Hồi 103:
Hang Thượng Phương, Tư Mã mắc nạn
Gò Ngũ thượng, Gia Cát dâng sao
Tư Mã Ý bị Trương Dực, Liêu Hóa đánh rát một trận, quân sĩ chạy
tán lạc hết, còn độc một mình một ngựa chạy chúi vào trong rừng rậm. Trương Dực
thu nhặt hậu quân, Liêu Hóa thì cố miết đuổi theo Tư Mã Ý, dần dần đuổi kịp. Ý
sợ cuống, chạy vòng quanh một cây to. Hóa chém theo một đao, không ngờ trúng
vào thân cây. Khi rút được đao ra thì Ý đã chạy xa rồi. Liêu Hóa đuổi theo,
nhưng ra đến cửa rừng thì mất hút, chỉ thấy mé đông có một cái chỏm mũ vàng rơi
xuống đất. Liêu Hóa nhặt lấy, rối cứ nhắm phía đông đuổi theo. Nguyên là Tư Mã
Ý vất chỏm mũ về mé đông, nhưng kỳ thực lại chạy về mé tây. Liêu Hóa đuổi một
thôi đường, chẳng thấy tăm hơi đâu, ra đến cửa hang, gặp Khương Duy, mới cùng
nhau về trại ra mắt Khổng Minh. Bấy giờ Trương Ngực cũng đem trâu ngựa giao nộp,
được hơn một vạn tạ lương. Liêu Hóa nộp cái chỏm mũ vàng, được ghi làm công đầu.
Ngụy Diên không bằng lòng, oan ức nói ra miệng. Khổng Minh làm ngơ như người
không biết.
Tư Mã Ý trốn về được đến trại, trong lòng buồn rầu. Chợt có sứ
mang chiếu thư đến nói rằng Đông Ngô cất ba mặt quân vào cướp, triều đình đang
bàn sai tướng ra cự địch, ở đây phải giữ cho vững, chớ có ra đánh vội.
Tư Mã Ý tuân lời chiếu, giữ chắc thành trì không ra nữa.
Nói về Tào Tuấn chia quân làm ba mặt, ra chống nhau với quân
Tôn Quyền; sai Lưu Thiệu dẫn quân cứu mặt Giang Hạ; Điền Dư dẫn quân cứu mặt
Tương Dương; Tuấn cùng với Mãn Sủng dẫn đại quân cứu Hợp Phì. Mãn Sủng đến cửa
Sào Hồ trông thấy chiến thuyền mé đông san sát, tinh kỳ nghiêm chỉnh lắm, Sủng
vào trung quân tâu với Ngụy chủ rằng:
- Quân Ngô khinh ta mới đến, tất không phòng bị gì, đêm nay
nên thừa cơ đến cướp thủy trại, chắc là được to.
Ngụy chủ nói:
- Ngươi nói chính hợp ý trẫm lắm!
Liền sai kiện tướng Trương Cầu dẫn năm nghìn quân, đem sẳn đồ
đốt lửa, tự cửa Sào Hồ đánh vào; Mãn Sủng dẫn năm nghìn quân từ bờ phía đông
đánh sang. Canh hai đêm hôm ấy, Trương Cầu, Mãn Sủng dẫn quân đến cửa Sào Hồ;
khi gần đến thủy trại, quân sĩ reo ầm lên kéo vào. Quân Ngô bối rối, chưa kịp
đánh đã vỡ chạy. Quân Ngụy phóng hỏa đốt cháy thuyền bè, lương thảo, khí giới,
không biết bao nhiêu mà kể.
Gia Cát Cẩn dẫn bại quân chạy trốn ra Miện Khẩu, quân Ngụy được
to kéo về.
Hôm sau, quân đi tiễu báo tin với Lục Tốn. Tốn hội các tướng
lại bàn rằng:
- Ta nên dâng biểu tâu với chúa thượng, xin triệt quân vây ở
Phàn Thành về chặn phía sau quân Ngụy. Ta dẫn quân đến đánh mặt trước, đầu đuôi
giáp lại mà đánh, thì mới phá được.
Các tướng phục kế ấy. Lục Tốn viết biểu sai tên tiểu hiệu
mang biểu đi ngầm đến Tân Thành. Nhưng mới đi đến bến đò đã bị quân Ngụy bắt được,
giải vào Trung Nguyên nộp Ngụy chủ. Tào Tuấn sai khám, bắt được tờ chiếu của Lục
Tốn, Tuấn xem xong than rằng:
- Lục Tốn ở Đông Ngô, bày mưu này thật là diệu toán!
Liền bắt giam tên tiểu hiệu và sai Lưu Thiệu phải cẩn thận đề
phòng cánh hậu quân Tôn Quyền.
Gia Cát Cẩn bị thua một trận, lại gặp phải trời đang mùa nắng,
người ngựa sinh bệnh chết nhiều. Cẩn đưa thư cho Lục Tốn muốn xin rút quân về
nước. Tốn bảo với người đưa thư rằng:
- Ngươi về trình với tướng quân là ta đã có chủ ý.
Sứ giả về báo với Gia Cát Cẩn. Cẩn hỏi xem Lục Tốn thường
ngày hay làm gì. Sứ giả thưa:
- Lục tướng quân mỗi ngày sai chúng ra cửa dinh trồng đậu,
mình thì cùng với các tướng bắn kích ở cửa viên để làm vui.
Cẩn giật mình, thân đến trại Lục Tốn, hỏi rằng:
- Nay Tào Tuấn thân đốc đến đây, binh thế to lắm, đô đốc liệu
chống chế ra làm sao?
Tốn nói:
- Tôi đã sai người dâng biểu cho chúa thượng, không ngờ bị
quân Ngụy bắt được. Nay cơ mưu đã tiết lộ mất rồi, quân kia tất phòng giữ trước,
ta đánh cũng vô ích, không bằng rút quân về. Tôi dâng biểu hẹn với chúa thượng,
xin từ từ rút quân.
Cẩn nói:
- Đô đốc đã có bụng thế, nên rút quân về ngay, cớ sao lại còn
trì hoãn?
Tốn nói:
- Quân ta muốn lui, phải thong thả mà rút mới được, nếu lui
ngay, quân Ngụy tất thừa thế đuổi theo, thành ra mình rước lấy vạ mất. Túc hạ
nên đốc thúc thuyền bè, làm ra dáng tiến lên chống giặc. Tôi thì đem quân mã
kéo đến mặt Tương Dương, để cho quân Ngụy sinh nghi, không biết thế nào, rồi ta
sẽ dần dần lui về Giang Đông. Như thế quân Ngụy không dám đến gần ta.
Cẩn theo lời ấy, từ biệt Lục Tốn về trại, thu xếp thuyền bè,
sắp sửa kéo đi, Lục Tốn chỉnh đốn đội ngũ, dềnh dang ra ý muốn kéo sang Tương
Dương.
Quân đi thám báo tin về Ngụy chủ, nói rằng quân Ngô đã động,
xin đề phòng trước. Các tướng Ngụy muốn ra đánh, Ngụy chủ vốn đã biết tài Lục Tốn,
bảo các tướng rằng:
- Lục Tốn lắm mưu, hoặc là dùng mẹo dụ địch chăng, chớ nên
khinh tiến.
Cách được vài hôm, quân đi tiễu về báo rằng ba mặt quân Đông
Ngô rút về cả rồi. Ngụy chủ sai người ra thám xem lượt nữa, quả nhiên như thế.
Ngụy chủ nói:
- Lục Tốn dùng binh, chẳng kém gì Tôn, Ngô, mặt đông nam chưa
sao dẹp được!
Nhân thế sai các tướng chia ra giữ các nơi hiểm yếu... Tuấn dẫn
đại quân đóng ở Hợp Phì, phòng khi có biến động gì chăng.
Khổng Minh ở trại Kỳ Sơn, muốn dùng cách lâu dài, sai quân Thục
cày cấy chung với dân Ngụy, quân một phần, dân hai phần, tịnh không xâm phạm một
ly nào của dân; dân Ngụy vui lòng, yên cư lạc nghiệp.
Tư Mã Sư nói với cha rằng:
- Quân Thục cướp của ta biết bao nhiêu lương gạo, nay lại cho
quân làm ruộng với dân ta ở trên sông Vị, dùng cách lâu dài, thực là mối lo lớn
cho nhà nước. Phụ thân sao không hẹn nhau với Khổng Minh đại chiến một trận,
quyết sống mái, xem ra làm sao?
Ý nói:
- Ta phụng chỉ của vua sai giữ cho vững, không được khinh động.
Đang bàn bạc có người vào báo rằng:
- Ngụy Diên cầm cái chỏm mũ của đô đốc đánh rơi hôm nọ, đến
ngoài cửa trại hò hét khiêu chiến.
Các tướng tức giận cùng muốn ra đánh.
Ý cười rằng:
- Thành nhân có câu: "Không biết nhịn điều nhỏ, thì loạn
mất mưu lớn". Ta chỉ nên giữ vững là hơn.
Các tướng tuân lệnh không ra. Ngụy Diên chửi mắng hồi lâu, rồi
lại trở về.
Khổng Minh thấy Tư Mã Ý không ra, bèn mật sai Mã Đại lập một
trại ở trong hang Hồ Lô. Trong trại đào hố sâu, chứa cỏ khô và đồ dẫn hỏa thật
nhiều. Xung quanh núi, làm nhiều những phòng chứa cỏ, trong ngoài đặt địa lôi
phục. Rồi dặn Mã Đại rằng:
- Ngươi nên chặn lấp cửa đường sau hang Hồ Lô cho kỹ, phục
quân sẵn trong hang. Nếu Tư Mã Ý đuổi vào cửa hang, thì phóng hỏa mà đốt cỏ và
địa lôi. Lại phải sai quân sĩ ban ngày thì phất cờ thất tinh ở cửa hang, đến
đêm thì đốt đèn thất tinh ở trên núi để làm ám hiệu.
Mã Đại vâng lệnh dẫn quân đi.
Khổng Minh lại gọi Ngụy Diên dặn rằng:
- Ngươi nên dẫn năm trăm quân đến trại Ngụy khiêu chiến, cốt
nhử được Tư Mã Ý ra không cần gì đánh được, phải giả làm thua, cho Tư Mã Ý đuổi,
rồi ngươi cứ trông chỗ nào cắm cờ thất tinh thì chạy đến, ban đêm thì trông đèn
thất tinh cố sao nhử được Tư Mã Ý vào hang, ta khắc có mẹo bắt được.
Ngụy Diên tuân lệnh dẫn quân đi.
Khổng Minh lại gọi Cao Tường dặn rằng:
- Ngươi đem trâu gỗ ngựa máy, hoặc hai ba mươi con một đàn,
hoặc bốn năm mươi con một đàn, cùng chứa lương thóc, cho dắt ra đi lại trong đường
núi. Nếu để quân Ngụy cướp được, đó là công của ngươi.
Cao Tường lĩnh mẹo, đem trâu ngựa đi.
Khổng Minh sai vét quân ở trại Kỳ Sơn tản ra các mặt, giả
danh là đi làm đồn điền. Đoạn dặn các tướng rằng:
- Nếu có quân nào đến đánh, thì cứ vờ thua, nhược bằng Tư Mã
Ý đến thì hết sức đánh trại Vị Nam, để chặn đường về của y.
Khổng Minh phân phát quân đâu đấy, tự dẫn một toán quân đến cạnh
hang Thượng Phương hạ trại.
Hạ Hầu Huệ, Hạ Hầu Hòa bẩm với Tư Mã Ý rằng:
- Nay quân Thục tản ra các mặt, lập trại làm ruộng, để dùng
cách ở lâu dài. Nếu không nhân lúc này trừ ngay đi, để họ ở lâu ngày, thành ra
sâu rễ bền gốc, thì khó lòng lay chuyển được nữa.
Ý nói:
- Đây là mẹo Khổng Minh đó thôi!
Hai người nói:
- Đô đốc cứ ngờ vực như thế, thì bao giờ trừ được giặc? Hai
anh em tôi xin hết sức quyết một trận tử chiến, để báo ơn nước.
Ý nói:
- Có phải thế thì hai chúng ngươi chia đường ra mà đánh.
Hai người vâng lệnh, mỗi người dẫn năm nghìn quân, chia làm
hai ngả kéo đi. Đang đi, bỗng gặp quân Thục đang kèm ốp trâu ngựa gỗ đi trong
đường rừng. Hai người đổ lại đánh, quân Thục bỏ cả trâu ngựa mà chạy. Quân Ngụy
cướp được, giải về trại nộp Tư Mã Ý. Hôm sau, lại bắt được hơn trăm quân mã,
cũng giải về đại trại.
Ý gọi quân bị bắt vào, gạn hỏi việc hư thực. Quân Thục kêu rằng:
- Thừa tướng tôi đồ rằng đô đốc không ra, vậy cho chúng tôi
đi tản ra bốn mặt làm ruộng, không ngờ bị bắt về đây.
Ý tha cả quân Thục cho về.
Hạ Hầu Hòa nói:
- Sao không giết đi?
Ý nói:
- Quân tiểu tốt ấy, giết cũng vô ích, không bằng tha cho
chúng nó về rồi đồn đi rằng tướng Ngụy nhân từ, để cho nản lòng không muốn đánh
nhau. Đó là mẹo Lã Mông lấy Kinh Châu khi xưa đấy!
Liền truyền lệnh cho các tướng rằng:
- Từ rày bắt được quân Thục, phải đối xử tử tế và tha cho về.
Nhưng các tướng có công bắt thì vẫn được trọng thưởng.
Các tướng cùng vâng lệnh trở ra.
Nói về Cao Tường đem trâu ngựa vận lương đi lại trong hang
Thượng Phương. Hạ Hầu Hòa thỉnh thoảng đến đánh, trong nửa tháng, được luôn vài
trận. Tư Mã Ý thấy quân Thục thua luôn, lấy làm hởi dạ lắm. Một bữa lại bắt được
vài mươi tên quân Thục. Ý gọi đến dưới trướng hỏi rằng:
- Khổng Minh nay ở đâu?
- Thừa tướng tôi không có ở trại Kỳ Sơn, hiện nay ở cánh mé
tây hang Thượng Phương mười dặm hạ trại. Nay hàng ngày đang vận lương để chứa ở
trong hang.
Ý hỏi tường tận, rồi tha cho chúng về, đoạn gọi các tướng đến
dặn rằng:
- Khổng Minh không ở trại Kỳ Sơn. Ngày mai, các ngươi nên hết
sức, nhất tề đánh lấy trại Kỳ Sơn, ta dẫn quân tiếp ứng cho.
Tư Mã Sư nói:
- Cớ sao phụ thân lại muốn đánh mặt sau?
Ý nói:
- Kỳ Sơn là nơi căn bản của người Thục. Nếu thấy quân ta đến
đánh, các trại tất nhiên xô lại cứu, ta sẽ lẻn đến hang Thượng Phương, đốt sạch
lương thảo của Thục đi, khiến quân giặc đầu đuôi không cứu được nhau, tất chúng
phải thua.
Tư Mã Sư chịu mẹo ấy.
Ý liền cất quân đi, sai Trương Hổ, Nhạc Lâm mỗi người dẫn năm
nghìn quân theo sau tiếp ứng.
Khổng Minh khi ấy đang ở trên núi, trông thấy quân Ngụy đám
thì dăm ba nghìn, đám thì một vài nghìn, đội ngũ lẻ tẻ, ngơ ngác trông trước
trông sau, biết là đến lấy trại Kỳ Sơn. Bèn mật truyền lệnh cho các tướng rằng:
- Nếu Tư Mã Ý thân lại đây, các ngươi nên đến cướp trại Vị
Nam của Ngụy.
Các tướng tuân lệnh.
Khi ấy quân Ngụy kéo đến trại Kỳ Sơn, quân Thục bốn mặt đổ
ra, hò reo chạy tất tả, làm ra dáng đến cứu trại. Tư Mã Ý thấy quân Thục đến cứu
trại Kỳ Sơn, liền dẫn hai con và cánh trung quân kéo đến hang Thượng Phương.
Ngụy Diên ở ngoài cửa hang, mong chờ Tư Mã Ý đã lâu. Chợt thấy
một toán quân Ngụy kéo đến. Diên tế ngựa ra xem, thì chính quân Ý.
Diên quát to lên rằng:
- Tư Mã Ý đừng chạy!
Tư Mã Ý xông thẳng vào đánh, chưa được vài hiệp Diên quay ngựa
chạy. Ý theo sau đuổi đánh. Diên cứ trông về phía có ngọn cờ thất tinh mà chạy.
Ý trông thấy Ngụy Diên có mỗi một mình; quân mã lại ít, cứ vững dạ đuổi tràn,
sai Tư Mã Sư ở mặt tả, Tư Mã Chiêu ở mặt hữu. Ý đi giữa, kéo quân đuổi riết. Ngụy
Diên dẫn năm trăm quân lùi cả vào hang. Ý đuổi đến cửa hang, sai người vào do
thám trước. Người đi thám về báo trong hang không có quân phục gì cả, chỉ thấy
trên núi dựng lều cỏ.
Ý nói:
- Đây hẳn là nơi chứa lương.
Liền thúc quân mã vào cả trong hang. Vừa đến nơi, thấy trong
các lều cỏ toàn chứa củi khô, mà Ngụy Diên thì không thấy đâu nữa. Ý đâm nghi,
bảo hai con rằng:
- Ta vào đây, phỏng có quân giặc lấp mất cửa hang thì làm thế
nào?
Nói chưa dứt lời, đã thấy tiếng reo nổi lên, lửa đâu ở trên
núi ném xuống, đốt chặn ngang cửa hang trước, rồi tên lửa bắn ra, địa lôi phục
bật nổ lên, củi khô ở trong các lều cỏ cháy đùng đùng, chỗ nào cũng nổ đôm đốp,
ngọn lửa bốc lên ngùn ngụt. Tư Mã Ý hồn bay phách lạc, chân tay luống cuống, nhảy
xuống ngựa, ôm lấy hai con, khóc ầm lên rằng:
- Ba cha con ta chết cả ở chỗ này mất rồi!
Bỗng dưng trời nổi cơn giông to, mây đen kéo ngất trời, một
tiếng sét nổ dữ dội, rồi đổ mưa xuống như trút nước. Lửa đang cháy tắt sạch, địa
lôi phục câm tịt, những đồ dẫn hỏa cũng vô dụng.
Tư Mã Ý mừng rằng:
- Không nhân lúc này mà đánh ra, còn đợi đến bao giờ nữa?
Lập tức dẫn quân hăng sức phá toang ra, may lại có Trương Hổ,
Nhạc Lâm dẫn binh đến tiếp ứng. Mã Đại ít quân, không dám đuổi theo. Cha con Tư
Mã Ý cùng với Trương Hổ, Nhạc Lâm hợp binh làm một, kéo về trại Vị Nam, không
ngờ về đến nơi đã bị quân Thục cướp mất trại rồi.
Quách Hoài, Tôn Lễ đang đánh nhau với quân Thục ở trên cầu
phao. Tư Mã Ý dẫn quân đến, quân Thục rút chạy. Ý sai đốt cầu phao, đóng quân
giữ ở mé bắc ngạn.
Quân Ngụy đang đánh trại Kỳ Sơn, nghe tin Tư Mã Ý thua to, mất
cả trại Vị Nam, sinh ra rối loạn, vội vàng rút về. Quân Thục đổ ra đánh giết,
quân Ngụy thua to, mười phần mất tám chín, còn tên nào sống sót, thì chạy trốn
về mé bắc sông Vị.
Khổng Minh ở trên núi thấy Ngụy Diên dử được Tư Mã Ý vào
hang. Một lát thấy ngọn lửa bốc lên, Khổng Minh trong bụng đã mừng, chắc phen
này Tư Mã Ý phải chết. Không ngờ trời trút cơn mưa xuống, lửa tắt sạch cả. Tư
Mã Ý chạy thoát được ra ngoài.
Khổng Minh than rằng:
- Mưu việc tại người, thành việc tại trời, không sao cưỡng được!
Đời sau có thơ than rằng:
Cửa hang gió cát với mây bay,
Mưa xối mây đen kéo lại đây.
Võ hầu kế diệu ví thành đạt,
Tấn triều sao chiếm núi sông này.
Tư Mã Ý ở trong trại Vị Bắc truyền lệnh rằng:
- Nay dinh trại Vị Nam đã mất rồi, các tướng ai còn nói đến
đánh nhau nữa thì chém!
Các tướng vâng lệnh, chỉ việc giữ trại cho vững không dám ra.
Quách Hoài nói với Tư Mã Ý rằng:
- Mấy bữa nay Khổng Minh dẫn quân ra tuần tiễu, tất là muốn
tìm đất hạ trại.
Ý nói:
- Nếu Khổng Minh ra núi Võ Công, men sườn mà sang mé đông,
thì chúng ta nguy cả. Nhược bằng họ ra mé tây nam sông Vị, đóng đồn trên gò Ngũ
Trượng thì ta mới không việc gì.
Sai người dò xem, quả nhiên Khổng Minh đóng ở gò Ngũ Trượng.
Ý mừng quá giơ tay lên trán mà rằng:
- Đó là hồng phúc của đại Ngụy Hoàng Đế ta!
Bèn sai các tướng giữ vững không ra đánh, đợi cho quân Thục
sinh biến sẽ hay.
Khổng Minh dẫn một toán quân đóng ở gò Ngũ Trượng đã nhiều lần
sai người ra khiêu chiến, quân Ngụy nhất định không ra. Khổng Minh bèn lấy một
cái khăn, cái yếm và đồ trắng của đàn bà, đựng vào một cái hòm, rồi viết thư,
sai người đưa đến trại Ngụy.
Các tướng không dám giấu giếm, dẫn người đưa thư vào ra mắt
Tư Mã Ý. Ý sai mở hòm ra xem, thấy có yếm áo đàn bà và một phong thư. Trong thư
nói rằng:
"Trọng Đạt đã làm đại tướng, thống lĩnh quân Trung
Nguyên, không dám mặc giáp cầm gươm, để quyết sống mái mà chịu ngồi núp ở trong
tối trong hang, để lánh lưỡi đao mũi tên, thế thì khác gì đàn bà? Nay sai người
đưa khăn yếm quần áo trắng của đàn bà đến, nếu không dám ra đánh, thì phải lạy
hai lạy mà nhận lấy; nếu còn biết xấu hổ, có chí khí người con trai, thì phải
phê vào giấy này, y hẹn ra giao chiến".
Tư Mã Ý xem xong, trong bụng căm giận, nhưng cũng gượng cười
nói rằng:
- Khổng Minh coi ta như đàn bà ru?
Liền chịu nhận đồ ấy, trọng đãi người đưa thư, và hỏi han
chuyện Khổng Minh ăn ngủ, cùng là công việc nhiều ít làm sao.
Sứ giả bẩm rằng:
- Thừa tướng tôi thức khuya dậy sớm; hình phạt từ hai chục
roi trở lên, cũng phải coi xét đến mà mỗi ngày chỉ ăn được vài thưng mà thôi. Ý
bảo với các tướng rằng:
- Khổng Minh ăn ít làm nhiều, sống lâu làm sao được.
Sứ giả từ về, đến gò Ngũ Trượng ra mắt Khổng Minh, thuật lại
việc Tư Mã Ý chịu nhận khăn áo đàn bà, và các lời hỏi han.
Khổng Minh than rằng:
- Ý thực là biết ta!
Chủ bộ Dương Ngung can rằng:
- Tôi thấy thừa tướng hàng ngày cứ phải coi xét sổ sách, thiết
nghĩ không nên. Ôi! Việc trị nước phải có thể thống, trên dưới không xâm phạm tới
nhau. Ví như đạo trị việc nhà, tất phải có đứa ở trại coi việc cày bừa, đứa ở
gái coi việc thổi nấu, nghề nghiệp không thiếu việc gì, cần cái gì có cái ấy;
ông chủ nhà chỉ việc thung dung ngồi một chỗ, nằm cao thảnh thơi, ăn uống mà
thôi! Nếu việc nào cũng phải xuất thân làm lấy, thì sức lực mỏi mệt, tinh thần
kém sút, mà không nên được việc gì. Đó có phải là trí khôn không bằng kẻ ăn người
ở đâu, đạo làm chủ nhà phải thế. Cho nên cổ nhân có nói: "Ngồi mà bàn đạo
lý, gọi là tam công; đứng ra mà làm việc, gọi là sĩ đại phu". Ngày xưa,
Bính Cát lo việc con trâu thở, không lo gì đến kẻ đánh nhau chết dọc đường; Trần
Bình làm tướng, không biết số tiền thóc ở kho bao nhiêu, nói rằng đã có người
coi riêng từng việc. Nay thừa tướng thân xét đến cả việc nhỏ nhặt, mồ hôi toát
ra cả ngày, chẳng nhọc nhằn lắm ru? Lời Tư Mã Ý nói, xin thừa tướng xét cho mới
được.
Khổng Minh khóc, nói:
- Ta không phải là không biết thế đâu, nhưng vì chịu ơn tiên
đế thác cô cho ta rất trọng, chỉ sợ người khác không được hết lòng như ta. Vậy
ta mới phải chịu khó nhọc như thế.
Chúng nghe nói, ai nấy cũng cảm động, ứa nước mắt. Tự bấy giờ,
Khổng Minh nghe trong mình tinh thần bàng hoàng, nên không dám tiến binh vội.
Các tướng Ngụy thấy Khổng Minh đưa khăn áo đàn bà cho Tư Mã
Ý. Ý chịu nhận, không dám ra đánh. Các tướng cùng vỗ bụng căm tức, vào trướng bẩm
rằng:
- Chúng tôi cùng là danh tướng nước Ngụy, chịu sao được người
Thục sỉ nhục thế này? Vậy xin ra đánh để quyết một trận sống mái.
Ý nói:
- Ta có phải muốn chịu nhục đâu, bởi vì thiên tử giáng chiếu,
sai giữ vững không cho ra đánh, nếu ta khinh động, thì trái quân mệnh mất.
Các tướng bực dọc không bằng lòng.
Ý nói:
- Các ngươi nếu muốn đánh, đợi ta tâu với thiên tử, rồi sẽ đồng
lực ra đánh giặc, được chăng?
Chúng tôi xin vâng lời.
Ý sai sứ mang biểu đến Hợp Phì tâu với Ngụy chủ. Biểu rằng:
"Thần tài nhỏ trách nhiệm to, cúi đột chiếu chỉ sai thần
giữ vững không đánh, để đợi quân Thục tự nhiên phải tan. Nhưng nay Gia Cát Lượng
sai người đưa khăn yếm, coi thần như đàn bà, thần lấy làm sỉ nhục lắm. Thần
kính tâu trước vời bệ hạ, sớm tối xin liều một trận đại chiến để báo ơn triều
đình, mà rửa cái xấu hổ cho ba quân. Thần cảm kích không biết ngần nào".
Tào Tuấn xem xong, hỏi các tướng rằng:
- Tư Mã Ý trước xin giữ vững không đánh, nay lại dâng biểu
xin đánh là cớ làm sao?
- Tư Mã Ý vốn không có bụng muốn đánh, đây là Gia Cát Lượng sỉ
nhục, các tướng căm tức, cho nên dâng biểu lên, là có ý muốn cầu chiếu chỉ để
trấn bụng các tướng đấy thôi.
Tuấn lấy làm phải, sai Tân Tỷ cầm cờ tiết đến trại Vị Bắc,
truyền lời dụ không được ra đánh. Nếu ai dám nói đến sự đánh, thì ghép vào tội
trái chiếu chỉ nhà vua.
Các tướng đều phải tuân theo. Ý bảo với Tân Tỷ rằng:
- Ông thực là biết bụng tôi lắm!
Bởi thế, trong quân nói truyền đi, ai ai cũng biết. Các tướng
Thục nghe tin ấy, vào bẩm với Khổng Minh.
Khổng Minh cười rằng:
- Đó là Tư Mã Ý trấn bụng ba quân đó.
Khương Duy hỏi:
- Thừa tướng sao lại biết là thế?
Khổng Minh nói:
- Ý vốn không dám đánh, xin đánh là thị oai với chúng đó
thôi. Có câu rằng: "Tướng ở ngoài, dù vua sai có điều không nghe cũng được".
Lẽ đâu cách xa nghìn dặm, mà phải xin lệnh đánh bao giờ? Đây vì Tư Mã Ý nhân
các tướng tức giận, cho nên mượn ý Tào Tuấn để trấn bụng chúng và truyền lời ấy
ra, để quân ta sinh trễ nải đó thôi.
Đang khi nói chuyện, chợt có tin Phí Vĩ đến. Khổng Minh mời
vào hỏi chuyện. Vĩ thưa rằng:
- Tào Tuấn nghe Đông Ngô ba mặt tiến quân, cũng dẫn đại quân
đến Hợp Phì, sai Mãn Sủng, Điền Dự, Lưu Thiệu chia quân làm ba mặt chống cự.
Mãn Sủng bày mẹo, đốt sạch chiến thuyền và lương thảo khí giới của Đông Ngô.
Đông Ngô không làm nên chuyện gì, phải rút quân trở về.
Khổng Minh nghe tin ấy, thở dài một tiếng, không ngờ ngất đi
ngã gục xuống đất. Các tướng vội vàng cứu dậy, nửa giờ mới tỉnh.
Khổng Minh than rằng:
- Ta nghe trong mình bàng hoàng, bệnh cũ lại phát, dễ thường
không thọ được nữa.
Đêm hôm ấy, Khổng Minh gượng bệnh ra trướng, ngẩng xem thiên
văn. Xem xong, Khổng Minh kinh hãi lắm, vào trướng bảo Khương Duy rằng:
- Ta nguy đến nơi mất rồi!
Duy nói:
- Sao thừa tướng lại dạy thế?
Khổng Minh nói:
- Ta thấy trong ba ngôi sao Tam thai, ngôi khách tinh sáng lắm
mà ngôi chủ tính thì u ám, các sao tướng phụ bóng tôi lờ mờ. Xem tượng trời như
thế đủ biết mệnh ta.
Duy nói:
- Tượng trên trời đã thế, sao thừa tướng không dùng phép dâng
sao giải hạn mà kéo lại được không?
Khổng Minh nói:
- Ta vốn biết phép ấy, nhưng chưa biết lòng trời làm sao.
Ngươi hãy dẫn bốn mươi chín tên giáp sĩ, cầm cờ thâm, mặc áo thâm, đứng vòng
quanh ngoài trường, ta ở trong cầu đảo sao bắc đẩu. Nếu như trong bảy ngày, ngọn
đèn chủ không tắt, thì ta sống lâu thêm được một kỷ nữa. Nếu đèn tắt, ta không
thọ được. Phàm những người tạp nhạp, không được cho vào. Những đồ gì ta cần
dùng đến, cứ sai hai đứa tiểu đồng trang biện là đủ.
Khương Duy vâng mệnh, sắm sửa đâu đấy.
Bấy giờ, vào tiết trung thu, tháng tám. Đêm hôm ấy, sông Ngân
vằng vặc, hạt thóc đầm đìa, canh khuya thanh vắng, tiếng la tiếng cồng im phăng
phắc, tinh kỳ hắt hiu. Khương Duy ở ngoài trướng, dẫn bốn mươi chín tên giáp sĩ
canh giữ xung quanh Khổng Minh ở trong bày hương hoa, lễ vật ở trên mặt đất,
chia làm bảy ngôi đèn to và bốn mươi chín ngôi đèn nhỏ xung quanh, ở giữa đặt một
ngọn đèn bản mệnh.
Khổng Minh lễ xong khấn rằng:
"Lượng sinh ra thời loạn, toan chịu già ở nơi rừng rú.
Nhưng đội ơn Chiêu liệt Hoàng Đế ba lần cầu đến, lại thừa việc thác cô rất trọng,
nên phải ra sức khuyển mã để đánh giặc nước. Không ngờ tướng tinh sắp đổ, số thọ
hầu tàn. Vậy xin viết một bức lụa, kêu với trời cao, cúi mong lòng trời rủ
thương, cho Lượng thêm ít tuổi nữa, để trên báo ơn vua, dưới cứu mạng dân, đem
lại vật cũ mà giữ hương hỏa nhà Hán cho được lâu dài. Không dám xin càn, thực bởi
tình thiết".
Lạy khấn xong, Khổng Minh vào trướng nằm nghỉ. Hôm sau lại gượng
dậy coi việc, thổ ra huyết mãi không thôi. Ban ngày thì bàn định việc quân cơ,
ban đêm thì giày sao cương, giẫm sao cẩu, làm phép nhương sao.
Tư Mã Ý ở trong trại, một bữa ngóng xem thiên văn, mừng lắm,
bảo với Hạ Hầu Bá rằng:
- Ta xem tướng tinh đổi ngôi, Khổng Minh chắc chắn có bệnh,
không mấy bữa nữa tất chết. Ngươi nên dẫn một nghìn quân đến gò Ngũ Trượng tiễu
thám xem sao. Nếu quân Thục nháo nhác, không dám ra đánh, thì đúng là Khổng
Minh bệnh nặng, ta sẽ thừa thế đánh vào.
Hạ Hầu dẫn quân đi.
Khổng Minh ở trong trướng cầu nhương đã được sáu đêm thấy ngọn
đèn bản mệnh tỏa sáng, trong bụng mừng thầm. Khương Duy vào trướng, đang thấy
Khổng Minh xoã tóc cắp gươm, giày sao cương, giẫm sao đẩu, làm phép trấn áp
ngôi tướng tinh. Bỗng dưng nghe ngoài trại có tiếng hò reo, vừa toan cho người
ra hỏi, thì đã thấy Ngụy Diên xồng xộc vào thẳng trong trướng, kêu rằng:
- Quân Ngụy kéo đến nơi rồi!
Diên bước mạnh quá, làm tắt mất ngọn chủ đăng. Khổng Minh quẳng
gươm xuống đất than rằng:
- Sống chết có số, không làm sao mà nhương trừ được!
Ngụy Diên sợ hãi, lạy phục xuống đất xin chịu tội. Khương Duy
nổi giận, toan rút gươm ra chém Ngụy Diên.
Đó là:
Muôn việc chẳng qua do số vận,
Người sao cưỡng được với lòng trời?
Chưa biết tính mệnh Ngụy Diên thế nào, xem hồi sau phân giải.
Hồi 104:
Rơi sao lớn, thừa tướng qua đời
Trông tượng gỗ, đô đốc mất vía
Khương Duy thấy Ngụy Diên làm tắt mất ngọn chủ đăng, bừng bừng
nổi giận, rút gươm toan chém Ngụy Diên, Khổng Minh ngăn lại bảo rằng:
- Đó là số ta đến ngày hết, không phải lỗi tại Văn Trường.
Duy mới cài gươm vào vỏ, không giết nữa. Khổng Minh lại thổ
ra vài bát huyết, nằm phục trên giường, bảo Ngụy Diên rằng:
- Đây là Tư Mã Ý đoán ta bệnh, cho nên sai người đi dò thực
hư đó thôi. Ngươi hãy đem quân ra đánh đuổi chúng nó đi.
Diên lĩnh mệnh, ra trướng lên ngựa, kéo quân đi. Hạ Hầu Bá
trông thấy Ngụy Diên, vội vàng rút quân về. Diên đuổi theo hơn hai chục dặm mới
thôi.
Khổng Minh cho Ngụy về trại riêng canh giữ.
Khương Duy vào trướng, đến trước giường nằm thăm hỏi.
Khổng Minh nói:
- Ta cốt muốn hết lòng kiệt sức đem lại Trung Nguyên, gây dựng
lại cơ đồ nhà Hán. Nhưng xem ý trời như thế, thì mệnh ta chỉ còn sớm tối mà
thôi. Ta bình nhật học được bao nhiêu, đã chép ra một quyển sách cả thảy có hai
mươi bốn thiên, một trăm linh bốn ngàn một trăm mười hai chữ. Trong sách có
phép bát vụ, thất giới, lục khủng, ngũ cụ. Ta xem trong các tướng, không có ai
đáng dạy, chỉ có ngươi xứng đáng truyền lại sách của ta, ngươi chớ coi làm thường!
Khương Duy khóc lạy, chịu mệnh.
Khổng Minh lại dặn rằng:
- Ta có một phép bắn nỏ liền tên, chưa khi nào dùng đến. Theo
phép ấy, mỗi mũi tên dài tám tấc, một nỏ bắn mười mũi tên luôn một lúc. Ta đã vẽ
thành kiểu, ngươi nên y phép chế tạo ra mà dùng.
Khương Duy vâng lệnh.
Lại dặn rằng:
- Các đường trong Thục không phải lo lắm, chỉ có đường núi Âm
Bình, cần phải cẩn thận. Núi ấy tuy hiểm trở, nhưng về sau tất hỏng tự đó.
Lại gọi Mã Đại vào trướng, ghé tai nói nhỏ, trao cho mật kế,
dặn rằng:
- Sau khi ta mất rồi, cứ y kế mà làm!
Mã Đại lĩnh mẹo đi ra.
Một lát, Dương Nghi vào, Khổng Minh gọi đến trứơc giường trao
cho một cái túi gấm, dặn rằng:
- Ta mất rồi, Ngụy Diên tất làm phản. Khi nào lâm đến trận, mới
được mở túi này. Bất ngờ khắc có mẹo chém được Ngụy Diên.
Khổng Minh dặn dò đâu đấy, mắt hoa lên ngã xuống giường, đến
chiều mới tỉnh. Liền đêm hôm ấy dâng biểu về tâu với hậu chủ.
Hậu chủ nghe tin giật mình, kịp sai thượng thư Lý Phúc khuya
sớm đến đại doanh vấn an và hỏi chuyện mai sau.
Lý Phúc phụng mệnh lên đường, kíp đến gò Ngũ Trượng, vào ra mắt
Khổng Minh truyền mệnh hậu chủ hỏi thăm.
Khổng Minh ứa nước mắt, nói:
- Ta chẳng may nữa đường mất đi, bỏ lỡ việc to nhà nước, thực
là đắc tội với thiên hạ. Các ông nên hết lòng thờ chúa; phép cũ nhà nước chớ
nên thay đổi. Những người của ta dùng, cũng chớ nên khinh thường bỏ ai. Binh
pháp của ta đã trao cho Khương Duy rồi, hắn tất nối được chí ta, ra sức giúp việc
nước. Mệnh ta chưa biết sớm tối lúc nào, sẽ có di biểu tâu với thiên tử đây.
Lý Phúc lĩnh ý, lật đật từ về. Khổng Minh gượng bệnh, sai tả
hữu vực lên chiếc xe nhỏ ra trại, đi xem các dinh, gió thu thổi mặt, lạnh buốt
đến xương, mới thở dài than rằng:
- Từ đây ta không còn được ra trận đánh giặc nữa. Trời xanh
thăm thẳm, giận này biết bao giờ nguôi!
Khổng Minh than thở một hồi, rồi trở về trướng, nghe bệnh lại
nặng thêm, mới gọi Dương Nghi vào dặn rằng:
- Mã Đại, Vương Bình, Liêu Hoá, Trương Dực, Trương Ngực đều
là bầy tôi trung nghĩa, xông pha trận mạc đã nhiều, khó nhọc đã lắm, nên ủy dụng
các người ấy. Sau khi ta chết, mọi việc phải tuân phép cũ mà làm nên. Từ từ rút
quân về, chớ có hấp tấp. Ngươi cũng hiểu sâu mưu lược, không cần phải dặn nhiều.
Khương Bá Ước có trí có dũng, nên cho đi đoạn hậu.
Dương Nghi khóc lạy, vâng mệnh.
Khổng Minh sai đem bút mực ra, tay viết tờ di biểu, dâng về hậu
chủ.
Biểu rằng:
"Tôi nghe: Sống chết có thường, khó bề tránh khỏi số mệnh
đã định. Nay chết đến nơi rồi, xin giãi hết chút lòng người".
"Tôi là Lượng, bẩm tính vụng về, gặp thời gian truân,
chia ấn cầm cờ tiết, chuyên giữ quân hành, cất quân sang đánh mặt bắc, chưa được
thành công; không ngờ bệnh vào cốt tủy, mệnh treo sớm tối, không được trọn vẹn
thường bệ hạ, căm giận vô cùng!"
"Cúi xin bệ hạ phải thanh tâm ít dục, kiệm mình yên dân,
tỏ đạo hiếu với tiên hoàng, gieo ân đức ra thiên hạ; cất nhắc người ẩn dật để
tiến kẻ hiền lương; ruồng đuổi quân gian tà để cho hậu phong tục.
"Nhà tôi có tám trăm gốc dâu, năm trăm mẫu ruộng, cơm áo
con cháu tôi, tự khắc đủ dùng. Đến như tôi, nhiệm ở ngoài, cần dùng thức gì, đã
có của công chu cấp, không phải tìm kiếm sinh kế khác. Tôi chết đi không để
trong nhà có tấm lụa thừa, ngoài dinh có chút của riêng, để phụ lòng bệ hạ
đâu!".
Khổng Minh viết xong bài biểu, dặn Dương Nghi rằng:
- Sau khi ta chết, không nên phát tang, nên làm một cái khám
to, để thây ta ngồi trong khám, lấy bảy hạt gạo bỏ vào miệng, dưới chân đặt một
ngọn đèn sáng. Trong quân cứ giữ vẻ yên ổn như thường, chớ có khóc lóc; như thế,
ngôi tướng tinh không rơi xuống, âm hồn ta tự khắc cũng nhấc lên được. Tư Mã Ý
thấy tướng tinh không sa, trong bụng còn hồ nghi. Quân ta rút về nên để trại
sau rút trước, rồi lần lượt trại nọ đến trại kia, từ từ mà lui. Nếu Tư Mã Ý đuổi
theo, ngươi nên dàn thành trận thế, quay cờ đánh trống trở lại, rồi đem bộ tượng
gỗ của ta khi trước, đặt lên trên xe đẩy ra trước trận, sai tướng sĩ đứng dàn
hai bên. Tư Mã Ý trông thấy, tất phải sợ mà chạy.
Dương Nghi nhất nhất vâng lời.
Đêm hôm ấy Khổng Minh sai người vực ra sân, ngẩng xem sao bắc
đẩu, trỏ một ngôi sao bảo các tướng rằng:
- Ngôi này là tướng tinh của ta đấy!
Mọi người nhìn lên xem, thấy ngôi sao ấy sáng lờ mờ, lung lay
sắp rụng. Khổng Minh cầm thanh kiếm trở lên, mồm niệm chú mấy câu, rồi trở vào
trong trướng. Vừa vào đến nơi thì ngất đi, không biết gì nữa.
Các tướng xôn xao. Chợt có thượng thư Lý Phúc lại đến, thấy
Khổng Minh đã thiếp rồi, không nói năng được nữa. Phúc khóc ầm lên, nói:
- Ta làm lỡ mất việc to nhà nước!
Một lát, Khổng Minh lại tỉnh, mở bừng mắt trông trước trông
sau, thấy Lý Phúc đứng ở đầu giường.
Khổng Minh nói:
- Ta đã biết ý của ông trở lại đây rồi.
Phúc nói:
- Tôi phụng mệnh thiên tử, sai lại hỏi sau khi thừa tướng
trăm tuổi, thì ai đương nổi việc lớn? Vừa rồi, tôi vội vàng quá, quên mất không
hỏi, nên trở lại đây.
Khổng Minh nói:
- Sau khi ta chết, cơ Tưởng Công Diệm đương nổi được việc to.
Phúc hỏi:
- Sau Công Diệm thì ai nối được?
Khổng Minh nói:
- Phí Văn Sĩ nên nối sau.
Phúc hỏi:
- Sau Phí Văn Sĩ thì ai nối?
Khổng Minh không đáp nữa. Các tướng đến gần xem, thì đã mất rồi.
Bấy giờ là ngày hai mươi ba tháng tám, mùa thu, năm Kiến Hưng
thứ mười hai (công lịch: Hai trăm ba mươi sáu); thọ năm mươi tư tuổi.
Quan Đỗ Công Bộ có thơ than rằng:
Sao sa cửa trại lúc đêm thanh,
Nghe báo tiên sinh bỗng giật mình.
Trướng hổ vắng nghe truyền hiệu lệnh,
Đền lân luống để chữ công danh.
Còn trơ dưới trướng ba ngàn khách.
Uổng phí trong lòng mấy vạn binh.
Ngày vắng ngắm xem nơi bóng mát,
Lâu nay lặng ngắt giọng ca thanh.
Ông Bạch Lạc Thiên cũng có thơ rằng
Tiên sinh náu tiếng chốn sơn lâm,
Hiền chúa ân cần muốn tới thăm.
Cá đến Nam Dương rào nước quẫy,
Rồng bay Tây Thục đổ mưa rầm.
Sụt xùi giọt ngọc trao con đỏ,
Gắng gỏi lòng son trả nghĩa thâm.
Hai biếu xuất sư còn để lại,
Khiến người coi thấy lệ đầm đầm...
Khi trước quan hiệu uý ở Trường Thủy là Liêu Lập, cậy mình có
tài có tiếng, tự xưng là Khổng Minh thứ hai, vì chức vị nhỏ, mang lòng hờn là
phỉ báng triều đình. Khổng Minh đuổi ra Vấn Sơn, giáng xuống làm thứ dân. Nay
nghe tin Khổng Minh mất, Liêu Lập khóc, nói:
- Ta trọn đời làm người rợ mọi thôi!
Lý Nghiêm trước bị Khổng Minh cách chức nay nghe tin Khổng
Minh mất, cũng khóc lóc cả ngày, thành bệnh mà chết. Bởi vì Lý Nghiêm còn mong
Khổng Minh đoái thương, cất nhắc cho để chuộc cái lỗi trước. Khổng Minh chết,
thì không ai dùng đến mình nữa.
Về sau Nguyên Vi Chi có than rằng:
Dẹp loạn phò chúa yếu,
Ân cần việc thác cô.
Tài cao hơn Quản, Nhạc.
Mẹo giỏi quá Tôn, Ngô.
Thắm thiết lời dâng biểu,
Tài tình phép trận đồ.
Đức ngài cao thịnh lắm,
Thiên cổ tiếng thơm tho!
Đêm hôm ấy trời đất sầu thảm, Khổng Minh thiêm thiếp về thần.
Khương Duy, Dương Nghi tuân lời di chúc, không dám cử ai theo khâm liệm, an trí
vào trong khám, sai ba trăm tướng tốt tâm phúc coi giữ. Đoạn bí mật truyền lệnh
sai Ngụy Diên đi đoạn hậu, còn các trại đều nhổ dần kéo về.
Tư Mã Ý đêm hôm ấy xem thiên văn, thấy một ngôi sao to, sắc đỏ
tía, ánh tỏa ra như có sừng, từ phương đông bắc bay sang phương nam, rồi sao xuống
trại Thục. Ba lần sa xuống, lại ba lần vụt lên, tiếng chuyển ầm ầm.
Ý nửa sợ nửa mừng nói:
- Khổng Minh chết rồi!
Lập tức truyền lệnh cất đại quân ra đuổi đánh. Vừa ra cửa trại,
lại nghĩ rằng:
- Khổng Minh tài phù phép, sai khiến thần Lục đinh, Lục giáp.
Nay thấy ta không ra đánh, cho nên làm ra thuật này để dử ra đây; nếu ta đuổi
theo, tất lại mắc mẹo.
Nghĩ thế rồi quay ngựa trở vào, không đi nữa, chỉ sai Hạ Hầu
Bá dẫn vài mươi tên kỵ, lẻn ra đường núi, nghe ngóng tin tức mà thôi.
Ngụy Diên từ khi về ở riêng một trại, đêm mơ thấy trên đầu mọc
ra hai sừng, tỉnh dậy nghi hoặc lắm. Hôm sau có quan hành quân Tư Mã Ý Mã Triệu
Trực đến chơi. Diên mời vào hỏi rằng:
- Lâu nay nghe ngài tinh hiểu dịch lý. Tôi đêm mơ thấy đầu mọc
ra hai sừng, không biết lành dữ thế nào, ngài đoán giúp cho.
Triệu Trực nghĩ hồi lâu, mới đáp rằng:
- Đây là điềm đại cát. Đầu kỳ lân có sừng, đầu rồng cũng có sừng,
đó là điềm biến hóa bay nhảy đây!
Diên mừng, nói:
- Nếu được như thế, sẽ xin trọng ta!
Trực từ trở ra, đi được vài dặm, gặp thượng thư Phí Vĩ.
Vĩ hỏi:
- Ông đi đâu về?
Trực nói:
- Tôi vừa đến chơi trại Ngụy Vân Trường, Văn Trường nằm mơ thấy
trên đầu mọc ra đôi sừng, mượn tôi đoán xem lành dữ. Mộng ấy nguyên không phải
là điềm hay, nhưng tôi e nói thẳng thì sinh oán, cho nên nói dối là chuyện kỳ
lân với rồng.
Vĩ nói:
- Sao ông biết là điềm không hay?
Trực nói:
- Giốc là sừng, mà chữ giốc dưới chữ đao có chữ dụng, nghĩa
là dùng ở dưới đao. Nay mộng như thế, thì ra trên đầu có đao, điềm ấy dở lắm.
Vĩ nói:
- Có phải thế, ông chớ nên tiết lộ ra làm gì nữa.
Trực từ biệt đi. Phí Vĩ đến trại Ngụy Diên, đuổi tả hữu ra
ngoài, nói:
- Canh ba đêm hôm qua, thừa tướng qua đời rồi. Lúc gần mất có
gắn bó dặn lại, sai tướng quân đi sau, để chống lại quân Tư Mã Ý. Quân ta phải
từ từ rút về, không được phát tang. Nay binh phù ở đây, xin tướng quân cất đi
cho.
Diên hỏi:
- Ai coi thay việc cho thừa tướng?
Vĩ nói:
- Nội là công việc to tát, thừa tướng giao cho Dương Nghi, mật
pháp dùng binh, thì giao cho Khương Bá Ước, binh phù này là của Dương Nghi sai
đây.
Diên nói:
- Thừa tướng tuy mất, còn có ta đây! Dương Nghi chẳng qua là
một chức trưởng sử, gánh nổi sao được việc to này? Hắn chỉ nên rước ma về Xuyên
an táng, để ta cầm quân đánh nhau với Tư Mã Ý, cố cho thành công, có đâu vì một
mình thừa tướng, mà bỏ mất việc to nhà nước được.
Vĩ nói:
- Thừa tướng di chúc lại, bảo hãy tạm rút về, không nên trái
lời.
Diên nổi giận:
- Nếu thừa tướng nghe mẹo ta khi xưa, thì lấy được Trường An
đã lâu rồi. Ta nay làm chinh tây đại tướng quân, Nam trịnh hầu, lại thèm đoạn hậu
cho trưởng sử a?
Vĩ nói:
- Tướng quân nói phải lắm, nhưng cũng không nên khinh động,
quân giặc chê cười cho. Vậy để tôi đem lẽ lợi hại bảo Dương Nghi, để hắn nhường
binh quyền cho tướng quân. Tướng quân nghĩ sao?
Diên y lời. Phí Vĩ từ về trại lớn, ra mắt Dương Nghi, thuật lại
chuyện đó.
Nghi nói:
- Thừa tướng lâm chung, có mật bảo ta rằng Ngụy Diên tất sinh
bụng khác. Ta cho binh phù ra sai là muốn dò bụng hắn đấy thôi. Nay quả nhiên
như lời thừa tướng thật, ta sai Bá Ước đoạn hậu cũng xong!
Bởi thế Dương Nghi đưa ma về trước, Khương Duy đi giữ mặt sau,
tuân lời Khổng Minh, từ từ rút về.
Ngụy Diên ngồi chờ trong trại, lâu không thấy Phí Vĩ trở lại,
trong bụng nghi hoặc liền cho Mã Đại dẫn vài tên kỵ dò xem tin tức thế nào.
Mã Đại về báo rằng:
- Khương Duy tổng đốc hậu quân. Còn tiền quân lui về trong cửa
hang cả rồi.
Diên nổi giận nói:
- Quân hủ nho dám lừa dối ta. Thế nào ta cũng giết được mới
nghe.
Diên ngoảnh lại bảo với Mã Đại rằng:
- Ông có chịu giúp tôi không?
- Tôi vốn cũng ghét Dương Nghi, xin vui lòng giúp tướng quân.
Diên mừng lắm, lập tức nhổ trại, kéo quân bản bộ về phía nam.
Nói về Hạ Hầu Bá dẫn quân đến gò Ngũ Trương, nghe ngóng tin tức,
thì không thấy một người nào nữa, kíp về báo với Tư Mã Ý.
Ý giẫm chân xuống đất, nói:
- Khổng Minh chết thật rồi, nên đuổi đánh cho mau.
Hạ Hầu Bá nói:
- Đô đốc chớ khinh tiến vội, nên sai một tì tướng đi trước.
Ý nói:
- Phen này để ta đi trước mới xong!
Liền dẫn hai con và cánh đại quân mở cờ gióng trống, reo ầm
lên kéo vào trại Thục. Té ra chỉ có cái xác trại, tuyệt không có một bóng người
nào.
Ý bảo hai con rằng:
- Chúng mày thúc hậu quân đi cho mau, để tao dẫn tiền quân đi
trước đây.
Ý dẫn quân đi trước, đuổi theo mãi đến chân núi, trông thấy
quân Thục đi chưa xa mấy, liền giục quân đuổi riết. Bỗng nhiên ở sau núi, một
tiếng pháo nổ vang, rồi thấy quân Thục quay cả cờ lại, trống đánh om sòm. Trong
bóng cây có một lá cờ to bay phấp phới, đề một hàng chữ lớn: "Hán thừa tướng
Võ hương hầu Gia Cát Lượng". Ý giật mình, đã hơi xanh mắt. Nhìn kỹ thấy
vài mươi viên thượng tướng xúm xít quanh cái xe bốn bánh, trên xe Khổng Minh ngồi
chĩnh chện, khăn lượt quạt lông, giầy thâm, áo hạc.
Ý giật mình, nói:
- Khổng Minh còn sống, ta khinh thường vào nơi trọng địa, mắc
phải mẹo mất rồi!
Vội vàng quay ngựa chạy.
Khương Duy gọi to lên rằng:
- Tướng giặc chớ chạy nữa, mày mắc phải mẹo thừa tướng ta rồi!
Quân Ngụy hồn bay phách lạc, bỏ giáp, quẳng chỏm mũ, vất khí
giới, ù té chạy cả, giày xéo lẫn nhau, chết hại rất nhiều.
Tư Mã Ý cắm cổ chạy hơn năm chục dặm đường đất. Bỗng có hai
tướng sấn lên cầm lấy cương ngựa, gọi rằng:
- Đô đốc đừng sợ, quân Thục đi xa rồi!
Ý thở dốc một hồi, mới hơi hoàn hồn, giương mắt trông xem ai
té ra Hạ Hầu Bá, Hạ Hầu Huệ. Bấy giờ Bá mới buông lỏng cương ngựa, tìm đường nhỏ
chạy về trại nhà, cho các tướng dẫn quân tản ra bốn phía nghe ngóng.
Cách hai hôm sau, dân quê đến bẩm rằng:
- Khi quân Thục rút về trong hang, tiếng khóc vang động trời
đất. Trong quân kéo toàn cờ trắng, Khổng Minh quả thực chết rồi. Chỉ có Khương
Duy dẫn một nghìn quân đi sau. Hôm trước Khổng Minh ngồi trên xe, đó là người gỗ
đấy.
Tư Mã Ý chép miệng nói:
- Ta tưởng y còn sống, té ra y chết rồi thực!
Bởi thế, người Thục có câu phương ngôn rằng: "Tử Gia Cát
năng tẩu sinh Trọng Đạt"
Người sau có thơ than rằng:
Sao dài sa xuống, biết hay không?
Ngơ ngẩn còn mang dạ hãi hùng!
Để một trò cười ghi miệng thế,
Sờ đầu chẳng biết có còn không?
Tư Mã Ý biết tin Khổng Minh đã mất, lại dẫn quân đuổi theo lần
nữa, đến gò Xích Ngạn, thấy quân Thục đi quá xa rồi, mới trở về.
Ý bảo với các tướng rằng:
- Khổng Minh mất rồi, chúng ta giờ được ngủ yên, không lo gì
nữa!
Dọc đường, thấy các chỗ Khổng Minh hạ trại, tả hữu trước sau,
phép tắc hẳn hoi. Ý than rằng:
- Người này mới thực là kỳ tài thiên hạ!
Bèn dẫn quân về Trường An, sai các tướng chia giữ các cửa ải.
Ý đến Lạc Dương vào chầu vua Ngụy.
Dương Nghi, Khương Duy dàn thành thế trận, dần dần lui về cửa
hang rồi mới thay áo phát tang, giương phướn cử ai. Quân Thục lắm người đập đầu
xuống đất mà khóc, có người khóc đến nỗi chết. Tiền đội vừa về đến cửa Sạn Các,
bỗng đâu thấy mé trước mặt lửa sáng rực trời, tiếng reo dậy đất, rồi một toán quân
dàn ra chặn ngang đường cái. Các tướng giật mình, kíp báo với Dương Nghi.
Ấy là:
Tướng Ngụy vừa hay quay ngựa cút,
Đất Xuyên đâu lại có quân ra?
Chưa biết quân mã ở đâu chặn đường, xem đến hồi sau phân giải.
Hồi 105:
Võ Hầu dự sẵn mẹo cẩm nang
Ngụy chủ dỡ lấy mâm thừ lộ
Lại nói Dương Nghi nghe báo có quân chặn đường, sai người ra
dò xem, té ra Ngụy Diên đốt mất đường sàn, hiện đương dẫn quân chặn lối.
Nghi thất kinh, nói:
- Lúc sinh thời, thừa tướng biết rằng người này về sau tất
làm phản, quả nhiên như thế. Nay y chặn mất đường về, làm thế nào bây giờ?
Phí Vĩ nói:
- Người này tất tâu biểu về thiên tử, vu cho chúng ta làm phản,
nên mới đốt đường sàn để chặn ta đây. Chúng ta cũng nên tâu biểu, bày tỏ ý phản
của Ngụy Diên, rồi sau sẽ liệu.
Khương Duy nói:
- Ở đây có con đường tắt, gọi là Sà Sơn. Đường ấy tuy hiểm
hóc, nhưng có thể đi lên phía sau đường sàn được. Ta nên một mặt dâng biểu về
tâu thiên tử, một mặt kéo quân mã về đường Sà Sơn.
Lại nói hậu chủ ở Thành Đô, nóng lòng sốt ruột, ăn ngủ không
yên. Đêm nằm mơ thấy núi Cẩm Bình ở Thành Đô đổ, tỉnh dậy tỏ vẻ kinh sợ nghi hoặc
lắm. Hậu chủ ngồi đợi sáng, hội cả văn võ kể lại giấc mộng.
Tiêu Chu tâu rằng:
- Đêm qua tôi xem thiên văn, thấy một ngôi sao đỏ đồng đọc,
tia sáng tỏa ra có sừng, tự góc đông sa xuống góc tây nam, ứng về thừa tướng có
việc đại hung. Nay bệ hạ mộng thấy núi đổ, chính hợp vào điềm ấy.
Hậu chủ lại càng sợ hãi lắm. Chợt có tin báo Lý Phúc đã trở về.
Hậu chủ kíp cho đòi vào hỏi chuyện, Phúc cúi đầu khóc và tâu rằng thừa tướng đã
mất rồi. Lại thuật lời thừa tướng trối trăn lại một lượt.
Hậu chủ nghe xong, khóc òa lên rằng:
- Trời giết ta đây! Trời hỡi trời!
Hậu chủ khóc lăn ở trên sập rồng, thị thần phải vực vào hậu
cung. Ngô Thái Hậu nghe tin cũng khóc ầm mãi lên không thôi. Các quan ai nấy
cùng đau xót bi thảm. Trăm họ khóc lóc, sụt sùi.
Hậu chủ mấy hôm thương cảm lắm, không ra coi được việc. Chợt
có biểu của Ngụy Diên tâu về, nói rằng Dương Nghi làm phản. Quần thần kinh hoảng,
vào cung tâu với hậu chủ. Bấy giờ Ngô Thái Hậu cũng ở trong cung. Hậu chủ sai cận
thần đọc bài biểu của Ngụy Diên. Biểu rằng:
"Chinh tây đại tướng quân Nam Trịnh hầu, thần là Ngụy
Diên, sợ hãi cúi đầu tâu bẩm: Dương Nghi chuyên giữ binh quyền, đem chúng làm
phản, muốn cướp linh cữu thừa tướng, dẫn quân giặc vào cõi. Thần xin đốt đường
sàn trước, mang binh phòng giữ, kính tâu bệ hạ xét cho".
Hậu chủ nghe xong, nói:
- Ngụy Diên là tướng khỏe mạnh, đủ chống được Dương Nghi, cần
gì phải đốt đường sàn?
Ngô Thái Hậu nói:
- Ta từng nghe tiên đế nói Khổng Minh biết sau tóc Ngụy Diên
có tướng làm phản, muốn chém đi. Vì tiếc hắn khỏe mạnh, cho nên tạm để lại
dùng. Nay hắn tâu Dương Nghi làm phản, chưa nên nghe vội. Dương Nghi là quan
văn, thừa tướng ủy cho chức trưởng sử, tất là người dùng được. Nếu ta tin lời ấy,
Dương Nghi tất chạy sang Ngụy mất. Việc này phải xét cho kỹ chớ nên vội vàng.
Chợt lại có biểu của Dương Nghi dâng về. Cận thần mở đọc. Biểu
rằng:
"Trướng sứ tuỳ tướng quân, thần là Dương Nghi, sợ hãi
cúi đầu kính dâng biểu, Thừa tướng lâm chung, giao phó công việc cho thần, việc
gì cũng phải tuân phép cũ không được thay đổi; có sai Ngụy Diên đi đoạn hậu
cùng với Khương Duy. Nay Ngụy Diên không tuân lời dặn của thừa tướng, dám đem
quân mã bán bộ, về trước Hán Trung, đốt đường sàn, muốn cướp linh cữu, mưu việc
phản nghịch. Biến cố bất thình lình xảy ra, kính tâu bệ hạ biết cho".
Thái Hậu nghe xong, hỏi các quan rằng:
- Các ngươi nghĩ thế nào?
Tưởng Uyển tâu rằng:
- Cứ ý tôi, thì Dương Nghi tuy tính khí hẹp hòi, không có lượng
dung người, nhưng đến việc trù tính lương thảo, tham tán việc quân cơ, thì cũng
giúp được thừa tướng nhiều lắm. Thừa tướng lâm chung, phó thác cho việc lớn,
quyết không phải là người làm phản. Ngụy Diên xưa nay cậy có công, khinh người,
ai cũng không chịu kém. Dương Nghi không chịu nhường nhịn, Ngụy Diên đáng ghét.
Nay thấy Dương Nghi được cầm binh quyền, trong bụng Diên không chịu, cho nên đốt
đường mà vu tấu để hại người ta. Tôi xin đem già trẻ cả nhà bảo cử cho Dương
Nghi, không phải là người làm phản, chớ không dám nhận cho Ngụy Diên.
Đổng Doãn cũng tâu rằng:
- Ngụy Diên cậy mình công cao, thường vẫn mang bụng bất bình,
oán lộ ra miệng. Trước kia y không dám làm phản vì còn sợ thừa tướng. Nay thừa
tướng mới mất, y thừa cơ làm loạn, cũng là cái thế tất nhiên. Còn như Dương
Nghi, tài cán giỏi giang, thừa tướng đã dùng đến, quyết không phải là người phản
nghịch.
Hậu chủ nói:
- Nếu Ngụy Diên cố tình làm phản, thì nên dùng cách gì mà chống
được?
Tưởng Uyển tâu rằng:
- Thừa tướng vốn nghi người này, tất có mẹo mực trao cho
Dương Nghi, không thế sao Dương Nghi lại về được trong cửa hang? Chuyến này Ngụy
Diên tất mắc phải mẹo, xin bệ hạ khoan tâm.
Được một lát, lại có biểu của Ngụy Diên dâng về, tâu rằng
Dương Nghi làm phản. Trong khi hậu chủ đang xem biểu, lại có biểu của Dương
Nghi đệ đến. Hai người liên tiếp dâng biểu, bày lẽ phải trái. Chợt Phí Vĩ về chầu.
Hậu chủ đòi vào hỏi. Vĩ thuật hết tình hình Ngụy Diên làm phản.
Hậu chủ nói:
- Có phải thế, trẫm cho Đổng Doãn cầm cờ tiết ra giảng hòa
cho hai bên.
Đổng Doãn phụng chiếu đi ra.
Lại nói Ngụy Diên đốt đường sàn, đóng quân hang Nam Cốc, giữ
chặn cửa ải, tự lấy làm đắc kế lắm. Không ngờ Dương Nghi, Khương Duy dẫn quân
đi lẻn lối sau hang. Nghi sợ Hán Trương xảy ra điều gì, bèn sai tiên phong là
Hà Bình dẫn ba nghìn quân đi trước. Nghi và bọn Khương Duy trông nom linh cữu
kéo quân đi sau, rút về Hán Trung.
Hà Bình dẫn quân đến tắt mé sau hang Nam Cốc, đánh trống hò
reo. Quân tiễu mã báo với Ngụy Diên rằng: Dương Nghi sai Hà Bình dẫn quân đi lẻn
con đường nhỏ núi Sà Sơn lại khiêu chiến. Ngụy Diên nổi giận, mặc giáp lên ngựa,
cầm đao dẫn quân ra đánh.
Hà Bình quát to, mắng rằng:
- Phản tặc Ngụy Diên ở đâu?
Diên cũng mắng rằng:
- Mày giúp Dương Nghi làm phản, lại dám mắng tao a?
Bình quát rằng:
- Thừa tướng mới mất, xương thịt chưa lạnh, sao mày đã dám
làm phản, thằng kia?
Mắng đoạn, cầm roi trỏ sang bảo quân Thục rằng:
- Quân sĩ chúng mày, toàn là người Tây Xuyên, có cha mẹ, vợ
con, anh em ở trong ấy cả. Khi thừa tướng còn, không bạc đãi gì chúng mày. Nay
chớ nên giúp quân phản tặc, nên về cả quê hương, chờ đợi ơn trên ban thưởng.
Quân sĩ nghe xong, reo ầm lên một tiếng, tản đi quá nửa.
Diên giận lắm, múa đao thúc ngựa vào đánh Hà Bình. Bình đưa
giáo ra đỡ. Được vài hiệp, Bình giả thua chạy. Diên đuổi theo. Quân sĩ bắn tên
ra như mưa, Diên phải quay ngựa trở về. Thấy quân mình tan nát đi cả. Diên nổi
giận, thúc ngựa đuổi theo giết chết mấy người, nhưng không tài nào ngăn lại cho
xuể. Chỉ có ba trăm quân của Mã Đại, cứ đứng sừng sững, không hề nhúc nhích.
Diên ngoảnh lại bảo với Mã Đại rằng:
- Nếu ông thực bụng giúp tôi, khi thành công rồi, quyết không
phụ ông.
Bèn cùng với Mã Đại đuổi đánh Hà Bình. Bình dẫn quân chạy mất.
Diên thu nhặt quân tàn, bàn với Mã Đại rằng:
- Chúng ta sang hàng Ngụy, ông nghĩ thế nào?
Đại nói:
- Tướng quân nghĩ thế khờ lắm! Đại trượng phu nên tự đồ lấy
bá nghiệp, can gì phải xuất thân với ai? Tôi coi tướng quân trí dũng đủ cả, người
trong hai Xuyên có ai địch nổi? Tôi tình nguyện giúp tướng quân, trước hết lấy
Hán Trung, rồi sẽ tiến đánh Tây Xuyên.
Diên mừng lắm, cùng với Mã Đại kéo quân đánh Nam Trịnh.
Khương Duy ở trong thành Nam Trịnh, thấy Ngụy Diên, Mã Đại kéo đến ầm ầm, kíp
sai kéo cầu treo lên.
Hai người gọi to rằng:
- Hàng đi cho mau!
Khương Duy bàn với Dương Nghi rằng:
- Ngụy Diên khỏe mạnh, lại có Mã Đại giúp đỡ, tuy ít quân,
nhưng ta dùng mẹo gì mà đánh cho được?
Nghi nói:
- Thừa tướng lúc gần mất, có đưa cho ta một túi gấm, dặn rằng:
"Khi nào Ngụy Diên làm phản, lâm đến thành ra địch, mới cho mở xem, tự khắc
có mẹo chém được Ngụy Diên". Nay nên mở ra xem sao.
Bèn lấy túi gấm ra xem. Trong túi có một phong thư đề ngoài rằng:
"Đợi lúc nào ngồi lên ngựa đối địch với Ngụy Diên thì mới mở".
Khương Duy mừng rỡ, nói:
- Thừa tướng đã có mẹo để lại, trưởng sử nên giữ lấy, để tôi
dẫn quân ra thành dàn trận, xong rồi ông lại ngay cho.
Khương Duy nai nịt lên ngựa, cầm đao dẫn ba nghìn quân mở cửa
thành kéo ra. Trống đánh vang lừng, bày thành thế trận, Khương Duy kìm ngựa đứng
dưới cửa cờ, quát to lên mắng rằng:
- Phản tặc Ngụy Diên, thừa tướng không bạc đãi mày, sao mày
dám làm phản?
Diên cầm ngang lưỡi đao, kìm ngựa lại nói rằng:
- Bá Ước, không việc gì đến ngươi, cứ về bảo Dương Nghi ra
đây!
Nghi ở trong cửa cờ, mở túi gấm ra xem, biết được mẹo như thế
rồi, mừng lắm, bèn cưỡi ngựa ra đứng ở trước trận, trỏ sang Ngụy Diên, cười mà
rằng:
- Khi còn thừa tướng, biết mày về sau tất làm phản, đã sai ta
phòng trước, nay quả nhiên như thế thực! Mày có dám ngồi trên ngựa kêu luôn ba
tiếng: "Ai dám giết ta?" thì mới kể là đại trượng phu, ta xin dâng
thành Hán Trung cho mày ngay!
Diên cười ầm lên, nói:
- Đồ sất phu kia! Lặng im ta nói cho mà nghe: Khi Khổng Minh
sống ta còn sợ hắn vài ba phần, nay hắn chết rồi, thiên hạ còn ai làm gì nổi ta
nữa? Đừng nói kêu luôn ba tiếng, kêu luôn hẳn ba vạn tiếng, ta cũng chẳng ngại
gì!
Nói đoạn, cắp đao, cầm vững cương ngồi trên ngựa, kêu lên rằng:
- Ai dám giết ta?
Diên kêu vừa dứt lời thì một người ở sau lưng Diên thét lên rằng:
- Tao dám giết mày đây!
Miệng nói, tay chém Ngụy Diên chết quay xuống ngựa. Chúng
kinh hãi nhìn ra thì là Mã Đại.
Nguyên Khổng Minh trao mật kế cho Mã Đại, chỉ đợi Ngụy Diên
thét lên, thì nhân lúc bất ngờ mà chém chết Diên. Khi ấy Dương Nghi xem thư
trong túi gấm, đã biết rằng có Mã Đại làm tay trong, cho nên y mẹo mà làm, quả
nhiên giết được Ngụy Diên.
Diên chưa kịp đến Nam Trịnh, Mã Đại chém được Ngụy Diên rồi,
bèn hợp binh với Khương Duy một chỗ. Dương Nghi dâng biểu về tâu với hậu chủ.
Hậu chủ giáng chỉ rằng:
- Ngụy Diên tuy đã chính tội rồi, nhưng nghĩ công lao trước của
hắn, cũng cho quan quách mai táng.
Bọn Dương Nghi rước linh cửu Khổng Minh về Thành Đô, hậu chủ
dẫn các quan mặc đồ tang trở ra khỏi thành hai chục dặm nghênh tiếp. Hậu chủ cất
tiếng khóc vang lên. Trên từ công khanh, dưới đến trăm họ, già trẻ trai gái, ai
cũng khóc lóc, sầu thảm.
Hậu chủ sai rước linh cửu vào trong thành, quàn ở phủ thừa tướng.
Sai con Khổng Minh là Gia Cát Chiêm thủ tang.
Hậu chủ về triều. Dương Nghi tự trói mình lại xin chịu tội. Hậu
chủ sai cởi trói và phủ dụ rằng:
- Nếu không có người tuân theo lời thừa tướng, thì linh cửu
bao giờ về được, mà giết làm sao được Ngụy Diên? Muôn việc chu toàn cũng do tự
sức người cả.
Bèn phong cho Dương Nghi làm trung quân sư; Mã Đại có công giết
giặc, được thăng quan tước của Ngụy Diên.
Dương Nghi trình tờ di biểu của Khổng Minh. Hậu chủ xem xong thương
khóc, giáng chỉ chọn đất an táng.
Phí Vĩ tâu rằng:
- Khi thừa tướng gần mất, có dặn táng ngài ở núi Định Quân,
không cần xây lăng miếu và cũng không dùng đến để tế lễ gì cả.
Hậu chủ nghe lời, kén ngày tốt, tháng mười năm ấy, rước linh
cữu ra núi Định Quân an táng.
Hậu chủ tế một tuần, đặt tên thụy là Trung Võ hầu, sai lập miếu
ở Miên Dương, bốn mùa tế bái.
Về sau Đỗ Phủ có thơ rằng:
Miếu đền Gia Cát ở đâu đây?
Cung gấm, tùng xanh ở thành này.
Có biếc lung linh màu xuân thắm,
Lá vàng ríu rít giọng chim bay.
Ba lượt tới lều thiên hạ kế,
Hai triều giúp nước rõ lòng ngay,
Xông trận chưa thành thân đã chết,
Anh hùng khăn thấm lệ tuôn đầy.
Lại có thơ rằng:
Gia Cát tiếng tăm lừng vũ trụ,
Tinh thần dáng vẻ đẹp thanh cao,
Thế nước chia ba trù sách lược,
Trời mây muôn thuở rực cờ mao.
Giữa thời bá trọng gặp Y Lã,
Chỉ huy hoạch định diệt quân Tào.
Mong sao Vận Hán dần xoay chuyển,
Chí quyết, thân tàn, rạng công lao.
Hậu chủ về đến Thành Đô, cận thần tâu rằng:
- Có tin ngoài biên nói Đông Ngô sai Toàn Tôn dẫn vài vạn
quân đóng ở cửa cõi Ba Kỳ, chưa biết ý tứ ra làm sao?
Hậu chủ thất kinh, nói:
- Thừa tướng mới mất, Đông Ngô phụ lời minh ước, muốn lấn cõi
ta, làm thế nào bây giờ?
Tưởng Uyển tâu rằng:
- Tôi xin cử Vương Bình, Trương Ngực dẫn vài vạn quân đóng ở
thành Vĩnh An, đề phòng việc bất trắc; bệ hạ nên sai một người sang Đông Ngô
báo tang, để dò ý tứ xem sao.
Hậu chủ nói:
- Tất phải được người ăn nói giỏi giang đi sứ mới xong.
Một người bước ra thưa rằng:
- Tiểu thần xin đi!
Chúng trông ra thì là người ở Nam Dương, tên là Tôn Dự, hiện
đang làm tham quân hữu trung lương tướng.
Hậu chủ mừng lắm, sai Tôn Dự sang sứ Đông Ngô báo tang và dò
xét hư thực.
Tôn Dự lĩnh mệnh, đến tắt Kim Lăng, vào ra mắt Tôn Quyền. Lễ
xong, trông ra tả hữu thấy người nào cũng mặc áo trắng.
Tôn Quyền sầm mặt lại, nói:
- Ngô, Thục đã là một nhà với nhau, cớ sao chủ ngươi lại còn
thêm quân ra giữ thành Bạch Đế?
Dự nói:
- Đông Ngô thêm quân ra giữ ở Ba Kỳ, Tây Thục tăng lính ở Bạch
Đế, chẳng qua sự thế phải thế! Tôi thiết nghĩ điều ấy bệ hạ chẳng nên hỏi làm
gì!
Quyền cười, nói:
- Ngươi chẳng kém Đặng Chi chút nào!
Lại bảo Tôn Dự rằng:
- Trẫm nghe tin Gia Cát thừa tướng mất, ngày nào cũng khóc,
truyền các quan bên này để trở cả. Trẫm sợ người Ngụy thừa lúc tang tóc vào
đánh Thục, nên cho thêm một vạn quân ra giữ Ba Kỳ, có ý cứu giúp lẫn nhau, chớ
không có bụng nào khác.
Tôn Dự cúi đầu lạy tạ.
Quyền nói:
- Trẫm đã hứa đồng minh với Thục, lẽ nào lại trái nghĩa?
Dự thưa rằng:
- Thiên tử bên tôi nhân thừa tướng mới mất, nên sai tôi sang
báo tang.
Tôn quyền sai lấy một mũi tên bít vàng, bẻ ra làm đôi, thề rằng:
- Nếu trẫm phụ lời thề trước, con cháu sẽ tuyệt diệt.
Lại sai sứ mang hương lụa và đồ lễ vào Xuyên tế Khổng Minh.
Tôn Dự lạy từ Ngô chủ, cùng với sứ giả về Thành Đô, vào chầu
hậu chủ, tâu rằng:
- Ngô chủ, nhân thừa tướng mới mất, động lòng thương nhớ, lúc
nào cũng ứa nước mắt, quần thần đều mặc đồ tang. Thêm quân giữ Ba Kỳ, là sợ người
Ngụy thừa cơ đến đánh nước ta thì sang cứu, chớ không có bụng nào. Hiện Ngô chủ
đã bẻ một mũi tên ăn thề không dám trái ước.
Hậu chủ mừng lắm, trọng thưởng Tôn Dự và hậu đãi Ngô sứ cho về.
Tuân lời Khổng Minh dặn lại, cất Tưởng Uyển làm thừa tướng đại tướng quân, xét
việc thượng thư: Gia phong cho Phí Vĩ làm thượng thư lệnh, cùng coi việc thừa
tướng; gia phong Ngô Ý làm xa kỵ tướng quân, ban cho cờ tiết, trấn thủ Hán
Trung, phong Khương Duy làm phụ Hán tướng quân, Bình tương hầu, tổng đốc quân
mã các xứ, cùng với Ngô Ý đóng ở Hán Trung đề phòng quân Ngụy. Còn các tướng
khác, cứ y chức cũ.
Dương Nghi nghĩ mình tuổi nhiều sẽ được cao chức hơn Tưởng Uyển,
ai ngờ lại hóa phải ở dưới. Vả lại, cậy mình công to, chưa được thưởng gì nên
mang lòng hờn oán, thường nói với Phí Vĩ rằng:
- Khi thừa tướng mới mất, giá ta đem cả quân sang hàng Ngụy,
đâu đến nỗi buồn tẻ thế này!
Phí Vĩ đem lời ấy mật tâu với thiên tử, Hậu chủ nổi giận bắt
Dương Nghi tống ngục toan chém.
Tưởng Uyển tâu rằng:
- Nghi tuy có tội, nhưng khi trước theo thừa tướng, nhiều lần
lập được công lao, không nên giết đi, hãy giáng xuống làm thứ dân.
Hậu chủ nghe lời, cắt hết chức Dương Nghi, giáng làm thứ dân,
đuổi ra ở Gia Quận, xứ Hán Trung.
Nghi hổ thẹn, tự vẫn chết.
Năm Kiến Hưng thứ mười ba nhà Thục Hán, tức là năm Thanh Long
thứ ba bên Ngụy chủ Tào Tuấn, và năm Gia Hòa thứ tư bên Ngô chủ Tôn Quyền. Năm ấy,
Ngụy chủ phong Tư Mã Ý làm thái uý, sai tổng đốc quân mã, trấn thủ các nơi biên
viễn. Ý lại từ về Lạc Dương.
Ngụy chủ ở Hứa Xương, sửa sang cung điện, khởi công xây dựng
cực to. Ở Lạc Dương làm ra đền Triều Dương, đền Thái Cực, đài Tổng Chương, mỗi
tòa cao mười trượng. Lại lập ra đền Sùng Hoa, gác Thanh Tiêu, lầu Phượng Hoàng,
đào ao Cửu Long. Sai quan bác sĩ Mã Quân coi sóc công việc, bắt phải làm cho cực
đẹp. Rui chạm, cột vẽ, ngói biếc, gạch vàng, lộng lẫy chói lòa cả mắt. Quân kén
hơn ba nghìn thợ khéo và ba chục vạn dân phu, làm suốt đêm ngày không nghĩ. Dân
gian khổ sở, ta oán không biết ngần nào. Lại sai sửa sang vườn Phương Lâm, bắt
cả các quan phải đột đất trồng cây.
Tư đồ Đổng Tầm dâng biểu can rằng:
- Từ năm Kiến an đến giờ, đánh nhau tàn hại, dân gian chết
chóc rất nhiều, cửa nhà khánh kiệt, còn lại rặt những kẻ già yếu, trẻ mồ côi.
Nay cung thất có hẹp nhỏ, muốn mở rộng thêm ra cũng nên tùy thời, chớ nên để hại
đến việc làm ruộng; huống chi làm những việc vô ích dư? Bệ hạ đã trọng quần thần,
cho đội mũ mặc áo vẻ vang, ngồi xe lịch sự, là để cho khác kẻ thường dân. Nay lại
bắt khiêng gỗ, đội đất, chân tay nhem nhuốc, mất cả phong thể nhà nước, để cần
lấy sự vô ích, thật không ra làm sao! Đức Khổng Tử có nói: "Vua sai bầy
tôi phải có lẽ, bầy tôi thờ vua phải có trung. Nếu không trung không lẽ, thì
sao ra nước nữa? Tôi biết rằng nói ra thì tất chết nhưng tôi chẳng qua như một
cái lông trên mình trâu mà thôi, sống đã vô ích, bụng từ với đời. Tôi có tám
con, sau khi chết rồi, bệ hạ còn nhiều. Sợ hãi không sao kể xiết! Xin chờ lệnh
trên!".
Tào Tuấn xem biểu, nổi giận nói:
- Đổng Tầm không sợ chết ư?
Tả hữu xin chém.
Tuấn nói:
- Người này vốn có bụng trung nghĩa, nay hãy cách làm thứ
dân. Hễ ai còn can nữa thì chém.
Bấy giờ, Trương Mậu cũng dâng sớ can ngăn ráo riết lắm. Tuấn
sai chém liền.
Ngay hôm ấy, Tuấn vời Mã Quân đến hỏi rằng:
- Trẫm lập ra đền cao gác thẳm, muốn đi lại chơi với thần
tiên, để cầu thuốc trường sinh, thì làm thế nào?
Quân tâu rằng:
- Hai mươi bốn vua triều nhà Hán, duy có vua Võ Đế hưởng nước
được lâu dài, mà tuổi thọ. Bởi vì có uống khí tinh hoa của mặt trăng. Vua ấy lập
đền Bách Lương ở trong cung Trường An. Trong đền xây một cái mâm, gọi là mâm hứng
móc, để tiếp lấy giọt nước sao bắc đẩu lúc canh ba rỏ xuống, gọi là "thiên
tương", lại gọi là "Cam lộ". Lấy nước ấy hòa vào bột ngọc thật
quý mà uống, thì có thể biến già thành trẻ được.
Tuấn mừng, nói:
- Ngươi nên đem dân phu đến Trường An, dỡ người đồng đem về để
ở trong vườn Phương Lâm cho ta.
Quân lĩnh mệnh, dẫn một vạn người đến Trường An; sai lấy gỗ bắc
gióng chung quanh đền Bách Lương, rồi cho năm nghìn người dòng dây chạc leo lên
trên nóc đền. Đền ấy cao hơn hai chục trượng, cột đồng to mười ôm. Mã Quân sai
dỡ người đồng xuống trước.
Người đồng bỗng rơm rớm nước mắt, ai nấy đều kinh hãi. Chợt lại
có một trận cuồng phong nổi lên, cát sỏi bay mù mịt, rồi ầm một tiếng như trời
long đất lở, đền siêu cột đổ, đè chết hơn nghìn người.
Mã Quân sai đem người đồng và mâm vàng về Lạc Dương dâng Ngụy
chủ.
Ngụy chủ hỏi:
- Còn cái cột đồng ở đâu?
Quân tâu rằng:
- Cột đồng nặng trăm vạn cân, không mang về được.
Ngụy chủ sai đập vụn cột đồng ra đem về Lạc Dương đúc hai người
đồng cực to, gọi là "Ông Trọng", dựng ở ngoài cửa Tư Mã. Lại đúc một
con rồng và một con phượng bằng đồng, rồng cao bốn trượng, phượng cao ba trượng
xây ở trước điện. Lại sai trồng các thức hoa quý cây lạ và nuôi các giống chim
muông kỳ quái ở trong vườn Phương Lâm.
Dương Phu dâng sớ can ngăn. Tào Tuấn không xét cứ thúc Mã
Quân sửa sang đền đài cho cao, để đặt người đồng và mâm hứng móc. Lại sai kén
thật nhiều con gái đẹp trong thiên hạ, cho ở cả trong vườn Phương Lâm. Thiếu
phó Dương Phụ dâng biểu rằng:
- Thần nghe vua Nghiêu xưa ở nơi lều tranh mà vạn quốc an cư.
Vua Vũ ngồi trong cung nhỏ mà thiên hạ lạc nghiệp. Đến như Ân chu nhà chí cao
ba thước chiếu trải chín manh. Xưa các bậc thánh đế minh vương chưa bao giờ làm
cung điện cao sang để tốn hại của trăm họ. Vua Kiệt, Trụ xây lâu đài tráng lệ
đã hại đến xã tắc. Vua Sở Linh vì xây cung Chương Hoa mà thân mang vạ. Tần Thủy
Hoàng xây cung A Phòng để tai ương cho con cháu, thiên hạ nổi lên chỉ hai đời
là bị diệt. Phàm những kẻ phí sức muôn dân để mua vui chốc lát chưa có ai không
bị diệt vong. Bệ hạ nay nên học phép của Nghiêu, Thuấn, Vũ Thang, Văn Võ, và
nên lấy gương Kiệt, Trụ, Sở, Tần làm răn. Nếu ăn chơi xa xí trang hoàng cung điện
sẽ gặp hoạ nguy vong.
Vua là đầu, bề tôi là tay chân, được mất cùng chịu. Thần tuy
có run sợ nhưng không dám quên nghĩa vua tôi. Xin nói hết mọi lời, có gì sai thần
xin chịu tội.
Các quan tranh nhau dâng biểu can ngăn, Tuấn nhất thiết không
nghe ai cả.
Vợ Tào Tuấn là Mao thị, người ở Hà Nội. Hồi Tào Tuấn còn làm
Bình nguyên vương, ân tình nặng lắm. Khi Tuấn lên ngôi, lập Mao thị làm Hoàng hậu.
Về sau, Tuấn yêu Quách phu nhân, liền nhạt tình với Mao hậu. Quách phu nhân người
nhan sắc mà tính lại thông minh. Tuấn yêu đương lắm, ngày nào cũng vui thú với
nhau, hơn một tháng không ra khỏi cửa cung. Năm ấy đang độ tháng ba, mùa xuân,
trong vườn Phượng Lâm, trăm hoa đua nở hương bay ngào ngạt. Tuấn cùng với Quách
phu nhân dạo chơi trong vườn, mở tiệc uống rượu.
Quách phu nhân nói:
- Sao bệ hạ không cho mời Hoàng hậu ra chơi nhân thể cho vui?
Tuấn nói:
- Nếu hắn ở đây thì một giọt rượu, trẫm cũng không nuốt trôi
vào cổ họng được.
Bèn truyền lệnh cho các cung nga, cấm không ai được nói cho
Mao hậu biết. Khi ấy, Mao hậu hơn một tháng trời không thấy Tào Tuấn vào đến
chính cung, trong bụng buồn rầu, cũng dẫn vài mươi tên cung nhân ra chơi lầu
Thúy Hoa cho tiêu khiển. Bổng nghe tiếng nhạc réo rắt liền hỏi rằng:
- Nhạc đánh ở đâu thế?
Một viên quan tâu rằng:
- Nhạc ấy là thánh thượng chơi hoa uống rượu với Quách phu
nhân ở trong vườn ngự đó.
Mao hậu nghe xong, lại càng não ruột lắm, trở về cung nghỉ
ngơi.
Hôm sau Mao hậu ngồi xe ra chơi ngoài cung, gặp Tào Tuấn ở
hành lang, cười nói rằng:
- Bữa qua bệ hạ chơi ở Bắc Viên vui vẻ lắm nhỉ!
Tuấn nổi giận, sai đòi hết các cung nữ hầu hạ hôm qua đến mắng
rằng:
- Trẫm đã cấm không đứa nào được nói chuyện cho Mao hậu biết,
làm sao chuyện lại rộ ra?
Lập tức sai chém ráo cả. Mao hậu kinh hãi về cung. Tuấn giáng
chiếu bắt Mao hậu phải tự tử, lập Quách phu nhân lên làm Hoàng hậu. Quần thần
không ai dám can.
Chợt có thứ sử ở U Châu là Vô Kỳ Kiệm dâng biểu về tâu rằng:
- Có Công Tôn Uyên ở Liêu Đông làm phản, tự xưng là Yên
Vương, cải niên hiệu là năm Thiệu Hán thứ nhất, dựng nên cung điện, đặt ra quan
chức, cất quân vào cướp, làm nhiễu động cả phương Bắc.
Tuấn giật mình, hội cả văn võ lại bàn bạc.
Đó là:
Trong nước vừa lao công thổ mộc,
Ngoài biên lại nổi việc can quan.
Chưa biết Tào Tuấn chống cự ra làm sao, xem hồi sau phân giải.
Hồi 106:
Công Tôn Uyên thua trận, chết ở Tương Bình
Tư Mã Ý giả ốm, lừa được Tào Sảng
Nói về Công Tôn Uyên ở Liêu Đông, nguyên là con Công Tôn
Khang và cháu Công Tôn Đô.
Tự năm Kiến An thứ mười hai, Tào Tháo đuổi Viên Thượng chưa đến
Liêu Đông thì Khang đã chém đầu Thượng nộp cho Tháo rồi. Tháo phong làm Trương
Bình hầu. Về sau, Khang mất đi, có hai con, con cả tên Hoảng, con thứ tên Uyên,
bấy giờ còn bé cả: Em Công Tôn Khang là Công Tôn Cung kế chức. Đến đời Tào Phi,
phong cho Công Tôn Cung làm xa kỵ tướng quân, Tương Bình hầu. Năm Thái hòa thứ
hai, Uyên đã lớn, văn võ kiêm toàn, tính tình dữ tợn hay đánh nhau, mới cướp
ngôi của chú. Tào Tuấn phong Uyên là dương liệt tướng quân, và lĩnh chức thái
thú Liêu Đông. Về sau, Tôn Quyền sai Trương Di, Hứa Yến mang vàng ngọc, châu
báu đến Liêu Đông phong Uyên làm Yên vương. Uyên sợ quyền thế Trung Nguyên, mới
chém hai sứ giả nước Ngô đem đầu nộp cho Tào Tuấn, Tuấn phong thêm cho Uyên làm
đại tư mã Lạc Lãng công. Uyên chưa bằng lòng, bàn nhau với chúng, tự xưng là
Yên vương, cải niên hiệu năm Thiệu Hán thứ nhất.
Phó tướng là Giả Phạm can rằng:
- Trung Nguyên phong chúa công đến tước thượng công, không phải
là tì tiện gì. Nay bằng làm phản, thực là trái lẽ. Vả lại, Tư Mã Ý giỏi việc
dùng binh. Gia Cát Võ hầu còn không đánh nổi, huống chi chúa công?
Uyên giận lắm, sai tả hữu trói Giả Phạm đem ra chém.
- Giả Phạm nói thế phải đấy. Thánh nhân có câu: "Nhà nước
sắp đổ tất có điềm quái". Nay trong nước ta nhiều tai dị lắm: Gần đây, có
con chó biết đội khăn, mặc áo đỏ, trèo lên nóc nhà đi như người. Lại ở phía nam
cửa thành, có một nhà dân thổi cơm, tự nhiên thấy đứa bé chín từ trong nồi. Lại
ở cửa bắc thành Tương Bình, đất bỗng dưng nứt ra một chỗ, rồi một khối thịt đùn
lên, chu vi độ vài thước, đủ cả đầu, mắt, tai, mồm, mũi, chỉ không có chân tay,
dao chém không đứt, tên bắn không vào, không biết là vật gì. Thầy bói xem đoán
rằng: "Có hình không ra hình, có miệng không biết nói, nhà nước sắp mất,
cho nên hiện hình". Có ba việc quái gở ấy, chúa công nên tránh sự dở cầu sự
hay, chớ nên khinh động.
Uyên nổi giận đùng đùng, quát võ sĩ trói cả Luân Trực và Giả
Phạm đem chém ở ngoài chợ. Rồi sai Ty Diễn làm nguyên soái. Dương Tô làm tiên
phong, khởi mười lăm vạn quân Liêu, kéo đến Trung Nguyên.
Quân ngoài biên báo tin cho Ngụy chủ Tào Tuấn, Tuấn sợ lắm liền
vời Tư Mã Ý vào chầu bàn việc.
Ý tâu rằng:
- Quân mã bộ hạ của tôi bốn vạn, đủ phá được giặc.
Tuấn nói:
- Quân của ngươi ít mà đường sá thì xa, làm sao mà đánh giặc
được?
Ý nói:
- Quân không cốt gì nhiều; cốt tự người chủ tướng biết dùng
mưu mẹo mà thôi. Tôi nhờ hồng phúc của bệ hạ tất bắt được Công Tôn Uyên về nộp.
Tuấn nói:
- Ngươi đồ Công Tôn Uyên cử động thế nào?
Ý tâu:
- Công Tôn Uyên nếu biết bỏ thành mà chạy là thượng kế; giữ ở
Liêu Đông để kháng cự đại quân là trung kế; ngồi giữ ở Tương Bình là hạ kế, chắc
tôi tóm được.
Tuấn nói:
- Chuyến này đi ước chừng bao lâu thì đánh xong?
Ý nói:
- Đường đất bốn nghìn dặm, phải đi mất trăm ngày, đánh trăm
ngày, về trăm ngày, nghỉ ngơi sáu mươi ngày, cả thảy độ một năm thì xong.
Tuấn hỏi:
- Nếu có Ngô, Thục vào cướp thì làm thế nào?
Ý nói:
- Tôi đã sẵn phương kế giữ gìn rồi, bệ hạ bất tất phải lo.
Tào Tuấn mừng lắm, sai Tư Mã Ý đi đánh Công Tôn Uyên. Ý lạy từ
ra thành, sai Hồ Tuân làm tiên phong, dẫn quân tiền bộ đến trước Liêu Đông hạ
trại.
Quân tiểu mã báo với Công Tôn Uyên, Uyên sai Ty Diễn, Dương
Tô chia tám vạn quân ra đóng ở Liêu Toại, đào hào chung quanh hai chục dặm, rào
toàn chông chà rất là nghiêm ngặt.
Hồ Tuân sai người báo với Tư Mã Ý. Ý cười nói:
- Giặc không đánh nhau với ta, muốn để cho quân ta phải khốn
đây! Ta đồ rằng già nửa quân giặc ở đây, sào huyệt tất bỏ không. Chi bằng ta bỏ
xứ này, đi tắt đến thành Tương Bình giặc tất phải ra cứu, ta chặn ngang nửa đường
mà đánh, chắc chắn được to.
Vì thế, Ý dẫn quân đi lẻn theo đường nhỏ kéo ra Tương Bình.
Ty Diễn, Dương Tô bàn với nhau rằng:
- Nếu quân Ngụy đến đây, ta chớ có đánh nhau. Họ cách xa vài
nghìn dặm, lương thảo không tiếp ứng được, khó giữ được lâu, cạn lương tất phải
rút về, ta sẽ đuổi theo mà đánh, tất bắt được Tư Mã Ý. Khi xưa Tư Mã Ý chống
nhau với quân Thục, chỉ việc giữ vững ở Vị Nam, rút cuộc Khổng Minh phải chết ở
nơi quân thứ. Việc bây giờ cũng chẳng khác gì trước cả.
Hai người đang bàn bạc với nhau, chợt có tin báo quân Ngụy
sang cả phía nam.
Ty Diễn giật mình, nói:
- Họ biết ở Tương Bình ít quân, cho nên đến úp trại căn bản của
ta đây! Nếu Tương Bình mất, ta giữ đây cũng vô ích.
Liền nhổ trại theo sau kéo đi.
Có thám mã báo tin với Tư Mã Ý. Ý cười nói rằng:
- Mắc phải mẹo ta rồi!
Mới sai Hạ Hầu Bá, Hạ Hầu Uy, mỗi người dẫn một toán quân phục
ở bến Lương Thủy, đợi quân Liêu đến thì hai mặt đổ ra đánh.
Hai người vâng mẹo dẫn quân đi. Khi quân Liêu kéo qua, bổng một
tiếng pháo nổ lên, hai bên mở cờ đánh trống kéo ra, tả thì Hạ Hầu Bá, hữu thì Hạ
Hầu Uy, xông đến đánh. Ty, Dương hai người tháo đường chạy được đến núi Thú
Sơn, vừa gặp Công Tôn Uyên dẫn quân tới, bèn hợp binh làm một, rồi lại đến đánh
nhau với quân Ngụy.
Ty Diễn ra ngựa mắng rằng:
- Tướng giặc chớ dùng quỷ kế, mày có dám ra đánh nhau không?
Hạ Hầu Bá múa đao lại đánh, chưa được vài hiệp. Ty Diễn bị
chém ngã lăn xuống ngựa. Quân Liêu rối loạn. Bá thúc quân đánh tràn vào. Công
Tôn Uyên phải dẫn bại quân chạy về thành Tương Bình, đóng cửa giữ vững không
ra.
Quân Ngụy kéo đến, vây kín bốn mặt thành. Bấy giờ gặp mùa
thu, trời mưa ròng rã một tháng chưa tạnh, chỗ đất phẳng nước sâu ba thước.
Thuyền vận lương từ cửa sông Liêu Hà đến thẳng được Tương Bình, Quân Ngụy ở
trong vũng nước, ngồi đứng không yên.
Tả đô đốc là Bùi Cảnh vào trướng bẩm rằng:
- Mưa mãi không tạnh, trong trại lầy lội lắm, quân không sao ở
được. Xin xem trại đến trái núi trước mặt mà đóng.
Ý giận, nói:
- Chỉ nay mai là bắt sống Công Tôn Uyên, không được rời trại.
Hễ ai còn nói đến rời trại thì chém!
Bùi Cảnh dạ dạ lui ra. Một lát sau hữu đô đốc là Cứu Liên lại
đến kêu rằng:
- Quân sĩ khổ về nước ngập, xin thái úy rời trại sang chỗ
khác cho.
Ý nổi giận, nói:
- Quân lệnh của ta đã truyền ra rồi, ngươi sao dám trái?
Lập tức sai lôi ra chém, treo đầu ở ngoài cửa viên. Bởi thế bụng
quân sợ hãi, không ai dám oán thán câu gì.
Ý truyền cho quân sĩ ở mặt nam, tạm lui ra ngoài hai chục dặm,
tha cho quân dân trong thành ra ngoài cắt cỏ kiếm củi, chăn dắt trâu ngựa.
Trần Quần hỏi rằng:
- Trước kia thái uý đánh Thượng Dung, chia quân làm tám đường,
chỉ tám ngày đến thẳng dưới thành, bắt ngay được Mạnh Đạt, lập được công to.
Nay đem bốn vạn quân từ xa bốn ngàn dặm đến đây, không sai đánh ngay thành đi,
mà để ở mãi trong đám bùn lầy; lại còn thả cho giặc ra ngoài chăn ngựa kiếm củi.
Tôi không biết ý của thái uý ra sao?
Ý cười, nói:
- Ông không biết binh pháp ư? Khi xưa Mạnh Đạt lương nhiều
quân ít, mà ta thì nhiều quân ít lương, cho nên phải đánh nhau. Thừa lúc vô
tình, đột nhiên lại đánh, mới có thể phá được. Nay quân Liêu nhiều, quân ta ít,
giặc đói ta no, can chi phải đánh ngay. Nên dể cho quân kia bỏ chạy rồi sẽ thừa
cơ mà đánh. Nay ta mở cho một đường, không bịt đường kiếm củi chăn muông của họ,
là có ý để cho quân giặc trốn dần đi.
Trần Quần chịu mẹo ấy là cao.
Tư Mã Ý sai người về Lạc Dương thúc lương. Ngụy chủ khai chầu.
Quần thần tâu rằng:
- Độ này mưa thu ròng rã hơn một tháng, quân mã vất vả lắm,
nên đòi Tư Mã Ý về, hãy tạm bãi binh.
Tuấn nói:
- Tư Mã thái uý dùng binh giỏi giang, lâm nguy chế biến lắm mẹo
tài, chẳng mấy bữa mà bắt được Công Tôn Uyên, các ngươi hà tất phải lo.
Nói rồi, không nghe lời quần thần can, sai người vận lương
đem đến trại Tư Mã Ý.
Qua vài hôm, mưa tạnh, trời quang đãng. Đêm hôm ấy Ý ra ngoài
trướng, nhìn xem thiên văn. Bỗng thấy một ngôi sao to tầy đấu, ánh sáng tỏ ra
vài trượng, từ mé sông bắc núi Thú Sơn Sa xuống góc đông nam thành Tương Bình.
Tướng sĩ các trại, ai cũng kinh hãi.
Ý mừng bảo các tướng rằng:
- Sau năm ngày nữa, chỗ sao sa tất chém được Công Tôn Uyên.
Ngày mai nên hết sức mà đánh thành.
Các tướng được lệnh, sáng sớm dẫn quân đến vây kín bốn mặt
thành, đắp núi đất, đào đường hầm, làm giá pháo, bắc thang mây, ngày đêm đánh
vào, tên bắn như mưa.
Công Tôn Uyên ở trong thành cạn lương, phải giết trâu mổ ngựa
ăn thịt trừ bữa. Bụng quân oán tức, muốn chém Công Tôn Uyên đem đầu ra thành
xin hàng. Uyên thấy thế lo lắm, sai tướng quốc Vương Kiến, ngự sử đại phu Liễu
Phủ đến trại Ngụy xin hàng. Hai người từ mặt thành dòng xuống, đến kêu với Tư
Mã Ý rằng:
- Công Tôn Uyên sao không đến xin mà lại sai ngươi?
Liền quát võ sĩ lôi hai người ra chém, sai đầy tớ mang đầu về
nói với Công Tôn Uyên sợ lắm, lại sai thị trung là Vệ Diễn đến trại Ngụy.
Tư Mã Ý ngồi trên trướng, các tướng đứng sắp hàng hai bên, Diễn
Quỳ gối lê vào trướng, kêu rằng:
- Xin thái uý bớt giận lôi đình, hôm nay xin hãy đưa thái tử
Công Tôn Tu đến đây làm tin. Vua tôi chúng tôi sẽ xin tự trói mình lại hàng.
Ý nói:
- Phép dùng binh có năm điều cốt yếu; có thể đánh được thì
đánh; không đánh được thì giữ; không giữ được thì chạy; không chạy được thì
hàng; không hàng được thì chết. Can gì phải đem con lại làm tin?
Liền quát Vệ Diễn cho về báo với Công Tôn Uyên. Diễn ôm đầu lủi
thủi ra về, thuật chuyện lại với Uyên. Uyên kinh hãi quá chừng, bàn với con là
Công Tôn Tu, kén một nghìn quân mã, canh hai đêm hôm ấy mở cửa nam chạy về phía
đông nam. Uyên thấy không có quân ngăn trở, trong bụng đã mừng. Đi chưa được chục
dặm, bỗng nghe ở trên núi có tiếng pháo nổ, trống tù và om ả, rồi một toán quân
kéo ra chặn đường. Ở giữa thì Tư Mã Ý, tả có Tư Mã Sư, hữu có Tư Mã Chiêu.
Hai người gọi to rằng:
- Phản tặc chớ chạy!
Uyên giật mình, kíp quay ngựa tìm đường trốn. Bỗng lại thấy Hồ
Tuân kéo quân đến, bên thì Hạ Hầu Bá, Hạ Hầu Uy, bên thì Trương Hổ, Nhạc Lâm,
vây bọc cả bốn mặt tựa như rào sắt. Hai cha con Công Tôn Uyên không làm sao được,
phải xuống ngựa chịu hàng.
Ý ngồi trên ngựa, ngoảnh lại bảo các tướng rằng:
- Đêm hôm nọ là ngày bính dần, có ngôi sao to sa xuống ở chỗ
này; đêm nay là ngày nhâm thân, ứng rồi đây.
Các tướng mừng, nói:
Ý truyền lệnh chém cả hai cha con Công Tôn Uyên, rồi quay
binh về hạ thành Tương Binh. Chưa đến nơi thì Hồ Tuân đã hạ được thành rồi.
Nhân dân đốt hương bái vọng, đón rước quân Ngụy vào. Tư Mã Ý ngồi trong nhà,
sai bắt tôn tộc nhà Công Tôn Uyên và các quan liêu đồng mưu hơn bảy chục người
chém sạch rồi treo bảng yên dân.
Có người nói với Tư Mã Ý rằng:
- Giả Phạm, Luân Trực can mãi Công Tôn Uyên không nên làm phản,
bị Uyên giết mất cả.
Ý sai phong mã hai người và cho con cháu được vinh hiển; đem
của cải trong kho thưởng cho ba quân rồi thu quân về Lạc Dương.
Nói về Ngụy chủ ở trong cung, một đêm, đến canh ba, bỗng dưng
một cơn gió lạnh nổi lên thổi tắt mất đèn, thấy Mao Hoàng hậu dẫn vài mươi người
cung nhân, đến trước sập rồng khóc lóc đòi mạng. Tào Tuấn từ đó phải bệnh, dần
dần nặng thêm. Tuấn bèn sai thị trung quang lộc đại phu là Lưu Phóng, Tôn Tư
coi hết các việc trong viện cơ mật; lại sai triệu con vua Văn Đế là Yên vương
Tào Vũ làm đại tướng quân, giúp thái tử Tào Phong nhiếp chính. Tào Vũ là người
hòa nhã, khiêm nhường không chịu lĩnh việc to ấy, cố từ không nhận.
Tuấn vời Lưu Phóng, Tôn Tư Mã Ý vào hỏi rằng:
- Trong tôn tộc nên dùng người nào?
Hai người nguyên hàm ơn Tào Chân khi xưa, mới tâu rằng:
- Chỉ có con Tào Tử Đan là Tào Sảng, nên dùng.
Tuấn nghe lời.
Hai người lại tâu rằng:
- Muốn dùng Tào Sảng thì phải cho Yên vương trở về nước Yên.
Tuấn cũng nghe theo, giáng chiếu sai hai người cầm ra dụ Yên
vương rằng:
- Có chiếu của thiên tử sai Yên vương về nước, hạn ngay hôm
nay phải đi, nếu không có chiếu không được vào chầu.
Yên vương ứa nước mắt từ biệt.
Rồi phong Tào Sảng làm đại tướng quân, quyền coi cả chính sự
triều đình.
Tuấn ốm mỗi ngày một nặng, sai sứ cầm cờ tiết ra vời Tư Mã Ý
về triều. Ý được tin, đến tắt Hứa Xương, vào ra mắt Tào Tuấn.
Tuấn nói:
- Trẫm chỉ sợ không được trông thấy ngươi. Nay trẫm trông thấy
người rồi, dù chết cũng không giận gì nữa.
Ý cúi đầu xuống tâu rằng:
- Tôi ở dọc đường, nghe tin thánh thể không yên, giận mình dưới
nách không mọc ra đôi cánh, để mau chóng bay đến cửa khuyết, thực là may cho
tôi lắm.
Tuấn đòi thái tử Tào Phương, đại tướng quân Tào Sảng, thị
trung là bọn Lưu Phóng, Tôn Tư Mã Ý, đến cả trước long sáng. Tuấn cầm tay Tư Mã
Ý nói:
- Khi xưa Huyền Đức ở trong thành Bạch Đế, lúc bệnh nguy, đem
con thơ là Lưu Thiền giao phó cho Gia Cát Khổng Minh. Vì thế Khổng Minh phải hết
lòng hết sức, đến chết mới thôi. Một nước nhỏ còn thế, huống chi nước lớn? Con
thơ trẫm là Tào Phương mới có tám tuổi, chưa coi nổi việc xã tắc. Thái uý và
tôn huynh, cùng là nguyên huân cựu thần, hết sức giúp đỡ cho con trẫm, chớ phụ
bụng trẫm, nên mới được.
Lại gọi Tào Phương bảo rằng:
- Trọng Đạt với trẫm, cũng như một người, con phải kính trọng
mới được.
Lại sai Tư Mã Ý bế Tào Phương đến gần giường. Phương ôm mãi đầu
Tư Mã Ý không buông tay.
Tuấn nói:
- Thái uý chớ quên cái tình quyến luyến của con trẫm hôm nay.
Nói đoạn, nước mắt chảy xuống ròng ròng. Ý cũng cúi đầu chảy
nước mắt. Ngụy ngủ mê man, không nói được nữa, lấy tay trỏ vào thái tử, một lát
thì mất, ở ngôi được mười ba năm, thọ ba mươi sáu tuổi. Bấy giờ là hạ tuần
tháng giêng, năm Cảnh Sơ thứ ba nhà Ngụy.
Tư Mã Ý, Tào Sảng phò thái tử Tào Phương lên ngôi Hoàng Đế.
Phương tự là Lan Khanh, nguyên là con nuôi Tào Tuấn, chuyện bí mật ở trong
cung, không ai biết do đâu mà đến.
Tào Phương lên ngôi, tôn tên thụy cho là Minh Đế, táng ở Cao
Bình: Tôn Quách Hoàng hậu làm Thái Hậu; đổi niên hiệu là Chính Thuỷ. Sảng rất
trọng vọng Tư Mã Ý; phàm việc gì to, đều hỏi Ý trước.
Sảng tên tự là Bá Chiêu, tự thuở nhỏ ra vào trong cung Minh Đế
thấy người cẩn thận, đem lòng yêu mến lắm. Sảng có năm trăm khách môn hạ; trong
đó có năm người ưa chuộng thói phù hoa là Hà Yến, Đặng Dương, Lý Thăng, Đinh Bật
và Tất Phạm. Lại có quang đại tư nông là Hoàn Phạm, tự Nguyên Tắc, có nhiều mưu
trí, người ta khen là trí năng. Mấy người ấy đều được Tào Sảng tin dùng.
Hà Yến nói với Tào Sảng rằng:
- Đại quyền của chủ công, chớ cho người khác được can thiệp đến
mà để lo về sau.
Sảng nói:
- Tư Mã Ý công cùng với ta chịu lời tiên đế thác cô, nỡ nào
ta bỏ nghĩa ấy.
Yến nói:
- Khi xưa tiên công cùng với Trọng Đạt đánh Thục, nhiều khi bị
hắn lấn át, nhân thế mà chết. Chủ công sao không xét việc đó.
Sảng nghĩ ra, cùng với các quan thương nghị, rồi vào tâu với
Ngụy chủ rằng:
- Tư Mã Ý công cao đức nặng, nên gia chức làm thái phó.
Phương nghe lời. Từ đó binh quyền về cả tay Tào Sảng. Sảng
sai em là Tào Hy làm trung lĩnh quân. Tào Huấn làm võ nghệ trướng quân; Tào Ngạn
làm tản kỵ thường thị. Mỗi người dẫn ba nghìn quân ngự lâm, tuỳ tiện ra vào chốn
cung cấm. Lại dùng Hà Yến, Đặng Dương, Đinh Bật làm thượng thư; Tất Phạm làm Tư
Mã Ý lệ hiệu uý; Lý Thắng làm Hà Nam doãn. Năm người ấy ngày đêm bàn việc với
Tào Sảng. Bởi thế tân khách nhà Tào Sảng mỗi ngày một nhiều.
Tư Mã Ý thấy vậy, thác có bệnh không ra đến ngoài. Hai con
cũng từ chức về nhà.
Tào Sảng mỗi ngày cùng với bọn Hà Yến uống rượu làm vui. Phàm
các đồ dùng, áo sống, không khác gì của triều đình. Những đồ quý báu các nơi tiến
cống, trước hết chọn đồ quý nhất lấy làm của riêng, còn thừa mới nộp vào cung.
Trong phủ chứa nhiều con gái đẹp. Quan hoàng môn là Trương Đương xiểm nịnh Tào
Sảng, kén lấy mười tám nàng hầu của tiên đế, đưa vào trong phủ. Sảng lại kén ba
bốn chục con gái nhà tử tế, biết hát múa lập ra một đội nữ nhạc trong phủ. Lại
dựng lên lầu cao giác chạm; đúc các đồ vàng bạc; dùng hơn một trăm thợ khéo,
ngày đêm chế tạo đồ dùng.
Hà Yến nghe tin Quản Lộ ở Bình Nguyên tinh nghề thuật số, cho
mời đến bàn nghĩa kinh Dịch. Bấy giờ Đặng Dương cũng ngồi chơi đó, hỏi Lộ rằng:
- Ông tự cho là giỏi Dịch, mà nói không động đến chữ nghĩa
kinh Dịch là làm sao?
Lộ nói:
- Đã gọi là giỏi Dịch thì không phải nói động đến Dịch.
Yến cười, tán thêm vào rằng:
- Thế mới gọi là lời trọng yếu không cần phải nhiều!
Nhân hỏi Lộ rằng:
- Ông thử bói cho tôi một quẻ, xem có làm đến tam công được
không? Tôi lại mộng thấy vài mươi con ruồi xanh đậu trên mũi, đó là điềm gì?
Lộ nói:
- Ngày xưa Nguyên Khải giúp vua Thuấn, Chu công giúp nhà chu,
cùng có đức tốt mà hưởng phúc. Nay quân hầu ngôi cao quyền trọng nhưng người mến
đức thì ít, mà kẻ sợ oai thì nhiều; đó không phải là lối dằn lòng cầu phúc được.
Vả lại, mũi là cái núi, núi cao mà không đổ, thì mới giữ được phú quý. Nay ruồi
nhặng là giống hôi bẩn, lại đậu lên trên, thế là ngôi cao phải đổ, khá sợ lắm
thay! Xin quân hầu bớt chỗ nhiều thêm chỗ ít, điều gì phi lễ chớ làm. Như thế
thì ngôi tam công mới đến tay, mà đàn nhặng xanh mới xua đi được.
Đặng Dương giận, gắt rằng:
- Đó là lời lão sinh thường đàm ra quái gì.
Lộ nói:
- Lão sinh đã thấy thì không sinh; thường đàm đã thấy thì
không đàm!
Nói đoạn, rũ tay áo đứng dậy đi ra. Hai người cười rằng:
- Thực là đồ cuồng sĩ!
Lộ về nhà, thuật chuyện cho cậu nghe. Cậu giật mình nói:
- Hà, Đặng hai người đang quyền thế hống hách, sao mày dám
nói trêu chọc đến họ?
Lộ nói:
- Tôi cùng với người chết nói chuyện, còn ngại gì nữa!
Cậu hỏi tại sao, thì Lộ nói:
- Đặng Dương, gân không bó được xương, mạch không giữ được thịt,
ngồi đứng ngả nghiêng, hình như không có chân tay, đó gọi là tướng quỷ tảo. Hà
Yến không tươi được sắc mặt, tinh thần bất định, dáng tựa cây khô, đó là tướng
quỷ u. Hai người nay mai tất có vạ diệt mình, can gì mà sợ?
Người cậu mắng Quản Lộ nói càn, rồi đi.
Tào Sảng thường hay cùng với bọn Hà Yến, Đặng Dương ra ngoài
săn bắn. Em là Tào Hy can rằng:
- Uy quyền của anh to lắm, mà cứ hay đi chơi săn bắn, nếu có
người mưu hại thì làm thế nào?
Sảng mắng rằng:
- Binh quyền ở trong tay ta, còn sợ gì ai nữa?
Tư nông là Hoàn Phạm cũng can, nhưng Sảng cũng không nghe.
Bấy giờ Ngụy chủ Tào Phương đổi năm Chính Thủy thứ mười là
năm Gia Bình thứ nhất. Tào Sảng một mực chuyên quyền, không biết bệnh Trọng Đạt
hư thực ra làm sao. Bữa ấy, nhân Ngụy chủ cất Lý Thắng ra làm thứ sử ở Kinh
Châu, Sảng cho Lý Thắng đến từ Trọng Đạt, nhân để dò xem ý tứ thế nào. Lý Thắng
đến phủ thái phó, có lính canh cửa vào báo với Tư Mã Ý, Ý bảo với hai con rằng:
- Đây là Tào Sảng sai đến dò xem bệnh ta thực hay giả đây.
Lập tức bỏ mũ, để tóc rũ rượi, trèo lên giường ngồi dựa vào
cái chăn và sai hai nàng hầu nâng đỡ, rồi mới sai mời Lý Thắng vào Phủ.
Lý Thắng đến trước giường, lạy nói rằng:
- Lâu nay không được hầu thái phó, không ngờ ngài yếu đau thế
này! Nay thiên tử sai tôi làm thứ sử Kinh Châu, xin đến lạy từ thái phó.
Ý giả điếc, đáp rằng:
- Tinh Châu gần phương bắc, ra đó giữ gìn cho khéo.
Thắng nói:
- Tôi được cử làm thứ sử Kinh Châu, không phải Tinh Châu.
Ý cười, nói:
- Ngươi ở Tinh Châu lại à?
Thắng nói:
- Kinh Châu ở Hán Thượng.
Ý lại cười ha hả mà rằng:
- Ngươi ở Kinh Châu lại đây à?
Thắng nói:
- Thái phó sao ngày yếu đến thế?
Tả hữu nói:
Thắng mượn bút giấy viết mấy chữ đệ lên.
Ý xem xong cười rằng:
- Ta lâu nay mệt lắm, tai điếc nghe không rõ. Chuyến này có
đi thì phải giữ gìn!
Nói đoạn, lấy tay trỏ vào mồm, ra hiệu muốn uống nước. Thị tỳ
dâng chén nước nóng, Ý hớp miệng vào chén nước, nước đổ ra ướt cả vạt áo. Ý ậm ực
trong cổ, làm ra tiếng nghẹn, rồi nói rằng:
- Ta suy nhược lắm, sớm tối chưa biết chết lúc nào. Ta có hai
con chẳng ra gì, nhờ ngươi dạy bảo đỡ cho ta. Ngươi có về ra mắt đại tướng
quân, nhờ nói giùm với tướng quân trông nom đỡ hai con cho ta, thì may lắm.
Nói đoạn, nằm lăn ra trên giường, thở hồng hộc một lúc.
Lý Thắng cáo từ Trọng Đạt về ra mắt Tào Sảng, thuật hết cả
tình hình như thế.
Sảng mừng nói:
- Lão này chết thì ta không lo gì nữa!
Tư Mã Ý thấy Lý Thắng đi rồi, đứng dậy bảo với hai con rằng:
- Lý Thắng chuyến này về báo tin, Tào Sảng tất không nghi gì
ta nữa: đợi khi nào y ra thành săn bắn, thì mới đồ được.
Không mấy bữa, Tào Sảng mời Ngụy chủ Tào Phương ra yết lăng
Cao Bình, tế tự tiên đế. Quan viên lớn nhỏ theo cả ra.
Sảng dẫn ba anh em và bọn tâm phúc Hà Yến, cùng quân ngự lâm,
hộ giá ra thành.
Tư nông là Hoàng Phạm can rằng:
- Chủ công coi giữ quân cấm binh, không nên anh em cùng đi cả,
phỏng trong thành có biến, thì làm thế nào?
Sảng cầm roi ngựa quật vào Hoàn Phạm, mắng rằng:
- Ai dám làm loạn, chớ có nói càn!
Tư Mã Ý thấy Tào Sảng ra thành rồi, mừng lắm, lập tức gọi các
thủ hạ cũ, và mấy người gia tướng, dẫn hai con lên ngựa, đến thẳng triều đình,
mưu giết Tào Sảng.
Đó là:
Đóng cửa bỗng nhiên vùng đứng dậy,
Cầm quân từ đó mới ra tay.
Chưa biết tính mệnh Tào Sảng ra sao, xem hồi sau phân giải.
Hồi 107:
Ngụy chủ trao quyền họ Tư Mã
Khương Duy bại trận núi Ngưu Đầu
Tư Mã Ý, nghe tin Tào Sảng dẫn ba anh em và bọn tâm phúc,
cùng quân ngự lâm theo cả Ngụy chủ ra thành, yết lăng vua Minh Đế nhân thể đi
săn. Ý mừng lắm, lập tức vào nơi công đường, sai tư đồ là Cao Nhu lĩnh chức đại
tướng quân, trước hết đến giữ dinh Tào Sảng. Lại sai thái bộc là Vương Quan,
quyền chức là trung lĩnh quân, giữ dinh Tào Hy. Ý dẫn các quan vào hậu cung tâu
với Quách Thái Hậu việc Tào Sảng bỏ lời tiên đế thác cô, gian tà loạn nước, xin
trị tội.
Quách Thái Hậu thất kinh, nói:
- Thiên tử ta ngoài chưa về, thì làm thế nào?
Ý tâu rằng:
- Tôi đã dâng biểu tâu với thiên tử có mẹo giết được gian thần,
Thái Hậu chớ ngại.
Thái Hậu sợ hãi phải theo lời. Ý sai thái úy là Tưởng Tế, thượng
thư lệnh là Tư Mã Phu cùng với mình viết biểu, phái hoàng môn mang ra ngoài
thành tâu với Ngụy chủ.
Ý tự dẫn đại quân giữ kho khí giới.
Có người báo tin về nhà Tào Sảng. Vợ Tào Sảng là Lưu thị vội
vàng gọi quan giữ phủ đến hỏi rằng:
- Chủ công ở ngoài, Trọng Đạt khởi binh ý làm sao?
Tướng giữ cửa là Phan Cử nói:
- Phu nhân chớ ngại, để tôi hỏi xem sao.
Đoạn nói, dẫn vài mươi tay cung nỏ lên lầu ngoài cửa đứng
trông. Một lát, thấy Tư Mã Ý dẫn quân đi qua trước phủ. Cử sai quân bắn xuống
tíu tít, Ý không sao qua được. Có tên tì tướng là Tôn Khiêm ở mặt sau ngăn lại,
nói:
- Thái phó vì việc to nhà nước mà đi qua đây, không được bắn
tên.
Khiêm ngăn lại hai ba lần, Cử mới không bắn nữa. Tư Mã Chiêu
hộ vệ cha đi khỏi cửa phủ, rồi dẫn quân ra thành, đóng trên bờ sông Lạc Hà, chặn
lấy đầu cầu.
Nói về thủ hạ Tào Sảng là Lỗ Chi thấy việc biến động làm vậy,
đến nhà tham quân là Tân Tệ bàn rằng:
- Nay Trọng Đạt gây biến loạn thế này, ta nghĩ làm sao bây giờ?
Tệ nói:
- Chúng ta nên dẫn quân bản bộ ra thành, để tâu thiên tử.
Chi lấy làm phải. Tân Tệ trở vào nhà trong. Người chị là nàng
Tân Hiến Anh trông thấy hỏi rằng:
- Em có việc gì mà ra dáng lật đật thế?
Tệ nói:
- Thiên tử ở ngoài, thái phó đóng cửa thành, hẳn là mưu làm
phản.
Nàng Hiến Anh nói:
- Tư Mã công vị tất đã làm phản, chỉ vì muốn giết Tào tướng
quân đó thôi.
Tệ thất kinh nói:
- Việc này không biết rồi ra sao?
Hiến Anh nói:
- Tào tướng quân không phải là tay đối thủ Tư Mã công, tất
nhiên phải thua.
- Hôm nay Lỗ Chi rủ tôi cùng ra thành, không biết có nên đi
không?
Hiến Anh nói:
- Chức phận của mình thì phải giữ, đó là nghĩa lớn ở đời. Người
ta hoạn nạn còn nên thương, huống chi xưa nay vẫn hầu hạ người ta? Nếu bỏ phận
mình, thì tất là không hay lắm.
Tệ nghe lời ấy, cùng với Lỗ Chi dẫn vài mươi tên ky, chặt
khóa, cướp cửa thành chạy ra. Có người báo cho Tư Mã Ý. Ý sợ Hoàn Phạm cũng chạy,
kíp sai người đòi đến. Phạm bàn với con. Con nói:
- Xa giá vua ở ngoài thành, không bằng chạy ra ở cửa nam.
Phạm nghe lời, vội vàng lên ngựa, chạy ra cửa Bình Xương. Tới
nơi thì cửa thành đã đóng rồi. Tướng giữ cửa tên là Tư Phiên, nguyên là bạn cũ
của Hoàn Phạm. Phạm thò tay vào bọc lấy một cái thẻ tre giơ ra bảo rằng:
- Thái Hậu có chiếu sai ta đi, phải mở cửa thành mau.
Tư Phiên xin xem chiếu.
Phạm mắng rằng:
- Mày là bạn cũ của ta, sao dám hỗn thế?
Phiên phải mở cửa cho ra. Phạm ra được khỏi thành, gọi Tư
Phiên bảo rằng:
- Thái phó làm phản, mày nên theo ta đi một thể.
Phiên cả kinh, đuổi theo bắt lại không được. Có người báo với
Tư Mã Ý. Ý giật mình nói:
- "Túi khôn" lọt ra mất rồi, thì làm thế nào?
Tưởng Tế nói:
- Ngựa hèn tham nắm đậu trong chuồng, dù có túi khôn, cũng
không dùng được.
Ý gọi Hứa Doãn, Trần Thái đến bảo rằng:
- Hai ngươi ra gặp Tào Sảng, nói thái phó không có bụng nào hại
đâu, chỉ muốn tước hết binh quyền của anh em họ đấy thôi.
Hứa, Trần hai người đi liền.
Lại đòi quan điện trung hiệu úy là Doãn Đại Mục đến, sai Tưởng
Tế viết thư, cho Đại Mục cầm ra đưa cho Tào Sảng, Ý dặn rằng:
- Người thân thiết với Tào Sảng, nên giúp việc này. Ngươi có
ra mắt Tào Sảng, thì nói rằng ta với Tưởng Tế trỏ sông Lạc Thủy ăn thề, chỉ vì
việc binh quyền, chớ không có bụng nào cả.
Doãn Đại Mục tuân lệnh đi ra.
Nói về Tào Sảng đang mải mê săn bắn, huýt chó thả chim. Chợt
có tin báo trong thành nổi loạn, thái phó có biểu văn đưa đến. Sảng giật nảy
mình, suýt nửa ngã ngựa. Quan hoàng môn dâng biểu quỳ trước mặt thiên tử. Sảng
tiếp lấy tờ biểu mở ra, sai cận thần đọc lên vua nghe.
Biểu rằng:
"Chinh tây đại tướng quân thái phó là Tư Mã Ý, rất sợ rất
hãi, cúi đầu kính dâng biểu lên bệ hạ nghe: Thần tự khi đánh Liêu Đông trở về,
tiên đế giao phó bệ hạ cho Tuần vương và bọn thần, lên giường ngự, cầm tay thần,
gắn bó dặn dò việc sau. Nay đại tướng quân Tào Sảng bỏ lời cố mệnh, loạn phép
nhà nước, trong thì tiếp pháp, ngoài thì chuyên quyền, dùng hoàng môn là Trương
Đương làm đô giám, cùng nhau tư thông, để ngấp nghé ngôi báu, rình trực đồ thần,
làm cho lìa cách hai cung, tàn hại trong tình cốt nhục. Thiên hạ nôn nao, mang
lòng sợ hãi. Đó không phải là ý tiên đế bảo bệ hạ và dặn thần như thế. Thần tuy
già yếu, dám đâu quên lời xưa. Thái úy thần là Tế, thượng thư thần là Phu cũng
nghĩ rằng Tào Sảng không có bụng tôn vua, không nên cho anh em y được túc giữ
binh quyền túc vệ trong cung nữa. Vì thế thần tâu với hoàng Thái Hậu, Thái Hậu
sai thần tâu biểu với bệ hạ để ra lệnh. Vậy thần dâng biểu này, xin bắt Sảng,
Hy, Huấn phải bãi binh đi mà về nhà, không được để xa giá bệ hạ ở lâu ngoài
thành. Nếu trậm trễ, xin án quân pháp mà trị tội. Thần phải gượng bệnh đem quân
ra đóng tại cầu Lạc Thủy, để coi xét việc bất thường. Vì vậy bày tỏ, xin được
coi xét".
Ngụy chủ Tào Phương nghe xong, bảo với Tào Sảng rằng:
- Thái phó nói vậy, ngươi khu xử làm sao?
Tào Sảng cuốn cả người lại, bảo với hai em rằng:
- Làm thế nào bây giờ?
Hy nói:
- Em đã can mãi anh, anh chẳng nghe cho, mới đến nỗi này. Tư
Mã Ý quỷ quyệt vô cùng, Khổng Minh còn không đánh nổi, huống chi anh em chúng
ta! Chi bằng tự trói mình về chịu lỗi, cầu khỏi cái chết là hơn!
Một lát, tham quân Tân Tệ, tư mã Lỗ Chi đến. Sảng hỏi chuyện.
Hai người nói:
- Trong thành vây kín như rào sắt, thái phó dẫn quân đóng ở
trên cầu sông Lạc, không tài nào mà về được đâu. Nên định kế lớn đi!
Đang nói thì tư nông là Hoàn Phạm tế ngựa chạy đến, Phạm nói:
- Thái phó đã khởi biến rồi, tướng quân sao không rước thiên
tử ra Hứa Đô, cất quân ngoài mà đánh Tư Mã Ý?
Sảng nói:
- Cả nhà ta ở trong thành, sao nên đi nơi khác mà cầu cứu?
Phạm nói:
- Sất phu đương lúc nạn, còn muốn cầu sống. Nay chủ công theo
với thiên tử, hiệu lệnh thiên hạ, đâu chẳng phải nghe, sao lại đâm đầu về đất
chết làm chi?
Sảng nghe nói phân vân chưa quyết, chỉ ứa nước mắt khóc.
Phạm lại nói:
- Tự đây ra Hứa Đô, chẳng qua nữa đêm thì đến nơi. Lương thảo
trong thành, đủ chi được vài năm. Vả lại quân mã trại riêng của chủ công, ở
ngay Quan Nam gần đấy, gọi một tiếng là đến. Ấn đại tư mã tôi mang ra đây, chủ
công nên làm cho kịp đi, nếu chậm thì việc hỏng mất.
Sảng nói:
- Các ngươi chớ thôi thúc lắm, để ta nghĩ kỹ xem đã.
- Thái phó chỉ vì việc tướng quân quyền to quá, muốn tước bớt
binh quyền đi, chớ không có bụng gì đâu, tướng quân nên về ngay trong thành cho
sớm.
Sảng nín lặng chẳng nói gì. Một lát, lại có Doãn Đại Mục đến
nói:
- Thái phó trỏ sông Lạc phát lời thề, tịnh không có bụng nào.
Có thư của Tưởng thái úy ở đây. Tướng quân nên bỏ binh quyền, về ngay tướng phủ
cho.
Sảng tin là thực.
Hoàn Phạm lại nói:
- Việc đã cấp rồi, chớ nghe người ta nói mà đâm vào đất chết!
Đêm hôm ấy, Tào Sảng vẫn không quyết bề nào, tay cầm thanh
gươm thở ngắn thở dài cho đến sáng, lúc nào cũng nước mắt chạy vòng quanh mà vẫn
hồ nghi không biết nghĩ ra sao.
Hoàn Phạm vào trướng giục rằng:
- Chủ công nghĩ suốt cả đêm, mà vẫn chưa quyết ư?
Sảng vất thanh gươm xuống, than rằng:
- Bụng ta không muốn cất quân, ta tình nguyện bỏ quân, chỉ
làm một tên phú ông là đủ.
Phạm khóc ầm lên, ra trướng nói:
- Tào Tử Đan khoe mình trí mưu, nay được ba con đụt như chó lợn
cả.
Hứa Doãn, Trần Thái xúi Sảng nộp ấn tín trước cho Tư Mã Ý. Sảng
sai đem ấn tín đưa ra. Chủ bộ là Dương Tổng giằng lại ấn tín, khóc rằng:
- Hôm nay chủ công bỏ binh quyền, tự trói xin hàng, không
tránh khỏi chết ở chợ cửa đông đâu.
Sảng nói:
- Thái phó tất không thất tín với ta!
Bởi thế, Tào Sảng đem ấn tín cho Hứa, Trần hai người mang về
trước, giao nộp Tư Mã Ý. Quân sĩ thấy không có tướng ấn, lẻ tẻ tan mất cả. Thủ
hạ Tào Sảng chỉ còn mấy người, đi theo về đến phù kiều, Tư Mã Ý cho ba anh em
Tào Sảng hãy về nhà riêng, còn các quan đi theo thì tống giam chờ sắc chỉ.
Anh em Tào Sảng, khi vào đến thành, không còn một người nào
theo hầu.
Phạm Hoàn về đến cầu, Tư Mã Ý ngồi trên ngựa trỏ roi mà rằng:
- Hoàn đại phu cớ sao lại thế?
Hoàn Phạm cúi gằm mặt xuống không nói gì, rồi đi vào thành.
Tư Mã Ý rước xa giá nhổ trại về Lạc Dương. Ba anh em Tào Sảng
về đến nhà, Tư Mã Ý dùng khóa to khóa cửa lại, sai tám trăm dân phu vây giữ.
Tào Sảng trong bụng lo buồn, Hy nói:
- Trong nhà ta thiếu lương ăn, anh thử viết thư đưa cho thái
phó vay lương. Nếu y đem lương đỡ cho ta, thì tất không nỡ hại nhau.
Sảng liền viết thư sai người cầm đến. Tư Mã Ý xem thư, cho vận
một trăm hộc lương vào phủ Tào Sảng.
Sảng mừng, nói:
- Tư Mã công hẳn không bụng nào nỡ hại ta!
Từ đó không lo gì nữa.
Tư Mã Ý trước hết bắt Tương Đương tống ngục tra hỏi. Đương
xưng ra bọn Hà Yến, Đặng Dương, Lý Thắng, Tất Phạm, Đinh Bật năm người đồng mưu
phản nghịch. Ý lấy khẩu cung, rồi sai bắt bọn Hà Yến, tra hỏi minh bạch, cả bọn
cùng xưng là trong ba tháng nữa thì làm phản. Ý sai đóng gông ráo cả lại.
Tướng giữ cửa thành là Tư Phiên tố cáo Hoàn Phạm trá xưng phụng
chiếu ra thành, nói là thái phó làm phản.
Ý nói:
- Vu cho ngươi làm phản, tội cũng như làm phản.
Liền sai bắt cả bọn Hoàn Phạm vào ngục. Rồi bắt ba anh em Tào
Sảng và các người phạm tội, cùng cả ba họ điệu ra ngoài chợ chém sạch. Bao
nhiêu của cải tịch thu bỏ kho làm của công.
Bấy giờ, có vợ Văn Thúc, em con chú Tào Sảng là con gái họ Hạ
Hầu, góa chồng sớm, không có con, cha muốn đem về gả cho người khác. Người con
cắt tai thề không lấy chồng nữa. Đến khi Tào Sảng bị giết, cha lại muốn đem về
gả chồng. Người con gái tự cắt nốt mũi. Cả nhà kinh hoàng nói rằng:
- Người ta ở đời, ví như cái bụi bám vào cây cỏ yếu, can gì
mà khổ thân đến thế? Vả lại nhà chồng đã bị Tư Mã Ý giết cả rồi, thì thủ tiết
cho ai nữa?
Người con gái khóc, nói:
- Tôi nghe: Người có nhân, không vì cớ thịnh suy mà đổi tiết;
người biết nghĩa, không vì việc còn mất mà ngã lòng. Đang lúc họ Tào còn thịnh,
còn muốn giữ tiết cho trọn vẹn, huống chi nay đã tuyệt diệt, nỡ nào bỏ đi cho
đành? Đó là hành vi của giống cầm thú, tôi lại thèm làm thế ư?
Ý nghe chuyện khen là người hiền, cho nuôi con để nối dõi họ
Tào.
Có thơ khen rằng:
Nhỏ nhặt đời người mảnh bụi con
Gái đâu nghĩa khí nặng tầy non!
Trượng phu nếu kém bề trung nghĩa,
Hổ mặt khi nhìn khách phấn son!
Tư Mã Ý giết xong Tào Sảng, Tưởng Tế lại xui rằng:
- Lỗ Chi, Tân Tệ chặt khóa thành chạy ra, Dương tổng cướp ấn
không cho, bọn ấy cũng không nên tha.
Ý nói:
- Họ đều ai vì chủ ấy, đó là người có nghĩa, sao lại giết đi.
Bèn phục nguyên chức cho hai ngươi.
Tân Tệ than rằng:
- Nếu ta không hỏi chị ta thì hóa ra bỏ mất đại nghĩa!
Có thơ khen nàng Tân Hiến Anh rằng:
Làm tôi ân lộc nên đền báo,
Thờ chúa lâm nguy phải hết lòng,
Tân thị khuyên em lời đạo nghĩa,
Ngàn năm còn cất tiếng cao phong.
Tư Mã Ý tha cho bọn Tân Tệ, rồi treo bảng hiểu dụ: Phàm những
người môn hạ Tào Sảng, đều tha tội cho cả. Ai làm quan gì, cứ nguyên chức ấy. Bởi
thế đâu quân dân yên nghiệp đấy, trong ngoài yên ổn. Hà Yến, Đặng Dương chết uổng,
quả nhiên nghiệm lời Quản Lộ thực.
Đời sau có thơ khen Quản Lộ rằng:
Học được thánh hiền phép diệu linh,
Bình nguyên Quản Lộ biết mưu thần,
Thông thuộc đủ tà ma chước quỷ,
Người sống mà tin sẽ lìa trần.
Ngụy chủ Tào Phương phong Tư Mã Ý làm thừa tướng, cho được
dùng lễ cửu tích. Ý cố từ không chịu nhận. Tào Phương không nghe, sai ba cha
con cùng lĩnh quốc chính.
Tư Mã Ý sực nhớ đến nhà Tào Sảng, tuy đã giết cả rồi, nhưng
còn Hạ Hầu Bá giữ ở các xứ Ung Châu, họ có thân thích với Tào Sảng. Ví bằng đột
nhiên nổi loạn, thì khó chế được, tất phải liệu trước mới xong. Liền giáng chiếu
sai sứ ra Ung Châu đòi chinh tây tướng quân Hạ Hầu Bá về Lạc Dương bàn việc.
Hạ Hầu Bá nghe tin giật mình, định dẫn ba nghìn quân nổi loạn.
Thứ sử Ung Châu là Quách Hoài nghe tin Hạ Hầu Bá làm phản, lập tức dẫn quân lại
đánh.
Quách Hoài mắng rằng:
- Ngươi đã làm hoàng tộc nhà Đại Ngụy, thiên tử chưa từng bạc
tình với ngươi, cớ sao ngươi làm phản?
Bá cũng mắng rằng:
- Cha ông ta lập bao nhiêu công lao với nước. Nay Tư Mã Ý là
người nào, dám giết cả tôn tộc nhà Tào ta, lại muốn bắt nốt ta? Nay may Ý tất
muốn cướp ngôi. Ta khởi nghĩa đánh giặc, phản gì mà phản?
Hoài nổi giận, vác đao thúc ngựa vào đánh Hạ Hầu Bá. Bá múa
đao quất ngựa ra địch. Đánh nhau chưa được mười hiệp, Hoài thua chạy, Bá đuổi
theo. Bổng nghe tiếng hậu quân nổi reo. Bá kíp ngựa chạy về, té ra Trần Thái dẫn
quân đánh đến. Hoài cũng vây binh đánh vật lại. Bá thua to, mất già nữa quân,
không biết nghĩ làm sao, mới chạy vào Hán Trung hàng Hậu chủ.
Có người báo tin với Khương Duy. Duy không tin, sai người gạn
hỏi, biết hết thực tình mới cho Bá vào thành, Bá vào ra mắt Khương Duy, khóc
lóc thuật lại đầu đuôi sự việc.
Duy nói:
- Ngày xưa, Vi Tử bỏ nhà Ân theo hàng nhà Chu, nên được tiếng
muôn đời. Ông nếu hay, giúp được nhà Hán, thì cũng không kém gì cổ nhân.
Khương Duy mở tiệc thết đãi Hạ Hầu Bá. Trong khi uống rượu,
Duy hỏi rằng:
- Cha con Tư Mã Ý coi giữ quyền chính, có bụng nào dòm nom đến
nước ta không?
Bá nói:
- Lão tặc còn toan việc mưu nghịch, chưa kịp nghĩ đến việc
ngoài. Nhưng nước Ngụy mới có hai người, đang trạc tuổi trẻ, nếu hai người ấy
lĩnh quân mã, thì là một sự lo to cho Ngô, Thục đó.
Duy nói:
- Hai người nào?
Bá nói:
- Một người hiện làm thư thị lang, quê ở Trường Sa, Châu
Dĩnh, họ Chung tên Hội, tự là Sĩ Quý, con quan thái phó Chung Do. Người ấy can
đảm, khôn ngoan từ thủa nhỏ. Khi Hội lên bảy tuổi cùng với anh là Chung Dục
đang học, có vua Văn Đế đến chơi. Dục bấy giờ mười tám tuổi, thấy vua đến sợ
run lập cập, mồ hôi toát ra mặt. Vua hỏi: "Mày sao mà đổ mồ hôi? " Dục
thưa: "Kinh sợ quá nên đổ mồ hôi không dám chảy". Vua lấy lời nói làm
lạ. Khi Hội gần lớn, ham xem binh thư, tường hiểu thao lược. Tư Mã Ý và Tưởng Tế
cũng khen tài của hắn. Còn một người ở Nghĩa Dương, hiện đang làm lại, họ Đặng
tên Ngải tự là Sĩ Tái, cha mất sớm, từ thủa nhỏ đã có chí to. Phàm trông thấy ở
đâu có núi cao, đầm lớn tức thì ngắm nghía, đo vẽ, chỗ nào nên đóng binh, chỗ
nào nên chứa lương, chỗ nào nên mai phục, ghi chép vào một bức địa đồ. Ai cũng
chê cười, chỉ có Tư Mã Ý khen là người có chí, mới cho tham tán việc quân cơ. Đặng
Ngải nói lắp, mỗi khi nói đến tên mình, thường hay nói: "Ngải, Ngải...
" Tư Mã Ý nói bỡn rằng: "Ngươi nói Ngải Ngải... Thì ra bao nhiêu Ngải
kia? " Ngải ứng khẩu đáp rằng: "Phượng hề! Phượng hề! Thì cũng một
phượng chứ mấy phượng? " Ứng đối nhanh nhảu, đại để như thể cả. Hai người
này thật đáng ngại.
Duy cười nói:
- Thứ chúng nó là tuồng trẻ con, có làm trò gì!
Khương Duy bèn dẫn Hạ Hầu Bá đến Thành Đô, vào bái kiến Hậu
chủ.
Duy tâu rằng:
- Tư Mã Ý giết Tào Sảng, lại đến giữ Hạ Hầu Bá. Vì thế Bá đến
xin hàng. Nay cha con Tư Mã Ý chuyên quyền, Tào Phương hèn yếu, nước Ngụy sắp
nguy. Tôi ở Hán Trung đã lâu, binh tinh lương nhiều. Vậy xin lĩnh quân đánh Ngụy,
dùng ngay Hạ Hầu Bá làm quan hướng đạo, tiến sang lấy Trung Nguyên, đem lại
giang sơn nhà Hán, để báo ơn bệ hạ và cho trọn vẹn chí thừa tướng xưa kia.
- Gần nay Tưởng Uyển, Đổng Doãn kế nhau mất đi trong triều
thiếu người coi sóc, Bá Ước hãy chờ ít lâu, không nên kinh động vội.
Duy nói:
- Người ta ở đời được mấy, ngày tháng thoi đưa ví như bóng
cau qua cửa sổ. Nếu như để day dưa, thì bao giờ khôi phục được Trung Nguyên?
Vĩ nói:
- Tôi ở Lũng Thượng đã lâu, quen biết tính khí người rợ
Khương. Nay bằng kết liên với họ làm ngoại viện thì dẫu chẳng lấy được Trung
Nguyên, nhưng từ Lũng Thượng trở sang mé tây, có thể ta chiếm được cả.
Hậu chủ nói:
- Có phải ngươi muốn đánh nước Ngụy, nên hết lòng gắng sức,
chớ để mất nhuệ khí mà phụ lòng trẫm.
Khương Duy lĩnh sắc chỉ, lạy từ trở ra, cùng với Hạ Hầu Bá về
Trung Hán, thương nghị việc cất quân.
Duy nói:
- Ta nên cho người sang kết hiếu với rợ Khương trước, rồi sẽ
sai tướng đem quân ra cửa Tây Bình, tiến gần đến Ung Châu, đắp hai tòa thành ở
dưới núi Khúc Sơn, để làm thế ỷ giốc. Chúng ta thì vận hết lương thảo ra cửa
Xuyên, y theo cách thức thừa tướng khi xưa, dần dần mà tiến binh.
Tháng tám năm ấy, Khương Duy sai Thục tướng là Cẩu An, Lý Hâm
dẫn mười lăm nghìn quân ra núi Khúc Sơn đắp hai tòa thành. Cẩu An giữ thành
phía đông. Lý Hâm giữ thành phía tây.
Có quân tế tác báo với thứ sử Ung châu là Quách Hoài. Hoài một
mặt báo tin về Lạc Dương, một mặt sai phó tướng Trần Thái dẫn năm vạn quân ra
đánh. Cẩu An, Lý Hâm ít quân, địch không nổi, phải lui vào trong thành. Trần
Thái sai quân vây bọc bốn mặt thành mà đánh. Hoài lại chặn đường mang lương ở
Hán Trung ra. Trong thành Cẩu An, Lý Hâm thiếu lương.
Không bao lâu Quách Hoài cũng dẫn quân đến. Hoài xem xét địa
thế, mừng rỡ về trại báo với Trần Thái rằng:
- Thành này địa thế cao lắm, tất nhiên phải ra thành lấy nước.
Nếu ta lấp mé thượng lưu, quân Thục phải chết khát cả.
Bèn sai quân sĩ đào đất lấp trên thượng lưu. Trong thành quả
nhiên cạn nước. Lý Hâm dẫn quân ra lấy nước, bị quân Ung Châu vây lại đánh rát
quá. Hâm không sao ra được, lại phải lộn vào.
Trong thành Cẩu An cũng khan nước mới hội binh với Lý Hâm kéo
ra. Quân Ngụy vây chặn lại. Hai bên đánh nhau một hồi lâu quân Thục lại phải trở
vào.
Quân Thục khô khát lắm. Cẩu An bàn nhau với Lý Hâm rằng:
- Khương đô đốc bây giờ chưa đến, không biết vì cớ làm sao?
Hâm nói:
- Ta liều bỏ một mạng này, đánh ra mà chạy về cầu cứu mới
xong.
Liền dẫn vài mươi tên kỵ mã, mở cửa thành kéo ra. Quân Ung
Châu đổ lại vây kín bốn mặt. Hâm hăng sức đánh tung ra, tháo đường chạy thoát.
Quân đi theo chết sạch, chỉ còn trật một mình bị trọng thương, trốn thoát.
Đêm hôm ấy, nổi cơn gió bấc, mây đen kéo, phủ lắp trời, rồi đổ
cơn mưa tuyết cực to. Quân Thục ở trong thành, may nhờ có mưa tuyết, mới có nước
thổi cơm ăn.
Lý Hâm ra thoát được vòng vây, đi lẻn theo đường nhỏ ở núi
Tây Sơn chạy về. Đi được hai hôm, vừa gặp được quân mã Khương Duy kéo đến, Hâm
xuống ngựa lạy phục xuống đất kêu rằng:
- Hai thành ở Khúc Sơn bị quân Ngụy vây khốn đã lâu, lại chặn
mất đường lấy nước. May nhờ có trận mưa tuyết, mới hòa tuyết ra thổi cơm ăn, hiện
tình nguy cấp lắm.
Duy nói:
- Ta không phải là đến cứu chậm đâu, vì chờ mãi quân Khương
chưa đến, bởi thế lỡ mất việc.
Bèn sai người đưa Lý Hâm về thành Đô dưỡng bệnh.
Khương Duy hỏi Hạ Hầu Bá rằng:
- Quân Khương chưa đến, mà quân Ngụy vây thành Khúc Sơn kíp lắm,
tướng quân có cao kiến gì không?
Bá nói:
- Nếu đợi quân Khương đến thì hai thành núi Khúc Sơn cùng mất
cả. Tôi đồ rằng quân Ung Châu tất đến hết cả vây đánh núi Khúc Sơn; Ung Châu
quyết nhiên bỏ trống. Tướng quân nên dẫn quân đi tắt núi Ngưu Đầu, lẻn đến mé
sau thành, Quách Hoài, Trần Thái tất phải đem quân về cứu, thì tự khắc giải được
vây Khúc Sơn.
Duy mừng nói:
- Mẹo này hay lắm!
Lập tức dẫn quân kéo ra núi Ngưu Đầu.
Trần Thái thấy Lý Hâm chạy thoát ra được đi mất, bảo với
Quách Hoài rằng:
- Lý Hâm nếu cáo cấp với Khương Duy, Khương Duy đồ rằng đại quân
ta ở cả đây, tất lẻn qua núi Ngưu Đầu, đến úp mé sau quân ta. Tướng quân nên dẫn
một đội quân đến sông Thao Thủy, chặn đường mang lương của quân Thục, tôi thì dẫn
một nữa quân, đến đánh chặn núi Ngưu Đầu. Nếu hắn biết tin bị nghẽn đường vận
lương, tất phải chạy về.
Quách Hoài theo kế hoạch ấy, dẫn quân đến Thao Thủy, Trần
Thái mang quân tắt đến núi Ngưu Đầu.
Khương Duy vừa dẫn quân đến núi Ngưu Đầu, bỗng nhiên quân hò
reo bảo rằng quân Ngụy chặn mất đường đi. Duy vội vàng đến trước trận xem thì
thấy Trần Thái quát to lên rằng:
- Mày muốn cướp Ung Châu của tao, tao đợi ở đây đã lâu rồi!
Duy nổi giận, vác giáo thúc ngựa vào đánh Trần Thái. Thái múa
đao lại địch. Được vài hiệp Thái thua chạy, Duy giục quân đánh tràn sang. Quân
Ung Châu rút về chiếm giữ trên đầu núi. Duy thu quân hạ trại ở cạnh núi Ngưu Đầu.
Duy mỗi ngày cho quân ra khơi chiến, đánh nhau lải nhải mấy
hôm, không phân được thua.
Hạ Hầu Bá bảo với Khương Duy rằng:
- Chỗ này không phải chỗ ở lâu được, giao chiến mấy hôm,
không phân thắng bại; đó là kế dụ binh đấy, tất có mẹo mực gì đây, không bằng
hãy tạm rút quân về, sẽ liệu kế khác.
Đang thương nghị, sực có tin báo rằng:
- Quách Hoài dẫn quân đến Thao Thủy, chặn đường mang lương của
ta.
Duy giật mình, sai Hạ Hầu Bá rút quân về trước. Duy tự dẫn
quân đoạn hậu. Trần Thái chia quân làm năm đường đuổi theo. Duy độc lực chặn cửa
năm ngả, chịt đường quân Ngụy, Trần Thái kéo quân lên núi, tên đạn bắn xuống
như mưa. Duy vội vàng rút quân. Khi về đến sông Thao thủy, thì Quách Hoài dẫn
quân đến đánh. Duy xông vào đánh, quân Ngụy chặn đường về, chắc như rào sắt.
Duy đánh phá vỡ vòng vây, thoát được ra ngoài, thiệt hơn một nửa quân. Duy chạy
về cửa Dương Bình. Trước mặt lại có một toán quân xông đến. Một viên đại tướng,
cầm đao thúc ngựa xổ ra. Người ấy mặt tròn tai to, miệng vuông môi dày, dưới mắt
tả có một nốt ruồi đen; trên nốt ruồi có vài mươi chiếc lông; nguyên là Tư Mã
Sư con cả Tư Mã Ý, hiện làm phiêu kỵ tướng quân.
Duy nổi giận nói:
- Thằng nhãi con kia, sao dám chặn đường tao về?
Nói đoạn, quất ngựa xổ vào đâm vào Tư Mã Sư. Sư khoa đao đón
đánh. Được vài hiệp, Sư núng thế chạy mất. Duy về đến cửa Dương Bình, người
trong thành mở cửa cho vào. Tư Mã Sư theo hút đến cướp giật cửa ải. Trên ải hai
bên cung nỏ bắn ra, mỗi cái nỏ bắn luôn mười phát tên, nguyên là phép của Võ Hầu
khi gần mất để lại cho Khương Duy.
Ấy là:
Bại trận khó giương quân một cánh.
Phép tài nhờ có nỏ mười tên.
Chưa biết tính mạng Tư Mã Sư thế nào, xem hồi sau phân giải.
Hồi 108:
Trong mưa tuyết, Đinh Phụng đánh đoản binh
Trên tiệc rượu, Tôn Tuấn dùng mật kế
Nói về Khương Duy đang chạy, gặp Tư Mã Sư dẫn quân ra chặn đường.
Nguyên lúc Khương Duy đến Ung Châu, Quách Hoài đã phi báo về triều đình. Ngụy
chủ bàn với Tư Mã Ý. Ý sai Tư Mã Sư dẫn năm vạn quân ra đánh giúp. Sư nghe tin
Quách Hoài đã phá được quân Thục, biết quân Thục cô thế, tất nhiên chạy về, mới
chặn ngang đường mà đánh, rồi lại theo hút đến cướp ải Dương Bình. Nhưng Khương
Duy dùng phép liên nỏ của Võ Hầu để lại, phục sẵn hơn trăm nỏ hai bên cửa ải, mỗi
nỏ bắn luôn mười tên một phát, đầu tên có thuốc độc. Bởi thế quân Ngụy trúng phải
tên, người ngựa chết hại rất nhiều. Tư Mã Sư trốn thoát.
Tướng Thục là Cẩu An ở trong thành Khúc Sơn, chờ mãi không thấy
quân đến cứu, phải mở cửa ra hàng Ngụy.
Khương Duy thiệt vài vạn quân, còn bao nhiêu đem về đóng ở
Hán Trung. Tư Mã Sư cũng dẫn quân về Lạc Dương.
Đến năm Gia Bình thứ ba, mùa thu tháng tám, Tư Mã Ý mắc bệnh
nặng, gọi hai con đến trước giường dặn rằng:
- Cha thờ nhà Ngụy đã lâu, làm quan đến thái phó, chức vị như
thế đã là cực phẩm rồi. Người ta thường nghi cho cha có bụng khác, cha lấy làm
lo sợ lắm. Sau khi cha mất rồi, hai con coi việc nước cho khéo; phải cẩn thận lắm
mới được!
Nói xong thì mất.
Tư Mã Sư, Tư Mã Chiêu tâu với ngụy chủ Tào Phương. Ngụy chủ
sai làm lễ tang cực hậu, phong tặng, đặt tên thụy tử tế.
Rồi phong cho Tư Mã Sư làm đại tướng quân, tổng lĩnh các việc
cơ mật. Tư Mã Chiêu được phong làm phiêu kỵ tướng quân.
Nói về Ngô chủ Tôn Quyền, có con đầu là thái tử Tôn Đăng, Từ
phu nhân sinh ra. Năm Xích Ô thứ tư, thái tử mất, Quyền mới lập con thứ hai là
Tôn Hòa làm thái tử. Hòa vốn do Vương phu nhân sinh ra, vì không hòa với Toàn
công chúa, bị nàng dèm pha. Tôn Quyền bèn phế đi, Hòa tức giận mà chết. Quyền lại
lập con thứ ba là Tôn Lượng làm thái tử. Lượng do Phan phu nhân sinh ra. Bấy giờ
Lục Tốn, Gia Cát Cẩn mất cả rồi, nhất thiết công việc lớn nhỏ, về cả tay Gia
Cát Khác.
Năm Thái Hòa thứ nhất, giữa ngày mồng một tháng tám, bỗng
nhiên nỗi cơn bão to, nước sông nước bể tràn lên bờ, mặt đất nước ngập tám thước.
Các thông bách cổ thụ ở nơi lăng mộ tiên tổ Ngô chủ, đổ bật cả rễ lên, bay dạt
đến ngoài cửa nam thành Kiến Nghiệp, ngổn ngang khắp đường. Tôn Quyền vì thế lo
sợ thành bệnh, đến tháng tư năm sau, bệnh tình mỗi ngày một nặng, mới đòi thái
phó Gia Cát Khác, đại tư mã Lã Đại đến trước giường nằm, dặn dò việc sau rồi mất.
Tôn Quyền ở ngôi được hai mươi bốn năm, thọ bảy mươi mốt tuổi. Bấy giờ là năm
Diên Hi thứ mười lăm nhà Thục Hán.
Đời sau có thơ khen Tôn Quyền rằng:
Mắt xanh, râu đỏ, chí anh hùng,
Khéo khiến thân liêu chịu hết lòng,
Hăm bốn năm giời gây nghiệp lớn,
Tôn Quyền mất rồi, Gia Cát Khác lập Tôn Lượng lên làm vua, đại
xá cho thiên hạ, cải nguyên làm năm Đại Hưng thứ nhất; đặt tên thụy Tôn Quyền
là Đại Hoàng Đế, táng ở Tưởng Láng.
Có quân do thám báo tin về Lạc Dương, Tư Mã Sư nghe tin Tôn
Quyền mất, muốn cất quân sang đánh Ngô.
Thượng thư Phó Hỗ can rằng:
- Ngô có sông Trường Giang hiểm trở, tiên đế mấy phen sang
đánh, cũng không được thỏa chí. Chi bằng nước nào giữ bờ cõi nước ấy là hơn.
Sư nói:
- Đạo trời cứ ba mươi năm biến đổi một khác, có lẽ đâu giữ thế
chân vạc mãi ru? Ta muốn đánh Ngô phen này.
Tư Mã Chiêu nói:
- Nay Tôn Quyền mới mất, Tôn Lượng còn thơ ấu, chính nên ngay
dịp này đánh dấn ngay đi.
Sư bèn sai chính nam đại tướng quân Vương Sưởng dẫn mười vạn
quân đánh mặt Nam Quận; trấn nam đô đốc Vô Kỳ Kiệm dẫn mười vạn quân đánh quận
Đông Hưng. Cả ba mặt đều tiến quân. Sư lại sai em là Tư Mã Chiêu làm đại đô đốc,
tổng lĩnh cả ba mặt.
Tháng mười hai, mùa đông năm ấy, Tư Mã Chiêu tiến quân đến
sát cõi Đông Ngô, đóng quân lại, gọi Vương Sưởng, Hồ Tuân, Vô Kỳ Kiệm đến bàn bạc
rằng:
- Quận Đông Hưng là nơi rất hiểm yếu của Ngô. Nay họ đắp một
dãy đê dài, lại thêm hai thành tả hữu, là có ý phòng ta đánh mé sau Sào Hồ đó,
các ông phải cẩn thận mới được.
Liền sai Vương Sưởng, Vô Kỳ Kiệm, mỗi người dẫn một vạn quân
dàn sẵn hai bên tả hữu, nhưng không được tiến binh vội, đợi khi nào phá xong quận
Đông Hưng thì sẽ kéo tràn sang một thể.
Chiêu lại sai Hồ Tuân làm tiên phong, tổng lĩnh cả quân mã ba
đường đi trước, bắc một nhịp cầu nổi, tiếp đến bờ đê quận Đông Hưng, dặn rằng:
- Nếu ngươi cướp được hai thành tả hữu, ấy là công to đệ nhất.
Hồ Tuân lĩnh mệnh, dẫn quân đi trước bắc cầu.
Thái phó Gia Cát Khác ở Đông Ngô, nghe tin Ngụy chia làm ba mặt
kéo đến, hội các tướng bàn bạc.
Bình bắc tướng quân Đinh Phụng nói:
- Quận Đông Hưng là xứ hiểm yếu của bên Ngô ta, nếu để mất
thì Nam Quận, Võ Xương nguy cả.
Khác nói:
- Ông nói hợp ý ta lắm! Ông hãy dẫn ba nghìn quân thủy, noi
đường sông đi trước. Ta cho Lã Cứ, Đường Tư, Lư Toản, mỗi người dẫn một vạn
quân mã bộ chia làm ba đường, lại tiếp ứng ngay. Khi nào nghe tiếng pháo nổ
liên thanh, thì nhất tề tiến lên. Ta dẫn đại quân đến sau.
Đinh Phụng được lệnh, dẫn ba nghìn thủy quân, chia làm ba chục
chiếc thuyền, từ sông Trường Giang kéo đến quận Đông Hưng.
Tướng Ngụy là Hồ Tuân kéo quân sang khỏi cầu, đóng trên mặt
đê, sai Hoàn Gia, Hàn Tổng đánh hai thành tả hữu. Trong thành tả có tướng Ngô
là Toàn Dịch canh giữ, Trong thành hữu có tướng Ngô là Lưu Lược canh giữ. Hai
thành cao kín, bề vững, quân Ngụy đánh mãi không đổ. Toàn, Lưu hai người thấy
quân Ngụy to thế lắm, không dám ra đánh, chỉ cố sức giữ lấy thành trì.
Hồ Tuân giữ trên mặt đê, bấy giờ trời đông tháng rét, hoa tuyết
tơi bời. Hồ Tuân hội các tướng lại uống rượu. Sực có lính báo rằng trên mặt
sông có ba chục chiếc chiến thuyền bơi đến. Tuân ra trại nhìn xem, thấy thuyền
đã gần bờ, mỗi thuyền ước chừng có trăm người, liền trở vào báo với các tướng rằng:
- Có độ ba nghìn người, chẳng hề chi mà ngại!
Nói đoạn cho mấy viên tướng ra trông nom, còn mình thì cứ việc
ung dung uống rượu với các tướng.
Đinh Phụng dàn thuyền một dãy trên mặt sông, bảo với bộ tướng
rằng:
- Đại trượng phu gặp được dịp này, chính là dịp lập công danh
đây!
Liền sai quân sĩ cỡi cả áo giáp và bỏ mũ đi, không dùng gì đến
giáo dài kích lớn, chỉ mỗi người dắt một con dao găm, kéo vào bờ.
Quân Ngụy trông thấy nực cười, không coi ra mùi gì. Bỗng pháo
liên châu nổ luôn ba tiếng, rồi thấy Đinh Phụng cầm dao đi trước, nhảy vót lên
bờ, quân sĩ cùng cầm dao ồ cả lên, đánh vào trại Ngụy. Quân Ngụy trở tay không
kịp, tan vỡ chạy trốn.
Hàn Tổng vội vàng rút ngọn kích to ở trước trướng ra đánh,
Đinh Phụng lăn xả vào trước mặt, chém một nhát, Tổng ngã lăn xuống đất. Hoàn
Gia từ mé tả chạy ra, vội với ngọn giáo đâm Đinh Phụng, Phụng giơ tay bắt được
ngọn giáo. Gia bỏ giáo ù té chạy, Phụng phóng dao chém theo, dính vào vai tả.
Gia ngã gục xuống đất. Phụng sấn vào đâm một nhát nữa. Gia chết tươi. Ba nghìn
quân Ngô xông xáo, phá phách trong trại Ngụy. Hồ Tuân kíp nhảy lên ngựa chạy trốn.
Quân Ngụy chạy cả lên cầu, thì cầu lại bị chặt đứt đôi, quân Ngụy lăn xuống
sông chết già hết một nữa, còn thì bị giết ở trên mặt đất mưa tuyết, không biết
bao nhiêu mà kể. Xa trượng, ngựa nghẽo, khí giới bị quân Ngô cướp sạch.
Tư Mã Chiêu, Vương Xưởng, Vô Kỳ Kiệm thấy mặt đông quân Đông
Hưng bị thua, cùng rút quân về.
Gia Cát Khác dẫn quân đến Đông Hưng, khao thưởng các tướng, rồi
bàn rằng:
- Tư Mã Chiêu thua trận về bắc, ta nên thừa thế tiến sang
đánh Trung Nguyên.
Liền sai sứ mang thư sang Thục, cầu Khương Duy tiến binh đánh
mặt bắc, để chia đôi thiên hạ. Một mặt cất hai chục vạn đại quân đánh Trung
Nguyên.
Lúc quân Ngô khởi hành, bỗng có một luồng khí trắng, tự mặt đất
bốc lên, tỏa ra mù mịt. Ba quân giáp mặt không trông thấy nhau.
Tưởng Diên nói:
- Khí này là do cầu vòng trắng đây, chủ về việc bại quân.
Khác nổi giận quát rằng:
- Ngươi sao dám gở mồm nói càn, làm ngã bụng quân ta?
Bèn quát võ sĩ lôi ra chém. Các quan kêu van thay cho Tưởng
Diên, Khác mới tha chết cho, cách tuột chức giáng xuống làm thứ dân. Rồi cứ việc
thúc quân tiến lên.
Đinh Phụng nói:
- Tân Thành là một ải khẩu trọng yếu nước Ngụy, nếu lấy được
trước, thì Tư Mã Sư khắc phải vỡ mật.
Khác mừng lắm, thúc quân đến thẳng Tân Thành. Tướng giữ thành
là Trương Đặc thấy quân Ngô kéo đến đông lắm, chỉ đóng cửa giữ vững thành trì.
Có ngựa lưu tin báo về Lạc Dương. Chủ bộ là Ngô Tùng nói với
Tư Mã Sư rằng:
- Gia Cát Khác vây Tân Thành, ta không nên đánh vội. Quân Ngô
tự xa đến đây, người nhiều lương ít. Lương cạn tự nhiên phải rút về. Đợi khi sắp
chạy, ta sẽ đuổi theo mà đánh, chắc là được to. Nhưng còn ngại quân Thục đến
xâm phạm cõi ta, không phòng trước không xong.
Sư cho lời ấy là phải, bèn sai Tư Mã Chiêu dẫn quân ra giúp
Quách Hoài để phòng quân Khương Duy; sai Vô Kỳ Kiệm, Hồ Tuân giữ mặt Đông Ngô.
Gia Cát Khác đánh Tân Thành hơn hai tháng trời không đổ, bèn
hạ lệnh sai các tướng phải hết sức đánh thành hễ ai lười nhác thì chém.
Bởi vậy các tướng đều ra sức đánh. Góc Đông Bắc sắp đỗ.
Trương Đặc nghĩ ra một kế, sai người nói giỏi đem cả sổ sách đến trại Ngô, vào
ra mắt Gia Cát Khác, kêu rằng:
- Theo phép nước Ngụy, hễ có giặc đến vây thành, tướng giữ
thành giữ vững được một trăm ngày mà không có quân cứu, thì dù ra hàng giặc,
gia tộc cũng không phải tội gì. Nay tướng quân vây thành, hơn chín mươi ngày rồi,
xin tướng quân thư cho mấy hôm nữa, chủ tôi xin đem hết cả quân dân trong thành
ra hàng. Nay hãy xin nộp sổ sách trước.
Khác tin là thực, thu cả quân mã về, không đánh thành nữa.
Không ngờ Trương Đặc nói dối như thế, để cho Ngô rút quân, rồi lập tức dỡ các cửa
nhà trong thành sắp đỗ, sửa chữa tươm tất đâu đấy, rồi lên mặt thành gọi to mắng
rằng:
- Trong thành tao còn lương thảo dùng được nửa năm nữa, há chịu
hàng chó Ngô à? Tha hồ cho chúng mày đánh, tao đây không ngại!
Khác giận lắm, thúc quân lại đánh. Trên thành tên bắn xuống
như mưa. Khác bị một mũi tên vào giữa trán ngã ngựa, các tướng vội vàng cứu đem
về trại. Quân sĩ thấy chủ tướng bị thương, ngã lòng, không muốn đánh nữa. Lại
nhân bây giờ trời hè nóng nực, quân sĩ đau ốm rất nhiều, nên đều có bụng muốn về
cả.
Chỗ bị thương Gia Cát Khác gần bớt, Khác lại muốn thúc quân
vào đánh.
Các tướng kêu rằng:
- Quân sĩ ốm cả, đánh làm sao được nữa?
Khác nổi giận, nói:
- Hễ ai còn nói đến ốm thì chém!
Quân sĩ nghe truyền lệnh làm vậy, trốn đi nhiều lắm. Chợt có
tin báo đô đốc Sái Lâm dẫn quân bản bộ hàng Ngụy mất rồi. Khác giật mình, cưỡi
ngựa diễu xem các trại, quả nhiên thấy quân sĩ xanh xao võ vàng, gầy gò ốm yếu
cả, mới chịu thu quân về Ngô.
Có tế tác báo tin với Ngô Kỳ Kiệm, Kiệm liền cất đại binh đuổi
theo, quân Ngô thua to rút chạy.
Gia Cát Khác về đến Ngô, hổ thẹn quá, thác bệnh không vào chầu.
Ngô chủ Tôn Lượng thân đến tận nhà hỏi thăm. Các quan văn võ, ai cũng đến bái
kiến. Khác sợ có người chê cười mình, mới bới móc tội lỗi các quan, tội nhẹ thì
đầy ra ngoài biển, tội nặng thì chém. Bởi thế các quan đều có bụng sợ hãi. Khác
lại sai tướng tâm phúc là Trương Ước, Chu An cai quản quân ngự lâm, để làm nanh
vuốt cho mình.
Bấy giờ Tôn Tuấn, tự là Tử Viễn, nguyên là con Tôn Cung, cháu
tằng tôn Tôn Tĩnh là em Tôn Kiên khi xưa. Khi Tôn Quyền còn sống, yêu mến Tôn
Tuấn, cho cai quản quân ngự lâm. Nay thấy Gia Các Khác sai Trương Ước, Chu An
giữ quân ngự lâm, cướp mất quyền mình, trong bụng giận lắm. Thái thường khanh
là Đằng Dận, vốn hiềm khích với Gia Cát Khác, nhân dịp báo với Tuấn rằng:
- Gia Cát Khác chuyên quyền rông rỡ, giết hại công khanh, sắp
có lòng lấn chúa. Ông là người tôn thất, sao không tìm cách trừ đi?
Tuấn nói:
- Ta có bụng ấy đã lâu, nay tâu với thiên tử, xin chiếu chỉ
mà giết đi mới được.
Tôn Tuấn, Đằng Dận mới vào mật tâu với Ngô chủ Tôn Lượng.
Lượng nói:
- Trẫm thấy người ấy cũng sợ, thường muốn trừ đi, nhưng chưa
có dịp nào. Nay các ngươi đã có bụng trung nghĩa như thế, thì nên bí mật lo liệu
đi cho khéo.
Dận tâu rằng:
- Bệ hạ nên mở tiệc mời Khác đến, ám phục võ sĩ ở trong màn
vách, quẳng chén làm hiệu, giết luôn ngay trong tiệc, để trừ mối lo về sau.
Tôn Lượng nghe lời.
Gia Cát Khác từ khi thua trận về triều, thác bệnh ở nhà, tinh
thần hoảng hốt không yên. Một bữa ngẫu nhiên ra ngoài, bỗng thấy một người mặc
áo xô trắng đi vào. Khác quát hỏi đi đâu, Người ấy thưa rằng:
- Tôi nhân có cha mới mất, vào thành nhờ nhà sư làm chay. Tôi
tưởng đây là chùa phật, không ngờ là phủ thái phó, không biết ai run rủi tôi
vào đây thế này?
Khác nổi giận, gọi quân canh cửa vào hỏi. Quân canh bẩm rằng:
- Chúng tôi vài mươi người, vác giáo canh cửa, không dám rời
xa lúc nào, tịnh không ai vào cả.
Khác nổi giận sai chém cả người ấy cùng vài mươi tên lính
canh cửa.
Đêm hôm ấy, Khác trong lòng trằn trọc, ngủ không yên giấc. Bỗng
nghe giữa nhà ầm một tiếng như sét, Khác ra trông xem, té ra cây gỗ nóc nhà
chính gian giữa gẫy làm hai doạn đỗ xuống. Khác giật mình, vào nhà trong nằm
nghỉ. Bỗng lại thấy nổi cơn gió lạnh, rồi có người mặc áo xô cùng vài mươi tên
quân sĩ, mỗi người xách một cái đầu đến đòi mạng. Khác khiếp sợ, ngã gục xuống
đất, nửa giờ sau mới tỉnh.
Sáng hôm sau, Khác sai lấy chậu nước rửa mặt, nước sặc những
mùi máu tanh hôi. Khác quát nàng hầu đòi lấy chậu khác, đổi hơn chục chậu cũng
đều tanh như thế cả. Khác lấy làm kinh hãi lắm. Chợt có sứ đến mời thái phó vào
dự yến. Khác dàn xa trượng sắp ra cửa phủ. Bỗng có con chó vàng chạy đến, cắn
áo lôi lại, ăng ẳng như tiếng can ngăn. Khác giận, sai tả hữu đuổi đi, rồi lên
xe ra phủ. Đi chưa được vài bước, bỗng có một luồng khí trắng từ mặt đất bốc
lên ở trước xe, trông như hình tấm lụa, bay vụt lên trời đi mất. Khác lấy làm
kinh quái lắm.
Tướng tâm phúc là Trương Ước bước đến gần xe nói nhỏ rằng:
- Hôm nay trong cung mở tiệc, chưa biết hay dở thế nào, chủ
công chớ nên đi nữa.
Khác nghe lời, sai quay xe trở về. Đi chưa được mười bước, có
Tôn Tuân, Đằng Dận cưỡi ngựa đến thẳng trước xe, nói rằng:
- Thái Phó sao lại trở về?
Khác nói:
- Tôi bỗng nhiên đau bụng, không vào chầu thiên tử được.
Dận nói:
- Triều đình vì cớ thái phó mang quân về, chưa được gặp mặt
chuyện trò, nên mở tiệc này mời thái phó, nhân tiện để bàn việc lớn. Thái phó
dù hơi đau bụng, cũng nên guợng đi cho một lúc.
Khác không sao từ được, phải đi với Tôn Tuấn, Đằng Dận vào
cung, Trương Ước cũng theo vào.
Khác vào ra mắt Ngô chủ Tôn Lượng, lễ xong, ngồi dự tiệc. Lượng
sai mời rượu, Khác nghi tình tâu rằng:
- Tôi lâu nay mệt yếu, không uống được rượu.
Tôn Tuấn nói:
- Tướng phủ thái phó thường có rượu thuốc uống, nên đem lại
thái phó uống có được không?
Khác nói:
- Được.
Khác bèn sai người về phủ lấy rượu đến, lúc đó mới yên tâm ngồi
uống rượu. Rượu được vài tuần, Ngô chủ thác việc dậy trước. Tôn Tuấn xuống điện,
cởi áo dài ra, trong mình chỉ mặc áo ngắn và khoác áo giáp, cầm một thanh gươm
cực sắc, bước lên điện, hô to rằng:
- Thiên tử có chiếu sai đánh giặc!
Gia Cát Khác giật mình, quẳng chén rượu xuống đất, rút gươm
ra đỡ, nhưng đỡ chưa kịp, thì đầu đã rơi xuống đất rồi.
Trương Ước thấy Tôn Tuấn chém Gia Cát Khác, khoa đao vào
đánh. Tuấn vội vàng tránh mũi đao, bị thương một ngón tay trỏ bên trái. Tuấn
quay mình lại chém vào cánh tay hữu Trương Ước. Võ sĩ kéo ồ ra, băm Trương Ước
nát nhừ như bún. Tuấn một mặt sai võ sĩ về bắt gia quyến Gia Cát Khác, một mặt
sai đem thây Gia Cát Khác, Trương Ước dùng chiếc cói bó lại, bỏ lên chiếc xe,
kéo ra ngoài cửa nam thành, quảng xuống bãi tha ma.
Vợ Gia Cát Khác đang ở trong phòng bỗng nhiên tâm hồn hoảng hốt,
ngồi đứng không yên. Chợt có một nàng hầu vào trong phòng, người vợ trông thấy
hỏi rằng:
- Mày sao máu me đẫm cả mình mẩy thế?
Người hầu tự nhiên nghiến răng trợn mắt, nhảy lên chồm chồm,
va cả đầu vào sà nhà, kêu to lên rằng:
- Tao là Gia Cát Khác đây, tao bị quân gian tặc là Tôn Tuấn
nó hại rồi!
Cả nhà già trẻ đều kinh hãi, kêu khóc. Một lát, quân mã đến
vây phủ, bắt hết già trẻ cả nhà, điệu ra chợ chém sạch. Bấy giờ là tháng mười,
năm Đại Hưng thứ hai nhà Ngô.
Khi xưa Gia Cát Cẩn, thấy con thông minh lộ hết ra ngoài, có
than rằng: "Thằng này không phải là con nhà giữ được cơ nghiệp".
Quang Lộc đại phu nước Ngụy là Trương Thấp thường nói chuyện với Tư Mã Sư rằng:
"Gia Cát Khác chẳng bao lâu nữa tất chết". Sư hỏi tại sao, Thấp nói:
"Oai lấn cả chúa, thì bền thế nào được?". Hai lời ấy quả nhiên linh
nghiệm.
Tôn Tuấn giết xong Gia Cát Khác, Ngô chủ phong Tuấn làm thừa
tướng, đại tướng quân, Phú Xuân hầu, tổng đốc mọi việc quân trong ngoài. Từ bấy
giờ quyền hành lại về cả tay Tôn Tuấn.
Khương Duy ở Thành Đô, tiếp được thư của Gia Cát Khác cầu
đánh Ngụy giúp, liền vào chầu, tâu với Hậu chủ, xin cất đại quân sang đánh
Trung Nguyên.
Ấy là:
Ra quân chuyến trước chưa nên việc.
Đánh giặc phen này muốn lập công.
Chưa biết được thua thế nào, xem hồi sau phân giải.
La Quán Trung
Người dịch: Hồng Việt
Theo https://www.sachhayonline.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét