Chương 7:
Lỗ đen không quá đen
Lỗ đen không quá đen
Trước
năm 1970, nghiên cứu của tôi về thuyết tương đối rộng chủ yếu tập trung vào vấn
đề có tồn tại hay không kỳ dị vụ nổ lớn. Tuy nhiên, vào một buổi tối tháng 11
năm đó, ngay sau khi con gái tôi, cháu Lucy, ra đời, tôi bắt đầu suy nghĩ về
những lỗ đen khi tôi trên đường về phòng ngủ. Vì sự tàn tật của mình, tôi di
chuyển rất chậm, nên có đủ thời gian để suy nghĩ. Vào thời đó còn chưa có một
định nghĩa chính xác cho biết những điểm nào của không-thời gian là nằm trong,
và những điểm nào là nằm ngoài lỗ đen. Tôi đã thảo luận với Roger Penrose ý
tưởng định nghĩa lỗ đen như một tập hợp mà các sự cố không thể thoát ra khỏi nó
để đến những khoảng cách lớn, và bây giờ nó đã trở thành một định nghĩa được
mọi người chấp nhận. Điều này có nghĩa là biên giới của lỗ đen, cũng gọi là
chân trời sự cố, được tạo bởi đường đi trong không-thời gian của các tia sáng
vừa chớm không thoát ra được khỏi lỗ đen, và vĩnh viễn chơi vơi ở mép của nó
(hình 7.1). Nó cũng gần giống như trò chơi chạy trốn cảnh sát, chỉ hơi vượt
trước được một bước nhưng còn chưa thể bứt ra được. Hình 7.1: Chân trời sự cố
được tạo ra bởi đường đi trong không-thời gian của các tia sáng vừa chớm không
thoát ra được khỏi lỗ đen, và vĩnh viễn chơi vơi ở mép của nó.
Bất chợt tôi nhận ra rằng đường đi của các tia sáng ấy không bao giờ có thể tiến tới gần nhau. Vì nếu không thế, cuối cùng chúng cũng sẽ phải chập vào nhau. Điều này cũng giống như đón gặp một người bạn đang phải chạy trốn cảnh sát ở phía ngược lại - rốt cuộc cả hai sẽ đều bị bắt! (Hay trong trường hợp của chúng ta cả hai tia sáng sẽ đều bị rơi vào lỗ đen). Nhưng nếu cả hai tia sáng đó đều bị nuốt bởi lỗ đen, thì chúng không thể ở biên giới của lỗ đen được. Như vậy đường đi của các tia sáng trong chân trời sự cố phải luôn luôn song song hoặc đi ra xa nhau. Một cách khác để thấy điều này là chân trời sự cố - biên giới của lỗ đen - giống như mép của một cái bóng - bóng của số phận treo lơ lửng. Nếu bạn nhìn cái bóng tạo bởi một nguồn sáng ở rất xa, chẳng hạn như mặt trời, bạn sẽ thấy rằng các tia sáng ở mép của nó không hề tiến tới gần nhau.
Nếu các tia sáng tạo nên chân trời sự cố - biên giới của lỗ đen - không bao giờ có thể tiến tới gần nhau, thì diện tích của chân trời sự cố có thể giữ nguyên không đổi hoặc tăng theo thời gian chứ không bao giờ giảm, vì nếu không, ít nhất sẽ có một số tia sáng trên biên phải tiến gần tới nhau. Thực tế thì diện tích sẽ tăng bất cứ khi nào có vật chất hoặc bức xạ rơi vào lỗ đen (hình7.2). Hoặc nếu có hai lỗ đen va chạm rồi xâm nhập vào nhau tạo thành một lỗ đen duy nhất, thì diện tích chân trời sự cố của lỗ đen tạo thành sẽ lớn hơn hoặc bằng tổng diện tích chân rời sự cố của hai lỗ đen riêng lẻ ban đầu (hình 7.3).
- Hình 7.2 (trái): Diện tích tăng khi vật chất rơi vào lỗ đen.
- Hình 7.3 (phải): Diện tích của chân trời sự cố của lỗ đen mới tạo thành sẽ lớn hơn hoặc bằng tổng diện tích của hai hố đen riêng lẻ ban đầu.
Tính không giảm đó của diện tích chân trời sự cố đã đặt một hạn chế quan trọng đối với hành vi khả dĩ của các lỗ đen. Tôi đã xúc động về phát minh của mình tới mức đêm đó tôi không sao chợp mắt được. Ngay hôm sau tôi gọi điện cho Roger Penrose. Ông đã đồng ý với tôi. Thực tế, tôi nghĩ rằng chính ông cũng đã ý thức được tính chất đó của diện tích chân trời sự cố. Tuy nhiên, ông đã dùng một định nghĩa hơi khác của lỗ đen. Ông không thấy được rằng biên giới của các lỗ đen theo hai định nghĩa đó thực chất là như nhau, và do đó, diện tích của chúng cũng như nhau với điều kiện lỗ đen đã an bài ở trạng thái không thay đổi theo thời gian.
Tính chất không giảm của diện tích lỗ đen rất giống với tính chất của một đại lượng vật lý có tên là entropy - đại lượng là thước đo mức độ mất trật tự của một hệ thống. Kinh nghiệm hàng ngày cũng cho chúng ta biết rằng nếu để các vật tự do thì mức độ mất trật tự sẽ có xu hướng tăng. (Chỉ cần ngừng sửa chữa xung quanh là bạn sẽ thấy điều đó ngay!). Người ta có thể tạo ra trật tự từ sự mất trật tự (ví dụ như bạn có thể quét sơn lại nhà), nhưng điều đó yêu cầu phải tốn sức lực hoặc năng lượng, và như vậy có nghĩa là sẽ làm giảm lượng năng lượng của trật tự sẵn có.
Phát biểu chính xác ý tưởng này chính là Định luật II của nhiệt động học. Định luật đó phát biểu rằng: entropy của một hệ cô lập luôn luôn tăng, và rằng khi hai hệ hợp lại với nhau làm một thì entropy của hệ hợp thành sẽ lớn hơn tổng entropy của hai hệ riêng rẽ. Ví dụ, xét một hệ phân tử khí đựng trong một cái hộp. Có thể xem những phân tử như những quả cầu billard nhỏ, liên tục va chạm với nhau và với thành hộp. Nhiệt độ của khí càng cao thì các phân tử chuyển động càng nhanh, và chúng va chạm càng thường xuyên và càng mạnh với thành hộp, và áp suất chúng đè lên thành hộp càng lớn. Giả sử rằng ban đầu tất cả các phân tử bị giam ở nửa trái của hộp bằng một vách ngăn. Nếu bỏ vách ngăn đi, các phân tử sẽ có xu hướng tràn ra chiếm cả hai nửa của hộp. Ở một thời điểm nào đó sau đấy, do may rủi, có thể tất cả các phân tử sẽ dồn cả sang nửa phải hoặc trở lại nửa trái của hộp, nhưng khả năng chắc chắn hơn rất nhiều là chúng có số lượng gần bằng nhau ở cả hai nửa hộp. Một trạng thái kém trật tự hơn, hay nói cách khác là mất trật tự hơn, trạng thái ban đầu mà trong đó mọi phân tử chỉ ở trong một nửa hộp. Do đó, người ta nói rằng entropy của khí đã tăng lên. Tương tự, giả sử rằng ta bắt đầu với hai hộp, một hộp chứa các phân tử ôxy và một hộp chứa các phân tử nitơ. Nếu người ta ghép hai hộp với nhau và bỏ vách ngăn đi thì các phân tử ôxy và nitơ sẽ bắt đầu trộn lẫn vào nhau. Ở một thời điểm nào đó sau đấy, trạng thái có xác suất lớn nhất sẽ là sự trộn khá đều các phân tử ôxy và nitơ trong cả hai hộp. Trạng thái đó là kém trật tự hơn trạng thái ban đầu của hai hộp riêng rẽ.
Định luật thứ hai của nhiệt dộng học có vị trí hơi khác so với các định luật khoa học khác, chẳng hạn như định luật hấp dẫn của Newton, bởi vì nó không phải luôn luôn đúng, mà chỉ đúng trong đại đa số các trường hợp mà thôi. Xác suất để tất cả các phân tử trong hộp đầu tiên của chúng ta dồn cả về một nửa của hộp ở thời điểm sau khi bỏ vách ngăn chỉ bằng một phần nhiều triệu triệu, nhưng nó vẫn có thể xảy ra. Tuy nhiên, nếu có một lỗ đen ở cạnh thì định luật đó dường như sẽ bị vi phạm khá dễ dàng: chỉ cần ném một số vật chất có lượng entropy lớn, như một hộp khí chẳng hạn, vào lỗ đen. Khi đó tổng số entropy của vật chất ở ngoài lỗ đen sẽ giảm. Tất nhiên, người ta vẫn còn có thể viện lý rằng entropy tổng cộng, kể cả entropy trong lỗ đen sẽ không giảm, nhưng vì không có cách gì để nhìn vào lỗ đen, nên chúng ta không thể thấy được vật chất trong đó chứa bao nhiêu entropy. Khi này sẽ thật là tuyệt vời nếu có một đặc tính nào đó của lỗ đen, mà qua nó, người quan sát ở bên ngoài có thể biết về entropy của lỗ đen, và đặc tính này lại tăng bất cứ khi nào có một lượng vật chất mang entropy rơi vào lỗ đen. Sự phát hiện vừa mô tả ở trên cho thấy rằng diện tích của chân trời sự cố sẽ tăng bất cứ khi nào có một lượng vật chất rơi vào lỗ đen. Một nghiên cứu sinh ở Princeton tên là Jacod Bekenstein đã đưa ra giả thuyết rằng diện tích của chân trời sự cố chính là thước đo entropy của lỗ đen. Khi vật chất mang entropy rơi vào lỗ đen, diện tích của chân trời sự cố tăng, nên tổng entropy của vật chất ngoài lỗ đen và diện tích chân trời sự cố sẽ không khi nào giảm.
Giả thuyết này dường như đã tránh cho định luật thứ hai nhiệt động học không bị vi phạm trong hầu hết mọi tình huống. Tuy nhiên, vẫn còn một khe hở tai hại. Nếu lỗ đen có entropy thì nó cũng sẽ phải có nhiệt độ. Nhưng một vật có nhiệt độ thì sẽ phải phát xạ với tốc độ nào đó. Kinh nghiệm hàng ngày cũng cho thấy rằng nếu người ta nung nóng một que cời trong lửa thì nó sẽ nóng đỏ và bức xạ, nhưng những vật ở nhiệt độ thấp cũng bức xạ, chỉ có điều lượng bức xạ khá nhỏ nên người ta thường không nhìn thấy mà thôi. Bức xạ này đòi hỏi phải có để tránh cho định luật thứ hai khỏi bị vi phạm. Như vậy, các lỗ đen cũng cần phải bức xạ. Nhưng theo chính định nghĩa của nó thì lỗ đen là vật được xem là không phát ra gì hết. Và do đó, dường như diện tích của chân trời sự cố không thể xem như entropy của lỗ đen. Năm 1972 cùng với Bradon Carte và một đồng nghiệp Mỹ Jim Bardeen, tôi đã viết một bài báo trong đó chỉ ra rằng mặc dù có nhiều điểm tương tự giữa diện tích của chân trời sự cố và entropy nhưng vẫn còn khó khăn đầy tai hại đó. Tôi cũng phải thú nhận rằng khi viết bài báo đó tôi đã bị thúc đẩy một phần bởi sự bực tức đối với Bekenstein, người mà tôi cảm thấy đã lạm dụng phát hiện của tôi về diện tích của chân trời sự cố. Tuy nhiên, cuối cùng hóa ra anh ta về căn bản lại là đúng, mặc dù ở một mức độ mà chính anh ta cũng không ngờ.
Bất chợt tôi nhận ra rằng đường đi của các tia sáng ấy không bao giờ có thể tiến tới gần nhau. Vì nếu không thế, cuối cùng chúng cũng sẽ phải chập vào nhau. Điều này cũng giống như đón gặp một người bạn đang phải chạy trốn cảnh sát ở phía ngược lại - rốt cuộc cả hai sẽ đều bị bắt! (Hay trong trường hợp của chúng ta cả hai tia sáng sẽ đều bị rơi vào lỗ đen). Nhưng nếu cả hai tia sáng đó đều bị nuốt bởi lỗ đen, thì chúng không thể ở biên giới của lỗ đen được. Như vậy đường đi của các tia sáng trong chân trời sự cố phải luôn luôn song song hoặc đi ra xa nhau. Một cách khác để thấy điều này là chân trời sự cố - biên giới của lỗ đen - giống như mép của một cái bóng - bóng của số phận treo lơ lửng. Nếu bạn nhìn cái bóng tạo bởi một nguồn sáng ở rất xa, chẳng hạn như mặt trời, bạn sẽ thấy rằng các tia sáng ở mép của nó không hề tiến tới gần nhau.
Nếu các tia sáng tạo nên chân trời sự cố - biên giới của lỗ đen - không bao giờ có thể tiến tới gần nhau, thì diện tích của chân trời sự cố có thể giữ nguyên không đổi hoặc tăng theo thời gian chứ không bao giờ giảm, vì nếu không, ít nhất sẽ có một số tia sáng trên biên phải tiến gần tới nhau. Thực tế thì diện tích sẽ tăng bất cứ khi nào có vật chất hoặc bức xạ rơi vào lỗ đen (hình7.2). Hoặc nếu có hai lỗ đen va chạm rồi xâm nhập vào nhau tạo thành một lỗ đen duy nhất, thì diện tích chân trời sự cố của lỗ đen tạo thành sẽ lớn hơn hoặc bằng tổng diện tích chân rời sự cố của hai lỗ đen riêng lẻ ban đầu (hình 7.3).
- Hình 7.2 (trái): Diện tích tăng khi vật chất rơi vào lỗ đen.
- Hình 7.3 (phải): Diện tích của chân trời sự cố của lỗ đen mới tạo thành sẽ lớn hơn hoặc bằng tổng diện tích của hai hố đen riêng lẻ ban đầu.
Tính không giảm đó của diện tích chân trời sự cố đã đặt một hạn chế quan trọng đối với hành vi khả dĩ của các lỗ đen. Tôi đã xúc động về phát minh của mình tới mức đêm đó tôi không sao chợp mắt được. Ngay hôm sau tôi gọi điện cho Roger Penrose. Ông đã đồng ý với tôi. Thực tế, tôi nghĩ rằng chính ông cũng đã ý thức được tính chất đó của diện tích chân trời sự cố. Tuy nhiên, ông đã dùng một định nghĩa hơi khác của lỗ đen. Ông không thấy được rằng biên giới của các lỗ đen theo hai định nghĩa đó thực chất là như nhau, và do đó, diện tích của chúng cũng như nhau với điều kiện lỗ đen đã an bài ở trạng thái không thay đổi theo thời gian.
Tính chất không giảm của diện tích lỗ đen rất giống với tính chất của một đại lượng vật lý có tên là entropy - đại lượng là thước đo mức độ mất trật tự của một hệ thống. Kinh nghiệm hàng ngày cũng cho chúng ta biết rằng nếu để các vật tự do thì mức độ mất trật tự sẽ có xu hướng tăng. (Chỉ cần ngừng sửa chữa xung quanh là bạn sẽ thấy điều đó ngay!). Người ta có thể tạo ra trật tự từ sự mất trật tự (ví dụ như bạn có thể quét sơn lại nhà), nhưng điều đó yêu cầu phải tốn sức lực hoặc năng lượng, và như vậy có nghĩa là sẽ làm giảm lượng năng lượng của trật tự sẵn có.
Phát biểu chính xác ý tưởng này chính là Định luật II của nhiệt động học. Định luật đó phát biểu rằng: entropy của một hệ cô lập luôn luôn tăng, và rằng khi hai hệ hợp lại với nhau làm một thì entropy của hệ hợp thành sẽ lớn hơn tổng entropy của hai hệ riêng rẽ. Ví dụ, xét một hệ phân tử khí đựng trong một cái hộp. Có thể xem những phân tử như những quả cầu billard nhỏ, liên tục va chạm với nhau và với thành hộp. Nhiệt độ của khí càng cao thì các phân tử chuyển động càng nhanh, và chúng va chạm càng thường xuyên và càng mạnh với thành hộp, và áp suất chúng đè lên thành hộp càng lớn. Giả sử rằng ban đầu tất cả các phân tử bị giam ở nửa trái của hộp bằng một vách ngăn. Nếu bỏ vách ngăn đi, các phân tử sẽ có xu hướng tràn ra chiếm cả hai nửa của hộp. Ở một thời điểm nào đó sau đấy, do may rủi, có thể tất cả các phân tử sẽ dồn cả sang nửa phải hoặc trở lại nửa trái của hộp, nhưng khả năng chắc chắn hơn rất nhiều là chúng có số lượng gần bằng nhau ở cả hai nửa hộp. Một trạng thái kém trật tự hơn, hay nói cách khác là mất trật tự hơn, trạng thái ban đầu mà trong đó mọi phân tử chỉ ở trong một nửa hộp. Do đó, người ta nói rằng entropy của khí đã tăng lên. Tương tự, giả sử rằng ta bắt đầu với hai hộp, một hộp chứa các phân tử ôxy và một hộp chứa các phân tử nitơ. Nếu người ta ghép hai hộp với nhau và bỏ vách ngăn đi thì các phân tử ôxy và nitơ sẽ bắt đầu trộn lẫn vào nhau. Ở một thời điểm nào đó sau đấy, trạng thái có xác suất lớn nhất sẽ là sự trộn khá đều các phân tử ôxy và nitơ trong cả hai hộp. Trạng thái đó là kém trật tự hơn trạng thái ban đầu của hai hộp riêng rẽ.
Định luật thứ hai của nhiệt dộng học có vị trí hơi khác so với các định luật khoa học khác, chẳng hạn như định luật hấp dẫn của Newton, bởi vì nó không phải luôn luôn đúng, mà chỉ đúng trong đại đa số các trường hợp mà thôi. Xác suất để tất cả các phân tử trong hộp đầu tiên của chúng ta dồn cả về một nửa của hộp ở thời điểm sau khi bỏ vách ngăn chỉ bằng một phần nhiều triệu triệu, nhưng nó vẫn có thể xảy ra. Tuy nhiên, nếu có một lỗ đen ở cạnh thì định luật đó dường như sẽ bị vi phạm khá dễ dàng: chỉ cần ném một số vật chất có lượng entropy lớn, như một hộp khí chẳng hạn, vào lỗ đen. Khi đó tổng số entropy của vật chất ở ngoài lỗ đen sẽ giảm. Tất nhiên, người ta vẫn còn có thể viện lý rằng entropy tổng cộng, kể cả entropy trong lỗ đen sẽ không giảm, nhưng vì không có cách gì để nhìn vào lỗ đen, nên chúng ta không thể thấy được vật chất trong đó chứa bao nhiêu entropy. Khi này sẽ thật là tuyệt vời nếu có một đặc tính nào đó của lỗ đen, mà qua nó, người quan sát ở bên ngoài có thể biết về entropy của lỗ đen, và đặc tính này lại tăng bất cứ khi nào có một lượng vật chất mang entropy rơi vào lỗ đen. Sự phát hiện vừa mô tả ở trên cho thấy rằng diện tích của chân trời sự cố sẽ tăng bất cứ khi nào có một lượng vật chất rơi vào lỗ đen. Một nghiên cứu sinh ở Princeton tên là Jacod Bekenstein đã đưa ra giả thuyết rằng diện tích của chân trời sự cố chính là thước đo entropy của lỗ đen. Khi vật chất mang entropy rơi vào lỗ đen, diện tích của chân trời sự cố tăng, nên tổng entropy của vật chất ngoài lỗ đen và diện tích chân trời sự cố sẽ không khi nào giảm.
Giả thuyết này dường như đã tránh cho định luật thứ hai nhiệt động học không bị vi phạm trong hầu hết mọi tình huống. Tuy nhiên, vẫn còn một khe hở tai hại. Nếu lỗ đen có entropy thì nó cũng sẽ phải có nhiệt độ. Nhưng một vật có nhiệt độ thì sẽ phải phát xạ với tốc độ nào đó. Kinh nghiệm hàng ngày cũng cho thấy rằng nếu người ta nung nóng một que cời trong lửa thì nó sẽ nóng đỏ và bức xạ, nhưng những vật ở nhiệt độ thấp cũng bức xạ, chỉ có điều lượng bức xạ khá nhỏ nên người ta thường không nhìn thấy mà thôi. Bức xạ này đòi hỏi phải có để tránh cho định luật thứ hai khỏi bị vi phạm. Như vậy, các lỗ đen cũng cần phải bức xạ. Nhưng theo chính định nghĩa của nó thì lỗ đen là vật được xem là không phát ra gì hết. Và do đó, dường như diện tích của chân trời sự cố không thể xem như entropy của lỗ đen. Năm 1972 cùng với Bradon Carte và một đồng nghiệp Mỹ Jim Bardeen, tôi đã viết một bài báo trong đó chỉ ra rằng mặc dù có nhiều điểm tương tự giữa diện tích của chân trời sự cố và entropy nhưng vẫn còn khó khăn đầy tai hại đó. Tôi cũng phải thú nhận rằng khi viết bài báo đó tôi đã bị thúc đẩy một phần bởi sự bực tức đối với Bekenstein, người mà tôi cảm thấy đã lạm dụng phát hiện của tôi về diện tích của chân trời sự cố. Tuy nhiên, cuối cùng hóa ra anh ta về căn bản lại là đúng, mặc dù ở một mức độ mà chính anh ta cũng không ngờ.
Tháng 9 năm
1973, trong thời gian đến thăm Matxcơva, tôi đã thảo luận về các lỗ đen với hai
chuyên gia hàng đầu của Liên Xô là Yakov Zedovich và Alexander Starobinsky. Họ
khẳng định với tôi rằng theo nguyên lý bất động của cơ học lượng tử thì các lỗ
đen quay cần phải sinh và phát ra các hạt. Tôi tin cơ sở vật lý trong lý lẽ của
họ, nhưng tôi không thích phương pháp toán học mà họ sử dụng để tính toán sự
phát xạ hạt. Do đó, tôi đã bắt tay vào tìm tòi một cách xử lý toán học tốt hơn
mà tôi đã trình bày tại seminar thông báo ở Oxford vào cuối tháng 11 năm 1973.
Vào thời gian đó, tôi còn chưa tiến hành tính toán để tìm ra sự phát xạ là bao
nhiêu. Tôi chờ đợi người ta sẽ phát hiện được chính bức xạ từ các lỗ đen quay
mà Zedovich và Starobinsky đã tiên đoán. Tuy nhiên, khi tính song tôi vô cùng
ngạc nhiên và băn khoăn thấy rằng thậm chí cả các lỗ đen không quay dường như
cũng sinh và phát ra các hạt với tốc độ đều. Thoạt tiên, tôi nghĩ rằng đó là dấu
hiệu cho biết một trong những phép gần đúng mà tôi sử dụng là không thỏa đáng.
Tôi ngại rằng nếu Bekenstein phát hiện ra điều đó, anh ta sẽ dùng nó như một lý
lẽ nữa để củng cố ý tưởng của anh ta về entropy của các lỗ đen, điều mà tôi vẫn
còn không thích. Tuy nhiên, càng suy nghĩ tôi càng thấy những phép gần đúng đó
thực sự là đúng đắn. Nhưng điều đã thuyết phục hẳn được tôi rằng sự phát xạ là
có thực là: phổ của các hạt bức xạ giống hệt như phổ phát xạ của vật nóng, và
các lỗ đen phát ra các hạt với tốc độ chính xác để không vi phạm định luật thứ
hai. Sau đó, những tính toán đã được lặp đi lặp lại dưới nhiều dạng khác nhau
và bởi những người khác. Tất cả họ đều khẳng định rằng lỗ đen cần phải phát ra
các hạt và bức xạ hệt như nó là một vật nóng với nhiệt độ chỉ phụ thuộc vào khối
lượng của nó: khối lượng càng lớn thì nhiệt độ càng thấp.
Nhưng làm sao các lỗ đen lại có thể phát ra các hạt trong khi chúng ta biết được rằng không có vật gì từ phía trong có thể thoát ra khỏi chân trời sự cố? Câu trả lời mà cơ học lượng tử nói với chúng ta là: các hạt không phát ra từ bên trong lỗ đen mà là từ không gian “trống rỗng” ở ngay bên ngoài chân trời sự cố của lỗ đen! Chúng ta có thể hiểu điều này như sau: cái mà chúng ta quen nghĩ là không gian “trống rỗng” lại không thể hoàn toàn là trống rỗng, bởi vì điều đó có nghĩa là tất cả các trường như trường hấp dẫn và trường điện từ sẽ cần phải chính xác bằng 0.
Tuy nhiên, giá trị của trường và tốc độ thay đổi của nó theo thời gian cũng giống như vị trí và vận tốc của hạt: nguyên lý bất định buộc rằng nếu người ta biết một trong hai đại lượng đó càng chính xác thì có thể biết về đại lượng kia càng kém chính xác! Vì vậy trong không gian trống rỗng, trường không cố định ở giá trị chính xác bằng 0, bởi vì nếu trái lại thì trường sẽ có cả giá trị chính xác (bằng 0) và tốc độ thay đổi cũng trị chính xác (bằng 0). Cần phải có một lượng bất định tối thiểu nào đó, hay người ta nói rằng, có những thăng giáng lượng tử trong giá trị của trường. Người ta có thể xem những thăng giáng đó như một cặp hạt ánh sáng hoặc hấp dẫn cùng xuất hiện ở một thời điểm nào đó, đi ra xa nhau rồi lại gặp lại và hủy nhau. Những hạt này là những hạt ảo giống như các hạt mang lực hấp dẫn của mặt trời: không giống các hạt thực, chúng không thể quan sát được một cách trực tiếp bằng máy dò hạt. Tuy nhiên, những hiệu ứng gián tiếp của chúng, chẳng hạn những thay đổi nhỏ về năng lượng của các quỹ đạo electron trong nguyên tử, đều có thể đo được và phù hợp với những tính toán lý thuyết với một mức độ chính xác rất cao. Nguyên lý bất định cũng tiên đoán rằng, có cả những cặp hạt vật chất như electron hoặc quark là ảo. Tuy nhiên, trong trường hợp này một thành viên của cặp là hạt, còn thành viên kia là phản hạt (các phản hạt của ánh sáng và hấp dẫn giống hệt như hạt).
Vì năng lượng không thể sinh ra từ hư vô, nên một trong các thành viên của cặp hạt/phản hạt sẽ có năng lượng dương và thành viên kia sẽ có năng lượng âm. Thành viên có năng lượng âm buộc phải là hạt ảo có thời gian sống ngắn, vì các hạt thực luôn luôn có năng lượng dương trong các tình huống thông thường. Do đó hạt ảo này phải đi tìm thành viên cùng cặp để hủy cùng với nó. Tuy nhiên, một hạt thực ở gần một vật nặng sẽ có năng lượng nhỏ hơn so với khi nó ở xa, bởi vì khi đưa nó ra xa cần phải tốn năng lượng để chống lại lực hút hấp dẫn của vật đó. Thường thường, năng lượng của hạt vẫn còn là dương, nhưng trường hợp hấp dẫn trong lỗ đen mạnh tới mức thậm chí một hạt thực ở đó cũng có năng lượng âm. Do đó, khi có mặt lỗ đen, hạt ảo với năng lượng âm khi rơi vào lỗ đen cũng có thể trở thành hạt thực hoặc phản hạt thực. Trong trường hợp đó, nó không còn cần phải hủy với bạn cùng cặp của nó nữa.
Hình 7.4: Hạt ảo cũng có thể rơi vào lỗ đen như một hạt thực hoặc phản hạt thực.
bạn bị bỏ rơi này cũng có thể rơi vào lỗ đen, hoặc khi có năng lượng dương, nó cũng có thể thoát ra ngoài vùng lân cận của lỗ đen như một hạt thực hoặc phản hạt thực (hình 7.4). Đối với người quan sát ở xa thì dường như nó được phát ra từ lỗ đen. Lỗ đen càng nhỏ thì khoảng cách mà hạt có năng lượng âm cần phải đi trước khi trở thành hạt thực sẽ càng ngắn và vì vậy tốc độ phát xạ và nhiệt độ biểu kiến của lỗ đen càng lớn.
Năng lượng dương của bức xạ đi ra sẽ được cân bằng bởi dòng hạt năng lượng âm đi vào lỗ đen. Theo phương trình Einstein E = mc2 (ở đây E là năng lượng, m là khối lượng và c là vận tốc độ sáng), năng lượng tỷ lệ với khối lượng. Do đó, dòng năng lượng âm đi vào lỗ đen sẽ giảm giảm khối lượng của nó. Vì lỗ đen mất khối lượng nên diện tích chân trời sự cố sẽ nhỏ đi, nhưng sự giảm đó của entropy được bù lại còn nhiều hơn bởi entropy của bức xạ phát ra, vì vậy định luật thứ hai sẽ không khi nào bị vi phạm.
Hơn nữa, khối lượng của lỗ đen càng nhỏ thì nhiệt độ của nó càng cao. Như vậy, vì lỗ đen mất khối lượng nên nhiệt độ và tốc độ bức xạ của nó tăng, dẫn tới nó mất khối lượng còn nhanh hơn nữa. Điều gì sẽ xảy ra khi khối lượng của lỗ đen cuối cùng cũng trở nên cực kỳ nhỏ hiện vẫn còn chưa rõ, nhưng sẽ rất có lý khi chúng ta phỏng đoán rằng nó sẽ hoàn toàn biến mất trong sự bùng nổ bức xạ khổng lồ cuối cùng, tương đương với sự bùng nổ của hàng triệu quả bom H.
Lỗ đen có khối lượng lớn hơn khối lượng của mặt trời một ít lần sẽ có nhiệt độ chỉ khoảng một phần mười triệu độ trên không độ tuyệt đối. Nó nhỏ hơn nhiều so với nhiệt độ của các bức xạ sóng cực ngắn choán đầy vũ trụ (khoảng 2,7 K), vì thế những lỗ đen này phát xạ thậm chí còn ít hơn hấp thụ. Nếu vũ trụ được an bài là sẽ giãn nở mãi mãi, thì nhiệt độ của các bức xạ sóng cực ngắn cuối cùng sẽ giảm tới mức nhỏ hơn nhiệt độ của lỗ đen và lỗ đen khi đó sẽ bắt đầu mất khối lượng. Nhưng ngay cả khi đó thì nhiệt độ của nó vẫn thấp đến mức cần khoảng 1 triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu (1 với sáu mươi sáu số không đứng sau) năm để lỗ đen bay hơi hoàn toàn. Con số đó lớn hơn nhiều tuổi của vũ trụ bằng 1 hoặc 2 và 10 con số không đứng sau (tức khoảng 10 hoặc 20 ngàn triệu năm).
Mặt khác như đã nói ở Chương 6 có thể những lỗ đen nguyên thủy được tạo thành bởi sự co lại của những bất thường trong giai đoạn rất sớm của vũ trụ. Những lỗ đen nguyên thủy với khối lượng ban đầu cỡ ngàn triệu tấn sẽ có thời gian sống xấp xỉ tuổi của vũ trụ. Những lỗ đen nguyên thủy với khối lượng nhỏ hơn con số đó chắc là đã bốc hơi hoàn toàn, nhưng những lỗ đen với khối lượng hơi lớn hơn sẽ vẫn còn đang tiếp tục phát xạ dưới dạng tia X hoặc tia gamma. Các tia X và tia gamma này giống như ánh sáng chỉ có điều bước sóng của chúng ngắn hơn nhiều. Những lỗ như thế khó mà gán cho cái nhãn là đen: chúng thực sự nóng trắng và phát năng lượng với tốc độ khoảng mười ngàn mega oat.
Một lỗ đen như vậy có thể cung cấp đủ năng lượng cho mười nhà máy điện lớn, nếu chúng ta biết cách khai thác nó. Tuy nhiên việc này chẳng phải dễ dàng gì: lỗ đen đó có khối lượng bằng cả một quả núi bị nén lại tới kích thước nhỏ hơn một phần triệu triệu của inch, nghĩa là cỡ kích thước của hạt nhân nguyên tử! Nếu bạn có một lỗ đen như thế trên mặt đất, bạn sẽ không có cách nào giữ cho nó khỏi rơi xuyên qua sàn nhà xuống tới tâm trái đất. Nó sẽ dao động xuyên qua trái đất cho tới khi cuối cùng đậu lại ở tâm. Như vậy chỗ duy nhất đặt được một lỗ đen như vậy để có thể khai thác năng lượng do nó bức xạ ra là ở trên một quỹ đạo quay xung quanh trái đất và cách duy nhất có thể đưa nó lên quỹ đạo ấy là hút nó tới đó bằng cách kéo một khối lượng lớn phía trước nó hệt như dùng củ cà rốt nhử con lừa. Điều này xem ra không phải là một đề nghị thực tế lắm, ít nhất cũng là trong tương lai gần.
Nhưng thậm chí nếu chúng ta không thể khai thác được sự phát xạ từ các lỗ đen nguyên thủy thì liệu chúng ta có cơ may quan sát được chúng không? Chúng ta có thể tìm kiếm các tia gamma mà các lỗ đen nguyên thủy phát ra trong hầu hết thời gian sống của chúng. Mặc dù phát xạ từ phần lớn các lỗ đen đều mờ nhạt vì chúng ở quá xa, nhưng tổng số của chúng thì có thể phát hiện được. Chúng ta hãy quan sát kỹ một nền tia gamma như vậy:
Hình 7.5: Đường chấm chấm cho thấy cường độ phải biến thiên thế nào theo tần số đối với các tia gamma do lỗ đen nguyên thủy gây ra nếu trung bình có 300 lỗ đen như thế trong một năm - ánh sáng khối. Hình 7.5 cho thấy cường độ quan sát được khác nhau ở những tần số khác nhau. Tuy nhiên, nền tia gamma này có thể và chắc là được sinh ra bởi những quá trình khác hơn là bởi các lỗ đen nguyên thủy. Đường chấm chấm trên Hình 7.5 cho thấy cường độ phải biến thiên thế nào theo tần số đối với các tia gamma do lỗ đen nguyên thủy gây ra nếu trung bình có 300 lỗ đen như thế trong một năm - ánh sáng khối. Do đó người ta có thể nói rằng những quan sát nền tia gamma không cho một bằng chứng khẳng định nào về các lỗ đen nguyên thủy, nhưng chúng cho chúng ta biết trong vũ trụ về trung bình không thể có hơn 300 lỗ đen như thế trong một năm - ánh sáng khối. Giới hạn đó có nghĩa là các lỗ đen nguyên thủy có thể tạo nên nhiều nhất là một phần triệu số vật chất của vũ trụ.
Với các lỗ đen nguyên thủy phân bố thưa thớt như vậy khó mà có khả năng một lỗ đen như thế ở đủ gần chúng ta để có thể quan sát nó như một nguồn tia gamma riêng rẽ. Nhưng vì lực hấp dẫn sẽ kéo lỗ đen nguyên thủy tới gần vật chất nên chúng sẽ thường gặp nhiều hơn ở trong hay gần các thiên hà. Như vậy, mặc dù nền tia gamma cho chúng ta biết rằng trung bình không thể có hơn 300 lỗ đen như thế trong một năm - ánh sáng khối nhưng nó lại chẳng cho chúng ta biết gì về tần suất gặp chúng trong thiên hà của chúng ta. Chẳng hạn nếu như chúng một triệu lần thường gặp hơn con số trung bình thì lỗ đen gần chúng ta nhất chắc cũng phải cách chúng ta chừng một ngàn triệu km, tức là xa như sao Diêm vương, hành tinh xa nhất mà chúng ta biết. Ở khoảng cách đó vẫn còn rất khó phát hiện bức xạ đều của một lỗ đen ngay cả khi nó là mười ngàn mega oát. Để quan sát được một lỗ đen nguyên thủy người ta phải phát hiện được một vài lượng tử gamma tới từ chính hướng đó trong một khoảng thời gian hợp lý, chẳng hạn như một tuần lễ. Nếu không, chúng chỉ là một phần của phông. Nhưng nguyên lý lượng tử của Planck cho chúng ta biết rằng mỗi một lượng tử gamma có năng lượng rất cao, vì tia gamma có tần số rất cao, nếu thậm chí nó có phát xạ với công suất 10 ngàn mega oát thì cũng không phải có nhiều lượng tử. Và để quan sát được một số lượng tử, lại tới từ khoảng cách rất xa như sao Diêm vương, đòi hỏi phải có một máy dò lớn hơn bất cứ máy dò nào đã được chế tạo cho tới nay. Hơn nữa máy dò này lại phải đặt trong không gian vũ trụ vì các tia gamma không thể thâm nhập qua bầu khí quyển.
Tất nhiên nếu một lỗ đen ở cách xa như sao Diêm vương đã đến ngày tận số và bùng nổ thì sẽ dễ dàng phát hiện được sự bùng nổ bức xạ của nó. Nhưng nếu lỗ đen đó liên tục bức xạ trong khoảng 10 hoặc 20 ngàn triệu năm trở lại đây thì xác suất để nó tận số trong vòng ít năm tới thực sự là rất nhỏ! Vì vậy, để có một cơ may hợp lý nhìn thấy vụ nổ của lỗ đen trước khi tiền trợ cấp nghiên cứu của bạn tiêu hết thì bạn phải tìm cách phát hiện những vụ nổ ở trong khoảng cách một năm ánh sáng. Bạn vẫn phải giải quyết vấn đề có một máy dò tia gamma lớn có thể phát hiện được một vài lượng tử gamma tới từ vụ nổ đó. Tuy nhiên, trong trường hợp này sẽ không cần phải xác định rằng tất cả các lượng tử tới cùng một hướng: chỉ cần quan sát thấy tất cả chúng đều tới trong một khoảng thời gian ngắn là có thể tin được rằng chúng tới từ cùng một vụ bùng nổ.
Một máy dò tia gamma có khả năng phát hiện ra các lỗ đen nguyên thủy chính là toàn bộ bầu khí quyển của trái đất. (Trong mọi trường hợp chúng ta không thể chế tạo được một máy dò lớn hơn). Khi một lượng tử gamma năng lượng cao đập vào các nguyên tử trong khí quyển, nó sẽ tạo ra cặp electron và positron (tức là phản electron). Khi các hạt này đập vào các nguyên tử khác, đến lượt mình, chúng sẽ tạo ra các cặp electron và positron nữa, và như vậy người ta sẽ thu được cái gọi là mưa electron. Kết quả là một dạng ánh sáng có tên là bức xạ Cherenkov. Do đó, người ta có thể phát hiện ra sự bùng nổ tia gamma bằng cách tìm các chớp sáng trong bầu trời đêm. Tất nhiên có nhiều hiện tương khác như chớp hoặc sự phản xạ ánh sáng từ các vệ tinh rơi xuống hoặc các mảnh vỡ trên quỹ đạo cũng có thể tạo ra các chớp sáng trên bầu trời. Người ta có thể phân biệt sự bùng nổ tia gamma với các hiện tượng đó bằng cách quan sát các chớp sáng đồng thời ở hai hoặc nhiều vị trí ở cách rất xa nhau.
Một thí nghiệm như thế đã được hai nhà khoa học ở Dublin là Neil Porter và Trevor Wecks thực hiện khi dùng các kính thiên văn ở Arizona. Họ đã tìm thấy nhiều chớp sáng nhưng không có cái nào có thể gán một cách chắc chắn cho sự bùng nổ tia gamma từ các lỗ đen nguyên thủy.
Nhưng làm sao các lỗ đen lại có thể phát ra các hạt trong khi chúng ta biết được rằng không có vật gì từ phía trong có thể thoát ra khỏi chân trời sự cố? Câu trả lời mà cơ học lượng tử nói với chúng ta là: các hạt không phát ra từ bên trong lỗ đen mà là từ không gian “trống rỗng” ở ngay bên ngoài chân trời sự cố của lỗ đen! Chúng ta có thể hiểu điều này như sau: cái mà chúng ta quen nghĩ là không gian “trống rỗng” lại không thể hoàn toàn là trống rỗng, bởi vì điều đó có nghĩa là tất cả các trường như trường hấp dẫn và trường điện từ sẽ cần phải chính xác bằng 0.
Tuy nhiên, giá trị của trường và tốc độ thay đổi của nó theo thời gian cũng giống như vị trí và vận tốc của hạt: nguyên lý bất định buộc rằng nếu người ta biết một trong hai đại lượng đó càng chính xác thì có thể biết về đại lượng kia càng kém chính xác! Vì vậy trong không gian trống rỗng, trường không cố định ở giá trị chính xác bằng 0, bởi vì nếu trái lại thì trường sẽ có cả giá trị chính xác (bằng 0) và tốc độ thay đổi cũng trị chính xác (bằng 0). Cần phải có một lượng bất định tối thiểu nào đó, hay người ta nói rằng, có những thăng giáng lượng tử trong giá trị của trường. Người ta có thể xem những thăng giáng đó như một cặp hạt ánh sáng hoặc hấp dẫn cùng xuất hiện ở một thời điểm nào đó, đi ra xa nhau rồi lại gặp lại và hủy nhau. Những hạt này là những hạt ảo giống như các hạt mang lực hấp dẫn của mặt trời: không giống các hạt thực, chúng không thể quan sát được một cách trực tiếp bằng máy dò hạt. Tuy nhiên, những hiệu ứng gián tiếp của chúng, chẳng hạn những thay đổi nhỏ về năng lượng của các quỹ đạo electron trong nguyên tử, đều có thể đo được và phù hợp với những tính toán lý thuyết với một mức độ chính xác rất cao. Nguyên lý bất định cũng tiên đoán rằng, có cả những cặp hạt vật chất như electron hoặc quark là ảo. Tuy nhiên, trong trường hợp này một thành viên của cặp là hạt, còn thành viên kia là phản hạt (các phản hạt của ánh sáng và hấp dẫn giống hệt như hạt).
Vì năng lượng không thể sinh ra từ hư vô, nên một trong các thành viên của cặp hạt/phản hạt sẽ có năng lượng dương và thành viên kia sẽ có năng lượng âm. Thành viên có năng lượng âm buộc phải là hạt ảo có thời gian sống ngắn, vì các hạt thực luôn luôn có năng lượng dương trong các tình huống thông thường. Do đó hạt ảo này phải đi tìm thành viên cùng cặp để hủy cùng với nó. Tuy nhiên, một hạt thực ở gần một vật nặng sẽ có năng lượng nhỏ hơn so với khi nó ở xa, bởi vì khi đưa nó ra xa cần phải tốn năng lượng để chống lại lực hút hấp dẫn của vật đó. Thường thường, năng lượng của hạt vẫn còn là dương, nhưng trường hợp hấp dẫn trong lỗ đen mạnh tới mức thậm chí một hạt thực ở đó cũng có năng lượng âm. Do đó, khi có mặt lỗ đen, hạt ảo với năng lượng âm khi rơi vào lỗ đen cũng có thể trở thành hạt thực hoặc phản hạt thực. Trong trường hợp đó, nó không còn cần phải hủy với bạn cùng cặp của nó nữa.
Hình 7.4: Hạt ảo cũng có thể rơi vào lỗ đen như một hạt thực hoặc phản hạt thực.
bạn bị bỏ rơi này cũng có thể rơi vào lỗ đen, hoặc khi có năng lượng dương, nó cũng có thể thoát ra ngoài vùng lân cận của lỗ đen như một hạt thực hoặc phản hạt thực (hình 7.4). Đối với người quan sát ở xa thì dường như nó được phát ra từ lỗ đen. Lỗ đen càng nhỏ thì khoảng cách mà hạt có năng lượng âm cần phải đi trước khi trở thành hạt thực sẽ càng ngắn và vì vậy tốc độ phát xạ và nhiệt độ biểu kiến của lỗ đen càng lớn.
Năng lượng dương của bức xạ đi ra sẽ được cân bằng bởi dòng hạt năng lượng âm đi vào lỗ đen. Theo phương trình Einstein E = mc2 (ở đây E là năng lượng, m là khối lượng và c là vận tốc độ sáng), năng lượng tỷ lệ với khối lượng. Do đó, dòng năng lượng âm đi vào lỗ đen sẽ giảm giảm khối lượng của nó. Vì lỗ đen mất khối lượng nên diện tích chân trời sự cố sẽ nhỏ đi, nhưng sự giảm đó của entropy được bù lại còn nhiều hơn bởi entropy của bức xạ phát ra, vì vậy định luật thứ hai sẽ không khi nào bị vi phạm.
Hơn nữa, khối lượng của lỗ đen càng nhỏ thì nhiệt độ của nó càng cao. Như vậy, vì lỗ đen mất khối lượng nên nhiệt độ và tốc độ bức xạ của nó tăng, dẫn tới nó mất khối lượng còn nhanh hơn nữa. Điều gì sẽ xảy ra khi khối lượng của lỗ đen cuối cùng cũng trở nên cực kỳ nhỏ hiện vẫn còn chưa rõ, nhưng sẽ rất có lý khi chúng ta phỏng đoán rằng nó sẽ hoàn toàn biến mất trong sự bùng nổ bức xạ khổng lồ cuối cùng, tương đương với sự bùng nổ của hàng triệu quả bom H.
Lỗ đen có khối lượng lớn hơn khối lượng của mặt trời một ít lần sẽ có nhiệt độ chỉ khoảng một phần mười triệu độ trên không độ tuyệt đối. Nó nhỏ hơn nhiều so với nhiệt độ của các bức xạ sóng cực ngắn choán đầy vũ trụ (khoảng 2,7 K), vì thế những lỗ đen này phát xạ thậm chí còn ít hơn hấp thụ. Nếu vũ trụ được an bài là sẽ giãn nở mãi mãi, thì nhiệt độ của các bức xạ sóng cực ngắn cuối cùng sẽ giảm tới mức nhỏ hơn nhiệt độ của lỗ đen và lỗ đen khi đó sẽ bắt đầu mất khối lượng. Nhưng ngay cả khi đó thì nhiệt độ của nó vẫn thấp đến mức cần khoảng 1 triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu (1 với sáu mươi sáu số không đứng sau) năm để lỗ đen bay hơi hoàn toàn. Con số đó lớn hơn nhiều tuổi của vũ trụ bằng 1 hoặc 2 và 10 con số không đứng sau (tức khoảng 10 hoặc 20 ngàn triệu năm).
Mặt khác như đã nói ở Chương 6 có thể những lỗ đen nguyên thủy được tạo thành bởi sự co lại của những bất thường trong giai đoạn rất sớm của vũ trụ. Những lỗ đen nguyên thủy với khối lượng ban đầu cỡ ngàn triệu tấn sẽ có thời gian sống xấp xỉ tuổi của vũ trụ. Những lỗ đen nguyên thủy với khối lượng nhỏ hơn con số đó chắc là đã bốc hơi hoàn toàn, nhưng những lỗ đen với khối lượng hơi lớn hơn sẽ vẫn còn đang tiếp tục phát xạ dưới dạng tia X hoặc tia gamma. Các tia X và tia gamma này giống như ánh sáng chỉ có điều bước sóng của chúng ngắn hơn nhiều. Những lỗ như thế khó mà gán cho cái nhãn là đen: chúng thực sự nóng trắng và phát năng lượng với tốc độ khoảng mười ngàn mega oat.
Một lỗ đen như vậy có thể cung cấp đủ năng lượng cho mười nhà máy điện lớn, nếu chúng ta biết cách khai thác nó. Tuy nhiên việc này chẳng phải dễ dàng gì: lỗ đen đó có khối lượng bằng cả một quả núi bị nén lại tới kích thước nhỏ hơn một phần triệu triệu của inch, nghĩa là cỡ kích thước của hạt nhân nguyên tử! Nếu bạn có một lỗ đen như thế trên mặt đất, bạn sẽ không có cách nào giữ cho nó khỏi rơi xuyên qua sàn nhà xuống tới tâm trái đất. Nó sẽ dao động xuyên qua trái đất cho tới khi cuối cùng đậu lại ở tâm. Như vậy chỗ duy nhất đặt được một lỗ đen như vậy để có thể khai thác năng lượng do nó bức xạ ra là ở trên một quỹ đạo quay xung quanh trái đất và cách duy nhất có thể đưa nó lên quỹ đạo ấy là hút nó tới đó bằng cách kéo một khối lượng lớn phía trước nó hệt như dùng củ cà rốt nhử con lừa. Điều này xem ra không phải là một đề nghị thực tế lắm, ít nhất cũng là trong tương lai gần.
Nhưng thậm chí nếu chúng ta không thể khai thác được sự phát xạ từ các lỗ đen nguyên thủy thì liệu chúng ta có cơ may quan sát được chúng không? Chúng ta có thể tìm kiếm các tia gamma mà các lỗ đen nguyên thủy phát ra trong hầu hết thời gian sống của chúng. Mặc dù phát xạ từ phần lớn các lỗ đen đều mờ nhạt vì chúng ở quá xa, nhưng tổng số của chúng thì có thể phát hiện được. Chúng ta hãy quan sát kỹ một nền tia gamma như vậy:
Hình 7.5: Đường chấm chấm cho thấy cường độ phải biến thiên thế nào theo tần số đối với các tia gamma do lỗ đen nguyên thủy gây ra nếu trung bình có 300 lỗ đen như thế trong một năm - ánh sáng khối. Hình 7.5 cho thấy cường độ quan sát được khác nhau ở những tần số khác nhau. Tuy nhiên, nền tia gamma này có thể và chắc là được sinh ra bởi những quá trình khác hơn là bởi các lỗ đen nguyên thủy. Đường chấm chấm trên Hình 7.5 cho thấy cường độ phải biến thiên thế nào theo tần số đối với các tia gamma do lỗ đen nguyên thủy gây ra nếu trung bình có 300 lỗ đen như thế trong một năm - ánh sáng khối. Do đó người ta có thể nói rằng những quan sát nền tia gamma không cho một bằng chứng khẳng định nào về các lỗ đen nguyên thủy, nhưng chúng cho chúng ta biết trong vũ trụ về trung bình không thể có hơn 300 lỗ đen như thế trong một năm - ánh sáng khối. Giới hạn đó có nghĩa là các lỗ đen nguyên thủy có thể tạo nên nhiều nhất là một phần triệu số vật chất của vũ trụ.
Với các lỗ đen nguyên thủy phân bố thưa thớt như vậy khó mà có khả năng một lỗ đen như thế ở đủ gần chúng ta để có thể quan sát nó như một nguồn tia gamma riêng rẽ. Nhưng vì lực hấp dẫn sẽ kéo lỗ đen nguyên thủy tới gần vật chất nên chúng sẽ thường gặp nhiều hơn ở trong hay gần các thiên hà. Như vậy, mặc dù nền tia gamma cho chúng ta biết rằng trung bình không thể có hơn 300 lỗ đen như thế trong một năm - ánh sáng khối nhưng nó lại chẳng cho chúng ta biết gì về tần suất gặp chúng trong thiên hà của chúng ta. Chẳng hạn nếu như chúng một triệu lần thường gặp hơn con số trung bình thì lỗ đen gần chúng ta nhất chắc cũng phải cách chúng ta chừng một ngàn triệu km, tức là xa như sao Diêm vương, hành tinh xa nhất mà chúng ta biết. Ở khoảng cách đó vẫn còn rất khó phát hiện bức xạ đều của một lỗ đen ngay cả khi nó là mười ngàn mega oát. Để quan sát được một lỗ đen nguyên thủy người ta phải phát hiện được một vài lượng tử gamma tới từ chính hướng đó trong một khoảng thời gian hợp lý, chẳng hạn như một tuần lễ. Nếu không, chúng chỉ là một phần của phông. Nhưng nguyên lý lượng tử của Planck cho chúng ta biết rằng mỗi một lượng tử gamma có năng lượng rất cao, vì tia gamma có tần số rất cao, nếu thậm chí nó có phát xạ với công suất 10 ngàn mega oát thì cũng không phải có nhiều lượng tử. Và để quan sát được một số lượng tử, lại tới từ khoảng cách rất xa như sao Diêm vương, đòi hỏi phải có một máy dò lớn hơn bất cứ máy dò nào đã được chế tạo cho tới nay. Hơn nữa máy dò này lại phải đặt trong không gian vũ trụ vì các tia gamma không thể thâm nhập qua bầu khí quyển.
Tất nhiên nếu một lỗ đen ở cách xa như sao Diêm vương đã đến ngày tận số và bùng nổ thì sẽ dễ dàng phát hiện được sự bùng nổ bức xạ của nó. Nhưng nếu lỗ đen đó liên tục bức xạ trong khoảng 10 hoặc 20 ngàn triệu năm trở lại đây thì xác suất để nó tận số trong vòng ít năm tới thực sự là rất nhỏ! Vì vậy, để có một cơ may hợp lý nhìn thấy vụ nổ của lỗ đen trước khi tiền trợ cấp nghiên cứu của bạn tiêu hết thì bạn phải tìm cách phát hiện những vụ nổ ở trong khoảng cách một năm ánh sáng. Bạn vẫn phải giải quyết vấn đề có một máy dò tia gamma lớn có thể phát hiện được một vài lượng tử gamma tới từ vụ nổ đó. Tuy nhiên, trong trường hợp này sẽ không cần phải xác định rằng tất cả các lượng tử tới cùng một hướng: chỉ cần quan sát thấy tất cả chúng đều tới trong một khoảng thời gian ngắn là có thể tin được rằng chúng tới từ cùng một vụ bùng nổ.
Một máy dò tia gamma có khả năng phát hiện ra các lỗ đen nguyên thủy chính là toàn bộ bầu khí quyển của trái đất. (Trong mọi trường hợp chúng ta không thể chế tạo được một máy dò lớn hơn). Khi một lượng tử gamma năng lượng cao đập vào các nguyên tử trong khí quyển, nó sẽ tạo ra cặp electron và positron (tức là phản electron). Khi các hạt này đập vào các nguyên tử khác, đến lượt mình, chúng sẽ tạo ra các cặp electron và positron nữa, và như vậy người ta sẽ thu được cái gọi là mưa electron. Kết quả là một dạng ánh sáng có tên là bức xạ Cherenkov. Do đó, người ta có thể phát hiện ra sự bùng nổ tia gamma bằng cách tìm các chớp sáng trong bầu trời đêm. Tất nhiên có nhiều hiện tương khác như chớp hoặc sự phản xạ ánh sáng từ các vệ tinh rơi xuống hoặc các mảnh vỡ trên quỹ đạo cũng có thể tạo ra các chớp sáng trên bầu trời. Người ta có thể phân biệt sự bùng nổ tia gamma với các hiện tượng đó bằng cách quan sát các chớp sáng đồng thời ở hai hoặc nhiều vị trí ở cách rất xa nhau.
Một thí nghiệm như thế đã được hai nhà khoa học ở Dublin là Neil Porter và Trevor Wecks thực hiện khi dùng các kính thiên văn ở Arizona. Họ đã tìm thấy nhiều chớp sáng nhưng không có cái nào có thể gán một cách chắc chắn cho sự bùng nổ tia gamma từ các lỗ đen nguyên thủy.
Ngay cả khi nếu việc tìm kiếm các lỗ đen nguyên thủy
không có kết quả, vì điều này vẫn có thể xảy ra, thì nó vẫn cho chúng ta những
thông tin quan trọng về những giai đoạn rất sớm của vũ trụ. Nếu vũ trụ ở giai
đoạn rất sớm là hỗn loạn và bất thường hoặc nếu áp suất vật chất là thấp thì
người ta có thể nghĩ rằng nó đã tạo ra nhiều lỗ đen nguyên thủy hơn là giới hạn
đã được xác lập dựa trên những quan sát về phông tia gamma. Chỉ nếu ở giai đoạn
rất sớm, vũ trụ là rất trơn tru và đều đặn với áp suất cao thì người ta mới có
thể giải thích được tại sao lại không có nhiều lỗ đen nguyên thủy.
Ý tưởng về
bức xạ phát từ các lỗ đen là một ví dụ đầu tiên về sự tiên đoán phụ thuộc một
cách căn bản vào cả hai lý thuyết lớn của thế kỷ chúng ta: thuyết tương đối
rộng và cơ học lượng tử. Nó đã gặp nhiều ý kiến phản đối lúc đầu vì nó đảo lộn
quan điểm hiện thời “làm sao lỗ đen lại phát ra cái gì đó?”. Khi lần đầu tiên
tôi công bố các kết quả tính toán của tôi tại một hội nghị ở Phòng thì nghiệm
Rurtherford Appleton gần Oxford, tôi đã được chào đón bằng sự hoài nghi của hầu
hết mọi người. Vào lúc kết thúc bản báo cáo của tôi, vị chủ tọa phiên họp, ông
John Taylor của trường Kings College, London đã đứng dậy tuyên bố rằng tất cả
những thứ đó là vô nghĩa. Thậm chí ông còn viết một bài báo về vấn đề này. Tuy
nhiên, rồi cuối cùng, hầu hết mọi người, kể cả ông John Taylo cũng đã đi đến
kết luận rằng các lỗ đen cần phải phát bức xạ như các vật nóng, nếu những quan
niệm khác của chúng ta về thuyết tương đối rộng và cơ học lượng tử là đúng đắn.
Như vậy, mặc dù ngay cả khi chúng ta còn chưa tìm thấy một lỗ đen nguyên thủy
nào vẫn có một sự khá nhất trí cho rằng nếu chúng ta phát hiện ra lỗ đen đó thì
nó sẽ phải phát ra một lượng lớn tia X và tia gamma.
Sự tồn tại của bức xạ phát
ra từ lỗ đen cũng còn ngụ ý rằng sự co lại do hấp dẫn không phải là chấm hết và
không thể đảo ngược được như một thời chúng ta đã nghĩ. Nếu một nhà du hành rơi
vào một lỗ đen thì khối lượng của nó sẽ tăng, nhưng cuối cùng năng lượng tương
đương với khối lượng gia tăng đó sẽ được trả lại cho vũ trụ dưới dạng bức xạ.
Như vậy theo một ý nghĩa nào đó nhà du hành vũ trụ của chúng ta đã được luân
hồi. Tuy nhiên, đó là một số phận bất tử đáng thương, và quan niệm cá nhân về
thời gian của nhà du hành chắc cũng sẽ chấm hết khi anh ta bị xé ra từng mảnh
trong lỗ đen! Ngay cả các loại hạt cuối cùng được phát ra từ lỗ đen nói chung
cũng sẽ khác với những hạt đã tạo nên nhà du hành: đặc điểm duy nhất còn lại
của anh ta chỉ là khối lượng và năng lượng. Những phép gần đúng mà tôi sử dụng
để tính ra sự phát xạ từ lỗ đen vẫn còn hiệu lực tốt khi lỗ đen có khối lượng
chỉ lớn hơn một phần của gam. Tuy nhiên chúng sẽ không còn dùng được nữa ở điểm
cuối đời của lỗ đen, khi mà khối lượng của nó trở nên cực nhỏ. Kết cục có nhiều
khả năng nhất là lỗ đen sẽ biến mất, ít nhất là khỏi vùng vũ trụ của chúng ta
mang theo cả nhà du hành và kỳ dị có thể có ở bên trong nó. Đây là chỉ dẫn đầu
tiên cho thấy cơ học lượng tử có thể khử các kỳ dị đã được tiên đoán bởi thuyết
tương đối rộng. Tuy nhiên các phương pháp mà tôi và những người khác sử dụng
vào năm 1974 chưa thể trả lời được cho những câu hỏi, ví dụ như liệu những kỳ
dị đó có xuất hiện trong lý thuyết lượng tử hấp dẫn hay không? Do đó từ năm
1975 trở đi tôi đã bắt đầu phát triển một cách tiếp cận mạnh hơn đối với hấp
dẫn lượng tử dựa trên ý tưởng của Richard Feynman về phép lấy tổng theo những
lịch sử. Câu trả lời mà cách tiếp cận này đưa ra cho nguồn gốc và số phận của
vũ trụ và những thứ chứa bên trong nó, chẳng hạn như nhà du hành, sẽ được mô tả
ở hai chương sau. Chúng ta sẽ thấy rằng mặc dù nguyên lý bất định đặt những hạn
chế về độ chính xác cho tất cả các tiên đoán của chúng ta, nhưng đồng thời nó
lại loại bỏ được tính không thể tiên đoán - một tính chất rất cơ bản xảy ra ở
điểm kỳ dị của không - thời gian.
Chương 8:
Nguồn gốc và số phận của vũ trụ
Lý
thuyết tương đối rộng của Einstein, tiên đoán rằng không gian, thời gian bắt
đầu từ kỳ dị của vụ nổ lớn, sẽ kết thúc hoặc tại một kỳ dị cuối cùng (trường
hợp toàn vũ trụ co lại) hoặc tại một kỳ dị nằm bên trong một lỗ đen (trường hợp
một vùng định xứ, ví dụ một sao co lại). Mọi vật chất rơi vào lỗ đen, sẽ bị phá
hủy tại điểm kỳ dị, chỉ còn lại hiệu ứng hấp dẫn của khối lượng là còn được cảm
nhận từ phía bên ngoài. Mặt khác, khi các hiệu ứng lượng tử được tính đến thì
dường như khối lượng và năng lượng của vật chất cuối cùng sẽ trở về với phần
còn lại của vũ trụ, và lỗ đen cùng với mọi kỳ dị bên trong sẽ bay hơi và biến
mất. Liệu cơ học lượng tử có gây một hiệu ứng bi kịch như thế đối với vụ nổ lớn
và kỳ dị chung cuộc hay không? Điều gì thực tế đã và sẽ xảy ra vào các giai
đoạn rất sớm và muộn hơn của vũ trụ, khi các trường hợp hấp dẫn mạnh đến mức mà
các hiệu ứng lượng tử không thể nào bỏ qua được? Thực tế vũ trụ có một điểm bắt
đầu và một điểm kết thúc hay không? Và nếu có, thì phải hình dung chúng ra sao?
Trong suốt những năm 70 tôi đã tập trung nghiên cứu các lỗ đen, nhưng vào năm
1981, tôi lại lưu tâm đến các vấn đề xung quanh nguồn gốc và số phận của vũ trụ
khi tôi tham gia một hội thảo về vũ trụ học tổ chức bởi các tu sĩ dòng Jesuit
tại Vatican. Nhà thờ Thiên chúa giáo đã phạm một sai lầm đối với Galileo khi họ
phủ định một định luật khoa học vì tuyên bố rằng mặt trời phải quay quanh quả
đất. Bây giờ sau nhiều thế kỷ, họ đã quyết định mời nhiều nhà khoa học làm cố
vấn về vũ trụ học. Cuối hội nghị các nhà khoa học đã được tiếp kiến Giáo hoàng.
Ông nói rằng nghiên cứu sự tiến triển của vũ trụ sau vụ nổ lớn là đúng song Nhà
thờ không tìm hiểu về bản thân vụ nổ lớn vì đó là thời điểm của Sáng tạo, nên
thuộc công việc của Chúa. Tôi rất vui mừng vì đức Giáo hoàng không biết đến bài
phát biểu của tôi tại hội thảo: khả năng không - thời gian là hữu hạn song
không có biên, điều đó có nghĩa là không có cái ban đầu, không có thời điểm của
Sáng tạo. Tôi không có ý muốn chịu cùng số phận của Galileo, người mà tôi có
một cảm giác mạnh mẽ về sự đồng nhất với tôi, một phần vì sự trùng hợp giữa
ngày sinh của tôi đúng tròn 300 năm sau ngày chết của ông.
Để giải thích các ý
tưởng của tôi và những người khác về điều cơ học lượng tử có thể tác động lên
nguồn gốc và số phận của vũ trụ, trước hết cần phải hiểu về lịch sử của vũ trụ
theo quan điểm được nhiều người chấp nhận, dựa trên mô hình được biết dưới “mô
hình nóng của vụ nổ lớn” . Mô hình này giả định rằng vũ trụ được miêu tả bởi
một mô hình Friedmann, ngược theo thời gian mãi tận lúc có vụ nổ lớn. Trong
những mô hình như vậy người ta thấy rằng lúc vũ trụ nở, mọi vật chất và bức xạ
sẽ lạnh dần. (Khi vũ trụ đạt kích thước gấp đôi thì nhiệt độ của vũ trụ giảm
xuống một nửa). Vì nhiệt độ là số đo năng lượng trung bình - hay vận tốc - của
các hạt, quá trình lạnh dần này sẽ gây một hiệu ứng lớn đối với vật chất trong
vũ trụ. Ở nhiệt độ rất cao, các hạt chuyển động nhanh đến mức có thể thoát ra
khỏi mọi trường hút giữa chúng với nhau do lực hạt nhân, hoặc điện tử tạo nên,
song khi chúng trở nên lạnh thì chúng hút nhau và kết dính với nhau.
Ngoài ra,
các loại hạt tồn tại trong vũ trụ cũng phụ thuộc vào nhiệt độ. Ở nhiệt độ đủ
cao, các hạt có năng lượng lớn và khi chạm nhau, nhiều cặp hạt/phản hạt có thể
sinh ra và mặc dù nhiều hạt sau khi sinh ra có thể bị hủy lúc chạm các phản
hạt, chúng vẫn được sinh ra nhanh hơn bị hủy đi. Ở nhiệt độ thấp hơn, khi các
hạt va chạm nhau có năng lượng nhỏ hơn, các cặp hạt/phản hạt sinh ra với tốc độ
chậm hơn và như vậy quá trình hủy của chúng nhanh hơn quá trình sinh.
Tại vụ nổ
lớn, kích thước của vũ trụ được xem như là bằng không, vì vậy nhiệt độ là vô
cùng lớn. Song trong quá trình giãn nở, nhiệt độ của bức xạ sẽ giảm xuống. Một
giây sau vụ nổ lớn, nhiệt độ đã giảm xuống còn khoảng 10 ngàn triệu độ. Nhiệt
độ này cỡ ngàn lần nhiệt độ ở tâm mặt trời và cỡ nhiệt độ đạt được lúc bom H
(tức bom khinh khí) nổ. Vào thời điểm đó vũ trụ chứa phần lớn là các photon, electron
và neutron (là những hạt nhẹ chỉ tham gia tương tác yếu và hấp dẫn) và các phản
hạt của chúng, cùng với một số proton và neutron.
Lúc vũ trụ tiếp tục giãn nở
và nhiệt độ hạ xuống thì các cặp electron/phản - electron sinh ra chậm hơn là
bị hủy. Vì thế phần lớn các electron và phản - electron hủy với nhau để tạo
thành nhiều photon và để sót lại một số electron. Song các hạt neutrino và phản
- neutrino ít hủy nhau vì các hạt này tương tác với nhau và với các hạt khác
rất yếu. Cho nên hiện nay chúng còn tồn tại trong vũ trụ. Nếu ta có thể quan
sát được chúng thì ta có một bằng chứng chắc chắn về bức tranh của giai đoạn
nóng đầu tiên của vũ trụ. Tiếc thay, năng lượng của chúng ngày nay quá nhỏ để
ta có thể quan sát được chúng một cách trực tiếp. Nhưng nếu neutrino có một
khối lượng nhỏ, theo kết quả một thí nghiệm chưa được kiểm nghiệm lại do những
người Nga thực hiện năm 1981, thì ta có thể ghi đo được chúng một cách gián
tiếp: chúng phải tạo thành một “vật chất tối”, như đã nói trước đây, vật chất
sẽ sinh ra một lực hấp dẫn đủ để hãm đứng sự giãn nở của vũ trụ và buộc vũ trụ
co trở lại.
Khoảng một trăm giây sau vụ nổ lớn, nhiệt độ xuống còn một ngàn
triệu độ, bằng nhiệt độ trong các sao nóng nhất. Ở nhiệt độ đó proton và
neutron không còn đủ năng lượng để thoát khỏi sức hút của lực hạt nhân và kết
hợp với nhau để tạo thành hạt nhân của nguyên tử đơteri (hydro nặng), gồm một
proton và một neutron. Các hạt nhân của đơteri lại kết hợp thêm với các proton
và neutron để tạo thành hạt nhân heli, gồm hai proton và hai neutron và một số
hạt nhân nặng hơn là liti và berili. Người ta có thể tính ra rằng trong mô hình
nóng của vụ nổ lớn, khoảng một phần tư các proton và neutron biến thành hạt
nhân heli, cùng một số nhỏ hydro nặng và các hạt nhân khác. Số neutron còn lại
phân hủy thành proton vốn là hạt nhân của nguyên tử hydro.
Bức tranh về giai
đoạn nóng trước đây của vũ trụ lần đầu tiên được phác họa bởi George Gamow
trong công trình nổi tiếng năm 1948, thực hiện chung với một sinh viên của ông
là Ralph Alpher. Gamow là một người giàu tính hóm hỉnh, ông thuyết phục nhà vật
lý hạt nhân Hans Bethe điền thêm tên vào công trình với ý muốn làm cho danh
sách tác giả Alpher, Bethe, Gamow đọc lên nghe gần như âm của ba chữ cái đầu
tiên của bảng vần Hy Lạp là alpha, beta, gamma: thật là thích hợp cho một công
trình nói về giai đoạn đầu của vũ trụ! Trong công trình này, các tác giả tiên
đoán một cách đặc sắc rằng bức xạ (dưới dạng các photon) từ những giai đoạn
nóng tiền sử của vũ trụ sẽ tàn dư lại trong giai đoạn hiện nay, song với nhiệt
độ hạ xuống chỉ còn vài độ trên không độ tuyệt đối (- 273 độ C). Bức xạ này đã
được Penzias và Wilson phát hiện năm 1965.
Vào thời gian khi Alpher, Bethe,
Gamow viết công trình trên, người ta chưa biết nhiều về các phản ứng hạt nhân
giữa proton và neutron. Các tính toán dự báo về tỉ số các nguyên tố trong tiền
sử của vũ trụ vì lẽ trên không được chính xác lắm, song những tính toán đó đã
được thực hiện lại trên cơ sở những kiến thức hiện đại và cho những kết quả
trùng hợp tốt với các quan trắc thực nghiệm. Khó mà cắt nghĩa theo một cách nào
khác vì sao trong vũ trụ nhiều heli như vậy. Do đó chúng ta có thể tin tưởng
rằng chúng ta có một bức tranh đúng đắn, ít nhất ngược lại theo thời gian đến
thời điểm khoảng 1 giây sau vụ nổ lớn.
Trong vòng một vài giờ sau vụ nổ lớn, sự
sinh ra heli và các nguyên tố khác dừng lại. Sau đó trong vòng triệu năm tiếp
theo, vũ trụ tiếp tục giãn nở và không có điều gì đặc biệt xảy ra. Cuối cùng
lúc nhiệt độ hạ xuống còn khoảng vài ngàn độ, và electron cùng các hạt nhân không
còn đủ năng lượng thoát khỏi lực hút điện từ giữa chúng, thì chúng kết hợp với
nhau tạo thành các nguyên tử. Vũ trụ trong Hoàn cục tiếp tục giãn nở và lạnh
dần, song trong các vùng mà mật độ cao hơn trung bình, quá trình giãn nở có
chậm hơn do lực hấp dẫn ở đấy lớn hơn. Điều này có thể dẫn đến sự dừng hẳn quá
trình giãn nở của một số vùng nào đó và bắt đầu quá trình co lại. Khi các vùng
này co lại, lực hút hấp dẫn của vật chất chung quanh bên ngoài sẽ làm cho các
vùng đó bắt đầu quay. Vì các vùng này tiếp tục co nhỏ lại nên chúng quay nhanh
hơn, hoàn toàn tương tự như vận động viên trượt băng đang quay trên băng sẽ
quay nhanh hơn khi họ co tay sát sơ thể. Cuối cùng khi vùng đang xét trở nên đủ
nhỏ, thì nó quay nhanh hơn đủ cân bằng với lực hấp dẫn và những thiên hà quay
dạng hình đĩa được hình thành theo cách đó. Các vùng khác, nếu không thu được
một chuyển động quay thì sẽ có dạng hình bầu dục và sẽ được gọi là những thiên
hà elliptic. Các thiên hà này sẽ dừng co lại vì nhiều bộ phận riêng lẻ của chúng
sẽ chuyển động trên những quỹ đạo ổn định quanh tâm thiên hà, song về toàn cục
thì thiên hà không có chuyển động quay.
Cùng với thời gian, các khối khí hydro
và heli trong các thiên hà sẽ phân rã thành các đám khí nhỏ hơn và những đám
khí này sẽ co lại dưới sức hấp dẫn của chúng. Khi chúng co lại thì các nguyên
tử ở trong sẽ va chạm nhau và nhiệt độ của khí sẽ tăng lên, có thể đến mức đủ
cao để xảy ra phản ứng nhiệt hạch. Lúc này hydro kết thành heli, nhiệt lượng
thoát ra làm tăng áp suất và các đám mây không co lại thêm nữa. Chúng ổn định
trong trạng thái đó rất lâu như các sao giống mặt trời, đốt cháy hydro thành
heli và bức xạ phát sinh dưới dạng nhiệt và ánh sáng. Những sao có khối lượng
lớn hơn cần có nhiệt độ cao hơn để cân bằng lực hút hấp dẫn lớn hơn của chúng,
và các phản ứng nhiệt hạch xảy ra nhanh hơn, cho nên chúng sẽ tiêu hủy hydro
trong vòng chừng một trăm triệu năm. Chúng sẽ co lại, nóng lên và bắt đầu biến
heli thành những nguyên tố nặng hơn như cacbon hoặc oxy. Song chúng không để
thoát nhiều năng lượng hơn, vì vậy một trạng thái tới hạn sẽ xảy ra như đã miêu
tả ở chương nói về các lỗ đen.
Điều gì sẽ xảy ra sau đó không hoàn toàn rõ lắm
song hình như các vùng ở tâm sao sẽ co lại đến một trạng thái mật độ cao như
một sao neutron hoặc lỗ đen. Các vùng bên ngoài đôi khi có thể bị bắn ra trong
một vụ nổ gọi là vụ nổ siêu sao, phát ra ánh sáng mạnh hơn mọi sao khác trong
thiên hà. Một số nguyên tố nặng hình thành ở cuối đời một sao sẽ bị bắn trở lại
vào đám khí của thiên hà và sẽ là nguyên liệu cho thế hệ tiếp theo của các sao.
Mặt trời của chúng ta chứa khoảng 2% các nguyên tố nặng đó vì thuộc thế hệ sao
thứ hai hoặc thứ ba, hình thành chừng năm ngàn triệu năm về trước từ một đám
mây quay chứa các mảnh vụn của các siêu sao thế hệ trước. Phần lớn khí trong
các đám mây đó sẽ cấu thành mặt trời hoặc bị bắn xa, còn một khối lượng nhỏ các
nguyên tố nặng sẽ kết với nhau thành các thiên thể hiện đang chuyển động trên
các quỹ đạo quanh mặt trời như trái đất.
Lúc ban đầu quả đất rất nóng và không
có khí quyển. Theo thời gian quả đất lạnh dần và có được bầu khí quyển hình
thành nhờ sự khuếch tán các chất khí từ khoáng chất. Bầu khí quyển trong quá
khứ không phải là bầu khí quyển thích hợp với cuộc sống. Bầu khí quyển này
không chứa ôxy mà chỉ chứa một số chất khí khác là độc tố cho cuộc sống như
sunfua hydro (là các chất khí gây ra mùi trứng thối). Song có những dạng sống
sơ khai có thể phát triển trong những điều kiện như vậy. Người ta cho rằng sự
sống đó bắt đầu trong những đại dương, rất có thể là kết quả ngẫu nhiên của sự
phức hợp các nguyên tử thành những cấu trúc lớn, gọi là đại phân tử, những đại
phân tử này có khả năng tập hợp nhiều nguyên tử khác trong đại dương thành
những cấu trúc tương tự. Như thế chúng có thể tự tạo và sinh sản.
Trong một số
trường hợp có thể xảy ra các sai lầm trong quá trình sinh sản. Phần lớn các sai
lầm đó dẫn đến những đại phân tử mới không có khả năng tự tạo và do đó tàn lụi
dần. Song cũng có những sai lầm dẫn đến những đại phân tử lại có khả năng tự
tạo. Các đại phân tử này hoàn hảo hơn và sẽ thay thế dần các đại phân tử
trước. Bằng cách đó hình thành một quá trình tiến hóa dẫn đến sự phát triển
những cơ thể phức tạp hơn, có khả năng tự tạo. Những dạng sống sơ đẳng lúc đầu
tiêu thụ nhiều nguyên liệu khác nhau như sunfua hydro và ôxy thoát sinh. Quá
trình này dần dần biến đổi thành phần của khí quyển đến hiện trạng và do đó tạo
điều kiện thuận lợi cho các dạng sống cao cấp hơn như cá, bò sát, loài có vú,
và cuối cùng là con người.
Bức tranh phác họa trên đây của vũ trụ từ trạng thái
rất nóng và lạnh dần trong quá trình giãn nở của vũ trụ phù hợp với những quan
trắc có được. Tuy nhiên, bức tranh đó cũng đặt ra nhiều câu hỏi quan trọng chưa
có câu trả lời:
(1) Tại vì sao vũ trụ nóng đến như vậy ở các giai đoạn đầu
tiên?
(2) Vì sao vũ trụ đồng nhất như vậy ở kích thước lớn? Tại sao vũ trụ
giống nhau ở mọi điểm và theo mọi hướng? Nói riêng vì sao nhiệt độ của bức xạ
phông có trị số bằng nhau theo mọi hướng?
Tình huống tương tự như khi ta hỏi
nhiều sinh viên một câu hỏi thi, nếu chúng trả lời giống nhau thì ta có thể tin
rằng chúng đã trao đổi với nhau. Còn trong mô hình mô tả trên đây, từ vụ nổ lớn
ánh sáng không đủ thời gian để đi từ một vùng quá xa xôi đến một vùng khác, mặc
dù các vùng này vốn đã kề nhau trong giai đoạn sớm của vũ trụ. Theo thuyết
tương đối, nếu ánh sáng không thể đi từ một vùng này đến một vùng khác, thì
không có thông tin nào đã được trao đổi. Như vậy các vùng khác nhau không thể
có cùng một nhiệt độ, trừ khi chúng có cùng một nhiệt độ lúc ban đầu vì một lý
do nào đó chưa giải thích được.
(3) Vì sao vũ trụ bắt đầu giãn nở với vận tốc
tới hạn là vận tốc ranh giới giữa mô hình co lại và mô hình giãn nở, và ngay
trong thời gian hiện tại, mười ngàn triệu năm sau vẫn còn giãn nở với vận tốc
tới hạn đó? Nếu như vận tốc giãn nở tại thời điểm một giây sau vụ nổ lớn chỉ
nhỏ hơn một phần trăm ngàn triệu triệu thì vũ trụ đã co lại trước khi bắt đầu
đạt kích thước hiện nay.
(4) Mặc dầu vũ trụ đồng nhất xét ở kích thước lớn, vũ
trụ vẫn chứa những vùng định xứ có nồng độ vật chất cao hơn như các sao và
thiên hà. Người ta cho rằng các sao và thiên hà được hình thành do sự khác nhau
về mật độ của các vùng ngay trong các giai đoạn sớm của vũ trụ. Vậy nguồn gốc
của các thăng giáng mật độ là ở đâu?
Lý thuyết tương đối, xét độc lập, không
thể giải thích được các điểm trên và đưa ra các câu trả lời cho những câu hỏi
vừa đặt ra vì lý thuyết tương đối đoán nhận rằng vũ trụ sinh ra từ một kỳ dị
với mật độ vô cùng của vụ nổ lớn. Tại điểm kỳ dị đó, lý thuyết tương đối và
các định luật vật lý khác không còn đúng nữa: người ta không thể biết điều gì
sẽ xảy ra với một điểm kỳ dị đó. Như đã giải thích trước đây, điều đó có nghĩa
rằng ta có thể tách rời vụ nổ lớn và các sự kiện trước nó ra khỏi lý thuyết vì
chúng không thể tác động lên những gì chúng ta quan sát được. Không - thời gian
cần phải có biên - đó là điểm bắt đầu từ vụ nổ lớn.
Khoa học hy vọng tìm ra các
định luật cho phép trong các giới hạn xác định bởi hệ thức bất định, tiên đoán
được sự phát triển của vũ trụ nếu ta biết được trạng thái của nó tại một thời
điểm. Những định luật đó có thể là do Chúa ban hành, nhưng hình như sau đó Chúa
đã để cho vũ trụ tự phát triển và không buồn can thiệp vào nữa. Nhưng Chúa đã
chọn điều kiện ban đầu hoặc cấu hình vũ trụ như thế nào? “Điều kiện biên” tại điểm
bắt đầu của thời gian là điều kiện gì?
Một câu trả lời khả dĩ là cho rằng Chúa
đã chọn một cấu hình đầu tiên theo những lý lẽ mà chúng ta không có hy vọng
hiểu được. Điều đó hoàn toàn trong quyền lực của một đấng siêu nhân, song nếu
ông ta đã bắt đầu theo một kiểu khó hiểu như vậy, thì tại sao ông ta lại để cho
vũ trụ phát triển theo những quy luật mà chúng ta có thể hiểu được? Toàn bộ
lịch sử khoa học là một quá trình tiệm cận đến nhận thức được rằng các sự kiện
không phát triển một cách ngẫu nhiên, mà chúng phản ánh một trật tự tiềm ẩn nào
đó có hoặc không có nguồn gốc thần thánh. Ta có thể giả định một cách tự nhiên
rằng trật tự đó không những được áp dụng vào các định luật mà cả vào các điều
kiện ban đầu của không - thời gian. Có thể có rất nhiều mô hình vũ trụ với các
điều kiện biên ban đầu khác nhau. Chúng ta phải đưa ra được một nguyên tắc nào
đó để chọn được một trạng thái ban đầu, do đó chọn được một mô hình để mô tả vũ
trụ.
Một khả năng là chọn cái gọi là điều kiện hỗn độn (chaotic) ban đầu. Điều
kiện này giả định hoặc vũ trụ vô cùng trong không gian hoặc tồn tại vô số trong
vũ trụ. Theo điều kiện gọi là hỗn độn ban đầu, xác suất tìm thấy một vùng không
gian bất kỳ trong một cấu hình cho trước bất kỳ sau vụ nổ lớn là bằng nhau:
trạng thái ban đầu của vũ trụ là hoàn toàn mang tính ngẫu nhiên. Điều đó có
nghĩa là vũ trụ trước đây có nhiều xác suất là vô trật tự vì rằng đối với vũ
trụ tồn tại nhiều cấu hình hỗn độn và vô trật tự hơn là các cấu hình đều đặn và
trật tự. (Nếu mỗi cấu hình có xác suất bằng nhau thì vũ trụ phải xuất phát từ
một trạng thái hỗn độn, vô trật tự vì một lý do đơn giản là tồn tại quá nhiều
trạng thái như vậy). Rất khó hình dung được vì sao những trạng thái hỗn độn ban
đầu lại có thể dẫn đến một vũ trụ đều đặn, trật tự ở kích thước lớn như vũ trụ
hiện nay. Người ta cũng bắt buộc phải nghĩ rằng những thăng giáng mật độ trong
một mô hình như thế nhất định phải dẫn đến sự hình thành một số lượng lỗ đen
nguyên thủy lớn hơn cận trên thu được từ các quan trắc phông tia gamma.
Nếu vũ trụ
vô cùng trong không gian, hoặc nếu tồn tại vô số vũ trụ, thì phải tồn tại ở đâu
đó nhiều vùng lớn đã trở nên đồng nhất. Tình huống này giống như lúc có một đàn
khỉ rất đông gõ máy chữ - phần lớn những điều chúng gõ ra vô nghĩa nhưng cũng
không loại trừ có xác suất là chúng thu được một bài thơ ngắn của Shakespear .
Tương tự như vậy trong trường hợp vũ trụ, cũng có thể chúng ta ngẫu nhiên sống
trong một vùng đồng nhất như thế? Thoạt nghĩ có thể điều đó có quá ít xác suất
vì những vùng hỗn độn và vô trật tự là quá nhiều so với những vùng đồng nhất.
Song hãy giả định rằng chỉ trong những vùng đồng nhất mới tồn tại những thiên
hà và các sao, ở đấy có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của những
sinh vật phức tạp có khả năng sinh sản như con người có khả năng đặt câu nghi
vấn: Tại sao vũ trụ lại đồng nhất như thế? Đây là một ví dụ để ứng dụng cái gọi
là nguyên lý vị nhân (anthropic) được phát biểu như sau: “Chúng ta nhìn thấy vũ
trụ như vậy bởi vì chúng ta tồn tại”. Có hai cách diễn dịch nguyên lý vị nhân:
Nguyên lý yếu và nguyên lý mạnh. Nguyên lý vị nhân yếu khẳng định rằng trong vũ
trụ vô cùng trong không gian và hoặc trong thời gian, điều kiện thuận lợi cho
sự nảy sinh một dạng sống có trí tuệ chỉ xuất hiện ở một số vùng nhất định hữu
hạn trong không gian và thời gian. Những sinh vật có trí tuệ trong những vùng
đó sẽ không ngạc nhiên nếu chúng nhận thấy rằng địa phương của chúng trong vũ
trụ thỏa mãn các điều kiện cần thiết cho sự sống của chúng. Tình huống tương tự
như lúc một người giàu có sống trong môi trường nhung lụa không thấy được cảnh
bần cùng chung quanh.
Một ví dụ ứng dụng nguyên lý vị nhân yếu là “giải thích”
vì sao vụ nổ lớn đã xảy ra gần mười ngàn triệu năm về trước thì cũng cần gần ấy
thời gian cho sự tiến hóa của sinh vật có trí tuệ. Như trước đây đã nói, đầu
tiên một thế hệ sớm các sao được hình thành. Các sao này biến một số hydro và
heli nguyên thủy thành cacbon và oxy vốn là các thành phần cơ thể của chúng ta.
Các sao này lại nổ thành các siêu sao, và các mảnh vỡ tàn dư lại hợp thành các
sao và hành tinh khác, trong số này có thái dương hệ của chúng ta đã tồn tại
khoảng năm ngàn triệu năm. Trong một hoặc hai ngàn triệu năm đầu tiên của trái
đất, nhiệt độ quá cao vì thế các cấu trúc phức tạp không hình thành được. Trong
ba ngàn triệu năm còn lại thì một quá trình tiến hóa chậm sinh học đã nảy sinh
dẫn đến sự hình thành từ những cơ thể đơn giản đến các sinh vật có khả năng tư
duy đi ngược theo thời gian về vụ nổ lớn.
Nhiều người đặt nghi vấn về sự đúng
đắn và ích lợi của nguyên lý vị nhân yếu. Ngoài ra một số người đi xa hơn và đề
nghị nguyên lý vị nhân mạnh. Theo nguyên lý này, tồn tại hoặc nhiều vũ trụ khác
nhau hoặc nhiều vùng khác nhau của một vũ trụ duy nhất, mỗi đối tượng có cấu
hình ban đầu riêng và có thể có tổ hợp riêng các định luật khoa học. Trong đa
số các vũ trụ đó, điều kiện không thuận lợi cho sự phát triển của những cơ thể
phức tạp; chỉ có một vài vũ trụ như vũ trụ của chúng ta là có điều kiện cho sự
phát triển của những sinh vật có trí tuệ đủ khả năng để đặt ra câu hỏi: vì sao
vũ trụ phải giống như ta quan sát được? Câu trả lời bây giờ sẽ trở nên đơn
giản. Nếu vũ trụ khác đi thì chúng ta sẽ không thể tồn tại ở đây được!
Các định
luật khoa học, trong dạng mà chúng ta nhận thức như hiện nay chứa nhiều hằng số
cơ bản ví dụ điện tích của electron và tỷ số khối lượng của proton và của
electron. Chúng ta không thể, ít nhất là trong điều kiện hiện nay, tính được
giá trị của những hằng số đó từ lý thuyết - chúng ta chỉ thu được các trị số đó
bằng thực nghiệm.
Có lẽ một ngày nào đó chúng ta sẽ tìm được một lý thuyết
thống nhất hoàn chỉnh có khả năng tính được mọi hằng số, song cũng rất có thể
rằng một số hoặc tất cả hằng số đó lại biến thiên từ vũ trụ này sang vũ trụ
khác hoặc ngay trong một vũ trụ. Điều đáng chú ý là trị số của những hằng số đó
dường như đã được điều chỉnh một cách tinh tế sao cho cuộc sống có thể nảy sinh
và phát triển được. Ví dụ nếu điện tích electron chỉ khác đi một tý thì các sao
hoặc không thể đốt cháy hydro và heli hoặc khác đi chúng không thể nổ thành
siêu sao. Lẽ dĩ nhiên có thể tồn tại những dạng sống khác, mà thậm chí các nhà
văn viễn tưởng cũng không sáng tạo nổi, những dạng sống không cần đến cả ánh
sáng của các sao như mặt trời hoặc các nguyên tố hóa học nặng hơn được tạo
thành trong các sao và bị bắn vào không gian khi sao nổ. Có lẽ cũng dễ hiểu là
miền xác định của các hằng số không thể rộng được nếu các hằng số đó phải phù
hợp với sự phát triển của cuộc sống trí tuệ. Đa số các tập giá trị của các hằng
số dẫn đến sự hình thành những vũ trụ mặc dầu rất đẹp, song không phù hợp cho
sự phát triển sinh vật có khả năng chiêm ngưỡng vẻ đẹp đó. Chúng ta có thể đoán
nhận hoặc điều đó là sự chứng minh cho mục đích thiêng liêng của Chúa trong sự
sáng tạo và sự lựa chọn các định luật khoa học hoặc điều đó là sự chứng minh
cho nguyên lý vị nhân mạnh. Có một số ý kiến người ta có thể đưa ra để phản đối
ý kiến cho rằng nguyên lý vị nhân mạnh có thể giải thích trạng thái quan sát
được của vũ trụ.
Thứ nhất, ta phải hiểu sự tồn tại của nhiều vũ trụ khác như
thế nào đây? Nếu quả thực chúng tách riêng xa nhau, thì những điều xảy ra
trong một vũ trụ khác sẽ không gây một hệ quả nào quan sát được trong vũ trụ
chúng ta. Vì vậy chúng ta phải sử dụng nguyên lý tiết kiệm để cắt bỏ chúng khỏi
lý thuyết của chúng ta. Nếu, mặt khác, tồn tại nhiều vùng khác nhau của cùng
một vũ trụ, thì các định luật khoa học phải là chung cho tất cả các vùng, vì
trái lại thì chúng ta không thể chuyển động liên tục từ một vùng này sang vùng
khác. Trong trường hợp đó thì sự khác biệt giữa các vùng quy về sự khác biệt
của các cấu hình ban đầu và như thế nguyên lý vị nhân mạnh lại quy về nguyên lý
vị nhân yếu.
Ý kiến phản đối thứ hai cho là nguyên lý này đi ngược lại dòng
chảy của lịch sử khoa học. Chúng ta đã đi từ mô hình vũ trụ xem quả đất là
trung tâm của Ptolemy và các tiền bối, qua mô hình mặt trời là trung tâm của
Copernicus và Galileo, đến mô hình hiện đại trong đó quả đất chỉ là hành tinh
kích thước vừa phải quay quanh một sao trung bình trong vùng biên của một thiên
hà xoắn ốc bình thường vốn chỉ là một trong triệu triệu thiên hà của vũ trụ
quan sát được. Nguyên lý vị nhân mạnh lại có tham vọng cho rằng toàn bộ kiến
trúc khổng lồ đó tồn tại chỉ vì con người. Điều đó quả thật là khó tin. Chắc
chắn rằng thái dương hệ là một tiền đề cho cuộc sống của chúng ta, và chúng ta
cũng có thể ngoại suy nghĩ đó cho toàn thiên hà của chúng ta để cho phép sự tồn
tại các thế hệ sao trước đã tạo nên những nguyên tố nặng hơn. Song dường như
không có một sự cần thiết nào buộc các thiên hà khác và cho vũ trụ phải đồng
nhất và giống nhau theo mọi phương hướng ở kích thước lớn.
Chúng ta sẽ cảm thấy
yên tâm hơn với nguyên lý vị nhân, ít nhất ở phương án yếu, nếu chúng ta có thể
chứng minh rằng nhiều cấu hình ban đầu khác nhau của vũ trụ sẽ tiến triển để
tạo một vũ trụ giống như vũ trụ đang quan sát được. Nếu quả như vậy, thì một vũ
trụ thoát thai từ những điều kiện hỗn độn ban đầu sẽ chứa một vùng đồng nhất,
đều đặn thích hợp cho sự nảy sinh cuộc sống trí tuệ. Mặt khác, nếu trạng thái
ban đầu đã được chọn tuyệt đối cẩn thận để được một vũ trụ mà chúng ta thấy
chung quanh, thì vũ trụ đó chắc có ít xác suất chứa một vùng nào đó trong đó sự
sống có thể xuất hiện. Trong mô hình nóng của vụ nổ lớn mô tả trước đây, chúng
ta đã thấy ở giai đoạn sớm của vũ trụ, nhiệt lượng không đủ thời gian để chảy
từ vùng này sang vùng khác. Điều đó có nghĩa rằng trạng thái ban đầu của vũ trụ
phải có cùng một nhiệt độ ở mọi nơi, có như thế thì ta mới quan sát được hiện
tượng bức xạ phông có cùng một nhiệt độ ở mọi nơi theo mọi hướng. Tốc độ giãn nở
ban đầu cũng phải được chọn rất chính xác thì tốc độ giãn nở hiện nay mới tiếp
tục xấp xỉ tốc độ tới hạn cần thiết để tránh quá trình co lại. Điều đó có nghĩa
rằng trạng thái ban đầu của vũ trụ phải được chọn rất cẩn thận nếu mô hình nóng
của vụ nổ lớn là đúng ngược mãi tận tới điểm ban đầu của thời gian. Rất khó
giải thích vì sao vũ trụ được bắt đầu như vậy, trừ khi cho rằng đây là hành
động của Chúa muốn tạo nên những sinh vật như chúng ta.
Với ý đồ tìm một mô
hình của vũ trụ, trong đó nhiều cấu hình khác nhau ban đầu có thể tiến triển
đến một vũ trụ như hiện tại, một nhà khoa học công tác tại Viện công nghệ
Massachusetts là Alan Guth đã đưa ra gợi ý trong các giai đoạn sớm vũ trụ đã
trải qua một thời kỳ giãn nở cực nhanh. Thời kỳ giãn nở cực nhanh này được gọi
là thời kỳ lạm phát, với ý nghĩa rằng trong thời kỳ đó vũ trụ đã giãn nở với
tốc độ tăng dần chứ không phải giảm dần như hiện tại. Theo Guth, bán kính của
vũ trụ đã tăng vọt lên triệu triệu triệu triệu triệu (1 với ba mươi con số
không) lần trong chỉ một phần rất nhỏ của giây. Guth gợi ý rằng vũ trụ đã bắt
đầu từ một vụ nổ lớn, từ một trạng thái rất nóng, nhưng rất hỗn độn. Các nhiệt
độ cao này làm cho các hạt trong vũ trụ chuyển động rất nhanh và có năng lượng
rất lớn. Như đã nói ở trên những nhiệt độ cao như vậy các lực tương tác mạnh,
yếu và điện tử hợp nhất thành một lực duy nhất. Trong quá trình giãn nở, vũ trụ
lạnh dần, năng lượng các hạt giảm đi. Có thể xảy ra quá trình gọi là chuyển pha
và đối xứng giữa các lực bị phá vỡ: lực tương tác mạnh trở nên khác biệt với
các lực tương tác yếu và điện từ. Một ví dụ thông thường của quá trình chuyển
pha là quá trình nước đóng băng khi nhiệt độ hạ thấp. Nước lỏng có đối xứng
giống nhau ở mọi điểm và theo mọi hướng. Song các tinh thể băng hình thành, chúng
sẽ chiếm những vị trí nhất định và xếp thành hàng theo một hướng nào đó. Điều
này phá vỡ đối xứng của nước ở trạng thái lỏng.
Trong trường hợp nước, nếu cẩn
thận chúng ta có thể làm “siêu lạnh” nước, điều đó có nghĩa là chúng ta có thể
đưa nhiệt độ xuống dưới nhiệt độ đóng băng 0 độ C mà băng vẫn chưa xuất hiện.
Guth gợi ý rằng điều đó có thể xảy ra cho vũ trụ: nhiệt độ giảm xuống dưới trị
số giới hạn mà đối xứng giữa các lực vẫn chưa bị phá vỡ. Nếu điều đó xảy ra, vũ
trụ sẽ rơi vào một trạng thái ổn định, với năng lượng lớn hơn năng lượng ứng
với lúc đối xứng bị phá vỡ. Có thể chứng minh rằng năng lượng dôi này sẽ gây
ra hiệu ứng phản hấp dẫn: nó sẽ có tác động như hằng số vũ trụ mà Einstein đã
đưa vào lý thuyết tương đối rộng khi ông muốn xây dựng một mô hình tĩnh của vũ
trụ.
Vì vũ trụ đã giãn nở giống như trong mô hình nóng của vụ nổ lớn, cho nên
hiệu ứng đẩy của hằng số vũ trụ này làm cho vũ trụ giãn nở với vận tốc luôn
tăng. Ngay cả trong những vùng với mật độ hạt lớn hơn trung bình, hiệu ứng phản
hấp dẫn gây ra bởi hằng số vũ trụ đó cũng vượt quá hấp dẫn. Do đó các vùng này
phải giãn nở theo quy luật gia tăng lạm phát. Trong quá trình giãn nở, các vùng
đó và các hạt vật chất sẽ đi xa nhau và ta có được một vũ trụ giãn nở với mật
độ hạt nhỏ và hiện nằm trong trạng thái siêu lạnh. Mọi điểm bất thường trong vũ
trụ sẽ bị là đều vì quá trình giãn nở, tương tự như những nếp nhăn của một quả
bóng biến dần khi ta thổi không khí vào. Như vậy trạng thái đồng nhất và đều
đặn hiện nay của vũ trụ có thể đạt được trong quá trình tiến triển từ nhiều
trạng thái không đồng nhất khác nhau.
Trong một vũ trụ như thế, quá trình giãn
nở được gia tốc bởi hằng số vũ trụ và không bị hãm dần bởi lực hấp dẫn của vật
chất, ánh sáng có đủ thời gian để thực hiện hành trình từ vùng này sang vùng
khác trong các giai đoạn sớm của vũ trụ. Tình huống này có thể đưa ra lời giải
cho bài toán nêu ra trước đây: vì sao các vùng khác nhau của vũ trụ có cùng
những tính chất giống nhau. Ngoài ra, vận tốc nở của vũ trụ sẽ tự động trở nên
xấp xỉ vận tốc giới hạn xác định bởi mật độ trong vũ trụ. Điều này có thể giải
thích câu hỏi vì sao vận tốc giãn nở của vũ trụ vẫn gần vận tốc giới hạn, mà
không cần giả định rằng vận tốc giãn nở ban đầu của vũ trụ đã được lựa chọn một
cách cẩn thận.
Ý niệm về lạm phát cũng giúp ta giải thích được vì sao có nhiều
vật chất như vậy trong vũ trụ. Có chừng mười triệu triệu triệu triệu triệu
triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu (1 với tám mươi số không)
hạt trong vùng không gian mà chúng ta có thể quan sát được. Chúng từ đâu đến?
Theo thuyết lượng tử các hạt đó được sinh ra từ năng lượng trong cặp hạt/phản
hạt. Song bây giờ lại đến câu hỏi, năng lượng từ đâu ra? Câu trả lời là năng
lượng toàn phần của vũ trụ chính xác bằng không. Vật chất trong vũ trụ được cấu
tạo từ năng lượng dương. Song vật chất lại hút nhau vì hấp dẫn. Hai lượng vật
chất gần nhau có ít năng lượng hơn là khi chúng xa nhau, bởi vì chúng phải sản
ra năng lượng để kéo chúng ra xa chống lại hấp dẫn đang kéo chúng lại gần nhau.
Như thế trong một ý nghĩa nhất định, trường hấp dẫn có năng lượng âm. Trong
trường hợp của một vũ trụ gần đồng nhất trong không gian, người ta có thể chứng
minh được rằng năng lượng hấp dẫn âm này sẽ triệt tiêu năng lượng dương của vật
chất. Như thế năng lượng toàn phần của vũ trụ bằng không. Hai lần không vẫn là
không. Cho nên vũ trụ có thể tăng gấp đôi năng lượng dương của vật chất và đồng
thời tăng gấp đôi năng lượng âm của hấp dẫn mà vẫn không vi phạm định luật bảo
toàn năng lượng. Điều này không thể xảy ra trong một quá trình giãn nở bình
thường của vũ trụ, trong đó mật độ năng lượng vật chất giảm đi khi vũ trụ trở
nên lớn hơn. Song điều đó có thể xảy ra trong một quá trình giãn nở lạm phát
bởi vì mật độ năng lượng của trạng thái siêu lạnh vẫn không thay đổi khi vũ trụ
giãn nở: Khi kích thước vũ trụ tăng gấp đôi, năng lượng dương của vật chất và
năng lượng âm của hấp dẫn cũng tăng gấp đôi do đó năng lượng toàn phần vẫn bằng
không. Trong pha lạm phát, kích thước của vũ trụ tăng lên rất nhiều. Như thế
toàn phần năng lượng hiện hữu để tạo nên các hạt đều trở nên rất lớn. Như Guth
đã nhận xét: “Có thể nói đây là một bữa tiệc không mất tiền. Và vũ trụ là bữa
tiệc không mất tiền tối hậu”.
Vũ trụ hiện nay không giãn nở theo quy luật lạm
phát. Như thế phải tồn tại một cơ chế có khả năng loại bỏ hằng số vũ trụ hiệu
dụng quá lớn và như vậy biến vận tốc giãn nở từ quá trình gia tốc về quá trình
chậm dần vì hấp dẫn như chúng ta hiện nay. Trong giai đoạn lạm phát có thể đối
xứng giữa các lực bị phá vỡ, tương tự nước siêu lạnh rồi cuối cùng cũng phải
đông lại. Năng lượng dôi ra của đối xứng bị phá vỡ thoát ra và hâm nóng vũ trụ
đến một nhiệt độ vừa đúng dưới nhiệt độ tới hạn ứng với đối xứng giữa các lực.
Vũ trụ tiếp tục giãn nở và lạnh dần đúng như mô hình nóng của vụ nổ lớn, song bây
giờ ta lại cần giải thích tại sao vũ trụ giãn nở với vận tốc tới hạn và vì sao
các vùng khác nhau có cùng một nhiệt độ.
Trong lý thuyết ban đầu của Guth, quá
trình chuyển pha được giả định là xảy ra đột ngột, tương tự như các tinh thể
băng trong nước thật lạnh. Có thể nghĩ rằng các “bong bóng” của pha mới của đối
xứng bị phá vỡ được hình thành trong pha cũ, tương tự như các bong bóng hơi
được bao bọc bởi nước đang sôi. Các bong bóng được giả định là giãn nở và gặp
nhau cho đến khi toàn bộ vũ trụ rơi vào pha mới. Một khó khăn, mà tôi và nhiều
người khác đã chỉ ra là vũ trụ giãn nở quá nhanh cho dẫu rằng các bong bóng lớn
lên bằng tốc độ ánh sáng, chúng cũng sẽ chuyển động xa nhau ra và không kịp gặp
nối nhau. Như vậy vũ trụ rơi vào trạng thái không đồng nhất, với một số vùng
vẫn còn có đối xứng giữa các lực. Một bức tranh như thế không tương ứng với
những điều ta quan sát được.
Tháng 10 năm 1981, tôi đến Matxcơva tham dự hội
thảo về hấp dẫn lượng tử. Sau hội thảo, tôi có làm một seminar về mẫu lạm phát
và các vấn đề của mẫu đó tại Viện thiên văn Sternberg. Trước đây tôi thường nhờ
một người khác đọc báo cáo thay tôi vì đa số không hiểu được giọng nói của tôi.
Nhưng lúc này tôi không còn thì giờ chuẩn bị nên tôi tự đọc, và chỉ nhờ nghiên
cứu sinh của tôi phát lại những lời tôi nói. Phương thức này khá có kết quả và
tạo được mối tiếp xúc với thính giả. Trong buổi seminar có một người Nga còn
trẻ là Andrei Linde làm việc ở Viện Lebedev tại Matxcơva. Linde cho rằng có thể
tránh được khó khăn gắn liền với điều các bong bóng không nối với nhau, nếu ta
cho rằng các bong bóng lớn tới mức mà vùng vũ trụ của ta nằm trọn trong một
bong bóng. Để giả thuyết được hợp lý thì sự phá vỡ đối xứng phải xảy ra rất
chậm trong bong bóng và điều này là hoàn toàn khả dĩ trên lý thuyết thống nhất
lớn.
Ý tưởng của Linde về một quá trình phá vỡ đối xứng chậm là rất hấp dẫn,
song sau này tôi hiểu rằng những bong bóng của Linde phải lớn hơn kích thước vũ
trụ vào lúc đó. Tôi đã chứng minh rằng đối xứng bị phá vỡ khắp mọi nơi chứ
không phải trong lòng các bong bóng. Điều này sẽ dẫn đến một vũ trụ đồng nhất,
đúng như ta quan sát. Tôi rất tâm đắc với ý tưởng này và cùng bàn luận với một
sinh viên của tôi là Ian Moss. Với tư cách là một người bạn của Linde, tôi hơi
bối rối khi sau này nhận được bài báo của Linde do một tạp chí khoa học gửi đến
hỏi liệu bài báo có thể công bố hay không. Tôi đã trả lời rằng còn điểm yếu về
các bong bóng lớn hơn vũ trụ, song ý tưởng cơ bản về quá trình phá vỡ đối xứng
chậm là rất hay. Tôi có khuyến nghị cho đăng bài báo vì tôi nghĩ rằng nếu không
Linde sẽ mất rất nhiều tháng để sửa chữa lại, bởi vì mọi tài liệu mà ông đã gửi
sang phương Tây phải được thông báo qua kiểm duyệt của Liên Xô (cũ), vốn không
am hiểu lắm và cũng không mau mắn gì đối với những bài báo khoa học. Tôi có
viết cùng với Ian Moss một bài báo ngắn gửi đăng cùng số báo, trong đó chúng
tôi đặt lại vấn đề các bong bóng và chỉ ra cách giải quyết vấn đề.
Vừa từ
Matxcơva trở về, hôm sau tôi đã bay tới Philadenphia để nhận huy chương của
Viện Franklin. Cô thư ký của tôi là Judy Fella đã sử dụng sắc đẹp duyên dáng
của mình để thuyết phục hãng British Airways cấp cho cô ta và tôi hai vé máy
bay không mất tiền xem như một hợp đồng quảng cáo cho hãng. Tiếc rằng tôi đến
sân bay chậm vì mưa to và lỡ chuyến máy bay.
Nhưng rồi tôi cũng đến được
Philadenphia để nhận huy chương dành cho tôi. Người ta yêu cầu tôi làm một
seminar về mẫu lạm phát của vũ trụ tại Trường Đại học Drexel ở Philadenphia. Và
tôi đã báo cáo về các vấn đề nở lạm phát của vũ trụ, tương tự như ở Matxcơva.
Một ý tưởng gần giống của Linde cũng được phát triển độc lập sau đó vài tháng
bởi Paul Steinhardt và Andreas Albrecht tại trường Đại học Pensylvania. Bây giờ
họ cùng với Linde có vinh dự chung vì đã đưa ra “mô hình lạm phát mới”, dựa
trên ý tưởng về một quá trình đối xứng chậm. (Mô hình lạm phát cũ dựa trên ý
tưởng ban đầu của Guth về một quá trình phá vỡ đối xứng nhanh kèm theo sự hình
thành các bong bóng). Mô hình lạm phát mới là một mô hình tốt có khả năng giải
thích vì sao vũ trụ lại có dạng như hiện nay. Song, nhiều người khác và tôi đã
chứng minh rằng mô hình đó, ít nhất là trong phương án ban đầu, đã dẫn đến
những thay đổi về nhiệt độ của bức xạ phông lớn hơn nhiều so với các quan trắc
thu được. Các phương án sau cũng gây ra mối nghi ngờ liệu có tồn tại một quá
trình chuyển pha kiểu như vậy ở giai đoạn rất sớm của vũ trụ hay không. Theo ý
kiến của riêng tôi, thì mô hình lạm phát mới này bây giờ cũng đã chết như một
lý thuyết khoa học, mặc dầu cũng còn một số người dường như chưa nghe biết và vẫn
tiếp tục viết về mô hình đó.
Một mô hình hay hơn có tên là mô hình lạm phát hỗn
độn đã được phát triển cũng bởi Linde vào năm 1983, trong mô hình này, không
tồn tại quá trình chuyển pha hoặc trạng thái siêu lạnh. Thay vào đó, có một
trường spin 0, trường này có thể có những trị số lớn ở một vài vùng của vũ trụ
giai đoạn sớm, do sự tồn tại của thăng giáng lượng tử. Năng lượng của trường
này trong những trường đó đóng vai trò như một hằng số vũ trụ. Năng lượng này
gây ra tác dụng đẩy và làm cho các vùng đó giãn nở một cách lạm phát. Trong quá
trình giãn nở, năng lượng của trường ở các vùng đó giảm chậm cho đến khi quá
trình giãn nở lạm phát trở thành một quá trình giãn nở tương tự như trong mô
hình nóng của vụ nổ lớn. Một trong những vùng đó sẽ trở thành vũ trụ mà hiện
nay chúng ta quan sát được. Mô hình này có mọi ưu điểm của các mô hình lạm phát
cũ, song không phụ thuộc vào một quá trình chuyển pha đáng ngờ, mà lại cho
những thăng giáng nhiệt độ của bức xạ viba phông hợp lý và phù hợp với các quan
trắc.
Các nghiên cứu về những mô hình lạm phát chỉ ra rằng hiện trạng của vũ
trụ được thoát thai từ một số rất lớn các cấu hình ban đầu. Điều này quan trọng
vì cho ta thấy rằng, trạng thái ban đầu của phần vũ trụ trong đó ta sinh sống
không cần được chọn một cách quá xác định. Vì vậy chúng ta có thể, nếu muốn, sử
dụng nguyên lý vị nhân yếu để giải thích vì sao vũ trụ lại có dạng như ngày
nay. Song cũng không phải mọi cấu hình ban đầu đều sẽ dẫn đến vũ trụ giống như
vũ trụ ta quan sát. Ta có thể chứng minh điều đó bằng cách xét một trạng thái
rất khác vũ trụ ngày nay, ví dụ, một trạng thái rất không đồng nhất. Ta có thể
sử dụng các định luật khoa học để đi ngược lại thời gian tìm các cấu hình sớm
trước đây của vũ trụ.
Theo các định lý về kỳ dị của lý thuyết tương đối rộng,
thì tồn tại một kỳ dị của vụ nổ lớn. Nếu ta lại cho vũ trụ tiến triển về phía
trước theo thời gian thì chúng ta sẽ thu được một vũ trụ không đồng nhất mà từ
đó chúng ta đã xuất phát. Như thế tồn tại những cấu hình ban đầu có khả năng
dẫn đến một vũ trụ không giống vũ trụ ta quan sát hiện nay. Như thế, mô hình
lạm phát cũng không nói được tại sao các cấu hình ban đầu lại không là những
cấu hình có khả năng dẫn đến những vũ trụ rất khác với vũ trụ quan sát được
hiện nay. Ta phải cầu cứu đến nguyên lý vị nhân để giải thích điều đó hay sao?
Có phải đây đúng là một ngẫu nhiên may mắn? Điều này có vẻ như là một lời tuyệt
vọng, một phủ định mọi hy vọng của chúng ta về khả năng hiểu được cái trật tự
sâu kín của vũ trụ chúng ta.
Để hiểu được vũ trụ đã bắt đầu như thế nào, chúng
ta cần những định luật đúng đắn ở điểm xuất phát của thời gian. Nếu quả thuyết
tương đối rộng cổ điển đúng đắn, thì các định lý về kỳ dị mà Roger Penrose và
tôi đã thiết lập chỉ rằng xuất phát điểm của thời gian là một điểm với mật độ và
độ cong không - thời gian vô cùng lớn. Và mọi định luật đã biết của khoa học
đều không còn tác dụng tại một điểm như vậy. Người ta có thể giả định rằng tồn
tại những định luật mới, đúng đắn tại các điểm kỳ dị, song rất khó mà phát biểu
ra những định luật như thế tại các điểm có dáng điệu kỳ dị như vậy, và chúng ta
cũng không có một sự hướng dẫn nào từ các quan trắc khả dĩ giúp ta hình dung
được các định luật đó.
Song các định lý về kỳ dị thực tế đã chỉ được rằng
trường hấp dẫn trở nên mạnh đến nỗi các hiệu ứng lượng tử trở thành quan trọng:
lý thuyết cổ điển không còn khả năng mô tả vũ trụ được nữa. Vậy chúng ta phải
sử dụng lý thuyết hấp dẫn lượng tử khi bàn luận đến các giai đoạn sớm của vũ
trụ. Như chúng ta sẽ thấy, trong lý thuyết lượng tử, các định luật khoa học
thông thường lại trở nên đúng đắn mọi nơi kể cả tại xuất phát điểm của thời
gian: không cần thiết phải phát biểu những định luật mới đối với các điểm kỳ
dị, bởi vì rằng không cần có các điểm kỳ dị trong lý thuyết lượng tử.
Hiện nay
chúng ta chưa có một lý thuyết hoàn chỉnh và tương hợp để tổng hợp cơ học lượng
tử và hấp dẫn. Song chúng ta có thể chắc chắn về một vài yếu tố mà một thuyết
thống nhất như vậy phải có. Một trong những yếu tố đó là sự cần thiết đưa vào ý
tưởng của Feynman để trình bày lý thuyết lượng tử dưới dạng các tích phân theo
lịch sử quỹ đạo. Trong cách tiếp cận đó, một hạt không có một lịch sử đơn chiếc
như trong lý thuyết cổ điển. Thay vì, hạt có thể chuyển động theo mọi quỹ đạo
khả dĩ trong không - thời gian, và ứng với mỗi lịch sử chuyển động ta có một
cặp số, trong đó số thứ nhất mô tả biên độ của sóng còn số thứ hai mô tả vị trí
trong chu kỳ tức là pha. Xác suất để hạt, ví dụ, đi qua một điểm nhất định nào
đó, sẽ thu được bằng cách cộng tất cả các sóng ứng với mọi lịch sử khả dĩ đi
qua điểm đó.
Khi chúng ta tìm cách thực hiện phép cộng đó, chúng ta gặp phải
nhiều vấn đề kỹ thuật. Một thủ thuật để giải quyết là dùng phương thức sau:
cộng các sóng lịch sử đó không phải trong thời gian “thực” trong đó chúng ta
sống mà trong cái gọi là thời gian “ảo”. Thời gian ảo mới nghe tưởng như đó là
chuyện khoa học viễn tưởng nhưng thực tế thời gian ảo là một khái niệm toán học
xác định. Nếu chúng ta lấy một số thực và nhân cho chính nó thì kết quả là một
số dương (ví dụ, 2 nhân với 2 là 4, cũng như -2 nhân với -2 là 4). Song ngoài
số thực, tồn tại những số đặc biệt (gọi là số ảo) khi nhân với chính nó, kết
quả sẽ là một số âm (Số ảo i khi nhân với chính nó sẽ cho ta -1, số ảo 2i khi
nhân với chính nó sẽ cho ta -4, và v.v...).
Để tránh các khó khăn về kỹ thuật
tính toán lúc cộng các lịch sử theo Faynman, người ta đã sử dụng thời gian ảo.
Nói rõ hơn, vì mục đích tính toán người ta phải đo thời gian bằng các số ảo,
chứ không bằng những số thực. Thủ thuật này dẫn đến một hệ quả lý thú: sự khác biệt
giữa không gian và thời gian sẽ biến mất hoàn toàn. Một không - thời gian trong
đó các trị số đều có trị số ảo trên tọa độ thời gian gọi là không gian Euclide,
theo tên của nhà toán học Hy Lạp, người đã sáng lập hình học các mặt hai chiều.
Không - thời gian mà chúng ta gọi là Euclide là một không gian tương tự chỉ có
khác là không - thời gian có bốn chiều chứ không phải là hai. Trong không -
thời gian Euclide không có sự khác biệt giữa chiều thời gian và các chiều không
gian. Còn trong không - thời gian thực, trong đó mọi sự cố được đánh dấu bởi
những tri số thực theo trục thời gian, thì dễ dàng chỉ ra sự khác biệt giữa
không và thời gian - chiều thời gian tại mọi điểm nằm trong nón ánh sáng và các
chiều không gian thì nằm ngoài. Trong mọi trường hợp khi xét cơ học lượng tử,
chúng ta xem việc sử dụng thời gian ảo và không - thời gian Euclide như một thủ
thuật toán học để tìm các câu trả lời cho không thời gian thực.
Một yếu tố thứ
hai, mà chúng tôi cho phải là thành phần trong lý thuyết tối hậu, là ý tưởng
của Einstein cho rằng trường hấp dẫn phải được biểu diễn bởi không thời gian
cong: các hạt sẽ chọn quỹ đạo ngắn nhất, tức một quỹ đạo thẳng trong không gian
cong, song không - thời gian không phẳng cho nên quỹ đạo của các hạt sẽ bị
cong, giống như chịu tác động của trường hấp dẫn. Khi chúng ta áp dụng phương
pháp cộng theo các lịch sử quỹ đạo của Feynman vào quan điểm của Einstein về
hấp dẫn, thì lịch sử của một hạt bây giờ tương ứng là một không thời - gian
cong mô tả lịch sử của toàn vũ trụ. Để tránh các khó khăn về kỹ thuật trong lúc
thực hiện phép cộng theo các lịch sử, các không - thời gian cong đó phải là
Euclide. Như trên đã nói, điều đó có nghĩa là thời gian phải là ảo và không
khác biệt với không gian. Để tính xác suất tìm thấy một không - thời gian thực
với một tính chất xác định nào đó, ví dụ đồng nhất ở mọi điểm và theo mọi
hướng, thì ta cần cộng các sóng gắn liền với tất cả các lịch sử vốn có tính
chất đó.
Trong lý thuyết tương đối rộng cổ điển, tồn tại rất nhiều không - thời
gian cong khác nhau khả dĩ, mỗi không - thời gian đó ứng với một trạng thái ban
đầu của vũ trụ. Nếu chúng ta biết được trạng thái ban đầu của vũ trụ, chúng ta
sẽ biết được toàn bộ lịch sử của nó. Tương tự như vậy, trong lý thuyết hấp dẫn
lượng tử, tồn tại rất nhiều trạng thái lượng tử khác nhau khả dĩ cho vũ trụ. Và
nếu chúng ta biết được dáng điệu các không - thời gian cong Euclide trong tổng
theo lịch sử vào những giai đoạn sớm của vũ trụ, thì chúng ta cũng sẽ biết được
trạng thái lượng tử của vũ trụ.
Trong lý thuyết hấp dẫn cổ điển, vốn dựa trên
không - thời gian thực, chỉ có hai khả năng cho dáng điệu của vũ trụ: hoặc vũ
trụ tồn tại vô cùng trong thời gian, hoặc vũ trụ đã bắt đầu ở một điểm kỳ dị và
tại một thời điểm hữu hạn nào đó trong quá khứ. Trong lý thuyết hấp dẫn lượng
tử, còn có một khả năng thứ ba. Bởi vì chúng ta đang sử dụng không - thời gian
Euclide, trong đó không có sự khác biệt giữa hướng thời gian và các hướng không
gian, cho nên không - thời gian có thể là hữu hạn và không có điểm kỳ dị tạo
nên biên. Không - thời gian sẽ có dạng tương tự như mặt quả đất, song có thêm
hai chiều nữa. Mặt quả đất là hữu hạn song không có biên: nếu ta trương buồm đi
về phía mặt trời lặn, ta không rơi vào một biên hoặc một điểm kỳ dị nào (tôi
biết như thế, bởi vì tôi đã đi vòng quanh thế giới!).
Nếu không - thời gian
Euclide kéo dài ngược vô tận theo thời gian ảo hoặc xuất phát từ một điểm kỳ dị
trong thời gian ảo, thì chúng ta sẽ đối diện với bài toán tương tự như trong lý
thuyết cổ điển là phải xác định trạng thái ban đầu của vũ trụ: Chúa có thể biết
vũ trụ đã bắt đầu như thế nào, song chúng ta thì không có một lý do đặc biệt
nào để nghĩ rằng vũ trụ đã bắt đầu như thế này chứ không phải như thế khác. Mặt
khác, lý thuyết hấp dẫn lượng tử đã mở ra một khả năng mới, theo đó không - thời
gian không có biên và do đó không cần thiết xác định dáng điệu tại biên. Không
có điểm kỳ dị tại đó các định luật khoa học không còn đúng, cũng không có điểm
mút của không - thời gian, tại đó chúng ta phải cầu cứu đến Chúa hoặc đến một
định luật mới nào đó để xác định biên của không - thời gian. Ta có thể nói:
“Điều kiện biên của vũ trụ là không có biên”. Vũ trụ là một hệ tự thân và không
bị ảnh hưởng của bất cứ điều gì bên ngoài vũ trụ. Vũ trụ không sinh không diệt.
Vũ trụ luôn tồn tại.
Tại cuộc hội thảo Vantican mà trước đây tôi đã nhắc đến,
tôi đã đưa ra ý tưởng gợi ý không - thời gian cấu thành một mặt hữu hạn về kích
thước và không có biên, không có điểm mút. Bài báo của tôi mang tính toán học,
song cũng rõ là phủ nhận vai trò của Chúa trong việc sáng tạo ra vũ trụ và điều
đó đã không được đông đảo chấp nhận ở thời gian đó. Trong thời gian hội thảo
tôi không có cách nào để sử dụng ý tưởng “không có biên” để đưa ra những đoán
nhận về vũ trụ. Mùa hè năm sau tôi lưu lại trường đại học California ở Santa
Barbara. Ở đấy tôi có một người bạn vừa là đồng nghiệp là Jim Hartle, chúng tôi
cùng phân tích xem nếu không - thời gian không có biên thì phải có những điều
kiện gì cho vũ trụ. Khi trở về Cambridge, tôi tiếp tục công trình với hai
nghiên cứu sinh là Julian Luttrel và Jonathan Halliwell.
Tôi muốn nhấn mạnh
rằng ý tưởng về không - thời gian hữu hạn và không có biên chỉ là một giả
thiết: giả thiết này không thể suy ra được từ một nguyên lý khác. Cũng tương tự
như mọi lý thuyết khoa học khác, ta phải đưa ra một giả thiết ban đầu nào đó
hoặc vì lý do thẩm mỹ hoặc vì lý do siêu hình, và sự đúng đắn của nó chỉ có thể
kiểm nghiệm được bằng thực tế theo những hệ quả mà giả thiết đó dẫn đến. Song
đối với trường hợp hấp dẫn lượng tử có khó khăn vì hai lý do. Thứ nhất, như sẽ
được giải thích ở chương sau, chúng ta chưa biết chắc chắn về một lý thuyết có
khả năng tổng hợp một cách có hiệu quả lý thuyết tương đối rộng và cơ học lượng
tử mặc dầu chúng ta đã hình dung được những nét chính của một lý thuyết như
vậy. Thứ hai, mọi mô hình mô tả toàn bộ vũ trụ về chi tiết phải rất phức tạp về
mặt toán học, do đó chúng ta khó lòng tính toán được chính xác kết quả. Vì vậy
chúng ta phải đưa ra những hạn chế để đơn giản hóa sơ đồ và những phép tính gần
đúng - thậm chí sau những phép đó bài toán chiết ra những kết quả sẽ vẫn còn là
một bài toán rất khó khăn.
Mỗi lịch sử trong tổng các lịch sử sẽ mô tả không
chỉ không - thời gian mà phải mô tả mọi chi tiết, trong đó bao gồm cả những cơ
thể phức tạp như con người là sinh vật có khả năng quan sát lịch sử của vũ trụ.
Điều này có thể cung cấp lý do biện minh cho nguyên lý vị nhân, vì nếu mọi lịch
sử đều khả dĩ, thì chúng ta có thể sử dụng nguyên lý vị nhân một khi chúng ta
cũng tồn tại trong một trong các lịch sử đó. Còn ý nghĩa của những lịch sử khả
dĩ khác, trong đó chúng ta không tồn tại, thì quả là chúng ta không rõ được.
Quan điểm này của lý thuyết hấp dẫn lượng tử sẽ mang tính chất thuyết phục hơn
nếu chúng ta có thể chứng minh rằng khi lấy tổng theo các lịch sử, thì vũ trụ
của chúng ta không phải chỉ là một trong số các lịch sử khả dĩ mà còn là một
trong số các lịch sử có xác suất lớn nhất. Để làm điều đó, chúng ta phải lấy
tổng theo các lịch sử đối với mọi không - thời gian Euclide khả dĩ và không có
biên.
Dưới giả thiết không có biên, ta cho rằng khả năng mà vũ trụ tiến triển
theo phần lớn các lịch sử khả dĩ là nhỏ không đáng kể, và tồn tại một lớp lịch
sử có xác suất lớn hơn các lịch sử khác. Các lịch sử này có thể được minh họa
như mặt quả đất, trên mặt đó khoảng cách từ cực Bắc biểu diễn thời gian ảo, còn
đường tròn cách đều cực Bắc biểu diễn kích thước của vũ trụ. Vũ trụ bắt đầu từ
cực Bắc như là một điểm đơn. Khi chúng ta chuyển động về phía Nam, các đường
tròn vĩ tuyến vốn cách đều cực Bắc sẽ lớn dần lên, điều này tương ứng với quá
trình nở của vũ trụ trong thời gian ảo (Hình 8.1). Vũ trụ đạt kích thước cực
đại tại đường xích đạo và sẽ co lại theo thời gian ảo về một điểm đơn tại cực
Nam. Mặc dù vũ trụ có kích thước bằng không tại hai cực Nam và Bắc, những điểm
này không phải là những điểm kỳ dị, các điểm khác đều là những điểm bình
thường. Các định luật khoa học đều đúng ở tất cả các điểm, kể cả ở cực Bắc và
cực Nam.
Hình 8.1: Trong thời gian ảo, khi chúng ta chuyển động về phía Nam,
các đường tròn vĩ tuyến vốn cách đều cực Bắc sẽ lớn dần lên, điều này tương ứng
với quá trình nở của vũ trụ.
Song lịch sử của vũ trụ theo thời gian thực sẽ
khác. Vào thời điểm mười hoặc hai mươi ngàn triệu năm về trước, vũ trụ có kích
thước nhỏ nhất bằng bán kính cực đại trong lịch sử theo thời gian ảo. Ở các
thời điểm muộn hơn, vũ trụ giãn nở theo mô hình lạm phát hỗn độn của Linde
(song giờ đây chúng ta không cần phải giả định từ một trạng thái đúng đắn nào
cả). Vũ trụ sẽ giãn nở đến một kích thước rất lớn và có thể co lại về một điểm
kỳ dị trong thời gian thực. Như thế, trong một ý nghĩa nào đó, chúng ta vẫn còn
chưa hết trách nhiệm, dẫu có tránh xa các lỗ đen. Chỉ khi nào chúng ta có thể
mô tả vũ trụ bằng thời gian ảo thì mới hết các điểm kỳ dị.
Nếu vũ trụ thực
tế ở trong một trạng thái lượng tử như thế, thì sẽ không có kỳ dị trong lịch sử
của vũ trụ theo thời gian ảo. Do đó tôi nghĩ rằng, công trình gần đây của tôi
đã không tính đến hết các kết quả của công trình trước đây của tôi về kỳ dị.
Song như đã nói trước đây, sự quan trọng thực tiễn của các định lý về kỳ dị là ở
chỗ đã chứng minh được rằng trường hấp dẫn phải lớn đến nỗi các hiệu ứng lượng
tử không thể nào bỏ qua được. Điều này lại dẫn đến ý tưởng cho rằng vũ trụ phải
hữu hạn trong thời gian ảo song không có biên và điểm kỳ dị. Song khi chúng ta
đi ngược thời gian thực trong đó chúng ta sống thì lại xuất hiện các kỳ dị. Nhà
du hành vũ trụ đáng thương nếu rơi vào một lỗ đen sẽ đi đến một kết cục bi thảm;
chỉ lúc nhà du hành sống trong thời gian ảo thì mới không gặp phải những kỳ dị
mà thôi.
Tình huống trên có thể gợi ý rằng cái gọi là thời gian ảo thực tế là thời gian thực, còn cái gọi là thời gian thực thì lại là sản phẩm của trí tưởng tượng của chúng ta. Trong thời gian thực, vũ trụ có một điểm ban đầu và một điểm cuối tại các kỳ dị là biên của không - thời gian, tại biên đó các định luật khoa học không còn đúng nữa. Song trong thời gian ảo thì không còn kỳ dị, không còn biên. Như thế rất có thể là cái mà ta gọi là thời gian ảo thì thực tế là cơ bản hơn, và cái mà ta gọi là thời gian thực thì chẳng qua là một ý niệm ta bày đặt ra để mô tả cái mà ta tưởng là vũ trụ. Theo cách tiếp cận tôi trình bày ở Chương 1, thì một lý thuyết khoa học chính là mô hình toán học ta sáng tạo ra để mô tả các điều quan sát: mô hình đó chỉ tồn tại trong trí óc ta mà thôi. Vì vậy thật là vô nghĩa khi nêu ra câu hỏi: Thời gian “thực” và thời gian “ảo”, cái nào thực hơn? Vấn đề là ở chỗ thời gian nào có ích hơn cho việc mô tả vũ trụ.
Chúng ta có thể sử dụng tổng các lịch sử kết hợp với giả thiết không có điều kiện biên để tìm ra những tính chất nào của vũ trụ có nhiều xác suất cùng xảy ra. Ví dụ chúng ta có thể tính xác suất để vũ trụ giãn nở gần cùng một tốc độ trong mọi hướng lúc mà mật độ trong vũ trụ có trị số hiện nay. Trong các mô hình đã được đơn giản hóa mà chúng ta đã xét đến đây, xác suất này là lớn; điều đó có nghĩa là điều kiện không có biên dẫn đến hệ quả là có xác suất lớn để tốc độ giãn nở hiện tại là gần như nhau theo mọi hướng. Điều này phù hợp với các quan trắc về bức xạ vi - ba phông, những quan trắc này chứng tỏ rằng bức xạ có cùng một cường độ theo bất cứ hướng nào. Nếu vũ trụ giãn nở nhanh hơn theo một số hướng nào đó, thì cường độ bức xạ theo các hướng đó phải giảm đi do một sự dịch phụ về phía đó.
Những hệ quả khác của giả thiết không có điều kiện biên hiện nay đang được nghiên cứu. Một vấn đề đặc biệt lý thú là trị số của những độ lệch nhỏ khỏi mật độ đồng nhất của vũ trụ vào những giai đoạn sớm, chính những độ lệch nhỏ đó sau này sẽ cấu thành trước hết là các thiên hà, sau đó là các sao và cuối cùng là bản thân chúng ta. Nguyên lý bất định buộc rằng vũ trụ vào các giai đoạn sớm không thể tuyệt đối đồng nhất bởi vì tồn tại những bất định hay những thăng giáng của vị trí và vận tốc của các hạt. Sử dụng điều kiện không có biên, chúng ta thấy rằng vũ trụ trong thực tế phải xuất phát từ sự không đồng nhất trong phạm vi cho phép bởi nguyên lý bất định.
Vũ trụ đã phải trải qua một thời kỳ giãn nở nhanh như trong các mô hình lạm phát. Suốt thời kỳ đó, những chỗ không đồng nhất ban đầu sẽ được phóng đại lên đến khi đủ lớn để cho phép chúng ta giải thích được nguồn gốc của những cấu trúc quan sát được trong vũ trụ. Trong một vũ trụ giãn nở, trong đó mật độ vật chất thay đổi không nhiều từ chỗ này sang chỗ khác, thì hấp dẫn làm cho những vùng có mật độ cao hơn giãn nở chậm và bắt đầu co lại. Điều này dẫn đến sự hình thành các thiên hà, các sao và sau đó là cơ thể của chúng ta. Như vậy mọi cấu trúc phức tạp mà chúng ta quan sát được trong vũ trụ đều có thể giải thích được bởi giả thiết không có biên của vũ trụ cộng với nguyên lý bất định của cơ học lượng tử.
Ý tưởng cho rằng không và thời gian có thể làm thành một mặt đóng không có biên cũng đưa ra những điều ràng buộc sâu sắc đối với vai trò của Chúa trong các công việc trong vũ trụ. Với tiến bộ của các lý thuyết khoa học có khả năng mô tả nhiều hiện tượng, đa số tin rằng Chúa cho phép vu trụ tiến hóa theo những quy luật nhất định và không can thiệp để vi phạm các định luật đó. Song các định luật này không nói lên được vũ trụ đã thoát thai từ trạng thái nào - lên dây cót đồng hồ và chọn xem vũ trụ bắt đầu như thế nào vẫn là phần của Chúa. Nếu mà vũ trụ có một điểm xuất phát, chúng ta buộc lòng phải giả định có một Đấng sáng tạo. Nhưng nếu vũ trụ là hoàn toàn tự thân, không biên không mút thì vũ trụ cũng không có bắt đầu, không có kết cuộc: vũ trụ chỉ tồn tại. Vậy thì Đấng sáng tạo giữ vị trí gì ở đây?.
Tình huống trên có thể gợi ý rằng cái gọi là thời gian ảo thực tế là thời gian thực, còn cái gọi là thời gian thực thì lại là sản phẩm của trí tưởng tượng của chúng ta. Trong thời gian thực, vũ trụ có một điểm ban đầu và một điểm cuối tại các kỳ dị là biên của không - thời gian, tại biên đó các định luật khoa học không còn đúng nữa. Song trong thời gian ảo thì không còn kỳ dị, không còn biên. Như thế rất có thể là cái mà ta gọi là thời gian ảo thì thực tế là cơ bản hơn, và cái mà ta gọi là thời gian thực thì chẳng qua là một ý niệm ta bày đặt ra để mô tả cái mà ta tưởng là vũ trụ. Theo cách tiếp cận tôi trình bày ở Chương 1, thì một lý thuyết khoa học chính là mô hình toán học ta sáng tạo ra để mô tả các điều quan sát: mô hình đó chỉ tồn tại trong trí óc ta mà thôi. Vì vậy thật là vô nghĩa khi nêu ra câu hỏi: Thời gian “thực” và thời gian “ảo”, cái nào thực hơn? Vấn đề là ở chỗ thời gian nào có ích hơn cho việc mô tả vũ trụ.
Chúng ta có thể sử dụng tổng các lịch sử kết hợp với giả thiết không có điều kiện biên để tìm ra những tính chất nào của vũ trụ có nhiều xác suất cùng xảy ra. Ví dụ chúng ta có thể tính xác suất để vũ trụ giãn nở gần cùng một tốc độ trong mọi hướng lúc mà mật độ trong vũ trụ có trị số hiện nay. Trong các mô hình đã được đơn giản hóa mà chúng ta đã xét đến đây, xác suất này là lớn; điều đó có nghĩa là điều kiện không có biên dẫn đến hệ quả là có xác suất lớn để tốc độ giãn nở hiện tại là gần như nhau theo mọi hướng. Điều này phù hợp với các quan trắc về bức xạ vi - ba phông, những quan trắc này chứng tỏ rằng bức xạ có cùng một cường độ theo bất cứ hướng nào. Nếu vũ trụ giãn nở nhanh hơn theo một số hướng nào đó, thì cường độ bức xạ theo các hướng đó phải giảm đi do một sự dịch phụ về phía đó.
Những hệ quả khác của giả thiết không có điều kiện biên hiện nay đang được nghiên cứu. Một vấn đề đặc biệt lý thú là trị số của những độ lệch nhỏ khỏi mật độ đồng nhất của vũ trụ vào những giai đoạn sớm, chính những độ lệch nhỏ đó sau này sẽ cấu thành trước hết là các thiên hà, sau đó là các sao và cuối cùng là bản thân chúng ta. Nguyên lý bất định buộc rằng vũ trụ vào các giai đoạn sớm không thể tuyệt đối đồng nhất bởi vì tồn tại những bất định hay những thăng giáng của vị trí và vận tốc của các hạt. Sử dụng điều kiện không có biên, chúng ta thấy rằng vũ trụ trong thực tế phải xuất phát từ sự không đồng nhất trong phạm vi cho phép bởi nguyên lý bất định.
Vũ trụ đã phải trải qua một thời kỳ giãn nở nhanh như trong các mô hình lạm phát. Suốt thời kỳ đó, những chỗ không đồng nhất ban đầu sẽ được phóng đại lên đến khi đủ lớn để cho phép chúng ta giải thích được nguồn gốc của những cấu trúc quan sát được trong vũ trụ. Trong một vũ trụ giãn nở, trong đó mật độ vật chất thay đổi không nhiều từ chỗ này sang chỗ khác, thì hấp dẫn làm cho những vùng có mật độ cao hơn giãn nở chậm và bắt đầu co lại. Điều này dẫn đến sự hình thành các thiên hà, các sao và sau đó là cơ thể của chúng ta. Như vậy mọi cấu trúc phức tạp mà chúng ta quan sát được trong vũ trụ đều có thể giải thích được bởi giả thiết không có biên của vũ trụ cộng với nguyên lý bất định của cơ học lượng tử.
Ý tưởng cho rằng không và thời gian có thể làm thành một mặt đóng không có biên cũng đưa ra những điều ràng buộc sâu sắc đối với vai trò của Chúa trong các công việc trong vũ trụ. Với tiến bộ của các lý thuyết khoa học có khả năng mô tả nhiều hiện tượng, đa số tin rằng Chúa cho phép vu trụ tiến hóa theo những quy luật nhất định và không can thiệp để vi phạm các định luật đó. Song các định luật này không nói lên được vũ trụ đã thoát thai từ trạng thái nào - lên dây cót đồng hồ và chọn xem vũ trụ bắt đầu như thế nào vẫn là phần của Chúa. Nếu mà vũ trụ có một điểm xuất phát, chúng ta buộc lòng phải giả định có một Đấng sáng tạo. Nhưng nếu vũ trụ là hoàn toàn tự thân, không biên không mút thì vũ trụ cũng không có bắt đầu, không có kết cuộc: vũ trụ chỉ tồn tại. Vậy thì Đấng sáng tạo giữ vị trí gì ở đây?.
Stephen Hawking
Người dịch: Cao Chi, Phạm Văn Thiều
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét