằm vật mãi đến khi gần hết canh ba, mà chưa sao ngủ
được, quay vào nom tên thổ binh thì đã ngủ ngáy khè khè như chết. Chàng liền ngồi
dậy ngẩng nom lên trước linh sàng, thì thấy ngọn đèn pha lê như mờ như tỏ, rất
chiều ảm đạm đê mê. Lắng tai nghe tiếng trống đã thấy ba canh ba khắc, bèn thở
dài mà nói một mình rằng:
- Ca Ca ta lúc sinh thời vốn là người nhu nhược, thì khi chết
rồi còn biết làm sao được phân minh?
Chàng vừa nói dứt lời, thấy một trận lãnh khí từ dưới linh
sàn bốc lên quanh quẩn ở trên, làm cho đèn hương đều mờ mịt tối tăm mà giấy má
trên vách đều bay phấp phới. Bấy giờ Võ Tòng mơ hồ kinh hãi đứng dựng hai hàng
tóc gáy, bèn yên định tinh thần để nom, thì thấy có người ở trong linh sàng đi
ra mà nói lên rằng:
- Em ơi! Ta chết rất là oan khổ!
Chàng nghe lơ mơ thấy vậy, toan chạy đến để xem, thì bỗng
dưng người cũng không còn, mà trận lãnh khí bỗng tan đâu mất.
Đèn hiu gió lạnh từng cơn,
Trời oan bể nghiệt hỡi hồn đâu đây!
Suối vàng ai hỡi có hay,
Trời còn để có thân này có thân này có khi...
Lúc đó Võ Tòng ngã nghiêng ngơ ngẩn hồi lâu, rồi lại trông đến
tên thổ binh thì vẫn ngủ yên như trước, lại nghĩ lại những điều trông thấy thì
tựa hồ như giấc chiêm bao, mà té ra không phải, chàng liền nghĩ thầm trong bụng
rằng: " Cái này tất Ca Ca có bị điều oan ức, vừa rồi toan báo mộng cho ta,
song lại bị thần khí của ta đánh bạt đi, cho nên không thể nào mà hiện lên rõ rệt
ra được."
Chàng nghĩ vậy thì trong lòng áy náy không yên, ngồi đợi mãi
cho đến khi trời sáng. Khi ấy tên thổ binh trở dậy pha nước cho Võ Tòng súc miệng
rửa mặt tử tế, rồi chị chàng kia cũng từ trên gác chạy xuống mà hỏi rằng:
- Đêm qua chừng thúc thúc phiền muộn quá lắm chăng?
Võ Tòng lại hỏi:
- Tẩu Tẩu nói thực cho biết, Ca Ca tôi chết vì bệnh gì?
- Sao Thúc thúc vội quên thế? Hôm qua tôi đã nói là đau ruột
mà...
- Vậy thì uống thuốc của ai?
- Vẫn hãy còn đơn thuốc ở kia.
- Ai đi mua áo quan?
- Cái đó nhờ Vương bà mua hộ.
- Ai đem đi tống táng?
- Việc tống táng thì nhờ anh Đoàn Đầu Hà Cửu Thúc ở đằng phố
kia.
Võ Tòng nghe rõ đầu đuôi đứng dậy nói rằng:
- Bây giờ tôi hãy xin vào buổi hầu trong huyện đã.
Nói xong dắt tên thổ binh ra ngoài đầu phố mà hỏi rằng:
- Ngươi có biết nhà Hà Cửu Thúc ở đâu không?
Tên thổ binh đáp:
- Dạo trước anh ta có đến mừng Đô Đầu, ngài đã quên rồi hay
sao? Nhà anh ta ở trong ngõ phố Sư Tử kia...
- Được nếu vậy ngươi đưa ta đến đấy.
Nói đoạn cùng đi đến trước cửa nhà Hà Cửu Thúc, rồi cho tên
thổ binh về trước, bấy giờ Võ Tòng gõ cửa nhà Hà Cửu Thúc mà hỏi rằng:
- Hà Cửu Thúc có nhà không?
Hà Cửu Thúc mới ngủ dậy phảng phất nghe thấy tiếng Võ Tòng
thì đã rụng rời luống cuống, vội vàng lấy túi tiền và lấy gói xương thu vào
trong mình, rồi chạy ra đón tiếp mà rằng:
- Đô Đầu về từ bao giờ, chúng tôi không được biết?
Võ Tòng nói:
- Tôi mới về hôm qua, nay nhân có chút việc, nên muốn tìm bác
để nói chuyện, bác đi với tôi một lát.
- Vâng, chúng tôi xin đi theo, xin hãy đón Đô Đầu vào nhà xơi
nước đã.
- Thôi, bất tất, xin tha phép cho.
Nói xong liền dẫn Cửu Thúc đến một tửu điếm kín đáo, rồi gọi
nhà hàng dọn rượu lên.
Cửu Thúc thấy vậy cung kính mà nói rằng:
- Ngài đi xa về chúng tôi chưa được đến mừng, có lẽ đâu mà lại
dám phiền như thế?
Võ Tòng nói:
- Hãy xin cứ ngồi.
Bây giờ trong bụng Hà Cửu Thúc đã có tám chín phần đoán biết,
song cũng không dám nói ra trước. Khi nhà hàng đem rượu ra, Võ Tòng ngồi lặng
yên uống rượu mà không nói câu gì cả. Hà Cửu Thúc lại càng kinh sợ đổ toát mồ
hôi mà không dám mở miệng hỏi. Võ Tòng cứ lẳng lặng uống rượu hồi lâu, rồi mới
vén áo lấy thanh đao nhọn ra để lên trên bàn, làm cho tên nhà hàng trông thấy
cũng kinh sợ không dám đến gần, mà Hà Cửu Thúc thì mặt xám lại như gà cắt tiết.
