Lưu tiên chủ viết chiếu gửi con côi
Gia Cát Lượng ngồi yên bình năm đạo
Nói về năm Chương Vũ thứ hai (221), tháng sáu, mùa hạ, Lục Tốn
Đông Ngô phá xong quân Thục ở đất Di Lăng, xứ Hào Đình. Tiên chủ chạy về thành
Bạch Đế, Triệu Vân đem quân trấn giữ. Chợt Mã Lương đến, thấy quân đã thua rồi,
hối không kịp nữa, mới đem lời Khổng Minh tâu với tiên chủ.
Tiên chủ than rằng:
- Nếu trẫm sớm nghe lời thừa tướng thì đâu đến nỗi thua thế
này, nay còn mặt mũi nào mà về Thành Đô trông thấy quần thần nữa!
Bèn truyền lệnh đóng quân ở lại thành Bạch Đế, đổi nơi quán dịch
gọi là cung Vĩnh An.
Có tin báo Phùng Tập, Trương Nam, Phó Đồng, Trình Kỳ, Sa Ma
Kha đều chết vì việc nước cả. Tiên chủ thương cảm không biết ngần nào.
Lại có cận thần tâu rằng:
- Hoàng Quyền dẫn quân Giang Bắc sang hàng Nguỵ mất rồi, bệ hạ
nên sai bắt gia thuộc hắn giao cho hữu tư hỏi tội.
Tiên chủ nói:
- Hoàng Quyền bị quân Ngô chẹn ở mé bắc ngạn, muốn về không
được, bất đắc dĩ phải hàng Nguỵ, thế là trẫm phụ Quyền, chớ không phải Quyền phụ
trẫm, can gì mà bắt tội vợ con người ta?
Bèn sai cứ việc cấp lương gạo tử tế cho gia quyến Hoàng Quyền
như thường.
Hoàng Quyền sang hàng Nguỵ, các tướng dẫn vào ra mắt Tào Phi.
Phi nói:
- Khanh nay đã hàng trẫm lại muốn sánh với Hàn Tín, Trần Bình
ngày xưa chăng[1]?
Quyền khóc mà tâu rằng:
- Tôi chịu ân của Thục đế đối đãi rất hậu, sai tôi đốc mặt
quân Giang Bắc. Lục Tốn chặn mất đường, tôi muốn về Thục không được, mà hàng
Ngô thì không ổn, cho nên mới đến theo hàng bệ hạ. Tướng đã bị thua, được khỏi
chết là may, tôi đâu dám theo đòi với cổ nhân!
Phi mừng lắm, phong cho Quyền làm trấn nam tướng quân. Quyền
nhất định từ, không chịu nhận. Chợt có cận thần tâu rằng:
- Có người đi do thám ở Thục về báo tin Thục chủ giết sạch cả
gia thuộc Hoàng Quyền rồi.
Quyền nói:
- Tôi với Thục đế, lấy bụng thực mà tin nhau, tất biết bụng
tôi, không nỡ hại cả nhà tôi đâu.
Phi cho là phải.
Người sau có thơ trách Hoàng Quyền rằng:
Hàng Ngô chẳng muốn, lại hàng Tào,
Trung nghĩa thờ vua ngỡ thế nào?
Chỉ vị Hoàng Quyền còn ngại chết,
Tử Dương thư pháp dễ tha sao?
Tào Phi hỏi Giả Hủ rằng:
- Trẫm muốn thống nhất cả thiên hạ, nên đánh Thục trước hay
đánh Ngô trước?
Hủ thưa rằng:
- Lưu Bị là người hùng tài, lại có Gia Cát Lượng giỏi việc trị
nước, Tôn Quyền ở Đông Ngô hay biết hư thực, Lục Tốn hiện đóng quân nơi hiểm yếu,
cách trở sông hồ, khó lòng làm gì nổi họ. Cứ ý tôi thì trong các tướng, không
có tay nào địch thủ với Tôn Quyền, Lưu Bị được. Dẫu đến thiên uy của bệ hạ đem
xuống cũng vị tất có thể vẹn toàn. Vậy chỉ nên giữ vững nước nhà, đợi khi nào
hai nước có biến sẽ hay.
Phi nói:
- Trẫm đã sai đạo quân chia làm ba đường sang đánh Ngô, có lẽ
nào mà chẳng được?
Thượng thư là Lưu Hoa nói:
- Gần đây Lục Tốn ở Đông Ngô mới phá được bảy mươi vạn quân
Thục, trên dưới đồng tâm, lại có sông hồ cách trở, chưa chắc ta đã làm gì nổi.
Vả lại Lục Tốn lắm mưu, tất có phòng bị rồi.
Phi nói:
- Trước ngươi khuyên trẫm đánh Ngô, nay lại ngăn trở trẫm là
cớ làm sao?
Hoa nói:
- Mỗi lúc một khác, khi Đông Ngô thua luôn với Thục, thế đang
nguy cấp, cho nên mới nên đánh, nay họ vừa được to, nhuệ khí gấp trăm khi trước,
thì lại không nên đánh nữa.
Phi nói:
- Ý trẫm đã quyết rồi, ngươi chớ nói nữa!
Bèn dẫn quân ngự lâm thân ra tiếp ứng cho cả ba mặt.
Sực có tiễu mã về báo rằng:
- Đông Ngô đã có phòng bị rồi, Lã Phạm dẫn quân chống nhau với
Tào Hưu, Gia Cát Cẩn dẫn quân Nam Quận chống Tào Chân, Chu Hoàn giữ cửa Nhu Tu
để chống Tào Nhân.
Lưu Hoa tâu rằng:
- Họ đã phòng bị như thế, đi cũng vô ích thôi!
Phi không nghe, cứ kéo quân đi.
Nói về tướng Ngô là Chu Hoàn, hai mươi bảy tuổi, rất can đảm
mưu lược, Tôn Quyền yêu lắm. Bấy giờ Hoàn đốc quân ra Nhu Tu chống quân Tào. Lại
nghe Tào Nhân dẫn quân đến lấy Tiện Khê, liền cho quân ra giữ, chỉ để năm nghìn
quân ở lại trong thành. Chợt có tin báo Tào Nhân sai đại tướng là Thường Điêu
cùng với Gia Cát Kiền, Vương Song dẫn năm vạn tinh binh đến Nhu Tu. Quân sĩ
nghe tin, ai nấy cùng nhớn nhác sợ hãi. Chu Hoàn chống gươm, nói:
- Được thua cốt tại tướng, không cốt gì quân nhiều ít. Binh
pháp có nói: “Quân khách nhiều gấp hai quân chủ, cũng còn có thể đánh được”.
Nay Tào Nhân từ nghìn dặm xa xôi đến đây, người ngựa mỏi mệt, ta với chúng bay,
ngồi giữ thành cao, mé nam trông ra sông to, mé bắc dựa vào núi hiểm. Thế là
mình nhàn nhã mà đánh kẻ địch tất tưởi; mình làm chủ mà chế kẻ địch là khách;
đó thực là có cái thế đánh trăm trận được cả trăm; dẫu đến Tào Phi lại đây cũng
chẳng ngại, huống chi bọn Tào Nhân.
Bởi vậy, Hoàn sai quân sĩ ngả cờ im trống, làm ra dáng không
có người giữ gìn gì cả.
Tướng tiên phong Nguỵ là Thường Điêu dẫn quân đến Nhu Tu,
trông lên mặt thành không thấy quân mã canh giữ, mới giục quân đến sát dưới
thành. Bỗng trong thành nổi một tiếng pháo, rồi tinh kỳ dựng lên san sát. Chu
Hoàn dẫn quân ra, xốc vào đánh nhau với Thường Điêu, chưa đầy ba hiệp chém Điêu
chết lăn xuống ngựa. Quân Ngô thừa thế đánh dàn ra, quân Nguỵ tan vỡ, chết hại
không biết bao nhiêu mà kể. Chu Hoàn đại thắng, bắt được tinh kỳ, khí giới rất
nhiều.
Tào Nhân dẫn quân đến sau, lại bị quân ở Tiện Khê đánh ra,
cũng thua to, phải rút quân về.
Tào Nhân về ra mắt Nguỵ chủ, tâu việc bại trận. Tào Phi giật
mình. Khi đang thương nghị, lại có thám mã về báo rằng:
- Tào Chân, Hạ Hầu Thượng vây ở Nam Quận, bị Lục Tốn phục
binh ở trong, Gia Cát Cẩn phục binh ở ngoài, hai mặt đánh ập vào, bởi thế thua
liểng xiểng.
Chưa dứt lời, bỗng lại có thám mã nữa về báo rằng:
- Tào Hưu cũng bị Lã Phạm đánh tan cả rồi!
Phi nghe tin quân ba mặt thua cả, chép miệng than rằng:
- Trẫm không nghe lời Giả Hủ, Lưu Hoa, quả nhiên có trận thua
này!
Bấy giờ, đang tiết mùa hạ, dịch khí truyền nhiễm, quân mã mười
phần chết hết sáu, bảy. Phi mới rút quân về Lạc Dương. Từ đó, Ngô, Nguỵ không
hoà với nhau.
Đây nói, tiên chủ từ khi nghỉ lại trong cung Vĩnh An bị bệnh
nặng lắm. Đến tháng tư, năm Chương Vũ thứ ba, tiên chủ biết bệnh mình đã nguy rồi,
lại thêm thương khóc Quan, Trương, cho nên bệnh mỗi ngày một nặng thêm. Tiên chủ
mắt lờ đờ, không muốn cho thị vệ đứng cạnh, mới đuổi cả tả hữu ra ngoài, chỉ một
mình nằm ở trên sập rồng. Bỗng dưng, một cơn gió lạnh lẽo nổi lên, ngọn đèn lập
loè, gần tắt lại sáng, rồi thấy có hai người thập thò đứng núp dưới bóng đen.
Tiên chủ giận, nói:
- Trẫm trong bụng không yên, cho chúng bay hãy lui ra ngoài kia,
sao còn đến đây?
Mắng thế nào hai người cũng vẫn không lui. Tiên chủ đứng dậy
trông xem ai, té ra mé trên là Quan Vân Trường, mé dưới là Trương Dực Đức.
Tiên chủ giật mình nói:
- Hai em vẫn còn sống à?
Vân Trường thưa:
- Chúng tôi không phải người sống mà là quỷ đây thôi. Thượng
đế thấy hai chúng tôi bình sinh có tín nghĩa, đã phong làm thần cả rồi. Kha kha
chẳng mấy lúc nữa cũng được tụ hội với anh em.
Tiên chủ ôm chặt lấy Quan Công, khóc ầm cả lên, bỗng sực tỉnh
dậy thì không thấy hai người đâu, mới gọi thị vệ vào hỏi. Bấy giờ vào độ canh
ba.
Tiên chủ than rằng:
- Trẫm cũng không thọ được bao lâu nữa!
Liền sai sứ về Thành Đô, mời thừa tướng Gia Cát Lượng và bọn
Lý Nghiêm phải sớm tối đến ngay cung Vĩnh An nghe chiếu. Khổng Minh và các quan
đem con thứ tiên chủ là Lỗ vương Lưu Vĩnh và Lương vương Lưu Lý đến cung Vĩnh
An thăm bệnh, để thái tử Lưu Thiện ở lại giữ Thành Đô.
Khổng Minh đến cung Vĩnh An, thấy tiên chủ bệnh đã nguy lắm,
vội vàng lạy phục dưới long sàng. Tiên chủ mời Khổng Minh lên ngồi cạnh sập
vàng; vỗ vào lưng mà bảo rằng:
- Trẫm từ khi gặp được thừa tướng, may thành được đế nghiệp.
Không ngờ trí thức nông nổi, không biết nghe lời thừa tướng, đến nỗi thua nặng
thế này, hối hận thành bệnh, chưa biết sống chết lúc nào! Con nối trẫm thì ngu
hèn, vậy trẫm đem việc lớn uỷ thác cho thừa tướng.
Nói đoạn nước mắt chảy ròng ròng.
Khổng Minh cũng khóc mà rằng:
- Xin bệ hạ giữ gìn long thể, để thoả lòng trông mong của
thiên hạ.
Tiên chủ liếc mắt trông xung quanh, thấy có em Mã Lương là Mã
Tốc đứng cạnh giường, liền truyền cho Mã Tốc lui ra ngoài, rồi bảo Khổng Minh rằng:
- Thừa tướng coi tài Mã Tốc thế nào?
Khổng Minh nói:
- Người ấy cũng là bậc giỏi đời nay.
Tiên chủ nói:
- Không phải, trẫm coi người ấy, nói thì nhiều mà làm thì
kém, không nên dùng vào việc to, thừa tướng phải xét cho kỹ mới được.
Dặn dò xong, lại cho triệu cả các quan vào cung, sai lấy giấy
bút, viết một tờ di chiếu, đưa cho Khổng Minh và than rằng:
- Trẫm không học được mấy, chỉ biết đại khái mà thôi. Thánh
nhân có câu: “Con chim sắp chết thì biết tiếng kêu ai oán, người ta sắp mất nói
lời khôn ngoan”. Trẫm cùng với các ngươi, thề nhau giết giặc Tào để giúp nhà
Hán, chẳng may nửa đường lìa rẽ. Vậy phiền thừa tướng cầm tờ chiếu này, giao
cho thái tử Thiện bảo hắn chớ coi làm thường, và cũng nhờ thừa tướng dạy bảo
thêm cho mới được.
Bọn Khổng Minh khóc lạy xuống đất mà tâu rằng:
Tiên chủ sai nội thị đỡ Khổng Minh dậy, một tay gạt nước mắt
một tay cầm tay Khổng Minh mà nói rằng:
- Trẫm nay nguy mất, có lời tâm phúc xin ngỏ với thừa tướng.
Khổng Minh nói:
- Bệ hạ có thánh dụ gì vậy?
Tiên chủ khóc mà nói rằng:
- Tài thừa tướng gấp mười Tào Phi tất yên định được nhà nước,
làm nên việc to. Đối với con trẫm, có thể giúp được thì giúp, bằng không thì
ngươi nên làm chủ Thành Đô đi!
Khổng Minh nghe nói rụng rời, mồ hôi đổ ra khắp mình, lạy xuống
đất, khóc mà nói rằng:
- Chúng tôi đâu dám chẳng hết sức chân tay, dốc niềm trung
trinh, kỳ cho đến chết mới thôi!
Nói đoạn rập đầu xuống đất, máu chảy đầy mặt. Tiên chủ mời Khổng
Minh ngồi lên giường, gọi Lưu Vĩnh, Lưu Lý đến trước mặt dặn rằng:
- Các con phải nhớ lời cha: khi cha mất rồi, ba anh em chúng
mày, phải coi thừa tướng như cha, không được khinh nhờn.
Nói đoạn, sai hai người lạy Khổng Minh.
Khổng Minh nói:
- Tôi dẫu gan óc lầy đất, cũng không đền báo được cái ơn tri
ngộ này.
Tiên chủ lại bảo với các quan rằng:
- Trẫm đã giao con trẫm cho thừa tướng rồi, dặn thái tử phải
coi thừa tướng như cha. Các ngươi cũng chớ có coi thường mà phụ mất lòng mong mỏi
của trẫm!
Lại dặn Triệu Vân rằng:
- Trẫm với ngươi cùng nhau trong lúc gian nan, không ngờ đến
đây ly biệt, ngươi nên nghĩ tình cố giao, sớm tối trông nom con trẫm, chớ phụ lời
trẫm!
Vân khóc, lạy mà tâu rằng:
- Chúng tôi đâu dám không hết sức khuyển mã hay sao?
Tiên chủ lại bảo các quan rằng:
- Này bách quan, trẫm không thể dặn dò từng người được, vậy
xin các ngươi ai nấy hãy yêu lấy cái thân mình.
Nói xong liền băng hà, thọ sáu mươi ba tuổi. Bấy giờ là ngày
hai mươi bốn tháng tư, mùa hạ, năm Chương Vũ thứ ba (222). Các quan văn võ
không ai không thương xót. Về sau, Đỗ Phủ có thơ than rằng:
Vua Thục nhòm Ngô hướng Ba giáp,
Băng hà lúc ở Vĩnh An cung.
Ngoài núi xum xuê cây rợp bóng,
Trơ trơ điện ngọc chốn chùa đồng.
Miếu cổ khóm tùng chim lót tổ,
Mùa săn rộp rịp những thôn ông.
Đền miếu Võ hầu bày lân cận,
Quân hầu một lễ tế nhau cùng.
Khổng Minh dẫn các quan rước linh cữu về Thành Đô. Thái tử
Lưu Thiện ra thành đón rước linh cữu vào trong chính điện, làm lễ cử ai, rồi
tuyên đọc tờ di chiếu.
Chiếu rằng:
“Khi trẫm mới mắc bệnh, chỉ có đi lỵ mà thôi, về sau mỗi ngày
một nặng thêm, chuyển ra bệnh khác, biết rằng khó khỏi.
Trẫm nghe có câu rằng: “Người ta sống được năm mươi tuổi cũng
đã gọi là thọ”. Nay trẫm đã hơn sáu mươi tuổi, chết cũng không còn oán hận gì nữa,
nhưng chỉ lo về anh em chúng mày thôi!
Các con! Phải cố gắng lên mới được! Chớ thấy điều ác nhỏ mà cứ
làm, chớ thấy điều thiện nhỏ mà không làm! Có hiền có đức, mới phục được lòng
người. Đức của cha con mỏng manh, chớ nên bắt chước! Các con cùng làm việc với
thừa tướng, phải đối đãi như cha, chớ có lười, chớ có quên! Anh em các con phải
làm thế nào cho có tiếng khen mới được! Gắn bó mấy lời, nhớ lấy! Nhớ lấy!”
Quần thần đọc chiếu xong, Khổng Minh nói:
- Trong nước không thể một ngày không có vua, xin lập ngay
vua kế vị để nối dõi nhà Hán.
Bèn lập thái tử Thiện lên ngôi hoàng đế, cải niên hiệu là Kiến
Hưng, gia phong cho Gia Cát Lượng làm Võ hương hầu, lĩnh chức mục ở Ích Châu,
táng đức tiên chủ ở Huệ Lăng, tôn tên thuỵ gọi là Chiêu Liệt hoàng đế, tôn bà
Ngô hoàng hậu làm hoàng thái hậu, đặt tên thuỵ bà Cam phu nhân là Chiêu Liệt
hoàng hậu, lại truy tôn bà My phu nhân làm hoàng hậu, thăng thưởng cho quần thần;
đại xá cho thiên hạ.
Có người báo tin về Trung Nguyên. Cận thần tâu với Nguỵ chủ
Tào Phi. Phi mừng, nói:
- Lưu Bị mất rồi, trẫm không lo gì nữa! Không nhân dịp này cất
quân sang đánh sao được!
Giả Hủ can rằng:
- Lưu Bị mất, tất nhiên phó thác con côi cho Gia Cát Lượng.
Lượng cảm ơn sâu của Lưu Bị biết đến mình, tất phải hết lòng giúp vua nối nghiệp,
ta cũng khó lòng đánh nổi, xin bệ hạ chớ vội vàng làm chi!
Chợt có một người ở trong ban, nhảy ra nói rằng:
- Không nhân dịp này mà đánh đi, còn đợi đến bao giờ nữa?
Chúng trông ra thì là Tư Mã Ý.
Tào Phi mừng lắm, hỏi mẹo đánh Thục ra làm sao. Ý thưa rằng:
- Nếu chỉ dùng một đạo binh trong nước, thì khó làm gì được họ.
Ta phải dùng năm đạo đại binh, bốn mặt giáp lại mà đánh, để cho Gia Cát Lượng đầu
đuôi không cứu ứng được nhau, mới có thể đánh được!
Phi hỏi:
- Năm đường là những đường nào?
Ý tâu rằng:
- Nên viết một phong thư, sai sứ sang Liêu Đông, đến nước
Tiên Ty, đem vàng lụa vào ra mắt vua nước ấy là Kha Tị Năng, bảo hắn khởi mười
vạn binh Tây Khương, theo mặt bộ đến đánh ải Tây Bình, đó là một đường. Viết
thư sai sứ đem cáo sắc sang Nam Man, thưởng cho vua Man là Mạnh Hoạch, bảo hắn
khởi mười vạn binh đánh bốn quận Ích Châu, Vĩnh Xương, Tường Khi, Việt Tuấn, để
triệt mặt nam Tây Xuyên, đó là hai đường. Sai người sang kết hiếu với Ngô, hứa
sẽ cắt đất phong cho, để Tôn Quyền khởi mười vạn binh đánh cửa Giáp Khẩu hai
Xuyên, đến tắt Bồi Thành, đó là ba đường. Sai sứ đến chỗ hàng tướng Mạnh Đạt, bảo
hắn khởi mười vạn quân ở Thượng Dung, đánh vào Hán Trung, đó là bốn đường. Lại
sai đại tướng quân là Tào Chân làm đại đô đốc, cầm mười vạn quân, từ con đường
Kinh Triệu, ra tắt cửa Dương Bình, đến lấy Tây Xuyên, thế là năm đường. Cả thảy
năm mươi vạn đại quân, chia làm năm mặt tiến đánh. Dù Gia Cát Lượng có tài như
Lã Vọng, cũng không sao đương lại được!
Tào Phi mừng lắm, lập tức sai sứ đi ra các nơi, lại cử Tào
Chân làm đại đô đốc, dẫn mười vạn quân đến lấy cửa ải Dương Bình. Bấy giờ, bọn
tướng cũ Trương Liêu đều được phong liệt hầu, chia giữ ở Ký Châu, Từ Châu,
Thanh Châu và Hợp Phì, cho nên không điều dụng đến.
Nói về hậu chủ nhà Hán là Lưu Thiện, từ khi lên ngôi, các cựu
thần lẻ tẻ chết dần. Nội bao nhiêu công việc triều đình, như tuyển pháp, tiền
lương, từ tụng đều giao phó cho thừa tướng Gia Cát Lượng khu xử.
Bấy giờ hậu chủ chưa lập hoàng hậu. Khổng Minh và quần thần
tâu rằng:
- Có con gái quan cố xa kỵ tướng quân Trương Phi, người rất
hiền hậu, mới mười bảy tuổi, nên lập làm chính cung hoàng hậu.
Hậu chủ nghe theo.
Năm Kiến Hưng thứ nhất (223), mùa thu tháng tám, sực có tin
ngoài biên về báo rằng:
- Nước Nguỵ sai năm đường đại quân đến lấy Tây Xuyên. Đường
thứ nhất do Tào Chân làm đại đô đốc, dấy binh mười vạn lấy cửa Dương Bình. Đường
thứ hai do phản tướng Mạnh Đạt đem mười vạn quân từ Thương Dung chiếm Hán
Trung. Đường thứ ba do Tôn Quyền Đông Ngô đem mười vạn tinh binh lấy giáp khẩu
vào Xuyên. Đường thứ tư do Mạnh Hoạch Man vương đem mười vạn quân đánh bốn quận
Ích Châu. Đường thứ năm do Phiên vương là Kha Tị Năng đem mười vạn quân Khương
chiếm ải Tây Bình, rất là nguy cấp!
Hậu chủ nghe tin giật mình, sai nội thị triệu Khổng Minh vào
chầu. Nội thị đi nửa ngày mới về, tâu rằng:
- Người trong phủ nói thừa tướng bị mệt, không ra được ngoài.
Hậu chủ hoảng sợ. Hôm sau, lại quan hoàng môn thị lang Đổng
Doãn và quan gián nghị đại phu Đỗ Quỳnh đến tận giường thừa tướng mà cáo việc ấy.
Hai người đến trước phủ nhưng cũng không được vào.
Đỗ Quỳnh nói:
- Tiên đế đem con côi nhờ cậy thừa tướng. Nay chúa thượng mới
lên ngôi. Tào Phi sai năm đạo quân đến xâm phạm, quân tình cấp lắm, cớ sao thừa
tướng lại thác bệnh không ra?
Một lúc lâu, lính canh cửa truyền lệnh thừa tướng rằng:
- Bệnh tình đã khá, đến sáng mai sẽ ra triều đường bàn việc.
Đổng, Đỗ hai người than thở trở về.
Hôm sau, các quan chầu chực cả ở trước phủ thừa tướng, từ
sáng đến tận chiều tối mà cũng không thấy Khổng Minh ra. Ai nấy ngơ ngác, đành
phải tan về.
Đỗ Quỳnh vào tâu với hậu chủ rằng:
- Xin bệ hạ hãy thân đến phủ thừa tướng mà hỏi kế mới xong.
Hậu chủ dẫn các quan vào cung tâu với thái hậu. Thái hậu giật
mình nói:
- Thừa tướng làm sao lại thế, có phụ mất cả bụng tiên đế uỷ
thác cho không? Ta phải đến mới được.
Đổng Doãn tâu rằng:
- Nương nương chớ nên đi vội, tôi chắc thừa tướng có mẹo mực
gì rồi đây. Hãy để chúa thượng đi trước. Như quả thừa tướng lười nhác, xin
nương nương đòi ngay vào thái miếu mà hỏi cũng chưa muộn.
Thái hậu y lời.
Hôm sau, hậu chủ xa giá thân đến tận tướng phủ. Lính canh
trông thấy, vội vàng lạy phục xuống đất đón rước.
Hậu chủ hỏi rằng:
- Thừa tướng ở đâu?
Lính canh nói:
- Tâu bệ hạ, chúng tôi không biết thừa tướng ở chỗ nào, chỉ
truyền cho chúng tôi phải cản các quan lại, không được cho ai vào.
Hậu chủ xuống xe, một mình đi thẳng vào tận lớp cửa thứ ba,
thấy Khổng Minh đang chống gậy trúc, đứng trên bờ ao xem cá.
Hậu chủ đứng mé sau, lâu lâu mới nói:
- Thừa tướng có được vui vẻ không?
Khổng Minh ngoảnh đầu lại thấy hậu chủ, vội vàng quẳng gậy, lạy
phục xuống đất mà nói rằng:
- Tội tôi đáng muôn chết!
Hậu chủ đỡ dậy, hỏi rằng:
- Nay Tào Phi chia quân làm năm đường, phạm vào cõi ta gấp lắm;
tướng phụ mấy bữa nay sao không ra coi việc?
- Quân Nguỵ năm đường kéo đến, sao tôi chẳng biết! Không phải
tôi đang xem cá, mà đang nghĩ việc đó thôi!
Hậu chủ nói:
- Việc ấy thế nào?
Khổng Minh nói:
- Đám vua Khương Kha Tị Năng, Man vương Mạnh Hoạch, phản tướng
Mạnh Đạt và Nguỵ tướng Tào Chân, bốn xứ ấy tôi lo liệu đâu vào đấy cả rồi. Chỉ
còn một mặt Tôn Quyền, tôi cũng đã có mẹo đánh lui được, nhưng cần phải có một
người nói giỏi đi sứ mới xong. Vì chưa có ai, tôi còn đang nghĩ tìm, bệ hạ hà tất
phải lo.
Hậu chủ mừng rỡ nói:
- Tướng phụ quả nhiên có mưu kế, quỷ thần cũng không biết đâu
mà lường! Xin cho nghe mẹo của tướng phụ ra làm sao?
Khổng Minh nói:
- Tiên đế đem bệ hạ phó thác cho tôi, tôi đâu dám lười nhác.
Vì các quan ở Thành Đô, không mấy người hiểu được rằng cái hay của binh pháp là
cốt khiến người ta không biết đâu mà lường, cho nên không dám để tiết lộ ra
ngoài. Tôi đã biết vua Tây Khương phạm vào cửa Dương Bình, tôi chắc Mã Siêu vốn
gốc tích ở Tây Xuyên xưa nay được lòng người Tây Khương lắm, ở đấy họ gọi Mã
Siêu là thần oai thiên tướng quân. Bởi thế, tôi đã cho mang hịch ra sai Mã Siêu
giữ vững cửa ải Tây Bình, mai phục bốn đạo quân tinh nhuệ, hàng ngày luân phiên
nhau chống cự, mặt ấy không phải lo gì nữa. Tôi lại biết Mạnh Đạt dẫn quân ra
Hán Trung; Đạt với Lý Nghiêm, kết nghĩa cùng sống chết có nhau. Lúc trở về
Thành Đô, để Nghiêm ở lại giữ cung Vĩnh An, tôi đã đưa thư sai hắn viết thư cho
Mạnh Đạt; Đạt tất nhiên giả ốm không ra, để nản lòng quân: đường ấy cũng yên rồi.
Mạnh Hoạch ở Nam Man, phạm vào bốn quận, chia làm tả hữu, thay nhau ra vào để
làm nghi binh. Quân Man tuy khoẻ nhưng đa nghi, nếu trông thấy nghi binh tất
không dám tiến, mặt ấy cũng không phải lo gì nữa. Tôi lại biết Tào Chân dẫn
quân phạm vào cửa Nam Bình. Nơi này hiểm trở có thể giữ được. Tôi đã sai Triệu
Vân dẫn một toán quân giữ quan ải, nhất định không ra đánh. Tào Chân bằng thấy
quân ta không ra, chẳng bao lâu cũng phải rút về. Bốn mặt ấy đều không phải lo
gì cả. Nhưng tôi còn ngại không được chu toàn, lại mật sai Quan Hưng, Trương
Bào, mỗi người dẫn ba vạn quân đóng ở các nơi hiểm yếu, để tiếp ứng. Quân mấy mặt
không phải đi qua Thành Đô, cho nên không mấy người biết. Chỉ còn một mặt quân
Đông Ngô thì vị tất đã động, nếu thấy quân bốn mặt kia thắng, trong Xuyên ta
nguy cấp, thì họ mới đến đánh, nhược bằng bốn mặt kia không xong việc, chắc gì
họ đã chịu cất quân đi. Tôi biết rằng Tôn Quyền còn oán Tào Phi sai ba đạo quân
đến xâm nước Ngô, tất nhiên không chịu nghe lời. Tuy vậy, vẫn phải có một người
nói giỏi sang sứ Đông Ngô, lấy đường lợi hại bảo Tôn Quyền, thì trước hết ta giữ
chắc được mặt Đông Ngô, còn lo gì bốn mặt kia nữa! Vì tôi chưa tìm được người
nào, cho nên còn trù trừ. Bệ hạ can gì phải đến đây cho mệt nhọc!
Hậu chủ nói:
- Thái hậu cũng muốn đến gặp tướng phụ. Nay được nghe lời tướng
phụ, như đang ngủ mê mà có người đánh thức dậy, trẫm còn lo gì nữa!
Khổng Minh mời hậu chủ uống vài chén rượu, rồi đưa tiễn ra về.
Các quan đứng vòng quanh cả ở ngoài cửa, thấy hậu chủ ra, vẻ mặt có dáng mừng rỡ.
Hậu chủ từ biệt Khổng Minh, lên xe về triều. Các quan đều nghi hoặc, không hiểu
tình hình ra sao.
Khổng Minh trông trong đám các quan, thấy một người ngẩng mặt
lên trời, đứng cười, cũng có dáng mừng rỡ. Nhìn ra thì là Đặng Chi, tự Bá Miêu,
người ở Nghĩa Dương, hiện đang làm hộ bộ thượng thư. Khổng Minh sai người ra bảo
nhỏ Đặng Chi ở lại. Các quan tan đâu về đấy. Khổng Minh cho mời Đặng Chi vào
trong thư viện, hỏi rằng:
- Nay Thục, Ngô, Nguỵ, thiên hạ chia ba như hình chân vạc, ta
muốn đánh hai nước kia để được thống nhất, thì nên đánh nước nào trước?
Đặng Chi thưa rằng:
- Cứ ý tôi, nước Nguỵ tuy là giặc nhà Hán, nhưng thế to lắm,
khó lay chuyển được, phải từ từ mà tính liệu mới xong. Nay chúa thượng vừa lên
ngôi, bụng dân chưa được yên, hãy nên hoà với Đông Ngô kết làm môi răng, giải
cái oán cũ của tiên đế khi xưa. Đó là kế lâu dài, chưa biết ý thừa tướng nghĩ
thế nào?
Khổng Minh cười, nói:
- Ta nghĩ đã lâu, vẫn chưa tìm được ai, hôm nay mới có người
đây!
Chi nói:
- Thừa tướng muốn dùng người làm gì?
Khổng Minh nói:
- Ta muốn sai người sang kết hiếu với Đông Ngô, ông đã hiểu ý
ấy, chắc không làm nhục mệnh vua. Việc đi sứ, phi ông không xong.
Chi nói:
- Tôi tài mọn trí ngu, e không đương nổi.
Khổng Minh nói:
- Ngày mai tôi tâu với thiên tử, mời Bá Miêu đi cho một chuyến,
xin chớ chối từ.
Chi vâng lời, lui ra. Đến hôm sau, Khổng Minh tâu xin hậu chủ
sai Đặng Chi sang thuyết Đông Ngô. Chi lạy từ, nhắm Đông Ngô thẳng tiến.
Ấy là:
Quân Ngô vừa mới thu đồ chiến,
Sứ Thục liền sang giảng cuộc hoà.
Chưa biết Đặng Chi đi chuyến này ra làm sao, xem hồi sau phân
giải.
Chú thích:
1. Hàn Tín, Trần Bình bỏ nước Sở về hàng
Hán Cao tổ, giúp Hán Cao tổ thành đế nghiệp.
Hồi 86:
Tần Bật biện bác, hỏi vặn Trương Ôn
Từ Thịnh hóa công, phá quân Ngụy chủ
Lại nói Đông Ngô, sau khi Lục Tốn phá xong quân Nguỵ, Ngô chủ
nhắc Lục Tốn lên làm phụ quốc tướng quân, Giang Lăng hầu, lĩnh chức mục ở Kinh
Châu; từ đó, binh quyền về cả tay Tốn.
Trương Chiêu, Cố Ung tâu xin Tôn Quyền cải nguyên. Quyền nghe
lời, mới cải niên hiệu gọi là năm Hoàng Vũ thứ nhất (223).
Chợt có sứ giả nước Nguỵ đến. Quyền vời vào hỏi. Sứ giả nói:
- Trước kia, Thục sai người đến cầu cứu Nguỵ, trong lúc nông
nổi, Nguỵ đã phát binh cứu ứng. Nay hối lại, muốn khởi bốn đạo quân vào lấy
Xuyên, xin Đông Ngô lại tiếp đỡ cho. Nếu lấy được Thục, sẽ xin chia đôi, mỗi
bên một nữa.
Quyền không biết nghĩ thế nào, mới hỏi Trương Chiêu, Cố Ung.
Chiêu nói:
- Lục Bá Ngôn kiến thức rất cao, phải hỏi ông ta mới được.
Quyền lập tức cho triệu Lục Tốn vào.
Tốn tâu rằng:
- Tào Phi ngồi trấn thủ cõi Trung Nguyên, chưa có thể đồ được,
nếu ta không nghe lời hắn lại sinh thù hằn. Tôi chắc rằng cả Nguỵ lẫn Ngô, cũng
không có ai địch nổi được với Gia Cát Lượng. Nay ta cứ vâng lời, sắp sẵn quân
mã, nhưng hãy để xem bốn mặt kia thế nào; nếu bốn mặt kia đánh thắng, trong
Xuyên nguy cấp, Gia Cát Lượng đầu đuôi không cứu ứng được nhau, thì ta sẽ điều
quân ra, trước hết đến lấy Thành Đô, là hơn cả. Nếu bốn mặt kia thua, ta lại liệu
kế khác.
Quyền nghe lời, bảo với sứ Nguỵ rằng:
- Quân nhu chưa chuẩn bị xong, chờ ít bữa nữa, bên này sẽ cất
quân đi.
Sứ giả lạy từ trở về.
Quyền sai người đi dò biết quân Tây Phiên ra cửa Tây Bình, thấy
có Mã Siêu, vội vã rút lui. Nam Man Mạnh Hoạch đánh bốn quận bị Nguỵ Diên dùng
nghi binh đuổi chạy về động. Quân của Mạnh Đạt ở Thương Dung đi đến nửa đường,
bỗng nhiên phát bệnh, không đi được. Tào Chân dẫn quân ra cửa Dương Bình, Triệu
Tử Long chống cự, giữ vững các nơi hiểm yếu, không tài gì phá nổi. Tào Chân
đóng quân ở hang Tà Cốc, không thể làm nên trò trống gì, cũng dẫn quân về nốt.
Tôn Quyền nghe được tin đó, bảo với các quan rằng:
- Lục Bá Ngôn quả thật tính toán giỏi như thần. Nếu cô vội
vàng động binh thì lại kết oán sâu với Tây Thục.
Chợt có tin báo Tây Thục sai sứ là Đặng Chi đến.
Trương Chiêu nói:
- Đây là mẹo của Gia Cát Lượng lui quân sai Đặng Chi sang làm
thuyết khách đây!
Quyền hỏi:
- Nên cư xử làm sao?
Chiêu nói:
- Ta nên đặt một cái vạc to chứa vài trăm cân dầu ở trước điện,
đun sôi sùng sục, kén lấy hơn ngàn võ sĩ lực lưỡng, to lớn, cầm đồ khí giới, đứng
dàn từ ngoài cửa cung đến trước điện, rồi triệu Đặng Chi vào ra mắt. Đừng để
cho hắn mở mồm nói trước, ta nên mắng phủ đầu ngay đi, bắt chước chuyện Lịch Tự
Cơ đến dụ nước Tề mà mổ bụng ra, xem hắn ứng đối thế nào?
Quyền nghe lời, đặt một cái vạc ở trước điện, sai võ sĩ cầm
gươm giáo đứng dàn hai bên, rồi triệu Đặng Chi vào.
Chi áo mũ chỉnh tề đi vào, đến trước cửa cung, thấy hai bên
võ sĩ oai phong lẫm liệt, kẻ thì đao to búa lớn, người thì gươm ngắn giáo dài,
đứng sắp hàng đến mãi cửa điện. Chi hiểu ý, không chút sợ hãi, cứ ngang nhiên
đi vào. Đến trước điện, lại thấy một cái vạc dầu đang sôi. Các võ sĩ đưa mắt
cho Đặng Chi, Chi cười tủm tỉm. Cận thần đưa Chi đến trước rèm Tôn Quyền. Chi
chỉ vái dài chứ không chịu lạy. Quyền sai cuốn rèm lên, mắng rằng:
- Làm sao không lạy?
Chi đáp:
- Thiên sứ ở nước lớn không phải lạy chúa ở nước nhỏ.
Quyền nổi giận nói:
- Ngươi không biết liệu sức, muốn bắt chước Lịch Sinh đến dụ
nước Tề phải không?
Chi cười ầm lên, nói:
- Ai cũng bảo Đông Ngô lắm người hiền, không ngờ lại hoá ra sợ
một anh học trò!
Quyền nguôi giận, nói:
- Cô sợ gì một đứa sất phu?
Chi nói:
- Nếu không biết sợ, thì Đặng Bá Miêu này can gì còn phải đến
đây dạy bảo các ngươi nữa?
Quyền nói:
- Gia Cát Lượng sai ngươi làm thuyết khách, đến dỗ cô bỏ Nguỵ
mà quay về với Thục, phải không?
Chi nói:
- Ta tuy là một người học trò nước Thục, chỉ vì lợi hại của
nước Ngô mà đến đây, thế mà phải dàn quân đun vạc, để doạ một sứ giả, sao độ lượng
hẹp hòi làm vậy?
Quyền nghe nói, có dáng hổ thẹn, mới quát mắng võ sĩ lui ra,
rồi mời Chi lên điện ngồi tử tế, hỏi rằng:
- Việc Ngô, Nguỵ lợi hại ra làm sao, xin tiên sinh dạy cho biết?
Chi nói:
- Đại vương muốn hoà với Thục hay là muốn hoà với Nguỵ?
Quyền nói:
- Cô cốt muốn giảng hoà với Thục, nhưng chỉ ngại Thục chủ còn
ít tuổi, kiến thức nông nổi, không giữ được thuỷ chung với nhau mà thôi.
Chi nói:
- Đại vương là một đấng anh hào trên đời. Gia Cát Lượng bên
tôi cũng là bậc tuấn kiệt một thời. Thục có núi non hiểm trở, Ngô cũng có ba
sông bền vững. Nếu hai nước liên hoà với nhau, kết làm môi răng, tiến lên có thể
nuốt được cả thiên hạ, lui về có thể giữ vững được thế chân vạc. Nay nếu đại
vương xưng thần với Nguỵ, Nguỵ tất bắt đại vương vào chầu và bắt gửi thái tử
làm con tin. Nếu đại vương không nghe, Nguỵ tất cất quân sang đánh. Thục bấy giờ
cũng thuận dòng tiến sang. Như thế đất Giang Nam không còn là của đại vương nữa.
Nếu đại vương cho lời tôi nói là không phải, tôi xin chết ngay trước mặt đại
vương cho tuyệt cái giống thuyết khách đi!
Nói đoạn, cởi áo xăm xăm nhảy vào vạc dầu. Quyền vội vàng sai
người ngăn lại, mời vào hậu điện, trọng đãi làm thượng khách.
Quyền nói:
- Lời tiên sinh hợp với ý cô lắm, cô muốn giảng hoà với Thục
chủ, tiên sinh nói giúp cho cô được không?
Chi nói:
- Mới rồi đại vương muốn giết tôi, bây giờ đại vương lại muốn
sai tôi, đại vương còn phân vân chưa biết thế nào, thì sao cho người ta tin được?
Quyền nói:
- Ý cô đã quyết, tiên sinh chớ có nghi ngại.
Bèn lưu Đặng Chi ở lại, rồi họp cả các quan lại hỏi rằng:
- Cô giữ tám mươi mốt châu Giang Nam, lại có cả đất Kinh Sở,
thế mà không bằng một xó Tây Thục. Thục có Đặng Chi, không để nhục đến chủ, sao
nước Ngô ta lại không có một người nào vào Thục bày tỏ được ý cho cô?
Có một người trong bọn bước ra, tâu rằng:
- Tôi xin đi sứ!
Chúng trông ra thì là Trương Ôn, tự Huệ Thứ, quê ở Ngô Quận,
hiện đang làm trung lang tướng.
Quyền nói:
- Cô chỉ sợ ngươi đến nước Thục, trông thấy Gia Cát Lượng lại
không tỏ được tình của cô mà thôi!
Ôn nói:
- Gia Cát Lượng cùng là người, việc gì mà sợ!
Quyền mừng lắm, thưởng cho Trương Ôn, sai đi với Đặng Chi vào
Xuyên để thông hiếu.
Sau khi Đặng Chi đi rồi, Khổng Minh tâu với hậu chủ rằng:
- Đặng Chi đi chuyến này, tất nhiên xong việc. Ngô lắm người
hiền, tất có người lại đáp lễ. Bệ hạ nên tiếp đãi cho tử tế, sai họ trở về để
thông hiếu với Ngô, Ngô mà hoà với ta rồi, thì Nguỵ không dám đánh ta nữa. Ngô,
Nguỵ yên ổn đâu đấy, tôi xin trước hết xuống phía nam, dẹp yên đám rợ, sau đó sẽ
đồ đến Nguỵ. Nguỵ trừ xong, Ngô cũng không đứng lâu được một mình. Có như vậy
ta mới có thể đem lại cơ nghiệp thống nhất được.
Hậu chủ lấy làm phải.
Chợt có tin Trương Ôn đi với Đặng Chi vào Xuyên. Hậu chủ hội
cả văn võ ở đan trì, cho Đặng Chi, Trương Ôn vào. Ôn tự đắc, nghênh ngang lên
điện ra mắt hậu chủ. Hậu chủ ban cho một cái đệm gấm, cho ngồi bên tả điện, mở
ngự yến thết đãi. Tiệc tan, các quan đưa Trương Ôn ra nghỉ nơi nhà khách.
Hôm sau, Khổng Minh mở yến thết đãi Trương Ôn. Khổng Minh bảo
Ôn rằng:
- Khi còn tiên đế, Thục không được hoà mực với Ngô. Nay ngài
đã mất rồi, chúa thượng tôi bây giờ mến đức Ngô vương, muốn bỏ oán cũ, kết hiếu
mãi mãi với nhau để hợp sức lại phá Nguỵ, xin đại phu về tâu giúp với Ngô hầu
cho.
Trương Ôn vâng lời. Rượu đến nửa chừng, Trương Ôn cười cười
nói nói, hơi có vẻ kiêu ngạo. Hôm sau, hậu chủ sai mở tiệc yến ở nhà trạm cửa
nam, cho các quan ra tiễn. Khổng Minh ân cần mời rượu. Đang tiệc, bỗng có người
say ngất ngưởng đi vào, vái dài một cái rồi tót lên chiếu ngồi. Ôn lấy làm kỳ
quái, hỏi Khổng Minh rằng:
- Người này là thế nào?
Khổng Minh nói:
- Người ấy họ Tần, tên Bật, tự là Tử Sắc, hiện đang làm quan
học sĩ ở Ích Châu.
Ôn cười, nói:
- Tiếng là học sĩ, vị tất trong bụng đã có chút gì!
Bật nghiêm sắc mặt, nói:
- Trong Thục này, dẫu đứa trẻ con cũng còn biết học, huống
chi là ta!
Ôn nói:
- Thế hãy xin hỏi ông học sách gì?
Bật đáp:
- Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, tam giáo cửu linh, bách
gia chư tử, cái gì ta chẳng thông, chuyện hay dở xưa nay cùng là kinh truyện
thánh hiền, cái gì ta chẳng hiểu!
Ôn cười, nói:
- Ông đã khoe như thế, tôi xin hỏi ngay việc trên trời. Trời
có đầu không?
Bật nói:
- Có đầu.
Ôn hỏi:
- Đầu ở phương nào?
Bật nói:
- Ở phương Tây. Kinh Thi có câu: “Nãi quyến tây cố” (bèn ngoảnh
trông về phương tây), cứ thế mà suy ra, thì đầu trời ở phương tây.
Ôn hỏi:
- Trời có tai không?
Bật nói:
- Trời cao mà nghe thấp. Kinh Thi có câu: “Hạc mình cửu
cao, thanh vân vu thiên” (con hạc kêu trên chín tầng mây, tiếng nghe đến
trời), nếu trời không có tai, sao lại biết nghe?
Ôn hỏi:
- Trời có chân không?
Bật nói:
- Có! Kinh Thi có câu: “Thiên bộ gian nan” (bước trời
khó nhọc). Nếu không có chân thì bước làm sao được!
Ôn hỏi:
- Trời có họ không?
Bật nói:
- Sao lại chẳng có!
Ôn hỏi:
- Họ gì?
Bật nói:
- Họ Lưu.
Ôn hỏi:
- Sao biết là họ Lưu?
Bật nói:
- Thiên tử (con trời) họ Lưu, cứ thế mà suy thì biết.
Ôn hỏi:
- Mặt trời mọc ở phương đông, có phải không?
Bật nói:
- Tuy mọc ở phương đông, nhưng mà lại lặn ở phương tây.
Khi ấy, Tần Bật ứng đối trôi chảy, nói năng hoạt bát, cả đám
đều ngồi kinh. Trương Ôn không hỏi vặn được câu gì nữa. Bật mới hỏi lại rằng:
- Tiên sinh là danh sĩ Đông Ngô, đã lấy việc trên trời mà hỏi,
tất là hiểu sâu lẽ trời. Khi xưa, lúc hỗn độn mới mở, âm dương chia biệt, khí
nhẹ mà trong thì bay lên thành trời; khí nặng mà đục, thì đọng xuống dưới thành
đất. Đến đời họ Cung Công, đánh trận thua, húc đầu vào núi Bất Chu, thì cột trời
đổ gãy, mà rường đất sứt mẻ, trời nghiêng về tây bắc, đất đổ về đông nam. Trời
đã là khí nhẹ mà trong, làm sao lại còn nghiêng góc tây bắc? Vả lại, ở ngoài lần
khí nhẹ và trong, còn có vật gì nữa, xin tiên sinh dạy cho tôi được biết?
Trương Ôn không biết đối đáp ra sao, mới đứng dậy tạ rằng:
- Tôi không ngờ trong Thục lắm người tuấn kiệt thế này, nghe
lời ngài giảng luận, khiến tôi mở được đường ngu dốt.
Khổng Minh chữa thẹn cho Trương Ôn, nói rằng:
- Túc hạ vốn tinh thông những việc yên dân định nước kia, chứ
những lời đùa bỡn này thì có làm gì!
Tiệc tan, Ôn lạy tạ Khổng Minh ra về. Khổng Minh lại sai Đặng
Chi cùng đi sang Ngô. Hai người lạy từ Khổng Minh đi Giang Đông.
Ngô vương thấy Trương Ôn chưa về, hội cả văn võ lại bàn bạc.
Chợt cận thần vào báo rằng Thục sai Đặng Chi theo Trương Ôn sang đáp lễ. Quyền
cho mời vào. Trương Ôn quỳ lạy ở trước điện, thuật lại cái việc tử tế của hậu
chủ và Khổng Minh, xin kết hiếu mãi với nhau, nên lại sai Đặng thượng thư sang
đáp lễ.
Quyền mừng lắm, mở tiệc yến khoản đãi Đặng Chi, rồi bảo rằng:
- Nếu bằng hai nước Thục, Ngô đồng tâm mà diệt Nguỵ, khi nào
được thiên hạ thái bình, hai chúa chia đôi thiên hạ, chẳng hoá vui lắm ru!
Chi đáp rằng:
- Trời, không có lẽ hai mặt trời; dân không có lẽ hai chúa.
Sau khi diệt được Nguỵ rồi, chưa biết trời cho ai. Có một điều là làm vua thì
phải sửa đức mình; làm tôi thì phải biết lòng trung nghĩa, như thế việc chiến
tranh mới tắt được.
Quyền cười ầm lên, nói:
- Ông nói thực thà lắm!
Bèn hậu tặng cho Đặng Chi về. Từ đó, Ngô, Thục hai bên hoà hiếu
với nhau.
Lại nói, quân do thám của Nguỵ biết được việc ấy, vội vàng
báo vào Trung Nguyên. Nguỵ chủ nghe tin, giận lắm, nói rằng:
- Ngô, Thục liên hoà với nhau, tất có ý đồ Trung Nguyên của
trẫm, trẫm phải đánh trước đi mới được.
Bởi thế, họp cả văn võ bàn định việc cất quân sang đánh Ngô.
Bấy giờ đại tư mã Tào Nhân, thái uý Giả Hủ đều mất rồi. Có
quan thị trung là Tân Tỷ ra ban, tâu rằng:
- Ở Trung Nguyên ta, đất thì rộng mà dân thì ít, muốn dùng
binh ngay, không được lợi. Chi bằng ta hãy nuôi quân, cho đóng đồn làm ruộng mười
năm, bấy giờ binh nhiều lương đủ, mới có thể phá được Ngô, Thục.
Phi giận, nói:
- Ngô, Thục liên hoà, nay mai tất xâm phạm vào nước ta, đợi
gì đến mười năm!
Lập tức truyền chỉ cất quân sang đánh Ngô.
- Ngô có sông Trường Giang ngăn trở, không có thuyền sang
không được. Bệ hạ bằng muốn thân chinh, nên kén thật nhiều chiến thuyền lớn nhỏ,
từ đường Sái Dĩnh, vào sông Hoài, cướp lấy Thọ Xuân, rồi tới Quảng Lăng, sang
qua cửa sông, đến tắt lấy Nam Từ, đó mới là thượng sách.
Phi nghe lời, sai thợ ngày đêm đóng gấp lấy mười chiếc thuyền
rộng, mỗi cái dài hai mươi trượng, chở nổi hai nghìn người. Lại thu nhặt thêm
hơn ba nghìn chiếc thuyền nữa.
Năm Hoàng Sơ nhà Nguỵ thứ năm (224), mùa thu, tháng tám. Tào
Phi hội cả tướng sĩ lớn nhỏ, sai Tào Chân làm tiền bộ, Trương Liêu, Trương Cáp,
Văn Sính, Từ Hoảng làm đại tướng đi trước, Hứa Chử, Lã Kiền làm trung quân hộ vệ,
Tào Hưu làm hợp hậu, Lưu Hoa, Tưởng Tế làm tham mưu. Quân mã thuỷ lục, cả thảy
hơn ba mươi vạn, ngày hôm ấy cất quân đi. Lại phong cho Tư Mã Ý làm thượng thư
bộc sạ, ở lại Hứa Đô. Tất cả mọi chính sự lớn nhỏ đều giao cả cho Ý coi sóc.
Quân mật thám dò biết việc ấy, báo về nước Ngô. Cận thần vội
vàng vào tâu với Ngô vương rằng:
- Nguỵ chủ Tào Phi, thân cưỡi thuyền rồng, dẫn hơn ba mươi vạn
đại quân thuỷ, lục, từ đường Sái Dĩnh ra sông Hoài, lấy Giang Lăng để qua sông
hạ Giang Nam ta, thế quân rất là lợi hại.
Tôn Quyền cả kinh, hội cả văn võ lại bàn luận.
Cố Ung tâu rằng:
- Nay chúa thượng đã liên hoà với Thục, một mặt nên viết một
phong thư đưa cho Gia Cát Khổng Minh, xui hắn cất quân ra Hán Trung để chia bớt
thế lực của quân Nguỵ đi. Một mặt sai đại tướng đóng quân ở Nam Từ đánh nhau với
giặc.
Tôn Quyền nói:
- Ngoài Lục Bá Ngôn ra, không ai đương nổi việc lớn này.
Cố Ung nói:
- Bá Ngôn trấn thủ ở Kinh Châu, không nên khinh động.
Quyền nói:
- Cô vẫn biết thế, nhưng hiện nay không có ai đỡ được cho cô.
Có một người ở trong đám dạ một tiếng, bước ra nói rằng:
- Tôi tuy bất tài, xin lĩnh một đạo quân chống nhau với quân
Nguỵ. Nếu Tào Phi sang sông, tôi xin bắt sống về dâng điện hạ; ví bằng không
sang, cũng xin giết một nửa số quân Nguỵ, khiến chúng không dám nhòm ngó đến
Đông Ngô ta nữa.
Tôn Quyền trông ra thì là Từ Thịnh, mừng mà nói rằng:
- Nếu được ngươi giữ một dải Giang Nam, thì cô còn lo gì nữa!
Liền phong cho Từ Thịnh làm An Đông tướng quân tổng thống cả
quân mã ở Kiến Nghiệp, Nam Từ. Thịnh tạ ân, lĩnh mệnh từ tạ trở ra truyền cho
các tướng sắm sửa khí giới, tinh kỳ cho nhiều, để phòng giữ mặt sông.
Bỗng có một người đứng phắt ra thưa rằng:
- Nay đại vương đem công việc tày đình, uỷ thác cho tướng
quân; muốn phá quân Nguỵ để bắt sống Tào Phi, sao tướng quân không đưa quân
sang sông cho sớm đến Hoài Nam mà nghênh địch có được không? Nếu đợi quân Nguỵ
tới nơi, còn chống chế làm sao cho kịp?
Từ Thịnh trông ra thì là Tôn Thiều, cháu gọi Ngô vương bằng
chú.
Tôn Thiều tự là Công Lễ, hiện đang làm Dương võ tướng quân,
trước đã trấn giữ ở Quảng Lăng. Thiều tuy ít tuổi nhưng tính khí khái, có sức lực,
can đảm lắm.
Từ Thịnh nói:
- Thế quân Tào Phi to lắm, lại có danh tướng làm tiên phong,
ta không nên sang sông nghênh địch. Đợi khi nào thuyền bên kia tụ ở cả bắc ngạn,
ta khắc có mẹo phá được.
Thiều nói:
- Thủ hạ tôi có ba nghìn quân mã, tôi lại quen thuộc đường đất
Quảng Lăng, vậy xin một mình lên Giang Bắc, quyết liều chết một trận với Tào
Phi, nếu không thắng được, xin chịu quân lệnh.
Từ Thịnh không nghe. Thiều nhất định xin đi. Thịnh cũng nhất
định không cho. Thiều vật nài hai ba lần nữa. Thịnh giận, nói rằng:
- Ngươi không nghe hiệu lệnh của ta thế này, ta còn trị làm
sao được các tướng?
Lập tức quát võ sĩ lôi Tôn Thiều ra chém. Quân đao phủ điệu
Thiều ra đến cửa dinh, dựng một lá cờ thâm, sắp sửa khai đao. Bộ tướng của Thiều
phi báo với Tôn Quyền. Quyền vội vàng phi ngựa đi ngay. Võ sĩ sắp hành hình thì
Tôn Quyền tới kịp, quát dẹp đao phủ ra, cứu được Thiều.
Thiều khóc, nói:
- Tôi trước kia đã ở Quảng Lăng, quen thuộc cả đường đất, nên
nhân lúc này đánh ngay Tào Phi đi. Nếu để hắn sang được sông, thì Đông Ngô ta
chẳng mấy bữa nữa là hỏng mất!
Tôn Quyền vào trại. Từ Thịnh ra rước vào trong trướng, rồi
tâu rằng:
- Đại vương sai tôi làm đô đốc, cầm quân ra cự nhau với Nguỵ.
Tôn Thiều không tuân quân pháp, đáng lẽ nên chém, sao đại vương lại tha?
Quyền nói:
- Thiều cậy sức khoẻ, lỡ phạm phải quân lệnh, xin tướng quân
hãy thứ cho nó phen này.
Thịnh nói:
- Phép, không phải do tôi đặt ra, cũng không phải do đại
vương đặt ra, mà là luật chung của nhà nước. Nếu cứ người thân thì tha, làm sao
sai khiến được kẻ khác?
Quyền nói:
- Thiều nó phạm phép, đáng lẽ mặc ý tướng quân xử trị mới phải.
Vì nó tuy là họ Du, nhưng xưa kia anh ta yêu nó lắm, cho đổi làm họ Tôn. Vả nó
cũng có công lao với cô nữa, nếu giết đi thì phụ mất bụng anh ta!
Thịnh nói:
- Nể có đại vương đây, hãy xin gửi cái tội chết ở đó!
Quyền sai Tôn Thiều lạy tạ. Thiều nhất định không lạy, lại
quát to lên rằng:
- Cứ như ý kiến của ta thì chỉ dẫn quân sang phá Tào Phi là
phải. Ta dù chết chăng nữa cũng không phục cái kiến thức của ngươi!
Từ Thịnh tái mặt lại, Tôn Quyền quát mắng Tôn Thiều đuổi ra,
rồi bảo Thịnh rằng:
- Nếu không có hắn, thì có thiệt gì cho Đông Ngô? Từ sau chớ
dùng hắn nữa.
Nói đoạn trở về.
Đêm hôm ấy, có người báo với Từ Thịnh rằng Tôn Thiều dẫn ba
nghìn quân bản bộ, lẻn sang qua sông mất rồi. Từ Thịnh ngại có mặt Ngô vương, mới
gọi Đinh Phụng vào, dặn dò mật kế, sai dẫn ba ngàn quân mã qua sông tiếp ứng.
Lại nói, Nguỵ chủ cưỡi thuyền rộng đi đến Quảng Lăng, tiền bộ
là Tào Chân đã dàn quân ở bờ sông đại giang rồi.
Tào Phi hỏi rằng:
- Quân bên sông nhiều hay ít?
Tào Chân tâu rằng:
- Cách bờ bên này trông sang, không thấy một người nào, mà
cũng không có tinh kỳ, dinh trại gì cả.
Phi nói:
- Đó là quỷ kế đấy, để trẫm đến nơi xem hư thực ra sao mới được.
Thế rồi, Phi sai mở rộng đường sông, thả thuyền rồng vào thẳng
đại giang, đậu cả ở bến. Trên thuyền cắm những cờ long, phụng, nhật, nguyệt,
tinh kỳ, nghi trượng sáng quắc một vùng.
Tào Phi ngồi chễm chệ trong thuyền, xa xa nhìn sang phía nam,
không thấy bóng một người nào, bèn ngoảnh lại bảo Lưu Hoa, Tưởng Tế rằng:
- Có nên sang bên kia sông không?
Hoa tâu rằng:
- Binh pháp thực hoá hư, hư hoá thực. Bên kia thấy đại quân
ta đến, tài gì chẳng có phòng bị, bệ hạ chưa nên vội vã sang ngay. Đợi năm ba bữa
xem động tĩnh thế nào, rồi hãy cho tiên phong sang trước nghe ngóng mới được.
Phi nói:
- Ngươi nói chính hợp ý trẫm!
Chiều tối hôm ấy, Phi cắm thuyền nghỉ ở giữa sông. Đêm không
có trăng, trời tối như mực, quân sĩ đốt đuốc sáng trưng, trời đất như ban ngày.
Nhưng trông sang bên kia sông, lại tuyệt nhiên không thấy có đèn lửa gì cả.
Tào Phi hỏi tả hữu rằng:
- Đó là cớ làm sao?
Cận thần tâu rằng:
- Đấy hẳn là họ nghe thấy đại quân của bệ hạ đến, cho nên chạy
trốn mất cả rồi!
Phi tủm tỉm cười thầm. Đến gần sáng, sương mù dày đặc, giáp mặt
không trông thấy nhau. Phút chốc, nổi cơn gió, trông sang một dải Giang Nam thấy
thành trì liên tiếp nhau, trên địch lâu gươm giáo sáng quắc, tinh kỳ phấp phới
rợp trời.
Trong một lát, năm bảy tin lại báo rằng:
- Suốt dọc sông Nam Từ, đến thẳng thành Thạch Đầu, liên tiếp
nhau vài trăm dặm, thành quách, xe thuyền chi chít, chỉ có một đêm là làm xong
cả.
Tào Phi thất kinh.
Nguyên là Từ Thịnh sai bó cỏ làm người giả, cho mặc toàn áo
xanh, tay cầm tinh kỳ, đứng cả trên lâu thành giả. Quân Nguỵ trông thấy quân mã
đông như kiến, tài nào chẳng rụng rời hết vía!
Tào Phi than rằng:
- Nguỵ dẫu có nghìn bọn võ sĩ cũng không làm được trò gì!
Nhân vật Giang Nam giỏi như thế, chửa dễ đã đánh được!
Còn đang kinh ngạc, bỗng nổi cơn gió to, sóng cuộn ngất trời,
nước sông bắn lên thuyền ướt cả áo long bào, thuyền rồng chòng chành sắp lật.
Tào Chân vội vàng sai Văn Sính bơi chiếc thuyền nhỏ lại cứu giá. Người trên
thuyền nghiêng ngả. Văn Sính nhảy lên thuyền rồng cõng Tào Phi xuống thuyền nhỏ,
bơi vào trong lạch sông.
Chợt có ngựa lưu tinh chạy lại báo rằng:
- Triệu Vân dẫn quân ra cửa Dương Bình, đi đường tắt lấy Trường
An.
Tào Phi nghe tin, giật mình mất vía, liền hạ lệnh rút về.
Quân sĩ tranh nhau mà chạy, quân Ngô thừa thế đuổi theo. Phi truyền bỏ đồ ngự dụng
chạy thục mạng. Khi thuyền sắp vào đến sông Hoài, bỗng trống, tù và nổi rầm rĩ,
tiếng hò reo vang trời, một toán quân bất chợt đánh ra, đại tướng đi đầu là Tôn
Thiều. Quân Nguỵ không đương nổi, tổn hại mất quá nửa, lăn xuống sông chết đuối
rất nhiều.
Các tướng lăn xả vào đánh mới cứu được Nguỵ chủ. Nguỵ chủ
sang qua sông Hoài, đi chưa được ba mươi dặm, bỗng đâu trong đám lau niễng giữa
dòng sông không biết dầu mỡ vẩy vào lúc nào, bỗng cháy bùng cả lên, thuận gió
trôi xuống, tràn cả vào đám thuyền rồng. Phi tất tả lên ngựa, chợt lại thấy một
toán quân kéo đến, đại tướng đi đầu là Đinh Phụng, Trương Liêu quất ngựa lại
đón, bị Đinh Phụng bắn một phát tên tin vào lưng, may có Từ Hoảng cứu được. Mấy
người cùng nhau giữ gìn Nguỵ chủ mà chạy. Quân sĩ thiệt hại rất nhiều. Tôn Thiều,
Đinh Phụng ở mặt sau, cướp được xe, ngựa, khí giới, không biết bao nhiêu mà kể.
Quân Nguỵ thua liểng xiểng chạy về.
Ngô tướng Từ Thịnh thu được toàn thắng, Ngô vương thưởng cho
rất hậu.
Nay nói về Triệu Vân, vừa dẫn quân ra khỏi ải Dương Bình, thì
có giấy của Khổng Minh đến đòi về, vì có Úng Dĩ ở Ích Châu, kết liên với Mạnh
Hoạch, đem mười vạn quân rợ, cướp bóc bốn quận. Khổng Minh sai Mã Siêu giữ vững
ải Dương Bình, tự mình cầm quân sang đánh dẹp phương nam.
Đó là:
Vừa thấy Đông Ngô lui Bắc Nguỵ,
Lại xem Tây Thục đánh Nam Man.
Chưa biết việc đánh Man được thua thế nào, xem hồi sau sẽ biết.
Hồi 87:
Đánh Nam khấu, thừa tướng cất quân
Chống thiên binh, Man vương bị bắt
Nói về thừa tướng Gia Cát Lượng ở Thành Đô, bao nhiêu việc lớn
nhỏ đều tự mình xử đoán. Dân trong hai Xuyên, vui vẻ thái bình, đêm không phải
đóng cửa, ngoài đường không ai thèm nhặt của rơi. Lại luôn mấy năm được mùa to,
già trẻ sung sướng ca hát. Gặp có việc sai dịch thì tranh nhau ứng biện, bởi thế
đồ quân nhu, khí giới đủ cả, thóc lúa của cải kho nào cũng đầy.
Năm Kiến Hưng thứ ba (226), ở Ích Châu có tin báo rằng:
- Man vương là Mạnh Hoạch, cất mười vạn quân, xâm phạm vào
cõi. Quan thái thú Kiến Ninh là Úng Dĩ, nguyên dòng dõi Thập Phương hầu Úng Xỉ
nhà Hán khi xưa, nay kết liên với Mạnh Hoạch làm phản, thái thú quận Tường Kha
là Chu Bao và thái thú quận Việt Tuấn là Cao Định, hai người dâng mất thành trì
hàng giặc rồi. Chỉ còn thái thú quận Vĩnh Xương là Vương Can không chịu làm phản.
Hiện nay quân mã của Úng Dĩ, Chu Bao, Cao Định đều dẫn đường cho Mạnh Hoạch
đánh quận Vĩnh Xương. Vương Cang cùng với quan công tào Lã Khải, tụ hội nhân
dân, cố chết giữ lấy thành trì, thế nguy cấp lắm.
Khổng Minh liền vào chầu, tâu với hậu chủ rằng:
- Nay rợ phương nam không phục, thật là mối tai hoạ lớn của
nhà nước. Tôi xin lĩnh một đạo đại quân đi đánh mới xong.
Hậu chủ nói:
- Nước ta, mé đông có Tôn Quyền, mé bắc có Tào Phi, nay tướng
phụ bỏ trẫm mà đi, phỏng Ngô, Nguỵ lại đánh, thì làm thế nào?
Khổng Minh tâu rằng:
- Đông Ngô mới giảng hoà với nước ta, chắc không có bụng gì,
nếu có thì Lý Nghiêm ở thành Bạch Đế, đủ chống chọi được Lục Tốn. Tào Phi mới
thua, nhuệ khí đã nhụt, chưa thể nghĩ đến việc xa xôi. Vả lại có Mã Siêu giữ
các ải Hán Trung, thì cũng không phải lo lắm. Tôi lại để Quan Hưng, Trương Bào ở
lại, chia làm hai đạo quân để cứu ứng, giữ gìn bệ hạ, chắc chắn muôn phần. Nay
tôi xin ra dẹp yên quân rợ trước, rồi sẽ đánh mặt bắc để thu phục Trung Nguyên,
may ra báo được ơn tiên đế ba lần hạ cố đến tôi, và việc lớn của tiên đế phó
thác bệ hạ cho tôi.
Hậu chủ nói:
- Trẫm còn ít tuổi chưa biết gì, nội công việc tuỳ ý tướng phụ
châm chước mà làm.
Hậu chủ chưa dứt lời, trong đám quan một người bước ra nói:
- Không được! Không được!
Ai nấy trông xem thì là Vương Liên, tự Văn Nghi, quê ở Nam
Dương, đang làm gián nghị đại phu.
Liên can rằng:
- Phương nam là xứ ma thiêng nước độc, cây cối không mọc được.
Thừa tướng cầm quyền to nhà nước, không nên đem thân vào đó. Vả lại bọn Úng Dĩ
phản nghịch, chẳng qua như bệnh đau ghẻ mà thôi, thừa tướng chỉ nên sai một đại
tướng đi đánh, chắc chắn cũng thành công.
Khổng Minh nói:
- Đất nam Man xa cách, nhân dân không biết vương hoá là gì,
thu phục thật khó. Ta phải xuất thân ra đánh, nên mềm, nên cứng, liệu cơ mà
làm, không có khinh thường mà uỷ thác cho người được.
Vương Liên can hai ba lần, Khổng Minh nhất định không nghe.
Ngay hôm ấy, Khổng Minh từ hậu chủ, cất quân đi. Sai Tưởng Uyển
làm tham quân; Phí Vĩ làm trưởng sử, Đổng Quyết, Phàn Kiến làm duyện sử, Vương
Bình, Trương Dực làm phó tướng, cùng mấy chục viên tướng Xuyên, khởi năm mươi vạn
quân, nhắm phía Ích Châu tiến tới.
Chợt có Quan Sách là con thứ ba Quan Công vào ra mắt Khổng
Minh thưa rằng:
- Từ khi Kinh Châu bị mất, tôi lánh nạn ở Bảo Gia trang dưỡng
bệnh, chỉ mong muốn vào Xuyên ra mắt tiên đế để đi báo thù, nhưng thương tích
chưa khỏi, không thể đi được. Nay đã bình phục, dò biết được kẻ thù ở Đông Ngô
đều bị giết cả rồi, bèn đi tắt vào Tây Xuyên với tiên đế, may giữa đường gặp đại
quân nam chinh, nên đến đây ra mắt.
Khổng Minh nghe nói lấy làm ái ngại, một mặt cho người về báo
với triều đình, một mặt, sai Quan Sách làm tiền bộ tiên phong, cùng đi đánh
phương nam. Đại đội nhân mã, cơ nào đội ấy, tề chỉnh kéo đi; đói ăn khát uống,
đêm nghỉ ngày đi, đến đâu cũng không hề phạm một ly, một tý của dân.
Lại nói Úng Dĩ nghe tin Khổng Minh đem đại quân đến, liền
cùng Cao Định, Chu Bao bàn bạc, chia quân làm ba đường: Cao Định ở giữa, bên tả
Úng Dĩ, bên hữu là Chu Bao; tất cả dẫn năm, sáu vạn quân ra nghênh địch. Cao Định
sai Ngạc Hoán làm tiền bộ tiên phong. Hoán mình cao chín thước, mặt mũi hung
ác, dùng chiếc phương thiên kích, có sức khoẻ muôn người khôn địch, lĩnh quân bản
bộ, rời khỏi trại lớn, ra đón quân Thục.
Lại nói đại quân của Khổng Minh đã tiến đến địa phận Ích
Châu. Tiền bộ tiên phong Nguỵ Diên, phó tướng Trương Dực, Vương Bình vừa vào khỏi
giới khẩu thì gặp quân Ngạc Hoán đến. Hai bên dàn trận, Nguỵ Diên ra ngựa mắng
rằng:
- Phản tặc kia! Mau mau hàng đi cho sớm!
Ngạc Hoán tế ngựa lại đánh nhau với Nguỵ Diên. Được vài hiệp,
Diên giả thua chạy, Hoán đuổi theo, chưa được vài dặm, bỗng đâu tiếng reo nổi
lên ầm ầm, Trương Dực, Vương Bình hai mặt đổ ra chặn mất đường về. Diên quay lại
đánh. Ba tướng hợp sức đánh dồn vào, bắt sống được Ngạc Hoán, giải về trại nộp
Khổng Minh.
Khổng Minh sai cởi trói, cho ăn uống tử tế, rồi hỏi rằng:
- Ngươi là bộ tướng của ai?
Ngạc Hoán thưa rằng:
- Tôi là tướng bộ hạ Cao Định.
Khổng Minh nói:
- Ta biết Cao Định là người trung nghĩa, nay vì Úng Dĩ xui giục,
mới đến nỗi thế. Ta tha cho mày về, bảo Cao Định mau lại hàng, kẻo mắc vạ to đấy!
Ngạc Hoán lạy tạ lui ra, về ra mắt Cao Định, thuật lại chuyện
Khổng Minh nhân đức và ngỏ ý cảm ơn Khổng Minh không biết ngần nào.
Hôm sau, Úng Dĩ đến chơi trại Cao Định, hỏi rằng:
- Ngạc Hoán làm sao mà về được thế?
Định nói:
- Đó là Gia Cát Lượng tha cho về.
Dĩ nói:
- Đấy là mẹo phản gián của Gia Cát Lượng, khiến hai chúng ta
không hoà với nhau đó.
Cao Định trong bụng hồ nghi, chưa biết tin đường nào. Bỗng có
tin báo Thục tướng đến khiêu chiến. Úng Dĩ dẫn ba vạn quân ra nghênh địch. Đánh
nhau chưa được vài hiệp, Dĩ quay ngựa chạy mất. Diên dẫn quân đuổi đánh hai
mươi dặm mới rút về.
Hôm sau, Úng Dĩ lại dẫn quân đến, Khổng Minh luôn ba hôm
không cho ra quân. Đến hôm thứ tư, Úng Dĩ, Cao Định, chia quân làm hai đường, đến
cướp trại Thục. Khổng Minh đã sai Nguỵ Diên phục quân sẵn từ lâu. Quả nhiên,
quân hai người kéo lại bị quân phục đổ ra, giết mất quá nửa và bắt sống rất nhiều.
Nguỵ Diên giải cả về trại. Khổng Minh sai giam quân Úng Dĩ một bên, quân Cao Định
một bên, rồi cho quân sĩ nói phao lên rằng:
- Nội là người của Cao Định thì tha, còn người của Úng Dĩ thì
giết sạch.
Quân sĩ ai cũng nghe biết tin ấy cả.
Một lát, Khổng Minh cho đòi bên quân Úng Dĩ lên trướng hỏi rằng:
- Chúng bay là bộ hạ của ai?
Chúng bẩm dối rằng:
- Chúng tôi là bộ hạ Cao Định.
Khổng Minh liền tha tội, lại cho ăn uống, rồi sai người đưa
ra khỏi bờ cõi, tha về trại.
Khổng Minh lại đòi quân Cao Định lên hỏi, thì chúng bẩm rằng:
- Chúng tôi mới thực là quân sĩ bộ hạ Cao Định.
Khổng Minh cũng tha, cho cơm rượu ăn uống và bảo rằng:
- Hôm nay Úng Dĩ có sai người đến đầu hàng, muốn dâng đầu chủ
chúng bây và đầu Chu Bao để lấy công nhưng ta không nỡ thế. Chúng bay có phải
là bộ hạ Cao Định, thì ta thả cả cho về, không được làm phản nữa. Nếu ta lại bắt
được, quyết không thứ cho đâu.
Chúng cùng lạy tạ đi ra, về đến trại nhà, thuật chuyện lại với
Cao Định. Định liền sai người đến trại Úng Dĩ dò la xem sao, thấy quân Úng Dĩ
được tha về, ai cũng có bụng cảm ân đức của Khổng Minh. Nhiều người muốn hàng
theo Cao Định. Nhưng Cao Định vẫn chưa yên tâm, lại sai người đến thăm trại Khổng
Minh, xem hư thực thế nào, không ngờ bị quân canh bắt được đem vào nộp. Khổng
Minh giả tảng không biết, cho là quân do thám của Úng Dĩ, mới gọi vào trong trướng
hỏi rằng:
- Nguyên suý mày đã hứa đem nộp đầu Cao Định, Chu Bao, làm
sao lại để lỡ hẹn, không mang đến, thằng này hẳn lại sang do thám gì đây?
Tên quân ấy nói hàm hồ cho xong việc, Khổng Minh đãi cơm rượu,
rồi viết một bức thư, giao cho và dặn rằng:
- Mày cầm giấy này về đưa cho Úng Dĩ, bảo hắn làm mau đi, chớ
để lỡ việc!
Tên quân lạy tạ trở về, vào ra mắt Cao Định, trình tờ thư của
Khổng Minh lên.
Cao Định xem xong thư, nổi giận nói:
- Ta đem lòng thực đãi nó, nó lại muốn hại ta, dung thứ sao
được!
Lập tức gọi Ngạc Hoán lên bàn định.
Ngạc Hoán nói:
- Khổng Minh là người nhân đức, ta làm phản không nên. Vả lại,
việc làm phản là tự Úng Dĩ gây ra cả, chi bằng giết quách hắn đi, về hàng với
Khổng Minh là hơn.
Định nói:
- Thế thì hạ thủ làm sao bây giờ?
Hoán nói:
- Chủ công nên mở một tiệc rượu, mời Úng Dĩ đến chơi. Nếu hắn
không có bụng gì, tất đi lại như thường. Nhược bằng không đến, chắc là có bụng
khác. Chủ công nên đem quân đánh mặt trước, tôi xin phục quân ở đường nhỏ mặt
sau trại, thế nào cũng bắt sống được hắn.
Cao Định nghe lời, mở tiệc rượu mời Úng Dĩ. Dĩ quả nhiên nghi
ngờ lời quân sĩ tha về hôm trước, không dám đến.
Đêm hôm ấy, Cao Định dẫn quân kéo đến trại Úng Dĩ. Quân của
Úng Dĩ được Khổng Minh tha về, đều nhớ ơn Cao Định, liền thừa cơ kéo cả về giúp
quân Cao Định. Quân Dĩ chưa kịp đánh nhau, đã tán loạn. Dĩ vội vàng lên ngựa chạy
lẻn ra con đường sau núi. Đi chưa được vài dặm, bỗng đâu trống nổi om sòm, một
toán quân tràn ra. Ngạc Hoán cầm kích quất ngựa xông lên. Dĩ chưa kịp trở tay,
đã bị Hoán đâm một nhát kích ngã lăn xuống ngựa, rồi chặt ngay lấy đầu. Quân bộ
hạ của Dĩ đầu hàng cả. Định dẫn hai toán quân, đem đầu Úng Dĩ lại hàng Khổng
Minh.
Khổng Minh đang ngồi trong trướng, quát võ sĩ lôi Cao Định ra
chém.
Định kêu rằng:
- Tôi cảm đại ân của thừa tướng, nên đem đầu Úng Dĩ về hàng,
cớ sao lại chém?
Khổng Minh cười ầm lên nói rằng:
- Ngươi lại trá hàng, dám che mắt ta ru?
Định nói:
- Thừa tướng lấy gì làm bằng, mà cho tôi là dối trá.
Khổng Minh mở tráp, lấy một phong thư, đưa cho và bảo rằng:
- Chu Bao đã sai người dâng hàng thư đến đây, nói ngươi với
Úng Dĩ, kết nghĩa sống chết với nhau, có lẽ đâu một chốc mà ngươi nỡ giết hắn,
cho nên ta biết ngay ngươi đến trá hàng.
Định kêu lên rằng:
- Chu Bao nó làm kế phản gián đấy, thừa tướng chớ có tin.
Khổng Minh nói:
- Ta cũng chưa vội tin ngay một mảnh giấy đâu nhưng ngươi có
bắt được nốt Chu Bao, thì ta mới cho là thực.
Định nói:
- Thừa tướng chớ nghi, để tôi xin bắt nốt Chu Bao lại nộp có
được không?
Khổng Minh nói:
- Có vậy, ta mới khỏi nghi hoặc.
Cao Định lập tức dẫn quân Ngạc Hoán đem quân bản bộ kéo đến
trại Chu Bao. Gần đến nơi, Chu Bao cũng vừa dẫn quân đến mé sau núi. Bao thấy Định
vội vàng ra hỏi chuyện. Định quát lên, mắng rằng:
- Mày sao dám viết thư cho Gia Cát thừa tướng, dùng mẹo phản
gián, muốn hại ta?
Bao trố mắt, cứng lưỡi, không biết đáp lại làm sao. Ngạc Hoán
ở sau ngựa, xông lại đâm một nhát kích, Bao chết liền.
Định quát rằng:
- Hễ quân sĩ thằng nào không hàng, sẽ giết chết hết.
Bởi vậy chúng đều lạy xin hàng. Định dẫn quân lại ra mắt Khổng
Minh và dâng đầu Chu Bao dưới trướng.
Khổng Minh cười, nói:
- Ta cố ý muốn cho ngươi giết hai thằng giặc ấy để tỏ cái bụng
thực ra đó thôi.
Liền cho Cao Định làm thái thú ở Ích Châu và phong Ngạc Hoán
làm nha tướng.
Quân mã ba đường ấy đều dẹp yên đâu đấy rồi, thái thú quận
Vĩnh Xương là Vương Cang ra đón rước Khổng Minh. Khổng Minh vào thành, hỏi rằng:
- Ai giữ thành này với ông mà được vững vàng làm vậy?
Cang nói:
- Tôi giữ thành này được yên ổn, toàn nhờ sức của người ở
Vĩnh Xương là Lã Khải cả.
Khổng Minh cho mời đến. Khải vào ra mắt. Thi lễ xong xuôi, Khổng
Minh nói rằng:
- Lâu nay vẫn nghe tiếng ông là bậc cao sĩ ở Vĩnh Xương; may
nhờ có ông mới giữ được thành này vô sự. Nay tôi muốn dẹp yên phương nam, ông
có cao kiến gì dạy bảo không?
Lã Khải liền dâng một bức địa đồ và nói:
- Tôi tự khi làm quan đến giờ, biết rằng người rợ có bụng làm
phản đã lâu, cho nên mật sai người vào tận tổ, xem xét chỗ nào có thể đóng đồn,
chỗ nào nên giao chiến, vẽ ra một bản, gọi là bức đồ “Bình Man chỉ chưởng”. Nay
dâng lên ngài coi, có thể giúp ngài một phần nhỏ trong việc nam chinh này.
Khổng Minh mừng lắm, dùng ngay Lã Khải làm hàng quân giáo thụ,
kiêm chức hướng đạo.
Rồi Khổng Minh dẫn quân vào sâu cõi nam Man. Khi đang đi, bỗng
có tin báo thiên tử sai sứ đến. Khổng Minh ra tiếp vào, thấy Mã Tốc mặc áo bào
trắng, vì anh Mã Tốc là Mã Lương mới mất.
Tốc nói:
- Tôi phụng mệnh chúa thượng, mang rượu và lụa đến khao thưởng
binh sĩ.
Khổng Minh vâng chỉ dụ, đem cấp phát cả cho ba quân, lưu Mã Tốc
ở lại trong trướng nói chuyện.
Khổng Minh hỏi rằng:
- Tôi phụng chiếu thiên tử, đánh dẹp phương nam, lâu nay vẫn
nghe Ấu Thường cao kiến lắm, xin dạy bảo cho ít nhiều.
Tốc nói:
- Tôi có một lời này, xin thừa tướng xét cho: Nam Man cậy có
đất xa, núi hiểm, không phục đã lâu; tuy hôm nay phá xong, ngày mai tất lại làm
phản. Đại quân của thừa tướng đến đó, tất nhiên dẹp được, nhưng sau khi rút
quân về, phải lên mặt bắc đánh Tào Phi, nếu quân Man biết trong nước bỏ ngỏ,
quyết nhiên lại trở mặt ngay. Phàm phép dùng binh đánh giặc, sao cho người ta
tâm phục mới cao, chớ đánh lấy thành trì là thấp; đem bụng mình mà đánh mới giỏi,
chớ đem quân mà đánh thì xoàng. Xin thừa tướng làm thế nào thu phục được bụng
chúng là hơn.
Khổng Minh than rằng:
- Ấu Thường thực là biết đến ruột gan ta!
Liền sai Mã Tốc làm tham quân và dẫn quân kéo đi.
Nói về vua Man là Mạnh Hoạch nghe tin Khổng Minh dùng mẹo phá
tan bọn Úng Dĩ, bèn hội các nguyên soái ba động lại bàn bạc.
Nguyên soái động thứ nhất là Kim Hoàn Tam Kết, nguyên soái động
thứ nhì là Đổng Trà Na, nguyên soái động thứ ba là A Hội Nam. Ba người vào ra mắt
Mạnh Hoạch.
Hoạch nói:
- Nay Gia Cát Lượng dẫn đại quân xâm phạm bờ cõi nước ta,
chúng ta phải hợp sức lại đối địch mới được. Ba chúng ngươi nên chia làm ba đường
mà tiến, nếu ai đánh thắng thì được làm chúa cả động này.
Rồi đó, Kim Hoàn Tam Kết đi đường giữa, Đổng Trà Na đi mé tả,
A Hội Nam đi mé hữu. Mỗi người dẫn năm vạn quân Man, y lệnh kéo đi.
Khổng Minh đang ngồi trong trại bàn việc, tiễu mã về báo rằng
có nguyên soái ba động, chia làm ba đường lại đánh. Khổng Minh lập tức gọi Triệu
Vân, Nguỵ Diên đến, nhưng không sai khiến gì cả. Lại cho gọi Vương Bình, Mã
Trung đến, dặn rằng:
- Nay quân rợ chia ba đường đến đây, ta định sai Tử Long, Vân
Trường đi, nhưng vì hai người chưa thuộc đường đất, cho nên chưa dám dùng. Vậy
Vương Bình phải ra mé tả, Mã Trung ra mé hữu nghênh địch. Ta sẽ sai Tử Long,
Vân Trường tiếp ứng cho, hôm nay hãy chỉnh đốn quân mã, sớm mai kéo đi.
Hai người vâng lệnh trở ra.
Lại gọi Trương Ngực, Trương Dực đến dặn rằng:
- Hai chúng ngươi cùng dẫn một toán quân ra đường giữa mà
đánh. Hôm nay điểm sẵn quân mã, ngày mai hẹn nhau với Vương Bình, Mã Trung cùng
tiến quân. Ta muốn sai Tử Long, Văn Trường đi nhưng sợ hai người ấy không biết
địa lý.
Trương Ngực, Trương Dực vâng lệnh trở ra.
Triệu Vân, Nguỵ Diên thấy Khổng Minh không dùng đến mình, đều
tỏ vẻ tức bực.
Khổng Minh bảo rằng:
- Ta không phải không muốn dùng các ngươi đâu; vì ngại các
ngươi đã nhiều tuổi, xông pha vào nơi hiểm trở, nhỡ bị quân rợ lừa, thì mất cả
nhuệ khí quân ta.
Triệu Vân nói:
- Phỏng như chúng tôi biết đường đất thì sao?
Khổng Minh nói:
- Hai ngươi hãy nên cẩn thận, chớ có coi thường!
Hai người buồn rầu trở ra.
Triệu Vân mời Nguỵ Diên đến trại mình, bàn rằng:
- Hai chúng ta là tiên phong, mà cho là không biết đường đất,
không dùng, lại dung bọn hậu sinh ấy, chúng ta há chẳng thẹn lắm ru!
Nguỵ Diên nói:
- Hai chúng ta thử lên ngựa ra xem, bắt thổ dân đưa đường để
đánh quân Man, việc lớn chắc thành công.
Vân nghe theo, mới cùng lên ngựa đi ra con đường chính giữa.
Đang đi, thấy phía xa xa bụi bay mù mịt. Hai người lên gò cao đứng trông, quả
nhiên có vài mươi tên kỵ mã Man đang cưỡi ngựa đi đến. Hai người đổ ra, quân
Man khiếp sợ tan chạy cả. Triệu, Nguỵ mỗi người bắt sống được vài tên đem về trại,
cho ăn cơm, uống rượu tử tế, rồi hỏi đường lối đi lại làm sao. Quân Man thưa rằng:
- Mé trước mặt chính là đại trại của Kim Hoàn Tam Kết nguyên
soái, ở vào giữa cửa núi, đường hai bên thông sang động Ngũ Khê, phía sau trại
của Đổng Trà Na và A Hội Nam.
Triệu Vân, Nguỵ Diên nghe xong, kén năm nghìn tinh binh, sai
mấy tên quân Man dẫn đường. Bấy giờ đã canh hai. Hai người lần theo ánh trăng
mà đi. Khi đến đại trại Kim Hoàn Tam Kết thì đã canh tư. Quân Man vừa thức dậy
thổi cơm ăn, sắp sửa đến sáng ra khai chiến. Bất thình, hai mặt quân của Triệu
Vân, Nguỵ Diên tràn vào, quân Man bối rối. Triệu Vân đánh thốc vào trung quân vừa
gặp Kim Hoàn Tam Kết đi ra. Vân đâm một nhát, Kim Hoàn ngã quay xuống ngựa. Vân
chặt lấy đầu, còn quân sĩ chạy tan mất cả.
Nguỵ Diên, Triệu Vân chia quân làm hai ngả: Diên đi lẻn con
đường mé đông, đến trại Đổng Trà Na; Vân đi lẻn con đường mé tây đến trại Hội
Nam. Khi hai người kéo gần đến nơi, thì trời đã tang tảng sáng.
Trước hãy kể chuyện Nguỵ Diên. Diên đến trại rợ, Đổng Trà Na
nghe sau trại có tiếng quân mã ồn ào, liền kéo quân ra cự địch. Bỗng đâu mé trước
lại có tiếng reo. Quân Man rối loạn. Té ra quân của Vương Bình vừa đến. Hai mặt
dồn đánh ập vào, quân Man thua to. Đổng Trà Na cướp đường chạy thoát. Nguỵ Diên
đuổi theo không kịp.
Triệu Vân vào tới trại A Hội Nam thì quân của Mã Trung đã ở
trước cửa trại rồi. Hai bên đánh dồn vào, quân Man thua, A Hội Nam cũng chạy được
thoát.
Hai người thu quân về, ra mắt Khổng Minh. Khổng Minh hỏi rằng:
- Quân Man ba động, chúa hai động thoát được, còn đầu Kim
Hoàn Tam Kết ở đâu?
Triệu Vân liền nộp đầu Kim Hoàn Tam Kết dâng công.
Các tướng bẩm rằng:
- Đổng Trà Na, A Hội Nam, bỏ ngựa trèo qua núi chạy thoát, vì
thế không bắt được.
Khổng Minh cười nói rằng:
- Hai người đó ta đã bắt được cả rồi!
Các tướng không ai tin. Một lát Trương Ngực giải Đổng Trà Na
đến, Trương Dực giải A Hội Nam về, ai nấy đều ngơ ngác, giật mình.
- Ta xem địa đồ của Lã Khải, đã biết chỗ giặc hạ trại, cho
nên ta nói khích cho Tử Long, Văn Trường cố sức vào sâu trong nội địa, trước hết
hai đường tả hữu đánh úp hai trại kia, còn Vương Bình, Mã Trung chỉ là đi tiếp ứng
thôi. Phi Tử Long, Văn Trường, không ai đương nổi việc ấy đâu! Ta lại đồ rằng Đổng
Trà Na, A Hội Nam tất theo con đường tắt khe núi mà chạy nên sai Trương Ngực,
Trương Dực phục quân chờ sẵn một chỗ, lại sai Quan Sách đi tiếp ứng để bắt hai
chúa động ấy về đây.
Các tướng đều bái phục, mà rằng:
- Mẹo mực của thừa tướng, quỷ thần cũng không ai biết đâu mà
lường!
Khổng Minh sai điệu Đổng Trà Na, A Hội Nam đến dưới trướng, cởi
trói, cho cơm ăn, rượu uống, rồi tha về động và dặn rằng từ rày không được giúp
kẻ phản ác nữa.
Hai người rỏ nước mắt khóc, trở ra, theo đường nhỏ về trại.
Khổng Minh bảo với các tướng rằng:
- Ngày mai Mạnh Hoạch tất nhiên dẫn quân lại đánh, ta nên đón
đường bắt lấy.
Bèn gọi Nguỵ Diên, Triệu Vân, dặn dò mẹo mực cho mỗi người dẫn
năm nghìn quân đi. Lại gọi Vương Bình, Quan Sách cùng lĩnh một đội quân, lĩnh mẹo
đi liền.
Khổng Minh phân phát đâu đấy, ngồi trong trướng đợi xem tin tức.
Lại nói, Man vương Mạnh Hoạch đang chễm chệ trên trướng, chợt
nghe tin nguyên soái ba động đều bị bắt, mà quân mã tan vỡ cả. Hoạch nổi giận,
khởi hết quân Man, lần lần kéo đi, giữa đường gặp quân mã của Vương Bình vừa đến.
Hai bên dàn trận, Vương Bình cắp ngang thanh đao, trông sang bên kia, thấy
trong cửa cờ có vài trăm tướng Man đứng dàn hai bên. Mạnh Hoạch ra ngựa, đầu đội
mũ kim quan khảm ngọc, mình mặc áo cẩm bào sắc hồng, lưng buộc đai sư tử, chân
đi giày mỏ ưng, mình cỡi ngựa xích thố, tay cầm đôi kiếm Tùng Vân, nghênh ngang
trông trước trông sau, rồi bảo với Man tướng rằng:
- Người ta cứ đồn Gia Cát Lượng giỏi việc dùng binh, nay xem
trận này, tinh kỳ lộn xộn, đội ngũ xô bồ, gươm giáo khí giới không cái nào ra
tuồng, mới biết rằng toàn lời đồn hão cả. Nếu ta sớm biết thế này thì đã làm phản
từ lâu rồi. Có ai dám ra trước bắt Thục tướng, để cho phấn chấn uy danh quân ta
không?
Mạnh Hoạch nói vừa dứt lời, có một tướng tên là Mang Nha Trường,
cầm đại đao, cưỡi ngựa vàng xông ra đánh Vương Bình. Hai tướng đánh nhau được
vài hiệp, Bình thua chạy. Mạnh Hoạch thúc quân kéo bừa vào, lần lần đuổi theo.
Quan Sách ra đánh vài hiệp lại chạy. Mạnh Hoạch đuổi theo ước độ hai chục dặm,
bỗng đâu tiếng reo vang dậy, rồi Trương Ngực ở mé tả kéo ra, Trương Dực ở mé hữu
đổ đến, chận mất đường về. Vương Bình, Quan Sách quay binh đánh vật lại, trước
sau kẹp vào, quân Man thua chạy. Mạnh Hoạch dẫn bộ tướng, liều chết trốn thoát
ra đường núi Cẩm Đái. Ba mặt quân đuổi theo sau lưng. Mạnh Hoạch đang chạy, trước
mặt lại có tiếng hò reo ầm ĩ, một cánh quân đổ ra chặn lại, tướng đi đầu là Thường
Sơn Triệu Tử Long. Hoạch rụng rời hết vía, vội vàng trốn theo con đường nhỏ. Tử
Long đánh rát một trận, quân Man thua liểng xiểng, bị bắt vô kể. Mạnh Hoạch chỉ
còn vài mươi tên kỵ đi theo, chạy lẫn vào trong hang núi. Quân mặt sau vẫn còn
đuổi theo. Đến một chỗ đường hẹp, ngựa không đi được, Hoạch phải bỏ ngựa, trèo
non, vượt núi mà trốn. Bỗng đâu ở trong hang núi lại thấy nổi trống, té ra Nguỵ
Diên lĩnh kế của Khổng Minh, dẫn năm trăm quân phục ở đó. Hoạch không địch nổi,
bị Nguỵ Diên bắt sống. Quân đi theo xin hàng cả.
Nguỵ Diên giải Mạnh Hoạch về trại ra mắt Khổng Minh. Bấy giờ
Khổng Minh đã sai giết trâu mổ bò, mở tiệc yến ở trong trại, và sai quân đứng
dàn thành bảy vòng, các tay đao phủ cầm gươm giáo sáng loà như tuyết. Lại sai
bày các đồ việt vàng, tán vóc, trước sau đánh đàn thổi sáo. Quân ngự lâm dàn
bày hai bên, rất là nghiêm chỉnh. Khổng Minh ngồi ngất ngưởng trên trướng. Quân
đao phủ giải quân Man vào, hết bọn nọ đến bọn kia, không biết bao nhiêu mà kể.
Khổng Minh gọi vào trong trướng, sai cởi trói cho tất cả, và phủ dụ rằng:
- Chúng mày toàn là những người dân lương thiện, chẳng may bị
Mạnh Hoạch ức hiếp, đến nỗi rước lấy lo sợ. Ta nghĩ cha mẹ, anh em, vợ con
chúng mày, đang tựa cửa ngóng trông, nếu nghe tin bại trận này, chắc là ruột
gan như xé, khóc rỏ ra máu. Ta nay tha chết để cha mẹ, anh em, vợ con chúng mày
được yên lòng.
Nói xong, sai đem rượu thịt, lương gạo chia phát rồi cho về.
Quân Man cảm lòng nhân đức ấy, người nào cũng khóc lóc lạy tạ
mà đi.
Khổng Minh sai võ sĩ điệu Mạnh Hoạch đến, quỳ dưới trướng, Khổng
Minh trách rằng:
- Tiên đế đãi ngươi cũng không bạc gì, cớ sao dám làm phản?
Hoạch nói:
- Đất trong hai Xuyên đều là của người khác, chủ ngươi cậy sức
đoạt lấy, tự xưng làm vua. Ta đây đời đời ở xứ này, các người vô lễ, dám đến
xâm phạm cõi ta, sao lại bảo là ta làm phản?
Khổng Minh nói:
- Nay ta bắt được ngươi rồi, bụng ngươi đã chịu ta chưa?
- Đường hẻm núi cao, lỡ sa vào tay ngươi, ta đâu có chịu!
Khổng Minh nói:
- Ngươi đã chưa chịu, ta hãy tha cho về, có được không?
- Nếu tha cho ta về, ta chỉnh đốn lại quân mã, quyết một trận
sống chết nữa, bấy giờ mà ngươi lại bắt được ta thì ta mới chịu.
Khổng Minh lập tức sai cởi trói cho Mạnh Hoạch, cho áo xống
và cho ăn uống, cấp cho con ngựa và sai người đưa ra đường tắt về trại.
Đó là:
Giặc tóm trong tay còn mở cũi,
Người ngoài cõi rợ chửa an tâm.
Chưa biết đánh nhau trận nữa ra làm sao, xem hồi sau sẽ hiểu.
Hồi 88:
Qua Lư Thủy, Phiên vương hai lượt vào tròng
Biết trá hàng, Mạnh Hoạch ba phen bị bắt
Lại nói Khổng Minh tha xong Mạnh Hoạch, các tướng lên trướng
hỏi rằng:
- Mạnh Hoạch là một kẻ cừ khôi ở Nam Man, nay bắt được hắn,
sao thừa tướng lại tha hắn về?
Khổng Minh cười nói:
- Ta bắt hắn ví như thò tay vào túi lấy đồ vật đó thôi, cốt
sao cho hắn phục cái bụng mình, thì tự khắc yên ổn cả.
Các tướng chưa chịu tin.
Mạnh Hoạch về đến sông Lư Thủy, gặp quân thủ hạ của mình đang
đi dò la tin tức. Quân sĩ thấy chủ tướng trở về, nửa sợ nửa mừng, hỏi rằng:
- Đại vương làm sao lại về được đến đây?
Mạnh Hoạch nói khoác rằng:
- Quân Thục giam tao ở trong trại, đêm khuya, tao giết hơn mười
đứa, lẻn chạy ra ngoài. Đi đường lại gặp một tên kỵ mã, tao giết nốt cướp lấy
ngựa, bởi thế được thoát.
Chúng mừng rỡ lắm, rước Mạnh Hoạch qua sông Lư Thủy cắm trại.
Tù trưởng các động chiêu tụ dần dần những quân Man được tha về, được hơn mười vạn.
Bấy giờ, Đổng Trà Na, A Hội Nam cũng đều ở trong động cả. Mạnh Hoạch cho mời đến.
Hai người sợ hãi nhưng cũng phải dẫn quân tới.
Mạnh Hoạch truyền lệnh rằng:
- Ta đã biết mẹo của Gia Cát Lượng rồi, không nên ra đánh, hễ
đánh tất mắc phải qủy kế. Quân Xuyên từ xa đến đây, nhọc nhằn vất vả. Vả lại hiện
nay trời hè nóng nực, quân chúng ở đây thế nào được lâu? Ta có con sông Lư Thủy
này hiểm trở lắm, nên kéo hết cả thuyền bè về bờ phía nam rồi đắp một dãy thành
đất, giữ gìn cẩn mật xem Gia Cát Lượng làm gì nổi ta?
Các tù trưởng tuân theo kế ấy, đem hết thuyền bè về mé nam, đắp
thành đất, dựng chòi cao, trên chòi dư sẵn cung nỏ, tên đạn cực nhiều, chuẩn bị
đóng lâu dài. Lương thảo có các động cung cấp. Mạnh Hoạch cho là chắc chắn muôn
phần, yên tâm không lo gì nữa.
Đây nói Khổng Minh dẫn đại quân tiến đi, tiền quân đã đến
sông Lư Thủy. Quân tiễu mã về báo rằng:
- Trên sông Lư Thủy không có một chiếc thuyền bè nào, mà nước
thì chảy xiết lắm. Cách bên kia bờ sông, lại có một dãy thành đất, có quân Man
canh giữ.
Bấy giờ, trời đang tháng năm, nắng nực khó chịu, đất phương
nam lại càng nóng lắm, quân sĩ không tài gì mặc được áo giáp. Khổng Minh thân đến
tận bờ sông, ngắm xem một hồi, rồi về trại, hội các tướng lại, truyền lệnh rằng:
- Mạnh Hoạch đóng đồn vững chãi mé nam sông Lư Thủy để chống
quân ta, ta trót đến đây, chẳng lẽ về không. Các ngươi hãy dẫn quân vào các nơi
cạnh núi gần rừng, có nhiều cây cối mà cắm trại, cho quân mã nghỉ ngơi cái đã.
Bèn sai Lã Khải tìm đám cây cối mát mẻ, lập bốn ngọn trại
cách sông Lư Thủy trăm dặm, cho Vương Bình, Trương Ngực, Trương Dực, Quan Sách
mỗi người giữ một trại. Bên ngoài dựng những lều cỏ cho ngựa ở. Tướng sĩ cùng
nghỉ ngơi, tránh nóng bức.
Tưởng Uyển xem địa thế chỗ cắm trại, vào bẩm với Khổng Minh rằng:
- Tôi xem các trại của Lã Khải lập ra, rất là không tốt,
chính phạm vào địa thế tiên đế thua với Đông Ngô khi xưa. Phỏng thử quân Man đi
ngầm sang sông Lư Thủy, đánh phép hỏa công, thì cứu làm sao?
Khổng Minh cười, nói:
- Ông chớ đa nghi, ta đã có phép.
Bọn Tưởng Uyển không biết ý làm sao.
Chợt có Mã Đại từ trong Thục tải thuốc giải nhiệt và lương gạo
đến. Khổng Minh đòi vào. Đại lạy xong, Khổng Minh sai đem gạo và thuốc cấp phát
cho bốn trại. Khổng Minh hỏi Mã Đại rằng:
- Ngươi đem quân đến đây nhiều hay ít?
Mã Đại nói:
- Có ba nghìn quân mã.
Khổng Minh nói:
- Quân ta ở đây đánh nhau mãi, mệt nhọc lắm, muốn dùng quân của
ngươi, ngươi có gắng sức không?
Đại nói:
- Cùng là quân mã của triều đình cả, thừa tướng muốn dùng thì
dùng, dẫu chết tôi cũng không dám từ!
Khổng Minh nói:
- Nay Mạnh Hoạch chặn mất sông Lư Thủy, không có lối nào sang
được, ta muốn trước hết hãy triệt đường tải lương của chúng, để chúng không bị
đánh mà cũng phải tan vỡ.
Đại nói:
- Làm thế nào mà chặn được?
Khổng Minh nói:
- Cách đây một trăm năm mươi dặm, phía hạ lưu Sa Khẩu cửa
sông Lư Thủy, nước chảy từ từ, có thể đóng bè sang được. Ngươi mang ba nghìn
quân mã, sang sông, vào thẳng động Man, trước hãy chặn đường tải lương, rồi sẽ
hội với Đổng Trà Na, A Hội Nam, để cho họ làm nội ứng. Việc ấy phải cẩn thận,
chớ để sơ suất.
Mã Đại hớn hở dẫn quân đến trước cửa sông thấy nước nông lắm,
phần lớn không kịp đóng bè cứ cho quân sĩ cởi trần, lội ào sang, lội đến nửa chừng,
quân sĩ đều ngã gục cả xuống sông, Mã Đại vội vàng sai cứu lên bờ, thì người
nào cũng hộc máu mồm, máu mũi mà chết. Mã Đại giật mình, luôn đêm chạy về kêu với
Khổng Minh. Khổng Minh lập tức cho gọi thổ dân ra hỏi. Thổ dân nói rằng:
- Hiện nay trời nắng chang chang, khí độc tụ cả trên bề mặt
sông, mà ban ngày lại càng nhiều hơn, người nào lội xuống nước hoặc uống phải,
tất trúng độc mà chết. Nếu muốn lội, phải chờ lúc đêm thanh, khí độc không bốc
lên, mà phải ăn no rồi hãy lội, mới không việc gì.
Khổng Minh sai ngay thổ dân đưa đường và kén thêm năm sáu
trăm tinh binh cho theo Mã Đại, lại đến chỗ cửa bến đóng bè, đợi đến nửa đêm mới
sang sông, quả nhiên vô sự.
Mã Đại dẫn ba nghìn quân, sai thổ dân đưa đường đến thẳng chỗ
yết hầu đường vận lương của quân Man. Hai bên vách núi. Giữa có một con đường
đi vừa lọt một người, một ngựa. Mã Đại chiếm được chỗ hiểm ấy, sai quân sĩ lập
trại.
Quân Man không biết, vừa giải lương đến nơi, bị Mã Đại đổ ra
chận đánh, cướp được hơn một trăm xe.
Quân Man chạy về báo tin với Mạnh Hoạch. Bấy giờ Mạnh Hoạch
chỉ cả ngày uống rượu, không nhìn ngó gì đến việc quân. Hoạch bảo với các tướng
rằng:
- Ta mà đánh nhau với Gia Cát Lượng, thế nào cũng mắc phải mẹo
của hắn. Nay ta giữ men sông Lư Thủy này, thành cao hào sâu, phòng bị cho chắc,
quân Thục không chịu được nóng nực, tất phải rút về. Bấy giờ ta sẽ cùng với các
ngươi đuổi theo mà đánh, chắc bắt được Gia Cát Lượng.
Nói đoạn ha hả cười ầm lên.
Có một tù trưởng nói rằng:
- Ở chỗ cửa bến, nước nông lắm, quân Thục nếu sang lén được
chỗ ấy, thì ta nguy mất, phải chia quân ra giữ mới được.
Hoạch cười, nói:
- Ngươi là người xứ này, làm sao lại không biết. Ta cốt muốn
cho quân Thục sang chỗ ấy, nếu sang tất chết cả ở dưới nước thôi.
Tù trưởng nói:
- Nếu có thổ dân bảo họ cách sang sông ban đêm, thì làm thế
nào?
Hoạch nói:
- Ngươi chớ đa nghi, người xứ ta ai lại xui khôn cho giặc mà
sợ!
Đang nói chuyện chợt có tin báo rằng:
- Quân Thục không biết nhiều hay ít, đã sang ngầm sông Lư Thủy
lúc nào, chặn mất đường tải lương ở giáp núi của ta, trên cờ hiệu đề mấy chữ
“Bình bắc tướng quân Mã Đại”.
Hoạch cười, nói:
- Đồ trẻ con ấy có làm trò gì!
Lập tức sai phó tướng Mang Nha Trường dẫn ba nghìn quân đến
chỗ núi đánh nhau với Mã Đại. Đại thấy quân Man đến, mới dàn hai nghìn quân ra
trước núi. Mang Nha Trường đến nơi, xốc ngựa vào đánh Mã Đại, bị Đại chém chết,
quân Man bại trận, chạy về báo với Mạnh Hoạch. Hoạch gọi các tướng lại hỏi rằng:
- Có ai dám ra địch nhau với Mã Đại không?
Đổng Trà Na xin đi. Hoạch mừng lắm, cho dẫn ba nghìn quân đi.
Hoạch lại sợ có người sang cửa bến lần nữa, mới sai A Hội Nam dẫn ba nghìn quân
ra giữ chỗ ấy.
Đổng Trà Na dẫn ba nghìn quân đến cửa núi, Mã Đại đem quân ra
địch. Quân sĩ có người biết là Đổng Trà Na liền nói với Mã Đại.
Đại tế ngựa ra trước cửa trận, quát mắng rằng:
- Quân vô ơn bội nghĩa kia! Thừa tướng ta tha tính mạng cho
mày, nay mày lại dám làm phản, không biết xấu hổ à?
Đổng Trà Na thẹn đỏ mặt, không nói được câu gì, chưa đánh đã
quay về. Mã Đại đánh ập lại một trận, rồi đâu về đấy.
Đổng Trà Na về ra mắt Mạnh Hoạch, nói thác rằng Mã Đại anh
hùng, không sao địch nổi.
Hoạch nổi giận, nói:
- Ta đã biết mày, vốn hàm ơn Gia Cát Lượng, cho nên không
đánh mà trở về. Chính mày đã bán rẻ trận này cho Gia Cát Lượng đấy!
Lập tức sai lôi ra chém. Các tù trưởng xúm vào kêu van. Hoạch
mới tha, nhưng bắt đánh một trăm trượng, đuổi về bản trại.
Các tù trưởng đều đến nói với Đổng Trà Na rằng:
- Chúng ta ở Man phương này, chưa từng xâm phạm đến Trung
Nguyên, mà Trung Nguyên cũng chưa phạm đến ta. Nay vì bị Mạnh Hoạch bức bách,
chúng ta bất đắc dĩ phải làm phản. Thiết nghĩ Khổng Minh mẹo mực thần kỳ, Tào
Tháo, Tôn Quyền còn phải sợ, huống chi chúng ta. Vả lại chúng ta còn chịu ơn
tha chết chưa có dịp báo đền. Chi bằng ta liều bỏ một thân, giết quách Mạnh Hoạch
đi, hàng với Khổng Minh để cứu trăm họ trong động này thoát cảnh lầm than.
Đổng Trà Na nói:
- Không biết các ngươi có một lòng thế không?
Trong đám tù trưởng, toàn là bọn Khổng Minh tha cho về cả, đều
đồng thanh thưa rằng:
- Xin đi!
Bởi thế Đổng Trà Na tay cầm đại đao, dẫn hơn trăm người, vào
thẳng đại trại. Bấy giờ, Mạnh Hoạch đang say rượu ngủ khì. Dưới trướng, có hai
viên tướng đứng hầu. Đổng Trà Na trỏ đao bảo rằng:
- Các anh cùng chịu ơn Gia Cát thừa tướng cả, phải nghĩ chi
mà báo đáp chứ!
Hai tướng kia nói:
- Tướng quân không phải ra tay, để chúng tôi bắt sống Mạnh Hoạch
đem nộp thừa tướng.
Nói rồi, nhất tề ùa vào trướng, bắt Mạnh Hoạch trói nghiến lại,
điệu ra bờ sông, chở thuyền qua bờ bắc, cho người vào báo với Khổng Minh trước.
Khổng Minh đã cho quân đi do thám được việc ấy, mới mật truyền hiệu lệnh cho
các tướng bày biện đồ khí giới chỉnh tề rồi sai người trùm tù trưởng giải Mạnh
Hoạch vào, còn bọn người khác cho về trại cả. Đổng Trà Na tới trung quân ra mắt
Khổng Minh trước, thuật hết mọi chuyện. Khổng Minh thưởng rất hậu, lấy lời ngọt
ngào an ủi, rồi cho đem các tù trưởng về.
Khổng Minh sai đao phủ dẫn Mạnh Hoạch vào, cười bảo rằng:
- Trước ngươi đã hứa hễ bắt được ngươi lần thứ hai thì ngươi
mới chịu, nay ngươi nghĩ sao?
Hoạch nói:
- Đó là thủ hạ ta muốn hại lẫn nhau, mới đến nông nỗi này, chớ
không phải là tài của ngươi, sao ta có chịu!
Khổng Minh nói:
- Bây giờ ta lại tha cho ngươi về, ngươi tính sao?
Mạnh Hoạch nói:
- Ta tuy là người Man, cũng hơi biết binh pháp. Nếu thừa tướng
lại tha cho về động, ta sẽ dẫn quân ra quyết một trận được thua nữa, đến khi ấy,
thừa tướng lại bắt được, ta sẽ xin dốc lòng cởi ruột mà hàng, không dám kêu ca
nửa lời.
Khổng Minh nói:
- Lần sau ta mà lại bắt được ngươi, nếu còn không chịu, ta
quyết không tha nữa đâu.
Bèn sai tả hữu cởi trói cho Mạnh Hoạch, rồi cho ngồi ngay
trong trướng uống rượu.
Khổng Minh nói:
- Ta từ khi ra khỏi lều tranh đến giờ, đánh đâu cũng được,
phá đâu cũng tan, Man bang các ngươi, sao lại không chịu?
Mạnh Hoạch nín lặng, không nói gì. Uống rượu xong, Khổng Minh
bảo Mạnh Hoạch lên ngựa, đi với mình ra xem các nơi đồn ải và chỗ chứa lương thảo,
khí giới.
Khổng Minh trỏ bảo rằng:
- Ngươi không chịu ta, thực là ngu lắm! Ta có tinh binh mãnh
tướng, lại nhiều khí giới lương thảo thế này, sức ngươi đương sao nổi? Nếu
ngươi hàng ngay đi, ta sẽ tâu với thiên tử cho làm vua xứ này, mà con con cháu
cháu nhà ngươi, đời đời sẽ trấn thủ mãi đây, ý ngươi nghĩ sao?
Hoạch thưa:
- Dẫu ta có hàng, nhưng người trong động chưa thực bụng chịu
hàng. Thừa tướng bằng tha cho về, ta xin chiêu an quân mã trong bản bộ, để làm
cho đồng lòng hợp bụng, bấy giờ mới có thể quy thuận được.
Khổng Minh mừng rỡ, cùng với Mạnh Hoạch trở về trại, lại uống
rượu, đến tối mới tan tiệc. Hoạch từ tạ trở ra. Khổng Minh thân tiễn đến bờ
sông Lư Thủy, cho thuyền đưa Mạnh Hoạch về.
Mạnh Hoạch về đến trại, trước hết phục quân đao phủ ở dưới
trướng, sai người tâm phúc đến trại Đổng Trà Na, A Hội Nam nói dối rằng Khổng
Minh sai sứ đến, lừa cho hai người lại, rồi đem giết đi, quẳng thây xuống suối.
Đoạn sai người thân tín giữ chắc cửa ải, tự mình dẫn quân ra chỗ giáp núi, định
đánh nhau với Mã Đại. Nhưng đến nơi, không thấy bóng một người nào. Gọi thổ dân
ra hỏi, họ nói đêm qua quân Thục đã chuyển vận lương thảo qua sông Lư Thủy về
trại bên kia rồi. Hoạch trở về động, bàn với em là Mạnh Ưu rằng:
- Đồn trại của Khổng Minh hư thực thế nào, ta biết cả rồi, em
nên sang bên ấy, cứ thế này, thế này… Mà làm cho anh.
Mạnh Ưu tuân lệnh, dẫn hơn một trăm quân, khiêng vác vàng bạc,
châu báu cùng các thứ ngà voi, sừng tê, qua sông Lư, định đến thẳng trại Khổng
Minh. Vừa qua sông, bỗng nghe mé trước nổi sóng, rồi có một toán quân dàn ra, đại
tướng đi đầu là Mã Đại. Ưu sợ quá, Đại hỏi đến có việc gì, rồi ngăn lại, cho
người vào báo với Khổng Minh. Bấy giờ Khổng Minh đang ngồi trong trướng, bàn việc
bình Man với Mã Tốc, Lã Khải, Tưởng Uyển, Phí Vĩ. Chợt có người vào báo: Mạnh Hoạch
sai em là Mạnh Ưu lại dâng đồ vật qúy. Khổng Minh ngoảnh lại bảo với Mã Tốc rằng:
- Ngươi có biết ý nó lại đây ra làm sao không?
Tốc bẩm:
- Tôi không dám nói lộ ra, xin viết vào một mảnh giấy trình
thừa tướng, xem có hợp ý ngài chăng?
Khổng Minh ưng lời. Mã Tốc viết xong dâng lên. Khổng Minh xem
qua, vỗ tay cười ầm lên, nói:
- Mẹo của ta bắt Mạnh Hoạch đã định sẵn đâu vào đấy cả rồi,
ngươi nói chính hợp ý ta lắm!
Liền gọi Triệu Vân vào trướng, ghé tai dặn nhỏ mấy câu. Lại gọi
Ngụy Diên, Vương Bình, Mã Trung, Quan Sách mỗi người dặn mẹo mực vài câu. Ai nấy
cùng vâng lệnh đi ra, Khổng Minh mới cho đòi Mạnh Ưu vào trướng. Ưu lạy, rồi
nói rằng:
- Anh tôi cảm cái ơn của thừa tướng tha chết cho, không biết
lấy gì báo được. Nay gọi là có chút của qúy, xin đem đến tạm làm đồ khao quân,
sau này sẽ xin có lễ vật khác để tiến cống thiên tử.
Khổng Minh nói:
- Anh ngươi bây giờ ở đâu?
Mạnh Ưu nói:
- Bẩm anh tôi đội ơn to của thừa tướng, hiện còn phải ra núi
Ngân Hàng nhặt nhạnh ít nhiều qúy vật, lát nữa thế nào cũng lại đây.
Khổng Minh nói:
Ưu nói:
- Bẩm không dám đem nhiều, chỉ có hơn một trăm người đi theo,
toàn là phu tải đồ cả.
Khổng Minh cho gọi vào trong trướng, quả nhiên toàn là những
người mắt xanh, mặt đen, tóc vàng, râu đỏ, tai đeo vòng vàng, đầu tóc bù xù,
chân không giày dép gì cả; người nào cũng to lớn lực lưỡng.
Khổng Minh cho ngồi xếp hàng trên chiếu, sai các tướng khẩn
khoản mời rượu.
Mạnh Hoạch ở nhà, chực đợi tin tức. Một lát, có hai người về,
Hoạch gọi vào hỏi. Hai người nói:
- Khổng Minh nhận cả lễ vật rồi, lại gọi cả vào trong trướng,
giết trâu bò, làm tiệc thết đãi. Đệ nhị đại vương sai chúng tôi về báo với đại
vương, canh hai đêm hôm nay, trong ứng ngoài hợp, chắc xong việc.
Mạnh Hoạch mừng lắm, lập tức điểm ba vạn quân, chia làm ba đội,
gọi các tù trưởng đến dặn rằng:
- Quân sĩ phải đem đồ phóng hỏa, đêm hôm nay đến trại Thục, đốt
lửa làm hiệu; ta thân đến đánh vào trung quân để bắt Gia Cát Lượng!
Các tù trưởng vâng lệnh. Chiều vàng vàng mặt trời, quân Man lẻn
qua sông Lư Thủy, Mạnh Hoạch dẫn các tướng tâm phúc, hơn một trăm người, đến thẳng
trại Khổng Minh. Dọc đường không thấy một người nào ngăn trở. Hoạch tế ngựa xốc
thẳng vào, té ra là một trại bỏ không. Hoạch sấn vào trong trung quân thấy đèn
đuốc sáng choang, mà Mạnh Ưu và bọn quân Man đều say lử, nằm ngổn ngang cả đấy.
Nguyên là Khổng Minh sai Mã Tốc, Lã Khải trông coi thết đãi bọn ấy, có phường
chèo múa hát, ân cần mời rượu, trong rượu bỏ thuốc mê sẵn, cho nên người nào
cũng mê mệt như người chết. Mạnh Hoạch gọi hỏi ra làm sao, trong bọn ấy có người
tỉnh, chỉ lấy tay chỉ vào mồm chứ không nói được. Hoạch biết bị mắc mưu, vội
vàng cứu được một số đứng dậy toan chạy về; bỗng đâu tiếng reo nổi lên ầm ầm, lửa
bốc đỏ rực, quân Thục đổ lại, đi đầu là đại tướng Vương Bình. Hoạch giật mình,
vội chạy sang đội tả, lại thấy lửa sáng rực trời, toán quân của Ngụy Diên ập tới.
Hoạch quay đầu chạy về đội hữu, lại gặp phải Triệu Vân. Ba mặt đánh dồn cả vào.
Hoạch phải bỏ cả quân sĩ, độc một mình trốn thoát ra được bờ sông; trông ra thấy
có vài mươi quân Man, đang bơi một chiếc thuyền nhỏ trên sông. Hoạch gọi vào gần
bờ, rồi đem cả ngựa xuống thuyền. Vừa bước xuống đến nơi, bỗng đâu tiếng hiệu nổi
lên, quân trong thuyền trói nghiến ngay Mạnh Hoạch lại. Nguyên đấy là Mã Đại
lĩnh mẹo của Khổng Minh, giả làm quân Man, bơi thuyền ngoài sông để lừa bắt Mạnh
Hoạch.
Khổng Minh chiêu an, quân Man về hàng nhiều lắm, Khổng Minh đều
lấy lời khuyên dụ, không giết một ai.
Một lát, Mã Đại giải Mạnh Hoạch vào. Triệu Vân điệu Mạnh Ưu đến.
Ngụy Diên, Mã Trung, Vương Bình, Quan Sách dẫn các tù trưởng lại.
Khổng Minh trỏ vào Mạnh Hoạch, cười nói:
- Ngươi sai em đem lễ lại trá hàng, che mắt ta thế nào được,
phen này đã chịu chưa?
Hoạch thưa:
- Đó chỉ vì em ta tham ăn, tham uống, trúng phải thuốc độc, bởi
thế lỡ việc. Nếu ta đến mà để cho em ta đi tiếp ứng bên ngoài thì chắc xong việc.
Đó là trời không tựa ta, chớ không phải ta có dại dột gì. Đành chết thì chết,
chớ ta vẫn chưa chịu!
Khổng Minh nói:
- Ngươi đã phải bắt ba lần rồi, sao vẫn chưa phục?
Hoạch cúi đầu không nói gì.
Khổng Minh lại cười, nói:
- Ta lại tha cho ngươi về lần nữa thì sao?
Mạnh Hoạch nói:
- Nếu thừa tướng tha cho anh em ta về lần này, xin thu xếp thủ
hạ, đánh nhau một trận to nữa. Bấy giờ mà lại bắt được ta, ta sẽ dốc lòng theo
hàng.
Khổng Minh nói:
- Nếu ta bắt được lần nữa, quyết không tha nữa đâu! Ngươi phải
suy nghĩ cho chín, xem lại sách thao lược, dùng người thân tín, nghĩ lấy mẹo
hay, chớ để hối hận về sau.
Liền sai võ sĩ cởi trói, tha cho Mạnh Hoạch, Mạnh Ưu và bọn
tù trưởng về. Bấy giờ quân Thục đã sang qua cả sông Lưu Thủy rồi. Bọn Mạnh Hoạch
trở về, vừa sang khỏi sông, đã thấy quân Thục đóng đặc cả trên bờ, tinh kỳ phấp
phới. Hoạch đến trước cửa trại, Mã Đại ngồi ngất nghểu trên địch lâu, trỏ gươm
ra quát rằng:
- Phen này bắt được nữa, quyết không tha đâu!
Hoạch về đến trại cũ thì trại đã bị Triệu Vân cướp mất từ lâu
rồi. Vân ngồi dưới lá cờ đại, chống gươm bảo rằng:
- Thừa tướng xử tử tế như thế, chớ có quên ơn nhé!
Hoạch dạ dạ luôn mấy tiếng rồi đi. Vừa ra đến một trái núi ở
đầu cõi, lại thấy Ngụy Diên dẫn một nghìn tinh binh, đóng trên gò, kìm ngựa
thét to lên rằng:
- Ta nay vào đến tổ nhà ngươi, cướp hết các nơi hiểm trở rồi,
sao còn u mê mà kháng cự mãi? Phen này tóm được ngươi lần nữa thì xả thây làm
muôn mảnh, quyết không tha đâu!
Mạnh Hoạch ôm đầu lủi thủi, đi miết một mạch về động.
Người sau có thơ khen Khổng Minh rằng:
Trời hạ cầm quân tới cõi Man,
Sương mù nghi ngút buổi chưa tan,
Nghĩ ơn tam cố mong đền báo,
Dám quản công trình mấy khổ gian?
Khổng Minh cất quân sang qua sông Lư, hạ trại đâu đấy, khao
thưởng ba quân, rồi hội các tướng lại dưới trướng bảo rằng:
- Mạnh Hoạch bị bắt lần thứ hai, ta cho xem tình hình cả dinh
trại, là cốt để cho hắn cướp trại của ta. Ta biết hắn cũng võ vẽ binh pháp, nên
mới khoe khoang lương thảo khí giới để hắn thấy rõ ràng, tất nhiên dùng mẹo hỏa
công. Cho nên hắn mới sai em đến trá hàng, định làm nội ứng đó thôi. Ta ba phen
bắt được mà không nỡ giết, đó là muốn hắn tâm phục, chớ không muốn giết cả giống
loài hắn làm gì. Ta bảo rõ cho các ngươi biết, các ngươi nên hết lòng giúp nước,
chớ có quản công khó nhọc.
Các tướng đều bái phục, nói:
- Thừa tướng đủ cả trí, nhân, dũng; dẫu Tử Nha, Tử Phòng ngày
xưa cũng không bằng.
Khổng Minh nói:
- Ta đâu dám mong bằng cổ nhân, cũng đều nhờ sức các ngươi,
cùng nhau làm nên công nghiệp đó thôi!
Các tướng nghe lời Khổng Minh, ai nấy cùng vui mừng, hả dạ.
Đây nói Mạnh Hoạch bị bắt ba lần nhục nhã, căm tức trở về động
Ngân Hàng, sai người tâm phúc mang đồ kim ngân, châu báu vào tám vùng Phiên,
chín mươi ba điện, cùng các bộ lạc Man phương khác, mượn đủ mười vạn quân hung
tợn, dùng toàn mộc và mã tấu, kéo đến như kiến nghe Mạnh Hoạch điều dụng. Quân
do thám về báo, Khổng Minh cười, nói:
- Ta cốt muốn cho quân Man đến đông đủ, để chúng biết tay ta
một thể.
Nói đoạn, trèo lên một chiếc xe nhỏ, sai lính kéo đi xem địa
thế.
Ấy là:
Không có chúa Man nhiều thế mạnh,
Biết đâu thừa tướng bậc cao tay?
Chưa biết được thua ra sao, xem hồi sau sẽ hiểu.
Hồi 89:
Võ hương hầu bốn phen dùng mẹo
Nam Man vương năm lượt vào tròng
Lại nói Khổng Minh ngồi chiếc xe nhỏ, dẫn vài trăm kỵ binh đi
lên phía trước xem địa thế. Ở đây có một con sông gọi là Tây Nhĩ Hà, nước chảy
tuy không xiết mấy nỗi, nhưng chẳng thấy một chiếc thuyền bè nào đi lại. Khổng
Minh sai dẫn gỗ đóng bè thả xuống sông, nhưng vừa thả xuống, bè đã chìm. Khổng
Minh mới hỏi Lã Khải. Khải nói:
- Tôi nghe trên thượng lưu sông này, có một trái núi, tre mọc
như rừng, có lắm cây to, nên sai người dẫn xuống bắc cầu cho quân mã qua sông.
Khổng Minh lập tức sai ba vạn quân vào núi chặt vài vạn cây
tre, thuận dòng thả xuống, tới chỗ khúc sông nhỏ hẹp, bắc một dịp cầu rộng hơn
mười trượng. Rồi điều đại quân suốt dọc bờ sông, hạ một dãy trại, lấy ngay sông
làm hào, cầu làm cửa trại, đất lũy làm thành trì, cho quân sang mé bên kia
sông, hạ ba cái trại to nữa để đợi quân Man.
Nói về Mạnh Hoạch dẫn vài chục vạn quân, hằm hằm kéo đi; gần
đến bờ sông, Hoạch đem một vạn quân đao mộc tới thẳng cửa trại khiêu chiến. Khổng
Minh đầu đội khăn lượt, mình mặc áo cánh hạc, tay cầm quạt lông, ngồi trên xe bốn
ngựa kéo. Các tướng xúm quanh tả hữu đi ra. Khổng Minh trông sang bên kia, thấy
Mạnh Hoạch mình mặc áo giáp da tê, đầu đội mũ chỏm sơn đỏ, tay tả cầm mộc, tay
hữu cầm đao, cưỡi trâu đỏ, miệng đang chửi mắng lảm nhảm. Quân thủ hạ múa may
đao mộc, hung hăng xông xáo.
Khổng Minh kịp rút quân về trại, bốn mặt cửa đóng chắc chắn,
không cho ra đánh. Quân Man cởi trần truồng đến thẳng cửa trại chửi mắng.
Các tướng giận lắm, vào bẩm với Khổng Minh, xin ra quyết một
trận tử chiến. Khổng Minh không nghe. Các tướng cố nằn nì mãi, Khổng Minh bảo rằng:
- Quân rợ không tuân vương hóa, chuyến này lại đây, thế đang
hung tợn, chưa nên đánh vội, hãy giữ vững vài ba hôm, thế hung tợn giảm đi, ta
khắc có mẹo phá được.
Vài hôm sau, Khổng Minh trèo lên gò cao xem, nhìn thấy quân
Man đã ra dáng trễ nải mới hội các tướng lại hỏi rằng:
- Các ngươi có dám ra đánh không?
Các tướng hớn hở xin đi. Khổng Minh trước hết gọi Triệu Vân,
Ngụy Diên vào trướng, ghé tai dặn dò mẹo mực. Hai người lĩnh kế đi trước. Lại gọi
đến Vương Bình, Mã Trung lĩnh kế ra đi. Rồi gọi Mã Đại dặn rằng:
- Sau khi quân ta lui rồi, trong trại phải đốt đèn lửa cho
nhiều. Mạnh Hoạch biết tin, tất đem quân đuổi theo, ngươi nên lẻn ra mặt sau mà
chặn đường.
Trương Dực nhận kế lui ra.
Khổng Minh sai Quan Sách hộ xe, rút hết quân mã, nhưng trong
trại đèn đuốc vẫn đốt sáng choang. Quân Man thấy vậy không dám xông xáo.
Sáng hôm sau, Mạnh Hoạch dẫn quân đến, thấy ba trại không có
quân mã gì cả, bỏ lại hơn một trăm xe lương thực khí giới.
Mạnh Ưu nói:
- Gia Cát Lượng bỏ trại mà chạy, hoặc là có mẹo gì chăng?
Mạnh Hoạch nói:
- Gia Cát Lượng bỏ cả xe lương mà chạy thế này, chắc trong nước
có việc gì khẩn cấp, phi Ngô xâm, tất Ngụy cướp, cho nên phải đốt đèn đó để làm
nghi binh mà đi cho thoát đây! Ta phải đuổi gấp, không nên để lỡ mất cơ hội.
Bởi thế, Mạnh Hoạch cầm quân đi trước, đến sát bờ sông Tây
Nhĩ Hà, trông sang bên kia thấy tinh kỳ vẫn chỉnh tề như trước, đỏ ối một góc
trời. Quân Man không dám tiến sang nữa.
Hoạch bảo Ưu rằng:
- Đây hẳn là Gia Cát Lượng sợ quân ta đuổi theo, cho nên còn
tạm đóng quân lại đây, chỉ vài ngày nữa tất phải rút hết.
Bèn đóng quân ở bờ sông, sai vào núi chặt tre đóng bè, sửa soạn
sang sông, rồi bắt những tên can đảm dời đến ở trước trại. Nhưng quân Man không
biết quân Thục đã vào tận tổ mình từ lâu rồi. Bữa ấy gió nổi to, bốn phía lửa
cháy nghi ngút, trống khua inh ỏi, quân Thục kéo đến. Quân Man xô đẩy lẫn nhau.
Mạnh Hoạch vội vàng dẫn họ hàng đánh mở đường trở về trại cũ. Bỗng đâu một toán
quân ở trong xông ra, đó là Triệu Vân. Hoạch vội vàng lẻn chạy vào phía khe
núi, lại gặp một toán quân đánh ra, đó là Mã Đại. Hoạch chỉ còn vài mươi tên
quân đi theo, chạy chúi vào trong hang núi. Hoạch trông ra ba mặt tây, nam, bắc,
chỗ nào cũng bụi bay lửa cháy, vì thế không dám tiến nữa, phải quay chạy về
phía đông. Hoạch vừa qua khỏi cửa núi, trông ra mé rừng trước mặt, thấy vài
mươi người đang đẩy một cỗ xe, Khổng Minh ngồi chễm chệ ở trên, cười khanh
khách, mà rằng:
- Man vương Mạnh Hoạch, trời làm thua đến thế này, ta đợi ở
đây đã lâu rồi!
Hoạch nổi giận, ngoảnh lại bảo tả hữu rằng:
- Ta mắc phải qủy kế người này, chịu nhục đã ba phen rồi; nay
lại gặp nhau ở đây, chúng mày phải cố sức sấn vào, băm nhỏ xe lẫn người như cám
cho tao!
Quân Man tràn sang, Mạnh Hoạch hò hét đi đầu. Khi gần đến
nơi, bỗng nhiên đánh ầm một tiếng, quân Man lăn nhào cả xuống hố. Ngụy Diên dẫn
vài trăm quân ra, trói ráo lại không chừa một người nào.
Khổng Minh về trại trước, chiêu an quân Man và tù trưởng các
động, cho ăn cơm uống rượu, đem lời ngọt ngào dỗ dành, tha cho đâu về đấy. Ai nấy
đều cảm tạ bụng Khổng Minh.
Một lát Trương Dực giải Mạnh Ưu vào, Khổng Minh trách rằng:
- Anh ngươi ngu dại, ngươi nên cản ngăn mới phải, nay bị ta bắt
bốn phen rồi, còn mặt mũi nào trông thấy người ta nữa không?
Mạnh Ưu hổ thẹn quá, lạy phục xuống đất xin tha tội.
Khổng Minh nói:
- Ta chưa giết vội, hãy tha cái mạng ngươi, để về mà anh em
khuyên bảo nhau.
Rồi sai cởi trói thả Mạnh Ưu về. Ưu khóc lạy ra đi.
Một lát, Ngụy Diên giải Mạnh Hoạch đến. Khổng Minh hằm hằm
quát rằng:
- Lần này lại bị ta bắt, ngươi còn nói gì nữa?
Hoạch nói:
- Ta lỡ mắc phải mẹo lừa, dẫu chết cũng không nhắm được mắt!
Khổng Minh quát võ sĩ lôi ra chém. Hoạch không chút sợ hãi,
ngoảnh lại bảo Khổng Minh rằng:
- Nếu lại tha cho ta về, ta phải quyết trả thù được bốn phen
phải bắt này.
Khổng Minh cười rộ, sai cởi trói cho Hoạch, cho uống rượu tử
tế rồi để nghỉ ngơi trong trướng. Khổng Minh hỏi rằng:
- Ta bốn lần đãi ngươi tử tế, cớ sao ngươi vẫn không chịu phục?
Hoạch nói:
- Ta tuy là người rợ mọi, nhưng không chuyên dùng qủy kế như
thừa tướng, cho nên ta chưa phục.
Khổng Minh nói:
- Ta lại tha cho ngươi về, còn dám đánh nhau nữa thôi?
Hoạch nói:
- Chuyến này thừa tướng cho ta về, nếu lại bắt được ta nữa,
ta xin dốc lòng hàng phục, dâng hết cả của cải trong động, thề không dám làm phản
nữa.
Khổng Minh liền cười, tha cho. Hoạch vui vẻ lạy tạ, về tụ tập
được vài ngàn quân các động, kéo xuống phía nam. Đang đi bỗng gặp một toán quân
mã kéo đến, té ra Mạnh Ưu. Ưu định thu nhặt tàn quân đến đánh báo thù cho anh.
Hai anh em ôm lấy nhau mà khóc, kể lể việc trước.
Ưu nói:
- Quân ta thua luôn, quân Thục được mãi thế này, khó lòng chống
lại được.Ta chỉ nên ẩn lánh vào nơi động sâu không ra nữa. Quân Thục không chịu
được nóng nực, tất nhiên phải rút về.
Hoạch nói:
- Có chỗ nào ẩn lánh được không?
Ưu nói:
- Từ đây đi về mé tây nam, có một động gọi là động Thứu Long.
Chúa động tên là Đóa Tư đại vương, chơi thân với anh lắm, nên sang đấy mà ẩn.
Hoạch sai Mạnh Ưu đến nói chuyện trước với Đóa Tư đại vương.
Đóa Tư vội dẫn quân ra đón Mạnh Hoạch vào động. Chào hỏi nhau xong, Hoạch thuật
lại chuyện trước.
Đóa Tư nói:
- Đại vương khoan tâm chớ ngại; nếu quân Xuyên đến đây, một mống
cũng không sống được mà về đến làng, ngay cả Gia Cát Lượng cũng sẽ phải chết ở
xứ này mà thôi!
Hoạch mừng lắm, hỏi Đóa Tư xem có mẹo gì hay thế.
Đóa Tư nói:
- Ở động này chỉ có hai con đường vào được. Một con đường về
mé đông bắc, tức là con đường đại vương đi đến đây. Đường ấy địa thế phẳng
phiu, đất lành nước ngọt, người ngựa đi lại dễ dàng. Nếu lấy đá gỗ chặn lấp cửa
động, thì dẫu có trăm vạn quân, cũng không sao vào lọt. Còn một con đường ở mé
tây bắc, núi non hiểm ác, đường sá hẹp hòi, lại lắm rắn dữ, rết độc, mỗi ngày về
buổi chiều, chướng khí bốc lên, đến mãi trưa hôm sau mới tan, chỉ trong giờ
thân, giờ dậu mới có thể đi lại được. Nước không uống được, ngựa người khó đi lắm.
Lại có bốn ngọn suối độc: Một là Á Toàn, nước tuy ngọt, nhưng uống phải thì
không nói được, chỉ mười ngày là chết. Hai là Diệt Toàn, nước nóng như đun sôi,
nhỡ ai động phải thì da thịt ruỗng ra, thấu đến xương mà chết. Ba là Hắc Toàn,
nước hơi trong, ai dúng phải thì chân tay đen cả ra mà chết. Bốn là Nhu Toàn,
nước lạnh như băng, ai uống phải thì cổ họng lạnh ngắt, mình mẩy mềm nhũn cả ra
mà chết. Ở xứ này đến con chim, con sâu cũng không có. Trước kia chỉ có quan Phục
Ba tướng quân nhà Hán đến đây một lần; từ đấy không ai dám qua nữa. Nay chặn lấp
đường đông bắc, đại vương cứ ở yên trong động tôi. Quân Thục thấy vậy, tất phải
đi theo con đường mé tây. Qua đó, uống phải nước suối thì dẫu trăm vạn quân
cũng không sao về được. Can gì phải đánh chác cho mệt?
Mạnh Hoạch mừng lắm, giơ tay lên trán, nói:
- Nay mới có chỗ ở yên đây!
Lại trỏ sang mặt bắc, nói:
- Tha hồ cho Gia Cát Lượng mưu thần mẹo thánh cũng chẳng làm
trò gì! Chỉ bốn ngọn suối này cũng đủ báo thù được bốn phen ta thua trước!
Từ đó, Mạnh Hoạch, Mạnh Ưu cả ngày chỉ cùng với Đóa Tư uống
rượu ăn yến.
Lại nói Khổng Minh mấy hôm không thấy Mạnh Hoạch tiến ra, liền
truyền lệnh cho quân rời Tây Nhĩ Hà, kéo xuống phía nam. Bấy giờ, đang tháng
sáu, trời nắng chang chang, nóng hơn lửa đốt. Người đời sau vịnh cái nóng
phương Nam như sau:
Núi đầm đều khô cháy,
Lửa nóng tựa vầng dương.
Biết đâu ngoài trời đất,
Nóng bức thực khôn lường.
Khổng Minh dẫn quân đang đi, chợt có tiễu mã về báo rằng:
- Mạnh Hoạch ẩn trong động Thứu Long, chặn lấp mất cửa động,
cho quân canh giữ, chốn ấy núi non hiểm hóc, không thể tiến lên được.
Khổng Minh đòi Lã Khải đến hỏi. Khải nói:
- Tôi từng nghe động này có một con đường, nhưng không rõ thế
nào.
Tưởng Uyển nói:
- Mạnh Hoạch bốn lần bị bắt, đã sợ mất vía, còn dám ra gì nữa?
Huống lúc này tiết trời nóng nực, quân đã mệt mỏi, đánh cũng vô ích, thà đem
quân về còn hơn.
Khổng Minh nói:
- Về thì trúng phải kế của Mạnh Hoạch rồi. Quân ta rút lui, hắn
tất thừa thế đuổi theo. Đã đến đất này, lẽ đâu ta chịu về không?
Bèn sai Vương Bình mang vài trăm quân làm tiền bộ, bắt quân
Man dẫn lối, tìm con đường nhỏ mé tây bắc đi vào. Quân mã đến một ngọn suối,
đang khát tranh nhau xuống múc nước uống. Vương Bình tìm được đường rồi, định về
báo với Khổng Minh. Nhưng về đến trại thì thấy quân sĩ không ai nói được, chỉ lấy
tay trỏ vào mồm ra hiệu. Khổng Minh giật mình, biết là trúng độc, mới cưỡi chiếc
xe nhỏ, dẫn vài mươi tên quân đến xem, thấy một vũng nước trong suốt đến tận
đáy, trong mà rùng mình không ai dám lội xuống. Khổng Minh xuống xe, lên cao đứng
ngắm thấy bốn phía núi cao chót vót, lặng ngắt như tờ, không có tiếng chim chóc
gì cả, Khổng Minh trong bụng lấy làm nghi lắm. Chợt thấy trên đỉnh núi có một
tòa cổ miếu. Khổng Minh liền vịn cành níu dây, mon men trèo lên tận đỉnh, thấy
một pho tượng tướng quân ngồi uy nghi ở giữa. Cạnh miếu có một tấm bia đá, xem
ra là miếu quan Phục Ba tướng quân Mã Viện, khi xưa đánh Man, qua đây, người bản
xứ lập miếu thờ, Khổng Minh bèn vào lạy và khấn rằng:
- Tôi là Lượng, vâng lời tiên đế ủy thác con côi, nay phụng
thánh chỉ đến đây bình Man. Tôi muốn dẹp xong Man phương, quay về đánh Ngụy, diệt
Ngô, đem lại giang sơn nhà Hán. Quân sĩ không tường địa lý, lỡ uống phải nước độc,
nói không ra tiếng. Xin tôn thần nghĩ đến ân nghĩa bản triều, thông linh hiển
thánh cứu cho ba quân!
Khấn xong, ra ngoài cửa miếu xem có người nào qua lại thì hỏi.
Bỗng thấy một ông cụ già từ trái núi bên kia đang chống gậy đi lên, hình dung kỳ
lạ. Khổng Minh mời cụ già ấy vào miếu, chào hỏi xong, ngồi chơi trên tảng đá.
Khổng Minh hỏi tên tuổi. Cụ già nói:
- Lão phu nay nghe danh thừa tướng, may được bái kiến ở đây!
Người Man phương này, được đội ơn thừa tướng tha tội cho cũng nhiều, đều có bụng
cảm ơn lắm.
Khổng Minh hỏi đến suối độc.
Cụ già nói:
- Quân của thừa tướng uống phải suối câm, chỉ vài ngày là chết.
Ngoài suối ấy ra lại có ba ngọn suối nữa, gọi là Diệt Toàn, Nhu Toàn, Hắc Toàn.
Bốn suối ấy toàn là khí độc tụ lại, không thuốc gì chữa được. Hơn nữa chướng
khí bốc lên, chỉ trong vài giờ mùi, giờ thân, giờ dậu là qua lại được, còn đi
vào giờ khác đều nhiễm phải chướng khí mà chết liền.
Khổng Minh nói:
- Nếu thế, phương Man không thể bình được. Phương Man không
bình xong, đánh sao được Ngô, Ngụy nữa, mà đem lại giang sơn cho nhà Hán, há chẳng
phải mất việc phó thác của tiên đế ru? Ta sống nữa cũng vô ích, sao bằng chết
đi cho rảnh!
Cụ già nói:
Khổng Minh nói:
- Lão trượng có cao kiến gì, xin chỉ bảo ngay cho.
Cụ già nói:
- Tự đây đi thẳng mé tây vài dặm, có một hang núi, vào trong
hang đi hai mươi dặm nữa, đến một cái khe, gọi là khe Vạn An. ở đó, có một cao
sĩ, gọi là Vạn An ẩn giả. Đã vài mươi năm nay, người ấy không rời khỏi khe. Sau
nhà ông có một cái suối, gọi là suối An Lạc. Ai trúng phải độc, uống nước suối ấy
khỏi liền. Hoặc người nào sinh ghẻ, nhiễm phải chướng khí, tắm nước suối ấy tự
nhiên không việc gì. Trước nhà có một thứ cỏ gọi là giới diệp vân hương, ngậm
lá cỏ ấy trong mồm, thì chướng khí không nhiễm vào được. Thừa tướng nên đến đấy
mà cầu cho mau.
Khổng Minh lạy tạ, nói:
- May nhờ trưởng giả rủ lòng cứu mệnh, ghi nhớ không bao giờ
dám quên. Xin trưởng giả cho tôi được biết tên tuổi?
Cụ già nói:
- Ta là thần núi ở xứ này, phụng mệnh quan Phục Ba tướng
quân, lại chỉ bảo giúp ngài.
Nói đoạn, quát một tiếng, cửa đá trong miếu tự nhiên mở ra,
ông cụ bước vào rồi biến mất.
Khổng Minh lấy làm lạ, vào miếu lạy tạ, rồi tìm đường cũ lên
xe về trại.
Hôm sau, Khổng Minh đem hương hoa lễ vật dẫn Vương Bình và bọn
quân câm, theo lời thần chỉ, lần mò kéo đi, vào một hang núi, đi hai mươi dặm nữa,
thấy thông to, bách cổ, trúc lạ, hoa thơm, rườm rà xung quanh một khu nhà. Sau
bức rào, có mấy gian nhà tranh, mùi hoa ngào ngạt. Khổng Minh mừng lắm, bước tới
gõ cửa. Một tiểu đồng đi ra. Khổng Minh toan hỏi, thì lại thấy một người đội
nón nan, đeo dép cỏ, áo bào trắng, dây lưng thâm mắt biếc, tóc vàng, hớn hở bước
tới, hỏi ngay rằng:
- Có phải Hán thừa tướng đến đó không?
Khổng Minh nói:
- Cao sĩ sao lại biết tôi thế?
Ẩn giả nói:
- Lâu nay nghe thừa tướng sang nam chinh, sao lại không biết?
Bèn mời Khổng Minh vào nhà chơi. Khổng Minh nói:
- Tôi chịu lời ủy thác của Chiêu Liệt hoàng đế, nay lại phụng
chỉ tự vương, dẫn quân đến đây, dẹp yên cõi rợ, cho theo về vương hóa. Không ngờ,
Mạnh Hoạch ẩn lấp trong động này, quân sĩ lỡ uống phải suối câm. Đêm qua, nhờ
có Phục Ba tướng quân hiển thánh, bảo rằng cao sĩ có suối thuốc chữa được. Vậy
xin cao sĩ rộng lượng cho ít nước thần, để cứu vớt cái sống thừa của ba quân.
Ẩn giả nói:
- Lão phu là người quê kệch ở chốn núi rừng, thừa tướng lọ phải
uổng công đến đây. Suối này ở ngay sau nhà, xin cứ việc ra mà uống.
Ẩn giả mới sai tiểu đồng đưa Vương Bình và quân lính ra suối
lấy nước. Uống xong, quân lính đều liền thổ ra dãi độc, rồi nói được ngay. Tiểu
đồng lại đưa cả bọn đến khe Vạn An tắm táp.
Ẩn giả ở trong nhà pha chè hạt bách, thiết đãi Khổng Minh, và
nói:
- Ở xứ này lắm giống rắn dữ, rết độc, hoa liễu bay vào trong
khe, nước không sao uống được, phải đào giếng mới xong.
Khổng Minh xin hỏi tên họ. Ẩn giả cười, nói:
- Chẳng giấu gì thừa tướng, tôi là Mạnh Tiết anh ruột Mạnh Hoạch
đây!
Khổng Minh ngạc nhiên.
Ẩn giả nói:
- Thừa tướng chớ nghi, tôi xin nói rõ, Cha mẹ tôi sinh được
ba người con, tôi là trưởng, thứ hai là Mạnh Hoạch, thứ ba là Mạnh Ưu. Cha mẹ
chúng tôi mất sớm, hai em tôi cứng đầu, cứng cổ, không tuân vương hóa. Tôi can
bảo chúng nó không nghe, nên phải đổi tên, ẩn dật ở đây. Nay em tôi làm phản, để
thừa tướng phải khó nhọc, đến xứ bất mao [1] này, tội tôi thật đáng muốn chết;
bởi thế, xin thú tội với thừa tướng trước.
Khổng Minh than rằng:
- Thế mới biết việc Đạo chích với Liễu Hạ Huệ [2] thời
nay cũng có.
Bèn bảo Mạnh Tiết rằng:
- Tôi xin tâu với thiên tử cử ông lên làm vua xứ này có được
không?
Tiết nói:
- Tôi vì ghét công danh, nên trốn ra đây, còn bụng nào tham
phú qúy nữa!
Khổng Minh bèn lấy vàng lụa ra tạ. Mạnh Tiết cố từ chối không
chịu lấy. Khổng Minh cảm phục, từ biệt ra về.
Có thơ khen rằng:
Thảnh thơi trong một túp lều tranh,
Suối mát, hoa thơm, cảnh cũng thanh,
Cổ thụ um tùm, người vắng ngắt,
Hãy còn khói biếc khóa non xanh.
Khổng Minh về đến trại, sai quân đào giếng lấy nước, đào sâu
hơn hai mươi trượng, không thấy một giọt nước nào, mười chỗ đào đều thế cả,
quân sĩ nhao cả lên.
Nửa đêm hôm ấy Khổng Minh đốt hương, kêu khấn trời rằng:
- Lượng bất tài, ngẩng đầu mang ơn phúc nhà Đại Hán, phụng mệnh
sang dẹp phương Man. Nay giữa đường thiếu nước, quân mã khao khát cả. Trời ví bằng
chưa tuyệt nhà Hán, xin cho ngay suối ngọt chảy ra, nếu khi số nhà Hán đã hết,
Lượng cũng xin chết tại xứ này.
Khổng Minh khấn xong, đến sáng ra giếng nào cũng đầy ăm ắp nước
ngọt.
Có thơ rằng:
Vì nước đem binh tới cõi Man,
Giời hè, đất sỏi, giếng khô khan.
Lòng thành âu có thần minh chứng,
Khấn khứa vừa xong nước chảy giàn.
Quân sĩ được suối ngọt, ăn uống thỏa thuê, mới theo đường tắt
đến thẳng trước động Thứu Long hạ trại.
Quân Man dò thấy, về báo với Mạnh Hoạch rằng:
- Quân Thục không nhiễm phải chướng khí, mà cũng chẳng thấy
khô khát gì cả; các suối độc là thế mà không nghiệm.
Đóa Tư đại vương không tin, cùng Mạnh Hoạch trèo lên núi đứng
xem, thấy quân Thục quả nhiên yên ổn như thường, kẻ gánh thùng to, người xách
thùng nhỏ, tranh nhau lấy nước về thổi cơm và cho ngựa uống. Đóa Tư rợn tóc
gáy, ngảnh lại bảo Mạnh Hoạch rằng:
- Đây chắc là thần binh!
Hoạch nói:
- Hai anh em tôi, xin liều đánh nhau với quân Thục một trận,
dù chết ngay cũng đánh, chớ đâu ngồi bó tay chịu trói!
Đóa Tư đại vương nói:
- Nếu quân đại vương thua, thì vợ con tôi cũng nguy cả. Vậy
phải giết trâu, mổ bò, khao thưởng quân động để chúng cố sức lăn xả vào trại Thục
mà đánh, may ra mới thắng được.
Bèn mở đại tiệc khao quân. Lúc quân Man sắp khởi hành, sực có
tin báo chúa động Ngân Dã là Dương Phong ở mé tây sau động này, dẫn ba vạn quân
lại giúp.
Mạnh Hoạch mừng rỡ, nói:
- Quân láng giềng giúp ta, phen này chắc đánh được quân Thục.
Bèn cùng Đóa Tư đại vương ra đón tiếp Dương Phong vào.
Phong nói:
- Tôi có ba vạn tinh binh đều mặc thiết giáp, giỏi nghề trèo
non vượt suối, có thể địch được quân Thục trăm vạn. Tôi lại có năm con tinh
thông võ nghệ, xin đem lại giúp đại vương.
Nói rồi, gọi năm con ra lạy. Người nào cũng mình beo dáng hổ,
tướng giữ sức mạnh. Mạnh Hoạch mừng lắm, Mở tiệc khoản đãi cha con Dương Phong.
Rượu nửa chừng, Phong nói:
- Trong quân không có gì làm vui, tôi đã đem theo bọn gái
Man, múa đao che mộc cực giỏi, xin cho ra giúp vui một chút.
Hoạch mừng rỡ, ưng lời. Một lát, vài ba chục cô gái Man, người
nào cũng xõa tóc, đi chân không, từ ngoài trường múa mênh đi vào. Bọn Man vỗ
tay ca hát, hòa theo nhịp múa. Dương Phong lại sai hai con dâng chén chúc mừng
Mạnh Hoạch, Mạnh Ưu. Hai người đỡ chén toan uống, Phong bèn quát to một tiếng,
hai con bắt ngay Mạnh Hoạch, Mạnh Ưu trói nghiến lại. Đóa Tư toan chạy, bị
Dương Phong bắt nốt. Bọn gái Man đứng dàn ở ngoài trướng, không ai dám đến gần.
Hoạch bảo Dương Phong:
- Thỏ chết, cáo thương, vật còn biết xót đồng loại huống chi
ta với ngươi đều là chúa các động, xưa nay không thù hằn gì nhau, tại sao ngươi
chực hại ta làm vậy?
Phong nói:
- Anh em con cháu ta, đều đội ơn Gia Cát thừa tướng tha tội,
không biết lấy gì báo đền. Nay ngươi làm phản, nên ta bắt đem nộp cho thừa tướng
đây!
Quân Man các động, tan chạy đâu về đấy cả. Dương Phong giải Mạnh
Hoạch, Mạnh Ưu, Đóa Tư đến trại Khổng Minh. Khổng Minh đòi vào, Phong lạy ở dưới
trướng, thưa rằng:
- Con cháu chúng tôi, đều được đội ơn đức thừa tướng, cho nên
bắt bọn Mạnh Hoạch lại nộp.
Khổng Minh trọng thưởng cho Dương Phong, rồi sai điệu Mạnh Hoạch
vào. Khổng Minh cười, nói:
- Phen này ngươi đã chịu chưa?
Hoạch nói:
- Ta bị bắt là không phải do tài của ngươi. Vì người trong động
ta hại lẫn nhau, mới đến nỗi này! Muốn giết thì giết, chớ ta vẫn chưa chịu!
Khổng Minh nói:
- Ngươi lừa ta vào nơi không có nước, lại đem bốn suối độc hại
quân ta. Thế mà quân ta không việc gì, chẳng phải là lòng trời ư? Sao người u
mê làm vậy?
Hoạch lại nói:
- Tổ ta ở núi Ngân Hàng, ở đó có ba con sông hiểm trở, hai từng
ải vững bền. Nếu ngươi đến tận đấy mà bắt được ta, thì chẳng những là ta phải
phục, mà đến đời con đời cháu ta cũng dốc lòng phụng thờ nữa.
Khổng Minh nói:
- Ta tha cho ngươi lần này, về thu nhặt quân mã, quyết sống
chết một trận nữa với ta. Nếu ta tóm được mà ngươi còn không chịu, ta sẽ giết cả
chín họ nhà ngươi đi đó!
Liền quát tả hữu cởi trói cho Mạnh Hoạch. Hoạch lạy từ ra về.
Khổng Minh lại sai cởi trói cho Mạnh Ưu, Đóa Tư và cho uống
rượu hoàn hồn. Hai người sợ run cầm cập, không dám ngẩng mặt lên nhìn. Khổng
Minh cho ngựa và sai người đưa về.
Đó là:
Cõi hiểm xông pha nào việc dễ,
Chưa biết Mạnh Hoạch được thua thế nào, xem hồi sau phân giải.
Chú thích:
1. Xứ không có cây cối mọc.
2. Đạo chích là đứa ăn trộm, Liễu Hạ Huệ
là một người đại hiền, hai người này là anh em ruột, mà một người hay, một người
dở.
Hồi 90:
Đuổi thú mạnh, sáu chuyến phá quân Man
Đốt giáp mây, bảy lần bắt Mạnh Hoạch
Lại nói, Khổng Minh tha xong bọn Mạnh Hoạch, phong quan tước
cho cha con Dương Phong, và trọng thưởng cho quân sĩ các động. Dương Phong lạy
tạ trở ra. Bọn Mạnh Hoạch ngày đêm đi miết về động Ngân Hàng. Ngoài động ấy có
ba con sông, là sông Lư, sông Cam Nam, sông Tây Thành, hợp làm một, gọi là Tam
Giang. Mé bắc động hai trăm dặm, địa thế phẳng phiu, nhiều sản vật. Mé tây động
hai trăm dặm, có giếng muối; mé tây nam hai trăm dặm, đến thẳng sông Lư, sông
Cam. Mé chính nam ba trăm dặm, là động Lương Đô. Trong động có núi diễu quanh,
trên núi có mỏ bạc, cho nên gọi là Ngân Hàng.
Trong núi Ngân Hàng có nhiều cung điện, lâu đài, chính là chỗ
sào huyệt vua Man. Có một miếu thờ tổ gọi là “gia qủy”. Bốn mùa giết trâu, mổ
ngựa cúng tế, gọi là “bốc qủy”. Mỗi năm có lệ bắt người nước Thục hoặc người
làng khác giết thịt tế thần. Người có bệnh không dùng thuốc thang, chỉ mời đồng
cốt cầu cúng, gọi là “thuốc qủy”. Ở đó không có hình pháp gì, hễ ai phạm tội là
chém. Có con gái lớn, cho ra tắm ngoài suối, rồi trai gái tùy ý kén chọn lấy
nhau, cha mẹ mặc lòng không cấm, gọi là “học nghề”. Mỗi năm hai vụ, nước nôi điều
hòa thì giồng thóc lúa. Năm mất mùa, giết thịt rắn nấu canh, và ăn thịt voi trừ
bữa. Trong từng thung, nhà nào thần thế hơn cả gọi là chúa động, hạng thứ nhì gọi
là tù trưởng. Mỗi tháng, ngày mồng một và ngày rằm, có họp chợ trong thành Tam
Giang, mua bán đổi chác gì cứ đến cả đấy.
Mạnh Hoạch ở trong động ấy, tụ tập hơn một nghìn tông đảng và
bảo rằng:
- Ta nhiều lần bị nhục với quân Thục, thề báo thù kỳ được mới
nghe. Các ngươi có mẹo giỏi nào không?
Em vợ Mạnh Hoạch hiện đang làm trưởng bộ Bát Phiên, gọi là
chúa động Đái Lai, bước ra thưa rằng:
- Tôi xin cử một người đủ phá được Gia Cát Lượng.
Hoạch vội hỏi người nào, Đái Lai động chúa thưa rằng:
- Từ đây ra mé tây nam, có chúa động Bát Nạp là Mộc Lộc đại
vương, cao tay phù phép, thường hay cưỡi voi, biết phép hô gió gọi mưa; hổ,
báo, sói, lợn lòi, rắn dữ, rết độc thường đi theo; thủ hạ lại có ba vạn thần
binh, rất là khỏe mạnh. Đại vương nên viết thư và kiếm đồ lễ vật tôi xin thân đến
cầu người ấy, nếu được, thì lo gì quân Thục nữa?
Mạnh Hoạch mừng rỡ, sai Đái Lai động chúa mang thư đi. Một
lát, sai Đóa Tư đại vương giữ thành Tam Giang, để phòng thủ mé trước mặt.
Lai nói, Khổng Minh dẫn quân đến thẳng Tam Giang, thành này
ba mặt giáp sông, chỉ có một đường bộ đi vào. Liền sai Ngụy Diên, Triệu Vân dẫn
một toán quân đi mặt bộ đánh vào. Khi quân Thục đến gần, cung nỏ trên mặt thành
bắn xuống như mưa. Nguyên là người rợ thạo nghề bắn cung nỏ, mỗi cái nỏ bắn ra
mười phát tên một lúc. Trên đầu tên lại tẩm thuốc độc. Ai trúng phải tên, da thịt
nát ruỗng ra, thấu đến ngũ tạng rồi chết.
Triệu Vân, Ngụy Diên đánh không đổ, trở về ra mắt Khổng Minh,
thuật chuyện tên thuốc độc. Khổng Minh ngồi trên chiếc xe nhỏ, đến gần dưới
thành xem hư thực ra sao, rồi trở về sai lui quân vài dặm hạ trại.
Quân Man thấy quân Thục đi xa rồi, cười ầm cả lên; ai nấy mừng
mừng, rỡ rỡ, tưởng là quân Thục nhát sợ phải lui. Bởi thế đêm hôm ngủ yên, tuần
phòng trễ nải.
Khổng Minh từ khi rút quân về, đóng cửa trại không ra luôn
năm ngày, tịnh không hiệu lệnh gì cả. Một hôm, về buổi chiều, hơi phe phẩy gió,
Khổng Minh truyền lệnh rằng:
- Mỗi tên quân phải trữ sẵn một cái vạt áo, hẹn đến canh một
kiểm điểm, ai không có, lập tức chém đầu.
Các tướng không hiểu ý thế nào, quân sĩ cứ phải tuân lệnh dự
sẵn. Đến canh một, lại truyền lệnh rằng:
- Mỗi tên quân phải bọc một cái vạt áo đất, hễ sai không có
thì chém.
Quân sĩ cũng chẳng hiểu thế nào, cứ bảo sao làm vậy.
Khổng Minh lại truyền lệnh:
- Quân sĩ mang bọc đất, đến cả dưới thành Tam Giang vứt xuống;
ai đến trước sẽ có thưởng.
Quân sĩ được lệnh, mang bọc đất tranh nhau chạy đến dưới
thành. Khổng Minh sai đắp đất làm bậc, trèo lên thành, và truyền ai trèo lên
trước thì được công đầu.
Bởi thế, hơn mười vạn quân Thục và hơn một vạn quân hàng, đổ
đất xuống chân thành, chỉ một lúc đất cao tày núi, ngang với mặt thành. Trong
quân nổi một tiếng ám hiệu, quân sĩ kéo ùa vào cả thành. Quân Man vội vàng bắn
nỏ ra thì nhiều người đã bị trói cả rồi; những tên khác thấy thế nguy, bỏ thành
ù té chạy hết. Đóa Tư đại vương chết trong đám loạn quân. Tướng Thục đốc quân
chia đường đuổi đánh. Khổng Minh hạ được thành Tam Giang, bao nhiêu đồ vàng bạc,
châu báu bắt được đều đem thưởng cho ba quân.
Quân Man thua trận, trốn về ra mắt Mạnh Hoạch, kể lại truyện
Đóa Tư đại vương tử trận, và mất thành Tam Giang. Hoạch cuống quýt cả lên. Bỗng
ở sau bình phong, một người bước ra, cười ha hả mà rằng:
- Đã là đàn ông sao không có mưu mẹo? Tôi tuy là một người
đàn bà cũng xin ra đánh giúp chàng phen này!
Hoạch trông lại, té ra vợ mình là Chúc Dong phu nhân.
Phu nhân vốn người Nam Man, con cháu họ Chúc Dong khi xưa, có
tài tung đao, phóng đâu tin đấy. Mạnh Hoạch đứng dậy cảm tạ. Phu nhân hớn hở
lên ngựa, dẫn hơn trăm viên mãnh tướng trong tông đảng và năm vạn quân động, ra
khỏi Ngân Hàng, địch nhau với quân Thục. Vừa qua cửa động, gặp ngay một toán
quân Thục kéo đến, tướng đi đầu là Trương Ngực. Quân thấy vậy, dàn ra hai bên,
Chúc Dong phu nhân gài năm mũi dao nhọn ở sau lưng, tay cầm dao dài, cưỡi ngựa
long quân sắc đỏ.
Trương Ngực thấy tấm tắc khen lạ kỳ. Hai bên tế ngựa vào giao
phong; được vài hiệp phu nhân quay ngựa chạy. Trương Ngực sấn sổ đuổi theo. Bỗng
một nắm dao ở trên không rơi xuống, Ngực vội vàng giơ tay lên đỡ, bị một lưỡi
dao đâm vào cánh tay trái, ngã nhào xuống ngựa. Quân Man reo ầm, xô vào bắt
Trương Ngực trói nghiến lại. Mã Trung thấy thế, vội xông ra cứu, quân Man lại
xô cả vào vây bọc Mã Trung. Trung hăm hở xốc tới đánh Chúc Dong phu nhân. Quân
Man quăng dây ra giật chân ngựa, Trung ngã, lại bị bắt nốt. Chúc Dong giải cả
hai tướng về động ra mắt chồng. Hoạch mừng rỡ, mở tiệc ăn mừng. Phu nhân quát
đao phủ lôi Trương Ngực, Mã Trung ra chém. Hoạch ngăn lại mà rằng:
- Gia Cát Lượng tha cho ta những năm lần, nếu ta giết ngay tướng
của hắn, thì chẳng hóa ra bất nghĩa lắm ru? Hãy đem giam lại, đợi khi bắt được
Gia Cát Lượng sẽ giết luôn một thể, cũng chưa muộn gì!
Phu nhân nghe lời, uống rượu, cười nói hả hê lắm.
Quân Thục thua trận, về ra mắt Khổng Minh và thuật truyền lại,
Khổng Minh lập tức gọi Mã Đại, Triệu Vân, Ngụy Diên, dặn dò mẹo mực, rồi cho
người nào người nấy dẫn quân đi.
Hôm sau quân Man báo tin vào động là có tướng Thục Triệu Vân
đến thách đánh. Phu nhân lên ngựa ra địch. Hai bên đánh nhau chưa được vài hiệp,
Vân quay ngựa chạy. Phu nhân sợ có quân phục, quất ngựa trở về. Ngụy Diên lại
tiếp quân ra thách đánh, phu nhân tế ngựa xốc vào; đánh đang hăng, Ngụy Diên bỏ
chạy, phu nhân cũng không đuổi theo.
Hôm sau, Triệu Vân lại dẫn quân đến, phu nhân cũng mang quân
địch. Hai bên vừa mới giao phong, Vân đã giả đò thua chạy. Phu nhân cầm vững ngọn
côn toan thu quân về, Ngụy Diên lại dẫn quân ra, chửi mắng rầm rĩ cả lên. Phu
nhân vội quay lại đánh thì Diên đã chạy liền, phu nhân tức giận đuổi theo, Diên
rẽ vào đường nhỏ sườn núi. Bỗng thấy “huỵch” một tiếng cực to, Diên ngoảnh lại
xem, đã thấy phu nhân ngã lăn trên mặt đất. Nguyên là Mã Đại phục sẵn ở đó, chờ
ngựa phu nhân đến, liền quăng dây ra giật ngã cả người lẫn ngựa rồi trói nghiến
cả lại giải về trại. Các tướng Man xúm lại cứu, đều bị Triệu Vân đánh cho một
trận tơi bời.
Khổng Minh đang ngồi trong trướng thì Mã Đại giải Chúc Dong
phu nhân vào. Khổng Minh vội sai võ sĩ cởi trói, mời ở riêng một trướng khác,
cho uống rượu áp kinh. Rồi sai người sang trại Mạnh Hoạch xin đem phu nhân đánh
đổi hai tướng Trương Ngực, Mã Trung. Hoạch lập tức tha cho hai tướng về, Khổng
Minh cũng sai người đưa phu nhân về động.
Mạnh Hoạch tiếp phu nhân vào, nửa mừng nửa lo. Chợt có tin
báo chúa động Bát Nạp đã đến. Mạnh Hoạch ra nghênh tiếp, thấy người cưỡi voi trắng,
mình khoác mang to tết vàng và hạt châu, lưng đeo hai mũi đại đao, dẫn một toán
quân và các giống hùm beo, lục tục kéo vào, Hoạch lạy lục, kể lể sự tình. Mộc Lộc
đại vương hứa trả thù giúp.
Mạnh Hoạch mừng lắm, mở tiệc khoản đãi.
Hôm sau, Mộc Lộc đại vương dẫn quân sĩ và những giống mãnh
thú ra trận. Triệu Vân, Ngụy Diên đem quân dàn thành thế trận. Hai tướng giong
cương đứng sững trước trận, trông sang bên này, thấy tinh kỳ, khí giới của quân
Man đều khác cách cả. Quân sĩ nhiều người không mặc áo sống, trần truồng như nhộng,
mặt mũi đen sì, mình đeo bốn con dao nhọn. Trong quân không đánh trống, chỉ
rung chuông làm hiệu. Mộc Lộc đại vương lưng đeo hai thanh gươm báu, tay cầm
chuông con, cưỡi voi trắng, từ dưới lá cờ lớn đi ra.
Triệu Vân bảo với Ngụy Diên rằng:
- Chúng ta cả đời đi trận mạc, chưa thấy lạ lùng thế này bao
giờ!
Hai người còn đang trò chuyện đã thấy Mộc Lộc lẩm nhẩm trong
mồm, niệm chú mấy câu, tay rung quả chuông. Bỗng dưng gió thổi đùng đùng, sỏi
đá bay rào rào như mưa to. Lại nghe thấy rúc một tiếng còi, rồi hổ, báo, sói, gấu,
lợn lòi, rắn rết to tày cột, lướt theo gió ùa đến, con thì nhe nanh, con thì
múa vuốt, tràn sang trận Thục. Quân Thục khiếp sợ, chưa đánh đã vỡ, xô nhau chạy
toán loạn. Quân Man đuổi đánh đến giáp đường Tam Giang mới rút về.
Triệu Vân, Ngụy Diên thu nhặt tàn quân về ra mắt Khổng Minh
xin chịu tội, và thuật lại tình hình thua trận.
Khổng Minh cười, nói:
- Đó không phải là tội hai người, khi ta chưa ra khỏi nhà, đã
biết Nam Man có thuật nghe hổ báo. Hiện trong Thục đã trữ sẵn đồ phá trận đem
theo đây. Hiện trong quân ta có hai mươi cỗ xe, còn phong kín cả. Nay hãy dùng
một nửa, còn một nửa để dành vào việc khác.
Liền gọi tả hữu lấy ra mười cỗ xe, chứa đầy hòm sơn đỏ, đem đến
dưới trướng. Còn mười cỗ sơn đen thì để dành lại.
Các tướng chưa hiểu ra sao. Khổng Minh sai mở ra thì toàn là
các giống thú to làm bằng gỗ, có các thứ nhung dạ ngũ sắc bọc ngoài làm da, đồng
sắt làm nanh vuốt. Mỗi con thú gỗ có thể ngồi được mười người. Khổng Minh kén một
nghìn quân tinh tráng, giao cho một trăm con. Con nào cũng chứa sẵn đồ khói lửa,
giấu trong xe.
Hôm sau, Khổng Minh kéo quân ra, dàn ngoài cửa động. Quân Man
báo tin cho Mộc Lộc đại vương. Mộc Lộc đại vương tưởng chừng không ai địch nổi,
lập tức cùng với Mạnh Hoạch dẫn quân ra. Khổng Minh đội khăn lượt, mặc áo phù
thủy, tay cầm quạt lông, ngồi chính diện trên xe. Mạnh Hoạch trỏ sang bảo rằng:
Mộc Lộc đại vương mồm niệm thần chú, tay rung chuông. Một
lát, gió to ào ào nổi lên, các giống mãnh thú xông đến. Khổng Minh cầm quạt
lông phẩy một cái, ngọn gió liền thổi tạt trở lại. Các thú gỗ trong trận Thục bấy
giờ mới ùa sang. Những giống thú ấy bên trận Man, thấy các giống lớn bên Thục
miệng lè ra lửa, mũi thở ra khói, trên mình chuông kêu leng keng, giơ nanh múa
vuốt, nên không dám đến gần, cong đuôi chạy trở về, giày xéo quân Man, chết hại
rất nhiều. Khổng Minh thúc quân ùa vào, trống, tù và vang lừng, đuổi đánh cực
rát. Mộc Lộc đại vương chết trong đám loạn quân. Mạnh Hoạch, Đái Lai bỏ cả cung
điện, trèo non vượt núi chạy trốn. Khổng Minh chiếm được động Ngân Hàng.
Hôm sau, Khổng Minh sắp sửa sai quân đi tầm nã Mạnh Hoạch, chợt
có tin báo rằng:
- Em vợ Mạnh Hoạch là Đái Lai động chúa, khuyên Hoạch đầu
hàng, Hoạch không nghe. Bởi thế đã bắt Mạnh Hoạch và vợ là Chúc Dong phu nhân
cùng tòng đảng hơn trăm người trói cả lại đem nộp thừa tướng.
Khổng Minh nghe báo, lập tức gọi Trương Ngực, Mã Trung vào dặn
dò mẹo mực. Hai tướng lĩnh kế dẫn hai nghìn quân tinh tráng phục sẵn hai bên
hành lang, rồi sai tướng mở cửa cho chúng vào. Đái Lai dẫn quân đao phủ giải bọn
Mạnh Hoạch qùy lạy dưới sân.
Khổng Minh quát to lên rằng:
- Quân đâu! Bắt trói cả bọn này lại cho ta!
Quân phục hai bên đổ ra, cứ hai ba người bắt một người, trói
nghiến lại, không ai chạy thoát.
Khổng Minh cười nói:
- Thứ qủy kế của các người lừa thế nào được ta. Ngươi thấy
hai lần trước người trong động bắt đem nộp, ta không nỡ giết, tưởng chuyến này
cũng thế, cho nên lại trá hàng, để giết ta ở trong động này phải không?
Liền quát võ sĩ khám quả nhiên trong mình người nào cũng giắt
một con dao găm rất sắc.
Khổng Minh hỏi Mạnh Hoạch rằng:
- Trước ngươi bảo có đến tận nhà ngươi mà bắt được ngươi thì
ngươi mới chịu, nay nghĩ sao?
Hoạch thưa:
- Chuyện này thực là tự chúng ta đem thịt đến miệng hùm chớ
không phải là tài của ngươi, chết thì chết chứ ta vẫn chưa chịu.
Khổng Minh nói:
- Ta bắt được ngươi sáu lần rồi, sao chưa chịu, còn đợi đến
bao giờ?
Hoạch nói:
- Hễ lần thứ bảy mà lại bắt được nữa thì ta mới dốc lòng quy
phục, thề không dám làm phản nữa.
Khổng Minh nói:
- Sào huyệt của ngươi ta đã phá hết rồi, còn phải lo gì!
Lập tức sai võ sĩ cởi trói cho Mạnh Hoạch rồi nạt rằng:
- Nếu ta tóm được một lần nữa mà còn nói lôi thôi thì quyết
không tha nữa đâu!
Bọn Mạnh Hoạch lủi thủi trở về.
Lại nói hơn nghìn quân Man bị thương mất quá nửa, đang chạy
trốn, gặp được Mạnh Hoạch thu nhặt quân tàn, trong bụng hơi mừng, bàn với Đái
Lai động chúa rằng:
- Nay động phủ của ta đã bị quân Thục chiếm mất rồi, biết tìm
chỗ nào an thân được?
Đái Lai nói:
- Chỉ còn một nước, có thể phá được quân Thục.
Hoạch mừng lắm, vội hỏi nước nào.
Đái Lai nói:
- Tự đây ra phía đông nam bảy trăm dặm, có nước Ô Qua. Vua nước
ấy tên là Ngột Đột Cốt, mình dài hai trượng, không ăn thóc gạo, chỉ ăn toàn những
giống rắn độc, tên bắn không vào. Quân thủ hạ toàn mặc áo giáp mây. Dây mây mọc
ở trong khe núi, leo bám vào vách đá, người xứ ấy lấy tẩm vào trong dầu nửa
năm, mới vớt ra phơi khô, phơi rồi lại tẩm, hơn mười lượt, rồi đem chế làm áo
giáp. Mặc vào mình, lội xuống nước không chìm, tên bắn, dao chém cũng không thấu.
Bởi thế, gọi là “quân giáp mây”. Đại vương nên đến đấy mà cầu, sẽ bắt được Gia
Cát Lượng dễ như bỡn vậy.
Mạnh Hoạch mừng lắm, mới sang tận nước Ô Qua, vào ra mắt Ngột
Đột Cốt. Ở đây không có nhà cửa, mọi người ở cả trong hang núi. Mạnh Hoạch vào
động, van lạy kêu cầu. Ngột Đột Cốt ưng lời, cất ba vạn quân giáp mây và sai
hai tướng là Sĩ An và Hề Nê, cất quân kéo về phía đông bắc. Khi đến một con
sông gọi là Đào Hoa, hai bên bờ toàn là cây đào, lâu ngày lá rụng xuống nước,
người nơi khác uống phải thì chết ngay, chỉ người Ô Qua uống vào lại khỏe thêm
ra, Ngột Đột Cốt sai hạ trại ở cửa bến đợi quân Thục tới.
Nói về Khổng Minh, sai người đi dò thám, biết sự thể làm vậy
liền kéo vệ quân đến thẳng sông Đào Hoa. Trông sang bờ bên kia, thấy quân Man mặt
mũi kỳ dị, hình thù quái gở, mới gọi thổ dân ra hỏi, thì họ nói hiện nay lá đào
đang rụng, nước ở đây không sao uống được. Khổng Minh liền rút quân lui về năm
dặm, để Ngụy Diên ở lại giữ trại.
Hôm sau, Ngột Đột Cốt dẫn một toán quân giáp mây qua sông
đánh quân Thục, chiêng trống vang trời. Ngụy Diên dẫn quân ra địch. Quân Man
kéo ồ đến, quân Thục bắn không thủng được áo giáp, tên rơi tua tủa xuống đất,
gươm giáo đâm chém cũng không thấu. Quân Man đều dùng mã tấu. Quân Thục không địch
nổi, phải bỏ chạy.Quân Man không đuổi theo. Ngụy Diên quay lại đuổi mãi đến bến
đò, thấy quân Man mặc cả áo giáp, lội xuống nước bơi đi. Tên nào mệt mỏi lắm
thì cởi áo giáp, thả xuống nước, rồi ngồi lên chèo đi. Ngụy Diên vội vàng về trại
lớn bẩm với Khổng Minh. Khổng Minh hỏi Lã Khải. Khải thưa rằng:
- Tôi vẫn nghe vùng này, có nước Ô Qua, ở đấy không có luân
lý gì, có áo giáp mây hộ thân, khó lòng phá nổi. Vả lại, có nước lá đào rất độc,
thổ dân uống vào thì khỏe ra, mà người xứ khác uống phải là chết. Phương Man
như thế, dẫu lấy được cũng vô ích, chi bằng rút quân về cho sớm.
Khổng Minh cười, nói:
- Ta không phải dễ dàng mà đến được đây, lẽ đâu về ngay được?
Ngày mai ta khắc có mẹo phá xong.
Bèn sai Triệu Vân hiệp sức với Ngụy Diên giữ trại và dặn
không nên khinh động.
Hôm sau, Khổng Minh ngồi một chiếc xe nhỏ, sai thổ dân đưa đường,
đến mãi một nơi núi hẻm ở mé bắc bến Đào Hoa, xem xét địa lý. Gặp chỗ núi cao
đường hẹp, xe không đi được, Khổng Minh xuống đi bộ. Chợt đến một trái núi,
trông thấy có cửa hang, vòng vèo như hình con rắn dài, hai bên vách đá dựng đứng,
không có cây cối, có một con đường cái đi thông ở giữa.
Khổng Minh hỏi:
- Hang này gọi là hang gì?
Người bản xứ thưa rằng:
- Ở đây gọi là hang Bàn Xà, ra khỏi cửa hang tức là con đường
lớn thành Tam Giang. Trước hang có một thung lũng gọi là điện Tháp Lang.
Khổng Minh mừng, nói:
- Trời cho ta thành công ở chỗ này đây!
Bèn theo lối cũ, lên xe về trại, gọi Mã Đại đến dặn rằng:
- Ta giao cho ngươi mười cỗ xe hòm sơn đen, phải dùng đến
hàng ngàn dóng tre, mở hòm ra cứ y kế mà làm. Lại phải dẫn quân bản bộ chặn giữ
hai đầu hang Bàn Xà, hạn cho ngươi nửa tháng, phải xong đâu vào đấy, và phải giữ
gìn cẩn mật, nếu để lộ ra ngoài sẽ trị tội theo quân pháp.
Mã Đại lĩnh kế ra đi.
Lại gọi Triệu Vân đến dặn rằng:
- Ngươi ra phía sau hang Bàn Xà, cửa đường Tam Giang, cứ y
phép… mà giữ gìn; nội vật gì dùng đến, phải sắm sẵn trước cho đủ.
Triệu Vân lĩnh kế ra đi.
Lại gọi Ngụy Diên đến dặn rằng:
- Ngươi dẫn quân bản bộ ra bến Đào Hoa hạ trại. Nếu quân Man
qua sông sang đánh thì bỏ trại mà chạy thẳng đến chỗ cắm cờ trắng. Hạn trong nửa
tháng phải thua luôn mười lăm trận, bỏ bảy cái trại, nếu mới thua mười bốn trận,
thì chớ đến ra mắt ta vội.
Ngụy Diên lĩnh mệnh, trông mặt có dáng không vui tiu nghỉu trở
ra.
Khổng Minh lại gọi Trương Dực, sai dẫn một toán quân, cứ trỏ
chỗ nào thì lập trại chỗ ấy. Lại sai Trương Ngực, Mã Trung dẫn chừng nghìn hàng
binh, cứ y mẹo mực mà làm. Các tướng ai nấy lĩnh kế kéo đi.
Mạnh Hoạch bàn với Ngột Đột Cốt vua Ô Qua rằng:
- Gia Cát Lượng thật lắm quỷ kế, nhất là hay dùng quân mai phục.
Ta có đánh nhau phải dặn quân sĩ, hễ chỗ nào rừng rú, thì chớ nên khinh tiến.
Ngột Đột Cốt nói:
- Lời đại vương rất phải, tôi đã biết người Trung Nguyên chỉ
tài những mẹo lừa đảo. Từ nay ta phải cẩn thận. Tôi đi trước tiến vào đánh,
ngài đi sau trông nom quân sĩ.
Hai người bàn định đâu đấy sực thấy quân Thục lập trại bến
Đào Hoa. Ngột Đột Cốt lập tức sai hai tướng tù trưởng dẫn quân giáp mây sang
đánh nhau với quân Thục. Hai bên giao chiến được một lát, Ngụy Diên thua chạy.
Quân Man sợ có mai phục, không dám đuổi theo.
Hôm sau, Ngụy Diên lại đi lập doanh trại, quân Man biết tin
liền qua sông sang đánh. Diên ra địch, được vài hiệp lại thua chạy. Quân Man đuổi
theo hơn mười dặm ngắm xem bốn mặt thấy không có gì, mới đóng quân ở trong trại
Thục.
Hai tù trưởng mời Ngột Đột Cốt đến trại, thuật lại công việc.
Ngột Đột Cốt dẫn quân tràn lên, đuổi đánh Ngụy Diên một trận nữa, quân Thục bỏ
cả giáp, quẳng cả giáo mà chạy. Ngụy Diên cứ trông chỗ nào cắm cờ trắng thì đến,
đến nơi, đã có một trại lập sẵn rồi. Diên liền đóng quân ở đó.
Ngột Đột Cốt thúc quân đuổi tràn đến, Diên lại bỏ chạy, quân
Man lại chiếm được trại nữa.
Hôm sau, quân Man kéo đến, Diên đánh vài ba hiệp lại chạy, cứ
về đến chỗ có cắm cờ trắng thì đã có sẵn một trại rồi. Diên vừa đánh vừa chạy,
trước sau thua luôn mười lăm trận, bỏ mất bảy trại. Ngột Đột Cốt đi đầu, nội chỗ
nào có cây cối um tùm, là cho người dò xem, quả nhiên thấy tinh kỳ thấp thoáng
trong bóng cây, mới bảo Mạnh Hoạch rằng:
- Đại vương nói quân Thục hay dùng kế mai phục, quả nhiên
không sai!
Mạnh Hoạch cười ầm lên, mà rằng:
- Phen này Gia Cát Lượng bị ta biết rõ mẹo rồi. Đại vương mấy
bữa nay được luôn mười lăm trận, cướp được bảy trại, quân Thục nghe tiếng gió
đã phải chạy, thế thì đủ biết Gia Cát Lượng sức đã kiệt rồi, ta chỉ đánh một trận
nữa là xong việc.
Ngột Đột Cốt mừng lắm không coi quân Thục ra mùi gì nữa.
Đến hôm thứ mười sáu, Ngụy Diên dẫn tàn quân lại chống nhau với
quân giáp mây. Ngột Đột Cốt cưỡi voi trắng đi trước, đầu đội mũ nhật nguyệt,
mình mặc áo kim châu, mai vây dưới nách lộ cả ra ngoài, mắt nhấp nhánh như ánh
chớp, trỏ tay sang Ngụy Diên mà mắng. Ngụy Diên liền quay ngựa chạy. Quân Man
kéo bừa sang đuổi đánh. Diên dẫn quân chạy vào trong hang Bàn Xà. Ngột Đột Cốt
thúc quân đến cửa hang, trông lên núi đá trơ trụi chắc không có mai phục mới vững
dạ đuổi theo. Vào đến trong hang, thấy có hơn mười cỗ xe sơn đen chất ở giữa đường
đi. Quân Man bảo rằng:
- Đây hẳn là đường vận lương của quân Thục, nhân thấy quân đại
vương đến đây, cho nên bỏ cả xe lương mà chạy.
Ngột Đột Cốt mừng lắm thúc quân cắm cổ đuổi miết. Khi gần ra
khỏi cửa hang, thì không thấy quân Thục đâu, chỉ có đá gỗ chồng chất ngổn ngang
lấp cả lối đi. Ngột Đột Cốt sai quân dọn đường. Bỗng nhiên, các cỗ xe phía trước
mặt, toàn chứa củi khô cỏ ráo, lửa ở đâu bốc cháy đùng đùng. Ngột Đột Cốt vội
vàng rút quân về, lại thấy hậu quân nhốn nháo cả lên, nói cửa hang đằng sau
cũng bị củi cỏ chặn lấp cả rồi, trong củi toàn là thuốc súng nổ tứ tung. Ngột Đột
Cốt thấy không có cây cối gì, còn hơi vững dạ, sai tìm đường chạy. Bỗng đâu lửa
ở hai bên sườn núi ném ra, lửa bay đến đâu, địa lôi ở dưới đất nổ tung đến đấy.
Trong hang đỏ rực toàn lửa, hơi lém vào áo giáp mây là cháy. Ngột Đột Cốt và ba
vạn quân ôm nhau chết thui cả trong Bàn Xà.
Khổng Minh ngồi trên núi trông xuống, thấy quân Man bị đốt, kẻ
thì co quắp, người thì quằn quại, quá nửa bị pháo đạn bắn, vỡ đầu, sứt má,
xương thì tan tành, chết rụi trong hang, mùi khét lẹt bốc lên không sao chịu được.
Khổng Minh ứa nước mắt, than rằng:
- Ta tuy có công với nước, nhưng sẽ chắc tổn thọ!
Tướng sĩ ai lấy đều thương cảm.
Khi ấy Mạnh Hoạch đang ngồi trong trại, mong đợi tin tức, bỗng
thấy hơn nghìn quân Man, reo mừng lạy ở trước trại nói rằng:
- Quân Ô Qua đánh nhau với quân Thục to lắm, đang vây được
Gia Cát Lượng ở trong hang Bàn Xà, xin mời đại vương đến tiếp ứng. Chúng tôi là
người bản động, bất đắc dĩ phải hàng Thục, nay nghe đại vương ở đây, nên đến
đánh giúp.
Mạnh Hoạch mừng rỡ, lập tức dẫn bọn tông đảng và quân Phiên
kéo đi, sai quân Man đưa đường đến hang Bàn Xà. Gần đến nơi, thấy lửa sáng rừng
rực, Hoạch biết mắc mẹo, vội vàng rút về, thì đã thấy Trương Ngực, Mã Trung hai
mặt đổ ra. Hoạch toan xông vào đánh, bỗng đâu trong đám quân Man có tiếng reo ầm
ầm, té ra trong đám này già nửa là quân Thục, ăn mặc giả làm quân Man, bắt gọn
cả bọn tông đảng và quân Phiên trói lại. Mạnh Hoạch còn trơ một mình, một ngựa,
thoát được ra ngoài, nhằm theo con đường tắt trong núi mà chạy. Đang chạy, lại
gặp một toán quân xúm xít đẩy một cái xe. Trong xe có một người ngồi chỉnh chệ,
đầu đội khăn lượt, tay cầm quạt lông, chính là Khổng Minh.
Khổng Minh quát lên rằng:
- Phản tặc Mạnh Hoạch, phen này nghĩ sao?
Hoạch vội quất ngựa chạy. Bên cạnh, một tướng xông ra chặn đường,
té ra là Mã Đại. Hoạch trở tay không kịp bị Đại bắt sống. Bây giờ, bọn Vương
Bình, Trương Dực đã dẫn quân sấn vào trong trại Man, bắt nàng Chúc Dong và cả
nhà Mạnh Hoạch già trẻ lớn bé điệu đi.
Khổng Minh về đến trại, lên trướng ngồi đâu đấy, rồi bảo các
tướng rằng:
- Ta nay bất đắc dĩ phải dùng đến mẹo này, thực là tổn âm đức.
Ta biết giặc đoán ta hay dùng quân mai phục ở trong rừng rú, nên những chỗ cây
cối, ta sai cắm tinh kỳ, cho giặc đâm nghi, thật ra không có quân mã gì cả. Ta
lại sai Ngụy Văn Trường thua luôn mười lăm trận, cốt để cho giặc vững bụng. Ta
thấy trong hang Bàn Xà chỉ có mỗi một lối đi, hai bên sườn toàn đá, trên không
có cây cối gì, dưới thì đất cát. Vì thế sai Mã Đại đem mười cỗ xe sơn đen, bày ở
trong hang, trong xe toàn những quả pháo ta chế sẵn ở nhà, gọi là địa lôi. Mỗi
quả pháo lớn chứa chín cái pháo con, cứ cách ba mươi bước chôn một quả, dùng ống
tre để dẫn thuốc. Pháo nổ ra thì núi phải sạt, đá phải vỡ. Ta lại sai Triệu Tử
Long dự sẵn xe cỏ, cỗ đá, để ngoài cửa. Rồi mới cho Ngụy Diên dử bọn Ngột Đột Cốt
vào cả trong hang, đợi Ngụy Diên ra xong, thì lấp cửa hang mà đốt. Ta nghe nói
“phàm vật gì đã lợi về nước, tất không lợi về lửa”. Áo giáp mây tuy dao, tên
không đâm thấu được, nhưng nó là đồ tẩm dầu, hễ gặp lửa là cháy. Quân Man ngang
ngạnh như thế, phi hỏa công thì đánh làm sao được! Nhưng để cho người Ô Qua chết
hết cả giống, đó thực là tội lớn của ta.
Các tướng bái phục nói:
- Thừa tướng mưu kế, qủy thần cũng không biết đâu mà lường!
Khổng Minh sai giải Mạnh Hoạch vào. Hoạch qùy dưới trướng. Khổng
Minh sai cởi trói cho Hoạch, dẫn ra chỗ khác ăn uống cho hoàn hồn. Rồi gọi người
bếp vào, dặn nhỏ vài câu, như thế… như thế…
Mạnh Hoạch, Chúc Dong phu nhân, Mạnh Ưu, Đái Lai động chúa và
cả bọn tông đảng đang ăn uống, chợt có một người vào báo với Mạnh Hoạch rằng:
- Thừa tướng xấu hổ không muốn trông thấy mặt ông, nên sai
tôi đến tha ông về, để thu nhặt quân mã quyết một trận thắng phụ, ông nên đi
ngay.
Mạnh Hoạch khóc, nói:
- Từ xưa đến nay, chưa có ai đánh giặc, bảy lần bắt được mà bảy
lần tha bao giờ. Tôi tuy là người mọi rợ, cũng hiểu chút đôi chút lễ nghĩa, có
đâu mà lại mặt dày mãi thế được!
Nói đoạn dắt díu vợ con, anh em, họ hàng, cởi trần ra khúm
núm vào qùy cả dưới trướng, tạ tội rằng:
- Thừa tướng thực là thiên oai, người phương nam tôi không
dám làm phản nữa!
Khổng Minh nói:
- Ông nay đã chịu rồi à?
Mạnh Hoạch khóc, nói:
- Con con cháu cháu tôi cũng được đội ơn sinh thành thừa tướng,
dám đâu không phục.
Khổng Minh mời Mạnh Hoạch lên trướng, mở tiệc yến ăn mừng, rồi
lại cho làm chúa các động như trước. Lại trả lại cho Mạnh Hoạch tất cả đất đai
đã chiếm được.
Mạnh Hoạch và tông đảng cùng quân Man, ai nấy đều đội ơn, mừng
rỡ, khoa chân múa tay. Đời sau có thơ khen Khổng Minh rằng:
Quạt lông, khăn lượt, ngọn cờ vàng,
Mưu mẹo cao sâu, phục chúa Man,
Khe động nay còn nhờ đức trạch,
Nghìn thu hương hỏa đỉnh cao cương.
Quan trưởng sử Phí Vĩ vào can rằng:
- Thừa tướng thân cầm binh mã, vào sâu đất bất mao này, đã
hàng phục được vua Man rồi, sao không đặt quan lại, để cùng với Mạnh Hoạch cai
trị có được không?
Khổng Minh nói:
- Nếu như thế, sẽ có ba điều khó: một là để quan ở lại, tất
phải để quân, quân sẽ không có gì ăn, hai là xứ Man này tàn phá, chết hại rất
nhiều, để quan mà không để quân tất sinh vạ, ba là người rợ thường giết lẫn
nhau, mang lòng ngờ vực, để quan ở lại tất cũng không tin nhau. Nay ta không phải
để người, mà cũng phải vận lương, đôi bên cùng yên ổn, không rắc rối gì, chẳng
hay hơn ư?
Ai cũng chịu là phải. Bởi thế, quân Man cảm ơn đức, mới lập đền
thờ sống Khổng Minh, bốn mùa cúng tế, và gọi là “Cha hiền”. Ai nấy tranh nhau
đem tiền đồ vàng bạc, châu báu, son, sơn, thuốc men, trâu cày, ngựa chiến, để
giúp việc quân nhu và thề không bao giờ làm phản nữa.
Thế là phương Nam bình xong.
Khổng Minh khao quân đâu đấy, rút quân về Thục, sai Ngụy Diên
dẫn quân bản bộ đi tiên phong. Vừa đến sông Lư Thủy bỗng dưng mây đen bốn mặt tối
sầm lại, gió lạnh nổi lên, cát sỏi bay vù vù, quân mã không sao tiến được. Ngụy
Diên quay trở lại báo với Khổng Minh. Khổng Minh mời Mạnh Hoạch ra hỏi.
Đó là:
Giặc Man ngoài cõi vừa yên ổn,
Ma quỷ bên sông lại giở trò.
Chưa biết Mạnh Hoạch nói ra làm sao, xem hồi sau phân giải.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét