Thứ Tư, 21 tháng 4, 2021

Thơ chữ Hán Nguyễn Du: Cảm hứng từ một dòng sông

Thơ chữ Hán Nguyễn Du: 
Cảm hứng từ một dòng sông

Văn thiêng không ở ngôn ngữ  (Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa) (1)
Quê hương Hà Tĩnh có một vị trí sâu nặng trong lòng Nguyễn Du. Nguyễn có nhiều bài thơ gửi gắm tâm sự về quê hương qua những thi tứ được gợi nên khi thì ở cảnh núi sông cây cỏ, khi thì ở tình huynh đệ, gia quyến, làng thôn…
Qua những phần trong Thơ Chữ Hán, viết về sông (Nguyễn có gần vài chục bài), tất cả đều toát lên một tâm trạng  chung - nỗi buồn, sự luyến tiếc, hoài niệm về quá khứ, tâm trạng mà ta đã bắt gặp nhiều trong thơ  Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Gia Thiều, với những hình ảnh “lối xưa xe ngựa”, “nền cũ lâu đài”... rồi mủi lòng cho cảnh bèo bọt thân phận đương thời.
Trong thơ Nguyễn khi thi hoài cổ một thời vàng son:
Nhớ xưa cha ta về hưu/ Cờ lọng xe ngựa rợp bến sông này
… Từ độ áo xiêm không còn nữa/ Hai bờ cây cỏ bùi ngùi xiết bao.
(Giang đình hữu cảm)
Khi thi băn khoăn về thời cuộc, nỗi buồn về thân phận:
Quê xa ngàn dặm, nhìn trăng rơi lệ/ Bên dòng Long giang ngoài thôn Nam Đài
Tiếng sóng lạnh tiễn đưa kim cổ
(Đêm xuân)
Xuôi dòng âu thỏa vẫy vùng/ Thân này lận đận bềnh bồng bao thôi (Sông Đồng Lung)
Những nỗi buồn dâng trào xoay quanh cái trục, cái suy ngẫm của nhà thơ về lẽ biến dịch của cuộc đời. Cái cảm quan triết học đó bộc lộ khá rõ trong nhận thức của thi sĩ về sự lên xuống của các triều đại để tự an ủi:
Bên sông Vị quân doanh đồ sộ/ Bến xưa ngựa uống bóng chiều/
Xưa nay chưa thấy triều đại nào nghìn năm…
(Quân doanh Vị hoàng)
Một trong nhiều bài thơ về sông của Nguyễn có dáng vẻ riêng, đó là bài về sông quê Lam giang, một bài thơ ghi lại xúc cảm cũng như lòng trắc ẩn của tác giả với người dân quê lam lũ, mà cảm hứng nghiêng về phía hiện tại, chứa đựng một cảm thức triết học khá tích cực.
Sáng sớm ngắm sông Lam/ Mùa thu n­ước sông lớn/ Cá giải đùa bãi gò/ Ngựa trâu lạc bờ bến
Bờ lở sấm vang ầm/ Sóng xô quỷ lạ hiện/ Nguy hiểm nản lòng người/ Sụt lở ý trời khiến
Ta trông đầu sông Lam/ Tấc lòng thư­ờng áy náy/ Không may lỡ sảy chân/ Chìm lĩm sâu tận đáy
Cớ sao ng­ười thế gian/ Nguy hiểm không sợ hải?/ Ng­ười trước ào ào đi/ Người sau ùn ùn tới
Lòng trời vốn thư­ơng ng­ười/ Sao để như thế mãi?/ Muốn đem Thiên nhẫn sơn/ Lấp bằng sông Lam lại.
(Phạm Khắc Khoan, Lê Thước dịch)
“Sông quê” là một đề tài ta gặp ở nhiều tác giả (sông gắn với tình yêu, với tuổi thơ, với cha mẹ…) nhưng Lam giang của Nguyễn Du lại có một cái nhìn hướng về hiện thực về thân phận người nông dân lao khổ. Cái riêng thể hiện ở cảnh, tình nhưng đặc biệt ở cái triết lý nhân sinh mà tác giả ôm ấp, suy tư.
Trước hết xin nói đôi điều về cảnh quê, đặc biệt là Sông Lam - con sông mà Nguyễn Du nhắc đến. Đây là con sông khá nổi tiếng  từng là nơi diễn ra nhiều trận đánh thời Trịnh Nguyễn phân tranh và thời nhà Lê chống quân Minh. Nhưng cái in dấu sâu đậm trong lòng người dân xứ này thời bấy giờ là nạn lụt lội hãi hùng mà sông gây nên.
Sông Lam là một con sông cực kỳ hung dữ gây ra nhiều cảnh lụt lũ đáng sợ cho người dân trong vùng. Sách “An Tĩnh cổ lục” (Le vieux An Tĩnh) của nhà nghiên cứu người Pháp Hippolyte Le Breton (2) có nhiều trang ghi lại cảnh tàn phá của con sông này:
… Bởi một sự cuồng điên, sông Lam gặm nhấm mặt các bờ của làng mới… Sông lam đã tàn phá hoàn toàn làng Triều Khẩu, làm lở sâu vào phía tả ngạn trên một chiều rộng hơn một cây số, cách bờ sông cũng hơn một cây số, sâu 8 mét… (tr131)
Ngay dưới triều Gia Long những năm Nguyễn Du sống cũng xẩy ra những trận lũ lụt ghê gớm:
… Trong một trận lũ ghê gớm, nước dồn về mở rộng lòng sông, phá tan dãi đất rộng của các làng mới lập lên ở đây. Thảm họa kéo dài suốt ba năm liền… Cả năm làng bị tiêu hủy toàn bộ, một phần bởi sông Lam, từ thượng lưu đến hạ lưu là: Quảng Dụ, Nghĩa Liệt, Vệ Chính, Khánh Sơn và Triều Khẩu (tr212-213).
Theo lời các cụ trong vùng thì có những khúc sông sau nhiều mùa lũ lụt đã đổi dòng hàng chục đến hàng trăm mét. Như đoạn qua Rú Thành xuống gần Hồng Lĩnh qua quê Nguyễn Du mà dân gian ở đây thường gọi với cái tên nôm na là sông Rum, hằng năm mùa lũ lụt hai bờ bồi lỡ thất thường hiện nay so với ngày trước đã nắn dòng xê dịch về phía Nam một chặng khá dài. Sự hung dữ đó còn để lại dấu vết ở cái tên Đan Nhai (3) - nơi sông Lam đổ ra gặp bể khi xưa, nay là Cửa Hội.
Để hiểu bài thơ cần gắn nó với hiện thực thiên nhiên trong xã hội nông nghiệp cũ, hiện thực mà ca dao tục ngữ nói nhiều về sự tác động lũ lụt Tháng bảy nước nhảy lên bờ. Quê Nguyễn, nơi sông Lam chảy qua, một địa phương tiêu biểu của miền Trung mà lũ lụt hàng năm tác oai, tác ác nặng nề.
Đầu bài thơ, cảnh mùa thu n­ước sông lớn, rất hung dữ, những hình ảnh… Ngựa trâu lạc bờ bến/ Sóng xô quỷ lạ hiện/ Bờ lở sấm vang ầm đã nói rõ điều này. Cảnh dữ ở khúc sông này ta còn gặp nhiều lần trong thơ Nguyễn… Núi Tam Điệp nhiều hổ báo/ Sông Lam lắm thuồng luồng/ Đường đi hiểm trở khó khăn (Ghi lại giấc mộng).
Trước cảnh đó, tác giả vô cùng lo lắng, cái chết gần trong gang tấc: Tấc lòng thư­ờng áy náy/ Không may lỡ sảy chân/ Chìm lĩm sâu tận đáy. Nhưng sự thật diễn ra trước mắt tác giả lại ngược lại, không hề sợ nguy hiểm, người nối người quyết chí bền gan:  Ng­ười trư­ớc ào ào đi/ Người sau ùn ùn tới. Hai câu thơ nguyên tác đối nhau về âm vận gợi sự trùng điệp, người người lớp lớp. (Khứ giả hà thao thao/ Lai giả th­ượng dị vĩ)
Một câu hỏi lớn xuất hiện trong tâm tư nhà thơ: Cớ sao ng­ười thế gian/ Nguy hiểm không sợ hải? Một băn khoăn thường tình nhưng với Nguyễn Du lại đầy tâm trạng “Cớ sao ng­ười thế gian… không chùn chân trước cái chết?”. Người đọc có thể hiểu được và giải thích: vì mưu sinh. Cuộc sống người dân quê trong xã hội cũ đói khó quanh năm, nhất là mùa lũ lụt, “túng phải  tính, liều thân”, lại thêm tư tưởng định mệnh ăn sâu bao đời, họ đành phó mặc, phải liều thân vào chỗ chết mong tìm cái sống! Nhưng lòng tác giả không yên, vì cái  bất nhẫn của cuộc đời, của tạo hóa: Lòng trời vốn thư­ơng ng­ười/ Sao để như thế mãi? Một băn khoăn triết học về cuộc đời, về kiếp người! Câu hỏi lớn đầy day dứt Sao? Cớ Sao? lặp lại trong tâm tư tác giả. Lòng thương người, đức hiếu sinh Trời Phật ở đâu “ nỡ để dân đen mắc nạn này”! Trách trời cao nhưng cao xanh vẫn bó chịu, đành gửi vào giấc mơ, vào ước vọng - một ước vọng chung của những nhà nhân đạo trong xã hội cũ, người thì muốn có nhà trăm gian che mưa lụt cho người nghèo, người thì mong áo mặc, cơm ăn cho những kiếp cơ nhỡ.
Nguyện vọng, tấm lòng nhân cao cả của các vị, nhưng thực tế bế tắc lại hoàn bế tắc. Lóe lên một “ánh sáng”, khi Nguyễn Du bày tỏ Muốn đem Thiên nhẫn sơn/ Lấp bằng sông Lam lại. Câu thơ nói lên điều gì để hai trăm năm sau người đọc còn phải suy nghĩ?
Như trên đã nói, Nguyễn có nhiều bài thơ về sông, trực tiếp gửi tình về quê (Ninh giang, Long vĩ giang, Lục đầu giang…), đôi khi thoáng tự hào về vẻ đẹp cảnh trí thiên nhiên, khi thì Lam thủy Hồng sơn túc vịnh ngâm, hay Lam thủy Hồng Sơn vô hạn thắng, riêng bài này trực tiếp tả sông, tả tình, tả cảnh nhưng lại ẩn chứa nhiều sắc thái suy tư triết lý. Có nhiều cách giải thích: Phải chăng bài thơ thể hiện triết lý “liều thân cứu mạng” của người lao động? Hay là tư tưởng định mệnh “sống chết do trời” ảnh hưởng Nho giáo? Đa phần nghĩ về tình thương, triết lý về lòng nhân của nhà Phật, một Chủ nghĩa nhân đạo lớn bàng bạc trong nhiều tác phẩm của các thi sĩ và đã tạo thành một vệt lớn xuyên suốt nhiều thế hệ văn chương Việt! Nguyễn Du, người đã đọc kinh “Kim cương” hơn nghìn lần, rất am tường Phật Pháp, ở đây vượt lên lòng nhân bình thường của đạo giới, tác giả đề cao một tư duy hành động, cải tạo hoàn cảnh Muốn đem Thiên nhẫn sơn/ Lấp bằng sông Lam lại, tránh nguy nan cho mọi người. Một ý chí mạnh mẽ một tinh thần trách nhiệm trước cuộc sống của nhà nho mà sau này ta còn gặp lại trong thơ Cao Bá Quát một cách bức xúc, dằn vặt hơn: 
... Hàn lao nải liên phát
Tai lê huống vị tô
Thái bình vô nhất lược
Lộc lộc sỉ vi nho
(Độc dạ)
... Nhưng nạn rét, nạn lụt cứ phát sinh liên tiếp
Huống chi dân đen bị tai nạn chưa được hồi phục
Không có một sách lược gì làm cho đời được thái bình
Thẹn cho nhà nho mà lại tầm thường đến thế!
Cùng một nỗi lòng cảm thông cảnh cùng cực của dân đen, áy náy, xấu hổ vì chưa làm được gì cho đời được thái bình, dân đỡ khổ lụy! Cũng bởi nỗi xót xa này mà về sau Cao đã cùng nông dân nổi dậy chống bọn vua quan đương thời, mong tìm sự đổi đời. Phải chăng câu thơ Nguyễn Du là một điểm sáng nối tiếp triết lý hành động của dân Việt  trong những hoàn  cảnh cam go từng thể hiện trong ca dao, tục ngữ!
Đọc, ngẫm nghĩ, liên hệ cuộc đời chìm nổi, những dằn vặt khôn nguôi của ông cho đến khi nhắm mắt, ta thấy bài thơ hình như còn chứa đựng một bề sâu tư tưởng khác của Nguyễn Du về cõi nhân sinh, một tư duy rộng rãi sâu nặng hơn về mọi kiếp người trong cõi đời.
1/ Khi Nguyễn nói về sự liều thân của người dân mùa thác lũ ta còn cảm thấy, Nguyễn đã nói đến cái “sức mạnh liều lĩnh” tự phát của người nông dân xứ này, cái liều lĩnh do nghèo đói. Cái tư tưởng này ta đã nghe Nguyễn nói một lần khác “Dân đen không chịu nỗi đói rét/ Lo bát cơm manh áo mà xem nhẹ tính mạng… Chỉ cần cứu tế một chút thì dân tự yên” (Trở binh hành). Nó nhắc nhở những kẻ chăn dân phải giải quyết cái mầm liều lĩnh đó tạo sự bình yên trong xã hội. 

2/ Cuộc đời đầy gai chông, đầy sóng gió nguy nan, ấy vậy mà bao kiếp người hoặc vì mưu sinh hoặc vì lòng dục cứ luẩn quẩn trong vòng tham, sân, si cứ lao vào cái vực xoáy như những con thiêu thân. Nguyễn muốn cảnh tỉnh con người bằng một ý thức: hãy biết dừng lại trước cái vực xoáy do những dục vọng mê muội tạo nên!
Muốn đem Thiên nhẫn sơn/ Lấp bằng sông Lam lại, ước vọng thật đáng quý, nhưng than ôi, để cải tạo được thiên nhiên thì phải cải tạo được xã hội như ngày nay nhiều nơi trên thế giới người ta đã đào núi lấp sông, làm những công trình vĩ đại, nhưng xã hội ta thời ấy, ý nguyện của Nguyễn Du chỉ là một ảo vọng. Giới hạn lịch sử, nhưng tấm lòng, ý chí của Nguyễn sáng mãi trong lòng người, để tên tuổi ông bất tử.
Chú thích:
(1) Nguyễn Du - Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh Thạch đài.
(2) Người dịch Nguyễn Đình Khang, Nguyễn Văn Phú - Đô thành hiểu cổ xuất bản1936 - NXB Văn Hóa Thông Tin và TT Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây - tái bản 2014
(3) có hai cách giải thích:
- “Nhai” đọc trệch từ “nha”, có nghĩa là răng, mồm. Thanh long là rồng xanh, cái mồm con rồng mùa lũ hóa thành đỏ, “đan nha” có nghĩa đen như vậy.
- “Nhai” có nghĩa là bờ sông, dốc núi (theo Hán Việt từ điển - Đào Duy Anh), mùa lũ cửa sông có màu đỏ (đan nhai).  
28/1//2015
Yến Nhi
Theo https://www.vanchuongviet.org/

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thẻ nhớ vô tri

Thẻ nhớ vô tri Anh bạn thẻ nhớ từ ngày mua về đến giờ, cứ bị nhốt suốt trong máy ảnh, hôm nay mới được ra ngoài, tung tảy, tự mình nhìn ng...