Võ Tòng vừa sắn hai tay áo lên, vừa vớ lấy thanh đao nhọn, rồi
trỏ vào Hà Cửu Thúc mà nói rằng:
- Tiều tử đây tính người thô mãng, song cũng biết là nợ có chủ,
oan có đầu, bác không việc gì mà kinh sợ, cứ nói thực cho tôi biết rõ căn do về
sự Ca Ca tôi chết... là không can thiệp gì đến bác nữa. Tôi nếu có lòng hại
bác, thì không phải là tay hảo hán, song nếu có một câu gì sai dối, thì con dao
của tôi tất phải tặng bác, và bốn năm cai suốt sát. Bây giờ không cần nói xa
xôi gì cả, hãy cứ thuật ngay cái tình trạng Ca Ca tôi lúc chết thế nào xin cho
tôi biết?
Võ Tòng nói xong, khoanh tay chống ra hai bên sườn, rồi trợn
ngược hai con mắt tròn xoe mà nhìn vào Hà Cửu Thúc.
Hà Cửu Thúc móc trong bọc lấy cái túi kia ra, đặt lên bàn mà
nói rằng:
- Dám thưa Đô Đầu, một cái túi này là cái tang chứng rất lớn
đây.
Võ Tòng cất lấy cái túi mở ra xem, thì thấy có hai mảnh xương
đen, và một đĩnh bạc mười lạng, liền hỏi rằng:
- Sao cái này lại gọi là tang chứng lớn được?
Hà Cửu Thúc liền đem đầu đuôi câu chuyện Tây Môn Khánh mời đi
uống rượu, cho đến lúc làm lễ siêu hóa Võ Đại như thế nào nhất nhất thuật lại
cho Võ Tòng nghe, và lại nói rằng:
- Hai mảnh xương đen mềm đó, đích thực là một tang chứng chết
vì thuốc độc, còn mãnh giấy chép ngày tháng, tên họ các người đưa đám đây, tức
là tờ khẩu cung của tôi, xin Đô Đầu xét cho.
- Vậy thì gian phu là ai?
- Cái đó tôi không được biết đích, song trước đây nghe nói có
tên Vận Kha ở đằng kia, đã một phen cùng với Đại Lang tróc nã gian phu không được.
Việc đó ầm ĩ cả phố, ai ai cũng biết, xin Đô Đầu cứ hỏi Vận Kha khắc rõ.
Võ Tòng gật đầu nói:
- Nếu vậy xin phiền bác đi với tôi một lúc.
Nói xong lại giắt dao vào lưng, bọc gói xương và tiền vào
túi, mà tính trả tiền hàng, mà cùng Hà Cửu Thúc ra đi.
Khi tới cửa nhà Vận Kha, thấy anh chàng đương cắp cái thúng
khảo, đi đong gạo về, Hà Cửu Thúc liền gọi:
- Vận Kha có biết vị Đô Đầu này không?
Vận Kha đứng dừng lại nhìn Võ Tòng rồi đáp rằng:
- Có, tôi biết từ khi giải hổ về huyện trước... Nhưng hai ông
tìm tôi có việc gì?
Nói đoạn lại tiếp luôn rằng:
- Tôi bây giờ còn bố già ngoại sáu mươi tuổi, không thể nào bỏ
đấy mà đi theo đuổi hầu kiện với các ông được. Võ Tòng.
Võ Tòng nghe nói có ý cảm động mà khen rằng:
- Thằng em giỏi...
Nói đoạn liền móc túi lấy 5 lạng bạc ra mà tiếp luôn rằng:
- Tiền đây em đem về nuôi Lão phụ, rồi theo ta đến đằng này
ta hỏi chuyện?
Vận Kha mừng thầm trong bụng " Được 5 lạng bạc này để
nuôi bố, thì đi với họ đến bốn năm tháng vẫn không lo ngại gì!", liền nhận
lấy tiền đem cả vào cho bố, rồi quay ra đi với hai người. Khi tới một hàng cơm
kia, Võ Tòng dặn nhà hàng làm cơm ba người ăn, rồi bảo với Vận Kha rằng:
- Em còn bé tuổi, mà có lòng hiếu thuận như thế, thực là hiếm
có. Lúc nãy ta đưa cho 5 lạng bạc đó là để em tạm tiêu, rồi sau đây ta còn có
việc nhờ đến em, đến khi xong việc ta sẽ đãi em mười lăm lạng bạc nữa làm vốn.
Bây giờ em hãy nói rõ ràng cho ta biết đầu đuôi câu chuyện em cùng Ca Ca ta đi
bắt gian thế nào đã?
Vận Kha nghe nói lấy làm hả dạ, liền nói rõ đầu đuôi khi tìm
Tây Môn Khánh, cùng là mưu mẹo lúc thi hành kế bắt gian, cho đến lúc Võ Đại bị
đánh ngã, rồi sau bị chết thế nào, cho Võ Tòng nghe rất kỹ càng một lượt, Võ
Tòng hỏi:
- Những lời nói có đích xác hay không?
- Đích xác lắm, dẫu đến cửa quan tôi cũng nói thế thôi.
Võ Tòng liền gọi nhà hàng đem cơm rượu lên ba người cùng ăn
đoạn rồi trả tiền mà ra đi. Hà Cửu Thúc nói rõ với Võ Tòng rằng:
- Bây giờ xong việc rồi tôi xin phép Đô Đầu để về nhà.
Võ Tòng nói:
- Không được, bác hãy đi với tôi, đương lúc cần có hai người
làm chứng cho mới được.
Nói đoạn liền đem hai người đến huyện để kêu tỏ mọi lẽ oan
khuất, và xin để báo thù cho anh. Quan huyện nghe nói, bèn truyền lấy khẩu cung
hai người chứng tá, rồi bàn với đám nha lại để định kế thi hành, nguyên đám
quan nha ở đây đối với Tây Môn Khánh rất là có tình thân mật xưa nay, nghe thấy
chuyện vậy, thì ai nấy cũng bàn định với nhau, muốn gạt xếp im đi cho rảnh.
Bấy giờ quan Huyện bảo Võ Tòng rằng:
- Võ Tòng ngươi đã làm đến chức Đô Đầu, sao mà không biết
pháp luật? Xưa nay thường nói: "Gian dâm phải có đôi, trộm cướp phải có
tang, giết người phải có thương tích" nay anh người đã chết rồi, xác không
còn lại, chính người lại không bắt sự gian, vậy mà chỉ bằng cứ ở miệng hai đứa
làm chứng này, mà cho ngay là việc giết người, thì có lẽ không thể nào làm được,
người nên nghĩ kỹ xem nên làm thì hãy làm.
Võ Tòng bèn đem gói xương, và mười lạng bạc ra trình quan huyện
mà rằng:
- Cái này có tang chứng hẳn hoi, há phải rằng chúng tôi đặt để
nên chuyện đâu? Xin quan lớn xét kỹ cho mới được.
Tri huyện xem xong đáp rằng:
- Nếu vậy ngươi để đây, ta xét kỹ xem sao nếu việc có thể làm
được, thì ta sẽ bắt hỏi cho ngươi.
Võ Tòng tạ ơn lui ra, rồi giữ Hà Cửu Thúc và Vận Kha ở lưu
trong nhà, để đợi khi đòi hỏi. Bên kia Tây Môn Khánh nghe biết chuyện đó, liền
đem tiền đút lót đám quan lại cho đâu đấy đều được thỏa thiếp hết cả. Đến sang
hôm sau Võ Tòng lại lên thúc giục quan huyện xin cho tra xét, thì quan Huyện
đưa trả lại gói xương và mười lạng bạc, mà bảo với Võ Tòng rằng:
- Việc này ngươi chớ nên nghe càn người ta, mà thưa kiện Tây
Môn Khánh, vì không có một chút gì là đúng lẽ cả, thánh nhân đã dạy rằng:
" những việc trước mắt, chưa hẳn đã tin; Lời nói sau lưng, lấy đâu làm chắc!"Ngươi
không nên nóng nảy làm liều mà lỡ việc!
Bấy giờ tụi nha lại đứng hai bên cũng giở ngọn lưỡi không
xương ra mà tán với Võ Tòng rằng:
- Đô Đầu ơi! Những việc án mạng xưa nay, phải đủ có năm thứ
là: Xác người, đấu thương, chứng bệnh, đồ hành hung, cùng là tung tích, thì mới
có thể tra xét được. Nay Quan đã dạy như thế thì hãy để thong thả xem
sao đã.
Võ Tòng nghe vậy lặng ngắt không nói, và bèn thu lấy gói
xương và tiền, giao cho Hà Cửu Thúc giữ, rồi lại đem hai người trở về phòng, ở
trong bụng vừa phần buồn bực, vừa phần căm tức, mà phàn nàn một mình rằng:
" Đáng tiếc cho lộc nước lương dân, phí tổn kể hết bao nhiêu để cung phụng
cho Quan lại! Nhưng than ôi! Đem tiền mà vứt xuống sông còn được thấy tăm thấy
bóng, chớ đem tiền mà cung phụng cho đám ấy, thì thực là vô ích cho đời. Nay có
một việc rõ ràng như thế, mà không thể nào xét đoán cho ra, huống chi những việc
u minh khó hiểu thì bấy giờ xử trí làm sao? Thực là mất tiền mất của mà phó
tính mạng biết bao xích tử lương dân cho đám mèo mù này, còn bao giờ cai trị được
yên? Những hạng người ấy ngoài hai chữ kim tiền, còn có biết chi là luân thường
pháp luật! Thôi anh hùng sự nghiệp mong ở tay mình, oán trả ân đền, tự mình uy
phúc can chi mà cậy những con người vô ích thêm phiền? "
Cũng tai cũng mắt trên đời,
Ân đền oán trả quyền trời riêng cho...
Đường đường một đấng trượng phu,
Xông pha xương núi máu hồ có khi,
Thân mình làm phúc làm uy,
Những loài máu lạnh nói chi thêm buồn.
Võ Tòng nghĩ vậy, liền gọi một tên thổ binh bắt làm cơm cho
Hà Cửu Thúc và Vận Kha ăn cơm ở nhà, rồi đem mấy thổ binh đi ra phố mua gà vịt,
sỏ lợn cùng các thức rượu chè hoa quả, và mua thêm mấy tờ giấy trắng cùng là
bút mực, để đem đến nhà Võ Đại.
Bấy giờ chị chàng khốn nạn kia nghe nói việc Võ Tòng thưa kiện
Tây Môn Khánh, đã bị quan trên xóa bỏ đi rồi, thì trong lòng lấy làm hả hê,
không còn sợ điều chi nữa. Đương khi đắc ý một mình, thì chợt thấy Võ Tòng cùng
mấy tên thổ binh mang các lễ vật đến nhà mà nói rằng:
- Ngày nay là tuần Tứ Tửu Vong Huynh, dạo trước ở đây cũng có
quấy quả mấy người bà con phố sá, vậy tôi muốn gọi là kiếm chút lễ mọn, trước
là cúng anh, sau nữa là vì Tẩu Tẩu mà tạ ơn xóm giềng cho phải đạo.
Chị chàng hỏi rằng:
- Việc gì mà phải tạ ơn họ?
- Đó là lễ phép phải thế, ta không nên bỏ thiếu mới được.
Nói đoạn sai thổ binh đem các lễ vật bày lên linh sàng, thắp
đèn hương khấn lễ hồi lâu, rồi sai kê bàn ghế bày các hoa quả cùng rượu thịt
ra. Lại sai hai tên thổ binh canh giữ cửa trước cửa sau cho cẩn thận, rồi gọi
chị chàng kia mà bảo rằng:
Nói xong bắt đầu sang mời Vương bà ở bên cạnh vách. Vương bà
nhất định từ chối không đi. Võ Tòng không nghe cố tình mời cho bằng được. Sau
Vương bà không chối được, phải nhận thiếp mời mà theo Võ Tòng sang. Võ Tòng lại
bảo chị chàng kia ngồi chủ toạ, mà mời Vương bà ngồi đối diện. Vương bà
cũng biết việc Tây Môn Khánh là vô sự rồi, nên cũng phóng tâm ngồi đánh chén,
xem Võ Tòng xử trí ra sao?
Võ Tòng dàn xếp xong rồi, bèn đi ra đi mời anh hàng bạc ở
phía dưới phố là Diêu Văn Khanh. Văn Khanh cáo từ không dám nhận. Võ Tòng kéo
đi mà nói rằng:
- Bác sang chơi xơi chén rượu nhạt, một lát lại về ngay có
chi mà từ chối.
Văn Khanh phải vâng lời, theo đến, ngồi vào ghế dưới Vương
bà. Chàng lại đến mời mấy người bên kia phố nữa, là anh Triệu Trọng Minh bán
hàng mã, và bác Hồ Chánh Khanh bán rượu, nguyên là một tay thư lại xuất thân
khi trước. Hai người dẫu có chối từ, song Võ Tòng cầu cạnh lôi mời, thì anh nào
cũng kinh khiếp hồn mà phải theo lời hết cả.
Khi tới nơi Võ Tòng mời Hồ Chánh Khanh ngồi trên Triệu Trọng
Minh ngồi dưới, rồi lại đến nhà Trương Công ở bên cạnh Triệu Trọng Minh để mời.
Bấy giờ Trương Công đương ngồi nhà, thấy Võ Tòng đến thì giật mình kinh sợ, mà
rằng:
- Đô Đầu đến chơi chẳng hay có việc gì?
Võ Tòng nói:
- Nhà anh tôi khi trước đến phiền lụy phố sá cũng nhiều, nay
muốn mời các ông đến chơi xơi chén rượu suông đó thôi.
- Chết nỗi chúng tôi không có lễ nghi gì đến, sao Đô Đầu còn
cho ăn uống như vậy?
- Có gì đâu, gọi là chút lòng thành, xin ông đi cho.
Nói đoạn kéo phăng Trương Công đến, mà ngồi dưới cánh Diêu
Văn Khanh.
Khi đó cửa trước cửa sau bắt cài then cẩn thận, rồi Võ Tòng mời
bốn người hàng phố, cùng Vương bà và chị chàng kia ngồi tử tế đây đấy, còn mình
thì xách một cái ghế ngồi vào đầu bàn, rồi sai thổ binh rót rượu để mời. Võ
Tòng cất tiếng lên nói rằng:
- Xin các vị cao lân tha lỗi cho tôi, là kẻ thô mãng mà chứng
giám cho.
Mọi người nghe nói đều cung kính đáp rằng:
- Đô Đầu mới đi xa về, chúng tôi chưa có gì đến mừng, nay lại
còn quấy quả thế này, thực là không phải.
Võ Tòng lại cất chén mời mà rằng:
- Thực là sơ sài không có gì, xin các ngài đừng cười...
Chúng vâng lời uống rượu, song anh nào cũng gờm gờm không hiểu
ra sao. Khi uống rượu được vài tuần Hồ Chánh Khanh đứng dậy cáo từ có việc bận
xin về.
Võ Tòng gạt lại mà rằng:
- Không về được, đã đến đây dẫu bận cũng xin ngồi một lát đã.
Chánh Khanh nghe nói, thì trong bụng sôi nổi như ngọn trào
khi lên khi xuống, không hiểu tình ý ra làm sao, đã mời ăn uống mà còn đãi như
thế, thì phải đành ngồi xuống vậy. Võ Tòng gọi thổ binh rót rượu mời khách uống.
Khi mỗi người uống được độ bảy chén rồi, thì Võ Tòng lại quát thổ binh hãy dọn
bàn sạch đi, để lát nữa sẽ uống. Đoạn rồi Võ Tòng đứng lên lau bàn cho sạch.
Chúng thấy vậy toan đứng vậy cản, Võ Tòng lại giơ hai tay giữ
lại mà nói rằng:
- Tôi đương sắp nói chuyện, xin các ngài hãy ngồi đó. Trong
đám các ngài có ai là người biết viết?
Diêu Văn Khanh trỏ vào Hồ Chách Khanh mà đáp rằng:
- Ông Hồ Chánh Khanh đây viết giỏi lắm.
Võ Tòng nói rằng:
- Vâng, xin ngài viết hộ cho.
Nói đoạn xắn tay áo lên, thò vào trong áo rút một con dao nhọn
ra, đến phắt một cái, rồi đưa bốn ngón tay con bên phải, lồng vào quai dao, còn
ngón tay cái thì để khoanh chống bụng, trừng hai con mắt nghiêm nghị dữ dội mà
nói rằng:
- Xin các vị biết cho rằng:nợ có chủ, oán có đầu chúng tôi chỉ
cần các ngài làm chứng đó thôi.
Nói đoạn Võ Tòng đứng lên nắm chặt lấy đầu chị dâu, mà tay trỏ
vào Vương Bà bắt phải ngồi im. Bọn hàng phố anh nào anh nấy trông thấy đều khiếp
kinh hồn vía, đều nơm nớp nhìn mà không dám thở.
Võ Tòng lại nói rằng:
- Các vị cao lân không việc chi mà sợ, tôi tuy là một anh lỗ
mãng chết cũng không cần, song có oán thì báo oán, có thù thì báo thù, không
can gì để các ngài cả. Chỉ phiền các ông làm chứng cho thôi. Nếu ngài nào đứng
dậy chạy trước, thì đừng có trách, hãy xin mời dăm bảy nhác dao, rồi Võ Tòng sẽ
đền mạng.
Chúng nghe nói đều ngây mặt đờ lưỡi không còn anh nào dám cựa.
Võ Tòng nhìn vào Vương Bà mà quát lên rằng:
- Con mụ già chó má nầy, nghe tao nói: Tính mạng Ca Ca ta
toàn thị trong tay mầy làm hại, để rồi tao hỏi tội mầy?...
Đoạn rồi quay lại thết chị chàng kia rằng:
- Đồ dâm phụ này, nghe ta nói: Tính mạng Ca Ca ta, mầy mưu
sát thế nào, muốn sống nói thực, ta sẽ tha cho.
Chị chàng kia nói rằng:
- Thúc Thúc rõ vô lý quá, Ca Ca bị đau bụng rồi chết, có liên
can gì đến tôi.
Vừa nói dứt lời, thi Võ Tòng đặt phịch con dao trên bàn, giơ
tay nắm lấy tóc chị chàng kia, giơ chân đạp cái bàn lăn ra, rồi với qua cái bàn
xách chị chàng vật nằm lăn xuống trước mặt linh sàn.
Đoạn rồi giơ chân đạp xuống giữ lấy chị kia, mà tay phải cầm
con dao trỏ vào mặt Vương bà mà bảo rằng:
- Con sọm già nầy, muốn sống phải nói thực ra...
Mụ già đê mạt ấy không còn lối nào thoát thân đi được, liền
nói lên rằng:
- Xin Đô Đầu bớt giận, để tôi nói thực mọi điều.
Võ Tòng gọi thổ binh ra đem giấy mực nghiêng bút để lên bàn,
rồi cầm dao trỏ Hồ Chánh Khanh bảo rằng:
- Phiền bác, cứ nghe câu gì là biên vào câu đó cho tôi.
Hồ Chánh Khanh đánh trống ngực thình thình, đáp lại rằng:
- Vâng... vâng...Chúng tôi xin viết ạ!
Nói đoạn giơ tay lên mài mực, rồi cầm bút, vuốt giấy mà bảo
Vương bà rằng:
- Bà lão nói thực đi.
Vương bà lại giở giọng nói rằng:
- Không việc gì đến tôi, thì bảo tôi nói thế nào?
Võ Tòng quát lên rằng:
- Con cáo già công việc ta biết cả rồi, con toan chối thế
nào? Nếu không thì ta phải xả con dâm phụ nầy ra rồi sẽ giết con cáo già...
Nói đoạn liền giơ dao trước mặt chị chàng kia mà liếc đi liếc
lại. Chị chàng vội kêu lên rằng:
- Thúc thúc tha tôi, tôi xin nói...
Võ Tòng lại xách dậy, đặt trước linh sàn quát lên rằng:
- Dâm phụ nói mau! Chị chàng kia, lúc đó kinh khiếp, bạt cả hồn
vía phải đem sự thực từ khi đánh rơi cái nạn vào đầu Tây Môn Khánh, cho đến khi
mụ Vương bà mời sang may áo, rồi thế nào... kể ra hết một lượt. Võ Tòng bảo Hồ
Chánh Khanh rằng:
- Nói câu gì thì viết vào giấy cho tôi.
Vương bà thấy chị chàng kia thú thực cả rồi, thì cũng không
thể nào mà chối được, liền phải theo lời mà cung nhận hết thảy. Võ Tòng lại bảo
Hồ Chánh Khanh viết giấy cẩn thận, bắt hai người điềm chỉ viết tên ở dưới, rồi
bốn người hàng phố ký tên sau. Đoạn rồi lấy cái đai nịt của tên thổ binh, trói
con sọm già lại, rồi cuộn tờ giấy khẩu cung đút vào túi áo, mà gọi tên thổ binh
rót rượu bưng lên cúng ở trước mặt linh sàn. Bấy giờ bắt cả hai mụ đàn bà quỳ
xuống trước linh sàn, rồi Võ Tòng gạt lệ khấn rằng:
- Linh hồn Ca Ca chắc còn phảng phất đâu đây, ngày nay tiểu đệ
xin báo thù rửa hận, xin Ca Ca chứng dám cho.
Khấn xong bèn gọi thổ binh đem giấy tiền ra. Khi đó con dâm phụ
kia thấy sự thể nguy cấp đến nơi để toan cất tiếng để kêu. Bắt đầu Võ Tòng nắm
tóc giằn xuống, hai chân dặm lên hai vai, mà cởi phăng áo bụng ra, mà đưa mũi
dao nhọn vào rạch một cái thật mạnh, phăng hẳn ruột ra. Đoạn rồi mồm ngậm lấy
dao, hai tay móc vào lấy bộ ruột ra, để lên trước bàn thờ. Lại cúi xuống cắt đầu
con dâm phụ, máu me chảy đầm đìa lai láng ra nhà, anh nào trông thấy cũng xanh
mặt tái người, chỉ bưng mặt ngồi nhìn, mà không hề dám khuyên can chi cả.
Võ Tòng lại sai thổ binh lên gác lấy một cái chăn xuống, bọc
đầu chị chàng kia vào, và lau sạch dao sạch sẽ, đút vào trong bao, rồi rửa sạch
hai tay, mà quay ra bảo với mọi người rằng:
- Thế nầy khí phiền đến các vị cao lân, xin các ngài thứ lỗi
cho. Mời các ngài lên gác ngồi chơi một lát, rồi tôi sẽ về ngay đây.
Đám kia len lén nhìn nhau không hiểu tình ý ra sao, đành phải
theo lời mà kéo nhau lên gác. Võ Tòng lại sai thổ binh kéo cổ Vương bà lên gác
rồi đóng cửa lại, mà bắt thổ binh canh giữ ở dưới.
Bấy giờ chàng ta xách cái đầu người ra đi, thẳng đến hàng thuốc
nhà Tây Môn Khánh, mà hỏi tên chủ quán rằng:
- Đại quan nhân có nhà không?
Chủ quán đáp:
- Bẩm vừa mới đi rồi.
Võ Tòng lại nói:
- Bác làm ơn ra đây tôi hỏi câu chuyện này.
Chủ quán vốn biết Võ Tòng xưa nay, nên không dám cưỡng lời,
bèn theo Võ Tòng ra phố, Võ Tòng dẫn vào một cái ngõ vắng, làm bộ giở mặt hỏi
anh kia rằng:
- Anh muốn sống hay muốn chết?
Chủ quán run lên bần bật mà đáp rằng:
- Bẩm Đô Đầu!chúng tôi có dám xâm phạm việc gì đâu?
- Ừ! Nhưng mà anh muốn chết thì thôi, bằng muốn sống phải nói
rõ cho ta biết rằng, Tây Môn Khánh hiện giờ ở đâu?
- Bẩm ngài, vừa rồi ông ta đi với một người bạn, đến uống rượu
ở Đại tửu lâu bên cầu Sư Tử đó.
Võ Tòng nghe dứt lời thì quay ngoắt mình mà chạy thẳng, làm
cho tên chủ quán ngây hẳn người ra, hồi lâu mới trở về được hàng.
Võ Tòng chạy vội đến Tửu lâu bên cầu Sư Tử, hỏi tửu bảo rằng:
- Tây Môn Khánh đại lang uống rượu với ai đó?
Tửu bảo đáp:
- Uống rượu với một tay tài chủ ở phòng gác về mé cạnh đường
phố.
Võ Tòng lặng ngắt, đi thốc lên gác, đến gần phòng đó, nom vào
chắn song cửa sổ, thấy Tây Môn Khánh đương ngồi chủ vị, một người nữa ngồi
khách vị và hai đứa con hát ngồi ở hai bên. Chàng liền mở bọc chăn ra, tay xách
đầu dâm phụ máu chảy long tong xuống, tay phải rút thanh đao ra, rồi vén rèm nhảy
vào, mà cầm đầu dâm phụ ném vào mặt Tây Môn Khánh.
Tây Môn Khánh ngẩng đầu trông lên thấy Võ Tòng đến, thì giật
mình kinh sợ, kêu lên một tiếng, bắc cẳng lên cửa sổ toan tìm đường tháo chạy.
Dè đâu trông ra cửa sổ, lại chính đường phố đấy, liền nhụt cẳng lại không dám
chạy, mà trong bụng thì hoảng hốt, không biết làm thế nào? Đương khi bồi hồi
kinh sợ, thì Võ Tòng đã vỗ tay nhảy lên bàn, làm cho bát đĩa trên bàn đều đổ
nhào cả xuống.
Hai đứa con hát trông thấy, kinh sợ mất vía, không đứa nào chạy
được nữa, anh tài chủ kia cũng rụng rời chân tay mà ngã lăn ra gác. Tây Môn
Khánh thấy Võ Tòng hung tợn như vậy, thì vội vàng giơ tay trỏ vờ một cái, rồi cất
chân bên hữu mà đá luôn.
Võ Tòng cứ xông vào, rồi né mình tránh qua một bên, bất đồ bị
Tây Môn Khánh đá ngay vào tay phải, làm cho con dao bắn hản ra cửa, mà rơi xuống
phố, Tây Môn Khánh thấy Võ Tòng rơi mất dao, thì phóng tâm không sợ, liền giơ
tay phải lên dứ đánh, rồi tay trái nhằm vào giữa mỏ ác Võ Tòng mà đấm, Võ Tòng
né mình tránh thoát, rồi thừa thế xông vào ngay cạnh sườn Tây Môn Khánh, tay tả
vòng ra ôm lấy cả đầu và vai, còn tay hữu thì nắm lấy chân trái Tây Môn Khánh
mà quát lên rằng:
- Xuống...
Tây Môn Khánh lúc đó một là bị oan hồn ám ảnh, hai là bị
lương tâm quở phạt, ba là tuy hơi sức có khoẻ, song không khi nào địch nổi Võ
Tòng kia được, nên vừa bị Võ Tòng gạt một cái thì đầu nặng bồng, chân nhẹ tếch,
mà ngã lăn xuống dưới mặt phố, nằm lặng hẳn người, phát hôn đến chương thứ mười
một, hai bên phố sá thấy vậy, ai nấy đều kinh sợ bất thần. Đoạn rồi Võ Tòng cúi
xuống chân ghế, nhặt lấy cái đầu đứa dâm phụ xách vào tay, nhún mình vót qua cửa
sổ mà nhảy thẳng xuống mặt phố, rồi nhặt lấy con dao cầm lăm lăm ở tay. Bấy giờ
thấy Tây Môn Khánh nằm chết dở ở dưới mặt đất, hai con mắt chỉ lừ đừ dấp dính
mà không sao cựa được; Võ Tòng liền cầm đao xông đến, cắt phăng lấy đầu Tây Môn
Khánh rồi túm lấy hai cái đầu làm một, mà xách về phố Tử Thạch.
Khi tới nhà bày hai cái đầu lên linh sàn để cúng, rồi lại gạt
nước mắt mà khấn rằng:
- Ngày nay em đã giết hai đứa gian phu dâm phụ để báo thù cho
Ca Ca, vậy linh hồn Ca Ca có thiên, thì về chốn Thiên Đường mà nương tựa, còn
đây em xin siêu hóa cả đi.
Chàng khấn xong liền bảo thổ binh mở cửa gác, lên gọi các người
ở trên gác xuống, rồi một tay lại xách hai cái đầu người, và một tay cầm con
dao lăm lăm mà nói với mọi người rằng:
- Tôi có một điều này, cần phải nói với các vị cao lân, xin
các ngài hãy ở đây, không đi đâu được bây giờ!...
Mấy người hàng phố đều kinh sợ một phép, chắp tay mà đáp rằng:
- Có việc chi xin Đô Đầu cứ chỉ giáo cho, chúng tôi đâu dám
trái lời ngài dạy!...
Oai hùm tung động giang sơn,
Dưới đao nghĩa hiệp chứa chan máu tình,
Bể trầm muôn trượng mông mênh,
Dẹp tan ngọn sóng khuynh thành từ đây.
Xót Riềng con tạo chua cay
Đem gươm oan nghiệt trêu tay anh hào.
Một cơn bình địa ba đào
Nặng lòng cốt nhục kiếp nào đã khuây!
Vời trông trời rộng đất dầy,
Anh hùng khi cũng vơi đầy giọt châu!
Lời bàn của Thánh Thán:
Ta thường nói rằng: Chẳng lên Thái Sơn, chẳng biết chỗ cao
thiên hạ, lên Thái Sơn chẳng lên tới mặt trời, thì chẳng biết Thái Sơn đã cao vậy,
chẳng xem Hoàng Hà, chẳng biết nơi sâu thiên hạ, xem Hoàng Hà mà chẳng xem tới
Long Môn, thì chẳng biết Hoàng Hà đã sâu vậy! Chẳng gặp Thánh nhân, chẳng biết
thiên hạ đại tài, gặp Thánh nhân mà chẳng gặp Trọng Nghe nói (Đức Khổng) thì chẳng
biết Thánh nhân là đại tài vậy. Nay xem đến sách cũng vậy, chẳng đọc Thủy Hử,
thì không biết cái hay lạ của Thiên hạ, mà đọc đến Thủy Hử mà không đọc đến
thiên Võ Tòng này, thì chẳng biết truyện Thủy Hử đã hay lạ đến thế, ôi! Cái tài
tác giả há đem đấu mà đong kể được ư!
Cuốn trên tả Lỗ Đạt, đã là rất bậc trượng phu, không ngờ lại
có Lâm Xung cũng rất bậc trượng phu, tả Lỗ Đạt rồi tả Lâm Xung đã hai người kỳ
vậy, ví như hai người vẽ đấu tài nhau, nào vẽ ra Bích Điện, Tinh cung thủy phủ,
muôn ý tứ thần tình sẵn cả, vẽ ra hiền thì thật hiền, mà dữ lại thật dữ, cũng
như đẹp thì rất đẹp. Mà xấu thì lại rất xấu, kỹ thuật đến thế thì thôi, xem được
đến thế mà thôi! Thấy rằng trong lòng hai tay thợ vẽ đều chứa những tuyệt bút,
như những vẻ ly kỳ của Rồng của Mây, của Nhật của Nguyệt... nào phải như thế
gian, trong lòng nghĩ ra, trong tay nặn ra, trong bút khua ra... Nay xem Thủy Hử
của Thi Nại Am thấy như hai tay họa sĩ vẽ khác nét nhau kỳ ảo!
Tả ra ba tay rất bậc trượng phu như Lỗ, Lâm, Dương tưởng rằng
nghệ thuật đến đấy mà thôi, mà được xem đến đấy mà thôi, ai ngờ lại nảy ra một
truyện Võ Đô Đầu, khiến ta đọc đến văn, lại nghĩ đến người, thấy trong lòng dạ
chẳng phải như lòng dạ ba người Lỗ, Lâm, dương tâm sự cũng chẳng phải tâm sự
như ba người Lỗ, Lâm, Dương cho đến hình trạng kết thúc, lại chẳng như hình trạng
kết thúc của ba người Lỗ, Lâm, Dương hàng động của những bậc trượng phu khác nhau
xa quá! Ta được nghĩ đến người mà xem lại văn, nên đọc nhanh đi, lại đọc chậm
đi, giở đi giở lại đọc hô lên tiếng hùm, tiếng beo, đọc đi cho khoái! Hỡi ôi!
Xem ra một hồi, một đoạn, một câu, một chữ đâu phải loại người thế gian, trong
lòng nghĩ ra, trong tay nặn ra, trong bút khua ra, thực là tuyệt bút như những
vẻ ly kỳ của Rồng của Mây, của Nhật của Nguyệt... Thế mà lại muốn đo cái tài của
tài tử bằng đấu bằng thưng. Thì than ôi! Nhiều kẻ không lường ra năng lực giỏi!
Hoặc có kẻ hỏi đến Thánh Thán rằng: Lỗ Đạt là người thế nào?
Rằng: Là người rộng rãi; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người hẹp hòi;
Lâm xung là người thế nào? Rằng: Là người độc ác; Tống Giang là người thế nào?
Rằng: Là người ngon ngọt; Dương Chí là người thế nào? Rằng: Là người chính
đáng; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người cong quẹo; Sài Tiến là người
thế nào? Rằng: Là người lành; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người tệ;
Ngô Dụng là người thế nào? Rằng: Là người nhanh; Tống Giang là người thế nào? Rằng:
Là người ngốc; Hoa Vinh là người thế nào? Rằng: Là người thanh nhã; Tống Giang
là người thế nào? Rằng: Là người thô tục; Lư Tuấn Nghĩa là người thế nào? Rằng:
Là người lớn; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người tiểu nhân; Thạch Tú
là người thế nào? Rằng: Là người hay; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người
dở; Thế thì một trăm linh sáu người trong bộ Thủy Hử, lại không ai hơn Tống
Giang, đó là 106 người vậy chưa ai bằng Võ Tòng là một tay tuyệt luân siêu quần
đó. Vậy Võ Tòng là người thế nào? Rằng: Là người trời vậy, mà có những con người
khoát như Lỗ Đạt, độc như Lâm Xung, chính như Dương Chí, khoái như anh em họ
Nguyễn, thực như Lý Quỳ, nhanh như Ngô Dụng, nhã như Hoa Vinh, đại như Lư Tuấn
Nghĩa, hay như Thạch Tú... mà đoán quyết Tống Giang là người thứ nhất, cũng chẳng
phải ư? ? ?
Tả Võ Tòng trước giết hổ, chợt về sau giết một đàn bà, hỡi
ôi! Không còn giống gì gầm thết như hổ, không còn giống gì ngọt nhạt như đàn bà
với hai giống ấy, đến nguy hiểm như vậy, thế mà giết hổ rồi chợt giết đàn bà,
chẳng khó nhọc đến đâu, thì ít có vậy! Nay tả Võ Tòng giết hổ chẳng đầy một hồi
sau tả Võ Tòng giết đàn bà, cũng chẳng đầy một hồi. Chà chà! Lạ thay! Nhớ lại họ
Đại Hùng có nói: Sư tử vồ voi phải dùng toàn lực, nay xem Võ Tòng giết hổ giết
đàn bà há phải dùng đến toàn lực ấy đâu! Xem đến văn mà hơi thở mắt trừng, mặt
không còn sắc, càng hãi hơn khi đọc một hồi đá hổ... Hỡi ôi! Tác giả đem Sư tử
ví với Võ Tòng, xem ở tên phố ấy là Sư Tử, thì đủ biết rồi!
Tay không mà muốn bắt hổ, thì không còn nhờ đâu mà trợ lực,
nên người ta phải dùng đến binh khí, giáo, mác... mới dám giết hổ, đó là sự thường
thế mà Võ Tòng bốn phen làm đánh nhoàng né tránh, rồi ra oai lấy sức, cầm gậy
đánh mạnh, một tiếng gầm trời, gậy gãy cây đỗ, hóa ra tay không, càng làm hổ giận,
đem tay không đánh với hổ giận, rồi cũng thành công,, trở nên oai thần rõ rệt,
hồi trước nói rồi; Đến nay lại tả Tây Môn Khánh, cũng theo phép ấy tả ra, hẳn
trong lòng tác giả nghĩ rằng: Đánh hổ còn chả dùng gậy, huống chi đánh con chuột,
lại phải dùng dao, mới tả giắt dao đi đến, vừa gặp loài chuột ấy, dao lại rơi
đi, cho rõ oai thần của Võ Tòng, vì giống chuột kia còn kém xa sức hổ, thấy rằng
giết hổ không dùng đến gậy, giết chuột không dùng đến dao, biểu hiện ra ý nghĩa
ở bốn chữ " Dưới cầu Sư Tử"
Tây Môn Khánh làm sao mà gian nổi; Vương bà làm sao mà chủ
mưu; họ Phan làm sao mà hạ độc, đã diễn từ hồi trước rõ ràng, độc giả đã thấy,
độc giả đọc mà biết, lúc đọc kia chính lúc Võ Tòng đi Đông Kinh, mọi người lại
muốn nghe lời Hà Cửu thuật chuyện, cho Võ Tòng biết kẻ gian phu, và lại muốn
nghe lời Vận Kha thuật chuyện, cho Võ Tòng biết khi hạ độc, tuy lược tả Võ Tòng
nghe chuyện, thấy Võ Tòng được rõ đầu đuôi, xem trong ý tứ văn chương, mới nhận
thấy cái hay thần hóa.
Tả bốn người hàng xóm đến chứng kiến, nào anh hàng thợ bạc, hàng
mã, hàng rượu, hàng... thành ra tài, sắc, tửu, khí, chứng cho lũ gian dâm, rõ
là kỳ tuyệt!.
Thi Nại Am
Dịch giả: Á Nam Trần Tuấn Khải
Theo https://www.sachhayonline.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét