Hồi 79:
Anh chẹt em, Tào Thực ngâm thơ
Cháu hại chú, Lưu Phong chịu tội
Tào Phi nghe tin Tào Chương kéo quân đến, sợ hỏi các quan. Có
một người xin ra lấy lời bẻ Tào Chương, trông ra thì là gián nghị đại phu Giả Qùy.
Phi mừng lắm, lập tức sai Giả Qùy đi. Qùy ra thành đón Tào
Chương. Chương hỏi:
- Tỉ thụ của tiên vương để ở đâu?
Qùy nghiêm sắc mặt lại nói rằng:
- Nhà có con trưởng, nước có vua kế tự, tỉ thụ của tiên
vương, ông không có phép hỏi được.
Chương nín lặng, không nói gì, cùng đi với Giả Qùy vào thành.
Khi gần đến cửa cung, Qùy hỏi rằng:
- Ông đến đây để chịu tang, hay là muốn đến tranh ngôi?
Chương nói:
- Ta đến chịu tang đấy thôi, chứ có bụng gì đâu?
Qùy nói:
- Đã không có bụng gì, cớ sao lại mang cả quân vào thành?
Chương lập tức quát tướng sĩ lui ra, chỉ độc một mình vào
cung, ra mắt Tào Phi. Hai anh em ôm nhau khóc lóc. Tào Chương đem hết quân mã của
mình, giao lại cho Tào Phi. Phi sai Chương về giữ Yển Lăng. Chương lạy từ trở
ra.
Từ bấy giờ Tào Phi mới vững chân, đổi năm Kiến An thứ hai
mươi lăm làm năm Diên Khang thứ nhất (220) phong Giả Hủ làm thái úy, Hoa Hâm
làm tướng quốc, Vương Lãng làm ngự sử đại phu. Quan viên lớn nhỏ đều được phong
thưởng cả. Lại đặt tên thụy Tào Tháo là Vũ vương, táng tại Cao Lăng, ở Nghiệp
Quận.
Phi sai Vu Cấm ra coi việc sửa lăng. Cấm phụng mệnh ra đó, thấy
trên tường trắng trong nhà mồ có vẽ bức tranh Quan Công đang ngồi ngất ngưởng ở
trên, ở dưới Bàng Đức hung hăng không chịu phục, còn Vu Cấm thì đang lom khom lạy
xuống đất kêu van.
Nguyên Tào Phi thấy Vu Cấm thua trận bị bắt, đã không biết tử
tiết thì chớ, lại còn vác mặt trở về, trong bụng coi khinh lắm, cho nên sai người
vẽ tranh ấy vào vách để sỉ nhục Cấm. Cấm trông thấy vậy, vừa xấu hổ vừa tức, uất
lên thành bệnh, không ăn mấy bữa thì chết.
Người sau có thơ rằng:
Giúp chúa công trình kể biết bao?
Tiếc thay, lâm nạn chẳng trung Tào!
Lòng người hổ vẽ lường cho xiết,
Bức vẽ trên tường đẹp mặt sao?
Hoa Hâm tâu với Tào Phi rằng:
- Yển Lăng hầu đã giao xong quân mã và về giữ bản quốc rồi,
còn Lâm Chi hầu Tào Thực, Tiêu Hoài hầu Tào Hùng, hai người không đến chịu
tang, lẽ phải hỏi tội mới được.
Phi theo lời, sai sứ giả đến hai nơi hỏi tội.
Không bao lâu, một sứ giả ở Tiêu Hoài về báo rằng:
- Tiêu Hoài hầu Tào Hùng sợ tội, thắt cổ tự tử rồi.
Phi sai hậu táng cho, và truy tặng làm Tiêu Hoài vương.
Qua vài hôm, sứ giả ở Lâm Chi lại về báo rằng:
- Lâm Chi hầu ngày nào cũng a tùng với bọn anh em Đinh Nghi,
Đinh Dị, uống rượu say sưa, càn rỡ, không biết lễ phép gì. Khi chúng tôi đến,
Lâm Chi hầu ngồi chễm chệ, không thèm cựa mình. Còn Đinh Nghi thì mắng rằng:
“Khi trước tiên vương muốn lập chủ ta làm thế tử, bị những quân nịnh nót ngăn
trở. Nay tiên vương mới mất chưa được mấy ngày, đã muốn hỏi tội trong cốt nhục
hay sao?” Đinh Dị cũng nói: “Cứ như chủ ta thông minh hơn đời, đáng lẽ nối vào
ngôi lớn mới phải. Nay lại hóa ra không được lập, các bầy tôi miếu đường chúng
bay, sao không biết nhân tài làm vậy?” Bởi thế, Lâm Chi hầu nổi giận, sai võ sĩ
đem tôi ra đập đánh một hồi rồi đuổi đi.
Phi nghe nói, nổi giận, sai ngay Hứa Chử lĩnh ba nghìn quân hộ
vệ đến Lâm Chi bắt bọn Tào Thực.
Hứa Chử phụng mệnh, dẫn quân đến Lâm Chi, tướng giữ cửa thành
ngăn lại không cho vào. Chử chém phăng ngay tướng ấy, vào thẳng trong thành,
không ai dám chống lại. Chử đến phủ đường, thấy Tào Thực và Đinh Nghi, Đinh Dị
đang say rượu nằm ườn cả ra đấy. Chử trói ráo lại, bỏ lên xe, lại bắt hết cả
quan liêu lớn nhỏ, giải về Nghiệp Quận, đợi Tào Phi phát lạc.
Phi truyền lệnh đem giết sạch bọn Đinh Nghi, Đinh Dị. Hai người
quê ở Bái Quận, đều nổi tiếng hay chữ một thời, ai cũng thương tiếc.
Mẹ Tào Phi là Biện thị, nghe thấy Tào Hùng phải thắt cổ chết,
đau xót vô cùng. Lại nghe tin Tào Thực bị bắt, đồ đảng là bọn Đinh Nghi bị giết,
kinh hãi quá chừng, vội vàng ra điện gọi Tào Phi vào hỏi.
Phi thấy mẹ ra vội vàng đến lạy. Biện thị khóc bảo:
- Em con là Thực, xưa nay ngông nghênh rượu chè, vì nó cậy có
tài nên mới phóng túng như thế. Con nên nghĩ tình anh em ruột thịt mà tha tội
cho nó, thì dù mẹ chết xuống suối vàng cũng được nằm yên.
Phi nói:
- Con cũng yêu cái tài của nó có đâu nỡ hại nó; nay cũng răn
bảo cho nó chừa bớt đi đó thôi, xin mẹ chớ lo!
Biện thị gạt nước mắt trở vào.
Phi ra nơi thiên điện, đòi Tào Thực đến ra mắt.
Hoa Hâm hỏi:
- Vừa rồi thái hậu dặn điện hạ đừng giết Tử Kiến có phải
không?
Phi nói:
- Phải.
Hâm nói:
- Tử Kiến có tài, có trí, không phải là người tầm thường, nếu
không trừ đi cho sớm, tất để vạ về sau.
Hâm nói tiếp:
- Ai cũng bảo Tử Kiến xuất khẩu thành chương, tôi chưa tin lắm,
điện hạ nên đòi vào, hỏi thử xem tài y ra làm sao, nếu thấy không có tài thì giết
phắt đi, nhược bằng có tài thì cũng giáng chức xuống, để che bớt miệng văn nhân
trong thiên hạ.
Phi nghe lời. Một lát Tào Thực vào ra mắt, sợ hãi xin thú tội.
Phi nói:
- Tao với mày, tình tuy là anh em, nhưng nghĩa thì là vua
tôi, mày sao dám cậy tài bỏ lễ? Khi còn tiên quân, mày hay đem văn chương khoe
hợm với người, tao nghi cho mày tất mượn người khác làm gà; nay ta hạn cho mày
đi bảy bước, phải ngâm xong một bài thơ, ngâm được thì ta tha cho khỏi chết, nếu
không xong, sẽ trị tội nặng, quyết không tha.
Thực nói:
- Xin ra cho đầu bài.
Khi ấy ở trên điện treo một bức tranh thủy mạc, vẽ hai con
trâu chọi nhau dưới bức tường, một con ngã xuống giếng chết.
Phi trỏ vào bức tranh bảo rằng:
- Vịnh ngay bức tranh này, nhưng cấm không được phạm vào các
chữ: “Hai trâu chọi dưới tường, một con sa giếng chết”.
Thực đi được bảy bước thì ngâm cũng vừa xong bài thơ.
Thơ rằng:
Đôi vật đi cùng đường,
Trên đầu bốn khúc xương,
Gặp nhau tựa sườn núi,
Hung hăng mở chiến trường,
Đôi bên đua sức mạnh,
Một vật lăn xuống hang,
Nào phải lực có kém,
Chẳng qua sự nhỡ nhàng!
Tào Phi và các quan chịu là tài.
Phi lại nói:
- Bảy bước mới xong bài thơ, hãy còn là chậm, mày có ứng khẩu
ngay được một bài thơ không?
Thực lại xin đầu bài.
Phi nói:
- Ta với mày là anh em, lấy ngay việc ấy làm đầu bài, nhưng
cũng không được phạm vào hai chữ “Anh em”.
Thực không cần suy nghĩ gì, ứng khẩu đọc ngay một bài rằng:
Nấu đậu đốt cành đậu,
Đậu ở trong nồi khóc,
Vốn sinh cùng một gốc
Sao nỡ đốt thiêu nhau.
Tào Phi nghe xong, bỗng nhiên ứa nước mắt. Biện thị ở sau điện
chạy ra, nói:
- Anh sao chẹt em quá thế?
Phi vội vàng đứng dậy nói:
- Phép nước không sao bỏ được!
Bởi thế, giáng Tào Thực xuống làm An Hương hầu, Thực lạy từ,
lên ngựa đi ra.
Từ khi Tào Phi lên ngôi, pháp lệnh thay đổi mới cả, bức hiếp
vua Hiến đế lại thậm tệ hơn cha hắn khi trước.
Có mật thám báo tin ấy về Thành Đô, Hán Trung vương giật
mình, bàn với các quan rằng:
- Tào Tháo chết rồi, Tào Phi nối ngôi, bức hiếp thiên tử, lại
thậm tệ hơn cha hắn. Tôn Quyền ở Đông Ngô, chắp tay xưng thần. Cô muốn trước hết
đánh Đông Ngô, để báo thù cho Vân Trường rồi sau sẽ đánh Trung Nguyên, để trừ
loạn tặc, các ngươi nghĩ thế nào?
Huyền Đức nói vừa dứt lời, Liêu Hóa ra lạy xuống đất, khóc rằng:
- Cha con Quan Công bị hại, là vì Lưu Phong, Mạnh Đạt không cứu,
xin giết hai tên giặc ấy đi mới được.
Hán Trung vương toan sai người đi bắt.
Khổng Minh can rằng:
- Việc ấy phải thong thả định liệu mới được, chớ có vội vàng
mà sinh biến. Nay hãy thăng cho hai người làm quận thú, chia đi hai nơi, rồi mới
trừ được.
Hán Trung vương nghe lời, sai sứ ra thăng cho Lưu Phong về giữ
ở Miên Trúc.
Bành Dạng vốn chơi thân với Mạnh Đạt, nghe thấy vậy, vội vàng
viết thư sai người báo tin cho Đạt biết. Người mang thư vừa ra đến cửa nam thì
bị quân đi tuần của Mã Siêu bắt được. Siêu tra hỏi biết tình đầu như thế, lập tức
đến chơi Bành Dạng. Dạng ra tiếp vào, đặt rượu thiết đãi. Rượu nửa chừng Siêu
nói gợi lên rằng:
- Ngày xưa Hán Trung vương đãi ông hậu lắm, nay sao có ý nhạt
nhẽo?
Dạng nhân rượu ngà ngà say, nổi giận mắng rằng:
- Ông già ấy lẫn quẫn lắm, thế nào cũng có phen ta báo được mới
nghe!
Siêu cũng nói tảng ra rằng:
- Tôi lâu nay cũng oán ông ấy lắm!
Dạng nói:
- Có phải thế thì ông hãy cất quân bản hộ, kết với Mạnh Đạt
làm ngoại ứng, tôi đem quân trong Xuyên làm nội công, việc lớn chắc xong!
Siêu nói:
- Tiên sinh nói phải lắm, mai ta sẽ bàn lại với nhau.
Siêu từ giã ra về, đem ngay cả người lẫn thư vào nộp Hán
Trung vương, và thuật lại đầu đuôi câu chuyện ấy.
Hán Trung vương giận lắm, sai bắt ngay Bành Dạng tống ngục
tra hỏi, quả nhiên như thế, Bành Dạng ngồi trong ngục, hối hận thì sự đã rồi.
Hán Trung vương hỏi Khổng Minh rằng:
- Bành Dạng có ý mưu phản, phải trị làm sao?
- Dạng là một người ngông nghênh, để lâu tất cũng sinh vạ.
Hán Trung vương mới cho Bành Dạng tự tử ở trong ngục.
Dạng chết rồi, có người báo tin cho Mạnh Đạt biết. Đạt sợ cuống
cả người lại. Chợt có sứ giả đến, điều Lưu Phong ra giữ thành Miên Trúc. Đạt
bàn với hai anh em đô úy Thượng Dung và Phòng Lăng là Thân Đam, Thân Nghi rằng:
- Ta với Pháp Hiếu Trực đều có công với Hán Trung vương. Nay
Hiếu Trực mất rồi, Hán Trung vương quên công của ta, lại muốn hại ta, thì làm
thế nào?
Đam nói:
- Tôi có một kế, khiến Hán Trung vương không thể hại ông được.
Đạt mừng lắm vội hỏi kế gì.
Đam nói:
- Anh em tôi muốn hàng Ngụy đã lâu, ông nên viết một bài biểu,
từ biệt Hán Trung vương, rồi sang hàng Ngụy vương Tào Phi, chắc được trọng dụng.
Hai chúng tôi cũng theo sang sau.
Đạt chợt nghĩ ra, liền tả một bài biểu, giao cho sứ giả, rồi
đêm ấy dẫn năm chục kỵ mã sang hàng Ngụy. Sứ giả mang biểu về Thành Đô, tâu với
Hán Trung vương. Hán Trung vương giận lắm, xem tờ biểu viết rằng:
“Thần là Đạt thiết nghĩ rằng: Điện hạ sắp sửa dựng nghiệp Y,
Lã, theo công Hoàn, Văn, mượn đất Ngô, Sở này để gây dựng việc lớn. Bởi thế, những
người có chí lũ lượt kéo về. Thần từ khi theo đòi đến nay, tội lỗi chất cao đầy
núi, thần cũng tự biết mình lắm, huống chi điện hạ.
Nay trong triều những bực tài giỏi đông như kiến, thần tài
hèn sức yếu, mà cũng được dự vào hàng công thần, thần tự nghĩ mình lấy làm hổ
thẹn!
Thần có nghe: Phạm Lãi biết ơn, lênh đênh năm hồ, Cữu Phạm tạ
tội, quanh quẩn trên sông! Ôi! Đang khi vua tôi gặp gỡ nhau, mà phải mang thân
đi lánh, là cớ làm sao? Bởi vì, muốn rõ ràng trong đường lui tới vậy.
Huống chi, thần là kẻ hèn hạ, không có công cán gì to: Nghĩ đến
sự đời, lại nhớ đến các ông tiền hiền lắm.
Ngày xưa, Thân Sinh rất hiếu mà bị cha nghi, Tử Tư rất trung
mà bị vua giết, Mông Điềm có công mở bờ cõi mà phải tội, Nhạc Nghị có công phá
nước Tề mà bị đuổi đi. Thần mỗi khi xem sách, nói đến các ông ấy, không thể
không cảm khái sụt sùi. Không ngờ thần lại gặp phải cảnh như thế, càng thêm
chua xót lắm!
Trước đây, Kinh Châu đổ mất, đại thần thất tiết, trăm phần
không dám chối phần nào. Vậy thần xin giả Phòng Lăng, Thượng Dung mà xin đem
thân ra ngoài, cho được thỏa chí.
Xin điện hạ rủ ơn thánh, soi xét cho thần; thấu tình của thần
mà thương cái cảnh của thần. Thần thật là tiểu nhân, không được thủy chung như
nhất. Thần biết thế là không phải mà vẫn làm, há dám chối là không có tội?
Thần lại nghe có câu rằng: “Bạn chơi với nhau tuy đã tuyệt
không nỡ nói nhau quá lời, bầy tôi thờ chủ tuy đã bỏ đi, không nên oán thán
gì”. Thần vẫn nhớ lời quân tử, vậy xin điện hạ cố gắng lên, thần sợ hãi không
sao kể xiết!”
Hán Trung vương xem xong, nổi giận nói rằng:
- Quân thất phu đã phản ta thì chớ, lại dám đem văn tự ra đùa
ta ru!
Liền toan cất quân đi bắt.
Khổng Minh nói:
- Nên sai ngay Lưu Phong tiến binh bắt Mạnh Đạt, để cho hai hổ
chọi nhau. Lưu Phong hoặc thành công, hoặc bại trận; thế nào cũng phải về Thành
Đô, sẽ bắt mà trừ đi, thì tuyệt được cả hai cái hại ấy.
Hán Trung vương nghe lời, cho sứ ra Miên Trúc truyền sai Lưu
Phong đem quân đi bắt Mạnh Đạt.
Lại nói, Tào Phi đang tụ văn võ bàn việc, cận thần vào báo rằng:
- Có tướng bên Thục là Mạnh Đạt đến hàng.
Phi đòi vào hỏi:
- Người đến đây hàng có mưu mẹo gì giả dối chăng?
Đạt thưa:
- Tôi chỉ vì không chịu cứu Quan Công, Hán Trung vương muốn
giết tôi, cho nên đến hàng, chớ không có ý gì khác.
Tào Phi vẫn chưa tin, chợt có tin báo Lưu Phong dẫn năm vạn
quân lại lấy Tương Dương, chỉ thách một mình Mạnh Đạt ra đánh.
Phi bảo Mạnh Đạt rằng:
- Ngươi có phải thực bụng hàng, thì hãy ra Tương Dương lấy đầu
Lưu Phong về đây, ta mới tin.
Đạt nói:
- Tôi lấy đường lợi hại ra bảo Lưu Phong, tất nhiên hắn cũng
đến hàng.
Phi mừng lắm, phong cho Mạnh Đạt làm tán kỵ thường thị, kiến
võ tướng quân, Bình Dương đình hầu, lĩnh chức thái thú Tân Thành, ra giữ ở
Tương Dương, Phàn Thành.
Hạ Hầu Thượng, Từ Hoảng ở Tương Dương sắp sửa đánh lấy các quận
Thượng Dung. Mạnh Đạt đến nơi, vào chơi hai tướng, thì nghe tin Lưu Phong dẫn
quân đến, cách ngoài thành năm mươi dặm hạ trại. Đạt mới viết một phong thư,
sai người mang đến trại Thục, dụ Lưu Phong lại hàng. Phong xem thư nổi giận,
nói:
- Thằng giặc này đã làm mất nghĩa chú cháu của ta, lại muốn
lìa tình cha con ta để cho ta thành ra đứa bất trung bất hiếu hay sao?
Nói đoạn liền xé thư, chém sứ, hầm hầm nổi giận, dẫn quân ra
đánh. Hai bên dàn trận, Phong dừng ngựa đứng dưới cửa cờ, cầm đao trỏ Mạnh Đạt
mắng rằng:
- Quân phản tặc bỏ nước kia, sao dám nói càn?
Mạnh Đạt nói:
- Mày chết đã kề cổ rồi, còn u mê không biết à?
Phong giận lắm, tế ngựa múa đao xông thẳng vào đánh Mạnh Đạt.
Đánh chưa được vài hiệp Đạt thua chạy. Phong đuổi theo hơn hai trăm dặm, bỗng nổi
một tiếng reo, quân phục đổ cả ra: bên tả Hạ Hầu Thượng kéo tới, bên hữu Từ Hoảng
ập đến, Mạnh Đạt cũng quay lại, ba mặt đánh ập vào. Lưu Phong thua to, chạy
luôn đêm về đến Thượng Dung, quân Ngụy đuổi theo ráo riết, Phong đến dưới thành
gọi cửa, thì thấy tên bắn xuống như mưa, rồi Thân Đam ở trên địch lâu gọi rằng:
- Ta đã hàng Ngụy rồi!
Phong giận lắm, muốn đánh phá thành, nhưng quân đuổi theo sau
đã đến. Phong phải chạy về Phòng Lăng. Đến nơi thì thấy trên thành đã cắm cờ hiệu
nước Ngụy cả rồi. Thân Nghi ở trên phất cờ hiệu. Từ Hoảng ở phía sau kéo đến.
Phong đánh không lại, kíp chạy về Tây Xuyên. Hoảng thừa thế đuổi đánh. Thủ hạ của
Lưu Phong chỉ còn hơn trăm quân kỵ.
Phong đến Thành Đô, vào ra mắt Hán Trung vương khóc lạy xuống
đất, tâu rõ việc trước.
Hán Trung vương giận, nói:
- Nhục tử, còn mặt mũi nào dám vào ra mắt ta?
Phong nói:
- Khi thúc phụ lâm nạn, không phải con không cứu, chỉ vì Mạnh
Đạt ngăn trở.
Hán Trung vương lại giận thêm, mắng rằng:
- Mày ăn cơm người, mặc áo người, không phải là loại bù nhìn
tượng gỗ, sao lại đi nghe lời gièm pha?
Lập tức sai tả hữu lôi Phong ra chém.
Hán Trung vương chém xong Lưu Phong, sau biết Phong xé thư
chém sứ giả của Mạnh Đạt, bấy giờ mới hối. Hán Trung vương vì thương Quan Công
quá, nên sinh bệnh, phải đóng quân tại chỗ, chưa dám động vội.
Tào Phi từ khi lên ngôi Ngụy vương, thăng thưởng cả cho các
quan văn võ, rồi dẫn ba mươi vạn quân về thăm huyện Tiêu nước Bái là nơi quê
cha đất tổ; mở tiệc lớn tế bái mồ mả tổ tiên. Các cụ già trong làng kéo ra bái
vọng chật cả đường cái, tranh nhau dâng rượu chúc thọ, theo lệ như vua Cao tổ
nhà Hán về nước Bái khi xưa.
Chợt có tin báo Hạ Hầu Đôn bệnh nguy cấp lắm. Phi vội vàng trở
về Nghiệp Quận thì Đôn mất rồi. Phi thương tiếc lắm, sai làm ma cực hậu. Phi
cũng để trở.
Tháng tám năm ấy, có người báo ở huyện Thạch Ấp, có chim phượng
hoàng về chầu, ở thành Lâm Chi, có kỳ lân hiện ra, mà rồng vàng thì uốn khúc ở
Nghiệp Quận.
Bởi thế trung lương là Lý Phúc, thái sử thừa là Hứa Chi bàn với
nhau rằng:
- Những điềm lành ấy đều là dấu hiệu nhà Ngụy phải thay vào
ngôi nhà Hán. Vậy nên sắm sửa nghi lễ thụ thiên, để cho vua Hán nhường thiên hạ
cho Ngụy vương.
Bàn định rồi, mới cùng bọn Hoa Hâm, Vương Lãng, Tân Tỷ, Giả Hủ,
Lưu Hoa, Lưu Dị, Trần Kiệu, Trần Quần, Hoàn Giai, cả bọn văn võ hơn bốn mươi
người, vào thẳng nội điện, tâu với vua Hiến đế, xin nhường ngôi cho Ngụy vương
Tào Phi.
Đó là:
Xã tắc nhà Tào vừa nhóm dựng,
Giang sơn đời Hán phút lìa tan!
Chưa biết Hiến đế nói năng ra sao, xem hồi sao sẽ biết.
Hồi 80:
Tào Phi bỏ Hiến Đế, cướp vận Viêm Lưu
Hán vương lên ngôi rồng, nối dòng đại thống
Bọn Hoa Hâm và các quan văn võ vào tâu với vua Hiến đế rằng:
- Từ khi Nguỵ vương lên ngôi đến nay, ân đức gieo khắp bốn
phương, nhân nghĩa ra tới muôn vật, chưa có ai bì kịp; dẫu Đường, Ngu cũng chỉ
đến thế là cùng. Quần thần chúng tôi cũng đã bàn với nhau: vận nhà Hán đã hết,
xin bệ hạ bắt chước vua Nghiêu vua Thuấn, đem sơn hà xã tắc nhường cho Nguỵ
vương, trên hợp lòng trời, dưới thuận ý dân, bệ hạ cũng được hưởng phúc thanh
nhàn, mà tổ tiên và sinh linh cũng được may mắn cả. Chúng tôi bàn định đâu đấy
cả rồi, xin lại tâu với bệ hạ.
Vua Hiến đế giật mình, ngồi lặng đi nửa giờ, không nói được
câu gì, rồi nhìn vào các quan mà khóc rằng:
- Trẫm nghĩ khi xưa đức Cao tổ, cầm ba thước gươm, chém rắn
khởi nghĩa, phá Tần diệt Sở, gây dựng cơ nghiệp, đời đời truyền nối, được hơn bốn
trăm năm nay. Trẫm tuy bất tài, nhưng cũng không có điều gì quá ác, sao nỡ đem
cơ nghiệp của tổ tôn mà bỏ đi cho đành? Quần thần các ngươi, nên bàn định lại
cho phải!
Hoa Hâm dẫn bọn Lý Phục, Hứa Chi đến trước mặt vua tâu rằng:
- Nếu bệ hạ không tin, nên hỏi hai người này!
Lý Phục tâu rằng:
- Từ khi Nguỵ vương lên ngôi đến giờ, kỳ lân ra chơi, phượng
hoàng đến múa, rồng vàng xuất hiện, lúa tốt sinh ra từng cụm, trời sa hạt móc
ngọt. Đó là toàn điềm trời xui ra, cái triệu nhà Nguỵ nên thay vào nhà Hán đó.
Hứa Chi lại tâu rằng:
- Chúng tôi coi về thiên văn, đêm nhìn tượng trời, thấy khí số
nhà Hán đã hết, ngôi đế tinh của bệ hạ lờ mờ không được sáng; mà xem đến sao
nhà Nguỵ, thì vằng vặc khắp trời đất. Vả lại ứng vào lời sấm rằng: “Quỷ tại
biên, uỷ tương liên, đương đại Hán, vô khả ngôn, ngôn tại đông, ngọ tại tây, lưỡng
nhật tịnh quang thượng hạ di”. Cứ như lời sấm ấy thì chữ quỷ ở một bên liền với
chữ uý là chữ Nguỵ: Chữ ngôn ở đông, chữ ngọ ở tây là chữ Hứa. Lưỡng nhật tịnh
quang thượng hạ di, nghĩa là hai chữ nhật đều nhau ở trên ở dưới là chữ Xương.
Đó là cái điềm nhà Nguỵ ở Hứa Xương nên thay vào ngôi nhà Hán. Xin bệ hạ suy
xét mà nhường ngôi cho Nguỵ vương ngay đi!
- Điềm lành và lời sấm là những việc huyền hoặc cả, sao lại
muốn cho trẫm bỏ cơ nghiệp của tổ tôn đi?
Vương Lãng tâu rằng:
- Từ xưa đến giờ, có khi lên tất có khi xuống, có khi thịnh tất
có khi suy, chẳng có nước nào là nước chẳng mất, nhà nào là nhà chẳng đổ bao giờ!
Nhà Hán truyền nhau bốn trăm năm, đến bệ hạ, khí số đã kiệt rồi, bệ hạ nên mau
mau mà lui về đi, kẻo chậm chạp thì sinh biến mất!
Vua khóc ầm lên, rồi quay vào hậu điện.
Các quan cười tủm tỉm trở ra.
Hôm sau, các quan lại hội cả ở đại điện, sai hoạn quan vào mời
vua Hiến đế. Vua lo sợ không dám ra.
Tào hậu nói:
- Các quan mời bệ hạ ra thiết triều, bệ hạ làm sao lại ngại
ngùng mà không ra?
Vua khóc nói:
- Anh nàng muốn cướp ngôi, sai các quan vào nài ép trẫm, trẫm
không muốn ra.
Tào hậu nổi giận, nói:
- Anh ta sao dám làm việc loạn nghịch như thế?
Đang nói thì Tào Hồng, Tào Hưu đem gươm vào cung, mời vua ra
điện.
Tào hậu quát mắng rằng:
- Chỉ tự các ngươi muốn mưu đồ phú quý, gây nên việc phản nghịch
này! Xem như cha ta, công trùm bờ cõi oai khắp thiên hạ, còn chẳng dám cướp
ngôi vua, huống chi anh ta, nối ngôi chưa được bao lâu, mà đã muốn cướp ngôi
nhà Hán! Trời đất không chứng cho các ngươi đâu!
Nói đoạn khóc oà lên, trở vào cung. Những kẻ hầu tả hữu, ai nấy
cũng sụt sùi ứa nước mắt.
Tào Hồng, Tào Hưu cố mời vua ra điện, vua không sao từ chối
được, phải thay áo đi ra.
Hoa Hâm tâu rằng:
- Bệ hạ nên y lời chúng tôi bàn hôm qua, kẻo mang vạ to.
Vua đau lòng khóc nói rằng:
- Các ngươi ăn lộc nhà Hán đã lâu cả, mà cũng nhiều người là
con cháu công thần nhà Hán, sao nỡ làm việc phản nghịch như thế?
Hoa Hâm nói:
- Nếu bệ hạ không nghe lời chúng tôi, một mai xảy vạ từ trong
nhà, thì đừng trách chúng tôi là không trung với bệ hạ!
Vua nói:
- Thằng nào dám hại trẫm bây giờ?
Hoa Hâm quát lên rằng:
- Người trong thiên hạ, ai cũng biết bệ hạ không có phúc phận
làm vua, cho nên bốn phương nổi loạn; nếu không có Nguỵ vương ở trong triều,
thì vô số người giết bệ hạ rồi. Bệ hạ không biết nghĩ mà báo ân, muốn để cho
thiên hạ đến đánh bệ hạ hay sao?
Vua giận lắm, rũ tay áo đứng dậy. Vương Lãng đưa mắt cho Hoa
Hâm, Hâm bước lên, lôi lấy vạt áo long bào, hầm hầm nói:
- Ưng hay không ưng, hãy nói cho biết!
Vua run cầm cập không đáp lại được. Tào Hồng, Tào Hưu rút
gươm ra quát to lên rằng:
- Quan giữ ấn đâu?
Tổ Bật bước ra nói:
- Đây, quan giữ ấn đây!
Tào Hồng bắt đưa ngọc tỉ ra, Tổ Bật mắng rằng:
- Ngọc tỉ là đồ quý báu của thiên tử, đòi thế nào được?
Hồng quát sai võ sĩ lôi Tổ Bật ra chém. Bật chửi mắng om sòm
kỳ đến lúc chết mới thôi.
Người sau có thơ khen Tổ Bật rằng:
Gian đảng chuyên quyền, Hán đổ rồi,
Vẽ vời khéo đặt việc nhường ngôi.
Trăm quan một cánh về Tào cả,
Trung nghĩa duy còn Tổ Bật thôi!
Vua thấy vậy sợ run cầm cập, lại thấy ở dưới thềm, hơn trăm
người mặc áo giáp cầm đồ khí giới đều là quân Nguỵ cả. Vua khóc bảo với quần thần
rằng:
- Trẫm tình nguyện nhường thiên hạ cho Nguỵ vương, xin tha
cái sống sót cho trẫm, để được trọn tuổi trời!
Giả Hủ nói:
- Nguỵ vương tất không phụ bệ hạ đâu, bệ hạ nên giáng chiếu
ngay cho, để yên bụng dân chúng.
Vua bất đắc dĩ phải sai Trần Quần thảo tờ chiếu nhường nước,
rồi sai Hoa Hâm mang chiếu và ngọc tỉ, dẫn các quan đến cung Nguỵ vương dâng nộp.
Tào Phi mừng lắm, mở tờ chiếu ra đọc.
Chiếu rằng:
“Trẫm ở ngôi ba mươi hai năm nay, gặp khi thiên hạ long lở
may nhờ thần linh tổ tôn, nguy mà lại còn. Nhưng nay, ngẩng lên mà xem tướng
trên trời, cúi xuống mà xét lòng dân, thì số vận nhà Hán đã hết, mà sang đến vận
nhà Tào. Bởi thế tiên vương đã dựng nên công thần võ, kim vương lại sáng thêm
mãi cái đức tốt, để ứng vào vận ấy. Lịch số rõ ràng, tin là như thế.
Ôi! Theo vào đạo lớn, phải coi thiên hạ làm của chung, ngày
xưa vua Đường Nghiêu không riêng tư với con, mà nhường ngôi vua Thuấn, tiếng
hay để mãi đến giờ, trẫm lấy làm hâm mộ lắm.
Nay trẫm cũng bắt chước vua Nghiêu, nhường ngôi cho thừa tướng
Nguỵ vương, vương chớ có từ!”
Tào Phi nghe xong muốn nhận ngay. Tư Mã Ý can rằng:
- Chớ nên nhận vội, tuy rằng có chiếu và ngọc tỉ, nhưng điện
hạ hãy nên dâng biểu nói nhún nhường mà từ chối đi, để bịt hết những miệng gièm
chê thiên hạ.
Phi nghe lời ấy, sai Vương Lãng làm bài biểu, nói nhún rằng đức
mình mỏng lắm, xin cầu người đại hiền khác để nối ngôi trời.
Vua xem biểu, trong bụng nghi hoặc, hỏi quần thần rằng:
- Nguỵ vương khiêm tốn không chịu nhận, thì làm thế nào?
Hoa Hâm tâu rằng:
- Khi xưa Nguỵ Vũ vương chịu vương tước, ba lần từ mà không
được, rồi sau mới chịu nhận. Nay bệ hạ giáng chiếu lần nữa tự khắc Nguỵ vương phải
nghe.
Vua bất đắc dĩ lại bảo Hoàn Khải thảo tờ chiếu khác, sai
Trương Âm cầm cờ tiết và ngọc tỉ đến cung Nguỵ vương.
Tào Phi tiếp được tờ chiếu, mừng rỡ lắm, bảo với Giả Hủ rằng:
- Tuy hai lần có chiếu, nhưng vẫn ngại thiên hạ đời sau chê
cười là ta cướp đoạt, thì nghĩ thế nào?
Hủ thưa:
- Việc ấy cực dễ, nên lại sai Trương Âm cầm tỉ thụ về, rồi bảo
Hoa Hâm nói với vua Hán phải làm một cái đền thụ thiên, chọn ngày lành tháng tốt,
hội cả công khanh lớn nhỏ dưới đền, để thiên tử thân cầm tỉ thụ, nhường cho điện
hạ; như thế không còn ai nghi ngờ gì, mà bịt được mồm thiên hạ.
Phi mừng lắm, sai ngay Trương Âm mang tỉ thụ về, và lại dâng
biểu từ lần nữa.
Trương Âm về tâu với vua; vua hỏi quần thần thì Hoa Hâm tâu rằng:
- Bệ hạ nên làm một cái đền, gọi là đền thụ thiên, hội cả
quan dân lại, nhường ngôi rõ ràng cho Nguỵ vương; như thế thì Nguỵ vương phải
nhận, mà con cháu bệ hạ, đời đời được đội ơn nhà Nguỵ mất.
Vua Hiến đế bấy giờ ai bảo thế nào mà chẳng phải nghe. Bèn
sai quan viên thái thường chọn một khu đất ở Phồn Dương, xây một cái đền ba tầng,
kén chọn giờ dần, ngày canh ngọ, tháng mười, vua Hiến đế mời Tào Phi lên đền,
các quan lớn nhỏ hơn bốn trăm viên tụ tập cả ở dưới, và hơn ba mươi vạn quân ngự
lâm, quân hổ bôn, và cấm binh đóng dàn cả chung quanh. Vua tự mình bưng ngọc tỉ
dâng lên Tào Phi. Quần thần quỳ cả dưới đền nghe chiếu.
Chiếu rằng:
“Hỡi ôi! Nguỵ vương ngươi! Ngày xưa vua Nghiêu nhường ngôi
cho vua Thuấn, vua Thuấn lại nhường ngôi cho vua Vũ. Xem như thế, thiên mệnh chẳng
cứ lệ nào, duy ai có đức thì được.
Nay nhà Hán đổ nát, mất cả thứ tự, đến đời trẫm sinh ra loạn
lạc, những kẻ hung nghịch nổi lên tứ tung, bờ cõi xiêu đổ.
May nhờ có thần vũ của Nguỵ Vũ vương, dẹp được nạn ấy, trong
nước lại được trong sạch, để giữ gìn tôn miếu cho trẫm. Như thế chẳng những một
mình trẫm được nhờ, mà thực là cả họ trẫm cũng được nhờ vậy.
Nay vương nối vào ngôi trước, đức lại sáng hơn, mở rộng nghiệp
lớn ra, để tỏ thêm công to của cha ngươi khi xưa. Bởi thế, trời cao giáng điềm
lành, quỷ thần báo điều lạ. Nghĩ đến ngươi sáng được việc cho trẫm, thì các
quan cũng đều nói độ lượng của ngươi hợp với vua Thuấn đời xưa. Vì vậy, trẫm
theo dùng điển nhà Đường, kính nhường ngôi cho ngươi.
Than ôi! Lịch số của trời ở vào mình ngươi, ngươi phải kính
thuận lễ lớn, hướng cả muôn nước, để nghiêm kính mà chịu lấy mệnh trời”.
Đọc xong tờ chiếu, Tào Phi nhận lễ, lên ngôi chễm chệ trên vị
hoàng đế. Giả Hủ dẫn quan liêu lớn nhỏ, đứng chầu dưới đền; cải niên hiệu Diên
Hy thành năm Hoàng Sơ thứ nhất; quốc hiệu gọi là Đại Nguỵ. Phi truyền chỉ xá hết
những kẻ có tội trong thiên hạ. Đặt tên thuỵ Tào Tháo, gọi là Thái tổ Vũ hoàng
đế.
Hoa Hâm tâu rằng:
- Trời, không lẽ hai mặt trời; dân không lẽ hai vua, Hán đế
đã nhường thiên hạ, nên phải ra ở nơi phiên phục, xin bệ hạ giáng chỉ cho họ
Lưu đến ở xứ nào ngay cho.
Nói đoạn, quát vua Hiến đế phải quỳ ở dưới đền mà nghe chỉ.
Phi giáng chỉ phong vua Hiến đế làm Sơn Dương công, bắt phải
đi ngay hôm ấy.
Hoa Hâm cầm gươm trỏ vào Hiến đế quát lên rằng:
- Lập một vua, phải bỏ một vua, là lẽ thường xưa nay. Hoàng
thượng nhân từ, không nỡ hại ngươi, phong ngươi làm Sơn Dương công, ngay hôm
nay phải đi, không có lệnh thì không được vào chầu.
Vua Hiến đế ứa nước mắt lạy tạ, lên ngựa đi ra. Quân nhân ở
dưới đền, ai trông thấy cũng thương cảm.
Phi bảo với quần thần rằng:
- Việc Thuấn, Vũ khi xưa, bây giờ trẫm mới biết!
Quần thần đều hô: “Vạn tuế!”
Người sau xem cái đền thụ thiên ấy, có làm bài thơ than rằng:
Một phút giang sơn đổi họ Tào,
Công phu hai Hán biết là bao?
Hoàng Sơ muốn học việc Nghiêu, Thuấn,
Tư Mã về sau có khác nào!
Trăm quan mời Tào Phi lạy tạ trời đất, Phi sắp xuống lạy, bỗng
dưng ở trước đền, nổi cơn gió lạ lùng, cát sỏi bay vù vù, tối tăm mù mịt, giáp
mặt không trông thấy nhau, đèn nến trên đền đều tắt sạch. Phi khiếp sợ, ngã lăn
ra điện. Các quan vội cứu Phi xuống đền, nửa giờ mới tỉnh. Tả hữu vực Phi về
cung. Phi mệt yếu mấy hôm, không ra khai chầu được. Về sau Phi hơi bớt, mới ra
điện, cho các quan vào chào mừng, phong cho Hoa Hâm làm tư đồ, Vương Lãng làm
tư thông, quan viên lớn nhỏ đều được thăng thưởng cả.
Tào Phi chưa khỏi bệnh, nghĩ rằng cung điện Hứa Xương lắm yêu
quái, mới thiên sang ở Lạc Dương, sửa sang cung thất cực to. Có người vào báo
tin về Thành Đô, nói Tào Phi tự lập làm hoàng đế, xây dựng cung điện ở Lạc
Dương và đồn rằng vua Hiến đế bị hại. Hán Trung vương nghe tin ấy, khóc lóc cả
ngày, sai trăm quan mặc đồ tang trở, và đặt lễ tế vọng, dâng tôn thuỵ gọi là Hiến
Mân hoàng đế.
Bởi thế Hán Trung vương lo lắng thành bệnh, không coi được việc,
chính sự giao phó hết cả cho Khổng Minh.
Khổng Minh bàn bạc với thái phó là Hứa Tĩnh, quang lộc đại
phu là Tiêu Chu, rằng: Thiên hạ không thể một ngày không vua, muốn tôn Hán
Trung vương lên làm hoàng đế.
Tiêu Chu nói:
- Gần đây có điềm gió lành mây đẹp, góc tây bắc Thành Đô lại
có vầng khí vàng, dài vài mươi trượng, bốc lên đến tận trời, sao đế tinh hiện ở
trong phận, sao Tất, Vi, Mão sáng quắc như mặt trăng. Đó toàn là điềm Hán Trung
vương lên nối ngôi hoàng đế, để nối dòng dõi nhà Hán, còn nghi ngờ gì nữa?
Thế rồi Khổng Minh, Hứa Tĩnh dẫn các quan liêu lớn nhỏ dâng
biểu xin Hán Trung vương lên ngôi hoàng đế.
Hán Trung vương xem biểu, giật mình nói:
- Các ngươi muốn để cho cô làm người bất trung bất hiếu hay
sao?
Khổng Minh tâu rằng:
- Không phải thế! Tào Phi cướp ngôi tự lập, vương thượng là
dòng dõi nhà Hán, lẽ phải nối ngôi để giữ lấy hương hoả nhà Hán mới được.
Hán Trung vương sầm mặt lại, nói:
- Cô lại thèm bắt chước thằng nghịch tặc ấy à!
Nói rồi rũ tay áo đứng dậy, trở vào hậu cung. Các quan tan
đâu về đấy.
Cách ba hôm sau. Khổng Minh lại dẫn các quan vào chầu, mời
Hán Trung vương ra, Hứa Tĩnh tâu:
- Nay thiên tử đã bị Tào Phi hại rồi, vương thượng nếu không
lên ngôi hoàng đế, cất quân đánh giặc, thì không phải là trung nghĩa. Thiên hạ
ai cũng mong vương thượng lên ngôi, để báo thù cho Hiến Mân hoàng đế; nếu vương
thượng không nghe lời chúng tôi, thì bụng dân biết trông mong vào đâu?
Hán Trung vương nói:
- Cô tuy là cháu vua Cảnh đế, nhưng chưa có đức trạch gì ra đến
dân, nay tự lập làm hoàng đế thì khác gì bọn ăn cướp!
Khổng Minh khuyên dỗ hai ba lần, Hán Trung vương khăng khăng
một mực, nhất định không nghe.
Khổng Minh mới đặt một kế, bảo với các quan, rồi thác là có bệnh
không ra được ngoài.
Hán Trung vương thân nghe tin Khổng Minh đau nặng, thân đến tận
phủ, vào thẳng trong giường hỏi thăm:
- Quân sư bị bệnh làm sao?
Khổng Minh rên khừ khừ, nói:
- Trong bụng tôi bồn chồn như lửa chất, chưa biết có sống được
không?
- Quân sư lo việc gì lắm thế?
Hán Trung vương hỏi ba bốn câu, Khổng Minh làm ra dáng bệnh nặng,
cứ nhắm mắt, không đáp lại làm sao. Hán Trung vương hỏi gặng mãi, Khổng Minh mới
chép miệng, thở dài nói rằng:
- Tôi từ khi bước chân ra khỏi lều tranh, gặp gỡ đại vương,
theo đòi đến nay, nói thì nghe, kế thì dùng, đại vương may có được đất hai
Xuyên, không phụ điều mong ước của tôi khi trước. Hiện nay Tào Phi cướp ngôi,
hương hoả nhà Hán sắp tuyệt. Các quan văn võ, ai cũng muốn tôn đại vương lên
làm hoàng đế, diệt nhà Nguỵ, dựng lại nhà Lưu, để mà lập lấy một chút công
danh. Không ngờ đại vương một mực chẳng nghe, các quan ai cũng sinh chán nản,
không bao lâu tất tan cả. Ngô, Nguỵ lại đánh, thì hai Xuyên này giữ làm sao cho
được, trách nào mà tôi chẳng lo?
Hán Trung vương nói:
- Tôi không phải là gàn dở đâu, chỉ ngại thiên hạ chê cười đấy
thôi!
Khổng Minh nói:
- Thánh nhân có nói rằng: “Danh bất chính tắc ngôn bất thuận”.
Nay đại vương danh chính ngôn thuận, còn bàn vào đâu? Đại vương há chẳng nghe
câu: “Giời cho mà không lấy, hoá ra mình chịu lỗi” đó ru?
Hán Trung vương nói:
- Có phải thế, đợi khi nào quân sư mạnh khoẻ sẽ hay!
Khổng Minh nghe xong, đang nằm trên giường, vùng ngay dậy, gõ
một tiếng vào bình phong, các văn võ ở mặt ngoài vùng vào lạy phục xuống đất mà
nói rằng:
- Vương thượng đã ưng cho rồi, xin chọn ngày để làm đại lễ.
Hán Trung vương trông ra thì là thái phó Hứa Tĩnh, An hán tướng
quân My Chúc, Thanh y hầu Thượng Cử, Dương toàn hầu Lưu Báo, biệt giá Triệu Tô,
thị trung Dương Hồng, nghị tào Đỗ Quỳnh, tòng sự Trương Sảng, thái thường khanh
Lại Cung, quang lộc khanh Hoàng Quyền, tế tửu Hà Tăng, học sĩ Doãn Mặc, tư nghiệp
Tiêu Chu, đại tư mã An Thuần, thiên tướng quân Trương Duệ, chiêu văn bác sĩ Y Tịch
và tòng sự lang Tần Bật. Hán Trung vương giật mình nói rằng:
- Buộc cô vào chỗ bất nghĩa đều bởi tại các ngươi cả.
Khổng Minh nói:
- Chúa thượng đã bằng lòng rồi, xin cho đắp đàn, chọn ngày để
làm đại lễ.
Các quan đưa ngay Hán Trung vương về cung, rồi sai bác sĩ Hứa
Từ, gián nghị lang Mạnh Quang coi việc lễ, đắp đàn ở mé nam Thành Đô, sắp đặt mọi
việc đâu đấy. Các quan dàn bày đồ loan giá, rước Hán Trung vương lên đàn tế trời
đất. Tiêu Chu ở trên đàn, đọc bài văn tế rằng:
“Duy năm Kiến An thứ hai mươi lăm, tháng tư, mồng một, ngày
bính ngọ, qua ngày mười hai là ngày đinh tị, hoàng đế là Bị kính cáo với hoàng
thiên hậu thổ rằng: nhà Hán có thiên hạ, số vận dài vô ngần. Khi xưa Vương Mãng
cướp ngôi, đức Quang Vũ nổi giận đánh chết, xã tắc lại còn. Nay Tào Tháo cầm
quyền bính, tàn nhẫn độc ác, giết bà chủ mẫu, tội ác đầy trời. Con Tháo là Tào
Phi lại hung nghịch hơn, dám cướp giữ đồ thần khí.
Các tướng sĩ bề dưới chúng tôi cho rằng nghiệp nhà Hán đổ
nát, Bị nên phải kế vào, để nối cơ nghiệp của hai tổ, phụng mệnh trời mà đánh
giặc.
Bị nghĩ trong mình kém đức, sợ nhục ngôi tôn, hỏi đến thứ
dân, và các quân trưởng ngoài cõi xa, thì ai cũng bảo rằng mệnh của trời, không
nên bỏ sao nhãng: Nghiệp của tổ tông không nên để suy đồi; mà bốn bể không nên
để vô chủ. Khắp thiên hạ trông mong vào một mình Bị. Bị sợ mệnh sáng của trời,
lại sợ nghiệp của Cao, Quang đổ xuống đất; vậy phải kính chọn ngày lành, lên
đàn tế cáo, chịu lĩnh tỉ thụ hoàng đế, coi giữ bốn phương. Xin thần trên trời
dưới đất ủng hộ cho nhà Hán, để được lâu dài mãi mãi!”
Tiêu Chu đọc xong, Khổng Minh dẫn các quan dâng ngọc tỉ lên.
Hán Trung vương nhận lấy, hai tay bưng đứng trên, nhường đi nhường lại hai ba lần,
nói rằng:
- Bị này không có tài đức gì, xin chọn người nào có tài có đức
để nhường ngọc tỉ này.
Khổng Minh tâu rằng:
- Chúa thượng bình định bốn bể, công đức ra khắp thiên hạ, vả
lại tôn phái nhà Đại Hán, nên đứng vào ngôi chính. Và đã tế cáo trời đất rồi,
còn nhường gì nữa?
Các quan văn võ cùng reo vạn tuế lạy mừng.
Lễ xong đâu đấy, cải năm ấy là niên hiệu Chương Vũ thứ nhất
(220) lập vợ là Ngô thị là hoàng hậu, con là Lưu Thiện làm thái tử, phong con
thứ hai là Lưu Vĩnh làm Lỗ vương, con thứ ba là Lưu Lý làm Lương vương; phong
Gia Cát Lượng làm thừa tướng; Hứa Tĩnh làm tư đồ, quan liêu lớn nhỏ đều được
thăng chức cả, đại xá những kẻ có tội. Quân dân trong hai Xuyên, ai nấy cũng nhảy
nhót mừng rỡ.
Hôm sau khai chầu, trăm quan văn võ vào lạy xong, đứng sắp
hàng ra hai bên.
Tiên chủ giáng chiếu nói rằng:
- Trẫm từ khi kết nghĩa với Quan, Trương ở vườn đào, thề cùng
sống chết. Nay chẳng may em thứ hai Vân Trường bị Tôn Quyền hại mất, nếu không
báo thù, thì phụ mất lời thề khi xưa. Trẫm muốn khởi hết cả ngàn quân trong nước,
sang đánh Đông Ngô để rửa cái giận ấy mới được.
Tiêu chủ vừa nói dứt lời, có một người ở dưới thềm bước ra,
can rằng:
- Việc đó không nên!
Tiên chủ trông ra, thì là hổ oai tướng quân Triệu Vân.
Đó là:
Vua chúa chưa ra quân đánh giặc,
Tôi con đã muốn hiến lời can.
Chưa biết Tử Long can ra làm sao, xem đến hồi sau sẽ biết.
Hồi 81:
Vội báo thù, Trương Phi bị hại
Mong rửa hận, tiên chủ cất quân
Tiên chủ muốn khởi quân sang đánh Đông Ngô, Triệu Vân can rằng:
- Quốc tặc là Tào Tháo chớ không phải là Tôn Quyền. Nay Tào
Phi cướp ngôi, thần và người cùng oán. Bệ hạ nên lấy Quan Trung trước, đóng
quân mé trên sông Vi Hà, để đánh kẻ hung nghịch, thì bọn nghĩa sĩ bên Quan
Đông, ắt mang lương, tế ngựa đến đón quân bệ hạ. Nếu bỏ Nguỵ mà đánh Ngô, việc
chiến tranh đã gây ra, dễ mà thôi ngay được, xin bệ hạ xét kỹ mà xem!
Tiên chủ nói:
- Tôn Quyền hại mất em trẫm, vả lại trẫm còn đang căm tức bọn
Phó Sĩ Nhân, My Phương, Phan Chương, Mã Trung, có xé được xác chúng và giết cả
họ chúng, trẫm mới hả lòng, ngươi cản trở trẫm sao?
Vân thưa:
- Thù giặc nước mới là thù chung, còn thù anh em là thù
riêng, xin bệ hạ coi thiên hạ trọng hơn mới được.
Tiên chủ đáp:
- Trẫm không báo thù được cho em, tuy có giang sơn muôn dặm,
cũng chẳng quý gì.
Rồi không nghe lời Triệu Vân, một mặt truyền ngay lệnh khởi
quân sang đánh Ngô, và sai sứ ra Ngũ Khê mượn năm vạn quân rợ để tiếp ứng, một
mặt sai sứ sang Lãng Trung, thăng cho Trương Phi làm xa kỵ tướng quân, lãnh chức
tư lễ hiệu uý, phong làm hầu Tây Lương, kiêm chức mục ở Lãng Trung.
Trương Phi giữ Lãng Trung, từ khi nghe tin Quan Công bị Đông
Ngô hại, ngày nào cũng gào khóc cả ngày, nước mắt chảy ra huyết đầm đìa vạt áo.
Các tướng đem rượu khuyên giải, rượu say vào Phi lại càng
hung hăng lắm. Đầy tớ trên dưới hơi có điều gì là đánh, lắm người bị đòn mà chết.
Mỗi ngày trông về phía nam, Phi nghiến răng trợn mắt hằn học, khóc lóc thảm thiết.
Chợt có sứ giả đến. Phi vội vàng ra tiếp vào, mở đọc chiếu.
Phi chịu tước, ngoảnh về phía bắc lạy tạ, rồi mở tiệc thết đãi sứ giả.
Phi hỏi rằng:
- Anh ta bị hại, thù sâu như bể, những bầy tôi miếu đường,
sao không tâu lên để cất quân đi đánh cho sớm?
Sứ giả nói:
- Lắm người khuyên hoàng thượng đánh Nguỵ trước, rồi sau sẽ
đánh Ngô.
Phi giận nói rằng:
- Thế là nghĩa lý gì? Khi xưa ba anh em ta kết nghĩa vườn
đào, thề cùng nhau sống chết, nay bất hạnh anh thứ hai nửa đường mất sớm, ta ngồi
hưởng phú quý một mình sao cho đành? Ta phải đến ra mắt thiên tử, xin làm tiền
bộ tiên phong, mặc đồ trở sang đánh Ngô, bắt sống quân nghịch tặc, đem về tế
anh ta để trọn lời thề xưa mới được.
Nói đoạn đi ngay với sứ giả sang Thành Đô.
Tiên chủ bấy giờ ngày nào cũng xuống giáo trường, luyện tập
quân mã, sắp sửa ngự giá thân chinh. Các quan công khanh đến phủ thừa tướng nói
với Khổng Minh rằng:
- Thiên tử mới lên ngôi lớn, đã muốn thân cầm quân đi đánh giặc,
không phải là trọng việc xã tắc, thừa tướng cầm cân nhà nước, sao không can
ngăn đi?
Khổng Minh nói:
- Ta cố sức can ngăn mấy lần nhưng vẫn không nghe. Hôm nay cả
các ông cùng đi với ta vào giáo trường mà can nhân thể.
Khi ấy Khổng Minh dẫn các quan vào can rằng:
- Bệ hạ mới lên ngôi báu, nếu muốn sang mặt bắc đánh giặc
Tào, để tỏ nghĩa lớn ra thiên hạ, thì hãy nên thân chinh. Nhược bằng muốn đánh
Ngô, thì chỉ nên sai một thượng tướng cầm quân đi cũng xong, không cần phải khó
nhọc đến thánh giá.
Tiên chủ thấy Khổng Minh can mãi, bụng đã hơi nguôi nguôi, chợt
có Trương Phi đến, tiên chủ vội vàng triệu vào. Phi đến nhà diễn võ, lạy phục
xuống đất, rồi ôm lấy chân tiên chủ mà khóc.
Phi nói:
- Bệ hạ nay làm vua, quên mất lời thề vườn đào rồi à? Thù anh
hai tôi làm sao không báo?
Tiên chủ nói:
- Lắm người can ngăn nên chưa dám khinh động.
Phi nói:
- Người ta biết đâu lời thề khi xưa! Nếu bệ hạ không đi, tôi
xin liều một thân tôi, đánh báo thù cho anh hai. Nếu không báo được, tôi thà rằng
chết, chớ không mặt nào trông thấy bệ hạ nữa!
Tiên chủ nói:
- Trẫm với ngươi cùng cất quân đi. Ngươi đem quân bản bộ từ
Lãng Trung kéo sang, trẫm dẫn tinh binh hội nhau ở Giang Châu, để cùng đánh
Đông Ngô báo cái thù này.
Khi Phi sắp ra về, tiên chủ lại dặn rằng:
- Trẫm vẫn biết ngươi trong khi say rượu, thường hay hung
hăng đánh đập quân sĩ, mà lại cho nó hầu cận tả hữu, đó là con đường gây vạ. Từ
rày phải khoan hoà, chớ như trước nữa nhé!
Phi lạy từ trở ra.
Hôm sau, tiên chủ chỉnh binh sắp đi. Quan học sĩ là Tần Bật
tâu rằng:
- Bệ hạ đem cái thân quý trọng muôn cỗ xe mà theo làm một điều
nghĩa nhỏ, không ai khen gì việc ấy, xin bệ hạ xét cho.
Tiên chủ nói:
- Trẫm với Vân Trường, đã thề cùng sống chết có nhau, nghĩa lớn
còn đó, bỏ làm sao cho được?
Bật cứ cúi rạp xuống đất không đứng dậy và nói rằng:
- Bệ hạ không nghe lời tôi, tôi chỉ sợ đi thì bất lợi.
Tiên chủ nổi giận nói rằng:
- Trẫm sắp cất quân đi, sao ngươi dám gở mồm thế?
Liền quát võ sĩ lôi ra chém.
Bật bị võ sĩ điệu ra, mặt vẫn ung dung như không, ngoảnh cổ lại
cười mà nói rằng:
- Tôi chết cũng chẳng hề chi, nhưng chỉ tiếc cơ đồ mới gây dựng
lên lại sắp đổ mất thôi.
Các quan xúm cả vào kêu van cho Tần Bật.
Tiên chủ mới nói rằng:
- Hãy đem giam cổ nó xuống dưới kia! Khi nào trẫm báo thù
xong rồi, về sẽ trị tội.
Khổng Minh nghe tin, lập tức dâng biểu cứu Tần Bật.
Trong biểu nói rằng:
- “Thần là Lượng, thiết nghĩ rằng: Giặc Ngô dùng mẹo quỷ
quyệt, đến nỗi Kinh Châu đổ mất, sao tướng tinh sa ở phận Ngu Đẩu, cột chống trời
gãy ở xứ Ngô Sở. Xem cái tình hình đau đớn ấy, thực không bao giờ quên! Nhưng lại
nghĩ rằng: đời ngôi nhà Hán, là tội tại Tào Tháo, chớ không phải lỗi tại Tôn
Quyền. Phỏng thử ta trừ xong Nguỵ thì Ngô tự nhiên phải hàng. Xin bệ hạ nghe lời
vàng đá của Tần Bật để dưỡng sức sĩ tốt, tìm kế hay hơn mà làm, thì xã tắc,
thiên hạ may lắm”.
Tiên chủ xem xong bài biểu, quẳng xuống đất, nói rằng:
- Ý trẫm đã quyết, không ai được can nữa!
Bèn sai thừa tướng là Gia Cát Lượng trông nom thái tử ở nhà
giữ hai Xuyên; sai phiêu kỵ tướng quân Mã Siêu và em là Mã Đại hiệp trợ với trấn
bắc tướng quân Nguỵ Diên giữ Hán Trung để địch quân Nguỵ, sai hổ oai tướng quân
Triệu Vân làm hậu ứng và đốc thúc lương thảo, Hoàng Quyền, Trình Kỳ làm tham
mưu, Mã Lương, Trần Chấn coi việc văn thư; Hoàng Trung làm tiền bộ tiên phong;
Phùng Tập, Trương Nam làm phó tướng; Phó Đồng, Trương Dực làm trung quân hiệu
uý, Triệu Dong, Trương Thuần làm đoạn hậu. Tướng ở Xuyên vài trăm viên, cùng với
tướng tốt ở rợ Ngũ Khê, cả thảy bảy mươi lăm vạn quân, kén ngày bính dần tháng
bảy, năm Chương Vũ thứ nhất, ra quân.
Trương Phi từ khi trở về Lãng Trung, hạ lệnh trong quân, hẹn
trong ba ngày, phải may cờ trắng, áo giáp trắng, để ba quân mặc đồ tang sang
đánh Ngô.
Hôm sau, có hai tướng dưới trướng là Phạm Cương, Trương Đạt
vào kêu rằng:
- Cờ trắng, giáp trắng, một lúc may sao cho kịp. Xin gia hạn
cho mới được.
Phi nổi giận nói:
- Ta muốn báo thù, đang tức mình không đến ngay được cõi giặc,
chúng bay sao dám trái tướng lệnh của ta?
Liền quát võ sĩ sai trói hai người vào gốc cây, đánh mỗi người
năm chục roi. Đánh xong, lại trỏ tay bảo họ rằng:
- Ngày mai phải may cho đủ, nếu sai hẹn thì ta chặt đầu chúng
mày đi để làm gương cho kẻ khác!
Hai người phải đòn đau quá, hộc cả máu ra đằng miệng. Họ trở
về dinh bàn chuyện với nhau. Phạm Cương nói:
- Hôm nay ta phải đòn thế này, còn ngày mai nữa thì biện làm
sao cho kịp? Người ấy tính nóng như lửa, nếu ngày mai không xong, chúng ta cũng
khó toàn mạng!
Trương Đạt nói:
- Để cho hắn giết ta, chẳng thà ta giết hắn trước đi cho rảnh!
Cương nói:
- Làm thế nào đến gần hắn được mà giết?
Đạt nói:
- Nếu số hai chúng ta chưa đáng chết, thì hôm nay hắn say rượu
ngủ trên giường, nếu số chúng ta đáng chết thì hắn còn tỉnh.
Khi ấy, Trương Phi ngồi trong trướng, tinh thần hoảng hốt, đứng
ngồi không yên, mới hỏi bộ tướng rằng:
- Ta hôm nay nghe nóng ruột đứng ngồi không yên không biết tại
làm sao?
Bộ tướng bẩm:
- Đó là vì tướng quân tưởng nhớ Quan Công, cho nên sinh ra thế.
Trương Phi sai mang rượu ra uống với bộ tướng cho giải phiền,
không ngờ uống say quá, nằm ngủ trong trướng.
Hai tên giặc Phạm, Trương dò biết được là Phi say rượu rồi, đến
canh đầu, mỗi tên giắt một con dao găm cực sắc, đi lẻn vào trong trướng, nói dối
là vào bẩm một việc cơ mật, rồi đến thẳng đầu giường Phi. Xưa nay Phi ngủ,
không nhắm mắt bao giờ. Hôm ấy, Phi nằm trong trướng, hai tên trông thấy mắt
Phi vẫn mở, râu vểnh ngược, không dám động đến. Sau vì nghe thấy tiếng Phi ngáy
như sấm, hai đứa mới dám bước lại gần, giơ dao đâm một nhát vào giữa bụng
Trương Phi. Phi kêu to được một tiếng thì chết. Bấy giờ mới có năm mươi lăm tuổi.
Người sau có thơ rằng:
An Hỉ xưa từng đánh Đốc Bưu,
Khăn vàng quét sạch giúp Viêm Lưu.
Hổ Lao ải nọ lừng oai dữ,
Trường Bản cầu kia nổi tiếng reo.
Nghĩa thả Nghiêm Nhan, yên cõi Thục,
Trí lừa Trương Cáp, định Trung Châu.
Thù Ngô chưa báo, thân đà thác,
Đất Lãng nghìn thu nội cỏ sầu!
Hai thằng giặc cắt ngay đầu Trương Phi, dẫn vài mươi tên đầy
tớ đi suốt đêm sang hàng Đông Ngô.
Hôm sau, trong quân nghe chuyện làm vậy, liền cất quân đuổi
theo, thì đã muộn rồi. Bấy giờ có bộ tướng Trương Phi là Ngô Ban, nguyên khi
trước ở Kinh Châu lại ra mắt tiên chủ, tiên chủ cho làm nha môn tướng sai ra
giúp Trương Phi giữ ở Lãng Trung, Ngô Ban liền dâng biểu tâu với thiên tử, rồi
sai con cả Trương Phi là Trương Bào sắm sửa quan quách khâm liệm. Trương Bào để
em là Trương Thiệu ở lại giữ Lãng Trung còn mình về báo với tiên chủ.
Tiên chủ bấy giờ đã kén ngày ra quân, quan viên lớn nhỏ, theo
cả Khổng Minh đi tiễn khỏi mười dặm đường mới trở về.
Khổng Minh về đến Thành Đô, sắc mặt buồn rầu, bảo với các
quan rằng:
- Giá mà Pháp Hiếu Trực còn sống, chắc hẳn ngăn được chúa thượng
không sang mặt đông.
Đêm hôm ấy, tiên chủ tự nhiên thấy rùng mình nóng ruột, trằn
trọc không ngủ được, mới ra sân ngẩng mặt lên trời xem thiên văn, thì thấy mé
tây bắc có một ngôi sao to bằng cái đấu sa xuống đất. Tiên chủ nghi lắm, sai
người đi ngay đến triệu Khổng Minh để hỏi. Khổng Minh tâu rằng:
- Điềm này tất là mất một đại tướng, trong ba ngày thì biết
tin.
Tiên chủ nhân thể đóng quân lại, chưa dám đi vội.
Hôm sau, sực có quan hầu cận vào tâu rằng:
- Bộ tướng của quan xa kỵ tướng quân Trương Phi, là Ngô Ban
sai người mang biểu đến dâng.
Tiên chủ giẫm chân xuống đất than rằng:
- Trời ôi! Em ba ta hỏng mất rồi!
Khi xem đến biểu, quả nhiên là tin dữ về Trương Phi. Tiên chủ
khóc ầm lên, ngất lăn xuống đất. Các quan cứu tỉnh dậy, khuyên giải một hồi lâu
mới nguôi.
Hôm sau, có một đội quân mã kéo đến, đi nhanh như bay.
Tiên chủ ra cửa trại đứng xem, một lát thấy một tướng trẻ tuổi,
áo trắng giáp bạc, vùng nhảy ngay xuống ngựa, lạy rập xuống đất mà khóc. Tiên
chủ trông ra thì là Trương Bào.
Bào thưa:
- Phạm Cương, Trương Đạt giết mất cha tôi, đem đầu sang hàng
Ngô rồi!
Tiên chủ đau đớn khóc lóc, bỏ cả ăn uống.
Quần thần can rằng:
- Bệ hạ muốn báo thù cho hai em, sao lại vật vã long thể làm
vậy?
Tiên chủ bấy giờ mới chịu ăn cơm. Rồi bảo với Trương Bào rằng:
- Mày có dám dẫn quân bản bộ, cùng với Ngô Ban làm tiên
phong, để đánh báo thù cho cha mày không?
Bào tâu:
- Vì nước vì cha, muôn chết cũng không dám từ!
Tiên chủ vừa định sai Trương Bào đi, thì lại thấy một toán
quân xồng xộc kéo đến; tiên chủ sai người ra xem quân nào thì thấy thị thần dẫn
một tướng trẻ tuổi, cũng mặc áo trắng giáp bạc, vào dinh ra mắt tiên chủ. Tướng
ấy vào đến nơi phục xuống đất mà khóc, té ra là Quan Hưng.
Tiên chủ nói:
- Trẫm từ thuở hàn vi, kết nghĩa với Quan, Trương thề cùng sống
chết. Nay trẫm làm thiên tử, vừa được đến ngày cùng với hai em hưởng phú quý,
chẳng may đều chết không được toàn mạng, nay trông thấy hai cháu ở đây, ai chẳng
đứt ruột?
Nói rồi lại khóc lóc sầu thảm.
Các quan nói:
- Hai tướng hãy ra ngoài kia, để thánh thượng nghỉ ngơi.
Thị thần tâu rằng:
- Bệ hạ ngoài sáu mươi tuổi rồi, không nên thương xót vật vã
lắm.
Tiên chủ khóc mà nói rằng:
- Hai em chết cả rồi, trẫm sống một mình làm gì?
Các quan bàn với nhau rằng:
- Thiên tử sầu não như vậy, làm thế nào cho khuây giải được?
Mã Lương nói:
- Thiên tử thân cầm quân sang đánh Ngô, mà cả ngày cứ khóc
lóc thế này, tôi e rằng mang quân đi không được lợi.
Trần Chấn nói:
- Tôi nghe ở phía tây núi Thanh Thành, thuộc về Thành Đô, có
một người ẩn dật, họ Lý tên Ý, sống lâu ba trăm tuổi, biết được số người ta sống
chết lành dữ, cũng là một ông tiên thời nay. Ta nên tâu với thiên tử, mời ông cụ
ấy lại hỏi xem việc hay dở ra làm sao, còn hơn chúng ta can ngăn.
Bèn vào tâu với tiên chủ. Tiên chủ nghe lời, sai Trần Chấn
mang chiếu thư đến núi vời ông cụ ấy.
Trần Chấn phụng mệnh đi triệu, sai người xứ ấy đưa đường, đi
cùng kiệt mãi vào trái núi trong rừng sâu, trông mé xa có một toà nhà. Trần Chấn
ngắm nhìn chung quanh, mây thanh khí mát, phong cảnh lạ lùng, quả là một nơi
tiên cảnh. Khi gần đến cửa ngõ, thì một tiểu đồng chạy ra đón, bảo rằng:
- Ông có phải là Trần Hiếu Khởi đó không?
Trần Chấn giật mình hỏi:
- Tiểu đồng sao lại biết cả họ tên ta thế?
Tiểu đồng nói:
- Thầy tôi hôm qua nói hôm nay tất có chiếu mệnh thiên tử đến
đây, sứ giả là Trần Hiếu Khởi.
Chấn nói:
- Thế mới thực là tiên! Lời đồn không ngoa chút nào!
Mới cùng với tiểu đồng vào nhà trong ra mắt Lý Ý. Chấn đưa
chiếu trình lên, Ý từ chối vì già yếu, không sao đi được.
Chấn nói:
- Thiên tử muốn được tiếp tiên ông lắm, xin tiên ông chở quản
công xe hạc, đi cho một chút.
Lý Ý nhất định không đi. Chấn khẩn khoản hai ba lần, Ý mới chịu.
Khi đến ngự doanh, Lý Ý vào yết kiến tiên chủ.
Tiên chủ trông thấy người ấy đầu bạc phơ phơ mà mặt mũi còn
trẻ, mắt biếc con ngươi vuông, sáng quắc như mặt kính, hình thù gầy gò như cây
bách cổ thụ, tiên chủ biết là người lạ, tiếp đãi tử tế. Lý Ý tâu rằng:
- Lão phu là một người già ở nơi quê mùa, ngu si đần độn, bệ
hạ cho triệu đến, không biết ngài có điều gì truyền bảo đây?
Tiên chủ nói:
- Trẫm cùng với Quan, Trương hai em, kết nghĩa sống chết hơn
ba mươi năm rồi. Nay chẳng may hai em bị hại, trẫm thân cầm đại quân, đi đánh
báo thù, chưa biết hay dở làm sao. Nghe tiên ông thông hiểu huyền cơ của tạo
hoá, xin bảo cho biết trước thì hay lắm.
Lý Ý đáp:
- Đó là số trời, lão phu biết sao được!
Tiên chủ cố hỏi gặng hai ba lần, Lý Ý xin giấy bút, rồi vẽ những
binh mã khí giới, hơn bốn mươi tờ, vẽ xong, lại xé vụn cả ra. Lại vẽ một người
to lớn nằm trên mặt đất, bên cạnh có một người đào đất để chôn, mé trên viết một
chữ “Bạch” lớn.
Rồi cúi đầu đi ra.
Tiên chủ thấy vậy không bằng lòng, bảo với quần thần rằng:
- Lão này chẳng qua là một lão điên, tin làm quái gì!
Lập tức lấy lửa đốt sạch những giấy ấy, rồi giục quân tiến
đi.
Trương Bào tâu rằng:
- Quân mã Ngô Ban đã đến đây, tiểu thần xin làm tiên phong.
Tiên chủ khen là người có chí giỏi, lập tức ban ấn tiên phong
cho Trương Bào.
Bào sắp sửa lĩnh ấn, lại có một tướng tuổi trẻ xăm xăm chạy đến
nói rằng:
- Hãy để ấn đấy cho ta.
Chúng trông ra thì là Quan Hưng.
Bào nói:
- Ta đã phụng chiếu rồi.
Hưng nói:
- Mày có tài cán gì, mà dám nhận việc ấy?
Bào nói:
- Ta học nghề võ từ thuở nhỏ, bắn tên không sai một phát nào.
Tiên chủ nói:
- Trẫm đang muốn xem võ nghệ của hai cháu để định kẻ hơn người
kém.
Bào sai quân cắm một lá cờ ở ngoài trăm bước, trên lá cờ vẽ một
cái vòng đỏ, rồi giương cung lên, bắn luôn ba phát, đều tin vào giữa vòng. Người
đứng chung quanh, ai cũng khen là bắn giỏi.
Quan Hưng cũng giương cung ra, nói:
- Bắn tin vào vòng cũng chưa là giỏi!
Lúc ấy có một đàn nhạn bay trên trời. Hưng trỏ vào con nhạn
thứ ba mà nói rằng:
- Xem ta bắn con nhạn bay thứ ba đây này!
Nói buông lời, bắn lên một phát, quả nhiên tin vào ngay con
nhạn bay thứ ba. Con nhạn sa xuống. Các quan văn võ reo ầm cả lên.
Trương Bào nổi giận, vác ngay ngọn bát xà mâu của cha khi
xưa, nhảy lên ngựa gọi to lên rằng:
- Mày có dám thi võ với ta không?
Hưng cũng vác thanh đại đao gia truyền, nhảy lên ngựa chạy
ra, nói:
- Mày biết sử mâu, dễ thường ta không biết sử đao hẳn?
Hai tướng toan xông vào đánh nhau, tiên chủ quát mắng rằng:
- Hai thằng kia không được vô lễ!
Hưng, Bào vội vàng xuống ngựa, bỏ đồ khí giới, lạy phục xuống
đất xin chịu tội.
Tiên chủ nói:
- Trẫm từ khi ở Trác Quận, cùng với hai cha cháu, kết làm anh
em, thân như ruột thịt. Nay hai cháu đều là anh em với nhau, lẽ phải đồng tâm
hiệp lực, báo thù cho cha, sao lại dám tranh giành nhau, mà bỏ mất cả đại
nghĩa? Cha chết chưa được bao lâu, mà còn thế này nữa thì về sau còn tệ đến
đâu?
Hai tướng lại lạy chịu lỗi.
Tiên chủ nói:
- Hai cháu hơn kém nhau bao nhiêu tuổi?
Trương Bào thưa:
- Tôi lớn hơn Quan Hưng một tuổi.
Tiên chủ liền sai Quan Hưng nhường Trương Bào làm anh. Hai
người lập tức ở tại trước trướng, bẻ một mũi tên ăn thề, cứu giúp lẫn nhau mãi
mãi.
Tiên chủ giáng chiếu sai Ngô Ban làm tiên phong. Quan Hưng,
Trương Bào đi hộ giá. Quân thuỷ bộ rầm rộ kéo sang nước Ngô.
Nói về Phạm Cương, Trương Đạt đem đầu lâu Trương Phi dâng lên
Ngô hầu, thuật lại chuyện trước. Quyền cho hai người ở đó, rồi bảo với các quan
rằng:
- Lưu Huyền Đức lên ngôi hoàng đế, thân thống lĩnh hơn bảy
mươi vạn tinh binh, sang đánh nước ta, binh thế to quá, nên nghĩ thế nào bây giờ?
Các quan thấy nói vậy, ai nấy đều tái mặt, nhìn ngó lẫn nhau.
Gia Cát Cẩn bước ra thưa rằng:
- Tôi ăn lộc của quân hầu đã lâu, không biết lấy gì báo ơn được.
Nay xin liều bỏ cái mạng sống này, sang sứ bên Thục, đem đường lợi hại bảo với
Huyền Đức, để cho hai nước hoà với nhau, mà hợp sức lại hỏi tội Tào Phi.
Quyền mừng lắm, sai ngay Gia Cát Cẩn đi sứ, sang nói để tiên
chủ rút quân về.
Đó là:
Hai nước giao tranh sai sứ đến,
Một lời nói khéo cậy người đi.
Chưa biết Gia Cát Cẩn đi nói ra làm sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 82:
Tôn Quyền hàng Ngụy, chịu cửu tích
Tiên chủ đánh Ngô, thưởng sáu quân
Bấy giờ là năm Chương Vũ thứ nhất (220) mùa thu tháng tám,
tiên chủ khởi đại quân kéo đến ải Quỳ Quan, xa giá đóng trong thành Bạch Đế.
Quân tiền đội thì đã ra khỏi Xuyên.
Có cận thần vào báo rằng:
- Đông Ngô sai Gia Cát Cẩn đến.
Tiên chủ truyền chỉ không cho vào.
Hoàng Quyền tâu rằng:
- Em Gia Cát Cẩn hiện đang làm tướng ở Thục, chắc có việc gì
hắn mới đến đây, bệ hạ sao lại không cho vào? Xin bệ hạ cứ cho vào, xem nói
năng làm sao, nên nghe thì nghe, không nên nghe thì mượn mồm hắn bảo với Tôn
Quyền, cho biết việc ta sang hỏi tội là chính đáng.
Tiên chủ nghe lời, cho đòi Cẩn vào thành.
Cẩn lạy thụp xuống đất.
Tiên chủ hỏi:
- Tử Du từ xa đến đây có việc gì?
Cẩn thưa:
- Em tôi thờ bệ hạ đã lâu, cho nên tôi dám liều đến đây, xin
tâu việc Kinh Châu: khi trước Quan Công ở Kinh Châu, Ngô hầu mấy lần đến cầu
thân, Quan Công đều không thuận cả. Về sau, khi Quan Công lấy Tương Dương, Tào
Tháo mấy lần đưa thư đến xui Ngô hầu úp lấy Kinh Châu, Ngô hầu vốn không muốn
nghe, nhưng vì Lã Mông không hoà thuận với Quan Công, tự tiện cất quân, chẳng
may mới xảy ra cớ sự thế này, nay Ngô hầu hối lại không kịp. Đó thực là tội Lã
Mông, chớ không phải lỗi tại Ngô hầu. Hiện nay, Lã Mông chết rồi, oán thù đã hết.
Tôn phu nhân lâu nay vẫn mong nhớ muốn về. Vậy Ngô hầu sai tôi sang đây, xin
đưa phu nhân về, trói những hàng tướng đem nộp và trao trả lại Kinh Châu, kết lại
hoà hiếu với nhau, cùng đánh Tào Phi, để trị cái tội cướp ngôi vua.
Tiên chủ giận, nói:
- Đông Ngô hại mất em trẫm, hôm nay dám lại đây nói khéo à?
- Tôi xin đem cái lẽ lớn nhỏ, nặng nhẹ bàn với bệ hạ: bệ hạ
là hoàng thúc nhà Hán. Nay vua Hán bị Tào Phi cướp ngôi, bệ hạ không nghĩ đến
việc tiễu trừ, mà lại vì một người anh em khác họ, khó nhọc đến thân tôn quý
muôn cỗ xe, thế là bỏ nghĩa lớn để làm một điều nghĩa nhỏ đó. Trung Nguyên là
khu đất to nhất trong bốn bể; hai đô thành đều là chỗ nhà Hán gây dựng cơ nghiệp,
bệ hạ không lấy chỗ ấy, mà chỉ tranh một xứ Kinh Châu, thế là bỏ chỗ nặng mà
tìm chỗ nhẹ đó. Thiên hạ ai cũng tưởng rằng bệ hạ lên ngôi, thế nào cũng gây dựng
nhà Hán, lấy lại giang sơn, nay bệ hạ lại không hỏi đến nước Nguỵ mà cứ muốn
đánh Ngô, thiết tưởng bệ hạ có điều gì không nghĩ tới chăng?
Tiên chủ nổi giận lên, nói:
- Cái thù giết mất em trẫm, trẫm thề không đội trời chung! Trừ
ra trẫm chết đi thì thôi, chớ còn trẫm không sao bãi binh được! Nếu trẫm không
nể thừa tướng, thì chém đầu nhà ngươi trước đó! Nay hãy tha cho nhà ngươi về bảo
với Tôn Quyền hãy rửa cổ trước đi mà chịu chết.
Gia Cát Cẩn thấy tiên chủ không nghe, cực chẳng đã phải trở về
Giang Nam.
Trương Chiêu nói với Tôn Quyền rằng:
- Gia Cát Tử Du thấy quân Thục thế to lắm, cho nên nói thác
là sang cầu hoà, kỳ thực là muốn bỏ Ngô vào Thục, chuyến này đi tất không về.
Quyền nói:
- Cô với Tử Du, có cái nghĩa sống chết không thể thay lòng.
Cô không phụ Tử Du, Tử Du tất cũng không phụ cô. Khi xưa Tử Du ở Sài Tang, Khổng
Minh đến Đông Ngô ta, cô định sai Tử Du ra lưu Khổng Minh ở lại, thì Tử Du có
nói rằng: “Em tôi đã thờ Huyền Đức, nghĩa phải giữ một niềm. Em tôi không chịu ở,
cũng như tôi không chịu đi”. Xem như lời ấy, dẫu thần minh cũng phải cảm động,
nay sao chịu theo hàng với Thục? Cô với Tử Du tin nhau tận ruột gan, chớ không
vì lời ngoài tai mà lìa nhau được!
Đang nói chuyện thì Gia Cát Cẩn đã trở về. Quyền bảo Trương
Chiêu rằng:
- Đó, cô nói có sai đâu!
Trương Chiêu thẹn đỏ mặt, lui ra.
Cẩn vào ra mắt Tôn Quyền, thuật lại chuyện tiên chủ không
nghe giảng hoà. Quyền giật mình nói rằng:
- Nếu thế thì Giang Nam nguy mất!
Triệu Tư ở dưới thềm bước lên thưa rằng:
- Tôi có một kế này, đủ cứu được việc nguy cấp ấy.
Quyền hỏi:
- Đức Độ có mẹo gì hay vậy?
Tư thưa:
- Chúa công nên làm một bài biểu, tôi xin sang sứ nước Nguỵ,
ra mắt vua Nguỵ là Tào Phi, bày việc lợi hại, để Nguỵ đến úp Hán Trung, quân Thục
tự nhiên phải nguy, đánh thế nào được ta nữa mà sợ!
Quyền nói:
- Kế ấy hay lắm, nhưng ngươi đi chuyến này, chớ có để mất thể
diện Đông Ngô nhé!
Tư thưa:
- Nếu tôi để lầm lỡ điều gì, thà rằng đâm đầu xuống sông mà
chết, còn mặt mũi nào trông thấy người Giang Nam nữa!
Quyền mừng lắm, lập tức viết biểu, xưng là thần, sai Triệu Tư
đi sứ, đến thẳng Hứa Đô, trước hết vào ra mắt quan thái uý Giả Hủ và các quan lớn
nhỏ khác.
Sáng hôm sau, khai chầu, Giả Hủ ra ban tâu rằng:
- Tâu bệ hạ, Đông Ngô có sai trung đại phu là Triệu Tư sang
đây dâng biểu.
Tào Phi cười, nói:
- Đây là mẹo Đông Ngô muốn đuổi lui quân Thục đây!
Liền cho đòi Triệu Tư vào. Tư vào lạy ở dưới thềm son, dâng tờ
biểu lên.
Phi xem biểu xong hỏi rằng:
- Ngô hầu là bậc chúa như thế nào?
Tư tâu rằng:
- Là bậc chúa thông, minh, nhân, trí, hùng, lược.
Phi cười, nói:
- Có phải khanh quá khen đó chăng?
Tư nói:
- Không phải tôi khen quá lời đâu. Chủ tôi dùng Lỗ Túc ở
trong bọn tầm thường, đó là thông, cất Lã Mông ở trong đám hành trận, đó là
minh; bắt được Vu Cấm không nỡ hại, đó là nhân, lấy Kinh Châu, máu không giây đến
mũi gươm, đó là trí; giữ ba con sông, như hổ ngồi nhìn thiên hạ, đó là hùng;
nay còn phải chịu kém bệ hạ một bậc, đó là lược. Cứ thế mà suy ra, đó chẳng phải
là ông chúa thông, minh, nhân, trí, hùng, lược là gì?
Phi lại hỏi:
- Ngô chủ có học hành gì không?
Tư nói:
- Ngô chủ tôi có hàng vạn chiếc thuyền kín mặt sông; giáp
binh hàng trăm vạn; dùng người hiền; khiến người tài, có chí sửa sang việc
thiên hạ, lúc nào thong thả thì xem rộng cả sách vở, nhưng chỉ nắm lấy cái đại
ý chứ không bắt chước những phường học trò, tìm từng câu, dò từng chương làm
gì!
Phi nói:
- Trẫm muốn đánh Ngô có nên không?
Tư nói:
- Đại quốc có quân đến đánh dẹp, thì tiểu quốc tôi cũng có
phương kế chống giữ!
Phi nói:
- Ngô có sợ Nguỵ không?
Tư nói:
- Quân mặc áo giáp hàng trăm vạn, lại có sông Giang, sông Hán
làm hào, việc gì mà sợ!
Phi nói:
- Ở Đông Ngô có bao nhiêu người được như đại phu?
Tư nói:
- Bọn thông minh, giỏi giang, có chừng tám chín mươi người,
còn những người như bọn tôi thì nhiều lắm, không sao kể xiết.
Tào Phi thấy Triệu Tư ứng đối trôi chảy, không nhụt câu gì,
than rằng:
- Sách có câu: “Đi sứ ra bốn phương, không để nhụt đến mệnh
vua sai khiến”, như ngươi mới xứng đáng được câu ấy!
Bởi vậy, mới sai quan thái thường khanh là Hình Trình mang sắc
phong cho Tôn Quyền làm Ngô vương, được dùng lễ cửu tích.
Triệu Tư tạ ơn ra thành.
Lưu Hoa can rằng:
- Nay Tôn Quyền sợ Thục, cho nên đến xin hàng; cứ như tôi,
thì Thục, Ngô đánh nhau, chính là lúc trời làm mất hai nước ấy. Nếu ta sai một
đại tướng, mang vài vạn binh, sang úp lấy nước Ngô, Thục đánh mặt ngoài, ta
đánh mặt trong, thì chỉ trong năm bữa nửa tháng là nước Ngô phải mất. Nước Ngô
đổ rồi, nước Thục cũng nguy, bệ hạ sao không toan liệu cho sớm?
Phi nói:
- Tôn Quyền đã biết lễ phép mà phục trẫm rồi, nếu lại còn
đánh, thì ngăn trở bụng thiên hạ muốn hàng, không bằng ưng thuận là hơn.
Hoa lại nói:
- Tôn Quyền tuy có hùng tài, nhưng chỉ là một chức phiêu kỵ
tướng quân Nam Sương hầu trong thời tàn Hán mà thôi. Quan nhỏ, thế yếu mà Quyền
còn có bụng muốn tranh hùng với Trung Nguyên; nay phong cho y tước vương thì y
chỉ kém bệ hạ một bực. Bệ hạ tin lời trá hàng, mà phong cho y vị hiệu to lớn,
có khác nào chắp thêm cánh cho hổ không?
Phi nói:
- Không phải thế! Trẫm chẳng giúp gì Ngô, mà cũng không giúp
gì Thục. Ta đợi xem hai nước đánh nhau, khi nào một nước mất, chỉ còn một nước,
bấy giờ ta sẽ trừ nốt, thì có khó gì? Ý trẫm đã quyết rồi, ngươi đừng nói lôi
thôi nữa!
Liền sai Hình Trình mang chiếu sắc đi với Triệu Tư đến Đông
Ngô, phong cho Tôn Quyền.
Tôn Quyền đang cùng với các quan bàn kế chống cự quân Thục,
chợt có tin báo có sứ nước Nguỵ đến phong vương, phải ra ngoài xa nghênh tiếp.
Cố Ung can rằng:
- Chúa công nên tự xưng làm chức thượng tướng quân Cửu Châu
bá, chớ không nên chịu tước phong của Nguỵ.
Quyền nói:
- Ngày xưa, Bái công chịu tước phong của Hạng Vũ, đó là tuỳ
thời, sao lại từ chối?
Bèn dẫn các quan ra thành đón rước sứ giả.
Hình Trình cậy mình là sứ giả nước lớn, vào cửa không thèm xuống
xe. Trương Chiêu giận lắm, quát to lên rằng:
- Lễ, đâu cũng phải kính, phép, đâu cũng phải nghiêm. Ngươi
sao dám tự cao tự đại, dễ thường khinh Giang Nam ta không có một mũi gươm nào
chăng?
Hình Trình vội vàng xuống xe, ra mắt Tôn Quyền, rồi hai người
cùng ngồi một xe đi vào trong thành. Bỗng ở sau xe có một người tự dưng khóc hu
hu lên rằng:
- Chúng ta không biết liều mình ra sức đánh nước Nguỵ, nuốt
nước Thục, mà để chủ ta phải chịu cho người phong tước, đã thảm nhục hay chưa?
Chúng trông ra xem ai, thì là Từ Thịnh. Hình Trình nghe thấy
vậy than rằng:
- Tướng văn, tướng võ Giang Đông như thế này, tất nhiên không
chịu kém người mãi đâu!
Tôn Quyền chịu phong tước xong, các văn võ quan liêu vào lạy
mừng đâu đấy; đoạn thu xếp đồ châu ngọc sai người sang nước Nguỵ tiến cống tạ
ân.
Có mật thám về báo rằng:
- Thục chủ dẫn đại quân cùng với man vương là Sa Ma Kha mang
vài vạn quân rợ, lại có tướng Đổng Khê là Đỗ Lộ, Lưu Ninh giúp đỡ. Quân thuỷ bộ
hai đường cùng tiến, thanh thế to lắm. Hiện nay quân thuỷ đã ra khỏi cửa Vu Khẩu,
quân bộ đã đến Thôi Quy.
Bấy giờ Tôn Quyền đã lên ngôi vương, nhưng vua Nguỵ vẫn chưa
cho quân đến cứu, bèn hỏi các quan rằng:
- Quân Thục thế to lắm, làm thế nào bây giờ?
Các quan nín lặng, Tôn Quyền lại nói:
- Sau Chu lang có Lỗ Túc, sau Lỗ Túc có Lã Mông, nay Lã Mông
đã mất rồi, không còn ai lo giúp được việc cho cô nữa ư?
Nói chưa dứt lời, có một tướng tuổi trẻ bước ra tâu rằng:
- Tôi tuy ít tuổi, nhưng cũng hơi biết binh pháp, vậy xin
lĩnh vài vạn quân ra phá quân Thục!
Quyền trông ra thì là Tôn Hoàn.
Hoàn tự là Thúc Vũ, cha tên là Hà, nguyên họ Du. Tôn Sách yêu
lắm, cho theo vào họ Tôn, bởi thế cũng thuộc vào tôn tộc Ngô vương. Hà sinh được
bốn con; Hoàn là con trưởng, giỏi nghề cung ngựa. Thường theo Ngô vương đi đánh
dẹp, nhiều khi lập được công to. Hiện đang làm võ vệ đô úy, bấy giờ mới hai
mươi nhăm tuổi.
Quyền hỏi rằng:
- Ngươi có mẹo gì phá được quân Thục?
- Tôi có hai viên đại tướng, một là Lý Dị, hai là Tạ Tinh, đều
có sức khoẻ muôn người không địch nổi. Xin chúa công cấp cho vài vạn quân, để
tôi ra bắt Lưu Bị.
Quyền nói:
- Cháu tuy anh hùng, nhưng còn ít tuổi, phải được một người
giúp đỡ mới xong.
Hổ oai tướng quân là Chu Nhiên tâu rằng:
- Tôi xin đi với tiểu tướng quân ra bắt Lưu Bị!
Quyền ưng lời, liền điểm quân thuỷ lục năm vạn, phong cho Tôn
Hoàn làm tả đô đốc, Chu Nhiên làm hữu đô đốc, cất quân đi ngay hôm ấy.
Quân do thám dò biết quân Thục đã đến Nghi Đô hạ trại. Tôn
Hoàn dẫn hai vạn rưỡi quân mã đóng ở giáp giới Nghi Đô, trước sau chia làm ba
trại, để cự nhau với quân Thục.
Tướng Thục là Ngô Ban lĩnh ấn tiên phong, từ khi ở Xuyên ra,
đi đến đâu giặc hàng đến đấy, như cỏ lướt theo chiều gió, gươm không giây vết
máu nào, đến thẳng Nghi Đô. Nghe tin Tôn Hoàn cắm trại ở đó chống cự với quân
mình, Ban liền phi báo với tiên chủ.
Tiên chủ bấy giờ cũng đã dẫn quân đến Thê Quy nghe tin ấy, nổi
giận nói:
- Thứ thằng ranh con ấy, lại dám kháng cự với trẫm à?
Quan Hưng tâu rằng:
- Tôn Quyền đã cho thằng bé ấy làm tướng, bệ hạ hà tất phải
sai đến đại tướng làm gì, cháu xin ra bắt cũng nổi.
Tiên chủ nói:
- Trẫm muốn coi tài của cháu thế nào!
Lập tức sai Quan Hưng đi.
Hưng lạy từ sắp đi thì Trương Bào lại tâu rằng:
- Quan Hưng đã đi đánh giặc, cháu cũng xin đi một thể.
Tiên chủ nói:
- Hai cháu cùng đi càng hay! Nhưng phải cẩn thận, chớ nên vội
vàng.
Hai tướng lạy từ đi ra, hội với tiên phong, dẫn quân tiến
lên, dàn thành thế trận.
Tôn Hoàn biết quân Thục đã đến, liền kéo quân trong trại ra,
hai bên dàn trận đối nhau. Hoàn dẫn Lý Dị, Tạ Tinh, dừng ngựa dưới cửa cờ.
Trong trận Thục, Quan Hưng, Trương Bào, cùng đội mũ chỏm bạc, mặc áo bào trắng,
cờ trắng, ngựa trắng. Một tướng cầm bát xà mâu đứng trên, một tướng cầm đại đao
đứng dưới.
Bào thét mắng rằng:
- Thằng nhãi con Tôn Hoàn kia! Chết đến cổ họng rồi, còn dám
chơi nhau với thiên binh à?
Hoàn cũng mắng rằng:
- Cha mày đã làm ma không đầu, mày lại đến đây đòi chết, sao
ngu lắm vậy?
Trương Bào giận lắm, vác mâu xông thẳng vào đánh Tôn Hoàn. Tạ
Tinh ở phía sau tế ngựa lên địch. Hai tướng đánh nhau hơn ba chục hiệp. Tinh
thua chạy, Bào thừa thế đuổi theo. Lý Dị vội vàng khoa búa ra tiếp chiến, Bào lại
đánh hơn hai chục hiệp nữa, chưa phân được thua. Trong trận Ngô, có tên tì tướng
là Đàm Hùng, thấy Trương Bào khoẻ mạnh lắm, Lý Dị không địch nổi mới bắn ngầm
ra một phát tên, tin ngay vào ngựa Trương Bào. Con ngựa bị đau chạy về, chưa đến
cửa trận đã ngã kềnh ra hất Trương Bào lăn xuống đất. Lý Dị vội vàng hai tay
khoa lưỡi búa nhằm trúng óc Trương Bào bổ xuống. Bỗng đâu thấy một đạo hồng
quang loé lên, đầu Lý Dị đã rơi xuống đất. Nguyên là, Quan Hưng thấy Trương Bào
quay về, vừa tế ngựa ra tiếp ứng, thì Trương Bào đã ngã ngựa, mà Lý Dị đã sấn đến
sau lưng. Hưng quát to một tiếng, chém ngay được Lý Dị, cứu Trương Bào đứng dậy,
rồi thừa thế đánh bừa sang. Tôn Hoàn thua to. Bên nào bên ấy khua chiêng thu quân
về.
Hôm sau, Tôn Hoàn lại dẫn quân đến, Trương Bào, Quan Hưng
cùng ra. Quan Hưng đứng trước trận, thách Tôn Hoàn giao phong. Hoàn giận lắm, tế
ngựa múa đao đánh nhau với Quan Hưng, hơn hai chục hiệp, sức lực hơi núng, quay
ngựa chạy về, hai tướng đuổi ùa cả vào dinh. Ngô Ban cũng dẫn bọn Phùng Tập,
Trương Nam kéo quân đánh giết tơi bời. Trương Bào xông xáo vác mâu đi trước, gặp
Tạ Tinh Bào đâm cho một mâu chết cứng.
Quân Ngô chạy trốn tan hoang.
Tướng Thục được trận thu quân về. Các tướng đủ mặt, duy không
thấy Quan Hưng đâu. Trương Bào kinh hãi nói:
- An Quốc có xảy ra chuyện gì, ta cũng không sống được một
mình!
Nói đoạn, vác mâu lên ngựa đi tìm. Bào đi được vài dặm, thấy
Quan Hưng tay tả cầm đao, tay hữu cắp nách một tướng.
Bào hỏi rằng:
- Ai thế?
Hưng cười nói:
- Trong đám loạn quân ta gặp được kẻ thù, liền bắt sống đem về
đây!
Bào nhìn ra thì chính là Đàm Hùng, người bắn phát tên ngầm
hôm qua. Bào mừng lắm, cùng nhau về trại, chém Đàm Hùng lấy máu tế con ngựa chết,
rồi viết biểu sai người đem đến dinh tiên chủ báo tin thắng trận.
Tôn Hoàn tốn mất bọn Lý Dị, Tạ Tinh, Đàm Hùng cùng rất nhiều
quân sĩ, thế lực đã kiệt, phải sai người về Ngô cầu cứu.
Tướng Thục là Trương Nam, Phùng Tập bàn với Ngô Ban rằng:
- Hiện nay quân Ngô thua luôn mấy trận, ta nên thừa thế đến
cướp trại.
Ngô Ban nói:
- Tôn Hoàn tuy thiệt hại nhiều tướng sĩ, nhưng cánh quân thuỷ
của Chu Nhiên, hiện đang đóng trên mặt sông, chưa tổn hại chút nào. Nếu ta đến
cướp trại, phỏng quân mặt thuỷ kéo lên bờ, chặn mất đường ta về, thì làm thế
nào?
Nam nói:
- Việc ấy rất dễ. Nên sai Quan, Trương hai tướng, mỗi người dẫn
năm nghìn quân, phục ở trong hang núi, nếu Chu Nhiên lại cứu thì đổ ra mà đánh,
chắc rằng phải được.
Ban nói:
- Không bằng ta sai mấy tên lính sang trá hàng, khiến nó báo
việc cướp trại với Chu Nhiên. Nhiên trông thấy ngọn lửa, tất nhiên đến cứu, ta
sẽ sai quân phục đổ ra mà đánh, như thế việc lớn chắc xong!
Bọn Phùng Tập mừng lắm, nghe theo kế ấy.
Chu Nhiên được tin Tôn Hoàn hao binh tổn tướng định mang quân
lại cứu. Bỗng thấy quân canh đường dẫn mấy tên lính Thục đến. Nhiên hỏi chuyện
thì chúng thưa rằng:
- Chúng tôi là quân sĩ dưới trướng Phùng Tập, bởi vì thưởng
phạt không được minh, cho nên đến đây hàng và nhân thể báo việc cơ mật.
Nhiên nói:
- Có việc cơ mật gì?
Tiểu tốt nói:
- Chiều tối hôm nay, Phùng Tập thừa cơ đến cướp trại của Tôn
tướng quân, có hẹn với nhau đốt lửa lên làm hiệu.
Nhiên nghe xong, lập tức sai người đến báo với Tôn Hoàn. Người
báo đi đến nửa đường, bị Quan Hưng giết mất.
Chu Nhiên định dẫn quân ra cứu Tôn Hoàn. Bộ tướng là Thôi Vũ
can rằng:
- Lời nói tên lính quèn chưa lấy gì làm tin cho lắm, phỏng có
xảy ra sự gì, thì hai mặt thuỷ bộ đều hỏng cả. Tướng quân nên giữ vững lấy thuỷ
trại, để tôi đi chuyến này xem sao.
Chu Nhiên nghe theo, sai Thôi Vũ dẫn một vạn quân đi cứu.
Đêm hôm ấy, Phùng Tập, Trương Nam, Ngô Ban chia binh làm ba
đường, kéo bừa vào trại Tôn Hoàn, bốn mặt nổi lửa. Quân Ngô bối rối, chạy toán
lạc cả.
Lại nói Thôi Vũ đang đi, thấy lửa bốc cháy vội vàng giục quân
tiến lên. Vừa qua khỏi một trái núi, bỗng đâu ở trong hang trống đánh vang lừng,
rồi mé tả có Quan Hưng, mé hữu có Trương Bào, hai đường đổ ra đánh giết. Thôi
Vũ giật mình, toan chạy về, thì Trương Bào vừa đến nơi. Hai tướng đấu nhau, chỉ
một hiệp, Vũ bị Bào bắt sống.
Chu Nhiên nghe tin nguy cấp, rút quân thuỷ lùi năm sáu mươi dặm,
Tôn Hoàn dẫn bại quân chạy trốn hỏi bộ tướng rằng:
- Đây là mé trước, có xứ nào thành vững lương nhiều không?
Bộ tướng nói:
- Từ đây ra mé chính bắc, có thành Di Lăng, đóng quân được.
Hoàn vội vàng chạy ra Di Lăng, vừa vào trong thành thì bọn
Ngô Ban đuổi theo đến nơi, vây bọc kín cả bốn mặt.
Quan Hưng, Trương Bào giải Thôi Vũ về Thê Quy. Tiên chủ mừng
lắm, truyền chỉ đem chém Thôi Vũ, rồi mở tiệc khao thưởng ba quân. Từ bấy giờ
oai phong tiên chủ lừng lẫy, các tướng bên Giang Nam đều mất vía.
Lại nói Tôn Hoàn sai người về cầu cứu. Tôn Quyền giật mình,
triệu văn võ vào thương nghị rằng:
- Nay Tôn Hoàn bị khốn ở Di Lăng, Chu Nhiên thua to ở Trường
Giang, thế quân Thục lớn lắm, làm thế nào bây giờ?
Trương Chiêu tâu rằng:
- Hiện nay các tướng tuy nhiều người đã mất, nhưng cũng còn
được hơn mười người, lo gì Lưu Bị. Nên sai Hàn Đương làm chánh tướng, Chu Thái
làm phó tướng, Phan Chương làm tiên phong, Lăng Thống làm đoạn hậu, Cam Ninh
làm cứu ứng, khởi mười vạn quân ra mà cự mới được.
Quyền nghe theo, sai các tướng ngay hôm ấy cất quân đi. Bấy
giờ Cam Ninh đang bị bệnh lỵ, cũng phải gượng theo đi đánh giặc.
Lại nói, tiên chủ cắm trại từ Vu Giáp, Kiến Bình đến thẳng Di
Lăng, dài hơn bảy chục dặm, trước sau cất hơn bốn chục trại liên tiếp nhau. Thấy
Quan Hưng, Trương Bào lập luôn được công to, bèn than rằng:
- Các tướng theo trẫm khi xưa đều già nua vô dụng cả rồi! Nay
lại có hai cháu anh hùng thế này, trẫm còn lo chi Tôn Quyền nữa!
Chợt có tin báo Hàn Đương, Chu Thái dẫn quân đến. Tiên chủ sắp
sai tướng ra địch, thì cận thần vào tâu rằng:
- Hoàng Trung dẫn năm sáu người sang hàng Đông Ngô rồi.
Tiên chủ cười nói:
- Hoàng Hán Thăng không phải là người phản bội, đó tất là vì
trẫm lỡ lời nói rằng già lão vô dụng, Hán Thăng không chịu tiếng già, cho nên gắng
sức ra chống giặc đó thôi.
Lập tức triệu Quan Hưng, Trương Bào vào dặn rằng:
- Hoàng Hán Thăng đi chuyến này, tất nhiên lỡ việc, hai cháu
chớ quản khó nhọc, nên ra giúp hắn, nếu hắn lập được chút công lao gì, thì phải
bảo về ngay, chớ để bị thiệt hại.
Hai tiểu tướng lạy từ tiên chủ, dẫn quân ra giúp Hoàng Trung.
Đó là:
Tuổi già muốn tỏ lòng trung dũng,
Tướng trẻ may nhờ dịp lập công.
Chưa biết Hoàng Trung chuyến này đi thế nào, xem đến hồi sau
phân giải.
Hồi 83:
Đánh Hào Đình, tiên chủ bắt được thù nhân
Giữ Giang Khẩu, thư sinh cất làm đại tướng
Lại nói năm Chương Vũ thứ hai (221) tháng giêng, mùa xuân,
quan võ oai hậu tướng quân là Hoàng Trung theo tiên chủ sang đánh Ngô. Chợt
nghe thấy tiên chủ nói lão tướng vô dụng, lập tức cầm đao lên ngựa, dẫn năm sáu
người đi theo, đến thẳng trại Di Lăng.
Ngô Ban cùng Trương Nam, Phùng Tập tiếp vào, hỏi rằng:
Trung nói:
- Ta từ khi ở Trường Sa theo hầu thiên tử đến giờ, lập nên
bao nhiêu công lao. Nay tuy tuổi ngoại bảy mươi, nhưng mỗi bữa ăn còn nổi chục
cân thịt, cánh tay còn giương nổi cung hai tạ, cưỡi được ngựa thiên lý, thì
cũng chưa lấy gì làm già. Hôm qua chúa thượng nói bọn ta già cả vô dụng, bởi vậy
ta lại đây, để đánh nhau với Đông Ngô, xem ta chém tướng, già hay không già?
Trung đương nói thì quân tiền bộ nước Ngô đã kéo đến trước trại.
Hoàng Trung hăng hái ra trướng nhảy lên ngựa.
Bọn Phùng Tập can rằng:
- Lão tướng chớ nên khinh tiến vội.
Trung không nghe, tế ngựa ra đi. Ngô Ban sai Phùng Tập dẫn
quân đánh giúp. Trung dừng ngựa đứng trước trận, cắp ngang đại đao, thách tướng
tiên phong Ngô là Phan Chương giao chiến.
Phan Chương dẫn bộ tướng là Sử Tích ra trận. Tích khinh Trung
già yếu, vác giáo xốc vào đánh, mới ba hiệp bị Trung chém một nhát ngã quay xuống
đất. Phan Chương nổi giận, múa ngay thanh long đao của Quan Công lại đánh,
Trung hăng sức đánh dữ quá, Chương địch không nổi, quay ngựa chạy về. Trung thừa
thế đuổi theo, thu được toàn thắng.
Trung về đến nửa đường, gặp Quan Hưng, Trương Bào, Hưng nói:
- Chúng tôi phụng thánh chỉ, lại giúp lão tướng quân đây. Tướng
quân đã lập được công rồi, xin mời về dinh ngay cho.
Trung không nghe.
Hôm sau, Phan Chương lại đến khiêu chiến, Trung hăng hái lên
ngựa. Hưng, Bào hai người muốn ra đánh giúp, Trung không cho, Ngô Ban muốn
giúp, Trung cũng chẳng nghe, chỉ một mình dẫn năm nghìn quân ra trận. Đánh nhau
được mấy hiệp Chương vác đao chạy, Trung tế ngựa đuổi theo, quát to lên rằng:
- Tướng giặc đừng chạy nữa! Ta nay báo thù cho Quan Công đây!
Trung đuổi được hơn ba chục dặm, bỗng tiếng hò reo nổi lên tứ
phía, quân phục kéo ra, hữu có Chu Thái, tả có Hàn Đương, trước mặt có Phan
Chương, sau lưng là Lăng Thống, bọn người vây bọc Hoàng Trung ở giữa. Bỗng dưng
lại nổi một cơn gió to, Trung vội vàng tháo đường chạy thì Mã Trung dẫn một
toán quân trên sườn núi kéo xuống, bắn một phát tin ngay vào giữa vai Hoàng
Trung, khiến Trung suýt ngã ngựa. Quân Ngô thấy Hoàng Trung bị trúng tên liền
ùa lại đánh. Bỗng nhiên ở mé sau có tiếng hò reo ầm ĩ. Hai toán quân Thục ập đến
đánh quân Ngô chạy toán lạc, cứu được Hoàng Trung. Đó là Quan Hưng, Trương Bào,
hai tướng giữ gìn Hoàng Trung đưa về đến ngự doanh.
Trung tuổi già, khí lực đã kém, bị tên đau nặng lắm. Tiên chủ
thân đến hỏi thăm, vỗ vào lưng nói:
- Để cho lão tướng quân bị thương thế này, là lỗi tại trẫm
đó!
Trung nói:
- Tôi chỉ là một kẻ võ phu mà thôi, may mà gặp được bệ hạ.
Nay tôi đã bảy mươi nhăm tuổi, sống lâu thế là đủ lắm rồi. Xin bệ hạ giữ gìn
long thể cho khéo, để mà đồ Trung Nguyên.
Nói đoạn ngất đi. Đêm hôm ấy, Hoàng Trung mất ở ngự doanh.
Đời sau có thơ rằng:
Lão tướng nhất Hoàng Trung,
Vào Xuyên lập đại công.
Giáp vàng, mặc sáng nhoáng,
Cung sắt, giương nhẹ không.
Đảm khí vang Hà Bắc,
Oai danh lừng Thục Trung.
Phơ phơ đầu bạc trắng,
Đến chết vẫn anh hùng!
Tiên chủ thấy Hoàng Trung mất rồi, thương xót không biết ngần
nào, sai khâm liệm, đem về táng tại Thành Đô.
Tiên chủ than rằng:
- Trong năm hổ tướng, đã mất ba người rồi, trẫm chưa báo được
thù, đau đớn lắm thay!
Nói đoạn dẫn quân ngự lâm đến thẳng Hào Đình, hội hết cả các
tướng, chia quân làm tám đường thuỷ bộ kéo sang Ngô. Tiên chủ sai Hoàng Quyền
lĩnh quân thuỷ, còn mình thì dẫn đại quân bộ kéo đi.
Bấy giờ là trung tuần tháng hai, năm Chương Vũ thứ hai.
Hàn Đương, Chu Thái nghe tin tiên chủ ngự giá đến đánh, liền
dẫn quân ra địch. Hai bên dàn trận: Hàn Đương, Chu Thái ra ngựa. Trận bên này,
tiên chủ tự trong cửa cờ đi ra, che đôi tán vóc vàng, mao trắng, việt vàng, cờ
tinh, cờ tiết che kín xung quanh.
Đương gọi lớn lên rằng:
- Bệ hạ nay đã làm Thục chúa, sao lại khinh thường mà đến
đây, nếu có lỡ điều gì, thì hối sao cho kịp?
Tiên chủ trỏ roi sang mắng rằng:
- Những quân chó Ngô kia! Bay hại hai em trẫm, trẫm thề không
chung trời đất với chúng bay!
Đương ngoảnh lại bảo các tướng rằng:
- Có ai dám xông vào đám quân Thục không?
Bộ tướng là Hạ Tuân vác đao quất ngựa ra. Sau lưng tiên chủ
có Trương Bào cầm mâu xốc ngựa tới, quát to một tiếng, đâm Hạ Tuân. Tuân thấy
Bào tiếng dữ như sét, trong bụng đã run toan chạy về. Em Chu Thái là Chu Bình,
thấy Tuân không địch nổi, liền múa đao tế ngựa ra đánh giúp. Quan Hưng cùng múa
đao cự địch. Trương Bào hét lên một tiếng, đâm trúng Hạ Tuân một mâu ngã ngựa.
Chu Bình thấy vậy giật mình, trở tay không kịp, bị Quan Hưng cho một nhát đao
chết nốt. Hai tiểu tướng thừa thế xông vào bắt Hàn Đương, Chu Thái. Hai người vội
vàng chạy vào trận.
Tiên chủ than rằng:
- Đó mới thực cha hổ không đến nỗi đẻ ra con chó bao giờ!
Nói rồi cầm roi trỏ một cái, quân Thục kéo ùa lại, quân Ngô
thua to, tám đạo quân bên Thục, tràn sang như thác lũ, giết quân Ngô thây nằm
chất đồng, máu chảy thành sông.
Lại nói bấy giờ Cam Ninh đang dưỡng bệnh ở trong thuyền, nghe
quân Thục rầm rộ kéo đến, vội vàng lên ngựa thì vừa gặp một toán quân rợ; người
nào cũng xù tóc, đi chân không, đeo cung tên, tay cầm giáo dài, đao, múa, mộc,
tướng đi đầu chính là vua Phiên Sa Ma Kha, mặt đỏ như phun tuyết, mắt biếc lồi
ra ngoài, tay cầm một cái dùi tật lê bằng sắt, lưng đeo hai bộ cung, oai phong
dữ tợn. Cam Ninh thấy thế giặc to lắm, không dám đánh, quay ngựa chạy, bị vua
Phiên bắn một phát tin vào giữa sống óc. Ninh đeo cả tên mà chạy, đến mãi cửa
sông Phú Trì, rồi chết dưới gốc cây to. Trên cây ấy có một đàn quạ, ước chừng
vài trăm con, đậu lấp kín cả thi thể.
Ngô chủ nghe tin, thương xót vô cùng, sai người đem thây về,
hậu lễ tống táng, lập miếu thờ phụng.
Người sau có thơ than rằng:
Hưng Bá anh hùng tướng đất Ngô,
Cánh buồm gấm đỏ trải giang hồ.
Thờ vua ra sức đền ơn nặng,
Báo bạn kiên tâm giải oán thù.
Khinh kỵ trăm tên xông trại giặc,
Rượu ngon ba cốc lập công to.
Quạ thần tiễn khách còn linh ứng,
Hương hoả nay đà biết mấy thu?
Lại nói, tiên chủ thừa cơ đuổi đánh, lấy được Hào Đình; quân
Ngô tan chạy mất cả. Tiên chủ thu quân, không thấy Quan Hưng về, vội vàng sai bọn
Trương Bào đi tìm khắp bốn phía.
Nguyên là Quan Hưng khi xông vào trận Ngô, gặp Phan Chương
chính là người thù, liền tế ngựa đuổi theo, Chương kinh hãi chạy trốn vào trong
hang núi, rồi mất hút. Hưng nghĩ Chương chỉ ở trong núi ấy, nhưng đi lại tìm
tòi mãi vẫn không thấy. Dần dần trời tối, không biết lối ra. May nhờ có bóng
trăng sao, Hưng thấy một túp nhà, xuống ngựa gõ cửa. Một ông giả ra hỏi, Hưng
nói:
- Tôi là chiến tướng, lạc đường đến đây, xin nhờ một bữa cơm
đỡ đói.
Ông già mời Quan Hưng vào trong nhà. Hưng trông lên trên giường
thờ, thấy đèn nến sáng choang, ở giữa treo bức tượng Quan Công. Hưng khóc oà
ngay lên, chạy vào lạy.
Ông già hỏi:
- Sao tướng quân khóc?
Hưng nói:
- Đây là cha tôi!
Hưng hỏi:
- Sao ông lại thờ cha tôi làm vậy?
Ông già đáp:
- Cả vùng này đều là địa phương của tôn thần cả. Khi ngài còn
sống, nhà nào cũng còn thờ, huống chi bây giờ ngài đã thành thần? Lão phu chỉ
mong quân Thục đến đánh báo thù cho sớm. Nay tướng quân đến đây, trăm họ xứ này
có phúc lắm.
Nói đoạn làm rượu khoản đãi Quan Hưng, sai người dắt ngựa, cởi
yên cho ăn. Cuối canh ba, lại nghe có người gõ cửa. Ông già ra hỏi, té ra tướng
Ngô là Phan Chương cũng tới ngủ trọ. Chương vừa bước vào, Quan Hưng trông thấy,
rút gươm quát to lên rằng:
- Phản tặc đừng chạy!
Chương quay mình chạy ra, bỗng lại có một người mặt đỏ râu
dài, mặc áo bào xanh giáp vàng, cầm lăm lăm thanh kiếm đi vào. Chương thấy Quan
Công hiển thánh, kêu rú lên một tiếng, hồn bay phách lạc, đang chực chạy thì bị
Quan Hưng chém một nhát, ngã quay xuống đất. Hưng mổ ruột lấy máu, đem đến trước
tượng thần Quan Công cúng tế.
Quan Hưng lấy lại được thanh long đao của Quan Công khi xưa,
treo đầu Phan Chương vào cổ ngựa, rồi từ tạ ông già, cỡi ngựa của Phan Chương về
trại. Còn thây của Phan Chương thì ông già đem thiêu ra tro.
Quan Hưng đi chưa được vài dặm, bỗng nghe có tiếng người nói
ngựa kêu, rồi một toán quân kéo đến, tướng đi đầu chính là Mã Trung, bộ tướng của
Phan Chương.
Mã Trung thấy Quan Hưng giết mất chủ tướng mình, treo đầu dưới
cổ ngựa, mà thanh long đao cũng mất, liền nổi giận đùng đùng, tế ngựa xông vào
đánh. Hưng thấy Mã Trung chính là thằng hại cha mình, cơn giận ở đâu bốc lên
ngùn ngụt, khoa thanh long đao chém xuống. Bộ hạ của Mã Trung ba trăm người,
xúm cả lại, vây bọc lấy Quan Hưng. Hưng thế đã nao núng, may đâu ở mé tây bắc,
Trương Bào vừa dẫn một toán quân đến. Mã Trung thấy có quân cứu, vội vàng rút
chạy. Hưng, Bào hai người thừa thế đuổi theo. Chưa được vài dặm, lại gặp My
Phương, Phó Sĩ Nhân dẫn quân đến tìm Mã Trung. Hai bên đánh nhau lộn bậy một hồi.
Hưng, Bào ít quân phải tháo lui.
Hai tướng cùng về Hào Đình ra mắt tiên chủ, dâng đầu Phan
Chương, và thuật lại chuyện đó. Tiên chủ mừng rỡ, cho là chuyện lạ, khao thưởng
cho ba quân.
Mã Trung trở về, ra mắt Hàn Đương, Chu Thái rồi thu nhặt bại
quân, chia đường ra giữ các nơi. Quân sĩ bị thương không biết bao nhiêu mà kể.
Mã Trung đem Phó Sĩ Nhân, My Phương ra đóng đồn tại bến sông.
Canh ba đêm ấy, chỗ nào cũng nghe tiếng quân sĩ khóc lóc. My Phương lẻn ra nghe
trộm, thì thấy một bọn quân sĩ bàn với nhau rằng: “Chúng ta đều là quân Kinh
Châu cả, bị Lã Mông đánh lừa, hại mất chúa công. Nay Lưu hoàng thúc ngự giá
sang đánh, Đông Ngô nay mai tất hỏng mất. Xét ra ngài chỉ giận có My Phương,
Phó Sĩ Nhân mà thôi. Chúng ta sao không giết quách hai thằng ấy, đem đến trại
Thục mà đầu hàng, chắc được công to!” Lại nghe thấy một bọn nữa nói: “Việc ấy
chớ nên hấp tấp, đợi lúc nào thuận tiện, chúng ta sẽ thừa cơ mà sửa ngay đi!”
My Phương nghe xong kinh hãi lắm, bàn với Phó Sĩ Nhân rằng:
- Bụng quân sinh biến cả rồi, hai chúng ta chưa biết sống chết
thế nào đây? Nay Thục chủ chỉ còn giận có Mã Trung, chúng ta nên giết phăng nó
đi, đem đầu đến dâng, kêu rằng bọn ta bất đắc dĩ phải hàng Ngô, nghe tin ngự
giá đến đây, xin lại chịu tội.
Sĩ Nhân nói:
- Không nên đi, đi tất chết!
Phương nói:
- Thục chủ là người nhân đức, vả lại A Đẩu thái tử là cháu
ngoại ta, hắn nghĩ đến tình thân thích, tất không nỡ hại.
Hai người bàn định đâu đấy, sắm sửa ngựa trước; đang lúc canh
ba, vào trướng đâm chết Mã Trung, cắt lấy đầu, rồi dẫn vài mươi tên kỵ mã, đi tắt
sang Hào Đình. Quân canh đường đưa vào ra mắt Trương Nam, Phùng Tập trước, kể hết
tình đầu. Hôm sau đến ngự doanh, vào lạy tiên chủ, dâng đầu Mã Trung lên, khóc
mà kêu rằng:
- Chúng tôi quả thật không có bụng làm phản, lỡ mắc mưu Lã
Mông nói Quan Công đã mất, lừa cho chúng tôi mở cửa thành. Chúng tôi bất đắc dĩ
phải hàng. Nay nghe thánh giá đến đây, nên chúng tôi giết thằng giặc này, để hả
cái tức giận của bệ hạ, xin bệ hạ tha tội cho.
Tiên chủ nổi giận, mắng rằng:
- Trẫm từ Thành Đô ra đây đã lâu, hai chúng bây sao không đến
thú tội? Nay thế đã nguy cấp, mới đến nói khéo để cầu thoát chết có phải không?
Nếu trẫm tha cho chúng bay, khi xuống suối vàng, còn mặt mũi nào trông thấy
Quan Công nữa!
Nói đoạn, sai Quan Hưng thiết ngay linh vị Quan Công ở trong
dinh, tiên chủ thân dâng đầu Mã Trung lên cúng tế. Lại sai Quan Hưng đem My
Phương, Phó Sĩ Nhân lột sạch quần áo, bắt ngồi quỳ trước linh vị, rồi cầm dao xẻo
từng miếng thịt để tế Quan Công.
Bỗng Trương Bào bước ra, lạy thụp xuống đất, khóc mà kêu rằng:
- Kẻ thù của bác hai đã giết được cả rồi, còn thù của cha
cháu, bao giờ mới trả xong?
Tiên chủ nói:
- Cháu chớ lo! Trẫm còn san phẳng cả Giang Nam, giết hết chó
Ngô, kỳ bắt cho được hai thằng giặc ấy, để cháu đem muối thịt chúng nó tế cha
cháu, mới nghe kia.
Bào khóc, lạy tạ trở ra.
Bấy giờ oai danh của tiên chủ lừng lẫy xa gần, người Giang
Nam ai cũng hết vía, kêu khóc đêm ngày. Hàn Đương, Chu Thái khiếp sợ lắm, sai
người về báo với Tôn Quyền, Quyền cả kinh, tụ văn võ lại bàn bạc.
Bộ Trắc tâu rằng:
- Thục chủ chỉ căm hờn bọn Lã Mông, Phan Chương, Mã Trung, My
Phương, Phó Sĩ Nhân mà thôi, nay mấy người ấy mất cả rồi, còn lại có Phạm
Cương, Trương Đạt, hai người hiện ở Đông Ngô, ta nên bắt đem trả Thục cùng với
đầu lâu Trương Phi, trao lại Kinh Châu, đưa phu nhân về, dâng biểu cầu hoà, kết
tình hiếu cũ, để mà đồng tâm diệt Nguỵ, như thế tự nhiên quân Thục phải rút về.
Tôn Quyền nghe lời, sai đóng một cái hòm bằng gỗ trầm hương,
bỏ đầu Trương Phi vào, trói Phạm Cương, Trương Đạt giam trong cũi, sai Trình Bỉnh
đi sứ mang quốc thư đến Hào Đình.
Bấy giờ, tiên chủ sắp kéo quân đi, chợt có cận thần vào tâu rằng:
- Đông Ngô sai sứ đem trả đầu Trương xa kỵ cùng hai tên giặc
Phạm Cương và Trương Đạt.
Tiên chủ giơ hai tay lên trán nói:
- Đó là trời cho, mà cũng là em thứ ba trẫm khôn thiêng, run
rủi ra thế đấy!
Lập tức sai Trương Bào để linh vị Trương Phi để tế. Tiên chủ
trông thấy đầu lâu Trương Phi ở trong hòm, mặt mũi vẫn như thuở sống, liền khóc
ầm lên. Trương Bào cầm dao sắc, đem Phạm Cương, Trương Đạt xẻo từng miếng thịt
để tế vong hồn cha.
Tế xong rồi, tiên chủ vẫn chưa nguôi giận, nhất quyết diệt được
Ngô mới nghe.
Mã Lương tâu rằng:
- Kẻ thù ta đã giết hết rồi, bụng giận cũng đã hả, đại phu nước
Ngô là Trình Bỉnh đến đây, xin nộp trả Kinh Châu, và đưa phu nhân về, kết hiếu
với nhau, để cùng đánh Nguỵ, xin bệ hạ giáng chỉ cho.
Tiên chủ giận nói:
- Kẻ thù không đội trời chung với ta là Tôn Quyền kia. Nếu bằng
giảng hoà, thì ra phụ lời thề với hai em trẫm khi trước. Nay trẫm định trước diệt
Ngô, sau diệt Nguỵ.
Nói rồi muốn chém sứ giả để tuyệt tình với nước Ngô. Các quan
cố sức can ngăn mới thôi.
Trình Bỉnh được thoát, ôm đầu lủi thủi trở về, tâu với Ngô
vương rằng:
- Thục chủ không nghe giảng hoà, nhất định đánh Ngô trước, rồi
đánh Nguỵ sau. Các bầy tôi can mãi không nghe, không biết làm thế nào bây giờ?
Tôn Quyền kinh hãi, luống cuống cả lên.
Hám Trạch bước ra tâu rằng:
- Hiện nay có một cái cột chống được trời, làm sao lại không
dùng đến?
Quyền vội hỏi người nào, Trạch tâu rằng:
- Khi xưa các việc to ở Đông Ngô đều trông cậy vào Chu lang,
Chu lang mất rồi thì có Lỗ Tử Kính thay chân, Tử Kính mất lại có Lã Tử Minh.
Nay Tử Minh tuy đã mất, hiện có Lục Bá Ngôn ở Kinh Châu, người ấy tuy là học
trò nhưng có tài hùng lược. Cứ như ý tôi thì tài y chẳng kém gì tài Chu lang.
Khi trước phá được Quan Công, mưu mô do tự hắn cả. Chúa thượng nếu dùng hắn,
thì chắc phá được quân Thục. Nhược bằng có lầm lỡ điều gì, tôi xin cùng chịu tội
với hắn.
Quyền nói:
- Giá không có lời Đức Nhuận thì cô suýt nữa lỡ mất việc to!
Trương Chiêu nói:
- Lục Tốn là một người học trò, không phải đối thủ với Lưu Bị,
chớ có nên dùng!
Cố Ung cũng nói:
- Lục Tốn tuổi còn trẻ, danh tiếng chưa có, tôi e các tướng
không phục; đã không phục, tất sinh loạn, chắc hẳn lỡ mất việc to.
Bộ Trắc cũng nói:
- Tài Lục Tốn chỉ trị được một quận mà thôi, nếu trao cho việc
lớn chắc khó mà đương nổi.
Hám Trạch kêu to lên rằng:
- Nếu không dùng Lục Bá Ngôn thì Đông Ngô hỏng mất. Tôi xin
đem cả nhà tôi để đảm bảo cho hắn.
Quyền nói:
- Cô cũng vẫn biết Lục Bá Ngôn là người kỳ tài, ý cô đã quyết,
các ngươi đừng nhiều lời nữa!
Bèn sai đòi Lục Tốn đến. Tốn nguyên tên là Lục Nghị, sau mới
đổi ra Tốn, tự là Bá Ngôn, quê ở Ngô Quận, cháu quan thành môn hiệu uý Lục Chữ,
con quan Cửu Giang đô uý Lục Tuấn. Tốn mình dài tám thước, mặt đẹp như ngọc, hiện
đang làm trấn tây tướng quân. Khi ấy, Tốn phụng mệnh đến chầu, Tốn lạy xong,
Quyền nói rằng:
- Nay quân Thục kéo đến bờ cõi, cô muốn sai ngươi tổng đốc cả
quân mã, để ra phá Lưu Bị.
Tốn tâu rằng:
- Các quan văn võ ở Giang Đông, toàn là cựu thần của đại
vương cả. Tôi tuổi còn nhỏ, lại không có tài, sai bảo làm sao được!
Quyền nói:
- Hàm Đức Nhuận đem cả nhà ra bảo đảm cho ngươi, mà cô cũng
đã biết tài ngươi gánh nổi việc. Nay phong cho ngươi làm đại đô đốc, ngươi chớ
từ nữa.
Tốn nói:
- Nếu văn võ không phục, thì làm thế nào?
Quyền lập tức rút thanh đao đang đeo trao cho Lục Tốn và dặn
rằng:
- Trong văn võ, nếu ai không tuân lệnh cho ngươi chém trước
tâu sau.
Tốn nói:
- Đội ơn đại vương uỷ thác việc lớn, tôi đâu dám từ chối mãi,
nhưng xin đại vương để đến ngày mai, hội cả các quan lại, rồi sẽ trao cho.
Hám Trạch nói:
- Phép ngày xưa sai tướng, tất phải đắp đàn, hội cả chúng lại,
ban cho cờ mao trắng, lưỡi việt vàng, binh phù tướng ấn, có thế thì uy mới
hành, lệnh mới nghiêm. Nay đại vương nên theo lễ ấy, chọn ngày đắp đàn, phong
Bá Ngôn làm đại đô đốc, giao cho tiết việt, thì mọi người phải phục cả.
Quyền nghe lời, sai người ngày đêm đắp đàn, xong hội cả trăm
quan, mời Lục Tốn lên đàn, phong làm đại đô đốc, hữu hộ quân trấn tây tướng
quân, ban cho bảo kiếm ấn thụ, coi cả công việc trong sáu quận tám mươi mốt
châu, kiêm lĩnh các đạo quân mã Kinh Sở.
Ngô vương dặn rằng:
- Tự cửa khổn trở vào, thì cô làm chủ, tự cửa khổn trở ra, mặc
tướng quân trông nom!
Lục Tốn lĩnh mệnh xuống đàn, sai Từ Thịnh, Định Phụng làm hộ
vệ, ngay hôm ấy cất quân đi. Một mặt, điều các lộ quân mã thuỷ bộ cùng tiến.
Văn thư đưa đến Hào Đình, Hàn Đương và Chu Thái cả sợ nói:
- Tại sao chúa thượng lại dùng một anh thư sinh làm tổng binh
thế?
Khi Tốn tới, không ai chịu phục. Tốn ra trướng bàn việc, mọi
người miễn cưỡng đến chào mừng. Tốn nói:
- Chúa thượng cho ta làm đại tướng, đốc quân phá Thục. Việc
quân có phép tắc, các ông phải tuân theo. Nếu làm trái thì phép vua không có nể
ai cả, đừng để hối về sau.
Ai nấy nín lặng. Chu Thái nói:
- Hiện nay, An Đông tướng quân Tôn Hoàn là cháu chúa thượng,
đang bị khốn ở Di Lăng, trong không lương thảo, ngoài chẳng cứu binh. Xin đô đốc
mau dùng kế hay để cứu về cho yên lòng chúa thượng.
Tốn nói:
- Ta vốn biết Tôn An Đông rất được lòng quân sĩ, chắc hẳn giữ
vững được, không cần phải cứu chữa nữa. Đợi khi nào ta phá xong Thục thì ông ấy
sẽ thoát thôi.
Mọi người cười thầm, lui ra.
Hàn Đương bảo Chu Thái rằng:
- Sai đồ nhãi con này làm tướng thì Đông Ngô nguy mất. Ông thấy
việc làm của hắn chưa?
Thái nói:
- Tôi mấy lần dùng lời thử hắn, nhưng không thấy hắn có mưu kế
gì. Phá sao được Thục?
Hôm sau, Tốn truyền lệnh cho các tướng canh phòng các nơi, giữ
vững quan ải, không được khinh địch. Ai nấy đều cười là nhát, không chịu nghe
theo. Tốn liền ra trướng gọi các tướng vào bảo rằng:
- Ta vâng mệnh chúa thượng, tổng đốc quân mã, hôm qua đã hạ lệnh
năm lần bảy lượt, sai các ngươi phải giữ vững các nơi. Tại sao không tuân lệnh
ta?
- Từ khi tôi theo Tôn tướng quân bình định Giang Nam đến giờ,
xông pha hàng trăm trận; các tướng khác người thì theo Thảo nghịch tướng quân
trước kia, người thì theo đại vương ngày nay, đều mặc giáp cầm gươm ra sống vào
chết cả. Nay chúa công cử ông làm đại đô đốc để cự quân Thục, ông nên nhanh
chóng lập mẹo, sai quân chia đường ra đánh dẹp, để đồ việc to mới phải; thế mà
ông lại chỉ bắt giữ vững không ra đánh, phải chăng ông để trời giết đỡ giặc cho
hay sao? Chúng tôi đây có phải là người tham sống sợ chết đâu, sao ông lại làm
nhụt cả nhuệ khí của ta đi thế?
Các tướng thấy vậy ồ cả lên rằng:
- Hàn tướng quân nói phải lắm, chúng tôi xin liều một trận sống
mái với giặc.
Lục Tốn nghe xong, rút gươm ra cầm lăm lăm trong tay, quát to
lên rằng:
- Ta tuy là một kẻ học trò, nhưng được đội ơn chúa thượng,
giao phó cho việc lớn, vì ta cũng có một chút dùng được, nghĩa là ta biết nhịn
nhục, chịu đựng nặng nề. Các ngươi phải giữ vững các cửa ải và nơi hiểm yếu,
không được làm bừa; hễ trái lệnh ta chém đầu đó.
Các tướng nét mặt hầm hầm lui ra.
Lại nói, tiên chủ dàn bày quân mã từ Hào Đình đến mãi cửa
Xuyên, liên tiếp nhau bảy trăm dặm, trước sau cả thảy bốn mươi dinh trại. Ban
ngày tinh kỳ rợp đất tối đến đèn đuốc rực trời.
Chợt có mật thám về báo rằng:
- Đông Ngô dùng Lục Tốn làm đại đô đốc, tổng chế cả quân mã.
Tốn sai các tướng giữ vững các nơi hiểm yếu, không cho ra đánh nhau.
Tiên chủ hỏi:
- Lục Tốn là người thế nào?
Mã Lương tâu rằng:
- Lục Tốn tuy là một anh học trò ở Đông Ngô nhưng ít tuổi mà
lắm tài, mưu mô sâu sắc, khi trước Đông Ngô đánh úp lấy Kinh Châu, cũng là nhờ
quỷ kế của hắn cả.
Tiên chủ nổi giận nói:
- Thằng nhãi con mưu mẹo gian dối, hại mất em thứ hai trẫm,
nay phải bắt lấy nó mới được!
Mã Lương can rằng:
- Tài của Lục Tốn không kém gì Chu Du, chớ nên khinh địch.
Tiên chủ nói:
- Trẫm cầm quân đã già đời rồi, lại không bằng một thằng ranh
con miệng còn hôi sữa ấy sao?
Liền dẫn tiền quân, đánh các nơi cửa ải. Hàn Đương thấy tiên
chủ dẫn quân đến, sai người vào báo với Lục Tốn. Tốn sợ Đương khinh động chăng,
vội vàng phi ngựa đến xem, thấy Hàn Đương cưỡi ngựa đứng trên núi, nhìn xem
quân Thục kéo đến bạt ngàn, trong quân thấp thoáng có tán vóc lọng vàng. Hàn
Đương tiếp đón Lục Tốn, sóng ngựa đứng coi.
Đương trỏ tay, nói:
- Trong đám quân này tất có Lưu Bị, tôi muốn xuống đánh xem
sao.
Tốn nói:
- Lưu Bị từ khi cất quân sang đông, được luôn mươi trận, nhuệ
khí đang thịnh lắm. Nay ta chỉ nên ngồi cao thủ hiểm, chớ nên đánh, nếu đánh chắc
là bất lợi. Hãy nên khuyên bảo tướng sĩ, tìm nhiều cách mà giữ gìn cho vững, để
xem bên kia rồi ra thế nào. Bọn họ rong ruổi ở giữa đồng bằng, đang lúc đắc
chí, ta giữ vững không ra, họ muốn đánh không được, tất phải dời đồn vào đóng
trong rừng rậm, bấy giờ ta sẽ dùng mưu lạ mà phá là được.
Hàn Đương tuy ngoài miệng vâng lời, nhưng trong bụng vẫn
không phục.
Tiên chủ sai tiền đội đến khiêu chiến, chửi bới sỉ nhục trăm
chiều. Tốn sai bịt tai lại không nghe, mà cũng nhất định không cho ra đánh. Lại
đi khắp nơi quan ải, khuyên dụ tướng sĩ, đóng giữ vững vàng.
Tiên chủ thấy quân Ngô không ra, ruột nóng bồn chồn.
Mã Lương tâu rằng:
- Lục Tốn mưu mô sâu sắc, bệ hạ từ xa lại đây qua xuân sang hạ,
thế mà quân kia nhất định không ra là có ý chờ quân ta sinh biến đó, xin bệ hạ
xét kỹ mà xem!
Tiên chủ nói:
- Nó còn có mưu mẹo gì, chẳng qua khiếp sợ đó thôi, đã thua
mãi rồi, còn dám ra gì nữa!
Tiên phong là Phùng Tập vào tâu rằng:
- Hiện nay trời nắng chang chang, quân ta đóng cả ở trong lò
lửa đỏ, đường lấy nước nôi rất là bất tiện.
Tiên chủ sai dời dinh trại vào đóng các nơi cây cối um tùm,
men theo chỗ có khe suối, đợi qua hạ sang thu, rồi sẽ gộp sức lại mà tiến. Bọn
Phùng Tập vâng lệnh, dời dinh trại vào các nơi rừng rú.
Mã Lương tâu rằng:
- Nếu quân ta rục rịch, quân Ngô kéo ùa đến, thì làm thế nào?
Tiên chủ nói:
- Trẫm sai Ngô Ban dẫn hơn vạn quân già yếu, đóng đồn sát trại
Ngô, trẫm thì dẫn tám nghìn tinh binh, phục ở trong hang núi. Lục Tốn thấy trẫm
dời trại, tất thừa thế lại đánh, trẫm sai Ngô Ban giả thua chạy, nếu hắn đuổi
theo, trẫm dẫn phục binh ra chận đường về chắc bắt được thằng ranh con ấy!
Các quan văn võ cùng mừng, nói:
- Bệ hạ thần cơ diệu toán như thế, chúng tôi quả thực không bằng.
Mã Lương nói:
- Gần đây nghe Gia Cát thừa tướng ở Đông Xuyên, coi xét các
nơi, phòng quân Nguỵ vào cướp. Bệ hạ sao không cho vẽ địa đồ các dinh trại, đem
hỏi thừa tướng xem làm sao.
Tiên chủ nói:
- Trẫm cũng đã biết binh pháp, can gì phải hỏi đến thừa tướng
nữa!
Lương nói:
- Từ xưa có câu: “Chịu nghe người thì sáng, chỉ cậy một mình
thì tối”. Xin bệ hạ phải xét mới được.
Tiên chủ nói:
- Có phải thế, ngươi hãy đi vẽ địa đồ các trại, đem đến Thành
Đô hỏi thừa tướng, phỏng có sai sót, nên về báo ngay cho biết.
Mã Lương lĩnh mệnh đi ra.
Thế rồi tiên chủ dời cả quân vào các nơi cây cối mát mẻ để
tránh nắng.
Quân mật thám báo tin cho Hàn Đương, Chu Thái biết. Hai người
mừng lắm, lại ra mắt Lục Tốn, nói:
- Hiện nay hơn bốn mươi dinh trại, quân Thục đã dời cả vào rừng
rậm, men dựa khe suối, để tiện nước nôi và thêm mát mẻ, đô đốc nên thừa cơ đánh
đi thôi.
Đó là:
Chúa Thục có mưu hay đặt phục,
Tướng Ngô cậy khoẻ suýt vào tròng!
Chưa biết Lục Tốn có nghe hay không, xem hồi sau sẽ hiểu.
Hồi 84:
Lục Tốn đốt sạch trại liên doanh
Khổng Minh khéo bày đồ bát trận
Nói về Hàn Đương, Chu Thái dò biết tiên chủ dời dinh trại, vội
vàng lại báo với Lục Tốn. Tốn mừng lắm, dẫn quân đến xem động tĩnh thế nào, chỉ
thấy ở giữa cánh đồng có một đồn trại, ước chừng hơn một vạn quân canh giữ, mà
phần nhiều già yếu cả, có một lá cờ hiệu to đề bốn chữ “Tiên phong Ngô Ban”.
Chu Thái nói:
- Tôi coi đám quân kia như trò trẻ con đó thôi, xin cùng Hàn
tướng quân chia binh thành hai đường ra đánh; nếu không thắng được xin chịu
quân lệnh.
Lục Tốn ngắm xem hồi lâu, rồi trỏ roi nói:
- Trong hang núi, về mé trước mặt kia, thấp thoáng có sát khí
bốc lên, tất có quân mai phục; cho nên họ dàn quân già yếu ở đây để dử ta đó,
các ông chớ nên ra.
Các tướng không tin, cho Lục Tốn là nhát.
Hôm sau, Ngô Ban dẫn quân đến trước cửa ải khiêu chiến, diễu
võ dương oai, chửi mắng om sòm. Nhiều người lại cởi cả áo giáp, mình trần trùng
trục, có người nằm ngủ, có người ngồi chơi.
Từ Thịnh, Đinh Phụng vào trướng bẩm rằng:
- Quân Thục khinh ta quá, chúng tôi xin ra đánh.
Tốn cười, nói:
- Các ông chỉ cậy có sức khoẻ, chưa biết diệu pháp Tôn, Ngô.
Đó là mẹo dụ địch đấy, sau ba ngày sẽ thấy rõ là giả dối.
Từ Thịnh nói:
- Đợi ba hôm nữa, doanh trại của họ vững vàng cả rồi, còn
đánh làm sao được nữa?
Tốn nói:
- Ta cốt muốn để cho họ dời trại xong.
Các tướng cùng tủm tỉm cười, trở ra.
Sau ba hôm, hội cả các tướng ở trên ải đứng xem. Bấy giờ quân
Ngô Ban đã rút hết rồi. Tốn trỏ tay nói:
- Sát khí bốc lên kia, quân Lưu Bị tất từ trong núi kéo ra
đó.
Vừa nói dứt lời, đã thấy quân Thục nai nịt gọn ghẽ, xúm xít
vòng trong vòng ngoài, rước tiên chủ đi ra. Quân Ngô trông thấy ai nấy cũng hết
vía.
Tốn nói:
- Ta không nghe các ông đánh Ngô Ban là chỉ vì thế mà thôi.
Nay quân phục đã ra rồi, mười hôm nữa ta sẽ phá được quân Thục.
Các tướng nói:
- Phá Thục, nên phá ngay lúc mới đến; nay họ lập trại liên tiếp
nhau năm sáu trăm dặm, giữ gìn hơn bảy tám tháng trời; bao nhiêu chỗ hiểm yếu đều
vững vàng cả rồi, thì còn phá làm sao cho được?
Tốn nói:
- Các ông không biết binh pháp, Lưu Bị là bậc kiêu hùng trong
đời, lắm mưu nhiều trí. Khi quân mới tụ họp, phép tắc nghiêm chỉnh, nay giữ đã
lâu rồi mà không thấy ta ra đánh, tất sinh trễ nải, ta phá được họ chính ở lúc
này.
Các tướng mới chịu là phải.
Đời sau có thơ khen Lục Tốn rằng:
Trướng hầm bàn bạc việc binh đao,
Móc sẵn mồi thơm giật cá ngao.
Thao lược đua ganh trường tuấn kiệt,
Mới hay Lục Tốn cũng anh hào!
Lục Tốn định xong mưu mẹo phá Thục rồi, viết thư sai sứ về
tâu với Tôn Quyền chỉ nay mai là phá xong quân giặc. Tôn Quyền xem xong, mừng hớn
hở nói:
- Giang Đông lại có người lạ như thế. Cô còn lo gì nữa! Các
tướng cứ nói hắn hèn nhát, riêng cô không tin. Nay xem mấy lời này, quả nhiên
không phải là hèn nhát!
Liền cất quân mã đến tiếp ứng.
Lại nói, tiên chủ đem hết cả thuỷ quân ở Hào Đình, thuận dòng
xuôi xuống, cắm trại ven sông, vào sâu mãi bờ cõi nước Ngô.
Hoàng Quyền can rằng:
- Thuỷ quân men bờ sông đi xuống, tiến lên thì dễ, lúc về thì
khó. Tôi xin làm tiền khu đi trước, bệ hạ nên ở lại mặt sau thì mới chắc chắn
muôn phần.
Tiên chủ nói:
- Giặc Ngô vỡ mật rồi, trẫm cứ kéo quân rầm rộ đến, còn có ngại
gì?
Các quan cố can mãi, tiên chủ cũng không nghe. Tiên chủ chia
quân làm hai đường, sai Hoàng Quyền đốc cánh quân mặt Giang Bắc để phòng quân
Nguỵ; còn mình thì đốc các đạo quân mặt Giang Nam, chia lập dinh trại cạnh bờ
sông để tính việc đánh Ngô.
Quân do thám báo tin về Nguỵ chủ rằng quân Thục đánh Ngô, cắm
trại liên tiếp nhau, ngang dọc hơn bảy trăm dặm, chia làm hơn bốn mươi đồn, đồn
nào cũng dựa vào rừng núi. Lại sai Hoàng Quyền đốc quân mặt Giang Bắc, ngày nào
cũng đi tuần tiễu hàng trăm dặm không biết là ý làm sao?
Nguỵ chủ nghe tin, ngẩng mặt lên trời cười, nói:
- Lưu Bị sắp thua mất!
Quần thần hỏi cớ làm sao. Nguỵ chủ nói:
- Lưu Huyền Đức không biết binh pháp; có lẽ đâu cắm trại liên
tiếp bảy trăm dặm mà chống nhau được giặc bao giờ? Bao bọc cả các nơi hiểm trở,
chỗ cao chỗ thấp mà đóng đồn, đó là một điều tối kỵ trong phép dùng binh. Lưu Bị
tất thua về tay Lục Tốn Đông Ngô! Chỉ trong mươi hôm nữa sẽ có tin tức.
Quần thần chưa ai tin, xin điều quân ra phòng bị.
Nguỵ chủ nói:
- Lục Tốn nếu đánh được Thục, tất thừa thế vào lấy Tây Xuyên.
Quân Ngô đi xa, trong lúc bỏ trống, trẫm giả đò dẫn quân đánh giúp, sai ba đạo
quân nhất tề kéo cả sang, chắc lấy được Đông Ngô dễ như bỡn.
Mọi người đều bái phục.
Nguỵ chủ bèn sai Tào Nhân đốc một đạo quân ra Nhu Tu, Tào Hưu
đốc một đạo quân ra Đổng Khẩu, Tào Chân đốc một đạo quân ra Nam Quận, quân mã
ba đường hẹn nhau sang úp lén Đông Ngô, còn mình tự dẫn quân đi sau tiếp ứng.
Hãy nói về Mã Lương đến Xuyên, vào ra mắt Khổng Minh trình bản
địa đồ lên, nói:
- Nay ta dời dinh trại vào đóng sát bờ sông, dài suốt bảy
trăm dặm, lập hơn bốn mươi đồn, đều dựa vào chỗ có cây cối, khe suối. Hoàng thượng
sai tôi đem địa đồ về trình tướng quân xem thế nào?
Khổng Minh xem xong, dập tay xuống án thư kêu rằng:
- Khổ chưa! Ai xui chúa thượng cắm trại thế này? Nên chém người
ấy đi!
Mã Lương nói:
- Đó là do chúa thượng cả, không ai xui đâu!
Khổng Minh than rằng:
- Khí số nhà Hán hỏng mất rồi!
Lương hỏi làm sao, Khổng Minh nói:
- Bao bọc cả chỗ hiểm trở, cao thấp mà đóng đồn, đó là điều tối
kỵ trong phép dùng binh. Nếu giặc đánh hoả công, thì cứu làm sao? Lại có lẽ đâu
lập trại liên tiếp nhau bảy trăm dặm mà cự được giặc? Tai vạ đến nơi rồi. Lục Tốn
giữ vững không ra, chính là vì thế. Ngươi nên trở về cho mau, tâu với thiên tử
dời đồn đi chỗ khác mới được.
Lương hỏi:
- Nếu quân Ngô đã đánh được quân ta rồi, thì làm thế nào?
Khổng Minh nói:
- Lục Tốn không dám đuổi đâu. Thành Đô này chắc không việc
gì.
Lương hỏi:
- Làm sao không dám đuổi?
Khổng Minh nói:
- Sợ quân Nguỵ úp đánh mặt sau, chớ sao! Chúa thượng nếu có
thua, nên chạy về thành Bạch Đế mà lánh. Khi ta vào Xuyên đã phục sẵn mười vạn
quân ở bến Ngư Phúc rồi.
Lương giật mình, nói:
- Tôi mấy lần qua lại bến đò, không thấy một tên quân nào,
sao thừa tướng lại nói thế?
Khổng Minh nói:
- Về sau khắc biết, không phải hỏi lôi thôi!
Mã Lương xin giấy tờ rồi hoả tốc đi sang ngự doanh. Khổng
Minh trở về Thành Đô điều gấp quân mã ra cứu ứng.
Đây nói Lục Tốn thấy quân Thục có ý trễ nải, không gìn giữ cẩn
thận như trước, mới hội cả các tướng lại truyền lệnh rằng:
- Ta từ khi phụng mệnh ra quân đến nay, chưa đánh trận nào.
Nay xem quân Thục, biết cả động tĩnh rồi. Trước hết ta muốn lấy một đồn phía
nam bờ sông, có ai dám đi không?
Nói chưa dứt lời, Hàn Đương, Chu Thái, Lăng Thống cùng dạ xin
đi.
Tốn bảo lui ra không dùng, chỉ gọi một tên tướng nhỏ ở dưới
thềm là Thuần Vu Đan dặn rằng:
- Ta cho ngươi năm nghìn quân, sang lấy đồn thứ tư ở phía nam
bờ sông, do tướng Thục Phó Đồng đóng giữ. Làm sao đêm nay phải thành công. Ta sẽ
tự cầm quân lại tiếp ứng.
Thuần Vu Đan lĩnh mệnh, dẫn quân đi.
Lại gọi Từ Thịnh, Đinh Phụng đến dặn rằng:
- Hai người, mỗi người dẫn ba nghìn quân, đóng cách ngoài trại
năm trăm dặm, hễ Thuần Vu Đan bị quân Thục đuổi theo chạy trở về thì đổ ra cứu,
nhưng cũng không nên rượt đánh.
Hai tướng tuân lệnh.
Trời vừa sẩm tối, Thuần Vu Đan dẫn quân đi. Cuối canh ba đến
trại Thục, Đan sai quân khua trống hò reo kéo vào. Phó Đồng mở trại ra đánh.
Đan địch không nổi, quay ngựa chạy. Bỗng đâu nổi tiếng reo ầm ĩ, rồi có một
toán quân xông ra chặn đường, tướng đi đầu là Triệu Dong. Đan tháo đường chạy
thoát, tổn hại già nửa quân. Khi đang chạy lại gặp một đội quân Man, tướng đi đầu
chính là Sa Ma Kha. Đan cố đánh mới thoát chết. Sau lưng lại có ba đạo quân nữa
đuổi theo. Đan chạy đến gần thành, may có Từ Thịnh, Định Phụng, hai mặt đổ ra
đánh cứu được. Đan bị tên bắn còn cắm trong mình, vào ra mắt Lục Tốn chịu tội.
Tốn nói:
- Đó không phải lỗi tại ngươi, ta muốn thử giặc xem hư thực
ra sao đó thôi, chớ mẹo phá Thục, ta đã đâu có đấy cả rồi!
Từ Thịnh, Đinh Phụng nói:
- Quân Thục thế to lắm, khó lòng phá nổi, đánh thì chỉ hao
binh tổn tướng mà thôi!
Tốn cười, nói:
- Mẹo này của ta, tuy không che mắt được Gia Cát Lượng, nhưng
may sao người ấy không có ở đây, thực là trời giúp ta thành công chuyến này!
Mới hội cả tướng sĩ lớn nhỏ lại, truyền lệnh rằng:
- Chu Nhiên tiến quân đi mặt thuỷ, cuối giờ ngọ ngày mai có
gió đông nam nổi to, phải dùng thuyền chất cỏ khô, theo kế mà làm. Hàn Đương dẫn
một toán quân đánh phía bắc bờ sông; quân sĩ hai đường ấy, phải mỗi người mang
một bó cỏ, chứa lưu hoàng, diêm tiêu, các thứ dẫn lửa, cầm gươm đao, kéo thẳng
đến cả trại Thục, thuận chiều gió mà đốt lửa. Quân Thục có bốn mươi đồn, chỉ cần
đốt hai mươi đồn; cách một đồn đốt một đồn. Quân sĩ mang sẵn lương khô đi ăn,
phải ngày đêm cố sức đuổi đánh, không được lui về, kỳ bắt được Lưu Bị mới thôi.
Các tướng nghe lệnh xong, ai nấy sắm sửa cất quân đi.
Nói về tiên chủ, đang ở trong ngự doanh nghĩ kế phá Ngô. Bỗng
nhiên, một lá cờ trung quân ở trước trướng, không gió máy gì mà đổ, bèn hỏi
Trình Kỳ rằng:
- Đó là điềm gì vậy?
Kỳ thưa:
- Có lẽ đêm nay quân Ngô đến cướp trại chăng?
Tiên chủ nói:
- Đêm qua giết sạch cả rồi, còn đâu dám đến nữa!
Kỳ nói:
- Ví phỏng Lục Tốn đến thử ta, thì làm thế nào?
Bỗng có người vào báo là đứng bên này trông sang, xa xa thấy
quân Ngô men sườn núi kéo hết về phía đông rồi.
Tiên chủ nói:
- Đó là nghi binh thôi, quân sĩ chớ có được khinh động.
Bèn sai Quan Hưng, Trương Bào, mỗi người dẫn năm trăm quân kỵ
đi tuần các nơi.
Chập tối, Quan Hưng về tâu rằng:
- Ở Giang Bắc, doanh trại bốc cháy.
Tiên chủ vội sai Quan Hưng qua Giang Bắc, Trương Bào qua
Giang Nam, dò xét tình hình hư thực, và dặn rằng:
- Hễ quân Ngô kéo đến, phải lập tức về báo.
Hai tướng lĩnh mệnh đi ngay. Đầu canh một, gió đông nam nổi
to, chỉ thấy đồn tay trái ngự dinh bốc cháy, quân sắp sửa đến cứu thì đồn tay
phải lại cháy. Gió mạnh lửa hồng, cây cối đều cháy rụi, tiếng hò reo như sấm.
Hai đồn quân mã nhất tề xông vào ngự dinh. Quân sĩ trong dinh giày xéo lên nhau
chết vô số. Phía nam, quân Ngô đánh tới, không biết nhiều ít thế nào. Tiên chủ
vội vàng lên ngựa chạy đến trại Phùng Tập thì trại này cũng đang bốc cháy đùng
đùng. Hai bờ Giang Nam, Giang Bắc sáng rực như ban ngày. Phùng Tập hoảng sợ, nhảy
lên ngựa, dẫn vài chục quân kỵ chạy, gặp ngay toán quân Từ Thịnh bên Ngô chặn lại
đánh giết. Tiên chủ thấy thế, quất ngựa chạy về phía tây.
Từ Thịnh bỏ Phùng Tập, dẫn quân đuổi theo. Tiên chủ đang lo sợ
thì trước mặt lại bị một toán quân Ngô là Đinh Phụng ra chặn đường. Hai toán
đánh ập vào. Tiên chủ sợ quá, bốn mặt không còn đường nào. Bỗng đâu, tiếng hò
reo nổi lên ầm ĩ, một cánh quân đánh vào vòng vây, trông xem là Trương Bào. Bào
cứu được tiên chủ rồi, dẫn quân ngự lâm chạy miết. Đang chạy lại thấy một toán
quân nữa kéo đến, té ra là tướng Thục Phó Đồng. Hai toán quân liền họp lại cùng
đi. Sau lưng, quân Ngô đuổi kíp.
Tiên chủ đi trước, đến một trái núi tên là Mã Yên, Trương
Bào, Phó Đồng vừa mời tiên chủ lên núi xong, thì dưới chân núi tiếng hò reo lại
vang dậy; đại đội binh mã của Lục Tốn vây chặt bốn phía. Trương Bào, Phó Đồng cố
chết giữ vững cửa núi. Tiên chủ trông xa thấy lửa cháy rừng rực khắp đồng, thây
chết trôi kín dòng sông.
Hôm sau, quân Ngô lại phóng lửa đốt núi, quân sĩ chạy trốn
toán loạn. Tiên chủ kinh sợ. Bỗng đâu, trong ánh lửa có một tướng dẫn vài quân
kỵ đánh thốc lên, trông xem thì là Quan Hưng. Hưng quỳ xuống bẩm rằng:
- Bốn mặt lửa cháy gần đến nơi rồi, không thể ngồi yên ở đây
được, xin bệ hạ chạy về thành Bạch Đế cho mau, để chỉnh đốn lại binh mã.
Tiên chủ hỏi:
- Có ai dám đi chặn hậu hay không?
Phó Đồng tâu rằng:
- Tôi xin cố chết chống cự mặt sau!
Chiều hôm ấy, Quan Hưng đi trước, Trương Bào đi giữa, Phó Đồng
đi chặn hậu, ba tướng trông nom, giữ gìn tiên chủ, kéo cả xuống núi. Quân Ngô
thấy tiên chủ bỏ chạy, ai nấy cũng muốn tranh công, kéo ra rợp trời chật đất đuổi
theo về phía tây. Tiên chủ sai quân sĩ cởi hết cả áo bào, áo giáp, chất ở giữa
đường mà đốt để chặn quân giặc. Đang chạy, lại thấy tiếng reo nổi lên. Ngô tướng
Chu Nhiên dẫn một toán quân, từ bờ sông đánh đến, chặn mất đường đi. Tiên chủ
kêu lên rằng:
- Trẫm chết ở đây mất thôi!
Quan Hưng, Trương Bào tế ngựa xông xáo, nhưng vì tên bắn ra
như mưa, nên đều bị bật trở lại; người nào cũng bị trọng thương, không sao ra
được. Mé sau, tiếng reo vang dậy. Lục Tốn dẫn đại quân từ trong hang núi đuổi đến.
Tiên chủ kinh hoảng vô cùng. Bấy giờ, trời đã mờ mờ sáng, bỗng lại nghe thấy mé
trước có tiếng reo ầm ầm, quân Chu Nhiên rối loạn lăn cả xuống khe, chúi cả vào
núi, một cánh quân đánh vào cứu giá. Tiên chủ mừng rỡ quá chừng, trông xem ai,
té ra là Thường Sơn Triệu Tử Long.
Hồi ấy, Triệu Vân đang ở Giang Châu trong Xuyên, nghe tin
Ngô, Thục đang đánh nhau, mới kéo quân đi. Chợt trông thấy một dải đông nam, lửa
sáng rực trời. Vân trong bụng kinh hãi, kíp đến xem có sự gì, không ngờ gặp
tiên chủ đang bị khốn ở đó, Vân liền hết sức đánh thốc vào. Lục Tốn nghe tiếng
Triệu Vân, vội vàng ra lệnh rút quân. Vân đang đánh nhau, bỗng gặp Chu Nhiên,
liền xông vào giao chiến. Chưa đầy một hiệp, Vân đâm ngay cho Nhiên một nhát
giáo ngã quay xuống ngựa, đánh tan quân Ngô, cứu được tiên chủ chạy về thành Bạch
Đế.
Tiên chủ nói:
- Trẫm tuy được thoát, còn các tướng sĩ thì làm thế nào?
Vân nói:
- Quân giặc ở mặt sau, không nên trì hoãn, xin bệ hạ hãy đi
mau vào thành Bạch Đế nghỉ ngơi, tôi sẽ lại ra cứu các tướng.
Bấy giờ tiên chủ chỉ còn hơn một trăm người đi theo vào thành
Bạch Đế.
Đời sau có thơ khen Lục Tốn rằng:
Cầm mâu, đốt lửa, phá liên doanh,
Huyền Đức cùng đường phải chạy quanh.
Danh tiếng vang lừng trong Thục, Nguỵ,
Ngô vương hẳn phải trọng thư sinh!
Lại nói, Phó Đồng đi sau, bị quân Ngô vây kín cả bốn mặt.
Đinh Phụng gọi to bảo rằng:
- Tướng Xuyên chết rất nhiều mà hàng cũng lắm, chủ ngươi là
Lưu Bị cũng đã phải bắt rồi, ngươi nay sức lực đã kiệt, sao không hàng đi cho sớm?
Phó Đồng mắng rằng:
- Ta là tướng nhà Hán, há thèm hàng chó Ngô à!
Nói đoạn, cầm giáo tế ngựa thúc quân, cố sức đánh giết hơn
trăm hiệp, đi lại xông xáo, nhưng cũng không sao ra được. Phó Đồng than rằng:
- Ta đến đây là hết rồi!
Nói xong, mồm thổ ra huyết, chết trong đám quân Ngô.
Có thơ khen Phó Đồng rằng:
Di Lăng, Ngô, Thục, buổi giao phong,
Lục Tốn dùng mưu đánh hoả công.
Đến chết vẫn còn lời cứng cỏi,
Phó Đồng mới thực tướng anh hùng!
Quan tế tửu là Trình Kỳ chạy đến bờ sông, gọi thuỷ quân lên để
tiếp ứng. Quân Ngô đuổi giáp đến nơi, thuỷ quân chạy tan mất cả. Bộ tướng gọi bảo
rằng:
- Quân Ngô đến nơi rồi, Trình tế tửu chạy đi cho mau!
Kỳ giận, nói:
- Ta từ khi theo chúa thượng ra quân đến giờ, chưa khi nào
trông thấy giặc mà phải trốn cả!
Kỳ nói chưa xong, quân Ngô ập đến, Kỳ rút gươm ra tự vẫn.
Có thơ khen rằng:
Tế tửu Trình Kỳ khảng khái thay!
Gửi thân lưỡi kiếm báo ơn dày.
Lâm nguy vẫn giữ lòng trung dũng,
Danh tiếng thơm truyền mãi đến nay.
Bấy giờ, Ngô Ban, Trương Nam vẫn còn vây thành Di Lăng. Xảy
thấy Phùng Tập chạy đến nói quân Thục thua to, bèn rút về cứu tiên chủ. Tôn
Hoàn mới được thoát nạn.
Khi Trương, Phùng hai tướng đang đi, trước mặt có quân Ngô
kéo đến, sau lưng Tôn Hoàn ở trong thành Di Lăng xông ra, hai mặt đánh dồn lại.
Trương Nam, Phùng Tập hết sức xông pha cũng không sao ra được, đều bị chết cả
trong đám loạn quân.
Có thơ khen rằng:
Phùng Tập, trung có một,
Trương Nam, nghĩa không hai.
Chiến trường đành bỏ xác,
Danh tiếng để lâu dài!
Còn Ngô Ban đánh ra được ngoài vòng vây, may lại được Triệu
Vân đến tiếp ứng, mới chạy thoát về thành Bạch Đế.
Man vương là Sa Ma Kha tế ngựa chạy trốn, gặp Chu Thái, đánh
nhau được hơn hai mươi hiệp, bị Thái giết chết. Tướng Thục là bọn Đỗ Lộ, Lưu
Ninh sang hàng cả Ngô. Nội bao nhiêu lương thảo, khí giới trong trại Thục không
còn sót một tí gì. Tướng sĩ đầu hàng Ngô, không biết bao nhiêu mà kể.
Khi ấy, Tôn phu nhân ở nước Ngô, nghe tin quân Thục thua trận,
có người đồn ngoa rằng tiên chủ chết trong đám loạn quân, bèn sai đẩy xe ra bờ
sông, trông về phía tây khóc lóc, rồi đâm đầu xuống sông tự tử. Người đời sau lập
miếu thờ, gọi là đền Khiêu Cơ.
Có thơ than rằng:
Tiên chủ thua quân, tới Bạch Thành,
Phu nhân nghe nạn vội quyên sinh.
Bến sông nay vẫn còn bia tạc,
Chói lọi nghìn thu tiếng gái trinh!
Nói về Lục Tốn đại thắng, thừa thế dẫn quân đuổi theo về phía
tây. Khi gần tới ải Quỳ Quan, Tốn ngồi trên ngựa, trông ra mé trước mặt, thấy
chỗ cạnh bờ sông bên sườn núi, có một đám sát khí bốc ngùn ngụt lên tận trời. Tốn
quay ngựa lại, bảo các tướng rằng:
- Mé trước tất có quân mai phục, ba quân không được tiến lên
vội.
Liền sai lui về hơn mười dặm, tìm chỗ địa thế rộng rãi, dàn
trận đợi quân địch đến. Lại sai người đi dò xem, người đi dò trở về báo là
không thấy có quân mã nào. Tốn không tin, xuống ngựa trèo lên núi nhìn xem, vẫn
thấy sát khí bốc lên ngùn ngụt. Lại sai người đi dò xét cẩn thận, nhưng cũng thấy
về báo là tịnh không có một người nào. Tốn thấy trời về chiều, sát khí bốc lên
càng mạnh, trong bụng nghi nghi hoặc hoặc, sai người tâm phúc đi dò thám lượt nữa.
Người ấy về báo rằng ở cạnh bờ sông chỉ có tám chín chục đống đá vứt ngổn
ngang, chớ không có quân mã nào cả.
Tôn càng nghi lắm, sai đòi thổ dân đến nơi. Một lát, có vài
người đến. Tốn hỏi rằng:
- Ai mang đá xếp ngổn ngang thế kia, mà trong đống đá lại có
sát khí bốc lên như vậy?
Thổ dân thưa rằng:
- Chỗ này gọi là bến Ngư Phúc. Khi Gia Cát Lượng vào Xuyên, dẫn
quân đi qua đây, lấy đá bày ra trận thế ở trên bãi cát. Từ bấy giờ, ngày nào
cũng có sát khí như đám mây ở đó bốc lên.
Lục Tốn nghe xong, lên ngựa dẫn vài chục kỵ mã đến xem trận
đá. Tốn dừng ngựa trên sườn núi, trông xa bốn mặt tám phương đề có cửa vào ra.
Tốn cười, nói:
- Đó là thuật làm mê hoặc người ta đấy thôi, chớ có ích gì!
Bèn dẫn vài tên kỵ xuống núi, vào thẳng trong thạch trận ngắm
xem. Bộ tướng bẩm rằng:
- Trời đã về chiều rồi, xin đô đốc về cho sớm!
Tốn sắp sửa trở ra, bỗng đâu nổi một cơn gió to, cát sỏi bay
lên mù mịt, rồi thấy đá dựng lên chơm chởm cả như gươm cắm, cát nổi lên từng đống
như núi, dưới sông sóng cuồn cuộn, tiếng reo như trống rung, gươm chọi. Tốn giật
mình nói:
- Ta mắc phải mẹo Gia Cát Lượng mất rồi!
Bèn vội vàng tìm đường ra, thì không có lối nào nữa. Tốn đang
kinh hãi, bỗng thấy một ông cụ già đứng ở trước ngựa, cười nói:
- Tướng quân có muốn ra khỏi trận này không?
Tốn nói:
- Xin nhờ cụ đưa đường giúp cho.
Cụ già chống gậy đi từ từ ra khỏi thạch trận, đến mãi sườn
núi không vướng vít chỗ nào.
Tốn hỏi:
- Cụ họ tên là gì?
Cụ già đáp:
- Lão là Hoàng Thừa Ngạn, bố vợ Khổng Minh đó. Khi rể lão vào
Xuyên, có bày thạch trận ở đây, gọi là “Bát trận đồ” chia làm tám cửa, theo
hưu, sinh, thương, đỗ, cảnh, tử, kinh, khai, trong độn giáp. Mỗi ngày, mỗi giờ,
biến hoá không biết đâu mà lần, sánh bằng mười vạn tinh binh. Khi con rể lão đi
có dặn lão rằng: “Về sau, có đại tướng Đông Ngô lạc vào trận này, thì đừng có
đưa ra!” Mới rồi, lão chơi trên sườn núi. Thấy tướng quân từ cửa Tử đi vào, chắc
rằng không hiểu trận này, thế nào cũng lạc lối. Lão xưa nay ưa làm phúc, không
nỡ để tướng quân chết tại đây, cho nên dắt tướng quân ra cửa sinh.
Tốn nói:
- Cụ có học được phép này không?
Hoàng Thừa Ngạn nói:
- Phép trận này biến hoá vô cùng, không sao học được.
Tốn quay ngựa lạy tạ rồi trở về.
Về sau, quan công bộ Đỗ Phủ có thơ rằng:
Công trùm nước tam phân,
Tiếng cao đồ bát trận.
Nước chảy đá trơ trơ,
Đánh Ngô còn để giận…
Lục Tốn về trại than rằng:
- Khổng Minh quả thật là Ngoạ Long, ta không sao bằng được!
Bèn hạ lệnh rút quân về.
Tả hữu bẩm rằng:
- Lưu Bị binh thua thế cùng, ngồi giữ một thành, chính là lúc
ta nên thừa cơ mà đánh, nay thấy thạch trận sao đã vội rút lui?
Tốn nói:
- Ta không phải sợ thạch trận mà lui đâu, ta đồ rằng Tào Phi
gian giảo cũng như cha hắn khi xưa, nếu biết ta đuổi theo quân Thục, tất thừa
hư lại đánh úp. Nếu ta vào sâu Tây Xuyên quá, chỉ ngại đến lúc về khó mà thôi.
Mới sai một tướng đi đoạn hậu, còn mình dẫn đại quân kéo về.
Lục Tốn rút lui chưa được hai ngày thì ba nơi đến báo tin rằng:
tướng Nguỵ là Tào Nhân ra cửa Nhu Tu, Tào Hưu ra cửa Đổng Khẩu, Tào Chân ra xứ
Nam Quận, binh mã ba mặt gồm vài mươi vạn, kéo tràn vào bờ cõi, chưa biết ý ra
làm sao?
Tốn cười, nói:
- Đã biết mà! Có sai lời ta nói đâu! Ta đã sai quân ra chống
cự rồi đó.
Thế mới là:
Bụng hùng vừa muốn vào Tây Thục.
Mẹo giỏi còn mong chống Bắc triều.
Chưa biết Lục Tốn làm thế nào để đuổi được quân Tào, xem hồi
sau phân giải.
La Quán Trung
Người dịch: Hồng Việt
Theo https://www.sachhayonline.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét