Hồng lâu mộng 24
Hồi 116:
Được ngọc thiêng, nhận thấy duyên tiên nói ảo cảnh
Trọn đạo hiếu, đưa linh cữu mẹ về cố hương
Bảo Ngọc nghe Xạ Nguyệt nói, liền ngả người ra đằng sau, mê
man bất tỉnh, làm cho bọn Vương phu nhân khóc lóc ầm ĩ. Xạ Nguyệt biết mình lỡ
lời, gây ra tai vạ, nhưng lúc đó, Vương phu nhân cũng không kịp mắng chị ta. Xạ
Nguyệt vừa khóc vừa định sẵn trong bụng: “nếu cậu Bảo chết, mình sẽ tự tử
theo”...
Vương phu nhân thấy gọi Bảo Ngọc không tỉnh lại, liền vội
vàng bảo người ra mời nhà sư vào cứu chữa. Không ngờ lúc Giả Chính ở trong nhà
đi ra thì không thấy nhà sư nữa. Giả Chính đang ngạc nhiên, bỗng nghe trong nhà
ồn ào, vội vàng chạy vào. Trông thấy Bảo Ngọc lại mê man như trước. Hai hàm
răng cắn chặt, mạch không đập, lấy tay sờ vào giữa rốn, thấy còn nóng. Giả
Chính lại bảo đi mời thầy thuốc đến ngay, đổ thuốc cấp cứu. Có biết đâu hồn
phách Bảo Ngọc đã lìa khỏi xác. Nhưng liệu Bảo Ngọc có chết thật không? Số là
anh ta mơ mơ màng màng thấy mình đi ra ngoài. Gặp vị hòa thượng đưa trả viên ngọc
đang còn ngồi đó, liền đến chào. Ông ta đứng dậy, dắt Bảo Ngọc đi với theo ông
ta, cảm thấy trong người nhẹ nhàng như chiếc lá. Họ không ra cửa chính, nhưng
cũng không biết là đi lối nào. Đi được một quãng, đến một nơi đồng không mông
quạnh, thấy xa xa có một tòa lầu, giống như là đã nhìn thấy ở đâu rồi. Bảo Ngọc
định hỏi, bỗng thấp thoáng có một người con gái đi lại Bảo Ngọc nghĩ bụng: “ở
giữa chỗ đồng không vắng vẻ nầy làm gì có người xinh đẹp như thế? Chắc là thần
tiên xuống trần!” Anh ta đến gần nhìn kỹ thì có vẻ quen quen, nhưng trong chốc
lát không nhớ ra. Người con gái chỉ chào một tiếng rồi không thấy đâu nữa. Bảo
Ngọc nhớ lại thì đó là cô Ba họ Vưu, càng thêm buồn bực: “Tại sao cô ta cũng ở
chỗ này?” Anh muốn hỏi thì nhà sư đã dắt đến một cái lầu. Trên lầu có một tấm
bảng viết bốn chữ lớn: “Chân như phúc địa” (cõi phúc của người tiên) và hai bên
có đôi câu đối:
Giả đi chân đến, chân hơn giả
Không nguyên là có, có nào không.
Đi khỏi cái lầu có tấm bảng ấy, thì đến một tòa cửa cung.
Trước cửa có viết ngang bốn chữ lớn: “phục thiện họa dâm”
(lành được phúc, dâm bị họa), lại có một câu đối:
Kiếp trước đời sau, dầu bậc trí hiền không hiểu thấu;
Nhân nào quả ấy, dù người thân cận vẫn phải xa nhau.
Bảo Ngọc xem xong, nghĩ bụng: “à ra thế! Để ta hỏi thử những
việc nhân quả, quá khứ, tương lai kia xem”. Đang nghĩ thì thấy Uyên Ương đứng ở
đâu đó giơ tay vẫy đến, Bảo Ngọc lại nghĩ: “mình đi đã lâu, mà xem ra vẫn chưa
ra khỏi vườn. Sao vườn này thay đổi đến thế?” Anh ta chạy theo, muốn nói chuyện
với Uyên Ương, nào ngờ ngoảnh lại thì không thấy nữa. Trong bụng đâm ra ngờ vực,
liền chạy đến chỗ Uyên Ương đứng lúc nãy, thì ra đó là một dãy đền miếu, tòa
nào cũng có biển. Bảo Ngọc không để ý nhìn, cứ chạy thẳng đến chỗ Uyên Ương đứng
thì thấy có một tòa miếu, cửa vào hé mở. Anh ta không dám hấp tấp bước vào, định
hỏi vị hòa thượng nhưng ngoảnh lại thì ông ta đã biến mất.
Bảo Ngọc mơ màng trông thấy tòa miếu ấy đồ sộ, không giống cảnh
trong vườn Đại Quan chút nào. Liền dừng lại, ngẩng đầu trông thấy cái biển đề bốn
chữ: “Dẫn giác tình si” (Đưa kẻ si đến nơi giác ngộ). Hai bên có đôi câu đối:
Cười, mừng, thương, tủi, đều là giả
Ham, muốn, nhớ nhung chỉ vì si.
Bảo Ngọc xem xong gật đầu thở dài. Đến tìm Uyên Ương để hỏi
cho rõ đấy là chỗ nào. Nhưng nhìn kỹ thì ra một nơi rất quen thuộc. Anh ta liền
đánh bạo, đẩy cửa vào, nhìn khắp trong nhà không thấy Uyên Ương đâu cả, chỉ thấy
tối om, nên trong bụng sợ hãi. Bảo Ngọc đang muốn lui ra thì thấy có hơn mười
cái tủ lớn hé mở. Bảo Ngọc sực nhớ lại: “ta hồi nhỏ đã mơ thấy đến một chỗ như
thế này. Bây giờ lại được đến đây, thực là may lắm!” Trong lúc mơ màng quên cả
Uyên Ương. không đi tìm nữa. Anh ta đánh liều mở cái tủ lớn đầu tiên xem thì thấy
có mấy quyển sổ. Trong bụng càng thích, nghĩ rằng: “người ta chiêm bao, cứ bảo
đó là chuyện giả. Nhưng biết đâu đã có cái mộng ấy thì phải có cái việc ấy! Ta
thường nghĩ muốn thấy lại cái mộng ấy một lần nữa mà không mộng. Ngờ đâu hôm
nay lại gặp mộng ! Nhưng không biết cái sổ kia có phải là ta đã gặp rồi hay
không? Anh ta liền giơ tay lên phía trên lấy một quyển, thấy có đề chữ: “Kim
Lăng thập nhị thoa chính sách”. Bảo Ngọc cầm lấy quyển sổ, nghĩ bụng: “ta nhớ
mang máng hình như đã thấy quyển sổ này, chỉ giận một điều là nhớ không rõ lắm”.
Rồi mở trang đầu ra xem, thấy phía trên có bức vẽ nhưng dấu vẽ lờ mờ, nhìn
không rõ. Phía sau có mấy hàng chữ cũng không rõ nhưng còn có thể đoán được.
Nhìn kỹ thì hình như trên chữ “Đại Ngọc” lại có một chữ giống như chữ “lâm”, liền
nghĩ bụng: “nhất định là nói về em Lâm rồi “. Lại cố xem kỹ nữa. Phía dưới còn
thấy bốn chữ “trâm vàng trong tuyết”, anh ta lấy làm lạ, nói: “Làm sao lại giống
như tên họ của vợ ta nhỉ?”... Bảo Ngọc liền chắp cả bốn câu trên dưới đọc một
lượt và nói: “cũng không có ý nghĩa gì. Chỉ nói kín tên họ cô ta thôi, chẳng lấy
gì làm lạ. Nhưng có chữ “thường” và chữ “than” thì không tốt. Như thế thì giải
nghĩa ra sao?“ (1)
Bảo Ngọc nghĩ đến đó, tự gắt với mình: “Ta đã xem trộm lại
còn nghĩ vơ nghĩ vẩn. Nếu có ai đến thì còn xem sao được nữa?” Rồi lại xem tiếp,
cũng không kịp nhìn kỹ mấy bức vẽ kia. Cứ xem từ trên xuống. Khi xem đến đoạn
cuối, thấy có một câu gì như là “thỏ gặp hùm kia giấc mộng xuôi.” Chợt tỉnh ra,
nói:
- Đúng rồi! Quả là cơ trời không sai chút nào! Câu này chắc
là nói về chị Nguyên Xuân rồi. Nếu thấy rõ ràng như thế thì ta phải biên lấy để
nghiền ngẫm cho kỹ. Sau nầy những việc rủi may sống chết của chị em, mình đều
biết hết. Ta trở về nhất định không tiết lộ ra, chỉ làm một người “chưa bói đã
biết”, thế cũng đã được bao nhiêu điều suy nghĩ vớ vẩn. Rồi anh ta đi tìm khắp
cũng không thấy bút nghiên gì cả. Bảo Ngọc sợ có người ngoài đến, lại vội xem,
thấy một bức vẽ lờ mờ hình một người đang thả diều, cũng không để ý nhìn kỹ. Vội
vàng xem suốt cả mười hai bài thơ, có bài nhìn qua đã biết. Có bài xem rồi nghĩ
ra ngay, cũng có bài không hiểu rõ lắm, nhưng trong bụng nhớ rất kỹ. Anh ta vừa
thở than vừa cầm lấy “Kim Lăng hựu phó sách” để xem. Khi xem đến cậu “Khen cho
ưu linh phúc tết. Ngờ đâu công tử duyên ôi”, lúc đầu không hiểu gì cả. Sau thấy
phía trên có hình khóm hoa và chiếc chiếu, anh ta liền khiếp sợ, khóc òa lên.
Đang còn muốn xem nữa thì
nghe thấy có tiếng người bảo:
- Anh lại ngây rồi. Cô Lâm mời anh đấy!
Nghe giống như giọng nói của Uyên Ương. Ngoảnh lại thì không
thấy người đâu. Đang lúc nghi hoặc, bỗng thấy Uyên Ương đứng ngoài cửa vẫy. Bảo
Ngọc mừng quá, chạy ra. Uyên Ương yêu kiều thướt tha đi trước. anh ta không sao
theo kịp, liền cất tiếng gọi:
- Chị ơi? Đợi tôi với!
Uyên Ương vẫn không để ý, cứ đi một mạch. Bảo Ngọc không biết
làm sao, cố hết sức chạy theo. Bỗng lại thấy một khoảng mênh mông, lầu gạc nguy
nga, cung điện sáng ngời. Thấp thoáng có nhiều cung nữ. Anh ta ham nhìn cảnh đẹp,
quên mất Uyên Ương. Bảo Ngọc luôn chân đi vào cửa một tòa lầu. thấy trong đó có
nhiều hoa quả lạ lùng, không biết tên là gì. Chỉ có một cái bờ rào hoa bằng đá
trắng bao quanh một cây xanh, đầu lá hơi đỏ. Bảo Ngọc nghĩ thầm: “không biết là
cây gì mà quý hóa như thế?” Bỗng thấy gió thổi nhẹ qua, cây xanh cứ lay động
mãi. Tuy là một loài cây nhỏ, lại không có hoa, nhưng dáng điệu nó xinh đẹp làm
cho anh ta thích thú say mê. Bảo Ngọc cứ sững sờ đứng nhìn. Bỗng nghe bên cạnh
có một người bảo:
- Giống ngu xuẩn ở đâu đến đây dòm ngó cây tiên thế?
Bảo Ngọc nghe xong, giật mình ngoảnh lại nhìn, thấy một vị
tiên nữ, liền đến kính chào và nói:
- Tôi đi tìm chị Uyên Ương, vào nhầm cõi tiên. Dám mong tha
thứ tội.
- Xin hỏi nàng. Đây là chỗ nào? Sao chị Uyên Ương nhà tôi nói
em Lâm gọi tôi? Xin nàng bảo cho tôi được rõ.
Người ấy trả lời:
- Ai biết được chị em nhà anh? Ta là người coi giữ cây tiên,
thì không để cho người trần được dừng lại ở đây.
Bảo Ngọc cũng muốn đi ra, nhưng không dứt được, đành phải nài
xin:
- Thưa tiên nữ, chắc nàng là một vị hoa thần. Không biết cây
tiên ấy có những gì đáng quý?
- Anh muốn biết rõ cây ấy à? Nói ra thì câu chuyện cũng dài
đấy. Nguyên cây ấy trước ở trên bờ sông Linh Hà, tên là cây giáng châu. Xưa kia
nó bị khô héo, may gặp vị Thần Anh hằng ngày lấy nước cam lộ tưới cho nó nên được
sống mãi. Sau nó xuống trần làm người, trả xong cái ơn tưới bón khi trước, nó
đã trở về chân cảnh. Vì vậy, cảnh ảo hàng ngày sai ta trông nom không để cho bướm
ong vương vấn đến (1). Bảo Ngọc nghe vậy không hiểu, trong bụng cứ tưởng là gặp
được hoa thần. Hôm nay nhất định không bỏ lỡ dịp, liền hỏi:
- Người trông coi cây ấy chính là nàng đây rồi. Nhưng còn biết
bao nhiêu thứ hoa. Tất nhiên mỗi hoa phải có một vị coi riêng. Tôi cũng không
dám hỏi nhiều, chỉ muốn biết vị tiên nào coi hoa phù dung?
- Chỉ có chủ nhân ta mới rõ, ta biết làm sao được.
- Chủ nhân của nàng là ai?
- Chủ nhân của ta là Tiêu Tương phi tử.
- Phải rồi? Nàng không biết vị phi tử ấy là em ngoại của tôi
tên là Lâm Đại Ngọc à.
- Nói nhảm? Đây là nơi ở của các thần nữ thượng giới, tuy gọi
là Tiêu Tương phi tử. Mhưng không phải như các bà Nga Hoàng và Nữ Anh đâu. Làm
gì lại có họ hàng với người trần? Anh đến đây nói bậy vừa chứ? Coi chừng phải
gọi lực sĩ ra đánh đuổi đấy!
Bảo Ngọc nghe vậy, đâm ra sửng sốt, nghĩ mình nhơ đục, đang định
lui ra. Bỗng có người chạy đến bảo:
- Ở trong truyền bảo mời vị Thần Anh thị giả vào.
Người kia nói:
- Tôi vâng lệnh chờ từ lâu. Không thấy có Thần Anh thị giả đến,
thì bảo tôi mời ở đâu?
- Chẳng phải mời người mới đi ra đó à!
Thị nữ ấy vội vàng chạy theo nói:
- Xin mời Thần Anh thị giả ở lại.
Bảo Ngọc tưởng họ hỏi người khác, lại sợ người ta đuổi theo
nên vội vàng chạy trốn. Đang chạy bỗng có người cầm cây kiếm, ngăn lại bảo:
- Chạy đi đâu!
Bảo Ngọc khiếp sợ, đánh bạo ngẩng đầu lên thì không phải là
ai khác mà chính là cô ba họ Vưu. Bảo Ngọc trông thấy mới hoàn hồn, liền kêu
nài:
- Chị ơi, sao chị bức bách tôi thế?
- Anh em nhà anh không có một người nào khá, làm hỏng danh tiết
người ta, phá cuộc hôn nhân người ta? Hôm nay anh đến đây, không thể tha cho
anh được?
Bảo Ngọc nghe rõ câu chuyện không hay, còn đang luống cuống,
bỗng nghe phía sau có người gọi:
- Chị ơi, mau mau cản lại? Đừng để cho nó chạy thoát?
- Ta vâng lệnh phi tử, chờ đợi đã lâu. Hôm nay gặp đây, nhất
định lưỡi kiếm nầy cắt đứt mối trần duyên của anh!
Bảo Ngọc nghe xong càng cuống quít. Lại không hiểu những câu
nói ấy là có ý nghĩa gì, quay đầu định chạy. Không ngờ người nói phía sau đó
không phải là ai lạ, mà chính là Tình Văn.
Bảo Ngọc trông thấy, vừa mừng vừa tủi, liền nói:
- Tôi một mình lạc đường đến đây, gặp kẻ thù, muốn trốn về mà
không thấy một chị em nào đi theo tôi cả. Bây giờ gặp chị, may quá! Chị Tình
Văn ơi, mau mau dẫn tôi về nhà !
Tình Văn nói:
- Thị giả đừng quản ngại, tôi đây không phải Tình Văn. Chính
là người vâng mệnh phi tử, cốt đến mời thị giả vào chơi, chứ không có ý làm khó
dễ gì đâu.
Bảo Ngọc rất đỗi ngờ vực, phải hỏi lại:
- Chị bảo phi tử mời tôi. Vậy thì phi tử ấy là người nào?
- Bây giờ không cần phải hỏi, vào trong ấy sẽ rõ.
Bảo Ngọc không biết làm sao, đành phải theo đi, nhìn kỹ người
ấy thì đúng là Tình Văn; gương mặt, tiếng nói quả không sai, nhưng sao lại nói
không phải? “Ta bây giờ trong bụng mê mẩn. Hãy khoan để ý đến chị ta đã. Đợi
khi vào trong ấy gặp phi tử nếu có điều gì không phải, ta sẽ van xin. Các cô
gái vốn lòng từ bi, chắc sẽ tha thứ cho sự lầm lẫn của ta”. Trong khi nghĩ ngợi
như vậy, không bao lâu đã đi đến một chỗ. Thấy có đền đài lộng lẫy, vẻ đẹp huy
hoàng, giữa sân có một khóm trúc, ngoài cửa vài gốc tùng xanh. Dưới hành lang
có mấy thị nữ đứng, đều trang điểm theo lối trong cung. Các thị nữ trông thấy Bảo
Ngọc đến, liền khe khẽ hỏi:
- Thần Anh thị giả đó à?
Người dẫn Bảo Ngọc đến trả lời:
- Đúng đấy. Chị vào trình báo đi.
Một thị nữ cười rồi vẫy tay. Bảo Ngọc liền đi theo. Đi qua mấy
gian phòng đến một phòng chính, thấy có rèm châu treo cao. Người thị nữ ấy nói:
- Hãy đứng đó đợi truyền.
Bảo Ngọc nghe vậy, cứ việc im lặng đứng chờ ở ngoài. Thị nữ
đi vào một lát bước ra, nói:
- Mời thị giả vào.
Lại có một người khác cuốn rèm châu lên. Bỗng thấy một cô con
gái đầu đội mũ hoa, mình mặc đồ thêu, ngồi đường hoàng ở trong. Bảo Ngọc vừa mới
ngẩng đầu lên thấy là Đại Ngọc, bất giác nói lên:
- Cô em ở đây mà để tôi mong nhớ mãi!
Thị nữ đứng ngoài rèm khẽ hét:
- Thị giả này vô lễ ! Mau mau đi ra?
Nói chưa dứt lời. Bỗng thấy một thị nữ buông rèm châu xuống.
Bảo Ngọc bấy giờ muốn vào cũng không dám, muốn đi cũng không đành. Đang định hỏi
rõ, nhưng thấy mấy thị nữ ấy cũng không quen biết, lại bị họ đuổi phải đi ra,
còn muốn hỏi lại Tình Văn, nhưng ngoảnh nhìn thì không thấy Tình Văn đâu cả.
Anh ta đành ngờ vực bực bội đi ra, lại không có ai dẫn đường.
Muốn tìm lối vào lúc trước lại không thấy. Bảo Ngọc đanh loay
hoay. Chợt thấy Phượng Thư đứng dưới hành lang một gian phòng vẫy tay. Anh ta mừng
quá, nói:
- Chị ở đây à. Họ trêu đùa tôi đến thế. Cô Lâm cũng không chịu
gặp tôi, không biết vì cớ gì.
Nói rồi chạy đến chỗ Phượng Thư đứng, nhìn kỹ ra thì không phải
Phượng Thư mà lại là vợ trước Giả Dung là Tần thị.
Bảo Ngọc dừng lại, muốn hỏi chị Phượng ở đâu, Tần thị cũng
không trả lời, bỏ đi vào trong nhà. Bảo Ngọc mơ mơ màng màng, không dám đi
theo. Cứ đứng phía ngoài than thở: “Không biết ta đã làm điều gì sai trái mà
không ai chịu nhìn đến
ta?” Anh ta khóc oà lên. Bỗng thấy có mấy lực sĩ khăn vàng cầm
roi đến bảo:
- Anh ở đâu mà dám xông xáo vào nơi trời tiên cõi phúc của
chúng tôi? Ra ngay đi!
Bảo Ngọc nghe xong không dám nói gì, đang tìm lối đi ra. Bỗng
trông thấy xa xa một đám con gái vừa cười vừa nói đi tới. Nhìn ra thì giống như
bọn Nghênh Xuân. Bảo Ngọc rất mừng và kêu lên:
- Tôi lạc ở đây. Các chị đến cứu tôi với!
Đang gọi thì một lực sĩ ở phía sau chạy đến. Bảo Ngọc bí quá
cứ việc chạy ra. Bỗng thấy đám con gái ấy biến thành ma quỷ cùng đến bắt anh
ta. Bảo Ngọc đang lúc cấp bách, chợt trông thấy vị hoà thượng đã đưa trả viên
ngọc. Ông ta trong tay cầm chiếc gương soi vào mặt Bảo Ngọc và bảo:
- Ta vâng chỉ của Nguyên phi đến cứu anh đây?
Ma quỷ bỗng hiến hết, lại hiện ra cánh đồng hoang. Bảo Ngọc cầm
tay ông ta nói:
- Con còn nhớ. Chính sư phụ đã đem con đến chỗ này. Rồi một
chốc không thấy sư phụ đâu nữa. Con gặp nhiều người thân thiết. Họ đều không
nhìn con, bỗng lại biến thành ma quỷ. Vậy đó là cảnh mộng hay cảnh thực. Xin sư
phụ chỉ bảo cho con được rõ.
- Khi anh đến đây đã xem trộm cái gì chưa?
Bảo Ngọc nghĩ lại: “ông ấy đã đưa ta đến chỗ trời tiên cõi
phúc này, tất nhiên là bậc thần tiên. Ta nói dối ông ta sao được. Vả lại ta
cũng đang muốn hỏi việc này cho rõ ràng” Anh ta liền nói:
- Con cũng có xem qua nhiều quyển sổ.
- Thế còn sao nữa? Anh xem sổ rồi. Còn chưa hiểu rõ à?
- Phàm tình duyên trên đời đều là những thứ ma chướng ấy cả.
Anh nên nhớ kỹ lại những việc đã qua. Sau này ta sẽ nói rõ với anh.
Nhà sư nói xong, cố xô Bảo Ngọc một cái và bảo:
- Trở về đi.
Bảo Ngọc chân đứng không vững, liền ngã xuống, miệng kêu lên:
- Ái chà?
Mọi người đang khóc lóc, chợt thấy Bảo Ngọc tỉnh lại. Vội
vàng gọi. Bảo Ngọc mở mắt nhìn, thấy mình vẫn nằm trên giường, lại thấy Vương
phu nhân và Bảo Thoa khóc sưng cả mắt. Anh ta định thần nhớ lại, nghĩ bụng:
“đúng rồi. Ta chết rồi sống lại đây?” Anh ta cố nhớ lại những việc mà linh hồn
đã từng trải qua, đều nhớ được hết, liền cười to:
- Đúng rồi? Đúng rồi!
Vương phu nhân cho là bệnh cũ của Bảo Ngọc lại phát, phải mời
thầy thuốc điều trị, liền bảo một a hoàn già đi mau đến trình Giả Chính:
- Bảo Ngọc đã tỉnh lại. Lúc trước là vì ngất đi đó thôi, nay
đã nói được. Không cần phải sắm đồ hậu sự nữa.
Giả Chính nghe xong vội đến xem, quả thấy Bảo Ngọc đã sống lại,
liền bảo:
- Thằng con si ngốc kia! Mày định dọa ai đấy?
Nói xong, bất giác chảy nước mắt, lại than thở vài câu, rồi
trở ra, bảo người đi mời thầy xem mạch cho đơn.
Trong nhà, Xạ Nguyệt đang định tự tử, nay thấy Bảo Ngọc tỉnh
lại, mới được yên tâm. Vương phu nhân gọi người bưng nước quế đến, bảo anh ta uống
mấy ngụm. Bảo Ngọc dần dần tỉnh táo. Vương phu nhân mới yên tâm, cũng không
trách móc gì Xạ Nguyệt, rồi gọi người đưa viên ngọc cho Bảo Thoa để đeo cho Bảo
Ngọc. Vương phu nhân lại nghĩ đến việc vị hoà thượng liền nói:
- Viên ngọc ấy không biết tìm được ở đâu. Lạ thực! Sao lúc
thì đòi bạc, rồi bỗng chốc không thấy đâu nữa. Phải chăng là một vị thần tiên?
Bảo Thoa nói:
- Nghĩ lại hình tích vị sư ấy khi đến cũng như khi đi thì
viên ngọc này không phải là tìm được. Chưa biết chừng lần trước bị mất cũng là
ông ta lấy đi đó thôi.
- Ngọc ở trong nhà, làm sao mà lấy đi được?
- Đã đưa đến được thì lấy đi cũng được chứ.
Tập Nhân và Xạ Nguyệt đều nói:
- Năm trước khi mất viên ngọc, ông Lâm Chí Hiếu đi bói, sau mợ
Hai về đây. chúng tôi đã thưa với mợ rằng bói được chữ “thưởng “ gì đó. Mợ Hai
còn nhớ rõ không? (1)
Bảo Thoa nhớ lại:
- Đúng rồi, nghe các cô nói khi ấy bói ra là phải đi tìm
trong hiệu cầm đồ. Nay mới rõ, thì ra chính là chữ “thưởng” là hoà thượng ở
trên đầu, thế không phải là “hoà thượng” đã lấy viên ngọc đi sao ? Vị hoà thượng
kỳ quặc thật?
- Năm trước Bảo Ngọc bị bệnh, một vị hoà thượng đến nói nhà
ta có bảo bối, có thể chữa bệnh. Tức là nói viên ngọc ấy, ông ta đã hiểu rõ như
thế. Tất nhiên là viên ngọc ấy vẫn có lai lịch. Vả lại chồng con khi sinh ra đã
ngậm sẵn viên ngọc trong miệng. Xưa nay các con có thấy người thứ hai nào như
thế không? Không biết sau này viên ngọc ấy sẽ ra sao! Cho đến cái anh này
cũng chưa biết rồi ra thế nào ! Dữ cũng do viên ngọc ấy, lành cũng do viên ngọc
ấy...
Nói đến đó, bà ta bỗng ngừng lại, bất giác lại chảy nước mắt.
Bảo Ngọc nghe xong, bụng cũng hiểu rõ, lại nghĩ đến việc mình
ngất đi một lúc, càng có nguyên do. Nhưng không nói gì trong bụng nhẩm lại rất
kỹ.
Bấy giờ Tích Xuân mới nói:
- Năm trước mất ngọc, nhờ sư Diệu ngọc cầu tiên có cho câu
thơ: “dưạ núi Thanh Ngạnh dựa câu thông”. Lại còn có câu: “Vào cửa ta đây gặp
nhau cùng”. Nghĩ lại ba chữ “vào cửa” ta cần đáng xét kỹ: “cửa nhà Phật rất lớn,
chỉ sợ anh Hai không vào được thôi.”
Bảo Ngọc nghe xong cười nhạt. Bảo Thoa nghe nói bất giác cau
mày sửng sốt. Vưu thị nói:
- Cô này mở miệng ra là nói đến cửa nhà Phật. Còn chưa chịu bỏ
ý muốn đi tu à?
Tích Xuân cười:
- Không dấu gì chị. Tôi không ăn mặn đã lâu.
Vương phu nhân bảo:
- A di đà Phật. Cháu ơi, nghĩ như thế không nên.
Tích Xuân nghe vậy cũng không nói gì.
Bảo Ngọc nhớ đến câu thơ: “một ngọn đèn xanh trước Phật bà”,
(2) rồi thở dài luôn mấy tiếng. Chợt lại nhớ đến những chữ “một chiếc chiếu, một
khóm hoa“, rồi đưa mắt nhìn Tập Nhân, bất giác chảy nước mắt.
Mọi người thấy Bảo Ngọc khi vui khi buồn, cũng không hiểu vì
sao, chỉ cho đó là bệnh cũ. Có biết đâu Bảo Ngọc vì đã biết những điều bí ẩn,
đã nhớ lại rành mạch nhưng câu thơ xem trộm trong các quyển sổ. Tuy không nói
ra, nhưng trong lòng đã có ý định sẵn.
Người trong nhà thấy Bảo Ngọc chết rồi sống lại, tinh thần
sáng suốt, lại uống thuốc luôn mấy hôm, nên mỗi ngày một khá. Dần dần bình phục
như cũ. Còn Giả Chính trông thấy Bảo Ngọc đã khỏi, hiện nay đang nghỉ ở nhà chịu
tang cũng còn rảnh việc; nghĩ lại Giả Xá chưa biết lúc nào được thăm linh cữu của
mẹ đã để lâu trong chùa. Vẫn không đành lòng, nên muốn rước linh cữu về miền
Nam để an táng. Giả Chính liền gọi Giả Liễn đến để bàn. Giả Liễn thưa:
- Chú nghĩ rất phải. Nay nhân dịp chịu tang, làm xong được việc
lớn ấy càng hay. Nếu để đến sau này, chú lại ra làm quan, có lẽ sẽ không làm được
vừa ý. Chỉ có điều cha cháu không ở nhà, mà cháu lại không dám vượt quyền. Ý định
của chú rất hay; nhưng muốn lo liệu việc ấy thì phải cần đến mấy nghìn lạng bạc.
Nếu chỉ chờ nha môn tra ra của mất trộm thì không thể tra ra ngay được đâu.
- Ý ta đã định rồi. Chỉ vì anh Cả đi vắng nên gọi cháu đến
bàn xem nên làm thế nào. Cháu thì không thể đi ra khỏi nhà được vì trong nhà
đây hiện giờ không có ai. Ta nghĩ mấy chiếc quan tài đều phải rước về. Một mình
ta làm sao trông nom cho xuể. Ta định đem cháu Dung đi, vì có cả quan tài vợ nó
cũng đưa theo. Lại còn quan tài của cháu Lâm nữa, theo lời bà trối lại, bảo phải
đem theo đi với bà. Còn số tiền ấy thì ta nghĩ chỉ cần mượn tạm đâu đó mấy
nghìn cũng cũng đủ.
- Nhân tình bây giờ rất là tệ bạc, chú thì đang về nghỉ chịu
tang; cha cháu thì còn ở ngoài. Thực cháu không thể vay mượn vào đâu được. Chỉ
còn cách đem khế tờ nhà đất đi cầm mà thôi.
- Nhà cửa chúng ta ở đây đều do của công xây dựng; động đến
sao được?
- Nhà ở đã đành không thể động đến được. Nhưng còn mấy sở nhà
ở ngoài, có thể đem cầm tạm, đợi sau chú ra làm quan sẽ chuộc lại cũng được. Hoặc
là sau này cha cháu trở về, nếu được bổ dụng nữa thì cũng có thể chuộc lại. Chỉ
ngại một điều là chú tuổi tác như thế mà chuyến đi này rất vất vả thì trong bụng
cháu không đành !
- Việc của bà nhất định phải làm. Chỉ cần cháu ở nhà cẩn thận
lo lắng việc nhà chu đáo là được.
- Xin chú cứ yên tâm. Cháu tuy ngu dại, nhưng cũng quyết xin
hết sức lo liệu. Vả lại, chú về Nam, chắc cũng phải đem nhiều người đi. Người ở
nhà đây chẳng bao nhiêu, chỉ cần một số ít tiền cũng có thể xoay xở lo liệu. Nếu
đi đường thiếu tiền tiêu thì khi qua chỗ Lại Thượng Vinh làm quan, chú có thể bảo
anh ta giúp một ít.
- Việc của mẹ mình mà lại bảo người khác giúp làm gì?
Giả Liễn “dạ” rồi lui ra, thu xếp tiền bạc.
Giả Chính nói chuyện với Vương phu nhân, bảo ở nhà trông nom,
còn mình chọn được ngày tốt sẽ rước quan tài đi xa. Bảo Ngọc lúc ấy đã bình phục
như cũ. Giả Hoàn, Giả Lan cũng biết chăm học. Giả Chính dặn Giả Liễn phải để ý
trông nom:
- Năm nay vừa gặp khoa thi. Thằng Hoàn còn có tang, không vào
thi được. Thằng Lan là hàng cháu, hết tang cũng có thể đi thi. Cần phải nhắn nhủ
Bảo Ngọc đi thi với cháu, may đậu được một tên cử nhân cũng đủ chuộc lại tội lỗi
của chúng ta.
Giả Liễn vâng lời.
Giả Chính lại dặn dò những người ở nhà, nói thêm mấy câu rồi
đến bái biệt từ đường, sau đó ra ngoài thành, tụng kinh mấy hôm, rồi rước quan
tài xuống thuyền cùng bọn Lâm Chí Hiếu ra đi. Giả Chính không muốn làm phiền
các bà con bạn bè, chỉ có bọn đàn ông đàn hà trong phủ đi đưa một độ đường rồi
trở về.
Bảo Ngọc vì Giả Chính dặn bảo đi thi. Vương phu nhân thỉnh
thoảng cũng thúc giục và xét hỏi đến bài vở. Bọn Bảo Thoa,Tập Nhân thường thường
khuyên bảo, việc ấy không cần kể rõ. Nào ngờ Bảo Ngọc sau khi lành bệnh, tuy
tinh thần ngày càng khá hơn, nhưng ý nghĩ lại càng kỳ quặc, thay đổi khác hẳn.
Không những anh ta chán ghét công danh quan chức mà đến cả tình duyên đối với
con gái cũng lạt lẽo đi nhiều. Nhưng mọi người không ai để ý lắm. Bảo Ngọc cũng
không nói ra.
Một hôm Tử Quyên đi đưa linh cữu Đại Ngọc trở về, buồn bã ngồi
trong nhà khóc lóc, chị ta nghĩ bụng: “Bảo Ngọc thật vô tình ! Thấy quan tài cô
Lâm đưa về mà cũng không hề thương khóc. Thấy mình khóc lóc thế này cũng không
đến yên ủi lại nhìn mình mà cười. Con người phụ bạc ấy trước kia chỉ khéo tìm lời
ngon ngọt tán tỉnh mình. May mà đêm hôm nọ mình nghĩ vỡ lẽ ra được, nếu không
thì đã mắc lừa cậu ta rồi! Nhưng có một điều không sao hiểu rõ. Bây giờ cậu ấy
đối với bọn chị Tập Nhân cũng có vẻ thờ ơ, mợ Hai vốn là người không ưa vồn vã,
nhưng còn bọn Xạ Nguyệt lại không giận cậu ấy sao? Xem ra bạn gái phần nhiều
là bọn si ngốc, đã uổng phí tâm lực bấy lâu nay, sau này không biết rồi ra thế
nào?”...
Cô ta đang nghĩ thì vừa hay con Năm đến hỏi thăm. Thấy Tử
Quyên nước mắt dàn dụa. Con Năm liền hỏi:
- Chị lại khóc cô Lâm à? Người ta nói tai nghe không bằng mắt
thấy, quả là đúng. Trước kia, nghe tiếng cậu Hai đối với chị em bạn gái rất là
tốt. Mẹ tôi xin mãi mới đưa được tôi vào hầu. Không ngờ sau khi vào đây. Tôi đã
hết lòng hết sức hầu hạ những khi đau ốm, thế mà đến lúc lành bệnh, lại chẳng
được một câu nói tử tế nào. Bây giờ thậm chí cậu ấy không thèm nhìn đến tôi nữa!
Tử Quyên nghe con Năm nói buồn cười, liền cười và mắng:
- Con ranh! Mày muốn cậu Bảo đối đãi với mày như thế nào cơ?
Đồ con gái không biết xấu hổ. Người ta đường hoàng là người hầu trong nhà mà cậu
ấy còn xem như không, thì còn công hơi nào nhìn đến mày nữa?
Rồi cô ta lại cười, giơ đầu ngón tay quẹt vào má con Năm và hỏi:
- Rút cục mày là hạng người gì của Bảo Ngọc?
Con Năm nghe nói, biết mình lỡ lời, liền đỏ mặt lên. Nó định
nói là không phải mình muốn Bảo Ngọc đối đãi với mình như thế nào, mà chỉ muốn
nói gần đây anh ta không biết thương kẻ dưới. Bỗng nghe ngoài sân có tiếng kêu
lên:
- Ông sư lại đến ngoài kia đòi một vạn lạng bạc đấy. Bà lớn sốt
ruột bảo cậu Hai Liễn ra thương lượng với ông ấy, không may cậu Liễn lại đi vắng! Ông sư ở ngoài ấy nói nhiều chuyện điên rồ. Bà lớn bảo mời mợ Hai sang bàn.
Hồi 117:
Ngăn việc tu hành, hai gái đẹp cố giữ viên ngọc
Thích họp bạn xấu, một con hư coi giữ việc nhà
Vương phu nhân sai người đi mời Bảo Thoa sang để bàn. Bảo Ngọc
nghe nói có ông sư ở ngoài, một mình vội vàng chạy ra, gọi ồn lên:
- Sư phụ ở đâu?
Gọi một hồi lâu, không thấy vị hòa thượng, Bảo ngọc phải chạy
ra phía ngoài, thấy Lý Quý cản đường không để cho ông ta đi vào, liền nói:
- Bà lớn bảo ta ra mời sư phụ vào.
Lý Quý nghe nói buông tay ra, ông ta bèn ngất ngưởng đi vào.
Bảo Ngọc trông thấy hình dáng vị hòa thượng này giống hệt như
người mình đã trông thấy khi ngất đi, trong bụng đã hiểu một phần, liền đến trước
mặt kính chào, nói:
- Thưa sư phụ, đệ tử xin lỗi ra tiếp chậm.
- Ta không cần các người phải tiếp đón, chỉ cần đem số tiền
ra đây là ta sẽ đi.
Bảo Ngọc nghe giọng nói này không giống giọng nói của người
có đạo hạnh. Lại trông thấy ông ta khắp đầu chốc lở, đầy mình bẩn thỉu rách rưới,
bèn nghĩ thầm: “Người xưa nói - là chân nhân, thì không lộ tướng, lộ tướng
không phải là chân nhân. Nay ta đã gặp thì không nên bỏ lỡ. Ta cứ nhận đưa số bạc
tạ ông ta để thử dò ý định ông ta như thế nào.” Rồi anh ta nói:
- Sư phụ không cần nóng vội, thân mẫu của đệ tử đang lo liệu
số tiền. Mời sư phụ ngồi chở một lát. Đệ tử xin hỏi - có phải sư phụ từ Thái hư
ảo cảnh đến đây không?
- Ảo cảnh nào? Chẳng qua là đến từ chỗ đến, đi từ chỗ đi mà
thôi. Ta là người đưa trả viên ngọc. Vậy ta hỏi anh - viên ngọc ấy ở đâu mà đến?
Bảo ngọc trong chốc lát không thể trả lời được. Nhà sư cười:
- Anh chưa biết từ đường nào đến đây, sao còn hỏi tôi. Bảo Ngọc
vốn thông minh, lại từng được phép giác ngộ nên đã biết thấu cõi hồng trần, chỉ
còn số phận của mình là chưa biết rõ. Nay nghe ông ta hỏi đến viên ngọc, cảm thấy
như bị đánh một đùi trên đầu, nên trả lời:
- Sư phụ không cần hỏi đến số bạc nữa, để đệ tử đem viên ngọc
trả lại cho sư phụ.
Nhà sư cười nói:
- Cũng nên trả lại cho ta rồi đấy.
Bảo Ngọc không đáp, chạy vào trong nhà, đến phòng mình, thấy
Bảo Thoa và Tập Nhân còn sang bên Vương phu nhân, vội đến bên giường lấy viên
ngọc rồi đi ra thì chạm phải Tập Nhân. Tập Nhân giật mình nói:
- Bà bảo cậu ngồi tiếp ông sư là phải. Bà ở bên nhà thu xếp số
bạc để đưa cho ông ta. Sao cậu lại vào đây làm gì?
- Chị mau mau đến trình bà, không cần sửa soạn số bạc, tôi cứ
đem viên ngọc trả lại cho ông ta là xong.
Tập Nhân nghe vậy vội giữ lấy Bảo Ngọc nói:
- Không được đâu? Viên ngọc ấy tức là bản mệnh của cậu, nếu
ông ấy mang đi thì cậu lại ốm thôi.
- Giờ tôi không đau ốm nữa đâu. Tôi đã có quả tim rồi, còn
dùng viên ngọc ấy làm gì.
Bảo Ngọc đẩy Tập Nhân rồi muốn chạy đi. Tập Nhân hoảng hốt vội
kêu lên:
- Thì cậu hãy trở lại để tôi nói với cậu một câu đã?
Bảo Ngọc quay cổ lại bảo:
- Chẳng phải nói gì nữa.
Tập Nhân không ngần ngại gì nữa, vừa chạy theo vừa gọi to
lên:
- Lần trước mất viên ngọc, tí nữa là mất cả mạng tôi, rồi mới
tìm thấy nó đấy. Nay cậu lại mang đi à. Thế thì cậu không sống được mà tôi cũng
chết mất? Cậu muốn đem trả ngọc cho ông ấy thì hãy bắt tôi chết đi đã!
Nói xong. Tập Nhân chạy theo giữ lại. Bảo Ngọc điên tiết lên,
bảo:
- Chị chết haykhông cũng phải trả.
Rồi Bảo Ngọc thục mạng quay mình định chạy. Nhưng Tập Nhân
hai tay cứ ôm lấy thắt lưng Bảo Ngọc, không chịu buông, vừa khóc vừa kêu, ngồi
xệp xuống đất. Các a hoàn trong nhà nghe vậy, vội vàng chạy ra, trông thấy bộ dạng
hai người rất
là ghê gớm, lại nghe Tập Nhân khóc và kêu:
- Mau đi trình với bà lớn? Cậu Bảo định đem viên ngọc đi trả
cho ông sư đấy!
A hoàn liền chạy ngay đi báo Vương phu nhân. Bảo Ngọc lại
càng tức tối, ra sức bẻ tay Tập Nhân, nhưng Tập Nhân vẫn cứ cố cắn răng không
chịu thả. Tử Quyên ở trong nhà nghe nói Bảo Ngọc định đem viên ngọc đi trả thì
hoảng hốt hơn ai hết, tuy ngày thường chị ta tỏ ra lạnh nhạt với Bảo Ngọc.
Nhưng lúc ấy quên đi đâu mất, vội vàng đến giúp sức ôm ghì lấy Bảo Ngọc. Bảo Ngọc
tuy là con trai, đã cố sức giằng ra, nhưng bị hai người liều chết ôm chặt không
thả, nên cũng khó thoát. Anh ta liền than thở:
- Chỉ vì một viên ngọc mà các chị đều chết giữ lấy như thế. Nếu
chính thân tôi bỏ đi thì các chị sẽ làm thế nào.
Tập Nhân và Từ Quyên nghe nói, bất giác khóc oà lên. Trong
lúc đang giằng co như vậy thì Vương phu nhân và Bảo Thoa vội vàng chạy đến. Thấy
quang cảnh ấy, Vương phu nhân khóc và quát:
- Bảo Ngọc! mày điên rồi à?
Bảo Ngọc thấy Vương phu nhân đến, biết không thể thoát, liền
đấu dịu cười và nói:
- Có gì cái chuyện ấy mà mẹ phải nóng nảy. Các chị ấy cứ làm
nhớn nhác lên như thế đó thôi. Con nghĩ ông ấy không biết nể nang, cứ đòi một vạn
lạng bạc, thiếu một lạng cũng không được. Con đâm tức, chạy về lấy viên ngọc định
trả cho ông ta và sẽ nói đó là viên ngọc giả không dùng làm gì. Ông ấy thấy ta
không quý viên ngọc thì ta có thể tùy trả cho ông ấy bao nhiêu cũng xong.
- Ta tưởng mày muốn đem trả cho ông ấy kia. Thế thì cũng được.
Nhưng sao không nói rõ cho chúng nó biết, để chúng nó kêu khóc ầm lên như thế
còn ra thể thống gì nữa.
Bảo Thoa nói:
- Cậu nói như vậy cũng được, chứ nếu đem viên ngọc trả cho
ông sư thì không nên, xem ra ông ta cũng hơi kỳ quặc. Lỡ trả cho ông ta rồi,
trong nhà xảy ra không yên, như thế chẳng lại sinh ra lắm chuyện! Còn như số bạc
thì cứ đem những đồ trang sức của tôi cầm bán cũng còn đủ.
Vương phu nhân nghe vậy nói:
- Thế cũng được, cứ làm như vậy.
Bảo Ngọc cũng không nói lại, Bảo Thoa đến cầm lấy viên ngọc
trong tay Bảo Ngọc và nói:
- Cậu cũng không cần đi ra, để tôi cùng mẹ đem bạc ra cho ông
ta là xong.
Bảo Ngọc nói:
- Viên ngọc không trả cho ông ta thì thôi, nhưng tôi cần phải
gặp mặt ông ta một lần nữa mới được.
Bọn Tập Nhân vẫn không chịu buông ra. Cuối cùng, Bảo Thoa cả
quyết nói:
- Cứ buông ra để mặc cho cậu ấy đi.
Tập Nhân đành phải buông ra. Bảo Ngọc cười:
- Té ra các chị chỉ trọng viên ngọc chứ không trọng người!
Các chị buông tôi ra, tôi sẽ theo ông sư đi, xem các chị cứ giữ lấy viên ngọc,
rồi sẽ ra sao?
Tập Nhân trong bụng hoảng sợ, muốn giữ Bảo Ngọc lại, nhưng vì
trước mặt Vương phu nhân và Bảo Thoa, không tiện tỏ ra liều lĩnh. Vừa lúc đó, Bảo
Ngọc được buông ra, liền bỏ chạy. Tập Nhân vội gọi a hoàn nhỏ ra cửa ngoài truyền
lại cho bọn Bồi Dính:
- Phải dặn ngoài kia trông nom cậu Hai. Cậu ấy hơi điên đấy?
A hoàn nhỏ vâng lời đi ra.
Vương phu nhân và Bảo thoa vào ngồi, hỏi Tập Nhân đầu đuôi ra
sao. Tập Nhân bèn kể lại tỉ mỉ những câu nói của Bảo Ngọc. Vương phu nhân và Bảo
Thoa rất là áy náy, lại bảo ra dặn mọi người phải lắng nghe xem vị hòa thượng
nói những chuyện gì. Một lúc, a hoàn nhỏ vào trình với Vương phu nhân:
- Cậu Hai quả là điên rồi! Các chú hầu nhỏ ngoài kia kể lại
- trong nhà không chịu giao viên ngọc, cậu ấy không biết làm sao. Bây giờ cậu ấy
tự đi ra, xin ông sư đem cậu ta đi.
Vương phu nhân nghe xong, nói:
- Thế sao được! Ông sư ấy còn nói những gì?
- Ông sư bảo cần viên ngọc chứ không cần người.
Bảo Thoa hỏi:
- Lại không đòi bạc nữa à?
- Không nghe nói. Sau rồi ông sư cùng cậu Hai vừa nói vừa cười,
có nhiều chuyện lắm, nhưng các chú hầu nhỏ ngoài kia đều không hiểu hết.
Vương phu nhân nói:
- Đồ ngu? Nghe không hiểu chứ kể lại thì kể được chứ.
Rồi bảo a hoàn nhỏ:
- Mày đi gọi tên hầu nhỏ ấy vào đây.
A hoàn nhỏ vội đi gọi tên hầu nhỏ ấy vào. Nó đứng dưới hành
lang từ ngoài cửa sổ chào Vương phu nhân. Vương phu nhân liền hỏi:
- Vị hòa thượng và cậu Hai nói chuyện với nhau, chúng mầy
không hiểu, chứ kể lại cũng không kể được à?
Tên hầu nhỏ thưa:
- Chúng con chỉ nghe nói mấy tiếng như núi “Đại Hoang”. đỉnh
“Thanh Ngạnh” và “Cõi Thái hư”, cắt đứt trần duyên” gì gì đó...
Vương phu nhân nghe cũng không hiểu. Bảo Thoa nghe xong khiếp
sợ, trợn trừng trợn trạc, không nói ra được nửa lời.
Bảo Thoa đang định cho người dắt Bảo Ngọc vào, thì vừa thấy Bảo
Ngọc cười hớn hở đi vào nói:
- Tốt rồi! Tốt rồi!
Bảo Thoa vẫn còn sửng sốt. Vương phu nhân hỏi:
- Mày điên điên dại dại nói những câu gì thế?
- Con nói đứng đắn. Mẹ lại bảo là điên. Ông ấy nguyên cớ kiếm
con, chẳng qua ông ta muốn đến thăm con đó thôi. Có phải ông ta thật đến đòi bạc
đâu? Ông ta chỉ đến bố thí cái thiện duyên đấy thôi. Vì thế sau khi nói rõ,
ông ta liền vùn vụt ra đi, thế không phải là tốt rồi à.
Vương phu nhân không tin, lại từ trong cửa sổ hỏi tên hầu nhỏ.
Tên ấy vội vàng chạy ra hỏi người gác cửa rồi vào trình:
- Ông ấy đi thực rồi và có dặn lại xin bà cứ yên tâm. Ông ấy
không cần số bạc, chỉ cần cậu Hai thường năng tới chỗ ông ấy là được. Mọi việc
đều phải tùy theo “nhân duyên”, đã có cái lẽ nhất định.
Vương phu nhân nói:
- Thế ra ông ấy lại là một ông sư phúc đức! Chúng mày có nhớ
ông ấy ở đâu không?
Người canh cửa nói:
- Cháu đã hỏi thì ông ta nói cậu Hai nhà ta có biết đấy.
Vương phu nhân liền hỏi Bảo Ngọc:
- Vậy ông ta ở chỗ nào?
Bảo Ngọc cười:
- Chỗ ấy bảo xa thì xa. Bảo gần thì gần.
Bảo Thoa không đợi Bảo Ngọc nói hết, liền bảo:
- Cậu hãy tỉnh lại chứ? Đừng quá mê mẩn! Lâu nay bà và mẹ chỉ
thương một mình cậu, cha lại còn bảo cậu lo theo đòi để lập công danh nữa đấy.
Bảo Ngọc đáp:
- Chuyện tôi vừa nói không phải là công danh à? Các người
chưa biết “một người con cháu đi tu, bảy ông tổ được lên chầu trời” hay sao?
Vương phu nhân nghe đến đó, bất giác đau lòng nói:
- Vận nhà chúng ta không biết rồi sẽ ra sao. Con Tư đã luôn
miệng đòi đi tu, bây giờ lại thêm một thằng nầy nữa. Đời ta như thế này, còn sống
để làm gì!
Bà ta nói xong, khóc òa lên. Bảo Thoa thấy Vương phu nhân
thương tâm, đem hết lời khuyên giải. Bảo Ngọc cười:
- Con nói đùa một câu mà mẹ lại cho là thực.
Vương phu nhân mãn khóc hỏi lại:
- Những câu mầy nói đều là nói bậy cả chứ?
Đang lúc ồn ào, bỗng thấy a hoàn vào trình:
- Cậu Hai Liễn đã về, nhìn sắc mặt đổi hẳn. Cậu ấy bảo mời bà
đến để thưa chuyện.
Vương phu nhân lại sợ hãi, bảo:
- Cứ mời anh ấy vào đây. Cô em dâu cũng là họ hàng cũ, không
cần phải tránh.
Giả Liễn vào chào hỏi Vương phu nhân. Bảo Thoa cũng ra chào,
hỏi thăm Giả Liễn. Giả Liễn thưa:
- Cháu vừa mới tiếp được bức thư của cha cháu, nói bị ốm rất
nặng, bảo cháu đi ngay, nếu chậm thì e không được gặp mặt.
Hắn nói đến đó, liền rơi nước mắt.
Vương phu nhân hỏi:
- Trong thư nói đau bệnh gì?
- Lúc đầu do cảm mạo phong hàn, nay đã thành ra bệnh lao. Hiện
rất nguy cấp, nên cha cháu sai một người đi suốt ngày đêm về đây báo, nếu cháu
còn chần chừ một vài ngày thì sẽ không được gặp mặt. Giờ cháu đến trình thím,
cháu thế nào cũng phải đi. Chỉ có điều là trong nhà không có ai trông nom.
Cháu Tường, cháu Vân tuy dại dột, nhưng cũng là đàn ông, khi có việc gì ở
ngoài, chúng nó còn có thể truyền lời vào được. Còn trong nhà cháu thì cũng chẳng
có chuyện gì. Con Thu Đồng ngày nào cũng kêu khóc, không muốn ở lại, cháu đã
cho người đi gọi người nhà mẹ nó đem nó về. Như vậy thì Bình Nhi cũng đỡ tức tối.
Tuy cháu Xảo không có người chăm nom, nhưng may còn có Bình Nhi là người không
đến nỗi hư hỏng. Cháu Xảo cũng thông minh, nhưng tính khí bướng bỉnh hơn cả mẹ nó.
Mong thím luôn luôn dạy bảo cho.
Hắn nói xong, quầng mắt đỏ lên, vội lấy cái khăn lụa buộc bao
cau trong lưng ra lau mắt. Vương phu nhân nói:
- Bà nội nó ở đấy mà lại gửi nhờ ta?
Giả Liễn nói khẽ:
- Thím nói thế thì tội cháu thật đáng chết. Không cần phải
nói gì cả, chỉ mong thím thương đến cháu là được.
Nói đoạn, hắn quỳ xuống. Vương phu nhân mắt đỏ lên nói:
- Anh hãy đứng dậy! Thím cháu chuyện trò với nhau sao lại
làm thế? Chỉ có một điều con cháu cũng đã lớn rồi, nếu bác có rủi ro thế nào
thì lại nhẹ nhàng cho nó. Khi gặp nhà môn đăng hộ đối đến hỏi thì phải đợi anh
về, hay là do bác gái ở nhà làm chủ?
- Hiện có thím và mẹ cháu ở nhà, thì tất nhiên là do hai người
làm chủ, không cần đợi cháu.
- Anh cần phải đi thì viết ngay một tờ trình đưa tin cho chú,
nói rằng ở nhà đây không có người, bác lại chưa biết ra sao. Xin chú thu xếp việc
lớn giúp bà cho nhanh chóng rồi về nhà gấp.
Giả Liễn vâng dạ, đang định đi ra, nhưng lại quay trở vào
thưa:
- Số người hầu hạ của phủ ta, trong nhà còn đủ sai phái. Nhưng
bên vườn không có người, rất là trống trải. Bao Dũng đã đi theo chủ nó rồi. Tiết
Khoa đã dọn ra ở nhà riêng. Không ở cái nhà dì Tiết ở lúc trước. Một dãy nhà
trong vườn đều bỏ không, chẳng ai nhìn ngó. Thím nên thỉnh thoảng sai người dến
xem. Am Lũng Thúy nguyên là đất của phủ ta. Nay cô Diệu Ngọc không biết đi đâu
rồi. Bao nhiêu nhà cửa ở đó, ni cô giữ nhà cho Diệu Ngọc. không dám làm chủ, chỉ
mong có một người trong phủ đến trông coi.
- Việc của mình lo chưa xong, còn cáng lấy những việc khác
sao được. Việc này đừng để cho con Tư biết. Nếu nó nghe thấy lại om sòm lên,
đòi di tu đấy. Anh thử nghĩ gia thế chúng ta như thế nào? Mà để một cô con gái
đi tu thì còn ra sao nữa?
- Thím không nhắc đến thì cháu cũng không dám nói. Cô tư vẫn
là người của phủ Đông, cha mẹ không có; anh ruột lại phải đi ra tỉnh ngoài, chị
dâu cũng không nói nổi. Cháu nghe nói cô ta đã đòi chết đến mấy lần rồi. Bụng
cô ấy đã vậy, nếu cứ
khăng khăng giữ lại, sợ sau này cô ta chết thật thì tai hại
hơn là đi tu nữa đấy.
Vương phu nhân nghe xong gật dầu bảo:
- Việc ấy ta cũng khó gánh nổi. Ta không làm chủ được, chỉ
đành để mặc chị dâu nó thôi.
Giả Liễn lại nói thêm mấy câu nữa, rồi mới đi ra gọi người
nhà đến cắt đặt rõ ràng, viết một phong thư rồi thu xếp đồ đạc để lên đường. Bọn
Bình Nhi tất nhiên cũng có nhiều câu dặn dò. Riêng Xảo Thư thì đau xót vô cùng.
Giả Liễn lại muốn gửi cho Vương phu nhân trông nom. Nhưng Xảo Thư không thuận.
Cô ta lại nghe nói đã nhờ bọn Giả Tường, Giả Vân coi việc bên ngoài, trong bụng
càng khó chịu, nhưng không nói ra được. Cô ta đành phải tiễn cha đi rồi cùng sống
với Bình Nhi cho qua ngày tháng.
Phong Nhi và Tiểu Hồng từ khi Phượng Thư mất rồi, người thì
xin nghỉ, ngươi thì cáo bệnh. Bình Nhi muốn đón một cô nào trong phủ đến ở
chung, trước là để làm bạn với Xảo Thư. Sau nữa, để kèm cặp cô ta. Nhưng nghĩ
mãi không có người nào. Chỉ có Hỷ Loan và cô Tít là hai người trước kia được Giả
mẫu yêu chiều. Cô Tư thì vừa mới đi lấy chồng. Còn Ỷ Loan thì cũng đã có nơi,
không bao lâu sẽ phải về nhà chồng; nên Bình Nhi cũng đành chịu.
Giả Vân và Giả Tường tiễn chân Giả Liễn đi rồi, vào chào Hình
phu nhân và Vương phu nhân. Hai người thấy nhau ở thư phòng ngoài. Ban ngày thì
họ cùng bọn người nhà đùa nghịch, có lúc kéo bè bạn đến thay phiên nhau làm chủ
bữa tiệc thậm chí họp nhau đánh bạc, nhà trong làm sao mà biết được.
Một hôm cậu cả Hình và Vương Nhân đến trông thấy Giả Vân, Giả
Trang tại đó, biết rằng bọn họ vui nhộn nên cũng mượn tiếng trông nom dùm rồi
thường đến thư phòng ngoài bày trò đánh bạc, uống rượu. Trong số những người
nhà đứng đắn thì
Giả Chính đã đem đi mấy người. Còn mấy người theo Giả Liễn,
chỉ trơ lại con cháu các nhà họ Lại, họ Lâm mà thôi. Bọn thiếu niên ấy, nhờ ơn
cha mẹ, chỉ quen ăn uống chứ làm gì biết lo liệu việc nhà. Vả lại, cha anh của
họ đều đi vắng, nên họ như ngựa không cương. Đã thế lại có hai ông chủ xúi giục
thêm, thì chuyện gì mà họ không thích làm. Bọn chúng làm cho phủ Vinh thật là hỗn
độn. Chẳng còn kể đến trật tự, thể thống gì nữa.
Giả Tường muốn lôi kéo cả Bảo Ngọc. Giả Vân can:
- Cậu Bảo là người không có số tốt, đụng đến cậu ấy làm gì.
Năm kia tôi mách mối cho cậu ấy một nhà rất xứng đáng. Ông cha làm quan coi thuế
ở tỉnh ngoài, ở nhà gồm những mấy hiệu cầm đồ, còn cô con gái thì đẹp hơn tiên.
Tôi vội vàng viết một bức thư rất tỉ mỉ đưa cho cậu ấy. Nào ngờ cậu ta không có
số tốt...
Hắn nói đến đó, liếc nhìn hai bên thấy không có ai, lại tiếp:
- Bụng cậu ta đã trót gắn bó với thím Hai nhà mình rồi? Anh
chưa nghe nói đấy thôi. Còn cả cô Lâm nữa. Kết quả cô Lâm mắc bệnh tương tư mà
chết, ai cũng biết đấy? Việc ấy đã đành, cũng là do số phận cả. Không ngờ vì bức
thư ấy mà cậu ta giận tôi không để ý gì đến tôi. Cậu ấy xem chừng rồi đây biết
ai phải nhờ đến thể diện của ai?
Giả Tường nghe xong gật đầu, mới từ bỏ ý định của mình. Họ có
biết đâu Bảo Ngọc từ ngày gặp ông sư đã muốn cắt đứt trần duyên. Nhưng vì còn
có Vương phu nhân nên không dám làm theo ý muốn của mình. Tuy vậy, anh ta cùng
bọn Bảo Thoa, Tập Nhân đã không hòa hợp lắm. Bọn a hoàn không hiểu, còn muốn
khêu gợi cậu ta, nhưng Bảo Ngọc vẫn không thèm nhìn đến. Thậm chí cũng không
nghĩ gì đến việc nhà nữa. Vương phu nhân và Bảo Thoa vẫn thường khuyên bảo anh
ta đọc sách. Anh ta cũng làm bộ giả học, nhưng bụng chỉ nghĩ đến vị hòa thượng
đã dẫn anh ta đến cảnh tiên. Cho nên gặp ai anh ta cũng cho toàn là người tục cả.
Vì ở nhà khó chịu, Bảo Ngọc lúc rảnh lại đến Tích Xuân nói chuyện suông. Hai
người hợp ý nhau, nên ý nghĩ của anh ta lại thêm chắc chắn hơn. Do đó, không
còn để ý gì đến bọn Giả Hoàn, Giả Lan nữa.
Giả Hoàn nhân lúc cha không ở nhà, dì Triệu đã chết. Vương
phu nhân lại không để ý lắm, liền theo bọn Gia Tường. Chỉ có Thái Vân năng khuyên
can, nhưng lại bị Giả Hoàn mắng át. Ngọc Xuyến thấy Bảo Ngọc càng điên dại quá,
nên nói với mẹ, nói xin cho về. Bây giờ hai anh em Bảo Ngọc và Giả Hoàn mỗi người
một tính khí riêng, làm cho ai cũng chẳng buồn nhìn đến. Chỉ có Giả Lan thì
nghe lời mẹ, cố gắng đọc sách làm bài đưa đến nhà trường xin Đại Nho chấm hộ.
Vì gần đây Đại Nho già yếu chỉ nằm trên giường, nên anh ta đành phải chịu khó học
lấy Lý Hoàn vốn là người trầm lặng, ngoài việc đi thăm Vương phu nhân và qua lại
với Bảo Thoa thì không đi đâu một bước. Chỉ trông coi cho Giả Lan đọc sách
thôi. Vì vậy tuy số người trong phủ Vinh không phải ít. Nhưng người nào lo việc
người ấy, không ai chịu làm chủ ai cả. Giả Hoàn và Giả Tường thì càng bừa bãi,
không ra thể thống gì, thậm chí còn cầm vụng bán trộm lung tung. Giả Hoàn lại
chơi gái, đánh bạc, không việc gì là hắn không làm.
Một hôm cậu cả Hình và Vương Nhân đến uống rượu ở thư phòng của
phủ Giả. Trong lúc thích thú, hai người bảo mấy tên hầu rượu hát hò để mời rượu.
Giả Tường liền nói:
- Các ông chơi tục quá, để tôi ra một cái lệnh.
Mọi người nói:
- Cũng được.
Giả Tường nói:
- Chúng ta hò theo lôi “nguyệt tự lưu trường”, rồi sẽ nói trước
câu có chữ “nguyệt”, rồi đếm đến người nào thì người ấy uống rượu. Lại còn những
câu đầu câu cuối lúc uống rượu cũng phải theo người ra lệnh. Ai không đúng sẽ
phạt ba chén rượu lớn.
Mọi người đều bằng lòng. Giả Tường uống một chén rượu lệnh và
đọc câu “phi vũ trường nhi túy nguyệt” (cất chén lên say với bóng trăng). Rồi
theo thứ tự đếm đến Giả Hoàn.
Giả Tường nói:
- Câu đầu phải có chữ “quế”.
Gả Hoàn liền đọc:
-Lãnh lộ ô thanh thấp quế hoa” (sương lạnh không có tiếng làm
ướt hoa quế) - Nhưng còn câu cuối?
Giả Tường nói:
- Phải đọc câu có chữ “hương”.
Giả Hoàn đọc:
- “Thiên hương vân ngoại phiêu” (hương trời bay bổng ngoài tầng
mây).
Cậu cả Hình nói:
- Chán lắm! Chán lắm? Các anh biết được mấy chữ, lại giả
làm bộ văn nhân. Cách ấy không được vui lại làm khó cho người ta. Chúng ta hò lệnh
ấy đi, chỉ chơi đánh toan là bỏ. Người thua phải uống rượu, lại phải hát. Như
thế gọi là “khổ trong cái khổ”. Nếu không ai biết hát thì nói câu chuyện vui cười
cũng được chỉ cần cho vui thôi.
Mọi người đều nói:
- Được đấy!
Mọi người đều đưa tay ra đánh toan ầm ì. Vương Nhân bị thua,
uống một chén rượu, lại hát một bài. Mọi người đều bảo “được!”. Rồi lại đánh
toan nữa. Tên hầu rượu thua, hát câu, “tiểu thư, tiểu thư nhiều duyên dáng”gì ấy.
Sau hết, cậu cả Hình thua, họ bắt ông ta hát một bài. Ông ta nói:
- Tôi hát không được. Để tôi nói chuyện vui cười thôi.
Giả Tường nói:
- Nếu nói chuyện mà người ta không cười được thì anh bị phạt
đấy!
Cậu cả Hình liền uống một chén rượu rồi kể:
- Xin quý vị lắng nghe - trong thôn trang nọ có một tòa miếu
Huyền Đế bên cạnh lại có một ngôi đền thờ thần thổ địa. Đức Huyền đế thường gọi
thần thổ địa đến nói chuyện. Một hôm trong miếu Huyền đế mất tiền. Ngài liền gọi
thần thổ địa đến
hỏi. Thổ địa bẩm, “Trong xứ nầy không có kẻ trộm. Chắc là vì
các thần tướng không cẩn thận, để bọn thần ở ngoài đến lấy mất đồ đạc đấy
thôi.” Huyền đế bảo, “Nói vậy, nhà ngươi là thân thổ địa, mất trộm không hỏi
nhà ngươi thì còn hỏi ai? Nhà ngươi không đi lùng bắt kẻ trộm, lại nói thần tướng
của ta không cẩn thận à?” Thổ địa bẩm, “tuy cũng vì tôi không cẩn thận, nhưng
thực ra chỉ vì địa lý trong cái miếu không được hay.” Huyền đế bảo, “nhà ngươi
cũng biết xem địa lý à?” Thổ địa bẩm, “xin để tiểu thần xem thử”. Thần thổ địa
đi xem khắp nơi một lúc rồi trở vào bẩm, “sau lưng thần vị của ngài có hai cánh
cửa đỏ, thế là không cẩn thận. Còn sau lưng chỗ ngồi của tiểu thần thì có tường
xây, tất nhiên đồ vật không mất đi đâu được. Từ nay sau lưng thần vị của ngài
cũng nên đổi lại xây tường thì được chắc chắn”. Đức Huyền đế nghe nói có lý, liền
gọi thần tướng sai người đi xây tường. Các thần tướng than thở, “ hiện nay một
nén hương cũng không ai thắp, còn lấy đâu ra ngói gạch và nhân công để xây tường.”
Đức Huyền đế không biết làm sao, bảo các thần tướng kiếm cách, nhưng vị nào
cũng chịu. Lúc đó tướng rùa ở dưới chân Đức Huyền đế đứng dậy bảo, “các chú
không làm được trò trống gì? Ta định như thế này - các chú mở hai bức cửa đỏ
đem xuống, đến đêm thì lấy cái bụng của ta mà lấp vào lỗ cửa hở, không phải là
thành một bứ tường à?” Các thần tướng đều nói, “đã không tốn tiền lại vững chắc!” Thế rồi tướng rùa nhận lấy công việc ấy, trong miếu lại được yên tĩnh. Không
ngờ mấy hôm sau trong miếu ấy lại mất đồ đạc. Các thần tướng liền gọi thổ địa đến
hỏi, “ nhà người bảo xây được tường thì không mất đồ đạc nữa. Vì sao nay đã có
tường rồi vẫn cứ bị mất?” Thổ địa nói, “cái tường ấy xây không được vững chắc!”
Các thần tướng bảo, “Nhà ngươi thử xem”. Thổ địa đến xem thì đó quả là một bức
tường. Nhưng sao còn mất trộm ? Thổ địa liền giơ tay sờ một cái rồi nói: “Tôi cứ
tưởng là tường thật. Biết đâu lại là tường giả ! “ (Đây là một lối chơi chữ. Cậu
cả Hình lấy chữ “tường” ra chế diễu Giá Tường.) Mọi người nghe xong, cười ồ
lên. Giả Trang cũng không nhịn được cười, liền nói:
- Ông cả ngốc ơi ! Ông giỏi nhỉ? Tôi không chế diễu ông. Sao
ông lại chế diễu tôi Mau đưa chén rượu đây, phạt một chén lớn.
Cậu cả Hình uống xong, đã hơi say. Mọi người uống thêm mấy
chén nữa, đều say nhừ. Cậu cả Hình thì nói chuyện người chị mình không tốt.
Vương Nhân thì nói cô em mình hư. Rồi đều trách móc thậm tệ. Giả Hoàn nghe vậy
cũng nhân lúc hứng rượu nói Phượng Thư không ra gì, nào là cay nghiệt với chúng
tôi, nào là đạp lên đầu chúng tôi. Mọi người đều nói:
- Người ta ở đời. Cần phải có lòng nhân hậu. Xem như chị Phụng
của ông, nhờ thế cụ bà ghê gớm như thế. Đến nay cũng cụt đuôi rồi. Chỉ còn lại
một chút con gái, e cũng là báo ứng trước mắt đấy!
Giả Vân nhớ lại việc Phượng Thư đối đãi với mình không tử tế
lại nghĩ đến việc Xảo Thư hễ trông thấy mình là khóc, nên cũng luôn miệng nói hấy.
Chỉ có Giả Trang nói:
- Uống rượu đi thôi ! Nói chuyện người ta làm gì?
Hai người hầu rượu liền hỏi:
- Cô con gái ấy nay bao nhiêu tuổi? Nhan sắc ra sao?
Giả Tường nói:
- Nhan sắc thì tuyệt đẹp. Nó cũng đã mười ba mươi bốn tuổi rồi.
Người kia nói:
- Tiếng rằng người đẹp như thế mà lại sinh vào trong phủ này.
Nếu sinh một nhà thường dân, thì cha mẹ anh em đều được làm quan, mà lại phát
tài nữa kia.
Mọi người lại hỏi:
- Sao thế ?
Người kia nói:
- Nay có một đức vương ở tỉnh ngoài, là người rất đa tình, muốn
chọn một vị vương phi. Nếu cô nào làm ngài vừa ý thì cha mẹ anh em đều được đi
theo. Thế không phải là sung sướng hay sao?
Mấy người khác không ai để ý lắm, chỉ có Vương Nhân hơi động
lòng, nhưng vẫn cứ uống rượu. Bỗng thấy anh em họ Lại, họ Lâm từ ngoài đi vào
nói:
- Các ông, các cậu vui quá nhỉ?
Mọi người đứng dậy nói:
- Anh Cả, anh Ba. Sao bây giờ mới đến? Để chúng tôi chờ mãi.
- Sớm hôm nay nghe tin đồn, nói trong phủ chúng ta lại xảy ra
việc. Chúng tôi sốt ruột, liền đi dò la, thì ra không phải việc trong phủ ta.
Mọi người hỏi:
- Không phải việc trong phủ ta là được rồi. Vì sao lại không
đến ngay?
Hai người ấy nói:
- Tuy không phải là việc phủ ta, nhưng người ấy cũng có hơi
dính dáng đến chúng ta. Các vị có biết là ai không? Chính là ông Giả Vũ Thôn đấy.
Hôm nay chính tôi ra xem, thấy ông ta mang xiềng, nghe nói bị giải đến tòa tam
pháp để xét tội. Chúng tôi thấy ông ấy thoáng qua lại trong phủ ta. Sợ có việc
gì, nên đi theo để dò la xem sao ?
Giả Vân nói:
- Anh Cả để ý đến việc ấy là phải lắm. Anh hãy ngồi xuống uống
một chén đã rồi sẽ nói chuyện.
Hai người từ chối một lúc rồi mới ngồi uống rượu và nói tiếp:
- Ông Vũ Thôn ấy vẫn là tay cừ, có tài xoay xở, chức quan
cũng không phải nhỏ. Chỉ phải cái bệnh tham tiền, nên bị người ta tâu vua kể tội
sách nhiễu bọn thuộc hạ. Hiện nay đức hoàng thượng rất sáng suốt và nhân từ, chỉ
nghe nói đến tham, hoặc làm hại dân chúng, hoặc cậy thế lừa dối dân là người rất
giận, cho nên đã hạ chỉ truyền bắt xét hỏi. Nếu xét đúng sẽ nguy, nhưng không
có tang chứng, thì người ấy cũng sẽ không yên. Hiện nay là một thời buổi tốt,
chỉ cần có phúc làm được quan là sướng rồi.
Mọi người nói:
- Ông anh của anh là người có phúc, hiện làm tri huyện. Còn
không sướng à ?
Người họ Lại nói:
- Anh tôi tuy đã làm tri huyện, nhưng xem cách làm ăn của anh
ấy sợ chưa biết rồi sẽ ra sao ?
Mọi người hỏi:
- Anh ta cũng hay vòi vĩnh à.
Người họ Lại gật đầu rồi cầm chén rượu uống. Mọi người lại
nói:
- Còn nghe được chuyện gì mới lạ nữa không ?
- Không có việc gì khác, chỉ nghe nói bắt được nhiều tên kẻ
cướp ở ven biển và giải đến tòa tam pháp để xét tội. Sau đó xét ra có nhiều tên
ẩn nấp ở trong thành, dò la tin tức, rồi nhân lúc sơ hở vào cướp giật nhà người
ta. Bây giờ nghe đâu các vị quan to trong triều đều là văn hay võ giỏi, hết sức
báo đáp ơn vua. Cho nên các ngài đi đến đâu, đã trừ hết bọn cướp rồi.
Mọi người hỏi:
- Các anh nghe nói có bọn cưp ở trong thành. Không biết họ đã
tra ra vụ cướp trong phủ chúng ta hay chưa ?
Hai người kia trả lời:
- Vẫn chưa thấy gì. Nhưng nghe đâu có người đồn rằng có một
tên quê ở xứ nầy đã phạm tội ở trong thành, rồi bắt một người con gái chạy xuống
miền bể. Người con gái ấy không chịu theo, bị tên cướp giết chết. Tên cướp ấy
muốn chạy trốn ra ngoài cửa quan. Nhưng bị quan quân bắt lại và hành hình ngay
tại chỗ.
Mọi người nói:
- Cái cô Diệu Ngọc nào đó tu ở trong am Lũng Thúy của phủ ta,
chẳng phải đã bị người nào bắt đi đấy sao? Có phải người con gái bị bất ấy
chính là cô ta không !
Giả Hoàn nói:
- Chắc là cô ta !
- Sao cậu biết được ?
- Cái con Diệu Ngọc ấy thực đáng ghét. Suốt ngày nó hay làm bộ,
nhưng hễ thấy anh Bảo Ngọc là nó vui tươi hớn hở; có gặp tôi thì nó không thèm
nhìn. Nếu quả thực nó bị giết thì tôi cũng thỏa lòng !
Mọi người nói:
- Người bị bắt cũng nhiều. Sao lại chắc là cô ta ?
Giả Vân nói:
- Cũng có phần đáng tin. Hôm trước có người nói một đạo bà
trong am ấy nằm mộng thấy Diệu Ngọc bị người ta giết chết rồi.
Mọi người cười nói:.
- Chuyện chiêm bao ấy kể làm gì ?
Cậu cả Hình nói:
- Mặc họ mộng hay không mộng, chúng ta đi ăn cơm đi, rồi đêm
nay quyết sát phạt nhau một trận.
Mọi người bằng lòng, ăn cơm xong, họ mở cuộc sát phạt nhau rất
to. Đánh đến quá trống canh ba bỗng nghe phía trong kêu ồn lên:
- Cô Tư cùng mợ cả Trân cãi nhau. Cô ấy đã cắt hết mớ tóc rồi
chạy đến bên Hình phu nhân và Vương phu nhân lạy xin để cho cô ấy làm sư cô.
Xin ra ở một nơi khác, nếu không cho cô ấy đi tu thì cô dọa sẽ tự sát. Hai bà
không biết quyết định ra sao, bảo mới cậu Tường và cậu Vân vào trong nhà.
Giả Vân nghe nói biết việc này là do ý định của cô ta khi người
ta giao cho cô ta ở lại coi nhà một mình, và chắc là khuyên can không nổi, liền
bàn định với Giả Tường:
- Bà lớn gọi chúng ta vào. Nhưng chúng ta không làm chủ được
mà cũng chẳng chủ chiếc làm gì. Ta chỉ nên khuyên can, nếu không nghe thì để mặc
họ. Chúng ta chỉ nên bàn nhau viết một bức thư gửi cho chú hai Liễn. Thế là
tránh khỏi tai tiếng.
Hai anh bàn định xong rồi vào hầu hai bà, lại giả cách khuyên
can một lúc. Nhưng Tích Xuân cứ một mực đòi đi tu, nếu không được đi ra khỏi
nhà, cũng xin cho ở một gian nhà sạch sẽ, để tụng kinh niệm Phật.
Vưu thị thấy hai người không dám làm chủ, lại sợ Tích Xuân tự
tử, nên đứng ra nói:
- Việc tội lỗi nầy tôi đành gánh hết. Người ta sẽ bảo tôi làm
chị dâu không rộng lượng với cô em chồng, để cô ta phải đi tu thế là hết chuyện? Cô ra ở ngoài thì quyết không được; nhưng ở lại trong phủ thì được. Trước mặt
hai thím đây cứ xem như là ý định của tôi vậy. Cháu Tường viết một bức thư gửi
cho cậu Trân và chú Liễn là được.
Bọn Giả Tường vâng lời chưa biết hai bà có thuận hay không?
Hồi 118:
Nhớ hiềm xưa ông cậu lừa gái nhỏ
Sợ nói nhảm, vợ hầu can chàng ngây
Hình phu nhân và Vương phu nhân nghe Vưu thị nói, biết không
thể giữ Tích Xuân được. Vương phu nhân đành nói:
- Cô muốn làm việc thiện. Đó là do cái duyên nợ từ kiếp trước.
Chúng tôi không thể giữ được. Chỉ có điều nhà ta thế nầy mà con gái đi tu, thì
còn ra thể thống gì nữa. Nay chị dâu cô đã bằng lòng cho cô đi tu cũng là việc
tốt. Nhưng ta còn muốn nói một câu. Cô không cần phải cắt tóc, đi tu chỉ cốt ở
lòng, chứ có phải ở tóc đâu? Cô xem cô Diệu Ngọc cũng là người đi tu đấy; không
biết cô ta vì sao động lòng phàm tục, nên mới xảy ra nông nỗi như thế ? Nếu cô
cứ một mực khăng khăng thì chúng tôi sẽ xem cái phòng tôi đây như là buồng tu của
cô. Cũng phải gọi những người hầu hạ cô đến hỏi xem ai muốn theo thì không được
nói đến việc lấy chồng, ai không theo thì sẽ định liệu. Tích Xuân nghe nói vậy,
khóc, lạy tạ hai bà Lý Hoàn và Vưu thị.
Vương phu nhân nói xong, liền hỏi bọn Thái Bình, ai muốn theo
cô đi tu. Bọn họ thưa:
- Các vị cắt ai thì người ấy đi.
Vương phu nhân biết là họ không thuận, đang muốn tìm người. Bấy
giờ Tập Nhân đứng sau lưng Bảo Ngọc cầm chắc Bảo Ngọc sẽ khóc to lên, không
khéo bệnh lại phát. Nào ngờ Bảo Ngọc lại nói:
- Thật là hiếm có!
Tập Nhân nghe vậy càng thêm đau xót. Bảo Thoa tuy không nói
gì. Nhưng gặp việc cũng để ý thăm dò, thấy Bảo Ngọc vẫn mê không tỉnh, đành chỉ
khóc thầm.
Vương phu nhân đang muốn gọi các a hoàn đến hỏi, thấy Tử
Quyên đến quỳ xuống thưa:
- Vừa rồi bà lớn hỏi các chị theo hầu cô Tư, ý bà lớn định thế
nào?
Vương phu nhân nói:
- Việc ấy ta bắt buộc sao được. Ai vui lòng đi cứ nói ra.
Tử Quyên thưa:
- Cô đi tu tất nhiên là do lòng thành của cô, chứ không phải
là do ý muốn của các chị. Cháu có lời xin trình với bà lớn. Không phải cháu có
ý chia rẽ các chị ấy đâu. Người nào có bụng của người ấy. Cháu đã hầu hạ cô Lâm
mấy lâu, cô ấy đối đãi với cháu thế nào, chắc bà lớn đã biết. Thực là ơn nặng
như núi, không biết lấy gì báo đáp. Cô ấy mất đi, cháu chỉ ân hận không chết
theo được. Đó là vì cô ta không phải người trong nhà này, mà cháu lại chịu ơn
chủ nhà nhiều quá, không thể làm thế được. Nay cô Tư đã muốn đi tu. Cháu xin
hai vị cho cháu được theo hầu cô Tư suốt đời. Không biết hai vị có y cho không
? Nếu được như vậy thì thực là phúc cho cháu.
Hai bà còn chưa trả lời. Bảo Ngọc nghe vậy, sực nhớ đến Đại
Ngọc, đau lòng chảy nước mắt. Mọi người còn muốn hỏi, thì anh ta đã cười ha hả
chạy lại thưa:
- Đáng lý con không nên nói. Nhưng vì Tử Quyên là người trước
kia nhờ mẹ sai đến hầu trong nhà con, nên con mới dám nói, xin mẹ y cho chị ấy,
để cái lòng tốt của chị ấy được trọn vẹn.
Vương phu nhân nói:
- Trước kia chị em mầy đi lấy chồng, thì mầy khóc lóc dở chết
dở sống. Nay thấy cháu Tư đi tu, mày không những không can, còn cho là việc tốt.
Bụng dạ mầy bây giờ ra thế nào ? Thực là ta không hiểu nổi.
Bảo Ngọc thưa:
- Việc cô Tư tu hành đã được các vị y cho rồi. Ý cô ấy cũng
đã nhất định. Nếu thế, thì con sẽ có lời trình với mẹ, nếu chưa nhất định thì
con không dám nói.
Tích Xuân nói:
- Anh Hai nói rõ buồn cười ! Rồi không nhất định, làm sao
chuyển được lòng các thím, tôi có thể nói như lời Tử Quyên. Nếu cho đi tu thì
phúc cho tôi. Nếu không cho, thì tôi chỉ liều chết. Chứ đâu sợ gì. Anh Hai muốn
nói gì cứ nói đi. Đây tôi cũng không phải tiết lộ điều bí mật gì đâu.
- Việc nầy cũng đã nhất định rồi. Tôi sẽ ngâm một bài thơ để
các người nghe.
Mọi người nói:
- Trong lúc người ta đang buồn đứt ruột đi. Anh lại làm thơ để
trêu người ta à?
- Không phải tôi làm thơ. Đây là bài thơ tôi đã xem thấy ở một
chỗ nào. Hãy lắng mà nghe.
Mọi người nói:
- Được. Anh cứ đọc đi. Nhưng không được luôn miệng nói nhảm đấy.
Bảo Ngọc cũng không phân trần gì, liền đọc lên:
- Biết ai hay xuân canh chóng giờ,
Thời trang dồi lấy áo cà sa.
Thương thay con gái ni là khuê các,
Một ngọc đón anh cạnh Phật đà.(!)
Lý Hoàn và Bảo Thoa nghe xong, lấy làm lạ, nói:
- Nguy rồi! Cậu này lại bị ma ám rồi?
Vương phu nhân nghe nói, lắc đầu than thở, rồi hỏi:
- Bảo Ngọc. Mầy thấy bài thơ ấy ở đâu?
Bảo Ngọc không tiện nói ra, liền thưa:
- Mẹ không cần hỏi. Con trông thấy ở một nơi nọ.
- Hôm trước mầy bảo là mầy nói chơi. Thế vì sao bỗng dưng lại
có bài thơ ấy. Thôi! Tao biết rồi. Tao làm thế nào bây giờ đây? Tao cũng hết
cách rồi, đành phải để mặc cho chúng bây đi thôi. Nhưng hãy đợi tao nhắm mắt
đã, rồi đứa nào cứ làm theo ý của đứa ấy!
Bảo Thoa tìm cách khuyên can Vương phu nhân. Nhưng trong bụng
đau như dao cắt, cầm lòng không nổi, cũng khóc òa lên. Tập Nhân đã khóc suýt ngất
đi, may có Thu Vân dìu lấy. Bảo Ngọc không khóc cũng không khuyên can, chỉ ngồi
yên. Giả Lan, Giả Hoàn nghe vậy liền bỏ đi ra. Chỉ có Lý Hoàn hết sức khuyên giải:
- Cũng vì chú Bảo thấy cô Tư đi tu, chắc là đau lòng quá,
không kịp suy trước nghĩ sau, mới nói ra những câu điên dại ấy. Điều đó không
có gì đích xác. Còn việc Tử Quyên xin mẹ có cho hay không, để bảo chị ấy đứng dậy.
Vương phu nhân nói:
- Có gì mà cho với không ? Dù sao thì chủ ý người ta đã định,
cũng không thể giữ lại được. Như thằng Bảo Ngọc nói, việc gì cũng đã có tiền định.
Tử Quyên nghe xong, gục đầu xuống lạy. Tích Xuân lạy tạ Vương
phu nhân. Tử Quyên cũng lạy Bảo Ngọc và Bảo Thoa. Bảo Ngọc niệm phật và nói:
- Thật là hiếm có ! Không ngờ cô lại đi trước!
Bảo Thoa tuy cứng rắn, nhưng cũng không giữ vững được. Tập
Nhân thì không ngại có Vương phu nhân đang ngồi trên, cứ nức nỡ khóc và nói:
- Tôi cũng bằng lòng theo cô Tư đi tu!
Bảo Ngọc cười:
- Chị cũng đi, có lòng tốt, nhưng chị không có cái phúc ấm
đâu!
Tập Nhân khóc, nói lại:
- Thế thì tôi sẽ chết mất.
Bảo Ngọc nghe vậy, lại thấy đau lòng, nhưng không nói ra được.
Bấy giờ đã đến canh năm, Bảo Ngọc mời Vương phu nhân đi nghỉ. Bọn Lý Hoàn đều
ra về. Bọn Thái Bình hãy tạm theo hầu Tích Xuân. Sau đó lấy ai sẽ hay. Tử Quyên
suốt đời hầu Tích Xuân không hề thay đổi.
Giả Chính rước linh cữu Giả mẫu theo đường về Nam, gặp lúc có
thuyền bè của quan quân đi đánh giặc về, kéo qua miền ấy. Đường sông mắc nghẽn,
thuyền không đi nhanh. Giả Chính sốt ruột. May sao nghe tin quan thống chế Trấn
Hải được chỉ triệu vào kinh. Giả Chính chắc Thám Xuân cũng theo về thăm nhà,
nên trong lòng đỡ bực bội. Chỉ có một điều là chưa biết rõ ngày lên đường, nên
cũng sốt ruột. Ông ta thấy số tiền đi đường không đủ, bất đắc dĩ viết thư sai
người cầm đến chỗ Lại Thượng Vinh, mượn năm trăm lạng bạc, dặn phải cho người
đón đường đưa bạc đến, để kịp tiêu dùng. Cách vài hôm sau, thuyền Giả Chính vừa
đi được hơn mười dặm, thì người nhà trở về, đưa bức thư của Lại Thượng Vinh,
trong thư kể tình cảnh túng thiếu và đưa đến năm mươi lạng bạc.
Giả Chính xem xong giận lắm, liền sai người nhà đem bạc và
thư trả lại cho Lại Thượng Vinh. Bảo anh ta không cần phải phiền lòng. Người
kia đành phải trở lại chỗ lại Thượng Vinh. Lại Thượng Vinh nhận được thư và số
bạc, trong bụng buồn bực, biết mình làm việc không chu đáo, liền thêm một trăm
lạng nữa, van nài anh kia mang về, và nhờ nói hộ ít lời. Không ngờ anh kia
không chịu mang đi, ném bạc lại dưới đất rồi ra về. Lại Thượng Vinh trong bụng
băn khoăn, liền viết thư về nhà bày tỏ với cha là Lại Đại, bảo ông ta tìm cách
xin nghỉ, rồi xin chuộc thân ra khỏi nhà chủ. Lại Đại nhờ bọn Giả Tường, Giả
Vân trình với Vương phu nhân xin cho ra. Giả Tường biết chắc không được. Hôm
sau, hắn bịa ra nói Vương phu nhân không cho. Lại Đại một mặt xin phép nghỉ việc,
một mặt sai người đến chỗ Lại Thượng Vinh, bảo anh ta cáo bệnh từ quan mà về.
Việc nầy Vương phu nhân không biết gì cả. Giả Vân nghe lời nói dối của Giả Tường,
trong lòng không còn mong gì nữa. Vả lại mấy hôm nay hắn đánh bạc lại thua mất
khá nhiều, không có gì mà trả, liền đến bàn với Giả Hoàn.
Giả Hoàn không có đồng tiền nào. Tuy trước kia dì Triệu có dành
dụm được ít nhiều, nhưng hắn đã tiêu xài hết sạch, thì còn giúp ai được. Hắn nhớ
đến việc Thượng Thư lúc trước đối đãi với mình khắc bạc. Nhân lúc Giả Liễn đi vắng,
hắn định làm hại Xảo Thư để cho hả giận. Hắn gọi Giả Vân đến, cố trách móc:
- Anh là hạng người nhiều tuổi, có việc kiếm được tiền thì bỏ
không dám làm. Lại di hại đến tôi là một thằng kiết.
- Chú Ba nói rõ buồn cười? Chúng ta chơi đùa một chỗ với
nhau. Có cách gì kiếm được tiền đâu?
- Không phải hôm trước có người nói đức vương ở tỉnh, ngài muốn
mua một nàng hầu à? Sao các anh không bàn với cậu Vương đem dâng Xảo Thư cho
ngài.
- Chú tôi nghe câu này sợ chú giận, đức vương bỏ tiền ra mua
người, đời nào nghĩ đến việc đi lại với bọn chúng ta. Giả Hoàn ghé vào tai Giả
Vân nói nhỏ mấy câu. Giả Vân gật đầu, nhưng cũng cho lời Giả Hoàn là chuyện trẻ
con không đáng kể.
Khi ấy vừa lúc Vương Nhân đến hỏi:
- Các anh bàn bạc chuyện gì đấy ? Định giấu tôi à ?
Giả Vân liền nói thầm về những chuyện Giả Hoàn vừa nói.
Vương Nhân vỗ tay bảo:
- Việc này quả là một việc tốt, lại có bạc đấy. Chỉ sợ các
anh không làm được thôi, nếu các anh dám làm, thì tôi đây là cậu ruột nó, cũng
làm chủ được. Cần nhất là cậu Hoàn phải nói với bà Cả, còn tôi cũng sẽ nói với
cậu Cả Hình. Khi các bà hỏi đến, các anh cứ kéo hùa nhau tán vào là xong.
Bọn Giả Hoàn định đâu vào đấy rồi, Vương Nhân liền đi kiếm cậu
cả Hình, còn Giả Vân đi trình với Hình phu nhân và Vương phu nhân, nói toàn những
chuyện tốt đẹp như hoa như gấm. Vương phu nhân nghe cũng xuôi tai, nhưng vẫn
không tin. Còn Hình phu nhân nghe nói cậu cả Hình đã biết rõ, trong bụng thích
lắm, liền cho người đi tìm ông ta đến hỏi. Ông nầy đã nghe lời Vương Nhân, và
cũng mong được chia số bạc, liền nói với Hình phu nhân:
- Đức Vương ấy quả là một người rất sang trọng. Nếu nhận lời
gả nơi ấy, tuy không phải là làm vợ chính, nhưng chắc sau khi cháu về nhà người
ta, thì anh nhà đây sẽ được phục chức, và thanh thế phủ ta sẽ lại rầm rộ.
Hình phu nhân vốn là người không biết suy trước nghĩ sau, mới
nghe ông cậu ngốc ấy nói lừa đã động lòng ngay, liền cho người đi mời Vương
Nhân đến hỏi. Hắn ta lại tán tỉnh thêm. Thế là Hình phu nhân sai người ra thúc
giục Giả Vân đi nói việc ấy. Vương Nhân lập tức bảo người đến chỗ công
quán đức vương để nói chuyện. Đức vương ấy không rõ đầu đuôi, liền sai người đi
xem mặt. Giả Vân lại luồn lọt nói riêng với người xem mặt:
- Việc này nguyên là giấu hết mọi người trong phủ, chỉ nói
người vương phủ đến xem mặt thôi. Chờ khi xong rồi, bà nội cô ta sẽ đứng làm chủ;
ông cậu ruột sẽ đứng làm mối, thì còn sợ gì.
Người xem mặt nhận lời. Giả Vân liền đưa tin cho Hình phu
nhân và trình với Vương phu nhân. Bọn Lý Hoàn và Bảo Thoa không rõ duyên cớ, chỉ
cho là việc tốt lành, nên đều mừng rỡ.
Một hôm quả có mấy người đàn bà đến. Họ đều ăn mặc lộng lẫy.
Hình phu nhân mời vào nói qua mấy câu chuyện suông. Họ biết Hình phu nhân là một
bà mệnh phụ, nên không dám khinh nhờn. Hình phu nhân vì là việc chưa chắc chắn,
nên không nói cho Xảo Thư biết, chỉ bảo có bà con đến thăm, và gọi Xảo Thư
ra chào.
Xảo Thư vẫn còn trẻ con, nên không để ý, liền theo bà vú đi
ra. Bình Nhi không đành lòng, cũng đi theo. Hai người ăn mặc theo lối trong
cung. Thấy Xảo Thư, họ liền nhìn khắp người, từ trên xuống dưới, rồi đứng dậy cầm
tay Xảo Thư nhìn lại một lượt. Họ ngồi một lúc rồi về. Xảo Thư thấy vậy, xấu hổ
trở về phòng buồn bực. Cô ta nhớ lại mình không có bà con nào như thế, liền hỏi
Bình nhi.
Bình Nhi thấy quang cảnh này đã đoán được tám, chín phần, chắc
là người đến xem mặt. Nhưng cậu Hai không ở nhà, bà Cả lại đứng làm chủ, vẫn
chưa rõ là người ở phủ nào. Nếu là nhà thông gia ngang hàng thì không thể có
cái lối xem mặt như thế. Nhìn qua bộ dạng mấy người ấy, không giống chính dòng
vương phủ ở đây, mà hình như hạng người ở ngoài. Bấy giờ chưa vội nói với cô ta
biết. Hãy dò la cho rõ ràng hãy hay.
Bình Nhi trong bụng để ý nghe ngóng. Các a hoàn và bà già lâu
nay ở dưới quyền Bình Nhi sai bảo, nên khi Bình Nhi hỏi đến, thì họ kể rõ hết cả
bao nhiêu tin đồn nghe được ở ngoài. Bình Nhi hoảng sợ, chưa biết định liệu ra
sao. Chị ta không cho Xảo Thư biết vội, rồi đến nói với Lý Hoàn và Bảo Thoa, nhờ
hai người trình với Vương phu nhân.
Vương phu nhân biết việc này không hay, liền nói rõ với Hình
phu nhân. Khốn nỗi H nh phu nhân cứ tin lời em và Vương Nhân, lại ngờ cho Vương
phu nhân không có lòng tốt, liền nói:
- Cháu nó đã lớn rồi. Hiện nay thằng Liễn không ở nhà, việc ấy
tôi vẫn làm chủ được. Vả lại ông cậu nó và cậu ruột nó đều đã nghe ngóng kỹ
càng chẳng lẽ lại không đích xác hơn người ngoài hay sao. Việc này dù sao tôi
cũng đã bằng lòng. Nếu có điều gì không hay, thì tôi và cháu Liễn cũng không
dám trách đến người khác.
Vương phu nhân nghe vậy, trong bụng giận thầm, miễn cưỡng
chuyện trò vài câu rồi ra về, nói lại với Bảo Thoa và rơi nước mắt. Bảo Ngọc
khuyên giải:
- Mẹ không nên lo phiền làm gì. Con xem việc ấy cũng không
xong đâu. Đó chẳng qua là do số phận của cháu Xảo Thư, xin mẹ đừng nghĩ đến là
xong.
Vương phu nhân nói:
- Hễ mày mở miệng ra là nói nhảm ? Người ta nói xong là họ sẽ
đón dâu về nhà ngay. Nếu sự việc đúng như lời Bình Nhi, thì anh hai Liễn mầy
sau nầy không trách ta hay sao ? Dù nó không phải cháu gái nhà mình, chỉ là con
của nhà thân thích đi nữa, cũng nên gả cho xứng đáng mới phải. Cô Hình Tụ Yên
là do chúng ta làm mối, gả cho cậu hai Tiết đấy. Họ ăn ở với nhau rất là hòa
thuận, như thế không tốt sao. Cô Bảo Cầm thì nhà họ Mai cưới về rồi, nghe nói
trong nhà ăn mặc đầy đủ, cũng rất tốt. Còn cô Sứ Tương Vân là do ông chú cô ta
đứng gả, lúc đầu cũng khá, nay chồng bị bệnh lao mà chết, cô ấy quyết chí ớ
góa, kể ra cũng khổ. Bấy giờ nếu đem cháu Xảo Thư gả nhầm cho người ta, thì thật
là ta đã xấu bụng với nó.
Đang nói chuyện thì Bình Nhi đến thăm Bảo Thoa và cũng để dò
la ý kiến của Hình phu nhân. Vương phu nhân thuật lại những lời của Hình phu
nhân. Bình Nhi đứng ngây người một lúc rồi quỳ xuống kêu van:
- Việc trăm năm của cô Xảo đều trông nhờ ở bà lớn cả ? Nếu
tin theo lời người ta thì không những suốt đời cô ấy chịu khổ mà đến khi cậu
Hai về đây cũng không biết ăn nói ra sao ?
Vương phu nhân nói:
- Cháu là người thông hiểu, đứng dậy ta nói cho mà nghe. Xảo
Thư vốn là cháu gái của bà Cả. Bà ấy đứng ra làm chủ. Ta ngăn cản sao được ?
Bảo Ngọc khuyên:
- Không ngại gì, chỉ cốt việc cho rõ ràng là được.
Bình Nhi sợ Bảo Ngọc điên dại, lại làm ồn lên, nên không nói
gì, chỉ trình với Vương phu nhân rồi ra về.
Vương phu nhân nghĩ lại buồn bực, cảm thấy đau lòng gọi a
hoàn đến đỡ, gắng gượng về nằm trong buồng, không gọi Bảo Ngọc và Bảo Thoa đến,
và nói:
- Ngủ một chốc là đỡ thôi.
Nhưng trong người lại cứ buồn bực. Nghe nói thím Lý đến chơi,
cũng không kịp tiếp. Giả Lan đến hỏi thăm và trình:
- Sớm hôm nay ông nội có sai người mang một bức thư về do bọn
hầu nhỏ ở ngoài đưa vào. Mẹ cháu nhận được, định sang hầu, nhân có bà thì cháu
đến chơi nên bảo cháu đem thư trình bà trước, lát nữa mẹ cháu xin sang hầu bà.
Mẹ cháu còn bảo bà thím cháu cũng định sang thăm. Nói xong, hắn đưa bức thư
lên.
Vương phu nhân vừa cầm thư vừa hỏi:
- Bà thím của cháu đến có việc gì?
- Cháu cũng không biết rõ. Chỉ nghe bà thím cháu nói, bên nhà
mẹ chồng dì Ba cháu có đưa tin gì đến.
Vương phu nhân nghe xong, nhớ lại lần trước mình nói dùm để dạm
Lý Ỷ cho Chân Bảo Ngọc. Sau đó đã đưa đi lễ hỏi. Chắc là bây giờ bên nhà họ
Chân muốn đón dâu về, cho nên thím Lý đến đây bàn. Bà ta gật đầu, và bóc thư
ra, thấy trong thư viết: “Gần đây trên các đường sông đều đầy cả thuyền của
quan quân len bể đi đánh giặc về nên không thể vượt lên đi nhanh được. Nghe con
Thám Xuân sẽ theo cha chồng và chồng về kinh, không biết đã có tin chưa ? Trước
đây tiếp được giấy trình của cháu Liễn, biết rằng ông Cả không được khỏe mạnh,
nhưng cũng không biết đã có tin gì đích xác chưa ? Bảo Ngọc và cháu đã gần đến
kỳ thi, cần phải chăm chỉ học, chớ có lười biếng. Sau khi rước linh cữu của mẹ
về nhà rồi tôi còn phải ở lại ít ngày. Tôi vẫn mạnh khỏe, không cần phải để ý
lo nghĩ. Thư nay truyền cho bọn Bảo Ngọc biết. Sau đó là ngày tháng và chữ ký,
và viết thêm: “ Giả Dung sẽ có thư riêng “.
Vương phu nhân xem xong, đưa lại cho Giả Lan và đặn:
- Cháu cầm đến đưa cho chú Hai xem, rồi giao lại cho mẹ cháu.
Đang nói thì Lý Hoàn cùng thím Lý đến hỏi thăm. Vương phu
nhân mời ngồi. Thím Lý kể lại việc nhà họ Chân muốn cưới Lý Ỷ. Mấy người cùng
nhau bàn định một lúc. Lý Hoàn hỏi:
- Mẹ đã xem thư của cha gửi về chưa !
Vương phu nhân nói:
- Đã xem rồi.
Giả Lan cầm thư đưa cho mẹ. Lý Hoàn xem thư rồi nói:
- Cô Ba về nhà chồng đã mấy năm rồi, vẫn chưa về thăm nhà;
nay sắp sửa vào kinh, chắc mẹ cũng được yên lòng.
Vương phu nhân nói:
- Ta đau lòng, nay con Thám Xuân sắp trở về. Trong bụng cũng
đỡ nhớ, nhưng không biết bao giờ nó mới tới.
Thím Lý hỏi thăm sức khỏe của Giả Chính trong lúc đi đường.
Lý Hoàn ngoảnh lại bảo Giả Lan:
- Con đã thấy chưa ? Kỳ thi gần đến nơi. Ông con lo nghĩ như
thế đấy. Con cầm ngay bức thư đưa cho chú Hai xem.
Thím Lý nói:
- Hai chú cháu nó chưa vào trường giám, làm sao đi thi được ?
Vương phu nhân nói:
- Ông nó khi sắp đi nhận chức quan lương đạo, đã nộp tiền
giám sinh (1) cho cả hai chú cháu nó rồi.
Thím Lý gật đầu. Giả Lan liền cầm bức thư đi tìm Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc đưa Vương phu nhân về, đang ngồi nghiền ngẫm “thiên
thu thủy”(2). Bảo Thoa ở trong đi ra, thấy anh ta xem sách có vẻ say mê. Đến
nhìn mới biết quyển sách này, trong bụng rất là buồn bực. Nàng nghĩ thầm: “Cậu
ta cứ cho những chuyện lánh đời né tục là việc quan trọng. Cứ cái tình hình này
thì thật không ổn !” Nhìn thấy thế, Bảo Thoa biết là không khuyên nổi, liền ngồi
lại bên người Bảo Ngọc, cứ nhìn sửng sốt, Bảo Ngọc thấy thế, liền hỏi:
- Mợ sao thế ?
- Tôi nghĩ cậu cùng tôi đã kết nghĩa vợ chồng, thì cậu là người
tôi nương tựa suốt đời, vốn không phải chỉ vì lòng tình dục. Chuyện vinh hoa
phú quý, chẳng qua cũng thoáng qua như mây khói mà thôi. Nhưng các bậc thánh hiền
đời xưa, vẫn xem phẩm cách con người là chính.
Bảo Ngọc chưa nghe hết, đã đặt quyển sách xuống mỉm cười:
- Nghe mợ nói về phẩm cách con người, lại nhắc đến thánh hiền
đời xưa gì đó. Mợ biết thánh hiền đời xưa có nói câu “chớ làm sai tấm lòng đứa
trẻ mới sinh” hay không ? Đứa trẻ mới sinh có gì đáng quý ? Chẳng qua chỉ vì nó
không hiểu, không biết, không tham, không ghét mà thôi. Chúng ta sinh ra
đã đắm đuối trong vòng tham, giận, ngây, yêu. Chẳng khác gì bùn lầy. Làm thế
nào thoát khỏi cái lưới ấy của cõi trần. Cho hay người xưa tuy đã nói qua bốn
chữ “tụ tán phù sinh” (3). Nhưng chưa làm cho một ai tỉnh ngộ cả. Đã muốn nói về
nhân phẩm thì thử hỏi ai là kẻ đạt được cái trình độ sơ sinh ?
- Cậu đã nói đến “tấm lòng đứa trẻ”, thì nên biết thánh hiền
đời xưa cho rằng trung hiếu chính là tấm lòng đứa trẻ, chứ không phải tránh đời
xa người, không chỉ vương vấn vào cái gì mới là tấm lòng đứa trẻ. Các bậc thánh
hiền như Nghiêu, Thuấn, vua Thang, Chu Công, Khổng Tử, lúc nào cũng nghĩ đến cứu
dân giúp đời. Gọi là tấm lòng đứa trẻ. Không qua tóm tắt trong hai chữ “bất nhẫn”
mà thôi. Còn theo lời cậu vừa nói, thì là nỡ lòng bỏ cả thiên luân, còn ra đạo
lý gì ?
Bảo Ngọc gật đầu cười:
- Nghiêu, Thuấn cũng không ép được Sào Phủ, Hứa Do. Võ Vương,
Chu Công cũng không ép được Bá Di Thúc Tề (4)
Bảo Thoa không đợi nghe hết câu, liền nói:
- Những câu nói ấy của cậu lại càng không đúng. Ai cũng là
Sào, Hứa, Di, Tề cả, thì sao đến nay người ta lại khen Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng
là bậc thánh biền ? Vả lại cậu ví mình như Di, Tề thì thật không đúng. Di, Tề
vì sinh vào cuối đời nhà
Thương, gặp phải nhiều việc khó xử, nên mới có cớ để trốn
tránh. Chứ bây giờ gặp đời vua thánh, nhà ta mấy đời đội ơn triều đình, cha ông
được hưởng biết bao điều sung sướng... Vả lại, cậu từ khi lọt lòng đến giờ, bà
trước kia và cha mẹ đều xem như một hòn ngọc quý. Cậu vừa nói những câu ấy, thử
nghĩ lại xem có đúng hay không.
Bảo Ngọc nghe xong, không trả lời, cứ ngẩng đầu lên mỉm cười.
Bảo Thoa lại khuyên:
- Cậu đã đuối lý thì tôi khuyên cậu từ sau nên hồi tâm lại. Cố
sức học hành, nếu mà thi đậu, sau đó mà thôi, cũng không đến nổi uổng phí ơn trời
đức tổ ?
Bảo Ngọc gật đầu, than thở rồi nói:
- Thi đậu à, kể ra thì cũng không phải là việc gì khó đâu.
Nhưng những câu mợ nói “sau đó mà thôi” và “không uổng ơn trời đức tổ”, thì xem
ra cũng đúng đấy.
Bảo Thoa chưa kịp trả lời, thấy Tập Nhân đến nói:
- Vừa rồi mợ Hai nói đến các bậc thánh hiền đời xưa, tôi cũng
chẳng hiểu gì. Tôi chỉ nghĩ bọn chúng tôi khó nhọc vất vả theo hầu cậu Hai từ
thuở bé, hết sức lo lắng săn sóc. Nói đúng ra, đó vẫn là bổn phận phải làm,
nhưng cậu cũng nên xét lại một chút. Vả lại mợ Hai đã thay cậu giữ trọn đạo hiếu
đối với ông lớn và bà lớn. Dù cậu không để ý đến tình vợ chồng đi nữa, thì cũng
không nên phụ tấm lòng tốt của người ta. Còn chuyện thần tiên là câu chuyện
hoang đường, có ai mắt thấy vị thần tiên nào đi xuống cõi trần đâu ? Không biết
cái ông sư ấy ở đâu đến, nói nhảm mấy câu, mà cậu cho là thực. Cậu là người có
học, không lẽ coi lời nói của ông sư trọng hơn lời dạy của cha mẹ hay sao ?
Bảo Ngọc nghe xong, cúi đầu không đáp. Tập Nhân đang muốn nói
nữa, bỗng nghe phía ngoài có tiếng bước chân, rồi từ cửa sổ có tiếng hỏi vào: “
Chú Hai có ở nhà không?”
Bảo Ngọc nghe rõ liếng Giả Lan, liền đứng dậy cười nói:
- Cháu cứ vào.
Bảo Thoa cũng đứng dậy. Giả lan đi vào, đến chào Bảo Ngọc và
Bảo Thoa, có vẻ vui mừng lắm, lại chào cả Tập Nhân. Tập Nhân cũng chào lại. Giả
Lan đưa bức thư cho Bảo Ngọc xem. Bảo Ngọc cầm thư đọc rồi nói:
- Cô Ba cháu về thăm à ?
- Ông đã viết trong thư như thế, chắc là sẽ về.
Bảo Ngọc gật đầu không đáp, lặng lẽ dường như đang nghĩ ngợi
gì. Giả Lan hỏi:
- Chú đã xem rồi chứ. Đoạn cuối bức thư, ông dặn cậu cháu ta
lo học hành đấy. Cháu sợ lâu nay chú không làm bài vở gì thì phải ?
Bảo Ngọc cười:
- Ta cũng muốn tập làm mấy bài cho thành thạo, để đi kịp đời
kiếm chút công danh.
- Chú đã định như thế, thì nên nghĩ sẵn mấy đầu bài. Cháu sẽ
cùng chú tập làm, để vào trường thi quấy quá cho xong, nếu phải nộp quyển trắng
thì không những người ta chê cười cháu, mà chê cười cả chú nữa đấy.
- Cháu không đến nổi thế đâu.
Giả Lan nói xong, Bảo Thoa mời ngồi. Bảo Ngọc vẫn ngồi ở chỗ
cũ. Giả lan ngồi ghé một bên. Hai chú cháu bàn chuyện văn bài một lúc, mặt mày
vui vẻ. Bảo Thoa thấy hai chú cháu đang chuyện trò thích thú như vậy, bèn đi
vào trong nhà, nghĩ bụng: “xem bộ dạng cậu Bảo bây giờ, có lẽ đã tỉnh ngộ rồi.
Nhưng theo lời cậu ta vừa nói, thì cậu ta chỉ đồng ý mấy tiếng “sau đó mà
thôi”. Không rõ là có ý tứ gì.”
Trong lúc Bảo Thoa đang còn phân vân, Tập Nhân thấy Bảo Ngọc
thích bàn văn chương, và nhắc đến việc đi thi, thì lại mừng rỡ nghĩ bụng “A di
đà phật ? Mợ ấy giảng như giảng sách tứ thư, cậu ta mới vỡ lẽ ra được.”
Bảo Ngọc và Giả Lan còn đang nói chuyện văn bài, thì Oanh Nhi
pha trà đưa đến. Giả Lan đứng dậy cầm lấy chén trà, lại nói một hồi về những
phép tắc vào trường thi và việc mời Chân Bảo Ngọc cùng đến họp bạn. Bảo Ngọc
hình như rất thích.
Một lát sau, Giả Lan ra về, để lại bức thư cho Bảo Ngọc. Bảo
Ngọc cầm bức thư cười tủm tỉm, đưa cho Xạ Nguyệt cất đi, rồi ra cất bộ sách
Trang Tử, lại soạn những bộ sách trước đây thích đọc nhất như Tham đồng khế
(5), Nguyên mệnh bao (6), Ngũ đăng hội nguyên (7)...gọi bọn Xạ Nguyệt. Thu Văn,
và Oanh Nhi xếp vào một chỗ.
Bảo Thoa thấy hành động lần này của Bảo Ngọc, rất lấy làm lạ,
muốn dò thử xem, liền cười hỏi:
- Không xem những sách ấy là đúng rồi. Nhưng cần gì cậu lại
phải chuyển đi nơi khác ?
Bảo Ngọc nói:
- Bây giờ tôi mới hiểu rõ, những thứ sách ấy đều chằng ra gì,
tôi phải đốt hết đi cho rảnh.
Bảo Thoa nghe vậy vui sướng vô cùng. Bỗng nghe Bảo Ngọc đọc
khe khẽ:
- Trong nội điển tuyệt không tính Phật,
Ngoài kim đan lại có thuốc tiên.
Bảo Thoa cũng không nghe rõ lắm, chỉ lõm bõm mấy chữ “không
tính phật” và “có thuốc tiên.” Trong bụng lại đâm ra ngờ vực hãy chờ xem bộ dạng
cậu ta như thế nào. Bảo Ngọc sai bọn Xạ Nguyệt, Thu Vân thu xếp một gian nhà
yên tĩnh, rồi chọn những sách hay về loại ngữ lục và các thể thơ theo lối thi cử
đem để trong gian nhà ấy. Anh ta lại tỏ ra vẻ thực sự yên tĩnh đọc sách. Bấy giờ
Bảo Thoa mới yên tâm. Tập Nhân chưa hề nghe thấy việc ấy bao giờ, nên cười nói
với Bảo Thoa:
- Tóm lại nhờ lời lẽ của mợ thông suốt, nên chỉ bàn luận một
hồi, đã khuyên giải được cậu Hai. Đáng tiếc hơi chậm một chút, ngày vào trường
thi đã gần đến rồi.
Bảo Thoa gật đầu mỉm cười:
- Chỉ mong từ sau cậu ấy một lòng đi con đường chính, không
dính dáng đến những thứ tà ma như trước, thế là tốt rồi!
Chị ta nói đến đó, thấy trong buồng không có ai, lại gọi nhỏ:
- Lần này cậu ấy tỉnh ngộ là rất hay. Nhưng còn có một chuyện,
sợ lại mắc bệnh cũ, ham chơi bời với chị em bạn gái, thì lại không tốt.
- Mợ nói cũng đúng, cậu Hai từ khi nghe theo vị hòa thượng mới
tỏ ra lạnh nhạt với đám chị em. Nếu cậu ấy không tin ông ta nữa, sợ lại mắc phải
bệnh cũ đấy. Theo ý tôi thì cậu Hai không để ý đến mợ và tôi lắm đâu. Nhà này
trừ Tử Quyên đi rồi, chỉ còn bốn chị em chúng nó. Trong đó có con Năm hơi ranh
mãnh, nghe nói mẹ nó đã thưa với mợ Cả, nói với mợ, xin nó về để gả chồng,
nhưng vài hôm nay nó vẫn còn ở đây. Xạ Nguyệt và Thu Vân tuy không có điều gì,
nhưng mấy năm lại đây cậu Hai cũng hay đùa bỡn với chúng. Bây giờ nhìn lại, chỉ
có Oanh Nhi là cậu Hai không hề để ý lắm. Vả lại Oanh Nhi tính cũng đứng đắn.
Tôi nghĩ những việc pha trà múc nước, chỉ cần bảo Oanh Nhi cùng bọn a hoàn nhỏ
hầu là đủ, không biết ý mợ nghĩ sao ?
- Tôi cũng lo về việc ấy. Cô nói thế cũng được đấy.
Từ đó, Oanh Nhi cùng các a hoàn nhỏ được cắt vào hầu hạ Bảo
Ngọc. Bảo Ngọc vẫn không ra khỏi cửa phòng, ngày nào cũng chỉ sai người đến hỏi
thăm Vương phu nhân. Vương phu nhân thấy anh ta như thế, vui sướng vô cùng.
Đến ngày mồng ba tháng tám, đúng ngày “lễ minh thọ” (8) của
Giả mẫu. Bảo Ngọc sang cúng rồi về ngay, lại vào ngồi trong gian nhà kín. Cơm
xong, Bảo Thoa, Tập Nhân, cùng bọn chị em đều theo Hình phu nhân và Vương phu
nhân ngồi nói chuyện. iphiếm ở nhà trước. Bảo Ngọc một mình ngồi yên lặng trong
gian nhà kín. Bỗng thấy Oanh Nhi bưng đến một mâm các thứ dưa quả thưa:
- Đây là lễ vật cúng bà. Bà lớn bảo người đưa sang để cậu
xơi.
Bảo Ngọc đứng dậy nhận, rồi lại ngồi xuống nói:
- Để lại đó.
Oanh Nhi vừa đặt dưa xuống, vừa khẽ nói với Bảo Ngọc:
- Bà lớn đang khen cậu Hai ở bên ấy đấy.
Bảo Ngọc mỉm cười.
Oanh Nhi lại nói:
- Bà lớn bảo lần này cậu Hai cố hết sức học hành, nay mai vào
trường thi đậu rồi, sang năm lại thi đậu tiến sĩ, rồi ra làm quan, thì thực
không uổng công ông lớn và bà lớn trông mong cậu.
Bảo Ngọc chỉ gật đầu cười mỉm.
Oanh Nhi bỗng nhớ lại câu nói của Bảo Ngọc hồi năm nọ, khi
mình đến bện dây giúp, liền nói:
- Nếu quả cậu Hai thi đậu, thì thật là cô tôi tốt phúc ! Cậu
còn nhớ năm nọ ở trong vườn, khi cậu bảo tôi đến bện cái dây kiểu hoa mai, cậu
có nói: sau này không biết cô tôi cùng với tôi đến nhà một người nào tốt
phúc.(9) Thế thì bây giờ cậu là người tốt phúc đấy nhỉ ?
Bảo Ngọc nghe đến đó, lại cảm thấy động lòng trần tục, liền định
thần nín thở, mỉm cười nói:
- Theo như cô, thì tôi và cô của cô đều là người có phúc, còn
cô thì sao ?
Oanh Nhi đỏ mặt, gượng cười thưa:
- Chúng tôi chẳng qua chỉ làm a hoàn suốt đời, còn có phúc phận
gì?
- Nếu quả suốt đời được làm a hoàn, thì phúc ấy còn to hơn
phúc của chúng tôi nữa đấy!
Oanh Nhi nghe câu ấy, giống lời nói điên, sợ mình lại gây ra
bệnh của Bảo Ngọc, định bỏ đi. Bỗng thấy Bảo Ngọc cười rồi nói:
- Cô bé ngây ngô ơi, để ta nói cho mà nghe!
Chưa biết Bảo Ngọc sẽ nói ra những chuyện gì.
Chú thích:
Chú thích:
1. Theo chế độ khoa cử đời Thanh, những người học thi Quốc tử
giám gọi là giám sinh. Có tư cách giám sinh mới được đi thi cử
nhân. Nhưng hầu hết chỉ cần quyên nạp một số liền là được.
2. Một thiên trong “Nam hoa kinh “ của Trang Tử. Đoạn
này bảo là muôn dặm giáo lời như Phật nói chuyện Bảo Tháp.
3. Gặp nhau chỉ để chia ly. Cuộc đời chớp nhoáng.
4. Sào Phủ và Hứa Do là những người cao sĩ đời nhà Đường. Ở ẩn
trong núi, vua Nghiêu nhường thiên hạ cho Sào Phủ. Sào Phủ không nhận,
nhượng lại cho Hứa Do. Hứa Do cũng không chịu, rồi bỏ trốn đi cày. Bá Di
và Thúc Tề là con vua Cô Trúc đời nhà Thương. Anh em nhưng ngôi Vua cho không
nhận rồi đều bỏ trốn. Khi Chu Võ Vương đánh Trụ, Bá Di, Thúc Tề can không được,
liền bỏ vào trong núi Thú Dường ăn rau mà chết đói...
5. Sách này có hai loại, một loại nói về phép luyện đan của Đạo
học, một loại bàn về đạo lý nhà Phật
6. Một thứ sách chuyên nói về những điềm lạ lùng, những ước
đoán trước.
7. Sách chép về hệ thông tông phái của Phật giáo - Công danh
có số, thi đậu hay hỏng, cũng không phải do học, sớm hay muộn.
8. Lễ kỷ niệm ngày chết rồi. (Ngày giỗ)
9. Xem lại hồi thứ 35.
Hồi 119:
Dỗ hương khôi, Bảo Ngọc rũ sạch duyên trần
Đội ơn vua, họ Giả dồi dào hưởng phúc
Oanh Nhi nghe những câu của Bảo Ngọc, không hiểu ra sao, định
bỏ đi, bỗng Bảo Ngọc gọi lại bảo:
- Cô bé ngây ngô ơi, để ta nói cho mà nghe ? Cô của cô đã có
phúc phận, thì cô đi theo cô ta tức là cũng có phúc phận rồi, không nhờ cậy chị
Tập Nhân được đâu. Vậy từ nay về sau cô hãy hết lòng hầu hạ cô ta nhé. Ngày sau
mà có điều gì hay, thì cũng không uổng công cô đã chịu khó theo hầu cô ta mấy
lâu.
Oanh Nhi nghe câu nói, đoạn đầu thì có vẻ có nghĩa, đoạn sau
hình như vô nghĩa, liền nói:
- Tôi hiểu rồi, cô tôi đang chờ tôi đấy. Khi nào cậu muốn ăn
quả, thì sai a hoàn nhỏ đến gọi tôi.
Bảo Ngọc gật đầu. Oanh Nhi đi ra Bảo Thoa và Tập Nhân đều về
phòng nghỉ.
Mấy hôm sau đến ngày vào trường thi. Mọi người chỉ trông mong
hai chú cháu Bảo Ngọc làm văn bài cho hay, để được đậu cao; còn Bảo Thoa thì nhận
thấy Bảo Ngọc tuy học tập chăm chỉ, nhưng những lúc vô tình hoặc hữu ý, lại tỏ
ra lạnh nhạt. Chị ta để ý đến Bảo Ngọc sắp vào trường thi, việc thứ nhất là hai
chú cháu đều đi thi lần đầu, ra chỗ đông người chen chúc, sợ bị thất lạc; vì
hai là Bảo Ngọc sau khi ông sư đi rồi, vẫn không ra khỏi cửa, học hành lại vui
vẻ. Thấy sự thay đổi quá nhanh chóng và quá tốt đẹp như thế, chị ta cũng có phần
ngờ vực, sợ lại có biến cố gì chăng. Vì vậy trước khi vào trường thi một hôm, chị
ta một mặt sai Tập Nhân dẫn các a hoàn nhỏ cùng bọn Tố Vân sắp đặt đồ đạc chu
đáo cho hai chú cháu. Chị ta nhìn qua một lượt, bảo cắt đặt cẩn thận đâu vào đấy.
Một mặt lại đi sang Lý Hoàn, cùng Lý Hoàn đến trình Vương phu nhân, chọn mấy
người lão thành biết việc trong nhà theo hầu, cứ nói là sợ người ngựa chen chúc
dẫm phải.
Hôm sau Bảo Ngọc và Giả Lan mặc quần áo không cũ, không mới,
vui vẻ đến chào Vương phu nhân.Vương phu nhân dặn:
- Hai chú cháu mầy vừa mới đi thi lần đầu. Nhưng chúng mầy đã
lớn đến chừng ấy, vẫn chưa bao giờ rời ta. Dù có những lúc không ớ với ta, cũng
có bọn a hoàn, người hầu quây quần chung quanh, chứ có đêm nào nằm ngủ riêng một
mình đâu ?
Ngày nay chú cháu ra đi, cô quạnh lủi thủi, xung quanh không
có bà con, cần phải giữ gìn cẩn thận đấy. Gắng làm văn bài xong cho mau mà ra
trường, rồi tìm người nhà về cho sơm sớm, để mẹ và vợ các con được yên lòng.
Vương phu nhân nói xong, không khỏi thương xót. Giả Lan nghe
đến đâu vâng dạ đến đấy; còn Bảo Ngọc không hề hé môi, đợi Vương phu nhân nói
xong, liền đến quỳ xuống, nước mắt đầy tròng, gục đầu lễ ba lễ rồi thưa:
- Mẹ sinh con ra, đời con không có gì báo đáp. Chỉ có lần nầy
vào trường, con xin cố sức làm văn trài, may đậu được cử nhân, để mẹ được vui mừng.
Thế là việc cả đời con được trọn vẹn rồi. Dù con có điều gì không hay, cũng có
thể chuộc lại.
Vương phu nhân nghe xong, càng thấy thương tâm, bảo:
- Con có bụng nghĩ như thế là giỏi. Chỉ tiếc rằng bà không sống
để trông thấy mặt con nữa.
Bà ta vừa nói vừa kéo Bảo Ngọc dậy, nhưng anh ta cứ quỳ mãi,
rồi lại thưa:
- Dù bà trông thấy hay không, người cũng vẫn biết rõ. Đã biết
rõ, đã vui mừng, thì dù người không trông thấy cũng như đã trông thấy. Chẳng
qua hai bên chỉ cách biệt về thể xác, chứ không cách biệt về tinh thần.
Lý Hoàn thấy Vương phu nhân cùng Bảo Ngọc như thế, một là sợ
lại gây ra bệnh cũ của Bảo Ngọc, hai là xem tình hình nầy cũng không có vẻ tốt
lành lắm. Nên vội vàng đến trình:
- Thưa mẹ. Đây là việc rất vui mừng, sao mẹ lại thương tâm
như thế? Vả lại chú Bảo gần đây đã hiểu lẽ phải trái, dốc lòng hiếu thuận, lại
chịu ra sức học hành. Chỉ mong chú ấy đem cháu vào trường thi. lo làm văn bài
cho hay, thu xếp về nhà cho sớm, rồi sao lại bài thi đem nhờ các bậc thế giao
xem hộ, chờ cho đến khi hai chú cháu đều có tin mừng là được.
Đoạn chị ta gọi người đến đỡ Bảo Ngọc dậy.
Bảo Ngọc quay lại vái Lý Hoàn và nói:
- Xin chị cứ yên tâm. Hai chú cháu chúng tôi nhất định sẽ đậu
cả. Sau này cháu Loan còn làm nên, rồi chị sẽ được đội mũ cánh phượng, mặc áo
ráng đỏ (1) nữa đấy.
Lý Hoàn cười:
- Chỉ mong được như lời chú nói, cũng không uổng công!
Chị ta nói đến đó, lại sợ gây ra mối thương tâm của Vương phu
nhân, liền dừng lại. Bảo Ngọc cười, nói:
- Chỉ cần có đứa con nối nghiệp tổ tiên là được. Dù anh Cả
không trông thấy, cũng coi như là việc đời sau của anh ấy đã đầy đủ rồi.
Lý Hoàn thấy trời đã muộn nên không chịu nói hết lời với Bảo
Ngọc, chỉ có gật đầu. Bảo Thoa nghe nói, rất là sửng sốt nghĩ bụng: “Không những
lời nói của Bảo Ngọc mà những câu của Vương phu nhân và Lý Hoàn cũng đều là những
điềm không tốt.” Nhưng chị ta không dám thật thà nói ra, chỉ ứa nước mắt không
nói gì.
Bảo Ngọc đến trước mặt chị ta, vái một vái dài. Mọi người thấy
anh ta làm điều quái gỡ như vậy, không hiểu sao, cũng không dám nói. Bỗng thấy
Bảo Thoa nước mắt ròng ròng, ai cũng lấy lại lạ. Rồi lại nghe Bảo Ngọc nói:
- Thưa chị? Tôi phải đi đây. Chị nên chăm lo hầu mẹ, đợi tin
mừng của tôi.
- Đến giờ ra đi rồi. Cậu không cần nói những câu lảm nhảm ấy
nữa.
- Chị lại giục tôi gấp. Tôi cũng tự biết là phải đi rồi.
Anh ta quay lại thấy mọi người đều đông đủ cả, chỉ thiếu Tích
Xuân và Tử Quyên, liền nói:
Mọi người nghe lời của Bảo Ngọc hình như đúng, lại hình như
điên. Họ chỉ cho rằng anh ta xưa nay chưa ra khỏi nhà, chỉ vì mấy câu nói của
Vương phu nhân gợi ra cả, chi bằng thúc giục anh ta đi mau là xong việc. Họ bèn
nói:
- Đã có người chờ sẵn cậu ngoài kia rồi, nếu còn dùng dằng nữa,
sợ lại lỡ mất thì giờ.
Bảo Ngọc ngửa mặt cười to:
- Đi thôi, đi thôi! Không cần dùng dằng lôi thôi. Xong việc
rồi.
Mọi người cũng cười, bảo:
- Đi mau lên thôi.
Chỉ có Vương phu nhân và Bảo Thoa thì lại thấy như cảnh sinh
ly tử biệt, nước mắt không biết ở đâu cứ chảy ròng ròng, khóc không ra tiếng.
Còn Bảo Ngọc lại có vẻ hí hớn như người điên, từ đó bước ra cửa đi mất. Thế là:
Danh lợi đi tìm nơi tột bực!
Củi lồng thoát khỏi cửa đầu tiên.
Khoan nói việc Bảo Ngọc và Giả Lan đi thi. Hãy nói Giả Hoàn
trông thấy hai chú cháu họ ra đi thì vừa tức giận, lên giọng thánh tướng, nói
thầm:
- Ta cũng phải báo thù cho mẹ ta mới được! Nay trong nhà
không có một người đàn ông nào, nếu bác Cả bên kia cũng nghe lời ta thì còn sợ
gì ai!
Hắn nghĩ rồi liền chạy đến bên Hình phu nhân hỏi thăm và tâng
bốc mấy câu.
Hình phu nhân tất nhiên vui thích, liền nói:
- Cháu như thế mới là hiểu lẽ phải chứ? Như việc con cháu Xảo
Thư, đáng lẽ do ta làm chủ, thế mà anh hai Liễn cháu cứ lẩn thẩn, lại bỏ mẹ đẻ
đi nhờ người khác?
- Ở bên kia họ cũng đã nói. Họ chỉ biết có nhà bác đây thôi,
nếu xong việc thì sẽ sắp sửa một món lễ vật to để đưa biếu bác đây. Bác được
người cháu rể như đức vương ấy thì còn lo gì bác Cả không làm quan to chứ.
Không phải là cháu nói xấu mẹ cháu đâu, bên ấy họ có chị cả là Nguyên Phi, nên
họ ra cách khinh rẻ người ta, khiến ai nấy rất là khó chịu. Sau này cháu Xảo
Thư không nên mất hết lương tâm như thế. Để cháu hỏi nó xem.
- Cháu cũng nên nói cho nó biết, nó mới hiểu rõ lòng tốt của
cháu. Dù cha nó ở nhà e cũng không thể tìm ra được mối nhà thông gia sang trọng
như thế? Vậy mà cái con Bình u mê kia lại bảo là không được. Nó nói mẹ cháu
cũng không bằng lòng. Xem ra chỉ vì họ sợ chúng ta lại được sung sướng đấy
thôi. Việc nầy nếu để chậm, đến khi anh Hai cháu về, anh ấy sẽ nghe người ta, lại
không xong đâu.
- Bên kia đã nhất định rồi, chỉ chờ bác đưa canh thiếp sang
là được. Theo khuôn phép của vương phủ, chỉ trong ba ngày là rước dâu về. Nhưng
còn một điều, sợ bác không bằng lòng; bên kia họ bảo không nên cưới cháu gái một
viên quan phạm tội về làm vợ, chỉ có thể lặng lẽ đón đi thôi; đợi khi bác trai
được tha, lại làm quan, hai bên sẽ mở tiệc mừng vui vẻ.
- Việc ấy có gì mà không được? Theo lễ cũng phải làm như thế.
- Đã thế thì xin bác giao canh thiếp cho cháu là được.
- Cháu rõ lẩn thẩn! Trong này đều là đàn bà cả, cháu ra bảo
cháu Tường viết cho một cái thiếp là xong.
Giả Hoàn nghe nói, vui mừng khôn xiết, vội vàng vâng dạ đi
ra, kiếm Giả Vân nói chuyện. Lại nhờ Vương Nhân đến công quán đức vương ấy làm
giấy tờ, để nhận số bạc. Ngờ đâu những câu chuyện vừa rồi đã bị a hoàn hầu Hình
phu nhân nghe được. A hoàn này trước đây nhờ Bình Nhi mới được chọn vào hầu,
nay nhân lúc rảnh, nó chạy đến chỗ Bình Nhi kể lại rành mạch.
Bình Nhi biết việc này không hay, và nói rõ với Xảo Thư. Xảo
Thư khóc suốt đêm, chỉ nói chờ cha về làm chủ, chứ không thể nghe theo lời bà
được. Nay lại nghe nói thế, nó khóc òa lên, định đến cãi lại với bà. Bình Nhi
ngăn nó lại:
- Cô hãy khoan đã? Bà là bà nội của cô. Bà bảo cậu Hai không
ở nhà, thì bà đứng làm chủ được. Đã thế lại còn có ông cậu ruột đứng làm mối nữa.
Họ vào bè với nhau, một mình cô nói làm sao lại? Tôi thì đã đành là bậc dưới,
không thể nói nổi. Bây giờ cô nên nghĩ cách nào, chứ nhất thiết không được nông
nỗi.
A hoàn ấy bảo:
- Các cô nên định liệu mau mau, không thì họ sẽ đón đi đấy!
Bình Nhi ngoảnh lại, thấy Xảo Thư quỵ khóc sướt mướt, vội
vàng đỡ dậy nói:
- Cô ơi, khóc cũng không ăn thua gì đâu! Hiện nay không thể
đợi cậu Hai được. Nghe câu chuyện họ nói...
Chưa nói dứt lời, thấy bên Hình phu nhân đã sai người sang
báo:
- Việc vui mừng của cô tới nơi rồi? Bảo chị Bình soạn sửa tất
cả những đồ vật gì cô cần dùng. Còn lễ vật tư trang sẽ đợi khi cậu Hai về mới sắm
sửa.
Bình Nhi đành phải vâng lời. Lúc ấy lại thấy Vương phu nhân đến,
Xảo Thư liền ôm chặt lấy bà ta cứ lăn vào lòng mà khóc. Vương phu nhân cũng
khóc và nói:
- Cháu không cần nóng nảy! Ta vì cháu đã phải chịu bao nhiêu
câu nói của bà cháu, nhưng xem chừng thì không thể xoay chuyển lại được nữa.
Chúng ta cứ nhận lời rồi tìm cách tạm hoãn, và lập tức sai người đi đến nơi cha
cháu nói rõ việc ấy.
Bình Nhi thưa:
- Bà còn chưa biết sao. Sớm nay cậu Ba đã trình với bà Cả là
khuôn phép trong Vương phủ chỉ trong ba ngày phải rước dâu về. Bây giờ bà Cả đã
bảo cậu Vân viết thiếp rồi, như thế đợi cậu Hai sao kịp.
Vương phu nhân nghe đến tiếng cậu Ba, tức quá, nói không ra lời,
ngẩn người ra một lúc, giục bảo đi tìm Giả Hoàn.
Một hồi lâu, có người vào trình:
- Sáng hôm nay cậu Ba cùng cậu Tường và ông Vương Nhân đi đâu
rồi.
- Còn thằng Vân đâu?
- Không biết ạ.
Mọi người đều trợn trừng trợn trạc không còn cách gì.
Vương phu nhân cũng khó cãi nhau với Hình phu nhân, nên ai nấy
đành ôm đầu mà khóc. Trong lúc đang bối rối, chợt có bà già vào trình:
- Người canh cửa sau báo tin bà Lưu lại đến.
Vương phu nhân nói:
- Nhà chúng ta đang gặp lúc bối rối như thế này, còn rảnh
rang đâu mà tiếp khách, nói thế nào đó cho bà ấy về đi thôi.
Bình Nhi thưa:
- Bà lớn nên cho mời vào. Bà ấy là mẹ nuôi của cô Xảo, cũng
nên nói qua cho bà ấy biết.
Vương phu nhân không nói gì. Người nhà dẫn bà Lưu vào. Hai
bên chào hỏi xong, bà Lưu trông thấy người nào con mắt cũng đỏ hoe, chẳng hiểu
ra sao, bà ta chậm rãi một lúc rồi hỏi:
- Làm sao thế ? Chắc là bà lớn và cô lại nhớ đến mợ Hai?
Xảo Thư nghe nhắc đến mẹ mình, càng khóc to lên. Bình Nhi
nói:
- Bà đừng nói chuyện suông nữa. Bà đã là mẹ nuôi của cô, cũng
nên biết việc này.
Rồi chị ta kể hết đầu đuôi, làm bà Lưu khiếp sợ sửng sốt.
Một lúc sau bà ta bỗng phá lên cười:
- Chị là người lanh lợi như thế mà chưa nghe khúc “Cổ nhi từ”
(2) à. Việc ấy còn có nhiều cách, khó khăn gì đâu.
Bình Nhi vội hỏi:
- Bà ơi. bà có cách gì, xin nói mau lên?
- Việc ấy có gì khó khăn đâu? Không để cho một người nào
trong bọn họ biết, rồi thình lình trốn đi lã xong.
- Bà nói bậy rồi? Con nhà chúng tôi thể diện như thế nầy, trốn
đi đâu được?
- Chỉ sợ các cô không chịu đi thôi, nếu đi thì cứ đến chỗ quê
tôi. Tôi sẽ dấu kín cô Xảo đi, rồi bảo cô ấy tự tay viết một bức thư. Tôi lập tức
bảo anh rể tôi tìm người, mang ngay đến chỗ cậu Hai, chắc cậu ấy sẽ về ngay,
như thế không được ư?
- Nếu bà Cả biết thì sao?
- Khi tôi đến bà lớn biết không?
- Bà Cả ở nhà phía trước. Bà ta đối đãi với người dưới rất khắc
nghiệt, có tin tức gì không ai báo cho bà ấy cả. Nếu bà đi vào cửa trước thì họ
biết; nhưng bà lại đi cửa sau, thì không can gì.
- Các cô định bao giờ đi, thì tôi bảo anh rể tôi đem xe đến
đón.
- Còn đợi đến bao giờ nữa? Thôi mời bà hãy ngồi đây đã.
Rồi chị ta vội vàng đi vào, tránh những người đứng xung
quanh, trình rõ những lời bà Lưu vừa nói với Vương phu nhân. Vương phu nhân
nghĩ một lúc, thấy không ổn. Bình Nhi nói:
- Chỉ có cách ấy thôi. Vì là bà lớn nên cháu mới dám nói rõ.
Bà lớn cứ giả làm như không biết, rồi cứ vờ hỏi bà Cả. Còn chúng cháu ở bên này
sẽ sai người đi, chắc cậu Hai cũng về nhanh.
Vương phu nhân không nói gì, chỉ thở dài. Xảo Thư nghe vậy,
liền thưa với Vương phu nhân:
- Xin bà cứu lấy cháu! Dù sao lúc cha cháu trở về, cũng chỉ
biết ơn bà mà thôi.
Bình Nhi nói:
- Không cần phải nói nữa, xin mời bà lớn về đi thôi. Chỉ nhờ
bà lớn sai người đến coi nhà cho.
Vương phu nhân nói:
- Phải kín đáo một tí. Nhớ mang theo áo quần chăn nệm của
chúng cháu đấy.
Bình Nhi nói:
- Phải đi nhanh mới kịp, nếu để họ giao giá xong trở về thì rắc
rối đấy.
Câu nói ấy như giục giã Vương phu nhân. Bà ta nói:
- Phải rồi, các cháu cứ soạn sửa nhanh lên ! Đã có ta đây !
Sau đó Vương phu nhân trở về, lại sang bên Hình phu nhân nói
chuyện suông, để giữ bà ta lại. Bên này Bình Nhi bảo người sắp sửa ra đi, và dặn
dò:
- Đừng giấu diếm gì. Nếu có người trông thấy thì cứ nói là bà
Cả truyền bảo, cần một cỗ xe để đưa bà Lưu về.
Rồi lại đem tiền lót cho người canh cửa sau, bảo thuê xe đến.
Bình Nhi cải trang cho Xảo Thư giả làm con Thanh, cháu gái bà Lưu, rồi vội vàng
lên xe đi ngay. Sau đó Bình Nhi làm bộ tiễn khách, nhân lúc người ta không để
ý, cũng nhảy lên xe đi
luôn. Số là gần đây cửa sau phủ Giả tuy mở, nhưng nhà rộng, đầy
tớ ít, nên chỉ một vài người canh, trông nom không xuể, rất là trống trải. Vả lại
Hình phu nhân là người không biết thương kẻ dưới. Người trong nhà tuy biết việc
ấy không hay, nhưng họ lại nhớ ơn Bình Nhi ăn ở tử tế, nên thông đồng với nhau,
để mặc cho
Xảo Thư đi. Hình phu nhân vẫn còn ngồi nói chuyện với Vương
phu nhân, có để ý gì đến việc ấy. Riêng Vương phu nhân là không yên tâm chút
nào. Bà ta nói chuyện một lúc, rồi lặng lẽ sang ngồi bên phòng Bảo Thoa, lòng
lo ngay ngáy. Bảo Thoa thấy Vương phu nhân sắc mặt hoảng hốt, liền hỏi:
- Trong bụng mẹ nghĩ việc gì phải không?
Vương phu nhân nói thầm việc ấy với Bảo Thoa, Bảo Thoa nói:
- Làm liều quá. Bây giờ phải sai cháu Vân mau mau sang đình
chỉ bên kia đi mới yên chuyện.
- Mẹ cứ vờ như không biết, để con tìm người sang nói cho bác
biết mới được.
Vương phu nhân gật đầu; mặc cho Bảo Thoa tìm người. Số là đức
vương này muốn mua mấy người con gái để hầu hạ, vì chưa tin lời người mối, nên
mới sai người đi xem mặt. Người đi xem về bẩm rõ. Đức vương hỏi đến con nhà
dòng dõi thế nào, họ không dám dấu đành phải nói thực. Đức vương nghe
xong, biết rõ nhà ấy đã mấy đời có công và có họ ngoại với nhà vua, nên bảo:
- Không xong đâu! Việc ấy phạm lệ cấm đấy, suýt nữa làm hỏng
việc lớn! Vả lại ta về chầu vua đã xong, phải chọn ngày lên đường. Nếu có người
nào nói đến việc ấy nữa, phải đuổi đi ngay.
Hôm ấy vừa lúc Giả Vân và Vương Nhân đưa canh thiếp đến, bỗng
thấy người trong cửa phủ ra nói: “vâng mệnh đức vương truyền, người nào còn dám
đem
người trong phủ Giả mạo nhận là con gái nhà thường dân thì phải
bắt lấy để trị tội. Hiện nay đương đời thái bình, ai dám to gan như vậy.” Nghe
vậy, Vương Nhân khiếp sợ, cúi cổ bỏ trốn, oán trách người đã nói lộ chuyện, rồi
cả bọn cụt hứng ra về. Giả Hoàn ở nhà chờ tin, nghe Vương phu nhân truyền gọi,
hắn lo cuống quít. Bỗng thấy Giả Vân về một mình, hắn vội đón lại hỏi:
- Đã xong chưa?
Giả Vân hoảng hốt dẫm chân nói:
- Không xong rồi. không xong rồi! Chẳng biết đứa nào đã để lộ
chuyện ra.
Rồi hắn kể lại chuyện đã bị mắng nhiếc. Giả Hoàn tức giận sửng
sốt, nói:
- Ban sáng tôi đến trình với bác việc tốt đẹp như thế, giờ biết
xử trí ra sao đây ? Thực là bọn các anh chôn sống tôi rồi?
Bỗng nghe phía trong có tiếng kêu ầm lên, gọi tên bọn Giả
Hoàn và nói:
- Bà Cả và bà lớn đang gọi đấy.
Hai người đành phải thất thểu đi vào. Liền thấy Vương phu
nhân nổi giận hầm hầm nói:
- Chúng mày làm việc giỏi nhỉ? chúng mày bức bách con Xảo
Thư và con Bình chết đâu rồi. Mau mau tìm thấy chúng về ngay cho ta.
Hai người đều quỳ xuống. Giả Hoàn không dám nói gì.
Giả Vân cúi đầu thưa:
- Chúng cháu không dám làm việc gì. Chỉ tại cậu cả Hình và cậu
Vương nói là làm mối cho em Xảo Thư, chúng cháu mới dám trình với các vị. Bà Cả
bằng lòng, mới gọi cháu viết canh thiếp đưa đi. Người ta còn không muốn lấy nữa
là, sao lại buộc cho chúng cháu là bức bách em?
Vương phu nhân nói:
- Chúng Hoàn đã thưa với bà Cả là nội trong ba ngày họ sẽ đón
đi. Lại có cái thói làm mối làm manh như thế à? Thôi ta cũng không cần hỏi nữa,
chúng mày phải đem cháu Xảo Thư trả ngay cho ta, đợi ông lớn về đây rồi sẽ nói
chuyện!
Hình phu nhân cũng không nói được một câu, chỉ chảy nước mắt.
Vương phu nhân mắng Giả Hoàn:
- Cái dì Triệu ấy là đồ bậy bạ sinh ra thằng con cũng bậy bạ
nốt!
Bà ta nói xong bảo a hoàn đến đỡ, rồi đi về phòng. Giả Hoàn,
Giả Vân và Hình phu nhân chỉ oán trách lẫn nhau. Mấy người bảo nhau:
- Bây giờ chưa cần oán trách vội. Chắc Xảo Thư không đến nỗi
chết đâu, lại con Bình đem nó trốn đi ở một nhà bà con nào đó thôi.
Hình phu nhân cho gọi mấy người canh gác cửa trước, cửa sau đến,
mắng và hỏi:
- Chúng mày có biết Xảo Thư và Bình Nhi đi đâu không?
Nào ngờ bọn đầy tớ đều một loạt thưa:
- Bà Cả không cần phải hỏi chúng con. Xin hỏi mấy ông quản
gia sẽ rõ. Xin bà Cả đừng nóng nảy, đợi khi bà lớn chúng con hỏi đến, chúng con
sẽ có lời thưa lại. Nếu cần đánh, cần phạt, chúng con đều sẵn sàng xin chịu. Từ
khi cậu Hai đi vắng, ở ngoài kia họ làm bậy bạ vô cùng. Tiền gạo hàng tháng của
chúng con họ không phát. Họ đánh bạc uống rượu, chơi trai, lại còn dắt cả gái ở
ngoài về nữa. Đó chẳng phải các ông ấy làm hay sao?
Những câu ấy làm cho bọn Giả Vân ngậm miệng không nói lại được.
Bên Vương phu nhân lại sai người sang thúc giục:
- Các cậu phải đi tìm về mau.
Bọn Giả Hoàn cuống quít chỉ giận không có lỗ nẻ để chui xuống.Chúng
lại không dám tra hỏi những người bên nhà Xảo Thư. Chúng biết người ta đều căm
ghét, chắc là họ đã đem Xảo Thư giấu di đâu rồi, nhưng điều đó không dám trình
với Vương phu nhân. Chúng đành phải đi đến các nhà thân thích để nghe ngóng, vẫn
chẳng ăn thua gì. Trong mấy ngày liền, bên trong thì Hình phu nhân, bên ngoài
thì bọn Giả Hoàn, đều rối rít lên, đêm ngày không yên.
Đến ngày ra trường thi, Vương phu nhân trông đợi Bảo Ngọc và
Giả Lan về nhà. Đợi mãi đến trưa cũng không thấy về. Vương phu nhân, Lý Hoàn và
Bảo Thoa hoảng hốt, sai người đến nhà trọ nghe ngóng. Một bọn đi, bặt không tin
tức.
Sau đó lại sai bọn khác đi, cũng không thấy về nốt. Ba người
ruột nóng như lửa, đợi mãi đến xế chiều, mới thấy một mình Giả Lan về. Mọi người
vui mừng hỏi:
- Còn chú Bảo đâu?
Giả Lan không kịp chào hỏi mọi người, liền khóc oà:
- Chú Bảo lạc mất rồi!
Vương phu nhân nghe vậy, ngẩn người đi một lúc lâu, không nói
năng gì, rồi ngã sóng sượt giữa giường. May có bọn Thái Vân ở phía sau đỡ dậy,
cố hết sức mới gọi tỉnh lại được. Bà ta cứ khóc. Bảo Thoa thì trợn ngược mắt
lên Bọn Tập Nhân đều nước mắt đầm đìa. Lý Hoàn khóc và mắng Giả Lan:
- Đồ ngốc! Mày ở với chú Hai một chỗ. Sao chú ấy lại lạc mất?
Giả Lan nói:
- Ở nhà trọ, con với chú Hai cùng ăn cùng ngủ một nơi. Khi
vào trường, hai người lúc nào cũng gần gũi nhau. Sáng hôm nay chú Hai làm bài
thi xong sớm, còn chờ cháu. Chúng cháu đi nộp quyển một lần, rồi cùng ra cửa.
Nhưng đến khi chen nhau ở cửa long môn, cháu ngoảnh lại không thấy chú ấy đâu nữa.
Người nhà đi đón đều lại hỏi cháu. Anh Lý Quý còn nói, có trông thấy cậu Hai chỉ
cách nhau vài bước, không biết làm sao chen một cái rồi không thấy đâu cả. Hiện
giờ bọn Lý Quý đang chia nhau đi tìm. Cháu cũng đem người đi tìm khắp các nơi,
không thấy, nên đến bây giờ mới về.
Vương phu nhân khóc lóc, không nói được ra lời. Bảo Thoa
trong bụng đã hiểu rõ tám, chín phần. Tập Nhân thì cứ gào khóc mãi. Bọn Giả Tường
không đợi ai sai bảo, cũng chia nhau đi tìm. Đáng thương cho mọi người trong phủ
Vinh, ai ai cũng dỡ sống dỡ chết, uổng công sửa soạn bữa tiệc để đón tiếp người
đi thi về.
Giả Lan cũng quên hẳn mỏi mệt, muốn tự mình đi tìm. Nhưng
Vương phu nhân ngăn lại nói:
- Cháu ơi ! Chú đã lạc mất rồi, lại còn để mất cả cháu nữa
sao ? Thôi cháu cứ đi nghỉ ngơi đã.
Nhưng Giả Lan nào chịu nghe ? Bọn Vưu thị phải hết sức khuyên
can mãi. Trong mấy người đó chỉ một mình Tích Xuân là hiểu rõ, nhưng không chịu
nói ra, cô ta vờ hỏi Bảo Thoa:
- Anh Hai có mang viên ngọc đi không?
- Đó là vật tùy thân của cậu ấy, sao lại không mang đi ?
Tích Xuân nghe xong không nói gì.
Tập Nhân nhớ lại việc mất viên ngọc lúc trước, cũng đoán chừng
là vị hoà thượng tác quái, nên bụng đau như cắt, nước mắt chảy ròng ròng, nghẹn
ngào khóc mãi. Chị ta nghĩ lại mối tình Bảo Ngọc đối với mình khi trước. Có lúc
mình trêu tức cậu ta, tuy cậu ta giận, nhưng cũng có chỗ tốt làm cho người
ta phải hồi tâm lại, còn tấm lòng thể tất ôn tồn thì không cần phải nói nữa, có
lúc mình trêu quá, cậu ta thề sẽ đi tu, không ngờ ngày nay lại ứng với câu nói ấy.”
Hãy gác chuyện Tập Nhân nghĩ ngợi bực mình. Hôm ấy đã đến
canh tư, vẫn không được tin gì về Bảo Ngọc cả. Lý Hoàn sợ Vương phu nhân thương
xót sinh ốm, nên hết sức khuyên giải và đưa bà ta về phòng. Mọi người đều theo đến
hầu, chỉ một mình Hình phu nhân về nhà. Giả Hoàn thì trốn tránh không dám
ra. Vương phu nhân bảo Giả Lan về và nằm suốt đêm không ngủ.
Sáng hôm sau tuy có người nhà trở về, nhưng ai nấy đều nói:
- Tìm khắp nơi không ai thấy bóng dáng Bảo Ngọc đâu cả.
Tiết phu nhân, Tiết Khoa, Sử Tương Vân và thím Lý lũ lượt đến
thăm và hỏi tin. Qua mấy ngày liền như thế, Vương phu nhân khóc đến nổi bỏ cả
ăn uống. Người đã sắp nguy. Bỗng có người nhà vào trình:
- Có một người ở miền bể, nói là người nhà quan thống chế sai
đến và thưa, cô Ba nhà ta ngày mai sẽ về kinh.
Vương phu nhân nghe nói Thám Xuân về kinh, tuy nhiên không
khuây hẳn nỗi mong nhớ Bảo Ngọc, nhưng cũng hơi được yên tâm.
Đến hôm sau, quả nhiên Thám Xuân về. Mọi người ra đón từ xa,
trông Thám Xuân lại càng xinh đẹp, ăn mặc lộng lẫy hơn trước. Thấy Vương phu
nhân dáng người tiều tụy và ai nấy đều khóc sưng mắt lên, cô ta cũng khóc to một
lúc lâu rồi mới chào hỏi mọi người. Thám Xuân thấy Tích Xuân ăn mặc theo lối
nhà tu, trong bụng rất là khó chịu. Lại nghe nói đến việc Bảo Ngọc bị lạc,
trong nhà xảy ra nhiều chuyện không hay nên mọi người lại khóc. May có Thám
Xuân khôn khéo, kiến thức cao, đem lời khuyên giải dần dần, bọn Vương phu nhân
mới khuây khỏa ít nhiều.
Sáng hôm sau nữa thì chồng Thám Xuân đến, biết trong nhà xảy
ra nhiều việc, nên để chị ta ở lại khuyên giải. Các a hoàn, bà già theo hầu
Thám Xuân, nay được gặp lại, chị em cùng nhau kể lể tâm tình sau khi xa cách. Từ
đó người trên kẻ dưới, ngày đêm chỉ chờ tin tức Bảo Ngọc.
Một hôm, đã quá canh năm, có mấy người nhà ở ngoài vào cửa thứ
hai báo tin mừng. Mấy a hoàn nhỏ xô nhau chạy vào, không kịp nói với các a hoàn
lớn, liền chạy thẳng vào nhà trong trình:
- Xin mừng bà lớn và các mợ !
Vương phu nhân đoán chừng đã tìm thấy Bảo Ngọc, liền đứng dậy
vui vẻ hỏi:
- Tìm thấy nó ở đâu ? Bảo nó vào đây mau !
Người ấy thưa:
- Đã đậu cử nhân thứ bảy.
Câu nói ấy lại làm cho Vương phu nhân khóc to lên. Lý Hoàn
nói:
- Từ xưa đã có nhiều vị thành Phật thành tiên, quả là vứt bỏ
hết cả giàu sang chức tước.
Vương phu nhân khóc:
- Nếu nó bỏ cha mẹ mà đi, tức là bất hiếu, sao lại thành Phật
thành tiên được.
Thám Xuân nói:
- Người đời không nên có cái gì kỳ lạ quá. Anh Hai khi mới
sinh đã có sẵn viên ngọc, ai cũng bảo là việc tốt; nhưng nay xét lại cũng vì có
viên ngọc ấy mà không tốt. Nếu mấy ngày nữa không tìm thấy, tức là có duyên cớ.
Con nói xin mẹ đừng giận, mẹ cứ nên xem như không sinh ra anh ấy là được. Nếu
quả anh ấy có duyên kiếp từ trước, tu được thành chánh quả, cũng là do mẹ tích
phúc mấy đời đấy.
Bảo Thoa nghe xong không nói gì. Tập Nhân không nén được nữa
đâm ra đau ruột, choáng đầu, ngã nhào xuống. Vương phu nhân thấy thế thương hại,
sai người vực chị ta về nhà. Giả Hoàn thấy anh và cháu đều thi đậu, lại thêm việc
Xảo Thư, nên trong bụng rất là khó chịu, chỉ oán trách Giả Tường, Giả Vân. Hắn
lại nghĩ Thám Xuân nay về thăm nhà, tất không chịu bỏ qua việc ấy, nhưng cũng
không dám bỏ trốn, vì vậy mấy hôm nay cứ như cá nằm trên thớt.
Hôm sau Giả Lan đành phải đi tạ ơn trước. Lại biết Chân Bảo
Ngọc cũng thi đậu, mọi người cùng nhau tỏ tình đồng khoa. Khi nhắc đến việc Bảo
Ngọc vì mê mẫn bị lạc, Chân Bảo Ngọc tỏ lời than thở yên ủi.
Quan chấm trường xem các quyển thi đậu, tâu tới nhà vua mở ra
xem, thấy những bài văn lấy đậu đều là đúng đắn thông suốt. Thấy Giả Bảo Ngọc đậu
thứ bảy là người Kim Lăng; Giả Lan đậu thứ một trăm ba mươi cũng là người Kim
Lăng, nhà vua truyền chỉ xuống hỏi: “Hai người họ Giả ở Kim Lăng có phải cùng họ
với Giả phi không ?” Quan đại thần vâng mệnh ra truyền gọi Gả Bảo Ngọc và Giả Lan
vào hỏi. Giả Lan trình rõ việc Bảo Ngọc sau khi ra khỏi trường, đi lạc mất và
khai rõ cha ông ba đời, rồi quan đại thần thay lời tâu lên.
Nhà vua rất là thánh minh nhân đức. Người nhớ đến công ơn họ
Giả, truyền xuống các quan đại thần xét và tâu lên. Các quan xét kỹ và tâu rõ.
Nhà vua rất là thương xót, sai một vị quan xét lại bản án Giả Xá phạm tội đầu
đuôi thế nào, rồi tâu lên. Nhà vua lại xem một bản tâu về “các việc sắp đặt sau
khi đã dẹp yên bọn giặc ven biển và rút quân về”, trong bản án ấy nói rõ hiện
nay bể lặng sông yên, muôn dân làm ăn vui vẻ. Nhà vua rất vui, truyền các quan
cửu khanh kê rõ công lao để định thưởng, và ban ơn đại xá cả thiên hạ.
Bọn Giả Lan sau khi vào hầu xong ra về, liền đến chào lạy các
quan chấm trường, lại nghe tin trong triều có ban ơn đại xá liền trình với bọn
Vương phu nhân. Cả nhà đều vui mừng, chỉ mong chờ Bảo Ngọc trở về. Tiết phu
nhân lại càng vui vẻ hơn, liền lo việc chuộc tội cho Tiết Bàn.
Một hôm, người nhà báo có cụ Chân và chồng cô Ba đến mừng.
Vương phu nhân sai Giả Lan ra tiếp. Một lúc sau Giả Lan vào, cười vui vẻ trình
với Vương phu nhân:
- Thưa các bà, có tin mừng, cụ Chân ở trong triều nghe nói đã
có chỉ truyền, ông Cả được tha tội hẳn. Bác Trân không những được tha tội, vẫn
còn được tập chức Ninh quốc công hạng ba. Còn thế chức bên phủ Vinh thì vẫn do
ông nội chúng ta tập, chờ khi hết hạn nghỉ tang rồi sẽ thăng chức lang trung bộ
công. Bao nhiêu gia sản bị tịch thu, đều trả lại hết. Nhà vua xem văn chương của
chú Hai, rất vui thích. Người ban hỏi biết rõ là em đức bà Nguyên phi, Bắc Vĩ
anh vương lại tâu về phẩm cách chú Hai cũng tốt nên vua truyền chỉ đòi vào chầu.
Các quan đại thần tâu: “Theo lời người cháu là Giả Lan đã trình, thì anh ta đã
đi lạc mất sau khi ra khỏi trường, hiện đang tìm hỏi khắp nơi”. Nhà vua đã xuống
chỉ, truyền các nha môn năm doanh đều để ý tìm tòi. Chỉ đã xuống rồi. Xin bà cứ
yên lòng. Đội ơn nhà vua như thế, lẽ nào lại không tìm được !
Nghe nói, bọn Vương phu nhân mới chúc mừng nhau và tỏ vẻ vui
mừng. Chỉ có bọn Giả Hoàn vẫn cuống quít đi tìm Xảo Thư khắp nơi.
Xảo Thư đi theo bà Lưu, cùng Bình Nhi ra khỏi thành. Khi về đến
thôn trại, bà Lưu cũng không dám khinh rẻ Xảo Thư. Bà ta quét dọn gian phòng
nhà trên, mời Xảo Thư và Bình Nhi ở. Hàng ngày bà ta cung cấp các món ở thôn
quê, nhưng cũng sạch sẽ lại có con Thanh làm bạn, nên họ cũng tạm khuây khỏa.
Trong thôn đó có mấy nhà giàu. Biết có một vị tiểu thư phủ Giả
đến nhà già Lưu, ai nấy đều chạy lại xem. Họ cho là nàng tiên trên trời sa xuống.
Rồi có người đưa món ăn thức quả đến, có người đưa các thứ dã vị đến, cũng khá
nhộn nhịp. Trong số ấy có một nhà rất giàu là họ Chu, gia tài tới hàng vạn,
ruộng đất có đến nghìn khoảnh. Nhà ấy chỉ có một con trai, dáng người văn nhã
thanh tú, mới mười bốn tuổi. Cha mẹ anh ta rước thầy về dạy học, khoa mới rồi
thi đậu tú tài. Hôm nọ mẹ anh ta trông thấy Xảo Thư, trong bụng tấm tắc khen ngợi,
nghĩ bụng: “Chúng mình là người ở thôn trại, làm gì mà sánh đôi được với vị tiểu
thư con nhà thế gia như vậy ?”. Rồi bà ta cứ ngẩn người ra.
Già Lưu đã dò biết tâng sự bà ấy. liền nói:
- Tôi biết bụng bà rồi, để tôi làm mối hộ cho.
Bà Chu cười:
- Thôi bà đừng lừa tôi nữa. Họ là con nhà như thế nào, đời
nào chịu gả cho chúng tôi là người ở thôn trại.
- Thì cũng cứ nói thử xem.
Thế rồi hai người đi hai nơi.
Già Lưu nhớ đến phủ Giả, liền bảo Bản Nhi vào thành nghe
ngóng. Một hôm vừa đi đến phố Ninh Vinh. Bỗng thấy có nhiều xe kiệu ở đó. Bản
Nhi đến chỗ gần xung quanh lắng nghe. Hắn nghe nói hai phủ Ninh, Vinh đã được
trả lại chức quan, trả lại gia sản. Nay trong phủ lại sắp trở nên thịnh vượng.
Chỉ có cậu Bảo Ngọc thi đậu cử nhân, rồi không biết đi đâu mất. Bản Nhi trong bụng
vui mừng, đã định trở về. Lại thấy có mấy con ngựa chạy đến rồi một người đến
trước cửa xuống ngựa.
Bỗng thấy người canh cửa ra chào, hỏi thăm, và nói: “Cậu Hai
đã về ! Mừng quá ? ông Cả đã mạnh khỏe rồi chứ ?” Người ha hả cười bảo: “Khỏe rồi
? Lại vừa có ân chỉ tha tội, người cũng sắp về đấy.” Cậu ta lại hỏi: “Mấy người
kia làm chuyện gì đấy”. Người canh cửa thưa. “Đó là các quan đến truyền chỉ,
cho đi nhận lại gia sản”. Người kia vui mừng cuống quít đi vào. Bản Nhi đoán chừng
đó là Giả Liễn. Anh ta không nghe ngóng nữa, vội quay về thưa với bà ngoại.
Già Lưu nghe nói mừng rỡ, nở từng khúc ruột, đến chỗ Xảo Thư
kể lại một lượt những điều Bản Nhi vừa nói.
Bình Nhi cười bảo:
- Thật là nhờ già bày ra cách ấy. Nếu không thì cô tôi cũng
không còn gặp được dịp vui vẻ này nữa.
Xảo Thư lại càng vui mừng. Đang nói chuyện, thì người đưa tin
cho Giả Liễn cũng về, và nói:
- Cậu Hai rất là cảm kích, dặn tôi sau khi về đến nhà, phải
đưa cô về phủ mau. Lại còn thưởng cho tôi mấy lạng bạc nữa.
Bà Lưu nghe nói rất mừng, liền cho người đi tìm hai cỗ xe, rồi
mời Xảo Thư và Bình Nhi lên xe về. Bọn Xảo Thư ở trong nhà bà Lưu đã quen, nên
cứ dùng dằng không chịu chia tay. Con Thanh lại khóc lóc, giận không sao giữ họ
lại được nữa. Già Lưu thấy chúng không nỡ xa nhau, nên cho con Thanh đi theo
vào thành, rồi mấy người đi một mạch về phủ Vinh.
Giả Liễn trước kia được tin Giả Xá ốm nặng, liền đi đến chỗ bị
đày. Cha con gặp nhau, khóc lóc một hồi, sau đó Giả Xá dần dần lành bệnh. Đến
khi Giả Liễn tiếp thơ, biết rõ việc nhà, trình với Giả Xá rồi đi về, dọc đường
nghe tin đại xá, lại đi gấp hai ngày nữa. Hôm nay về đến nhà, vừa gặp lúc vua ban
ân chỉ. Trong nhà thì bọn Hình phu nhân đang lo không có người tiếp chỉ. Tuy có
Giả Lan, nhưng vẫn còn ít tuổi. Bỗng nghe người báo tin, cậu hai Liễn đã về. Mọi
người gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Chưa kịp nói chuyện, Giả Liễn liền ra nhà
khách, vái chào quan khâm mạng. Vị quan ấy hỏi thăm sức khỏe Giả Xá, rồi bảo:
- Ngày mai vào nội phủ lĩnh thưởng. Dinh thự bên phủ Ninh nay
giao trả cho dọn về ở.
Rồi mọi người đứng dậy từ biệt. Giả Liễn tiễn họ ra cửa. Sau
đó thấy có vài cỗ xe đến. Người nhà không cho đỗ lại. Đang cơn ồn ào thì Giả Liễn
đã biết rõ đó là xe của Xảo Thư về, liền mắng bọn người nhà:
- Bọn chúng bay là người vô lương ! Nhân lúc ta đi vắng,
chúng bây sinh lòng lừa dối hại chủ, bắt buộc con ta phải bỏ đi; bây giờ người
ta đưa về, bay lại muốn ngăn cản à ? Có phải chúng bây thù oán gì ta không ?
Bọn người nhà vốn sợ Giả Liễn trở về làm lôi thôi, nhưng cũng
tưởng ít lâu rồi việc mới lộ, nào ngờ Giả Liễn lại nói ra rõ ràng như thế. Họ
không hiểu ra sao, đành phải đứng lại thưa:
- Sau khi cậu ra đi, bọn chúng cháu đứa thì ốm, đứa thì xin
nghỉ. Việc ấy là do cậu Ba, cậu Tường và cậu Vân làm chủ, chứ không can gì đến
chúng cháu cả.
Giả Liễn nói:
- Đồ khốn nạn ! Xong việc rồi ta sẽ nói chuyện với chúng bây.
Mau ra đưa xe vào !
Giả Liễn đi vào, thấy Hình phu nhân cũng không nói gì, lại
quay sang bên Vương phu nhân gục đầu quỳ xuống thưa:
- Việc này đều nhờ ơn thím đùm bọc cả ? Em Hoàn thì không cần
phải nói nữa. Chỉ ghét cái thằng Vân, lần trước coi nhà, đã làm bậy bạ, nay
cháu mới đi mấy tháng, nó đã gây ra chuyện như thế. Cháu xin trình trước với
thím, cái giống người ấy thì đuổi cổ đi, không cho nó đi lại nữa cũng
đáng.
Vương phu nhân nói:
- Cái thằng Vương Nhân đốn mạt ấy không biết vì sao cũng hư tệ
như thế ?
- Thím không cần phải nói. Cháu đã có cách.
Đang nói thì bọn Thái Vân vào trình:
- Cô Xảo đã vào đây rồi.
Bấy giờ Xảo Thư vào chào Vương phu nhân. Tuy xa cách chưa bao
lâu, nhưng nhớ lại tình cảnh lúc đi trốn, bất giác rơi nước mắt. Xảo Thư cũng
khóc oà lên. Giả Liễn vội đến tỏ lời cảm tà bà Lưu. Vương phu nhân kéo bà cụ ngồi
xuống, lại nhắc đến câu chuyện ngày trước. Giả Liễn trông thấy Bình Nhi, bề
ngoài tuy không tiện nói, nhưng trong lòng rất là cảm kích, bất giác ứa nước mắt.
Từ đó anh ta càng kính trọng Bình Nhi, định đợi Giả Xá trở về, sẽ lập Bình Nhi
làm vợ chính. Đó là chuyện sau, chưa vội nhắc đến.
Về phần Hình phu nhân thì đang sợ Giả Liễn không tìm thấy Xảo
Thư, chắc sẽ gây chuyện rắc rối; lại nghe Giả Liễn đang ở bên Vương phu nhân,
nên càng sốt ruột liền bảo a hoàn đi dò xem sao. A hoàn về trình:
- Xảo Thư cùng bà Lưu đang nói chuyện ở bên ấy.
Hình phu nhân như tỉnh giấc mơ, biết là bọn họ chơi khăm. Lại
oán trách Vương phu nhân. Bà ấy chỉ xúi cho mẹ con mình bất hòa với nhau ?
Nhưng vẫn không biết đứa nào đã đưa tin cho Bình Nhi ? Đang tự hỏi thì thấy Xảo
Thư cùng bà Lưu dẫn cả Bình Nhi đến, Vương phu nhân cũng đi theo sau. Trước hết
họ đem những chuyện đó đổ tội cả cho Giả Vân và Vương Nhân, rồi nói:
- Bà lớn nguyên chỉ nghe theo lời người ta, cũng muốn được việc
tốt lành, biết đâu được bọn quỷ quái bên ngoài !
Hình phu nhân nghe nói, cảm thấy thẹn thùng, nghĩ lại ý định
của Vương phu nhân là đúng, trong bụng cảm phục. Từ đó Hình phu nhân và Vương
phu nhân lại vui vẻ với nhau. Bình Nhi trình với Vương phu nhân rồi dẫn Xảo Thư
sang phòng của Bảo Thoa thăm hỏi. Mỗi người đều nhắc đến nỗi khổ của mình. Họ lại
nói - Đội ơn hoàng thượng, phủ ta sẽ trở lại thịnh vượng. Chắc cậu Bảo cũng sẽ
trở về.
Họ vừa nói đến câu ấy, thấy Thu Vân ra vẻ cuống quít sợ sệt
chạy đến thưa:
- Chị Tập Nhân nguy rồi! Không biết đã xảy ra việc gì?
Chú thích:
1. Ý nói được đội mũ mệnh phụ vì có con ra làm quan.
2. Cố nhi từ hoặc cổ tử từ - tên một từ khúc đời xưa, vừa
dùng lời nói vừa hát, do nhiều khúc điệu và nhiều đoạn văn xuôi kết hợp lại.
Hồi 120:
Chân Sinh ẩn kể rõ cảnh thái hư
Giả Vũ Thôn kết thúc Hồng lầu mộng
Bảo Thoa nghe Thu Vân nói đến Tập Nhân nguy cấp, vội đi xem.
Xảo Thư và Bình Nhi cũng đi theo. Khi đến trước giường Tập Nhân, thấy cô ta bụng
đau quặn, có lúc cứ thở dốc. Bảo Thoa dùng nước nóng đổ cho tỉnh lại, đỡ cô ta
nằm xuống,
rồi sai người đi mời thầy thuốc.
Xảo Thư nhân hỏi Bảo Thoa:
- Chị Tập Nhân tại sao ốm đến như thế ?
- Chiều hôm kia chị ấy khóc quá thương tâm, choáng váng ngã
xuống. Bà sai người đỡ về. Chị ấy liền nằm lịm luôn. Vì ngoài nhà còn bận, chưa
mời được thầy thuốc đến thăm, nên mới đến nổi thế.
Đang nói thì thầy thuốc đến. Bọn Bảo Thoa tạm lánh mặt. Thầy
thuốc vào xem mạch, bảo bệnh này do uất ức mà ra, liền kê đơn rồi về. Số là Tập
Nhân thoáng nghe nói, nếu Bảo Ngọc không về, sẽ cho người hầu trong nhà về hết.
Chị ta cuống lên, lại càng ốm thêm. Sau khi thầy thuốc xem bệnh, Thu Văn lo sắc
thuốc dùm. Chị ta nằm một mình, tâm thần chưa định, cứ tưởng như Bảo Ngọc đứng ở
trước mặt. Lại thấp thoáng như thấy một vị hòa thượng, tay cầm một quyển sổ, mở
ra xem rồi lại nói, “chị đừng có lầm, tôi không nhận các chị đâu.” Tập Nhân còn
muốn nói chuyện với anh ta thì Thu Văn đến nói:
- Thuốc được rồi. Chị uống đi.
Tập Nhân mở choàng mất nhìn, mới biết là chiêm bao, nhưng
cũng không nói với ai. Uống thuốc xong, chị ta suy nghĩ một mình, “cậu Bảo chắc
là đi theo vị hòa thượng rồi. Lần trước cậu ta định cầm viên ngọc đi ra, đó là
ý muốn thoát thân. Lúc cậu ta bị mình giữ lại, xem bộ dạng không giống như ngày
thường, cứ xô đẩy mình túi bụi, không nể nang chút nào; sau lại đối đãi với mợ
Hai càng lạnh nhạt và cũng không nhìn ngó gì đến các chị em khác. Đó là cậu ta
đã ngộ đạo. Nhưng ngộ đạo mà bỏ mợ Hai đi thì làm thế nào!” Còn mình là người của
bà lớn sai sang hầu cậu ấy tuy số tiền lương tháng chiếu theo lệ ấy mà lĩnh (1)
nhưng thực ra trước mặt ông lớn, bà lớn mình chưa bao giờ được nhận rõ ràng là
vợ lẽ của cậu ấy. Nếu ông lớn và bà lớn cho mình về, mình cố chết ở lại, thì sợ
người ta chê cười. Mình mà về thì nghĩ đến mối tình cậu Bảo đối với mình, thực
là không nỡ !... Chị ta nghĩ đi nghĩ lại, càng thấy khó xử. Lại nhớ đến giấc mộng
vừa rồi, hình như Bảo Ngọc vô duyên với mình, chẳng thà chết quách đi cho rảnh.
Không ngờ sau khi uống thuốc, chứng đau bụng đã bớt nhiều, nằm
mãi cũng khó coi, đành phải miễn cưỡng dậy. Qua vài ngày nữa, chị ta dậy hầu hạ
Bảo Thoa. Bảo Thoa tưởng nhớ Bảo Ngọc, cứ khóc thầm, than thân tuổi phận. Bảo
Thoa biết mẹ đang định lo việc chuộc tội cho anh, cần chạy vạy nhiều, nên cũng
phải lo liệu giúp mẹ.
Giả Chính rước linh cữu của Giả mẫu, Giả Dung đưa quan tài của
Tần thị, Phượng Thư và Uyên Ương, về đến Kim Lăng an táng xong. Sau đó Giả Dung
lại đưa quan tài của Đại Ngọc đi an táng. Giả Chính thì lo việc xây đắp phần mộ.
Một hôm Giả Chính tiếp được thư nhà, lần lượt đọc từng hàng,
trước xem thấy Bảo Ngọc và Giả Lan thi đậu, trong bụng vui mừng, sau xem đến chỗ
Bảo Ngọc lạc mất, thì lại lo buồn, đành phải trở về nhà gấp. Dọc đường, lại
nghe có chỉ ân xá, rồi
lại tiếp được thư nhà nói Giả Xá đã được tha tội phục chức, lại
càng vui vẻ, liền đi luôn cả ngày đêm.
Một hôm đi đến trạm Côn Lăng, trời rét, tuyết xuống, thuyền đậu
ở chỗ vắng vẻ. Giả Chính sai người lên bộ, đưa danh thiếp đi từ tạ bầu bạn, nói
thuyền sẽ đi ngay, không dám phiền ai đến thăm hỏi. Khi ấy đầu thuyền chỉ để lại
một đứa nhỏ để hầu. Giả Chính ở trong thuyền viết thư, định cho người đi bộ đem
về nhà trước. Khi viết đến việc Bảo Ngọc, liền dừng bút lại, ngẩng đầu lên, bỗng
thấy đầu thuyền lờ mờ có dáng một người trong bóng tuyết, đầu trọc chân trần,
mình khoác chiếc áo đi mưa bằng lông vượn màu đại hồng, ngoảnh vào Giả Chính và
sụp xuống lạy. Giả Chính chưa nhìn được rõ, vội ra đầu thuyền, muốn đến đỡ dậy
để hỏi. Người ấy lạy bốn lạy, rồi đứng dậy chào theo lối nhà Phật. Giả Chính
còn muốn vái đáp, chợt nhìn thấy trước mặt mình không phải ai lạ mà chính là Bảo
Ngọc. Giả Chính kinh ngạc vô cùng, vội hỏi:
- Có phải Bảo Ngọc không?
Người ấy không nói gì, như mừng như tủi. Giả Chính lại hỏi:
- Nếu mày là Bảo Ngọc, thì sao lại ăn mặc như thế mà đến chỗ
này?
Bảo Ngọc chưa kịp trả lời, bỗng thấy một nhà sư, một đạo sĩ đến
đầu thuyền. Hai người nắm tay Bảo Ngọc nói:
- Tục duyên đã hết, không đi nhanh lên à?
Nói rồi, ba người vùn vụt lên bờ đi. Giả Chính không kể đất
trơn, vội vàng chạy theo. Thấy ba người đi trước, nhưng không sao theo kịp. Chỉ
nghe một người nào trong bọn họ hát:
Chỗ ta ở chừ, đỉnh núi thanh u,
Chỗ ta chơi chừ, cõi không mịt mù;
Ai đi cùng ta chừ, ta đi theo với?
Mênh mông mù mịt chừ, về nơi Đại hoang!
Giả Chính chạy đuổi theo, đến một cồn đất nhỏ, bỗng không thấy
nữa. Giả Chính thở dốc lên, trong lòng ngờ vực. Lúc quay lại thì thấy tên hầu
nhỏ cũng chạy theo sau. Giả Chính hỏi:
- Mày có trông thấy ba người vừa rồi không?
- Có trông thấy. Vì cháu thấy ông lớn chạy theo, nên cháu
cũng chạy. Nhưng rốt cuộc chỉ thấy ông lớn, chứ không thấy ba người kia nữa.
Giả Chính còn muốn chạy theo, nhưng chỉ thấy một cánh đồng
tuyết tùng mênh mông, không có người nào, Giả Chính lấy làm kỳ lạ, đành trở về.
Bọn người nhà về thuyền, thấy Giả Chính không ở trong khoang, hỏi bọn chèo thuyền
họ nói ông lớn đang lên bộ theo nhà sư và đạo sĩ..Bọn họ cũng theo dấu chân
trên tuyết đi tìm, xa xa trông thấy Giả Chính trở về. Họ đến đón rồi cùng về
thuyền. Giả Chính ngồi xuống, thở một lát, rồi kể qua một lượt về việc trông thấy
Bảo Ngọc. Mọi người nói, nên đi kiếm quanh miền nầy.
Giả Chính thở dài:
- Chúng mày không hiểu rõ! Đó là chính mắt ta trông thấy, chứ
có phải ma quỷ gì đâu. Vả lại nghe tiếng ca, có vẻ rất huyền diệu ? Bảo Ngọc
khi sinh ra, ngậm viên ngọc.. cũng đã kỳ lạ. Ta vẫn biết trước là điềm không tốt,
chỉ vì cụ bà thương yêu nó, nên mới nuôi nó đến ngày nay. Còn vị hòa thượng và
vị đao sĩ ấy, ta đã gặp ba lần, lần thứ nhất hai người ấy đến nói về sự linh
thiêng của viên ngọc; lần thứ hai, lúc Bảo Ngọc ốm nặng, vị hòa thượng đến, cầm
viên ngọc tụng niệm một hồi, thì Bảo Ngọc lành; lần thứ ba, ông ta đưa viên ngọc
đến trả, ngồi ở nhà khách, ta vừa ngoảnh đi một cái, bỗng không thấy đâu. Trong
bụng ta lấy làm lạ. Nhưng cho là Bảo Ngọc thực có phúc phận, nên các bậc cao
tăng tiên đạo đến phù hộ cho nó. Ngờ đâu nó là người đổi kiếp xuống cõi trần. Rốt
cục lừa dối cụ bà suốt mười chín năm, đến nay ta mới biết rõ!
Ông ta nói đến đấy, nước mắt ròng ròng. Mọi người thưa:
- Cậu Bảo nếu quả là một vị hòa thượng xuống trần gian, thì
không nên đậu cử nhân. Vì sao thi đậu rồi mới bỏ đi?
- Các người biết sao được? Phàm các tinh tú trên trời, các
cao tăng trên núi, hay những tinh linh trong động, đều có một tánh tình riêng.
Các ngươi thử xem Bảo Ngọc thường có chịu đọc sách đâu; nhưng hễ nó để bụng đến
thì không có cái gì là không làm được. Còn tính khí của nó cũng không giống người
ta!
Ông ta nói xong, lại than thở. Người nhà liền đem việc Giả
Lan thi đậu, nhà lại thịnh vượng, để khuyên giải. Giả Chính viết tiếp bức thư,
nói luôn cả việc ấy, và khuyên người nhà không cần nhớ nhung nữa. Ông ta viết
xong, niêm phong lại, rồi bảo người nhà mang về trước, còn mình sẽ về sau.
Sau khi nghe tin đại xá,Tiết phu nhân sai Tiết Khoa đi giật tạm
các nơi. Lại bòn nhặt thêm của nhà cho đủ số bạc để chuộc tội. Bộ hình chuẩn y,
thu đủ số bạc, rồi làm công văn, tha cho Tiết Bàn về. Mẹ con anh em chị em
trong nhà lại được gặp nhau, tất nhiên vừa mừng vừa tủi, không cần nói hết.
Tiết Bàn thề:
- Nếu con mắc lại tật xấu như trước, nhất định bị băm vằm.
Tiết phu nhân thấy thế, liền bịt miệng hắn lại, nói:
- Chỉ cần con giữ chí cho vững là được, chứ mở miệng thề nguyền
độc địa như thế làm gì? Riêng con Hương Lăng theo hầu con, đã chịu đựng biết
bao nhiêu nỗi khổ. Vợ con thì chính tự nó làm hại đời nó. Nay trong nhà tuy
túng thiếu, nhưng cũng còn có bát cơm ăn. Theo như ta nghĩ, thì ta coi Hương
Lăng là con dâu rồi, không biết bụng con nghĩ sao.
Tiết Bàn gật đầu bằng lòng. Bọn Bảo Thoa cũng nói:
- Thật đáng như thế.
Việc đó làm cho Hương Lăng đỏ ửng má, nói:
- Đằng nào cũng là hầu hạ cậu cả, cần gì phải làm như thế?Người
trong nhà liền gọi Hương Lăng là mợ cả, ai cũng mến phục.
Tiết Bàn liền đi lạy tạ bên phủ Giả. Tiết phu nhân và Bảo
Thoa cũng theo sang. Khi gặp mọi người, hai bên đông đủ, lại cùng nhau chuyện
trò một hồi.
Đang nói chuyện thì vừa lúc người nhà Giả Chính về đem trình
bức thư và nói:
- Ông lớn nay mai cũng về đấy.
Vương phu nhân bảo Giả Lan đọc thư. Giả Lan đọc đến đoạn Giả
Chính đã trông thấy Bảo Ngọc, ai nghe cũng khóc. Vương phu nhân, Bảo Thoa và Tập
nhân lại càng khóc nhiều. Mọi người lại nhắc lời Giả Chính dặn trong thư, “Bảo
Ngọc chỉ là mượn bào thai giáng sinh. Trong nhà không cần phải thương nhớ.” Họ
đem những câu ấy ra để khuyên giải, nếu làm quan mà gặp lúc vận mệnh không tốt,
can phạm việc gì, đến nỗi tan nhà hại của, lại chẳng hay gì, thà rằng trong nhà
mình có một vị Phật giáng sinh là hơn. Chỉ vì ông lớn bà lớn tích đức nên cậu ấy
mới đầu thai vào nhà này. Không phải chúng tôi ăn nói không biết gìn trước giữ
sau đâu. Lúc trước cụ bên phủ Đông cũng đã lu luyện đến mười mấy năm, mà vẫn
không thành tiên được. Còn thành Phật thì lại càng khó nữa! Bà lớn nghĩ lại
như thế, thì lòng sẽ nguôi nguôi.
Vương phu nhân khóc nói với Tiết phu nhân:
- Bảo Ngọc bỏ tôi mà đi. Tôi còn giận nó đấy? Tôi lại phàn
nàn cho con dâu xấu số, mới lấy nhau được một vài năm. Sao nó nỡ đành tâm bỏ ra
đi được.
Tiết phu nhân nghe nói cũng thương tâm. Bảo Thoa khóc đến mê
đi không biết gì cả. Khi đó bọn đàn ông đều ở nhà ngoài.
- Suốt đời tôi cứ phải lo sợ về nó. Nó vừa mới lấy vợ, thi đậu
cử nhân. Tôi lại biết con dâu đã có thai, mới hơi vui mừng một chút. Không ngờ
lại kết thúc như thế! Nếu sớm biết vậy, thì không nên hỏi vợ cho nó, để khỏi
làm hại đến con gái người ta!
Tiết phu nhân nói:
- Điều đó đã có duyên phận nhất định. Khuôn phép nhà chúng ta
đây còn nói gì khác nữa. May mà cháu nó đã có mang, sau sinh ra đứa cháu, chắc
sẽ làm nên, thế là tốt phúc. Chị thử xem mợ cả kia. Cháu Lan đã đậu cử nhân,
sang năm đậu tiến sĩ. Thế không phải sẽ làm quan sao? Mợ ấy trước kia đã chịu
khổ, nay được sung sướng cũng là do mợ ấy đứng đắn tử tế. Con cháu nhà tôi, chị
cũng đã biết, không phải là người khắt khe, nông nỗi, chị không cần phải lo
nghĩ.
Vương phu nhân nghe Tiết phu nhân bàn giải một hồi, rất có
lý, nghĩ bụng, “Bảo Thoa từ nhỏ đã có tính trầm tĩnh, ít hay ham muốn, rất
thích giản dị mộc mạc, nên mới có việc như thế. Nghĩ lại người ta ở đời, đều do
số mệnh định trước! Ta xem Bảo Thoa dù khóc lóc, cũng vẫn giữ nguyên được vẻ
đoan trang, lại còn trở lại khuyên ngăn ta nữa. Điều đó thực là hiếm có! Không
ngờ thằng Bảo Ngọc là người như thế, mà lại không được hưởng một chút phúc nào ở
cõi trần.” Nghĩ một lúc, bà ta cũng thấy an tâm, rồi lại nghĩ đến phận Tập
Nhân. “Nếu các a hoàn khác thì không có gì khó xử. Đứa lớn cho ra lấy chồng, đứa
nhỏ cho ở lại hầu mợ Hai là được. Chỉ có Tập Nhân thì nên đối xử như thế nào
đây?” Bấy giờ đông người bà ta chưa tiện nói, đành đợi đến tối bàn với Tiết
phu nhân.
Hôm đó Tiết phu nhân cũng chưa về nhà, sợ Bảo Thoa khóc lóc
nên ở lại trong nhà chị ta để khuyên giải. Bảo Thoa là người rất hiểu lẽ, biết
suy trước nghĩ sau, “Bảo Ngọc là hạng người kỳ dị. Kiếp trước duyên xưa, đã sẵn
như thế. Không thể oán trách ai được.” Bảo Thoa lại đem việc đạo lý ra nói một
lượt. Mọi người đều yên lòng. Chị ta lại còn đem những câu đạo lý thưa lại với
mẹ. Tiết phu nhân cũng được yên tâm, liền đến phòng Vương phu nhân, thuật lại
những câu nói của Bảo Thoa. Vương phu nhân gật đầu than:
- Nếu bảo là tôi không có đức, thì không đáng được người con
dâu đứng đắn như thế.
Nói xong bà ta lại thấy đau lòng. Tiết phu nhân lại khuyên giải
một lúc, rồi nhắc đến Tập Nhân, và nói:
- Tôi thấy Tập Nhân gần đây gầy quá, vì nó một lòng tưởng nhớ
cháu Bảo. Nếu là vợ chính, thì theo lẽ phải thủ tiết, vợ lẻ xin thủ tiết cũng
có. Tập Nhân tuy được xem như một người vợ lẻ, nhưng đối với cháu Bảo, danh phận
chưa có gì rõ ràng cả.
Vương phu nhân nói:
- Tôi vừa nghĩ đến, đang muốn chờ dì để bàn định. Nếu cho về,
sợ nó không thuận, lại đòi chết đòi sống; muốn để nó ở lại cũng được, nhưng sợ
ông lớn không nghe, cho nên việc này khó xử.
- Tôi xem chừng ông nhà cũng không muốn cho chị ta thủ tiết
đâu. Vả chăng bác cũng chưa biết rõ việc Tập Nhân, cho rằng chẳng qua là một a
hoàn. Lẽ nào lại ở lại? Chỉ cần chị gọi người nhà nó đến, dặn dò kỹ lưỡng, bảo
tìm cho nó một nơi tử tế, lại cho nó khá nhiều lễ vật hồi môn. Con bé ấy cũng
khá, lại còn trẻ. Thế cũng khỏi uổng công nó theo hầu chị bấy lâu, và như thế
là chị đối đãi tử tế với nó rồi. Còn về phần Tập Nhân, tôi sẽ khuyên bảo nó cặn
kẽ. Dù khi người nhà đến, cũng chưa cần cho nó biết trước. Đợi lúc người nhà nó
đã bàn định xong nơi tử tế, chúng ta cũng còn phải dò la xem, nếu quả là một
nhà đủ ăn đủ mặc, thằng chồng lại ra dáng người, thì sẽ cho nó về.
Vương phu nhân nghe vậy nói:
- Dì nghĩ thế rất phải, nếu không thì ông lớn nhà tôi sẽ xử
trí nông nỗi, thế chẳng phải là tôi lại làm hại một người nữa hay sao.
Tiết phu nhân nghe xong, gật đầu nói:
- Thực đúng như vậy.
Lại nói chuyện vài câu rồi từ biệt Vương phu nhân trở về
phòng Bảo Thoa.
Tiết phu nhân thấy Tập Nhân khóc sướt mướt, liền khuyên giải
một hồi. Tập Nhân xưa nay vốn thực thà, đâu phải là người lanh mồm lém mép,
nghe Tiết phu nhân nói một tiếng thì cô ta dạ một tiếng, rồi thưa:
- Cháu là người bậc dưới, bà dì không xem thường cháu, mới
nói với cháu những câu ấy. Lâu nay cháu không có việc gì dám làm trái ý bà.
Tiết phu nhân nghe cô ta nói, nghĩ thầm, “Thật là một con bé
ngoan!” Trong bụng lại càng vui mừng.
Cách mấy ngày sau, Giả Chính về nhà, người nhà đều ra đón. Giả
Chính thấy Giả Xá, Giả Trân đều đã về, anh em chú cháu gặp nhau, ai nấy cùng
bày tỏ tình cảnh từ khi cách biệt. Sau đó đến lượt gia quyến vào chào. Nhắc đến
Bảo Ngọc, mọi người đều thương xót. Giả Chính quát chặn đi và bảo:
- Đó là lẽ nhất định! Từ nay ở bên ngoài chúng ta lo liệu việc
nhà, ở bên trong các người cố sức giúp đỡ, nhất thiết không được bê trễ như trước
nữa? Việc các phòng thì nhà nào lo việc nhà ấy, không cần phải đặt người coi
chung. Còn việc nhà chúng ta đây, bên trong đều giao cho bà Cả, cứ nên theo lẽ
phải mà làm.
Vương phu nhân lại thưa rõ việc Bảo Thoa đã có thai, và nói:
- Rồi đây bọn a hoàn đều cho về cả.
Giả Chính nghe xong, giật đầu không nói gì.
Hôm sau Giả Chính vào triều xin các vị đại thần truyền bảo,
và nói:
- Đội ơn hoàng thượng, tôi rất là cảm kích. Nhưng vì chưa hết
tang, thì cách tạ ơn nên như thế nào, xin các vị chỉ bảo cho.
Các triều thần hứa sẽ thay mặt tâu lên để đợi chỉ vua. Ơn vua
rộng rãi, cho vào bệ kiến. Giả Chính vào triều tạ ơn xong, hoàng thượng lại ban
xuống nhiều đạo chỉ, và hỏi đến việc Bảo Ngọc. Giả Chính cứ thực tâu lên. Hoàng
thượng cho là lạ, bèn truyền chỉ, “văn chương của Bảo Ngọc trong sáng ly kỳ, chắc
mẩm anh ta có tiên duyên kiếp trước nên mới như vậy. Nếu còn ở lại trong triều,
thì có thể bổ dụng; nhưng đã không dám nhận chức tước của thánh triều, thì ban
thường cho đạo hiệu Văn diệu chân nhân.” Giả Chính lại gục đầu tạ ơn rồi lui.
Khi về đến nhà, Giả Liễn và Giả Trân ra đón. Ông ta kể lại một
lượt những việc trong triều, mọi người đều vui vẻ. Giả Trân lại thưa:
- Nhà cửa bên phủ Ninh đã thu xếp đâu vào đấy, rồi xin trình
lại để dọn về ở. Còn am Lũng Thúy ở trong vườn, thì giao cho cô Tư làm nơi tu
dưỡng.
Giả Chính không nói gì, hồi lâu mới dặn dò mấy câu về việc
báo đáp ơn vua.
Giả Liễn lại nhân dịp thưa:.
- Việc hôn nhân của cháu Xảo, cha mẹ cháu đều bằng lòng gả
cho nhà họ Chu.
Giả Chính hôm qua đã biết rõ đầu đuôi việc Xảo Thư liền nói:
- Hai bác làm chủ là được rồi. Đừng bảo người ở thôn quê
không tốt, miễn là người ta thanh bạch, thằng bé biết lo học hành, làm nên danh
phận là được. Các quan trong triều đình, không lẽ đều là người thành thị cả sao?
Giả Liễn vâng dạ rồi lại thưa:
- Cha cháu đã có tuổi. Vả lại có sẵn chứng đờm, cần phải tĩnh
dưỡng ít năm, mọi việc nhờ chú làm chủ cho.
Giả Chính nói:
- Nhắc đến việc về ở thôn quê tĩnh dưỡng, thì rất hợp ý ta,
chỉ vì ta đội ơn vua rất nặng, chưa báo đáp được đấy thôi.
Giả Chính nói xong, vào nhà. Giả Liễn sai đi mời bà Lưu đến để
nói về việc ấy.
Bà Lưu vào chào bọn Vương phu nhân, liền nói những chuyện sau
này nào là được thăng quan, nào là nhà thịnh vượng, con cháu đông đúc... -
Đang nói chuyện thì a hoàn vào trình:
- Vợ anh Hoa Tự Phương vào hầu.
Vương phu nhân hỏi mấy câu. Vợ Hoa Tự Phương liền kể lại việc
người bà con làm mối Tập Nhân cho nhà họ Tưởng ở phía Nam ngoài thành. Anh ta
có nhà, có đất, lại có cả cửa hiệu nữa. Người chồng có lớn hơn vài tuổi, nhưng
chưa hề lấy vợ. Vả lại vẻ đẹp của anh ta thì thực trăm người khó lòng được một.
Vương phu nhân nghe cũng bằng lòng, bảo:
- Cháu cứ về nhận lời đi, vài ngày nữa sẽ đến đây đón cô em
cháu về.
Vương phu nhân lại sai người đi dò hỏi, họ đều nói thế.
Bà ta liền nói với Bảo Thoa, rồi lại nhờ Tiết phu nhân bảo
riêng với Tập Nhân.
Tập Nhân khóc thương mãi, nhưng không dám trái lời, trong bụng
nhớ lại năm nọ, sai khi Bảo Ngọc ra chơi nhà mình, chính mình đã nói dầu chết
cũng không trở về nhà nữa, nay bà lớn đứng làm chủ, nếu mình ở vậy, thì sợ người
ta bảo là không biết xấu hổ; nếu bỏ ra về thì thực không đành lòng? Rồi cô ta
nghẹn ngào khóc, không nói ra lời. Tiết phu nhân và Bảo Thoa lại cố khuyên giải,
cô ta mới nghĩ lại: “nếu mình mà chết ở đây, lại làm uổng mất lòng tốt của bà lớn,
mình phải về chết ở nhà mới được”. Tập Nhân bèn nuốt tủi vái chào mọi người.
Khi các chị em chia tay, tất nhiên càng đau xót. Tập Nhân lên xe với tấm lòng
quyết chết. Đến khi về chào anh chị, cũng cứ khóc lóc, không nói nên lời. Hoa Tự
Phương liền đem những lễ cưới của nhà họ Tưởng và những món tư trang mới mua sắm
cho cô ta xem, rồi bảo:
- Vật này là bà lớn thưởng cho, vật là là ở nhà sắm lấy.
Tập Nhân càng khó nói. Ở nhà hai ngày, suy nghĩ lại, “anh
mình xử sự cũng đúng, nếu mà chết ở trong nhà anh. Không phải là mình làm hại
anh sao?” Tính trước nghĩ sau, đằng nào cũng khó. Thực là ruột rối như tơ vò,
hầu như đứt đoạn, đành phải nín nhịn chịu vậy. Đến ngày rước dâu, Tập Nhân vốn
không phải là tay gan dạ, nên cứ lủi thủi lên kiệu ra đi, trong bụng nghĩ, hãy
sang bên kia rồi sẽ liệu. Không ngờ về đến nhà chồng, thấy họ Tưởng sắp đặt rất
là chu đáo, việc gì cũng theo lề lối cưới vợ chính. Vừa mới vào nhà, thì đàn bà
con gái hầu hạ đều gọi là “mợ”. Tập Nhân khi ấy muốn chết ở đó, nhưng lại sợ
làm hại người ta, uổng mất tấm lòng họ đối xử tử tế với mình. Đêm ấy cũng vẫn cứ
khóc, không chịu thuận theo. Người chồng lại tỏ ra dịu dàng, chiù theo ý chị
ta.
Đến ngày thứ hai, Tập Nhân mở rương ra, người chồng trông thấy
cái thắt lưng màu đỏ, mới biết chị ta là a hoàn của Bảo Ngọc (2). Nguyên trước
đây người chồng chỉ nghe nói cô dâu là người hầu của Giả mẫu, cũng không ngờ
người ấy là Tập Nhân. Khi đó Tưởng Ngọc Hàm nhớ đến mối ơn của Bảo Ngọc đối với
mình. Cảm thấy rất là hổ thẹn, nên càng âu yếm; rồi cả ý đưa ra cái thắt lưng
màu xanh hoa thông mà Bảo Ngọc đã đổi cho mình. Tập Nhân nhìn thấy, biết anh
chàng họ Tưởng này chính là Tưởng Ngọc Hàm, mới tin rằng nhân duyên của mình đã
định từ trước. Chị ta mới bày tỏ hết tâm sự của mình. Tưởng Ngọc Hàm cũng than
thở kính phục, không dám cưỡng ép, lại càng tỏ ra dịu dàng thể tất, làm cho Tập
Nhân muốn chết cũng không chết được nữa.
Bạn đọc, việc đời tuy có tiền định, không biết làm thế nào;
nhưng những kẻ con hiếu, tôi trung, chồng nghĩa, vợ tiết, không phải ai cũng đổ
vì ba chữ “bất đắc dĩ” được cả. Vì vậy Tập Nhân mới ở trong “Hựu phó sách”. Đó
chính như câu thơ người đời xưa khi đi qua Đào hoa miếu đã nói:
Khó nhất trên đời là cái chết.
Thương tâm đâu chỉ Tức phu nhân (3)
Giả Vũ Thôn trước đây can án tham lam, yêu sách, đã xét rõ và
định tội. Nay gặp lúc đại xá, được tha về làm thường dân. Vũ Thôn cho gia quyến
đi trước, mình chỉ đem theo một tên hầu nhỏ và một xe đồ đạc. Đi đến cửa sông
Giác Mê ở bến Cấp Lưu, vừa gặp một đạo sĩ từ trong lều cỏ bên bến đi ra, chắp
tay chào.
Vũ Thôn nhận ra người ấy là Chân Sĩ ẩn, vội vàng chào lại, Sĩ
ẩn nói:
- Giả tiên sinh, từ khi chia tay, vẫn mạnh khỏe chứ?
- Té ra lão tiên ông đây là Chân lão tiên sinh, sau lần trước
gặp nhau ngài lại tránh mặt không nhận tôi? Sau nghe nói gian nhà cỏ bị cháy,
tôi rất sợ hãi. Hôm nay may được gặp, càng thấy lão tiên ông là người đạo cao đức
lớn. Chỉ vì kẻ quê hèn này là người hết sức ngu độn, không sửa đổi được chút
nào, nên mới đến nông nỗi này!
- Khi trước người còn quan cao chức trọng, bần đạo đâu dám
nhìn nhận? Vì là chỗ bạn cũ, nên bần đạo mới dám tặng vài lời. Không ngờ ngài
lại bỏ quên bần đạo! Nhưng mà mọi việc giàu sang may rủi, không phải là ngẫu
nhiên. Hôm nay chúng ta lại được gặp nhau, thực là một chuyện lạ? Ở đây cũng gần
lều cỏ xin mời ngài vào lều nói chuyện một lát, không biết ý ngài thế nào?
Giả Vũ Thôn vui vẻ nhận lời. Hai người dắt tay nhau đi. Tên hầu
nhỏ đẩy xe theo sau. Đến một gian nhà tranh, Sĩ ẩn mời vào. Vũ Thôn ngồi xuống.
Tiểu đồng bưng trà lên. Vũ Thôn hỏi về việc tiên ông siêu thoát ra ngoài cõi trần
như thế nào.
Sĩ ẩn cười bảo:
- Chỉ trong ý nghĩ khác nhau là cõi trần đổi hẳn. Lão tiên
sinh sống cảnh phồn hoa, có biết trong chốn giàu sang êm ấm có anh chàng Bảo Ngọc
hay không?
- Sao lại không biết? Gần đây nghe tiếng đồn đại lung tung,
bảo rằng anh ta cũng đã đem thân vào cửa Phật. Kẻ ngu muội này lúc trước cũng
có gặp anh ta vài lần, nhưng không ngờ con người ấy mà lại kiên quyết từ bỏ được
như thế.
- Không phải như vậy! Cái căn duyên lạ lùng ấy, tôi đã biết
trước. Năm xưa khi tôi cùng tiên sinh trò chuyện trước cửa ngôi nhà cũ trong
ngõ Nhân Thanh, tôi đã gặp anh ta một lần.
Vũ Thôn lạ lùng hỏi:
- Kinh thành cách quí quán rất xa, sao lại gặp anh ấy được?
- Chúng tôi giao du với nhau trên tinh thần đã lâu.
- Đã vậy thì hiện nay Bảo Ngọc ở đâu, chắc tiên ông biết rõ?
Bảo Ngọc tức là viên bảo ngọc. Năm nọ, trước khi phủ Vinh và
phủ Ninh bị khám xét. Bảo thoa và Đại Ngọc xa cách nhau, viên ngọc ấy đã ra khỏi
cõi đời, một là để tránh khỏi tai vạ, hai là để nên đôi vợ chồng. Từ đó duyên nợ
xong xuôi, hình và chất nhập lại làm một. Viên ngọc lại tỏ rõ linh thiêng, đậu
cao, con quí, thế mới rõ đó là trời đất rèn đúc ra, khác hẳn mọi vật ở giữa trần
gian. Trước kia Mang Mang đạo sĩ và Diễu Diễu chân nhân đem nó xuống cõi trần,
đến nay duyên nợ đã hết, lại do hai vị ấy đem nó về chỗ cũ. Đó là nơi qui kết của
Bảo Ngọc.
Vũ Thôn nghe xong, tuy không biết rõ hết cả, nhưng mười phần
cũng hiểu được bốn năm, liền gật đầu than:
- Thế mà kẻ ngu dốt này không hiểu! Nhưng tôi muốn xin tiên
ông chỉ giáo cho điều này: Bảo Ngọc đã có lai lịch, tại sao lại còn mê mẩn vì
tình? Rồi lại ngộ đạo mau mắn như thế?
Sĩ ẩn cười:
- Việc này nói ra chưa chắc tiên sinh đã hiểu hết. Cõi
Thái-hư ảo cảnh, tức là cõi phúc “chân như”. Bảo Ngọc đã hai lần mở cửa sổ vận
mệnh ra xem, những việc nguyên do từ trước đến sao đều thấy rành rành, thì làm
gì mà không ngộ đạo? Cây giáng tiên đã về tiên giới, lẽ nào ngọc “thông
linh” chẳng trở lại chốn xưa?
Vũ Thôn nghe xong, vẫn không hiểu rõ, nhưng biết đó là việc
tiên cơ, không tiện hỏi thêm, rồi lại nói:
- Về việc Bảo Ngọc, tôi đã được tiên ông dạy cho biết rồi.
Nhưng còn con gái khuê các trong họ tôi nhiều đến thế, mà sao từ Nguyên phi trở
xuống, người nào kết cục cũng chỉ bình thường thôi?
Sĩ ẩn than thở:
- Lời nói của tôi, xin tiên sinh đừng lấy làm lạ, con gái
trong họ ngài đều từ trong trời tình hiển khổ mà ra. Xưa nay con gái cố nhiên
không thể mắc vào chữ “dâm”, mà cũng không được vấn vương đến chữ “tình”! Cho
nên Thôi Oanh, Tô tiểu muội, chẳng qua là tiên nữ vướng lòng trần; Tống ngọc,
Tương Như, đều hạng văn nhân mang vạ miệng. Những kẻ đã trót dan díu đến chữ
tình, kết cục sẽ không đáng nói đến nữa?
Vũ Thôn nghe đến đó, bất giác vuốt râu thở dài, rồi lại nói:
- Xin hỏi tiên ông; hai phủ Vinh, Ninh còn có thể trở lại thịnh
vượng như trước không?
- Ở lành gặp phúc, dâm dục mang tai, xưa nay đã có lẽ nhất định.
Hiện nay trong hai phủ Vinh và Ninh, người thiện tu phúc, người ác ăn năn tội lỗi.
Sau này lan quế đua thơm, nghiệp nhà trở lại như trước, cũng là lẽ tất nhiên vậy.
Vũ Thôn gục đầu hồi lâu, rồi bỗng cười:
- Phải rồi, phải rồi ? Hiện nay trong phủ Giả có một anh tên
là Lan đã đậu cử nhân, chính là ứng vào chữ “lan”. Vừa rồi tiên ông có nói “lan
quế đua thơm”, lại nói Bảo Ngọc đậu thủ khoa và sinh quí tử”, có lẽ anh ta còn
có đứa con trong thai, sau này có thể phát đạt lên to chăng ?
Sĩ ẩn mỉm cười nói:
- Đó là việc về sau, không tiện nói trước.
Vũ Thôn còn muốn hỏi nữa, nhưng Sĩ ấn không đáp, rồi bảo người
dọn cỗ mời Vũ Thôn cùng ăn, ăn xong, Vũ Thôn còn muốn hỏi việc chung thân của
mình. Sĩ ẩn nói:
- Lão tiên sinh hãy nghỉ tạm trong lều cỏ này. Tôi còn mắc mối
trần duyên, hôm nay phải gỡ cho hết.
Vũ Thôn lấy làm lạ hỏi:
- Tiên ông tu hành như thế, không biết vì sao lại còn mắc mối
trần duyên?
- Thì cũng chẳng qua là chút tình riêng con cái mà thôi.
Vũ Thôn nghe nói, lại càng lấy làm lạ:
- Xin tiên ông cho biết vì sao lại có câu nói ấy?
- Tiên sinh chưa biết rõ, con gái tôi là Anh Liên. Hồi con nhỏ
gặp phải kiếp xấu. Khi tiên sinh mới ra làm quan, đã từng xử việc này. Nay nó lấy
anh chàng họ Tiết, gặp lúc sinh đẻ khó, nên đã thoát kiếp, sinh được một đứa
cháu cho nhà họ Tiết để nối dõi. Chính bây giờ là lúc nó trút hết nợ trần. Tôi
phải đưa nó đi.
Ông ta nói xong, liền vẫy ống tay áo đứng dậy.
Vũ Thôn trong bụng mơ mơ màng màng, rồi nằm ngủ luôn trong lều
cỏ ở cửa sông Giác Mê nơi bến Cấp Lưu. Sĩ ẩn độ thoát cho Hương Lăng, rồi đưa
chị ta đến Thái
Hư ảo cảnh, giao cho nàng tiên Cảnh ảo để ghi sổ. Khi ông ta
vừa đi qua một cái nhà bia, thì thấy một hòa thượng và một đạo sĩ thoăn thoắt
bước tới, Sĩ ẩn đón lại hỏi:
- Thưa hai vị chân nhân. Đáng mừng! Đáng mừng! Những mối
tình duyên kết liễu đã giao lại xong xuôi chưa?
Hai vị ấy nói:
- Tình duyên vẫn chưa xong, nhưng cái vật xuẩn ngốc ấy thì đã
trở về rồi. Còn phải đưa nó về chỗ cũ, rồi ghi rõ những việc sau này của nó để
không uổng công nó đã xuống cõi trần mấy lâu.
Sĩ ẩn nghe xong, vái chào tạm biệt Hòa thượng là đạo sĩ lại
mang ngọc đến dưới núi Thanh Ngạnh, đặt viên bảo ngọc ấy ở chỗ Nữ Oa luyện đá
vá trời, rồi đều vân du. Từ đó về sau:
Sách ngoài trời chép chuyện ngoài trời,
Người hai kiếp làm người một kiếp.
Một hôm, Không Không đạo nhân lại đi qua núi Thanh Ngạnh,
trông thấy viên đá chưa dùng “vá trời” hãy còn ở đó, trên mặt nét chữ vẫn
nguyên như cũ, liền xem lại một lượt từ đầu đến cuối thấy sau bài kệ lại ghi
chép nhiều chuyện “duyên nợ đã trải qua ở dưới trần”, liền gật đầu than:
- Trước kia ta thấy đoạn văn lạ lùng của Thạch huynh, nghĩ rằng
có thể đem làm chuyện lạ cho đời, nên ta sao chép lại, nhưng chưa thấy ghi rõ
việc trở lại gốc cũ, không biết câu chuyện hay ho này được thêm vào lúc nào?
Thế mới biết Thạch huynh xuống trần một lần, đã tỏa ra chất sáng lóa, rồi
lại tu hành trọn đạo, cũng có thể nói là không còn ân hận gì nữa? Chỉ sợ sau
này ngày tháng trôi qua, nét chữ mờ đi không rõ, lại có sự gì sai lầm chăng.
Chi bằng ta sao chép lại một lần nữa, rồi tìm một người thanh nhàn vô sự ở trên
đời, nhờ họ truyền khắp, để cho người đời biết việc này lạ không ra lạ, tục
không ra tục, thật không ra thật, giả không ra giả. Hoặc giả: “Cõi trần lật đật
giấc mơ, đành phải mượn chim gọi lại. Thần núi say sưa mến khách từ nơi hóa đá
bay về, cũng chưa biết chừng?”
Đạo nhân nghĩ xong, liền sao chép lại, rồi mang đến những nơi
phồn hoa thịnh vượng tìm hỏi một lượt. Nhưng trong các chỗ ấy, nếu không phải
là những kẻ tính toán lập công lập nghiệp thì lại là hạng người chạy vạy lo áo
kiếm cơm, có ai rảnh rỗi đâu mà đi nói chuyện với viên đá? Đạo nhân tìm
mãi đến trong gian lều cỏ ở cửa sông Giác Mê nơi bến Cấp Lưu, thấy một người nằm
ngủ. Chắc hắn ta là người rảnh rỗi, đạo nhân định đem chuyện Thạch đầu ký đã
sao chép được cho hắn xem. Nào ngờ gọi mãi người ấy không tỉnh. Đạo nhân cố sức
kéo. Hắn mới từ từ mở mắt ngồi dậy, rồi cầm lấy truyện ấy xem qua, lại đặt xuống
nói: “Việc này tôi đã trông thấy và đã biết hết, bản sao chép của đạo nhân cũng
không sai. Tôi xin chỉ cho đạo nhân một người, rồi nhờ người ấy truyền ra, thì
có thể kết thúc được cái án mới mẻ này.”
Không Không đạo nhân vội hỏi là người nào. Người ấy nói:
- Đạo nhân phải đợi cho đến năm nọ, tháng nọ, ngày nọ, đi đến
một chỗ gọi là hiên Điệu Hồng, sẽ thấy ở đó có ông Tào Tuyết Cần, và bảo rằng:
“Giả Vũ Thôn nói nhờ ông ta như thế như thế.”
Người trong lều nói xong, lại nằm xuống ngủ.
Không Không đạo nhân ghi nhớ kỹ những lời nói ấy. Sau đó
không biết trải qua mấy đời mấy kiếp, quả thấy có hiên Điệu Hồng, và Tào Tuyết
Cần đang ở đấy giở xem những sách cổ sử xưa nay. Không Không đạo nhân liền thuật
lại câu nói của Giả Vũ Thôn rồi đem truyện Thạch đầu ký ra. Tào Tuyết Cần cười
bảo:
- Quả thực là Giả Vũ Thôn nói rồi! (4)
Không Không đạo nhân liền hỏi:
- Tiên sinh vì sao biết được người ấy, mà chịu truyền thuật
truyện này thay cho ông ta?
Tào Tuyết Cần cười nói:
- Người ta gọi ngài là Không Không, quả nhiên trong bụng
không có gì cả! Truyện này toàn là câu chuyện thêu dệt, thì cất sao khỏi những
chỗ sai lầm, mâu thuẫn, chỉ để khi cơm no rượu say, đêm mưa đèn sáng, sẽ cùng mấy
người chung chí hướng đọc với nhau, làm tiêu tan những nỗi hiu quạnh là được.
Chứ cần gì phải có những bậc đại nhân bình phẩm và truyền khắp trên đời. Còn
như ngài muốn dò xét từ ngành ngọn thì thật hết sức câu nệ. Chẳng khác “vạch
vào thuyền để tìm gươm, gắn phím để gãy đàn vậy?“
Không Không đạo nhân nghe xong, ngửa mặt lên trời cười to rồi
vứt bản sao lại, vùn vụt ra đi, vừa đi vừa nói:
- Té ra toàn là chuyện bày đặt viễn vông cả? Không những người
làm không biết, người chép không biết, mà cả người đọc cũng không biết nữa. Chẳng
qua chỉ là thứ văn chương du ký, để cho thích thú tính tình mà thôi.
Nhưng ráng chiếu cố một đoạn nữa, vì những câu thơ ghi nhớ sẽ
hiểu rõ hơn.
Người đời sau thấy bản truyền kỳ này, cũng đã viết bốn câu kệ,
để bổ sung vào những lời nói từ đầu của tác giả.
Nói đến nỗi chua cay,
Hoang đường lại buồn thay.
Xưa nay đều cảnh mộng,
Chớ bảo người đời ngây.
Chú thích:
1. Ý nói theo lệ lương tháng của bọn vợ lẻ, mỗi tháng hai lạng.
2. Việc Tưởng Ngọc Hàm tặng thắt lưng cho Bảo Ngọc và Bảo Ngọc
đưa thắt lưng ấy cho Tập Nhân, xin xem lại hồi thứ 28.
3. Sở Văn Vương lánh nạn, vợ vua nước Tần, Tức phu nhân bị bắt
về làm thiếp, sinh được hai con. Sở Văn Vương hỏi phu nhân, sao vẫn không chịu
nói năng gì. Phu nhân nói: “Tôi là một người đàn bà đã phải lấy hai lần chồng,
chỉ còn khác một cái chết, có gì đáng nói nữa?” Đời sau tôn là Đào Hoa phu
nhân, lập miếu thờ phụng.
4. Cũng như chú thích ở hồi một. Chữ “Giá ngữ thôn ngôn“
(nói bịa) với “Giá Vú Thôn ngôn” (Giá Vũ Thôn nói) đọc giống nhau. Tác giả lấy
chữ “Giả Vũ Thôn ngôn” thay cho “Giá ngữ thôn ngôn”, chữ nọ đánh ra chữ kia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét