Thứ Năm, 19 tháng 8, 2021

Tình sử Cleopatre 2

Tình sử Cleopatre 2

13.
Nhưng giấc mộng của Cléopâtre không êm đềm như nàng tưởng.
Khi César đưa nàng về làm chủ tòa biệt thự tráng lệ Transtiberin, cả hai đều hy vọng biến nơi này thành nơi gặp gỡ của các tài tử giai nhân thuộc giới thượng lưu quyền thế nhất La Mã. Nhưng thực tế trái hẵn lại. Các phu nhân đài các đều lánh xa. Họ đồng ý với nhau rằng Cléopâtre tuy trẻ thật, đẹp thật, nhưng thiếu vẻ quý phái vương giả (?) mà phần lớn các phu nhân La Mã đều có. Một điều nữa làm họ ngứa mắt là César coi vợ Ai Cập hơn vợ La Mã. Từ ngày Cléopâtre tới đây, César thường vui thú với nàng hơn là ở nhà với Calpurnia. Dù nàng là đồng minh của La Mã, nàng vẫn là một Nữ Hoàng ngoại chủng. Riêng đối với César, nàng đã vượt quá giới hạn của tình đồng minh, nàng đã trắng trợn cướp ông trên tay người vợ hiền Calpurnia.
Về phía nam giới, họ chú trọng đến mặt chính trị nhiều hơn. Để khỏi mất lòng César, nhiều người vui vẻ lui tới ngôi biệt thự. Dần dần họ thực sự bị lôi cuốn bởi sắc đẹp và sự khôn ngoan của Cléopâtre, đó là chưa kể những đại tiệc xa xỉ mà nàng đem ra đãi khách.
Theo kế hoạch của César, điều tối quan trọng là làm thế nào để Cléopâtre được xã hội La Mã công khai chấp nhận trước khi ông cùng nàng ra mặt củng cố địa vị, thực hiện giấc mộng đế vương. Ông rất hài lòng thấy nàng tỏ ra cực kỳ khéo léo, vừa làm đẹp lòng những người già, vừa thu hút được đám trai trẻ, mà vẫn giữ được khoảng cách an toàn giữa chủ và khách.
Những hôm trời đẹp, César và Cléopâtre tổ chức tiệc trà thân mật ngoài vườn, khách khứa được tiếp đãi ân cần khiến ai cũng thích, tiếng đồn gần xa, các nghị viên Nguyên Lão giàu thế lực nhất cũng thường xuyên lui tới, và họ càng ngày càng thầm phục vị Nữ Hoàng trẻ tuổi nhưng khôn ngoan, thông minh nhưng khiêm nhượng kia.
Trong đám khách trẻ tuổi, có hai gã mà Cléopâtre rất ghét. Đó là Brutus, con hờ của César, và Octave, cháu gọi César bằng ông trẻ.
Một hôm Cléopâtre cho mời nhà đại hùng biện kiêm văn sĩ Cicéron tới chơi để thỏa óc tó mò. Khi ông này ra về, nàng nói với César:
– Thiếp mến lão. Tội nghiệp, người có tài như vậy mà phải ở ẩn để phí một đời.
César cười gằn:
-Bịp bơm quá! Lão làm bộ lui về ở ẩn tại Tusculum chỉ vì trước kia lão theo phe Pompée, sợ liên lụy. Dù sao lão cũng không thể qua mặt được ta. Lão hiện có nhiều đất đai tại Naples và Pompéi, ăn chơi chẳng kém bậc khanh tướng.
– Nhưng lão vẫn dễ mến hơn hai gã thanh niên tới đây hôm nọ.
– Nàng muốn nói Brutus và Octave chứ gì? Nàng nên nhớ dù gì chúng cũng là con cháu ta.
Cléopâtre cãi ngay:
– Octave chỉ là đứa cháu ngoại thích của Tướng Quân. Giả thử cha gã mà không giàu có nhờ nghề cho vay lãi, chắc chắn bà chị Julie của Tướng Quân không đời nào thèm gả con gái cho y, và ngày nay làm gì có một tên gớm ghiếc như gã. Chưa thấy ai như gã lười tắm lắm thì phải?
César có vẻ không hài lòng:
– Nhưng nó thông minh. Tuy mới mười sáu tuổi, nó đã học rất cao.
– Còn Brutus nữa. Thiếp không hiểu gã liên quan với Tướng Quân ở chỗ nào.
Nàng nói câu này hơi quá, vì xưa nay ai cũng đồn Brutus là con riêng của César với cô tình nhân dâm đãng Servilia từ hồi ông còn trẻ.
César không trả lời vì không muốn khơi lại chuyện cũ, nhưng Cléopâtre chưa chịu thôi:
– Vẫn biết gã có bộ vó oai phong và hành vi chánh đáng, nhưng vẻ trịnh trọng quá lố của gã làm thiếp khó chịu.
Có lẽ nàng nhớ tới hôm hai gã thanh niên mở cửa xồng xộc bước vào, mang theo một luồng gió buốt khiến nàng rùng mình ôm con vào lòng. Và nàng mất cảm tình với hai gã ngay từ phút đó.
Hôm đó, biết Brutus là con César, nàng đã quan sát thật kỹ khuôn mặt gã để tìm những nét giống César, nhưng chỉ hoài công. Về phần Brutus, gã cũng ngó đăm đăm vào mặt cậu bé Cesarion, và khi thấy cậu bé giống cha như đúc, gã có vẻ nghĩ ngợi vẫn vơ...
Sau đó gã tìm cách đề cao nếp sống khắc khổ, gián tiếp chỉ trích sự xa hoa vô lối của Cléopâtre. Nàng căm lắm nhưng không nói gì.
Nàng còn biết cả vụ mấy năm về trước Brutus đem quân chống lại César tại Pharsale để bênh vực Tướng Pompée, viện cớ Tướng Pompée đức độ hơn cha! Nàng lấy làm tiếc là hồi đó César đã tha mạng đứa con ngỗ nghịch. Nàng ghét gã, không muốn gã tới gần nàng hoặc con nàng. Không hiểu sao nàng cứ bị ám ảnh mãi bởi ý tưởng gã sẽ là một đại họa cho nàng sau này.
César cho rằng nàng mê tín lẩm cẩm theo kiểu Đông Phương, nhưng ông không nói ra sợ làm nàng phật ý. Ông chỉ an ủi:
– Nàng đừng lo, Brutus là người tốt. Nó là một trong số rất ít những người cương trực tại thành La Mã này.
Cléopâtre vẫn chẳng thấy yên trí chút nào.
Đã vậy, mấy hôm sau César lại báo cho nàng một tin đáng ngại:
– Ta với nàng lại sắp phải xa nhau một thời gian. Dư đảng của Pompée vừa khởi binh tại bán đảo Iberie thuộc xứ Tây Ban Nha, ta tính đi dẹp lần cuối cho xong.
– Tướng Quân đi có lâu không? Sao không cử một tướng khác đi thay, Marc Antoine chẳng hạn?
– Không được. Đây là một chuyện gần như riêng tư giữa ta và cố Đại Tướng Pompée, ta phải đích thân giải quyết lấy. Nhưng nàng yên tâm, ta chỉ đi dăm ba tháng là cùng. Trong khi ta vắng mặt, nàng cứ ở lại đây và tiếp tục kế hoạch đã định sẵn. Nhớ viết thư cho ta càng nhiều càng tốt. Ta sẽ sắp đặt để ngày nào cũng có người liên lạc giữa ta và nàng. Âu đây cũng là dịp tốt để nàng thử sống một mình tại La Mã, tự xoay sở lấy xem sao.
– Thiếp chẳng thấy hứng thú chút nào...
Nàng ngừng lại một chút, rồi chợt hỏi chồng bằng giọng ỡm ờ:
– Không hiểu thiếp có nên tin vào sự chung thủy của Tướng Quân không nhỉ?
César cười:
– Nên lắm chứ! Vả lại nàng còn lạ gì mấy ả Tây Ban Nha. Đàn bà mà đeo râu giống hệt các chiến sĩ xứ Gaule, thấy mà phát ớn.
Rồi cũng với giọng ỡm ờ, ông hỏi kháy:
– Còn nàng nữa, trong đám công tử La Mã, đã chọn được ai chưa?
Nàng cắn nhẹ vào tai ông, cười khúc khích:
– Tướng Quân đừng lo. Bọn đó không đáng xách dép cho Tướng Quân, đời nào thiếp thèm để mắt tới.
Thế rồi chiêng khua trống gióng, đoàn quan diễn chinh của César lên đường đi Tây Ban Nha, để mặc vị Nữ Hoàng trẻ tuổi lo lắng nhìn theo.
Trước khi ra đi César đã vận động để được cử làm Tối Cao Chấp Chánh kiêm Toàn Quyền La Mã cho niên khóa kế tiếp, và ngay khi đặt chân tới Tây Ban Nha, ông gửi về một danh sách tám vị Chấp Chánh Quan. Tám vị này sẽ nhận chỉ thị của ông và thay ông cai trị La Mã.
Tuy Cléopâtre nhận được tin César hằng ngày, nàng không ngớt lo âu cho sự an toàn của chồng. Nàng biết ông là một dũng tướng bách chiến bách thắng, nhưng số phận con người ở giữa rừng gươm giáo không biết thế nào mà nói. Hơn nữa, mấy lúc sau này chứng kinh giản của ông bộc phát thất thường. Đã mấy lần nàng thấy ông tơi tả trước sự hành hạ của những cơn đau. Nàng chỉ con biết cầu nguyện cho ông, tin tưởng ở số mạng nàng và đứa con thơ dại
Nhưng không vì thế mà nàng sao lãng lời chồng dặn. Tòa biệt thự của nàng tấp nập khách khứa hơn bao giờ hết, và nàng không để một biến cố chính trị nào lọt khỏi đôi tai mình. Nàng muốn rằng dù César đi vắng hay ở nhà, ông cũng vẫn nắm gọn La Mã trong tay.
Nàng bắt đầu tìm hiểu thêm một vài điều về tình hình chính trị tại Cộng Hòa La Mã. Thì ra chế độ Cộng Hòa tại đây chẳng có gì hay ho. Chính quyền được thành lập tự do sự bầu bán của một nhóm người lúc nào cũng lớn tiếng bênh vực quyền lợi chung của dân chúng, nhưng lại ngầm thỏa thuận về quyền ăn hối lộ và bỏ phiếu cho ứng cử viên nào nhiều tiền nhất. Nàng thầm nghĩ, cứ như Ai Cập lại hóa hay. Dân chúng cứ việc cuối đầu tuân mạng, tự nhiên họ sẽ cảm thấy hài lòng vì chẳng phải bận tân về bất cứ chuyện gì khác.
Nàng nóng lòng chờ ngày César vung tay chấm dứt chế độ Cộng Hòa vô ý thức này để lên ngôi Hoàng Đế đúng như sự an bài của các vị thần linh. Nàng tin tưởng ở chân mạng đế vương của César, tin tưởng ở tài năng của ông cùng với sự trợ lực của nàng, nhưng không hiểu sao nàng vẫn không hoàn toàn yên trí. Nàng biết tại La Mã vẫn còn một nhóm người thiên hẳn về chế độ Cộng Hòa, mà hình ảnh nổi bật nhất, đáng sợ nhất, là Brutus, con riêng của César. Nàng không thể hiểu nổi tại sao Brutus lại căm hận như cha vậy, luôn luôn tìm cách mạt sát ông những lúc ông vắng mặt.
Một ngày kia, nhân lúc vắng người, nàng châm biếm hỏi Brutus:
– Có bao giờ cậu hãnh diện và sung sướng vì được một nhà quý tộc cỡ César tin cậu là con ruốt của ông không?
Brutus nhìn nàng một cách ngạo mạn:
– Tin tôi? Theo quan niện của tôi thì các nhà quý tộc không đời nào đi tin một chuyện bá vơ như vậy. Đó chính là một sỉ nhục cho mẹ tôi, và xin nói để bà biết, tôi vẫn hãnh diện được đi bên mẹ.
Thật bẽ bàng cho Cléopâtre, nhưng ít ra nàng cũng hài lòng ở một điểm: giờ đây nàng biết chắc kẻ thù chính của César là Brutus!
14
Năm sau, César đánh bại hai người con trai của Tướng Pompée trong một trận thư hùng trời long đất lở, ba mươi ngàn địch quân bị giết. Chiến thắng tuy to lớn nhưng chẳng vẻ vang chút nào, vì địch quân cũng là người La mã. Và đến khi César tổ chức lễ Khải Hoàn, dân chúng tham dự miễn cưỡng thấy rõ. Người ta có cảm tưởng ông đang sử dụng xương máu của các chiến sĩ La mã vào những mục đích riêng tư, nhưng không ai dám nói gì.
Trong hai người con của Pompée, người anh Cneius đã bị giết, còn người em Sextus bỏ trốn. Giờ đây César một mình một chợ, chẳng còn ai tranh đoạt quyền hành. Ngoài chức vụ Toàn Quyền và Tối Cao Chấp Chánh, ông còn được Nguyên Lão Viện suy tôn làm Đại Vương. Tuy hồi đó tước vị này chưa có nghĩa là Vua như khoảng thời gian về sau, nhưng ông nhấn mạnh rằng nó phải có tính cách cha truyền con nối, và như vậy Đại Vương không khác gì Vua là bao.
Ai sẽ là người nối nghiệp César, nếu không phải là Sésarion, người con trai hợp thức duy nhất của ông? Hiển nhiên ông đang dọn đường để sau này con ông lên trị vì La Mã lẫn Ai Cập một cách danh chánh ngôn thuận.
Để chắc chắn hơn, Cléopâtre áp dụng phương pháp cũ: phao tin. Nàng cho người đồn đãi rằng sắp có một đạo luật cho phép vị Toàn Quyền có hai vợ, một bản xứ và một ngoại quốc. Như vậy khi César lên làm vua, Cléopâtre sẽ là vợ chính thức của ông tại La mã, cũng như ông là chồng chính thức tại Ai Cập. Cả hai dân tộc sẽ chịu quyền điều khiển của hai người mà không có điều chi dị nghị.
Riêng César, càng ngày ông càng ra mặt muốn làm Vua. Những khi xuất hiện trước công chúng, ông luôn luôn mặc hoàng bào như các vua thời trước, đầu đội vòng hoa vàng giống như vương miện, tay cầm trượng ngà không khác quyền trượng của nhà Vua. Ghế ông ngồi cũng bằng vàng, tương tự như chiếc ngai đặt tại Nguyên Lão Viên hoặc Tối Cao Pháp Đình. Ngoài ra ông còn thuyết phục Nguyên Lão Viện chuẩn cho ông sử dụng một đội cấm vệ gồm các kỵ sĩ người Đức.
Một hôm Cléopâtre bảo ông:
– Bây giờ Tướng Quân chỉ cần lập thêm một chiến công nữa, mang thêm về cho La mã một mớ của cải nữa, là dân chúng sẽ không còn lý do từ chối ý muốn của Tướng Quân. Nhất là nếu chiến thắng đó bao trùm cả xứ Ba Tư, thì Tướng Quân sẽ trở thành một A-Lịch-San Đại Đế thứ hai.
Thấy nàng ghép tên mình với vị anh hùng độc nhất vô nhị, ông nhăn mặt:
– Nàng đừng nói thế. Trên đời này làm gì có ai sánh nổi A-Lịch -San Đại Đế...
– Trừ César!
Nàng ngắt lời ông một cách quyết liệt, rồi nói tiếp:
– Việc mà Tướng Quân phải làm, và có thể làm được, là nối gót A– Lịch-San chinh phục Ba Tư, rồi từ đó đánh chiếm luôn Ấn Độ. Qua mặt luôn cả A-Lịch-San nếu cần.
Ánh mắt phấn khởi mà nàng bắt gặp nơi César bảo cho nàng biết rằng ông đã bắt đầu xiêu lòng. Chắc chắn ông đang háo hức nhớ tới sự mệt mỏi, thích thú, mưu toan, chém giết, rùng rợn, nguy hiểm, những tiếng động quen tai, những cảnh sắc tưng bừng, và những trò khả ố trong các chiến dịch xứ ngoài. Nàng đã gieo được những hạt giống vào đầu ông, chỉ cần khéo léo thêm một chút nàng sẽ khiến được chúng mọc rễ nảy mầm, rồi đơm bông kết trái.
Nàng nghĩ sao làm vậy, nhưng kết quả không đạt tới mức nàng mong muốn. Thay vì tiến quân từ Ba Tư sang đánh chiếm Ấn Độ, César sắp đặt một chương trình dễ thực hiện hơn. Càng nhiều tuổi ông càng dè dặt. Trước kia ông có thể hứng chí làm bất cứ chuyện gì để được tiếng tăm đối với ông không cần thiết bằng mạng sống, địa vị, và tương lai con cháu.
Theo dự tính của ông, ông cũng sẽ chinh phục Ba Tư như A-Lịch-San Đại Đế, nhưng sau đó ông sẽ không hướng về Ấn Độ như Cléopâtre đề nghị.
Ông nói với phó tướng Antoine:
– Và sau đó chúng ta sẽ tiến binh qua Hyrcanie, thẳng lên hướng bắc, men theo biển Caspienne, vượt rặng Caucase...
Antoine đang chăm chú nghe ông nói và theo dõi ngón tay ông lướt trên bản địa đồ, đến đây chợt kêu lên:
– Trời rặng núi đó cao lắm, quân ta vượt qua sao nổi?
– Đã có người qua được. Nhiều người. Đúng vậy không?
– Nhưng họ chỉ đi một mình, và thỉnh thoảng mới có người đi...
– Tốt lắm, đi một mình được, thì đi thành đoàn được hơn!
César muốn chứng tỏ uy quyền bằng thành ngữ mà ông vừa ứng khẩu.
Ngừng một chút để Antoine thấm thía câu nói xong, ông chỉ tay trên bản đồ, tiếp:
– Chúng ta sẽ tới xứ Scythie phía đông bắc Hắc Hải. Cũng có thể quân đội xứ này sẽ liều mình chống cự, nhưng ta nghĩ họ sẽ thích hòa hơn là chiến, và như vậy chúng ta sẽ cung cấp lương thực để tiến đánh bọn Đức.
Antoine nhận xét:
– Tới đó liệu quân ta có quen với địa thế hơn không?
César gật đầu:
– Dĩ nhiên khi ta bắt quân ta trèo đèo lội suối tới một nơi xa xôi như thế là phải có lý do. Ta và các tướng biết rất rõ về phong thổ tại địa phương, nắm vững chiến thuật của bọn chúng, muốn chiến thắng tưởng không có gì khó. Hơn nữa, rất nhiều binh lính của ta từng đánh bại bọn Đức một lần. Họ rất tin tưởng sẽ quật ngã bọn chúng thêm một lần nữa. Sau đó ta sẽ vòng về bằng ngã Gaule, hoàn toàn đi trên phần đất nhà.
Nói đến đây César nhìn vào mặt Antoine một cách khác lạ:
– Ngươi hiểu chiến dịch này chứ?
Antoine ngập ngừng:
– Chúng ta sẽ có thêm một số chiến thắng vĩ đại...
– Hơn thế nữa! Ngươi không nhận thấy là khi chúng ta hồi binh, Đế Quốc La Mã của chúng ta sẽ tiếp giáp với biển ở ba mặt bắc, tây và nam sao?
– Còn mặt phía đông?
César cuốn tấm địa đồ chậm rãi:
– Từ từ, cứ từ từ!
– Chắc sẽ tốn nhiều tiền lắm?
– Chiến tranh nào lại không tốn kém, nhất là các cuộc viễn chinh. Nhưng không sao, nếu chúng ta thắng thì các nước bại trận sẽ chịu hết phí tổn; còn nếu chúng ta bại thì trên đời này chẳng gì đáng quan tâm nữa, vứt hết.
– Nhưng ít ra chúng ta cũng phải có tiền đề khởi sự chứ?
– Chuyện đó không khó, Cléopâtre đã hứa đem kho tàng vô tận của Ai Cập ra chi phí cho chúng ta, nhưng ta thiết nghĩ không nên lợi dụng lòng tốt của nàng một cách quá đáng. Hơn nữa La Mã cần phải giữ thể diện của mình. Ngày mai ta sẽ ra trước Nguyên Lão Viện yêu cầu gây quỹ bằng cách bán bớt đất công.
– Chắc chắn họ sẽ chịu ngay. Tất cả La mã đều náo nức từ khi nghe đồn về chiến dịch này. Nhưng có một điều làm kẻ hèn nhát thắc mắc. Chắc Đại Soái có nghe rằng dân xứ Parthie chỉ chịu khuất phục trước một vị Vua mà thôi?
– Có, ta có nghe. Dĩ nhiên đó là một lối mê tín.
– Muốn chinh phục xứ Ba Tư, chúng ta phải chinh phục cả xứ Parthie, do đó chúng ta phải có một vị Vua. Sao Đại Soái không tính đến chuyện lên làm Vua trước khi cử sự?
César tỏ vẻ ngao ngán:
– Ta đã suy nghĩ về chuyện đó rất nhiều, công trình sắp đặt không phải là ít, nhưng vẫn chưa ngã ngũ ra sao. Thời thế xoay chuyển khiến ta đổi ý mấy lần, và đến bây giờ thì ta đã chán suy nghĩ, không có chủ định gì hết. Thôi thì cứ để cho mặc số mạng,tới đâu hay đó. Còn việc lên ngôi trước khi khởi binh ta thấy không nên, vì ta có cảm tưởng rằng chưa tới lúc.
Ngày hôm sau, những đề nghị của César được Nguyên Lão Viện hết lòng ủng hộ. Bằng lối nói khoa trương khoác lác nhưng hùng hồn, ông hứa sẽ làm sự nghiệp tương lai của ông (chứ không phải của La mã) hiển hách hơn quá khứ. Dân chúng La Mã vốn ưa những kẻ ăn to nói lớn, hoan nghênh ông như sấm.
Thế là đường tiến thân của César càng thêm rộng mở. Chỉ tiếc một điều là ông không còn trẻ nữa, cộng thêm những điều phiền toái trong việc sử soạn tiến binh, những biến chuyển chính trị cần phải đối phó, và những cơn kinh giản thường xuyên kéo tới dằn dặt thể xác ông. Đêm hôm đó ông trở về ngôi biệt thự bên sông, Cléopâtre thấy ông già hẳn đi, héo hắt, bơ phờ. Nàng phải mất công rất nhiều mới làm mắt ông sáng long lanh trở lại, giọng nói ông bớt đi vẻ chán chường.
Nhưng đến một ngày kia, trong lúc nàng khuyên ông không nên dầm dãi phong sương, xông pha nơi trận mạc thái quá, ông lại thốt một câu khiến nàng tê tái:
– Ta đã sống quá nhiều rồi, có chết đi cũng là một điều hay, vì như vậy sẽ đỡ phải kéo dài thêm thời gian chờ chết.
15
Giữa lúc cây cổ thụ César bắt đầu trụi lá, thì một cây sồi khác bắt đầu vươn lên. Đó là chàng khổng lồ đẹp trai Marc Antoine, phó tướng của César, nổi tiếng về chuyện phòng the không kém César bao nhiêu. Thực ra ở một vài khía cạnh nào đó chàng còn hơn cả César: César tương đối đặt nặng vấn đề nghệ thuật và lý trí yêu đương, còn Antoine vũ bão hơn, xả láng hơn, yêu đấy rồi bỏ đấy, sau lưng chàng luôn có một chuỗi những trái tim tan vỡ và những tấm thân đầy dấu tích tình yêu. Nghe nói chàng yêu rất mạnh bạo, nhưng có điều lạ là chưa nàng nào than phiền về điều chàng yêu mạnh quá.
Chàng có liên hệ bà con xa với César, về bên họ ngoại,nên khi chiến thắng từ Tây Ban Nha trở về, César đã đưa chàng vào giới thiệu với Cléopâtre tại ngôi biệt thự bên kia dòng sông Tibre thơ mộng. Chàng đã nghiêng mình thật đúng cách trước vị Nữ hoàng tuyệt thế:
– Cách đây mấy năm tôi có được diện kiến Lệnh Bà một lần, mãi tới bây giờ mới được hân hạnh gặp lại.
Chàng vừa nói vừa hướng thẳng vào mặt nàng, tin tưởng nàng sẽ nhận ra mình, nhưng nàng chỉ nhìn chàng hồi lâu, hờ hửng:
– Lạ nhỉ, tôi gặp Phó Tướng bao giờ nhỉ?
Chàng hơi chưng hửng:
– Mười năm trước, tại Alexandrie. Hồ đó tôi còn là một tiểu tướng trong đoàn kỵ binh La mã...
– Rất tiếc tôi không nhớ.
Vừa ngạc nhiên vừa bẽ bàng, chàng im bặt.
Phải cố gắng lắm César mới dấu nổi nụ cười đắc ý trước sự lỡ bộ của anh bạn trẻ xưa nay thường tự hào về bộ mã đẹp trai và tài chinh phục phụ nữ của mình.
Tuy nhiên, rất ít khi Antoine thất bại như lần này. Chẳng qua chỉ vì chàng chủ quan quá, đàn bà nào thấy chàng cũng tít mắt khiến chàng tự kiêu.
Mà chàng tự kiêu cũng phải. Ngoài vẻ đẹp hiên ngang với mớ tóc đen, vầng trán rộng, chiếc mũi hơi khum và chiếc miệng đa tình cởi mở, chàng còn có một sức mạnh ghê gớm. Nghe nói đã có lần chàng xông vào giữa hai gã đấu vật nhà nghề và can chúng ra bằng cách nắm một gã đẩy ra xa và nhấc bỗng gã còn lại. Chàng dám tự nhận là con cháu của Thần Sức mạnh Hercule, dĩ nhiên phải có lý do.
Chỉ có một điều đáng tiếc là óc thông minh không tương xứng với sức mạnh của chàng. Đã nhiều lần chàng tỏ ra là người hữu dõng vô mưu, tính tình ào ào, suốt đời còn như đứa trẻ. Tuy đã ba mươi tám tuổi, chàng con thích những trò đùa của bọn con nít mười bốn, luôn miệng huênh hoang khoác lác, gặp đám là cười giỡn ầm ầm, khôi hài quá trớn. Nhà hùng biện kiêm văn sĩ Cicéron đã mô tả chàng là "không hơn một gã mổ bò, hoặc lực sĩ đẹp với chiếc cổ cứng và chiếc lưng cánh phản"
Nhưng tính tình chàng có nhiều điểm đáng mến. Không những đàn bà thích chàng, mà quân sĩ cũng rất thương chàng. Chàng thắn thắn, độ lượng, can đảm rất mực, lạc quan hơn người. Tuy chàng thiếu tinh tế của một chiến thuật gia bày binh bố trận,nhưng lại thừa tài huy động ba quân. Thuộc hạ của chàng sẵn sàng xã thân nếu được chàng khen một tiếng. Sau mỗi trận đánh, chàng thường xuống thăm hỏi các thương binh, thực sự xúc động trước nỗi đau đớn của họ, và để đáp lại họ thường nắm và hôn tay chàng với tất cả lòng kính mến. César thường than phiền với Cléopâtre về chàng:
– Hắn nốc rượu như nước lã. Cách đây ít lâu hắn đi dự đám cưới của một người bạn, hình như một gã tên Hippias thì phải, hắn đã uống triền miên tới ba giờ sáng. Các người khác đã lăn ra ngủ hết mà hắn vẫn còn tì tì uống tiếp.
Cléopâtre tò mò ngắt lời
– Ngày hôm sau hắn ra sao? Chắc lại ngủ vùi chứ gì?
César cười:
– Không có đâu. Hôm sau là ngày hắn phải đọc một bài diễn văn rất quan trọng tại Nghị Trường, và nếu ta không lầm thì hắn đã thành công. Có điều trong khi diễn thuyết, có một lúc hắn ngừng nói để nôn mửa trước mặt mọi người, rồi thản nhiên tiếp tục như không có chuyện gì xảy ra. Một số người thầm phục hắn ở điểm này, nhưng phần lớn các bạn hắn đều sượng mặt bẽ bàng.
Còn nhiều giai thoại ngộ nghỉnh khác về anh chàng khổng lồ ba trợn này.
Hôm César thắng trận từ Tây Ban Nha trở về, Antoine đem quân ra ngoài thành tiếp đón. Không hiểu một kẻ thích đùa dai nào đã ngầm phao tin là địch quân đã vào tới cổng thành, Antoine phải ra chống cự. Giữa lúc bọn đàn bà La Mã đang lo lắng chờ tin chàng, thì một gã ăn mặc kiểu lái buôn đến gõ cửa báo tin cho nàng Fulvie vợ chàng biết có thư khẩn của chàng gửi về.
Trong lúc Fulvie cố lấy bình tĩnh mở thư ra đọc, gã lái buôn chợt ôm nàng hôn chùn chụt, không để nàng có đủ thời giờ nhận ra gã chính là anh chồng con nít của mình.
Đùa vợ xong, chàng cười ha hả và dông đi kiếm César để cùng ông chia xẻ vinh quang trong buổi lễ Khải Hoàn đang khai diễn.
Một lần khác chàng được mời ăn. Sau khi ngốn hết các dĩa đồ ăn thơm phức, chàng cho gọi anh đầu bếp ra trình diện:
– Để thưởng công ngươi về những món ăn tuyệt hảo này, ta tặng ngươi tòa biệt thự Lapidorus ở ngoài bờ sông.
Gã đầu bếp mừng quýnh, chạy đi khoe từng bừng. Nhưng chỉ một lát sau, gã đầu bếp quay về với bộ mặt quái gở, và Antoine được một mẻ cười đau bụng.
Vì tòa biệt thự đó không phải của chàng.
Nếu chàng là một diễn viên, chắc hẳn chàng đã thành công lớn (chàng đã nhiều lần chứng tỏ điều này). Ngoài ra, chàng còn có tài ăn nói vì từng xuất thân từ Trường Hùng Biện Athènes (Hy Lạp), tại đây chàng đã học lối hành văn bay bướm của người Á Châu, tuy đầy hình ảnh trừu tượng nhưng đặc biệt lôi cuốn và hiệu nghiệm. Để gây thêm sự chú ý của người nghe, chàng "lăng xê" một lối ăn mặc độc đáo với chiếc áo bào dài, thắt lưng trễ xuống, thanh đoản kiến to bản treo lũng lẳng bên hông, và chiếc áo choàng đỏ tía phủ quanh vai. Đám đông khoái nhìn chàng vì họ cảm tưởng đang được coi trình diễn thời trang khỏi tốn tiền.
Chàng tỏ ra bất cần sự chỉ trích của đám người già nua làm bộ đạo đức, đám người thường coi chàng là là một tay chơi vô trách nhiệm. Nhưng chàng lại rất ngoan ngoãn đối với vợ.
Fulvie vợ chàng là người đàn bà đáng ngại, luôn luôn chiếm một chỗ đứng quan trọng trong đời chàng.
Atonia, người vợ trước, chịu không nổi tính lăng nhăng và bốc đồng của chàng, đã cuốn gói đi theo Đại Diện Thứ Dân tên Dolabella. Chàng đau quá, vùi đầu vào cờ bạc. Rồi trong một cuộc đen đỏ với người bạn thân nhất tên Durio, chàng đã dùng những con súc sắc để đoạt trọn sản nghiệp của bạn, luôn cả cô vợ đẹp Fulvie của anh ta. Thế là tình bằng hữu rơi xuống cống, và chàng rước cọp cái về nhà.
Thực ra trước khi lấy Durio, Fulvie đã có một đời chồng. Và khi về với Antoine nàng đã hai mươi lăm tuổi. Tuy là đàn bà, nàng ôm những hoài bão chính trị to lớn. Có lần nàng còn tính cả đến chuyện sau này sẽ lên ngôi trị vì Đế Quốc La Mã.
Biết vụ này, Cléopâtre chỉ cười mũi, nói với César:
– Tướng quân thử tưởng tượng xem, con gái của một nghị viên quèn mà dám lớn lối.
Thẳng thắn mà nói, Fulvie xuất thân tầm thường thật, nhưng nàng là người thứ hai, sau César, có thể đoán ra rằng những mưu đồ của Antoine trước Nguyên Lão Viện hay trước quốc dân đều do nàng giật dây.
Hoàn toàn đứng về phe César, Antoine giữ vai trò phụ tá của ông trong việc điều binh khiển tướng. Khoảng thời gian vừa qua, những lúc César bận đi chinh chiến nước ngoài, chàng là người thay mặt ông điều khiển La Mã. Giữa thời đại mà người ta tranh quyền từng chút, phản bội nhau như chơi, một người trung thành như chàng quả là hiếm có. Cũng vì lý do đó César rất thương chàng, cho chàng làm Cộng Đồng Nhiếp Chánh với ông. Bỗng dưng chàng trở thành một trong hai nhân vật đầu não của La mã, hay của thế giới cũng vậy. Sự hăng say quả cảm của chàng cộng với sự thăng trầm tính toán của César là một điều đáng sợ cho tất cả những ai muốn chống đối.
Hơn ai hết, chàng ủng hộ kế hoạch đưa César lên ngôi Hoàng Đế với Cléopâtre ở bên cạnh. Nguyên một chuyện này đủ khiến chàng trở thành thượng khách tại ngôi biệt thự lộng lẫy bên giòng sông Tibre. Cléopâtre nghi ngờ thù ghét Brutus đứa con hờ của César bao nhiêu, thì nàng tin cẩn quý mến chàng bấy nhiêu.
Có chàng giúp sức, Cleopâtre rất yên trí. Hơn nữa một đạo luật vừa được ban hành đã hợp thức hóa tình trạng hôn phối giữa nàng và César. Tuy nhiên, niềm vui của nàng vẫn chưa trọn vẹn, vì nàng chưa có dịp chính thức ra mắt quần chúng La Mã với tư cách vợ của César.
Một hôm César bảo nàng:
– Để xứng đáng hòa hợp của hai vị thần, buổi lễ ra mắt của chúng ta sẽ phải tưng bừng chưa từng thấy tại La mã.
Nàng nôn nóng hỏi dồn:
– Nhưng... nhưng đến bao giờ? Tại sao không tổ chức ngay bây giờ, trước khi Tướng Quân ra đi?
– Không được. Nàng nên nhớ một lễ lớn như vậy phải sửa soạn ít nhất sáu tháng. Hiện thời mọi người đang lo vấn đề chinh chiến và đã cận ngày khởi binh rồi, tổ chức không còn kịp nữa. Dù sao ta sẽ ra lệnh những người ở nhà cứ sửa soạn trước, để khi ta trở về buổi lễ có thể cử hành ngay. Chúng ta sẽ ghép chung với lễ Khải Hoàn với lễ ra mắt, kéo dài luôn mấy tuần lễ cho thật tưng bừng. Nàng hài lòng chứ?
Cleopâtre đăm chiêu:
– Biết đến bao giờ Tướng Quân mới về?
César cười khích lệ:
– Không lâu đâu, trong vòng ba năm.
Ba năm. Chỉ có ba năm một chiến dịch quy mô nhường đó. Nhưng ông có biết đâu chỉ cần ông vắng mặt ba tháng cũng đủ cho bao nhiêu biến chuyển, đổi thay. Nàng thở dài. Khi nàng đề nghị ông đi chinh chiến, lập thêm kỳ công, cũng cố thêm địa vị, nàng đã quên không nghĩ tới điểm này. Ngôi vị của nàng tại La Mã vẫn chưa định rõ. Đáng lẽ César phải lên làm Vua ngay mới đúng, để khi ông đi xa nàng sẽ ở nhà nắm quyền cai trị với tư cách Hoàng Hậu. Giả thử ông có mệnh hệ nào thì "Thái Tử" Césarion sẽ được lên thay. Dĩ nhiên nàng không mong ông chết sớm, nhưng ông đã già rồi, lại thêm bệnh tật liên miên, biết ông có chịu đựng nổi những năm dài sương gió hay không?
Khi tâm sự với thị nữ Charmian, giọng nàng buồn buồn:
– Ta rất lo về danh phận của ta và Césarion tại đây. Hiện thời Đại Soái còn ở nhà thì không ai dám hó hé gì, nhưng mai mốt khi Đại Soái đi khỏi chắc chắn sẽ có nhiều kẻ phản phúc nói ra để hạ uy tín Đại Soái. Ít lâu nay Đại Soái lại đổi tính, làm mất lòng nhiều người. Nghe nói tuần trước ông đã mắng vào mặt Pontus Aquila, một đại diện của giới bình dân, vì gã này đã không dứng dậy khi ông bước ngang qua để vào Nghị Trường.
Thị nữ Charmian rụt rè phê bình:
– Giống như bậc đế vương.
– Tại La Mã, bậc đế vương cũng chưa dám xử sự như vậy! Còn nữa, mấy hôm sau tại Nghị Trường Đại Soái đã dùng giọng mỉa mai cay độc nhắc đi nhắc lại câu "Nếu Ngài Đại Diện Pontus Aquila cho phép, chúng tôi xin làm điều này, điều nọ, v.v..." Không những đương sự căm hận, mà những người khác cũng đều bất mãn trước thái độ thiếu quân tử của người mà họ hằng thương mến.
Một lần khác, Marc Antoine kể cho Cléopâtre nghe:
– Tôi hơi lo ngại cho Đại Soái. Hôm kia, khi các nghị viên Nguyên Lão kỳ cựu gọi tên ông để xưng tặng thêm vài vinh dự mới, ông thản nhiên ngồi yên tại ghế để tiếp nhận khiến ai cũng khó chịu. Ngày hôm qua nữa, trong khi thảo luận tại Nghị Trường, ông đòi áp dụng một sắc luật chưa được ban hành. Có người nhắc nhở ông sắc luật đó chưa thành luật vì chưa được Nguyên Lão Viện thông qua, ông đùng đùng nổi giận đứng dậy quát lớn "Lời ta nói là luật!" Nói như vậy hơi quá, dù người đó là César.
Cléopâtre hỏi vặn:
– Nhưng chính Phó Tướng đã khuyến khích ông mà? Nếu tôi không lầm thì chính Phó Tướng đã đề nghị đặt vương miện trên đầu tất cả các tượng của Đại Soái trong thành phố này.
Antoine gật đầu:
– Phải, và dân chúng hài lòng, vì việc đó không do chính tay Đại Soái làm!
– Vậy tại sao hai đại diện giới bình dân là Marullus và Césetius lại ra lệnh hạ những chiếc vương miện xuống?
– Đó là quyền của họ. Họ rất tôn trọng Đại Soái nhưng không muốn ông làm Vua, thế thôi. Nhưng không hiểu sao ông lại cho đây là một sĩ nhục lớn lao và quay ra thù ghét họ.
Nhưng tệ hại hơn nữa là một vụ xảy ra sau đó hai ngày. Trong khi César và cùng vài người bạn đi dạo ngoài đường, một số bộ hành đã hoan hô ông, gọi ông là Vua. Các Đại Diện Thứ Dân liền ra lệnh bắt họ bỏ tù. César bèn ra trước Nguyên Lão Viện làm rùm beng, bắt phải thả đám bộ hành ra và loại bỏ những vị Đại Diện dám "phạm thượng".
Một số người còn khó chịu cả về vụ tòa biệt thự thơ mộng của Cléopâtre đang biến thành Hoàng Cung, một thứ Hoàng Cung kiểu Ai Cập. Các nhà quý tộc cảm thấy ngứa mắt, đó là chưa kể các phu nhân của họ điên lên vì ghen tức. Nhưng César vẫn thản nhiên cùng Nữ Hoàng Ai Cập tổ chức những buổi "lâm trào nghị sự" với đầy đủ triều nghi như một buổi chầu tại Hoàng Cung Ai Cập. Trong cung cũng có các quan thị vệ, các nội thị, nội giám, và cung tần mỹ nữ hẳn hoi.
Vì ảnh hưởng của Cléopâtre, các đồ dùng của César càng ngày càng mang tính chất Ai Cập. Một hôm César dùng xe loan kiểu Ai Cập đi trong thành phố. Nhiều người trông thấy tự hỏi, tại sao lại đi xe Ai Cập? Xe La Mã không đủ tốt chăng? Ngoài ra, César còn đi kiệu rập theo loại kiệu của các Vua Ptolemée Ai Cập. Các họa sĩ Ai Cập được gọi tới để vẽ kiểu tiền đồng mới cho La Mã. Nhưng điều làm cho công chúng bực nhất là các cuộc chơi tại Đại Hý Trường đều đặt dưới quyền điều khiển của người Ai Cập.
Và đến khi César nghe lời Cleopâtre mang chiêm tinh gia và toán học gia Ai Cập tới để soạn một hệ thống niên lịch mới mang tên ông(3), nhà hùng biện kiêm văn sĩ "ẩn dật" Cicéron phải kêu lên với các bạn:
– Thứ lịch mới mà César đang vay mượn của Ai Cập là một rắc rối lớn cho các điền chủ. Họ sẽ điên đầu khi tính tiền lời và tiền mướn đất theo ngày tháng mới.
Nên nhớ Cicéron cũng là một điền chủ giàu có, và người đầu tiên điên đầu chính là lão!
Ngừng một lát, lão nói tiếp:
– Cứ để như cũ thì đã sao? Đồng ý là có một sự so le giữa lịch và các mùa thiên nhiên, nhưng có ai chết đâu? Một ngày lễ dự tính vào mùa hạ, lại chệch sang mùa đông thì cũng chẳng có ai buồn. Cứ chệch thêm mãi rồi lại trở lại đúng mấy hồi. Mấy gã toán học, chiêm tinh gia Ai Cập thực là lắm chuyện!
Một nghị viên bạn của lão đế thêm:
– Chưa hết. Hãy nhìn những đền đài mà César đang xây cất, chắc chắn có sự giật dây của ả phù thủy Ai Cập đó. Khôi hài hơn nữa, mỗi ngày César đều đưa ra trước Nguyên Lão Viện một dự án hay dự luật mới.
Một gã khác tiếp luôn:
– Thật là lố bịch khi tính đào một con kinh từ sông Tibre ở La Mã, qua thành Circéi, tuốt ra vùng biển Teracine. Mất công như thế để làm gì? Đào một con rạch ngang qua eo đất Corinthe tận bên Hy Lạp để làm gì? Mở một con lộ xuyên qua rặng Appennines để làm gì? Xây thêm một hải cảng tại Ostie để làm gì? Chỗ nào cũng chỉ thấy xây với cất, tốn tiền vô ích! Toàn là chuyện xây lâu đài trên cát, xây kim tự tháp trên không! Phép mầu của Ai Cập đâu có áp dụng được ở đất này.
Văn sĩ già Cicéron gật gù:
– Bạn nói đúng. La Mã làm gì có sẵn lớp người trâu ngựa, cắm đầu làm việc như bên Ai Cập. Toàn thể dân chúng Ai Cập có thể biến thành nô lệ, chứ người La Mã đâu có dễ như vậy.
Một giọng nói mỉa mai khác phụ họa:
– Bộ César tính đem cả các nghị viên Nguyên Lão ra làm phu đắp đường cho y sao chứ?
Văn sĩ Cicéron kết luận:
– Tôi dám cá với các bạn, César sẽ không bao giờ hoàn tất nổi một phần mười những dự tính điên rồ đó.
Và lão đã nói đúng.
16
César thường than phiền với Cléopâtre và Phó Tướng Antoine về vụ dân chúng chưa chịu lập tức và đồng lòng tôn ông lên làm Vua. Ông bảo Cléopâtre:
– Những công trạng của ta trong quá khứ còn chưa đủ sao? Chẳng lẽ họ đợi ta phải đi xin chiếc ngai vàng chăng? Ngoài ra ta còn đang lo về danh phận của nàng tại đây. Calpurnia là một người vợ hiền, được lòng tất cả mọi người, nhưng không có con. Vậy nếu họ tôn ta lên ngôi, buộc lòng họ phải chấp nhận Césarion. Điều này họ không muốn. Vậy chỉ có một cách là ly hôn với Calpurnia, lúc đó Cléopâtre sẽ là vợ duy nhất của ta, danh phận của Césarion cũng sẽ được định rõ. Nhưng làm như vậy chắc chắn công luận sẽ lên án gắt gao.
Cléopâtre biết ông đã quá cái tuổi yêu đương bằng thứ tình cảm xác thịt nồng cháy, nhưng nàng vẫn sung sướng vì thấy ông thích quanh quẩn bên nàng hơn bên bất cứ người đàn bà nào khác, kể cả Calpurnia. Chuyện tình giữa nàng và ông vẫn còn thơ mộng, vẫn còn vàng son, được tô điểm thêm bằng sự kính trọng lẫn nhau, khâm phục lẫn nhau, cùng nhau theo đuổi một lý tưởng, bắt đầu quên mình để lo tương lai cho con.
Giữa tháng hai năm đó có một ngày lễ lớn gọi là lễ Lupercales, để mừng Thần Lupercus tượng trưng cho sự sinh sản của người, vật, và đất đai. Hai thanh niên được tuyển chọn sẵn để sáng ngày rằm tháng hai sẽ khai mạc buổi lễ bằng cách giết một con chó cùng với một con dê cái và dâng lên Thần Lupercus. Sau đó một vị giáo sư thuộc Y Khoa Học Viện sẽ chích máu của hai thanh niên này. Trong khi chích máu, hai người sẽ phải cười ha hả, không một thoáng chau mày vì đau đớn.
Kế tiếp, các tu sĩ lột da hai con vật hy sinh, cắt thành những sợi nhỏ (gọi là februa), bó lại thành những chiếc roi. Hai thanh niên, thân thể trần truồng, sẽ cầm roi chạy ngoài đường, cứ gặp đàn bà là đánh để truyền sức sinh sản của thần vào người họ. Các bà hiếm muộn tha hồ tranh nhau ra đứng ngoài đường, chờ được ăn roi.
Điều đáng chú ý trong buổi lễ này là Marc Antoine được chọn làm một trong hai thanh niên danh dự. Dĩ nhiên vụ này do chàng sắp đặt, vì một người đã ngót bốn chục như chàng mà là thanh niên thì còn trời đất nào nữa.
Trần truồng như nhộng, chàng vác roi đập loạn ngoài đường cho đến khi thở như bò rống, chàng mới xông vào Nghị Trường nơi César đang chủ tọa buổi lễ. César ngồi trên chiếc ngai đặc biệt, mình mặc bào sặc sỡ. Trông ông xanh xao tiều tụy khác thường. Thình lình, Antoine vượt hàng rào danh dự, dâng lên César một chiếc vương miện có kết hoa, miệng hô lớn:
– Xin ngài César hãy tiếp nhận Vương Quyền tại La Mã!
Đây là một hiệu lệnh để những người thuộc phe ủng hộ César rải rác khắp Nghị Trường cùng nhau lớn tiếng hoan hô. Nhưng điều mà Antoine không ngờ trước là những tiếng hoan hô lập tức bị tiếng la ó của đám đông át mất. Thực ra dân chúng phản đối không phải vì ghét César, mà chỉ vì Antoine đã trắng trợn qua mặt họ, giành quyền phong vương của họ.
Không may cho kế hoạch của Antoine, César không hề được báo trước vụ này. Trong lúc bất ngờ, phản ứng tự nhiên của ông là chiều theo đám đông, đưa tay cản Antoine và gạt chiếc vương miện sang một bên. Thế là đám đông vỗ tay như sấm, và César bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng.
Nhưng Antoine chưa chịu thôi. Chàng đưa chiếc vương miện lên cao, và bằng cử chỉ của một Giáo Trưởng trong các buổi lễ đăng quang, chàng tính đặt nó lên đầu César. Tiếng hoan hô của phe chàng một lần nữa bị chìm vào những tiếng la ó, và César một lần nữa tỏ ý quyết liệt từ chối.
Antoine thử thêm một lần thứ ba, không hăng hái như hai lần trước, tiếng reo hò ủng hộ lại càng ít hơn. Và khi César lắc đầu, chàng tung mình nhảy ra ngoài, miệng cười ha hả như thường lệ, tay vung chiếc roi đi tìm đối tượng.
Với sự khôn ngoan muôn thuở, César cho đem chiếc vương miện về đặt tại điện Capitole và ghi trong sổ câu: "Ngày hôm nay Jules César đã từ chối chiếc vương miện do quốc dân dâng tặng". Theo ông nghĩ, vụ này sẽ khiến dân chúng mong mỏi ông lên ngôi hơn, vì tâm lý của họ là chỉ thích trao quyền cho người nào không ham quyền thế.
Cũng trong tuần lễ đó César và Cléopâtre mỗi người có một quyết định riêng tư. Lần đầu tiên hai vợ chồng dấu nhau về việc làm của mình. César bí mật lập một chúc thư mới. Còn Cléopâtre ngầm sửa soạn đem con trở về Ai Cập.
Theo lời tâm sự của nàng với người thị nữ tâm phúc, nàng bắt đầu lo ngại về tình hình tại La Mã. Vả lại nàng muốn về Ai Cập để có thể trực tiếp đôn đốc việc tiếp tế cho đoàn quân viễn chinh của César.
Nhưng lý do quan trọng nhất mà nàng không hé răng với ai, kể cả thị nữ Charmian, là mấy lúc sau này nàng nghe tin đồn sẽ có những cuộc nổi dậy chống César. César cũng biết việc này, nhưng ông tỏ vẻ không tin. Còn nàng, nàng tin rằng ít ra cũng sẽ có một phong trào chống mưu đồ đế vương của ông. Một khi ông đi xa, họ sẽ tìm cách đạp đổ mọi công trình sửa soạn lên ngôi của ông, buộc ông phải trở lại nguyên hình là một Toàn Quyền, một Tối Cao Chấp Chánh, không hơn không kém. Lúc đó nàng sẽ là cái gai đầu tiên cần phải nhổ đi.
Hơn nữa, gần đây nàng được các chiêm tinh gia cho biết những điềm gở bắt đầu xuất hiện trong trời đất. Có một đêm chính nàng đã trông thấy một vầng ánh sáng quái đản trên trời. Sao chổi xuất hiện là thường, nhưng đây không phải là sao chổi. Ngoài ra có những âm thanh kỳ bí lan tràn khắp nơi, mỗi người nghe thấy mô tả lại một khác, nhưng tất cả đều mang tính chất hung hiểm, bất tường. Những giống chim ma quái cũng bắt đầu lởn vởn tại Nghị Trường. Có người quả quyết đã trông thấy những đám lửa trời hừng hực mang hình ảnh những cuộc tàn sát gớm ghê. Vài người khác trông thấy lửa phụt ra từ tay một chiến sĩ mà tay y vẫn không việc gì. Một vị tướng đã nhìn trời và tiên đoán sắp có tai họa giáng xuống La Mã, dân chúng thảy đều nơm nớp lo âu.
Phía sau những hiện tượng huyền bí này, một âm mưu thâm độc được xúc tiến ráo riết. Cũng như nhiều người khác, Cléopâtre biết chắc hai kẻ chủ mưu là ai. Người thứ nhất là Cassius, một gã gần như cuồng tín, luôn luôn kêu gào dân chủ, lớn tiếng đả phá chế độ quân vương. Còn người thứ hai không ai khác hơn là Brutus, con hờ của César.
Cả hai đều đáng sợ, nhưng xét cho cùng thì Brutus đáng sợ hơn, vì ý chí của gã sắt đá hơn, lập trường rõ rệt hơn. Có lần, sau khi nghe gã diễn thuyết, César nói với Cléopâtre:
– Ta không hiểu nó muốn gì, nhưng chắc chắn nó đã muốn là phải làm bằng được.
Lần khác, Cléopâtre được mật báo về một cuộc đối thoại giữa hai gã chủ mưu. Cassius đã hỏi Brutus:
– Chúng ta sẽ làm gì nếu trong một cuộc họp nào đó César được tôn làm Vua?
Và Brutus đã trả lời:
– Nếu chuyện đó xảy ra thì bổn phận của tôi sẽ là đứng dậy và chết cho nền tự do của xứ sở.
Cléopâtre thầm nghĩ, đó chính là sự khác biệt giữa hai tên thủ lãnh: một tên sẽ sống cho dân chủ và một tên sẽ chết cho tự do. Brutus là con của César, từng chịu ơn tha mạng của César, nhưng Brutus cũng là kẻ thù không đội trời chung với César, với độc đoán, chuyên quyền, vua chúa...
Mọi người đều biết có cuộc âm mưu, nhưng ít ai biết cuộc âm mưu đã diễn tiến tới đâu. Đại khái, người ta thấy Brutus có vẻ nôn nóng, chờ giờ hành động. Với sự khuyến khích nồng nhiệt của đồng bọn, gã đang ở thế cưỡi lưng cọp, có muốn đổi ý kiến cũng không được nữa.
Riêng Cléopâtre, với bộ óc thực tế hơn, nàng nhận thấy chủ trương của bọn này nghe rất hay, nhưng nếu xét kỹ sẽ thấy đôi phần ngụy biện, giả dối. Họ bảo họ quyết không để César lên ngôi Vua là để tránh sự chuyên quyền hà khắc, nhưng thực ra César đã chuyên quyền từ lâu rồi. Ông không cai trị bằng chiếu chỉ, nhưng bằng sắc lệnh thì cũng vậy. Tuy các sắc lệnh này có in hàng chữ mạ vàng "Lệnh của Hội Đồng Tối Cao" và phải được Nguyên Lão Viện chấp thuận mới thành luật, nhưng trên thực tế đây chỉ là hình thức chiếu lệ. Nếu có ai đứng ra phản đối quyết định của César, chắc chắn kẻ đó không điên cũng loạn. "Lời ta nói là luật", câu tuyên bố trứ danh của César không xa sự thật bao nhiêu.
Nói chung, trên đây là tình hình La Mã vào buổi chiều ngày rằm tháng ba. Chiều hôm đó César sai người đến báo cho Cléopâtre biết ông sẽ ở lại dùng cơm tối với Kỵ Tướng Quân Lépide, rồi ghé về tư dinh nghỉ qua đêm thay vì về ngôi biệt thự của nàng. Thế là nàng phải thui thủi ở nhà một mình, suốt đêm trằn trọc với những nỗi sợ hãi vẩn vơ, những ý tưởng khủng khiếp.
Nhưng đêm đó không phải chỉ mình nàng trằn trọc. Bên kia sông, tại tư dinh của César, một người đàn bà khác cũng đang lo sợ không kém gì nàng. Người đàn bà đó là Calpurnia, người vợ La Mã của César, một người vợ kém may mắn. Calpurnia cũng thấy vầng ánh sáng lạ lùng, cũng nghe những lời đồn rợn tóc gáy, và cũng yêu César không biết để đâu cho hết, nhất là từ khi hiểm họa mất chồng trở nên rõ rệt, César không chết cũng lọt vào tay "mụ phù thủy Ai Cập".
17
Tuy không giàu tưởng tượng hay yếu bóng vía, nhưng đêm đó khi César rời bàn tiệc, men theo những đường phố vắng lặng âm u để về nhà, ông có thể mường tượng thấy nhiều bóng đen bám sát theo ông. Chúng cũng mặc áo dài như ông, bước chân chúng âm thầm như ma quỉ. Nếu là kẻ khác chắc đã la hoảng lên bỏ chạy, nhưng ông vẫn tiếp tục lầm lũi bước, đầu óc chỉ hơi gợn lên vài hình ảnh chết chóc. Ông nhớ tới lời hỏi đùa của Kỵ Tướng Quân Lépide trong lúc tiệc tàn:
– Này César, nếu phải chọn lựa một cái chết thì ngài sẽ chọn cái chết như thế nào?
Bạn bè hỏi nhau câu này là thường. Vả lại đó là đề tài hào hứng nhất trong các buổi họp mặt, dĩ nhiên César vui vẻ trả lời:
– Cái chết bất ngờ.
Giờ đây một mình trên đường phố tối tăm, câu đối đáp đó lại vang lên trong đầu ông, tuy mơ hồ nhưng mãnh liệt. Cái chết bất ngờ có thể tới với ông mau đến thế sao? Tự nhiên ông cảm thấy thèm bầu không khí ấm áp ở nhà, những ánh đèn sáp an lành, những tên đầy tớ trung thành với chủ...
Về đến nhà, Calpurnia đã đi ngủ, ông cũng vội vã thay áo vào phòng. Đặt tấm thân mệt mỏi xuống cạnh vợ xong, ông mới cảm thấy nhẹ bớt ám ảnh phập phồng. Nhưng đúng lúc ông thiu thiu chợp mắt, thì thình lình các cửa sổ và cửa ra vào bật mở ầm ầm. Lạ một điều là không hề có gió. César giật mình nhìn ra ngoài và một cảm giác rờn rợn chạy khắp người ông khi ông thấy trên trời hiện ra một vầng ánh sáng kỳ dị, vầng ánh sáng mà ông đã nghe nói rất nhiều, mãi bây giờ mới thấy.
Ông lo lắng quay nhìn vợ. Nàng vẫn ngủ mê, khuôn mặt hằn lên những nét khủng khiếp của một cơn ác mộng. Miệng nàng chợt mấp máy. Nàng lầm bầm những gì không rõ, rồi vùng khóc lớn như có điều gì tức tưởi lắm.
Ông vội vàng lay gọi người vợ đáng thương. Nàng choàng tỉnh dậy, ngơ ngác:
– Trời ơi ghê quá? Thiếp mơ thấy thiếp ôm chiếc thây đẫm máu của của phu quân!
César kéo vợ vào lòng tìm cách trấn an. Ông không còn yêu nàng, nhưng vẫn thương nàng đứt ruột.
Sáng hôm sau Calpurnia bơ phờ tiều tụy. Thấy César sửa soạn đi, nàng kêu lên:
– Đừng, phu quân đừng đi! Thiếp van phu quân, hôm nay đừng đi đâu hết.
César cười:
– Ngày hôm nay Nguyên Lão Viện họp, ta ở nhà sao được?
– Thì phu quân cho hoãn lại ngày khác. Trời ơi, phu quân không thể tưởng tượng được giấc mộng của thiếp ghê rợn đến bực nào. Thiếp sợ lắm...
César ôn tồn:
– Vẫn biết như vậy, nhưng ta phải giải thích với họ sao đây? Nàng thử tưởng tượng xem thiên hạ sẽ nghĩ sao nếu họ kể lại rằng: "César, người sắp khởi binh chinh phục hoàn cầu, đã trốn ở nhà chỉ vì một giấc mơ của vợ".
Nàng thất vọng nhưng vẫn cố vớt vát:
– Được rồi, hãy quên giấc mộng của thiếp đi. Nhưng thiếp chỉ xin phu quân hãy hỏi lại các pháp sư, hy sinh vài con vật để tế thần nếu cần. Phu quân hứa đi.
Quá cảm động trước sự lo lắng chân thành của người vợ bị bỏ quên, ông bằng lòng cho giết một số vật tế thần. Các pháp sư làm phép và cho ông biết quả có những dấu hiệu bất thường.
César đứng suy nghĩ hồi lâu, so sánh nặng nhẹ giữa sự nguy hiểm vô hình và sự cười cợt của dân chúng. Cuối cùng ông tự nhủ một người khôn ngoan và thẳng thắn chẳng bao giờ sợ người đời cười chê. Nhưng đúng lúc ông định sai người đi bảo Phó Tướng bãi bỏ dùm buổi họp trong ngày thì Décimus Albinus bước vào. Albinus là một thanh niên quý tộc rất được ông thương mến.
Sau khi nghe César nói về ý định bãi bỏ buổi họp, gã can:
– Thưa Đại Soái, không nên. Đây chính là lúc Đại Soái cần được sự ủng hộ của Nguyên Lão Viện hơn bao giờ hết. Trong buổi họp ngày hôm nay, họ dự tính sẽ tôn Đại Soái làm Vua các nước chư hầu. Đại Soái sẽ được quyền mang vương miện bất cứ nơi nào ngoài lãnh thổ người Ý. Họ sẽ nghĩ sao về một vị Vua, dù chỉ là Vua các chư hầu, nếu ông ta triệu tập một buổi họp rồi lại bãi bỏ chỉ vì một cơn ác mộng của vợ?
Gã đánh trúng tâm lý của César vì đây chính là điều mà ông đã nói với vợ lúc nãy. Nhưng giả thử ông biết gã chính là một trong những kẻ âm mưu, nhiệm vụ của gã là đến hối thúc ông đi họp, thì chắc ông đã không dứt khoát ra đi như vậy.
Khi thấy gã Albinus mời được César ra ngoài và hai người cùng nhau bước lên kiệu, đồng đảng của gã đứng chờ đằng xa thở phào hoan hỉ. Chiếc kiệu bắt đầu khởi hành, bọn người mờ ám lập tức chia nhau đi theo canh chừng, vì từ giờ phút này chỉ cần một bất trắc cỏn con cũng đủ làm đảo lộn kế hoạch của cả bọn.
Có một lúc bọn chúng suýt đứng tim khi thấy lão già Hy Lạp Artémidos, một triết gia bạn của César, đột nhiên xuất hiện và tiến lại gần kiệu để nói chuyện với César. Vì ở xa quá chúng không nghe lão nói gì, nhưng chúng biết lão đã khám phá ra âm mưu của chúng và cuộn giấy mà lão dúi vào tay César chắc chắn phải là danh sách những kẻ dự mưu.
Khi trao cuộn giấy cho César, lão già tốt bụng chỉ khẩn khoản bảo César phải đọc ngay. Lão không tiện nói trắng ra, vì trong kiệu còn có mặt gã Albinus, một trong những kẻ có tên trong danh sách. César vô tình không chú ý tới vẻ mặt của lão, chỉ gật đầu cám ơn rồi cầm cuộn giấy trong tay. Và một lần nữa bọn người mờ ám thở phào thoát nạn.
Ngồi cạnh César, gã Albinus như ngồi trên đống lửa. Tim gã đập hơn trống làng, mồ hôi lạnh thấm ra ướt áo. Gã tìm đủ mọi cách gợi chuyện để César quên hẳn cuộn giấy tai hại. Và đến khi kiệu ngừng lại, gã bước xuống mà tưởng như mình vừa thoát khỏi chín tầng địa ngục.
Bình thường Nguyên Lão Viện nhóm họp tại Hý Viện Pompée nhưng hôm nay các nghị viên đồng lòng dời sang một tòa nhà gần đó để nhường Hý Viện cho vài đoàn hát và những cuộc giải trí khác.
Hai gã thủ lãnh Brutus và Cassius có mặt rất sớm để lo sắp xếp buổi họp. Vừa lăng xăng chờ đợi, hai gã vừa bàn định thêm. Cassius lo lắng:
– Mật báo viên vừa cho biết tại nhà César đã xuất hiện vài điềm bất tường, rất có thể lão sẽ không tới. Nếu lão không tới thì sẽ ra sao?
– Thì chúng ta chờ dịp khác chứ sao.
Tuy ngoài mặt trả lời cứng, nhưng trong bụng Brutus cũng nhột nhạt không kém gì bạn.
Trong khi đó một kẻ đồng mưu khác, nghị viên Casca, cũng đang bồn chồn đứng đợi ngoài cửa. Thình lình có một người bước tới trước mặt y và nhìn y với nhiều ngụ ý:
– Ông bạn tính dấu tôi, nhưng Brutus đã nói cho tôi nghe hết rồi.
Casca vốn mập mạp và có bệnh căng mạch máu, vừa nghe nói vậy suýt ngất xỉu tại chỗ, nhưng người kia vội cười trấn an:
– Tôi chỉ lạ một điều là sao ông bạn lại dám nhận chức quan thị chính trong tương lai?
Rồi người đó bỏ đi trước khi Casca kịp hoàn hồn.
Mấy phút sau, giữa lúc hai gã thủ lãnh đang xầm xì bàn tán, một nghị viên có máu hài hước khác tên Laena tiến lại gần, làm bộ nghiêm trang:
– Tôi biết hai vị đang bàn định gì...
Đợi cho hai gã mặt cắt không còn hạt máu, ông ta mới nói tiếp:
– Và tôi xin nhập bọn với hai vị bằng cách cầu nguyện cho việc đó thành công.
Hai gã chưa kịp mừng rỡ, kiệu César đã tới nơi và Laena quay mình bước ra đón tiếp César rất vui vẻ. Một lần nữa những kẻ âm mưu lại choáng váng mặt mày, nín thở theo dõi từng cử chỉ lời nói của ông ta. Rất may, ông ta chỉ nói toàn chuyện trên trời dưới biển.
Theo thông lệ, khi những nhân vật quan trọng bước vào hội trường Nguyên Lão Viện, người ta thường giết một con vật hay một con chim để đoán điềm hung ác. Lần này người ta giết chim để làm phép điểu chiêm cho César. Con chim bị giết không có cuống ruột, và nhà điểu chiêm cho biết đây là điềm chết chóc.
César không tin:
– Lần ta đi đánh Tây Ban Nha cũng có hiện tượng này mà có sao đâu? Thử lại lần nữa xem.
Nhà điểu chiêm vâng lời, và một lần nữa vẫn thấy điềm tương tự.
Bình thường César rất tin lời các nhà điểu chim, nhưng không hiểu sao ngày hôm nay ông bỗng có cảm tưởng là họ đặt điều nói láo. Không những ông tỏ ra khinh thường những điềm vừa rồi, ông còn quay ra mỉa móc một nhà tiên tri khác:
– Này Spurina, hôm nọ ngươi bảo ta phải coi chừng ngày rằm tháng ba phải không? Hôm nay là rằm rồi, có chuyện gì đâu?
Nhà Tiên Tri thản nhiên:
– Thưa Đại Soái, ngày rằm chưa qua hết!
César cười nhạt, rảo bước tiến vào hội trường. Hội Trường đầy kín tự bao giờ.
César tới trễ. Viên chức phụ trách việc kê ghế tưởng ông không tới nên đã tự động đem cất chiếc ghế của vị Tối Cao Chấp Chánh. Mọi khi không ai chú ý tới điểm này, nhưng lần này bầu không khí đặc biệt khẩn trương khiến ai cũng cho đây là một điềm gở khác cho César. Tiếng xì xào lan tràn khắp hội trường.
Khi César bước vào, toàn thể cử tọa đứng dậy để chào kính. Ông hài lòng, đứng nhìn bao quát khắp hội trường một lượt. Với chiếc đầu hói và chiếc mũi hơi quặm, trông ông có dáng điệu của một chú chim ưng đứng trên cao chót vót phóng tia mắt xoi mói xuống trần gian. Nguyên Lão Viện là của ông. Nguyên Lão Viện tượng trưng cho toàn thể La Mã và các chư hầu. Ngày hôm nay Nguyên Lão Viện hội họp ở đây là để tôn ông lên làm Vua các chư hầu. Từ chỗ vua các chư hầu tới chỗ Vua của toàn thể Đế Quốc La Mã, tưởng chỉ cần bước một bước là tới.
18
Mấy tháng trước, có lần Phó Tướng Marc Antoine đã khuyên César đi đâu nên đem theo một toán cận vệ. Nhưng César, vốn tính ngang tàng, tự tin không kém gì Marc Antoine, chỉ cười:
– Nếu ta đi một mình ở xứ ngoài, lưng ta có thể lãnh một mũi giáo. Nhưng tại đây, ngay trong nhà ta, làm gì có chuyện đó.
Vài tuần vừa qua niềm tự tin này bắt đầu lung lay, nhưng ông vẫn không chịu đem theo cận vệ. Thấy thế, Antoine quyết định đem tấm thân khổng lồ và sức mạnh vô địch của mình ra để bảo vệ chủ tướng. Chàng tập một thói quen là mỗi khi César xuất hiện nơi công cộng, chàng luôn luôn quanh quẩn gần chỗ ông để kịp thời ứng biến.
Buổi sáng lịch sử đó, chàng đã kiên nhẫn chờ cho đến khi César tới, ra tận kiệu để đón ông, rồi lẳng lặng đi theo ông vào phòng họp. Nhưng đúng lúc chàng sắp bước qua ngưỡng cửa, thì một người quen kéo tay chàng lại:
– Tôi có chuyện này muốn nói với ngài.
– Để lát nữa tan họp sẽ hay.
– Không lâu đâu. Vả lại buổi họp chưa bắt đầu mà... Tôi định hỏi ý kiến ngài về buổi tiệc chiều thứ bảy này tại tệ xá.
Nghe nói tới ăn uống, chàng không cưỡng nổi sự cám dỗ. Ngần ngừ một giây, chàng gật đầu đứng lại nghe gã nói. Chàng không thể ngờ rằng gã chính là một trong những tên phản trắc chưa bị lộ tông tích, và nhiệm vụ của gã là tách chàng rời khỏi César.
Mấy phút ngắn ngủi chàng đứng lại chuyện vãn chính là mấy phút ân hận để đời.
Thực ra buổi họp đã bắt đầu, và khi César sắp sửa ngồi vào chiếc ghế mà viên chức hữu trách vừa vội vã đem ra, một số nghị viên không hiểu vô tình hay cố ý đã xúm lại quanh ông, người chúc mừng kẻ hỏi han rối rít. Một nghị viên tên Tullius Cimber, chợt đưa tay rẽ đám đông tiến tới trước mặt César lớn tiếng yêu cầu ông cho phép người anh bị lưu đày của gã được về nước.
César đưa tay bảo gã yên, rồi ông ung dung ngồi xuống ghế và nói:
– Bạn không nên nói nhiều phí công và làm mất thì giờ quý báu của tất cả mọi người. Ta đã quyết định về số phận của y và không có lý do gì đem ra xét lại.
Một số người nhao nhao biện hộ thêm cho kẻ bị lưu đày khiến César bừng bừng nổi giận:
– Thôi! Lời ta đã nói ra không bao giờ dời đổi. Quý vị về chỗ và bắt đầu buổi họp.
Đúng như sắp đặt, Tullius Cimber vùng kêu lớn:
– César! Ông dùng giọng đế vương chỉ vì ông mặc chiếc long bào này phải không?
Vừa kêu gã vừa nắm áo César xé mạnh.
Đây chính là hiệu lệnh tấn công, nhưng không hiểu sao đồng bọn gã vẫn chưa nhúc nhúc. Gã la thêm:
– Các bạn còn chờ gì nữa?
Mọi người còn đang ngơ ngác thì nghị viên Casca vùng tuốt gươm đâm vào cổ ông. Vì quá xúc động trước oai phong của César, lưỡi gươm không trúng đích, chỉ làm ông bị thương nhẹ, ông quay phắt lại dùng cả hai tay bắt lấy thanh gươm của gã, gầm lên:
– Casca, ngươi làm gì vậy? Ngươi điên rồi chăng?
Ông chưa nói dứt câu, em của Casca đâm thêm một nhát vào sườn ông. Và thủ lãnh Cassius, người đã được ông tha mạng cùng một lượt với Brutus, đâm vào giữa mặt ông.
Tuy đã có tuổi, lại bị suy yếu bởi chứng kinh giản, César không hổ là danh tướng. Ông tay không tả xung hữu đột chống cự rất oanh liệt. Nhưng máu ông ra nhiều quá khiến địch thủ hừng chí lăn xả vào ông. Albinus, gã thanh niên mà ông thương mến, đâm trúng đùi ông. Bucolianus, người bạn mà ông quý trọng, đâm trúng lưng ông. Và Brutus, đứa con mà ông tin tưởng đâm thấu ngực ông.
Ông cố ngước khuôn mặt đẫm máu lên nhìn Brutus, giọng ông lạc hẳn đi, thống trách:
– Trời ơi, cả mi nữa sao? Brutus, con ta...
Trong cơn đau đớn cực cùng cả linh hồn lẫn thể xác, ông đưa tay quấn vạt áo lên đầu và ngã xuống chân bức tượng Pompée, kẻ thù số một của ông thuở trước. Mỉa mai hơn nữa, tay ông vẫn còn nắm chặt cuộn giấy ghi tên những kẻ phản phúc.
Giữa lúc say máu, bọn người quá khích tiếp tục xông vào đâm chém cái xác không hồn loạn xạ, nhiều khi chém cả vào nhau.
Cuối cùng César nằm đó với hai mươi ba vết thương. Con người vĩ đại nhất hoàn cầu đã chết. Cái chết xảy ra mau chóng quá, bất ngờ quá, khiến những người có mặt không ai kịp bảo vệ ông, tiếp cứu ông. Phần lớn các nghị viên đều há hốc miệng đứng yên vì ngạc nhiên và sợ hãi.
Giờ đây bão táp đã nguôi, họ dần dần lấy lại được bình tĩnh, nhận thức được tình hình, xô đẩy nhau tìm đường rút lui. Và đến khi Brutus tay đẫm máu cha bước lên diễn đàn để trấn an mọi người thì phòng họp gần như trống rỗng.
Ngoài đường bắt đầu nhốn nháo, rồi cả thành phố chìm vào kinh hoảng. Dân chúng nhớn nhác ngược xuôi, trao đổi những câu hỏi không lời giải đáp. Những nghị viên biết câu trả lời thì còn bận ba chân bốn cẳng chạy về nhà lánh nạn. Một số nghị viên bị đám đông chặn hỏi và xô đẩy tơi bời. Rất nhiều dân vô tội bị giết lầm chỉ vì họ có khuôn mặt giống những kẻ phản loạn. Nhiều kẻ lợi dụng dịp này để đâm chém nhau. Đại Hý Viện đang chật ních người xem diễn trò, kể cả những trận giác đấu kinh hồn, bỗng nhiên như bầy ong vỡ tổ, chen lấn nhau bỏ chạy. Các võ sĩ giác đấu cũng thừa lúc không ai canh giữ tháo chạy ra đường. Bọn giác đấu phần lớn là các tử tội xuất thân từ đám trộm cướp giết người, được dịp tháo cũi xổ lồng lại sẵn võ khí trong tay, tha hồ cướp bóc dân lành, đâm chém người vô tội.
Dân chúng hoảng sợ, ai về nhà nấy, đóng cửa ầm ầm, chẹn cửa thật chặt, sửa soạn đối phó với cả những hiểm họa có thể ào xuống từ trên nóc nhà. Đường phố hoang vắng hầu như chỉ còn lại bầu không khí tang tóc và những tiếng hú âm u vọng về từ cõi chết. "César... César..."
Do đó khi bọn phản loạn cởi áo ngoài quấn xung quanh tay trái để làm mộc, cùng nhau rời chỗ xảy ra án mạng, chúng không gặp những đám đông phẫn nộ như chúng tưởng. Chúng sửa soạn sẵn những lời giải thích hùng hồn để thuyết phục dân chúng trước một việc đã rồi, nhưng chẳng có ai để nghe. Thế là chúng đành phải kéo nhau chạy khắp các ngả đường, la lớn cho mọi người biết chúng đã trừ xong "kẻ bạo tàn". Chúng la càng ngày càng vang dội, có lẽ để phá tan sự yên lặng rùng rợn, thứ yên lặng khác thường mà chúng không hiểu là rủi hay là may. Một gã trong bọn dùng lưỡi mác giơ cao một chiếc mũ, loại mũ dành riêng cho bọn nô lệ được giải phóng hoặc bọn tù binh được ân xá, để tượng trưng cho sự tự do. Gã vừa chạy vừa gân cổ kêu gọi dân chúng La Mã hãy phục hồi chính thể Cộng Hòa từ thời cha ông để lại.
Nhưng dân chúng La Mã chẳng còn đầu óc đâu để nghe. Có chăng, họ chỉ sợ hãi thêm khi thấy một bọn người la lối um sùm, binh khí hãy còn vấy máu. Những ai còn sót ngoài đường, vừa trông thấy chúng đã quay đầu bỏ chạy.
Trước thái độ thờ ơ của dân chúng, bọn phản loạn thôi la hét, tụ tập lại để bàn định kế hoạch.
Casca, người đầu tiên đâm César, lấm lét thì thào:
– Trước khi tìm được chỗ an toàn, có thể chúng ta sẽ bị Lépide và toán vệ binh của hắn ập tới thộp cổ.
Thủ lãnh Cassius cũng lo lắng:
– Hơn thế nữa, dân chúng có thể nổi dậy chống chúng ta. Và chúng ta không nên quên rằng Marc Antoine không những là bạn César mà còn là Cộng Đồng Nhiếp Chánh của lão. Phải nói y là người đáng ngại nhất.
Casca sợ hãi nhìn quanh:
– Mình phải mau mau tìm chỗ lánh nạn cho đến khi lôi kéo được quần chúng về phe mình.
– Có nên rút lên cố thủ điện Capitole không?
Brutus lắc đầu:
– Bọn ta bây nhiêu người chưa đủ.
Cả bọn hoang mang nhìn nhau, bầu máu nóng dần dần biến sang lạnh. Vài kẻ bắt đầu tự trách mình đã nhúng tay vào âm mưu rồ dại...
Ai nấy còn đang nơm nớp chờ đợi một đám mây khủng khiếp chụp xuống đầu, thì chợt có tiếng chân người vang lên rộn rã. Không hẹn mà nên, cả bọn quay phắt về hướng phát ra tiếng động, gươm giáo tuốt trần hờm sẵn thủ thế. Từ góc đường hiện ra một đám người bộ điệu rất hung hăng: chính là mấy chục tên giác đấu xổ lồng, đang hăm hở đi kiếm mồi ngon cướp bóc.
Gặp bọn phản loạn, đám giác đấu ngừng lại. Hai bên đứng gờm gờm, thăm dò lẫn nhau một hồi.
Brutus chợt nảy ra một ý, tiến lên mấy bước, nói một cách thân thiện:
– Chào các bạn Giác Đấu? Các bạn tới đây thật là đúng lúc. Bọn ta vừa diệt xong kẻ bạo tàn, tức là kẻ muốn bắt các bạn suốt đời làm nô lệ. Hiện thời bọn ta đang cần một toán vệ sĩ. Các bạn có thể đảm nhận việc đó được không?
Đám giác đấu quay lại ngầm hỏi nhau. Vấn đề giải phóng khỏi tay kẻ bạo tàn đối với chúng không lấy gì làm hấp dẫn, vì nghề giác đấu sống nay chết mai, ai làm chủ thì cũng thế mà thôi. Nhưng kinh nghiệm bảo cho chúng biết trong các cuộc biến động thay ngôi đổi chủ, những kẻ có công đầu luôn luôn được trọng dụng. Đây chính là một dịp để chúng lập công, may ra có đường tiến thân, thoát khỏi cái nghề chém giết nhau để mua vui cho thiên hạ.
Cho mình lý luận như vậy là thông minh lắm, một tên giác đấu gốc lính đào ngũ, lông lá xồm xoàm và to như con khỉ đột bước ra nói với Brutus:
– Được lắm, chúng tôi xin theo các ngài.
Nói đoạn gã quay lại đồng bọn, miệng hối thúc, tay xô đẩy, bắt chúng phải xếp hàng nghiêm chỉnh, rồi đứng yên nhìn Brutus chờ lệnh.
Brutus mừng thầm:
– Bây giờ tất cả chúng ta lên điện Capitole. Chúng ta đủ sức để giữ tòa điện đó rồi.
Thế là bọn người "yêu chuộng tự do" hợp bọn cùng đám đầu trâu mặt ngựa nhắm hướng đồi Capitole thẳng tiến.
Lên đến đỉnh đồi, bọn này mua chuộc toán lính canh và chiếm cứ tòa điện một cách êm thắm. Chúng chia nhau án ngữ các đường, sửa soạn chống cự với toán kỵ binh của Tướng Lépide, rất có thể do chính Marc Antoine cầm đầu.
Nhưng chờ đến chiều vẫn chưa thấy động tĩnh gì, bọn chúng bàn nhau chọn một sứ giả đi gặp Antoine và những cộng sự viên của chàng để điều đình. Một cuộc bắt thăm diễn ra, và Dolabella là người phải lãnh nhiệm vụ nguy hiểm này. Các vị thần số mạng đôi khi cũng khôi hài quá trớn, vì Dolabella chính là kẻ thù cướp vợ của Antoine cách đây mấy năm.

Nhắc lại lúc Antoine đứng bàn chuyện ăn uống phía ngoài hội trường. Chàng đang thao thao bất tuyệt thì thấy bọn phản loạn tay cầm vũ khí máu chảy ròng ròng từ bên trong chạy ra, miệng la lớn đã giết được tên César hung bạo. Biết mọi sự đã rồi, chàng tức tốc men theo các đường hẻm, trở về nhà chờ cho qua cơn nguy hiểm.
Khi sứ giả Dolabella tìm tới, chàng tiếp đãi một cách ân cần ngoài sức tưởng tượng của gã. Sau đó chàng nhờ gã đem về cho thủ lãnh Brutus một bức thư mời cả bọn ra thảo luận trước Nguyên Lão Viện. Trong thư chàng hứa sẽ tôn trọng quyết định chung của Nguyên Lão Viện, coi đó là quyết định của toàn thể La Mã.
Thấy thái độ hòa hoãn của Antoine, bọn phản loạn mừng thầm. Đêm hôm đó, cắt đặt đám giác đấu canh gác xong xuôi, cả bọn yên trí ôm khí giới nằm ngủ, chỉ còn sợ phải đối phó với những cơn ác mộng.
Trong đêm, thành phố lắng dịu hẳn. Kỵ Tướng Quân Lépide cho đốt đuốc sáng rực khắp các ngả đường để đề phòng cướp bóc. Lợi dụng tình hình yên tĩnh, bạn bè của đám hung thủ tìm cách đến thăm viếng từng nhà các nghị viên giàu thế lực, thuyết phục họ hãy vì đại nghĩa của những người yêu tự do dân chủ, đứng ra che chở cho chúng.
Dân chúng cũng xầm xì bàn định tình hình, tuy chẳng ai hiểu tình hình đã biến chuyển tới đâu. Nhiều kẻ trước đây háo hức sửa soạn đón tiếp các vị anh hùng cách mạng, giờ này nghe tin các vị đó thế cô lực bạc, bỗng dưng quay ra thương tiếc César ghê gớm. Chỉ có César mới anh hùng, mới dày công với xứ sở, phe César gồm những người đáng mến!
Suốt khoảng thời gian này, César vẫn nằm im lìm dưới chân bức tượng Pompée, máu ông thấm ướt bệ đài. Không hiểu lúc gặp nhau ở thế giới bên kia Pompée và César đối xử với nhau ra sao? Hai ông còn nhớ thù xưa tiếp tục đâm chém nhau, hay sẽ nắm tay nhau cười lớn, dắt nhau đi tìm những thú vui thần tiên hơn nơi dương thế?
Mãi đến khi người vợ đáng thương Calpurnia nghe tin chồng chết, nàng vừa khóc vừa sai ba tên nô lệ trung thành nhất, can đảm nhất, mạo hiểm đi lấy xác César về. Theo đúng tục lệ La Mã, nàng vật mình ôm xác chồng trong tay. Cơn ác mộng của nàng đã trở thành sự thật. Nhưng mắt nàng lúc này ráo hoảnh, nỗi đau đớn chỉ nung nấu trong lòng. Phải chăng nàng vẫn còn oán giận ông, oán giận người đàn bà Ai Cập kia? Lúc ông còn sống nàng đã đủ nghị lực để che dấu nỗi hờn ghen cùng cực, thì khi ông chết nàng cũng quyết không để ai, nhất là tình địch, biết nàng bi lụy đến tan nát cõi lòng. Tự nhiên nàng thấy ghét ông, ghét sự phung phí tình yêu của ông, tình yêu mà đáng lẽ nàng phải được hưởng trọn.
Anstistius, y sĩ riêng của César, khám nghiệm tử thi và cho biết tuy César bị nhiều vết thương, nhưng chỉ có một vết duy nhất trí mạng: vết dao găm đâm thấu ngực. Vậy thì đứa con anh hùng Brutus đã thực sự giết cha!
Theo Antoine, có một việc khẩn yếu hơn việc đi lấy xác César, đó là phải chuyển ngay những đồ vật quý giá và giấy tờ quan trọng từ nhà César tới nhà chàng để đề phòng bọn Brutus tấn công bất ngờ. Chàng đề nghị, và Calpurnia bằng lòng.
Brutus không một chút ân hận về việc làm của mình. Đêm hôm đó gã cùng đồng bọn trù tính sẽ lôi xác César ra bờ sông vứt xuống giòng Tibre để danh dự ông hoàn toàn trôi ra biển. Nhưng rồi bọn chúng lại chột dạ, sợ làm điều phạm thượng này sẽ chọc giận tới Kỵ Tướng Quân Lépide, và có thể cả Antoine, nên mới thôi.
Một đêm dài nhất lịch sử trôi qua.
19
Một trong những tên nô lệ trung thành của César vượt sông mang tin dữ đến Nữ Hoàng Cléopâtre. Nàng nhận tin với cõi lòng tan nát. Nàng đóng kín cửa phòng, để cho khổ đau mặc tình ray rứt.
Nàng đã hiểu rằng kẻ chơi dao César đã đến ngày phải đứt tay.
Kinh nghiệm qua nhiều lần viễn chinh của César, hơn ai hết, nàng biết người tình đứng tuổi của mình có thể gục ngã bất cứ lúc nào.
Đối với nàng, César không những chỉ là một người tình, mà còn là một người bạn thông minh, chân thật, hào sảng và đa tình. Một người như thế, nàng không dám mong sẽ ở bên nàng trọn đời được. Cho nên dù thương nhớ vô vàn, tiếc thương khủng khiếp, nàng cũng hiểu rằng đã mang lấy nghiệp kiếm cung, ông sẽ phải chết vì cung kiếm.
Giờ đây, nàng chỉ còn đứa con thân yêu Césarion mà nàng tin rằng rồi đây sẽ là người thừa kế duy nhất của César một khi di chúc của César được công bố. Césarion sẽ là Vua của các nước chư hầu (chính César sắp được tôn lên danh vị này thì bị đâm gục). Dĩ nhiên khi Césarion được tôn làm Vua các chư hầu thì cũng sẽ được coi là Vua của La Mã, và là kẻ thừa kế ngai vàng Ai Cập của nàng.
Đêm thứ nhì sau khi César bị ám sát, Antoine đến biệt thự riêng của César nơi Cléopâtre đang ở, mang theo bản di chúc của César. Đây là bản di chúc mà Cléopâtre hoàn toàn không hề hay biết, được lập ra vài tuần trước đó.
Theo thông lệ, César đã ủy thác bản di chúc cho những nữ tu đồng trinh chuyên lo việc phụng thờ Nữ Táo Thần Vesta. Nhưng thân phụ của Calpurnia (vợ César) là Lucius Piso đã yêu cầu Antoine lấy lại và cất giữ sau khi César chết. Ông cũng yêu cầu Antoine mở bản chúc thư tại nhà ông trước sự hiện diện của các nhân chứng độc lập (?).
Sau khi Antoine chào và chia buồn với Cléopâtre, chàng đi vào vấn đề:
– Tôi e rằng chúc thư này sẽ gây xúc động cho Lệnh Bà...
Nói xong, chàng đặt cuộn giấy lên bàn, mở ra và bắt đầu đọc...
Trong khi Antoine đọc, sự ngơ ngác và nỗi kinh hoàng của Cléopâtre tăng dần. Và khi Antoine ngừng đọc thì nàng ngồi thừ ra, hết nhìn chàng lại nhìn chữ ký quen thuộc bên dưới những hàng chữ vô tình. Nàng ngồi đó, câm nín, ngơ ngác như không tin ở đôi tai mình.
Theo di chúc, César đã tiên đoán là mình có thể chết trước khi lên làm vua nên đã lập di chúc chia tất cả tài sản của mình cho những người trong thân tộc và dân chúng La Mã. Gã mặt mụn Octave, người cháu của César, được chia ba phần tư gia tài mà ông dành cho quyến thuộc. Hai người em của Octave là Lucius Pirarius và Quintius Pédius chia nhau một phần tư còn lại. Ngoài ra César còn di ngôn cho Octave phải mang tên ông để làm con nuôi của ông. Octave hiện là một sĩ quan cấp dưới phục vụ ở Apollonie.
Riêng dân chúng La Mã, ông di tặng phần đất bao la của ông từ bờ sông Tibre trở ra, bao gồm cả biệt thự Transtiberini, nơi Cléopâtre đang ở, với những khu vườn, đường xá và cây ăn trái. Thêm vào đó mỗi người dân được 300 đồng sesterces.
Cléopâtre nhìn sững Antoine, vừa ngỡ ngàng vừa bối rối:
– Rồi sao nữa?
– Lệnh Bà bảo sao? Bản di chúc chỉ có bấy nhiêu thôi!
Chưa tin, nàng hỏi gặng:
– Không có khoản nào nói về ta... hay về Césarion à?
Antoine cúi gầm đầu xuống, như để tránh ánh mắt của nàng, chàng cuộn bản di chúc lại, cột bằng một băng vải, cho vào bao, rồi trả lời:
– Không có khoản nào nữa cả!
– Nhưng... nhưng...
Nàng ngập ngừng, rồi mắt chợt sáng lên:
– Nhưng chắc còn có một câu viết thêm nào đó chứ, một khoản bổ chính chẳng hạn?
Nàng chợt dừng lại khi bắt gặp ánh mắt nghiêm trang và cái lắc đầu phủ nhận của Antoine.
– Và cũng không còn bản di chúc nào khác ư? Một bản di chúc viết sau di chúc kia?
– Không có!
Antoine lại quả quyết. Nàng rền rĩ:
– Tiền bạc không nói gì. Nhưng di tặng cho thiên hạ biệt thự này, nơi nương náu độc nhất của mẹ con ta trên đất Ý... Thật không thể tưởng tượng nổi. Cái gì đã khiến Đại Soái làm như vậy? Cái gì đã khiến người quên đi bổn phận làm cha. Đáng lẽ Đại Soái phải tuyên bố Césarion là kẻ thừa kế tước vị của ông chứ?
Antoine chậm rãi:
– Có lẽ Đại Soái nghĩ rằng về phương diện pháp lý Đại Soái không có quyền làm như vậy. Lệnh Bà cũng biết là luật La Mã không giống như luật Ai Cập.
Cléopâtre nghẹn ngào:
– Nhưng sao lại tuyên bố thằng ranh con mặt mụn gớm ghiếc đó là con nuôi? Tại sao ông ta phải cần đến con nuôi trong khi đã có một đứa con của chính mình? Césarion đấy, chưa đủ sao?
Antoine nói như để nhắc nàng:
– Đại Soái còn một người con ruột khác, Marcus Brutus.
Nàng quắc mắt:
– Con tư sinh, không hợp pháp!
Antoine không trả lời, nhưng qua nét mặt chàng, nàng đọc được một lời ám chỉ rõ rệt: dưới mắt dân chúng La Mã, Césarion cũng chẳng hợp pháp gì.
Nàng đáp lại, như thể Antoine đã nói thành lời sự ám chỉ trên:
– Nhưng Césarion đã được nhìn nhận là đứa con hợp pháp độc nhất. Chính Phó Tướng cũng biết như vậy! Phó Tướng phải xác nhận chuyện đó dùm ta, dùm chúng ta. Vì dù sao vận mạng của Phó Tướng cũng đã ràng buộc với vận mạng của ta. Khi ta là Nữ Hoàng La Mã... Thôi, đừng kể đến ta. Ta muốn nói khi Césarion được làm Vua La Mã thì Phó Tướng sẽ là... sẽ là nhân vật thứ hai trong Đế Quốc này. Phó Tướng xác nhận chuyện đó cho ta nhé!
– À... Vâng. Tôi sẽ cố gắng.
Antoine đồng ý, nhưng giọng nói của chàng tố cáo rõ rệt là chàng chẳng mấy tin tưởng vào điều đó.
Nàng lại nghi ngờ:
– Không hiểu sao Đại Soái lại làm thế. Việc gì có thể khiến người đổi tính như vậy? Chúc thư này... Khi nào? Phó Tướng bảo là chúc thư được viết từ mấy tuần trước? Lúc đó là lúc ta và Đại Soái gắn bó với nhau nhất, say đắm nhau nhất mà. Không một chút bất hòa. Tại sao Đại Soái lại có thể... có thể ra đi và... và...
Nàng thốt lời bi thiết, chân thành tiếc thương César, không có vẻ gì đã bị ông bỏ rơi vài tuần trước khi ông chết.
Đôi mắt tuyệt vời chợt nhìn về phía xa, nàng buồn buồn kể:
– César, mối tình đầu của ta, mối tình đầu tiên và độc nhất. Ta đã hiến dâng người tất cả, phải, tất cả... để rồi chẳng nhận lại chút gì...
Antoine thoáng nhìn nàng, thầm nghĩ César quả là người đàn ông may mắn nhất trên đời. Không nhan sắc nào sánh được người đàn bà này. Thế mà César đã chối bỏ nàng sau khi chết? Thực sự chối bỏ nàng qua bản chúc thư. Đó có phải là hành động của một bậc vĩ nhân không?
Một ý nghĩ chợt đến với Antoine. Một ý nghĩ trẻ con, bất xứng. Chàng liếc nhìn chiếc nhẫn khắc ấn tín của César mà chàng đeo ở tay. Cléopâtre bắt gặp ánh mắt đó. Vốn thông minh, Cléopâtre đọc được ý nghĩ của chàng. Nàng khẽ lắc đầu:
– Phó Tướng! Chuyện đó không nên!
– Không phải vì tôi đâu, vì Lệnh Bà đấy.
Trong một phản xạ tự nhiên, nàng lướt nhanh bàn tay mềm mại xinh xắn qua mặt bàn, siết chặt bàn tay hộ pháp sạm nắng của chàng, đầy vẻ biết ơn:
– Ta hiểu. Nhưng một Nữ Hoàng không thể nào hạ mình làm việc giả mạo, và ... ta vẫn còn là Nữ Hoàng. Dù di chúc ấy có bất công, có đáng ghét cách mấy đi nữa, ta muốn rằng di chúc đó phải được giữ nguyên vẹn.
Antoine đứng lên, cung kính:
– Xin tuân theo tôn ý của Lệnh Bà. Và nếu Lệnh Bà cho phép, tôi xin dâng lên một lời khuyên: trong giai đoạn hiện thời, Lệnh Bà cứ ẩn trong biệt thự này. Nên kín đáo, đừng để bên ngoài trông thấy.
– Nhưng còn chủ mới của biệt thự này?
– Họ sẽ không dám quấy rầy Lệnh Bà đâu.
Nàng tò mò:
– Bây giờ Phó Tướng định đi đâu?
– Đến Nghị Trường.
– Vào giờ khuya khoắt này sao?
– Lệnh Bà biết bọn chúng đã mang thi hài của Đại Soái đến đó chứ? Thi hài hiện nằm giữa trời. Các chiến sĩ đã cùng ông đạt đến vinh quang hiện đang canh giữ thi hài ông cẩn mật. Tôi phải đến đó để nghiên mình vĩnh biệt chủ tướng.
– Nhờ Phó Tướng chuyển dùm đến người mối chân tình của ta.
Nàng nói giọng hơi run. Nàng rất đàn bà, dù là một Nữ Hoàng.
Antoine rảo bước đến Nghị Trường. Nơi đây mọi người đều nhận ra chàng và dàn chào theo nghi thức của tướng soái. Chàng đứng nhìn gương mặt gầy gò khắc khổ của César trong ánh sáng của ngàn sao. Gương mặt giờ đây quá già, quá tiều tụy. Chàng ngạc nhiên với ý nghĩ một người kiêu hùng như thế mà đột nhiên trở về với cát bụi. Trở về với cát bụi một cách nhục nhã vào đúng cái giây phút sắp bước lên tột đỉnh vinh quang.
César đang nằm đó, một chiến sĩ vang danh, một người đa mưu đảm lược. César đang nằm đó, một người tình làm mê mẩn đàn bà, một chính khách tài ba, một người chồng, một người cha, một người bạn...
Chàng cất tiếng nói với những cựu chiến binh mặt đầy nộ khí đang kính cẩn vây quanh:
– Thật tiếc thay. Có tốt đẹp gì đâu. Máu đã chảy, sự tàn phá và rối ren sẽ đến. Tại sao họ không để ông trị vì thêm một thời gian nữa? Một thời gian ngắn thôi, vì ông đâu còn sống được bao lâu nữa...
Trong đêm đó, Antoine gửi thông tri đến các nghị viên Nguyên Lão mời họp vào lúc hừng đông tại đền Tellus gần nhà chàng. Chọn địa điểm này, chàng muốn tránh những rắc rối có thể xảy ra, vì tại Nguyên Lão Viện bọn phản nghịch hãy còn đặt đám giác đấu võ trang canh giữ.
Antoine không muốn mang đoàn quân của mình vào thành phố để gây áp lực, nhưng Kỵ Tướng Quân Lépide lại nghĩ khác. Trong trường hợp buổi họp đi đến chỗ sôi nổi, tình trạng rối loạn có thể xảy ra, binh lính cần phải túc trực sẵn để tùy cơ ứng biến.
Buổi họp đi đến chỗ căng thẳng. Nhiều nghị viên Nguyên Lão bắt đầu có luận điệu về bè với bọn phản nghịch mà họ cho là những người ái quốc. Số nghị viên khác lên án hành động của bọn chúng, cho đó là sát nhân và gần như thí vua.
Antoine để hai nhóm đối đáp qua lại một lúc, rồi lấy tư cách Tối Cao Chấp Chánh, chàng yêu cầu mọi người yên lặng và nói:
– Để tóm lại, quý vị đã đưa ra hai thái độ về vấn đề này. Giờ thì quý vị phải chọn một trong hai. Hoặc quý vị công nhận César là vị pháp quan tối cao của La Mã và là vị lãnh tụ dân cử của nền Cộng Hòa, như vậy tất cả những đạo luật và sắc lệnh của ông sẽ còn hợp pháp và tiếp tục có hiệu lực. Hoặc quý vị cho rằng César đã cướp chính quyền. Trong trường hợp đó, thưa quý vị, phải ném thi hài ông đi, không chôn cất gì cả và phải hủy bỏ tất cả những đạo luật mà ông đã ban hành.
Dừng lại trong giây phút, Antoine tiếp:
– Quyền quyết định là ở quý vị. Nhưng những đạo luật của ông hiện diện khắp nơi, dù muốn dù không một số lớn đạo luật đó vẫn còn hiệu lực. Hơn nữa trong số các đạo luật mà có thể quý vị sắp hủy bỏ lại có những đạo luật qui định về chức vụ và phẩm tước mà ông đã ban cho quý vị.
Đây là một đòn tấn công khôn ngoan của Antoine, người từ trước đến giờ chưa hề được coi là một nhà chính trị khôn ngoan bao giờ. Tương lai của chàng phần lớn tùy thuộc vào quyết định của các nghị viên vì trước khi chết không lâu, César đã chỉ định chàng là Toàn Quyền Macédoine, và Dolabella làm Toàn Quyền Syrie. Rồi khi César chết, Nguyên Lão Viện lại lên tiếng bổ nhiệm Brutus đến Macédoine và Cassius đến Syrie.
Buổi họp diễn tiến đến đây thì gián đoạn vì một đám đông tụ họp bên ngoài trụ sở nghị viện, kẻ hô hào đòi hòa bình và một thể chế cộng hòa, kẻ lớn tiếng đòi trả thù cho César.
Sự huyên náo gây hỗn độn và rối loạn trong hàng ngũ nghị viên, nên cuối cùng Antoine phải giải tán phiên họp.
Đêm đó dân La Mã chen nhau vào khu Nghị Trường rộng lớn để dự đám táng César. Một dàn hỏa được dựng lên gần mộ phần Julia (con gái César). Trước diễn đàn trong Nghị Trường có lập một đền thờ mạ vàng kiểu đền Vệ Nữ Génitrix, trong để một chiếc giường bằng ngà, trên phủ tấm vải màu đỏ thẫm và vàng. Phía đầu giường là dấu tích tấm áo bào đẫm máu mà César mặc khi bị đâm chết.
Theo tục lệ phải có diễn kịch trong dịp quốc táng. Nhân cơ hội này, để khơi động lòng phẫn uất trong dân chúng chống lại bọn sát nhân, Antoine cho ngâm một đoạn thơ trích từ bi kịch Phần Thưởng Binh Nghiệp của Pacuvius và những đoạn khác trích trong vở Electra.
Rồi Antoine hạ lệnh cho một Truyền Lệnh Quan tuyên đọc sắc lệnh của Nguyên Lão Viện: Toàn dân trao tặng César tất cả những danh dự của cõi trần và cõi thánh.
Sau đó, ước định tình hình dân chúng đã đến hồi thuận lợi, Antoine đọc một bài văn tế hoa mỹ được soạn trước với câu kết luận: "Tôi đứng lên trong tư thế sẵn sàng để trả thù cho người, như tôi từng thệ nguyện".
Nhưng chàng đã ước đoán sai đám thính giả của mình. Một số nghị viên phản đối quyết liệt lời tuyên bố này. Chàng vội chữa lại:
– Thưa đồng bào, tôi thiết nghĩ hành vi này có lẽ không phải do nhân định mà do thiên định. Dường như phải là một ác thần nào đó xui khiến. Chúng ta nên tiếp tục con đường trước mắt hơn là trở lại chuyện đã qua, nếu không chúng ta sẽ bị lôi cuốn vào vòng rối loạn do quỷ thần xếp đặt. Vậy chúng ta hãy tiễn đưa người đến nơi an lạc của những đấng thiêng liêng hiển hách.
Ngay lúc đó, từ phía sau thi hài César, một hình nhân bằng sáp được đưa lên nhờ một hệ thống máy móc. Hình nhân được xoay mọi phía, để lộ hai mươi ba vết thương khắp nơi trên cơ thể và gương mặt thân yêu quen thuộc. Mọi người đều rền rĩ nghe như một cơn lốc thổi qua Nghị Trường. Những bó đuốc chập chờn lung linh theo cơn lốc.
Antoine sử dụng tất cả nghệ thuật và tài năng của một diễn viên và một nhà hùng biện. Chàng tiếp tục bài diễn văn ca tụng César. Rồi dân chúng đồng cất tiếng khóc với chàng như một ban hợp xướng khổng lồ. Lòng căm thù bọn phản nghịch dâng lên trong lòng họ. Một số quá khích hơn tiến ra phía sau và ùa tới phóng hỏa đốt tòa nhà nơi César bị ám sát. Đám này nhập chung với một đám khác đang rời Nghị Trường, tất cả ồ ạt tiến về đền Capitole. Nhưng bọn sát nhân đã xa chạy cao bay. Còn đám giác đấu, thất vọng vì tiền thưởng quá kém, cũng đã giải tán về phía Hí Viện với hy vọng không ai để ý đến sự vắng mặt của chúng. Đám người phẫn nộ định gây thêm hỗn loạn, nhưng toán lính mà Lépide đã mang vào thành kịp thời chận đứng họ. Cuối cùng trật tự được vãn hồi.
Trong khi đó Antoine cũng chấm dứt bài diễn văn của mình. Dân chúng nâng linh cữu của César và kính cẩn rước ngang qua đám đông im phăng phắc đứng dọc theo các đường phố dẫn đến đền Capitole. Họ dự định chôn ông chung với các vị thánh của ngôi đền này, nhưng đám tu sĩ giữ đền ngăn cản không chịu. Linh cữu lại được mang về Nghị Trường và được đặt trên nền cũ của tòa cung điện xưa.
Rõ ràng dân chúng muốn gán danh dự tột cùng cho người hùng quá cố của họ. Nhưng thiếu sự chỉ dẫn thường lệ của các nghị viên hay các đại diện lao động, họ không biết phải làm gì. Đại đa số đứng im, không dứt khoát. Một số khác chủ động hơn đứng ra xách động đám đông. Kẻ xúi nên chôn tại đền thờ Thần Jupiter, kẻ đề nghị tại Nguyên Lão Viện của Pompée...
Tình trạng này có thể đưa tới rắc rối to. Một người đứng ra kêu gọi hãy hành động dứt khoát. Lời kêu gọi được đáp ứng một cách bất thần, bi tráng và ngoạn mục.
Giữa lúc đám đông đang cãi vã chưa ngã ngũ ra sao, thì hai người đàn ông bước vào Nghị Trường gươm đeo bên hông, tay cầm lao tay cầm đuốc, họ đi bên nhau, đều bước. Rồi vượt qua khu đấu trường họ tiến về phía linh cữu César.
Họ là ai, đến tự bao giờ, chẳng người nào biết. Về sau người ta chỉ biết hai người này không phải là quân nhân. Thật ra, nếu họ bị quân canh ngăn chặn thì rắc rối còn kéo dài nữa. Nhưng họ mang một vẻ uy nghi đặc biệt khiến không ai dám cản đường. Sau này những kẻ mê tín cho rằng họ là sứ giả của các vị thần, được phái tới để rước một vị thần bằng hữu về trời.
Hai người bước thẳng tới linh cữu, không gặp một trở ngại nào, rồi lập tức phóng vào đó những bó đuốc cầm trên tay. Lửa táp cháy hết phần vải, bắt nhanh qua gỗ, và một khối lửa khổng lồ đỏ thẫm với đám tàn lửa xám cuồn cuộn bốc lên giữa trời đêm. Nhưng tiếng kêu nghẹn ngào nhưng hài lòng vang lên trong đám đông. Vấn đề khó nghĩ của họ đã được giải quyết.
Với niềm phấn khởi bất thần trỗi dậy, đầu tiên một đám cựu quân nhân hào hùng, những kẻ sống sót qua hàng chục lần viễn chinh với César, bắt đầu đập gãy diễn đàn và các băng ghế. Sau đó đám đông cũng tham gia. Họ phá những cơ sở kế cận để tìm những ghế dài, ghế đẩu, những chiếc bục, từng bao lơn, và bất cứ thứ gì có thể mang đi được, đốt được, để ném vào ngọn lửa. Chẳng mấy chốc một khối lửa vĩ đại bùng lên, gào thét và soi sáng cả những tòa nhà cách xa Nghị Trường hàng dặm.
Hết đồ để đốt, đám đông cuồng loạn quay ra vớ cả những đồ trang bị cho đám rước, nhiều món rất quý giá, đắt tiền, đem ném vào đống lửa. Các nhạc công và kịch sĩ cũng xé bỏ những quần áo mà họ đã được cấp phát vào ngày lễ Khải Hoàn của César để làm mồi thêm. Toán lính canh danh dự hết dằn nỗi cảm xúc cũng hùa nhau ném vào dàn hỏa tất cả mũ trận và hộ tâm giáp. Ngay cả đám đàn bà con gái cũng tháo vòng vàng chuỗi ngọc cùng các đồ tư trang tới tấp dâng cho ngọn lửa, để tỏ ý quí mến người đã chết.
Cứ thế đám cháy bập bùng suốt đêm. Dân chúng yên lặng trong đau buồn và kiêu hãnh, hài lòng vì đã đem vinh dự cuối cùng đến cho César, người anh hùng đã làm rạng danh La Mã.
20
Trước lòng thương tưởng mãnh liệt của quần chúng đối với César, các nhà cầm quyền đều hy vọng sẽ tránh được những biến động lớn. Nhưng rồi mối cảm xúc bồng bột cũng chỉ như ngọn lửa hỏa táng, phồng lên lại xẹp xuống. Những kẻ vô công rồi nghề tại các trà đình tửu quán bắt đầu xầm xì bàn tán. Phải chăng César đã lợi dụng những thành tích của mình để thâu tóm quyền hành, tác oai tác quái? Giờ đây César đã chết, liệu chính sách chuyên chế của ông có chết theo không, hay là lại lọt vào tay một kẻ khác tầm thường hơn? Mà tầm thường là cái chắc, vì ở đất La Mã này ai là kẻ dám sánh ngang với César? Ngày ông còn sống, ông phạm một số lỗi lầm và người ta không mấy kính trọng ông, những người này cho rằng nhiều kẻ khác (Antoine chẳng hạn) có thể sánh được với ông. Nhưng hiện thời ông đã được chính thức tôn làm một vị thần, kẻ nào có ý đưa Antoine lên thay ông kẻ đó sẽ phạm tội đại bất kính.
Cả trời đất hình như cũng muốn can thiệp vào các cuộc bàn cãi. Bẩy đêm liền sao chổi xuất hiện, rồi biến mất một cách bí mật. Ban ngày cũng có hiện tượng thiên hôn địa ám, mặt trời ảm đạm trong suốt khoảng thời gian còn lại trong năm. Có người bảo đây là nhật thực, ngôi sao của César đã che mất mặt trời. Cũng có kẻ xấu mồm bảo đây là điềm quỷ thần bất mãn sự hiện diện của César trên thượng giới.
Thiên hạ bàn ra tán vào, người khen kẻ chê, dư luận chia thành hai phe đối nghịch rõ rệt, mầm mống nội loạn tiến từ chỗ manh nha đến chỗ thâm căn cố đế. Một cuộc nội chiến chỉ còn chờ dịp là bùng nổ.
Thấy tình hình khẩn trương, Antoine khuyên Cléopâtre nên tức tốc đem con trở về Ai Cập. Nàng rất phân vân khó nghĩ, nửa muốn về Ai Cập để thăm lại cố hương và tránh nguy hiểm, nửa muốn ở lại La Mã để chờ giải quyết ngã ngũ danh phận của Césarion. Cuối cùng vì Antoine hối thúc quá, nàng đành miễn cưỡng ra đi với điều kiện Antoine phải tranh đấu cho con nàng.
Cléopâtre xuống thuyền, rời xa bờ biển xanh rì của nước Ý đế hướng về vùng đất mầu nâu xám của Phi Châu. Những ngày lênh đênh trên Địa Trung Hải, nàng rất tin tưởng ở sự giúp đỡ của Antoine và yên trí rằng Thần César sẽ không bao giờ bỏ rơi mẹ con nàng. Về đến Ai Cập, nàng gặp vài bỡ ngỡ trong vấn đề triều chính vì xa nhà quá lâu, nhưng rồi với tài khéo léo nàng lại chấn chỉnh được bộ máy cai trị và mọi việc lại êm xuôi như cũ.
Nhưng Cléopâtre không sao tìm lại được cuộc sống vui tươi ngày trước. Nàng cô độc quá. Tòa cung điện mênh mông làm nàng rờn rợn, chỗ nào cũng còn để lại kỷ niệm của César. Căn phòng này là nơi nàng đã vọt ra từ trong tấm thảm trước sự sững sờ của César. Căn phòng kia là nơi César đã cùng nàng mê say ân ái khi ông suýt mất mạng vì những mũi tên của quân Ai Cập ngoài hải cảng (và nàng tin rằng chính giây phút tuyệt vời đó Césarion đã bắt đầu thành hình trong bụng). Nhớ César, nàng lại liên tưởng đến cha. Ngày xưa Vua Thổi Sáo, cha nàng, thường ăn uống trong phòng tiệc, nàng ngoan ngoãn ngồi bên cạnh như một nàng tiên bé nhỏ. Cha nàng thường nói với nàng một câu mà nàng còn nhớ mãi "Đừng bao giờ chống lại La Mã!" Cha nàng say sưa tối ngày, đó là câu nói tỉnh táo nhất trong đời ông.
Trong khi đó tại La Mã, Antoine bắt tay vào việc mà Cléopâtre đã ân cần ủy thác. Để giữ lời hứa, chàng ra trước Nguyên Lão Viện tranh đấu cho Césarion, viện cớ chính César đã hợp thức hóa tình trạng của đứa bé. Chàng đang trổ tài hùng biện thì một nghị viên tên Oppius đứng lên thách thức chàng trưng ra bằng cớ. Dĩ nhiên chàng từ chối. Nguyên Lão Viện buộc lòng phải bác bỏ đề nghị của chàng, tuy nhiều người còn lấy làm tiếc rẻ.
Đáng lẽ Antoine còn tiếp tục tranh đấu, nhưng mụ vợ cọp cái Fulvie của chàng nổi giận, cấm chàng lo chuyện bá vơ. Riêng mụ, mụ lợi dụng những tài liệu và ấn tín của César hiện do Antoine cất giữ để giả mạo giấy tờ, chỉ định một số bạn của Antoine vào những chức vụ quan trọng. Đại khái mụ làm rất nhiều chuyện lén lút, những chuyện mà trước đây Nữ Hoàng Ai Cập đã không thèm làm. Dân La Mã cũng biết vậy nhưng chẳng ai buồn đứng ra phản đối.
Chính vì vậy mà địa vị Antoine lúc đầu có vẻ được củng cố vững vàng. Chàng giữ chức vụ Tối Cao Chấp Chánh, Caius em chàng làm Pháp Quan, Lucius một người em khác làm Đại Diện Thứ Dân. Chàng tự tin đến độ khi gã bé con Octave từ Apollonie trở về La Mã để tiếp nhận chúc thư của César, chàng khinh bỉ cười vào mũi gã, bảo cho gã biết rằng một thằng con nít mà lên mặt kế nghiệp một vị Toàn Quyền thì thật là lố bịch.
Vụ này đến tai Cléopâtre, nàng xuýt xoa thích thú. Cho đáng đời tên nhóc con mặt mụn, quen thói ở dơ, tóc không chịu chải.
Tuy nhiên gã mặt mụn cũng chẳng phải tay vừa. Gã cương quyết thu thập phần tài sản thừa kế của mình và đổi tên theo đúng lời dặn trong chúc thư. Nhưng đến khi gã sử dụng chiếc ghế mà Nguyên Lão Viện đã tặng César (giống như một chiếc ngai), Antoine mắng vào mặt gã, bảo gã hãy liệu hồn, nếu không chàng sẽ tống cổ gã vào tù. Để bêu xấu gã hơn nữa, chàng gọi gã là tên gian manh đàng điếm và ghép gã vào tội đã có những liên hệ vô luân bẩn thỉu với ông già César để được ông nhận làm con. Luôn thể, chàng tuyên bố chỉ có Césarion mới là con chính thức và là người thừa kế hợp pháp của César.
Gã mặt mụn thấy mình cô thế, bắt đầu kết bè với nhà hùng biện kiêm văn sĩ và chính trị gia Cicéron và các đối thủ khác của Antoine. Dần dần gã chiếm được cảm tình của những nghị viên lão thành và có đủ thế lực để đương đầu với Antoine. Kết quả Antoine và gã đi đến chỗ điều đình. Hai bên hẹn gặp nhau tại đền Capitole.
Theo đúng nghi lễ, Antoine và gã mặt mụn trao đổi chiếc hôn thân thiện, nhưng trong khi ôm nhau, cả hai đều ngầm nắn áo đối phương xem có dấu vũ khí trong người không?
Trong bầu không khí nghi kỵ này, hai người phối hợp với một nhân vật thứ ba, Kỵ Tướng Quân Lépide, để lập ra Tam Đầu Chế. Bộ ba sẽ phối hợp với nhau để cai trị Cộng Hòa La Mã và các xứ chư hầu.
Vừa nắm quyền, bộ ba đã lạm quyền. Hàng trăm nghị viên và khoảng vài ngàn người có thế lực bị ám sát một cách rùng rợn. Để làm cử chỉ đẹp với Antoine, gã mặt mụn trao vị quân sư thân tín của gã là nhà hùng biện Cicéron cho chàng để chàng tùy nghi chém giết. Và để đáp lại, Antoine cũng trao cho gã một người chú để gã làm thịt cho sướng tay (vì ông này đã dám về hùa với chàng chống lại gã ngày trước).
Không chịu kém, Kỵ Tướng Quân Lépide cũng đem em ruột mình là Paulus ra xử tử.
Cléopâtre mỉm cười chua chát khi nghe tin nhà hùng biện Cicéron bị giết. Lão từng chống César, tìm cách mua chuộc Antoine, và chửi lén nàng, bây giờ nhận được cái chết thảm khốc...
Người ta kể rằng khi lão thấy nguy, lên kiệu bỏ trốn về phía bờ biển. Tới Caiète thì lão bị thuộc hạ của Antoine đuổi kịp. Lão vừa thò đầu ra khỏi kiệu chưa kịp hỏi phu kiệu tại sao ngừng lại thì đầu lão đã lìa khỏi cổ vì một nhát gươm.
Thủ cấp và bàn tay phải của lão được đem về La Mã để bêu trong Nghị Trường. Antoine căm hận lão đến độ chàng cho phép mụ vợ cọp cái Fulvie tự do hành hạ chiếc đầu lâu. Mụ bèn móc chiếc lưỡi vàng đã dụ hoặc muôn người của lão ra ngoài và dùng cây trâm đâm nát bét. Mỉa mai thay chính chiếc lưỡi đó từng thốt ra câu: "Không động vật nào thù dai bằng đàn bà".
Những hành động khủng bố trên chỉ mới thỏa mãn được hiềm thù cá nhân và làm cho mọi người run sợ, chứ chưa trừ diệt được kẻ thù chính của Tam Đầu Chế tức hai gã phản loạn Brutus và Cassius. Sau khi giết César, hai gã này đã chạy sang lánh nạn tại Macédoine và hiện đang chiêu binh mãi mã để lập một đạo quân riêng biệt.
Bộ ba trong Tam Đầu Chế bèn triệu tập một buổi họp khẩn cấp. Octave tuyên bố:
– Chúng ta phải đem quân đi Macédoine ngay.
– Cả ba chúng ta?
Kỵ Tướng Quân hỏi vặn với vẻ châm chọc, vì thực ra ông cũng chẳng ưa gì gã mặt mụn ăn mặc lôi thôi này.
Octave đỏ mặt, nói chữa:
– Một người cũng đủ.
Antoine chậm rãi:
– Tốt hơn chúng ta nên đi hai người.
Đây là tâm lý chung của cả ba, vì không ai muốn giao binh quyền cho riêng một người nào. Đề nghị của Antoine được chấp thuận ngay.
Trong ba người, Kỵ Tướng Quân Lépide sẽ ở lại giữa nhà, còn Antoine và Octave đem quân đi chinh chiến. Cũng may một đạo quân đã được sắp sẵn, trang bị đầy đủ từ hồi César còn sống.
Phe Brutus và Cassius có một yếu điểm là thiếu tiền và chiến thuyền. Thực ra trước đây Cassius đã tính tới chuyện chinh phục Ai Cập để gây thêm vây cánh, nhưng rồi gã đổi ý vì thấy Cléopâtre kịp thời chỉnh đốn lực lượng. Gã đành phải sai người đi yêu cầu nàng gửi cho gã những toán quân La Mã mà César còn để lại Ai Cập, nhưng dĩ nhiên nàng từ chối. Cassius là kẻ đã giết César mà bây giờ đòi nàng giúp thì quả là đùa dai không đúng lúc.
Khi phe Antoine và Octave đem quân tới Macédoine, hai bên dàn trận đối chiến. Antoine đấu với Cassius, còn Octave đương đầu Brutus.
Trong cuộc giao chiến đầu tiên, Antoine gặt hái được đôi chút thắng lợi, nhưng mãi tới năm sau hai bên mới đánh trận quyết định. Một trận đánh kinh hồn diễn ra tại Philippes, và César được trả thù đích đáng. Brutus tự sát bằng gươm, còn Cassius ra lệnh cho thuộc hạ đâm mình chết.
Điều đáng chú ý trong trận này là Octave vắng mặt. Suốt khoảng thời gian chinh chiến, không hiểu sao gã khật khừ đau ốm luôn, và đến ngày đụng độ quyết liệt thì gã bệnh nặng. Nhờ đó Antoine hưởng trọn chiến công, nhưng chàng không mấy hài lòng. Khi đứng trước thi thể Brutus, chàng cởi chiếc áo choàng đỏ phủ lên xác kẻ thù và ra lệnh cho một thuộc hạ chôn cất theo đúng nghi thức. Về sau tên thuộc hạ này bị chàng xử tử vì đã không chịu chôn chiếc áo theo xác Brutus lại còn tỏ ra bủn xỉn trong việc ma chay.
Tuy thiên hạ không tin nhưng Octave bệnh nặng là chuyện có thật. Sau trận đánh, gã được đưa xuống thuyền trở về La Mã. Tình trạng gã mỗi ngày một bi đát hơn, dân La Mã đề quyết phen này gã phải chết, nhưng gã đã làm mọi người thất vọng.
Giữa lúc đó thì ngôi sao bản mệnh của Antoine lên tới tuyệt đỉnh. Chàng đại thắng ở Philippes, thân thể tráng kiện hơn bao giờ hết, được các thuộc hạ coi như thần tượng, và nhất là được các thục nữ giai nhân đến vấn an tấp nập khiến chiếc giường của chàng lúc nào cũng bận rộn tưng bừng.
Nhưng Antoine vẫn chưa hoàn toàn đắc ý. Chàng còn muốn công nghiệp của mình rạng rỡ hơn bằng cách đem quân đi càn quét các xứ phía đông để gây thêm quỹ cho Tam Đầu Chế, củng cố thêm thế lực cho La Mã và nhất là cho riêng chàng.
Lần này, gã Octave gà chết bị bỏ ở nhà để lo việc "tề gia nội trợ". Đây là một điều lầm lẫn lớn trong đời Antoine vì Octave đã không chịu chết mà về sau còn làm chàng bao phen điêu đứng. Gã thừa cơ chàng vắng mặt, dùng lối tuyên truyền rỉ tai để hạ uy tín chàng và củng cố địa vị gã.
Antoine biết chàng này nhưng chẳng coi vào đâu. Chàng còn bận thăm viếng các kho tàng tại những xứ Á Châu, say men rượu của bọn người Hy Lạp, ngây thơ nhận những tiếng tung hô tôn chàng làm Thần Rượu Bacchus (còn gọi là Dionysos, một vị thần được tôn kính nhưng tiếng tăm chẳng đẹp tốt gì). "Bacchus muôn năm. Bacchus tự do và nhân ái!".
Anh chàng to đầu Antoine nhiều lúc nhẩy cỡn lên vui sướng. Chàng tự cho rằng mình có vẻ thần linh lắm nên mới qua mặt được bọn người ngây thơ này. Và cuối cùng chàng đi Tarse, một thành phố trên bờ biển Cilicie, để lập soái phủ. Trong cơn hứng chí chàng viết thư vời Cléopâtre đến ra mắt. Nhưng nàng lờ đi.
21
Cléopâtre suy nghĩ không ít về bức thư của Antoine, nhưng rồi vấn đề đối phó với bọn người La Mã lu mờ dần để nhường chỗ cho sự náo nức đón mừng ngày hội Thần Serapis, một vị thần lúc thì được coi như Diêm Thần Csiris, lúc lại được kể là Thần Bò Apis.
Đây là ngày hội lớn nhất trong niên lịch Ai Cập. Tin hành lễ vừa được ban ra, khách thập phương tấp nập rủ nhau kéo đến. Họ tới từ các thành phố trong cũng như ngoài Ai Cập. Đường phố Alexandrie lúc nào cũng đông nghẹt. Những hàng quán tha hồ hốt bạc, những chốn ăn chơi mặc sức thu tiền của các anh nhà quê ngớ ngẩn.
Cả kinh thành chỉ có một khu vực cấm người qua lại, đó là Đại Lộ Hoàng Gia. Binh lính canh gác rất nghiêm mật vì đây là con đường mà Nữ Hoàng sẽ đi qua.
Khi tiếng nhạc trỗi lên, dân chúng đổ xô nhau đứng chật hai bên lề đường, cố nhòm qua vai đám lính gác để xem rước. Đây là đám rước của Quan Chủ Tế. Dẫn đầu là ban nhạc gồm não bạt, trống, và các nhạc cụ kỳ dị. Kế đến là các tay đạo sĩ, bói dịch, thuật số, tiên tri, và những người mang hình tượng các vị thần trên những chiếc gậy mạ vàng hoặc trên xe ngựa.
Tượng các vị thần được rước đi theo thứ tự: Thần Bò Apis, Thần Mãnh Điểu Toth, Thần Sói Anubis, và Thần Chết. Mỗi vị thần đi qua, dân chúng lại lớn tiếng cầu xin ân huệ nọ kia. Chẳng hiểu chư thần có nghe thấy không, nhưng họ có vẻ hỉ hả lắm.
Quan Chủ Tế đi lắc lư giữa hai hàng lính, nhưng không ai thấy mặt ông vì được che bởi một lớp vải màu cam. Lớp vải này sẽ được bỏ ra sau khi ông dâng lễ xong. Phía sau ông là các nữ tu trẻ tuổi mặc áo trắng, tay cầm hoa sen. Sau nữa là đám người ti tiện như bọn thợ rung chuông, thợ bắt chim, thợ vẽ bùa bán chữ, và bọn ăn mày cố ý để hở những vết thương lở lói để kêu gọi từ tâm của thiên hạ.
Đám rước của Quan Chủ Tế đi qua, mọi người hướng về phía Hoàng Cung, chờ đợi. Trong đám đông đứng hai bên đường, người thành tâm thì ít, mà kẻ hiếu kỳ thì nhiều. Họ đang nóng lòng chờ sự xuất hiện của Nữ Hoàng. Chợt trên đỉnh tháp Canopus có ánh đèn bật sáng báo hiệu Nữ Hoàng rời cung. Rồi một toán kỵ sĩ cưỡi ngựa chạy dọc đại lộ, thổi kèn hiệu, truyền rao: "Nữ Hoàng giá lâm! Nữ Hoàng giá lâm!" Đám đông rập theo, lập lại như sấm.
Dẫn đầu đám rước là bọn lính vừa đi vừa quơ gậy mở đường. Kế đến là chiếc xe đua trứ danh của Nữ Hoàng với những con ngựa trắng như tuyết thả vó nước kiệu. Hai bên xe là toán cận vệ. Phía sau là hai hàng lính Ai Cập và lính đánh mướn thuộc các xứ Á Châu, rảo bước chạy theo những chiếc xe trận của chủ tướng.
Tiếp theo là bẩy chiếc xe khác chở hai vị Công Chúa và các cung nhân. Thêm một toán cận vệ chạy rầm rập đều bước phía sau. Rồi đến sáu chiếc xe chở các quan nội giám, bên cạnh mỗi xe có quân hầu đi theo múa gậy mạ vàng.
Người được chú ý nhất trong đám rước dĩ nhiên là Nữ Hoàng Cléopâtre. Nàng ngồi nghiêm trang trên một chiếc ngai nhỏ đặt trên xe vàng sáng lóa, mắt ngước nhìn trời như đang cầu nguyện, đầu đội vương miện có hình rắn thần, tay cầm vương trượng để tỏ quyền uy tuyệt đối. Sau lưng nàng, bọn nô lệ luôn tay phe phẩy những chiếc quạt lông công.
Nhưng hấp dẫn nhất là chiếc áo trong suốt mà nàng đang mặc trên người. Phục sức kiểu này rõ ràng nàng muốn trở thành hiện thân của Nữ Thần Tối Thượng, con của các Đế Thần Pharaon. Nàng muốn đi vào cõi thiêng liêng của Thượng Đế.
Trong bầu không khí trang nghiêm của buổi lễ, có lẽ mọi người đều quên rằng vị Nữ Thần trước mặt họ không thuộc dòng các Vua Pharaon, mà chỉ là hậu duệ của một viên tướng trong đoàn quân xâm lăng dưới trướng A-Lịch-San Đại Đế. Ông cha nàng phần lớn gồm những Vua ham mê tửu sắc, tham lam vô độ. Có lẽ họ cũng không biết rằng phía sau khuôn mặt ngọc băng giá kia ẩn chứa nỗi đau khổ cực cùng của một thiếu phụ đã mất chồng, mất tình yêu, mà còn mất cả niềm hy vọng sẽ đưa con cháu lên thống trị thế giới sau này.
Gần đến ngôi đền, đám rước đi chậm lại. Một vị lễ quan bắt đầu tuyên đọc một tràng các danh vị của Cléopâtre: vị Nữ Thần trẻ tuổi, Nữ Hoàng của Thượng và Hạ Ai Cập, Nữ Hoàng của các Nữ Hoàng, con gái của Thần Amon, người ban cho nhân loại sự sống.
Tiếng xầm xì ngưng lại một lát rồi lại nổi lên tứ phía khi Cléopâtre bước xuống xe, trên vai nàng phủ chiếc áo khoác trắng của Nữ Thần Isis tượng trưng cho màu trắng của bột lúa mì trong những năm được mùa. Nàng bước lên những bậc thềm, cửa đền rổn rảng mở ra nghe đinh tia nhức óc, và nàng khoan thai tiến vào tòa chánh điện, hai bên tường đầy những chữ tượng hình chép lại lời sấm của cổ nhân về tương lai nhân loại.
Dù là Nữ Thần cao cả, dù là Nữ Hoàng oai phong, hay dù là một cô gái dâm đãng bất cần thiên hạ, Cléopâtre cũng không khỏi rờn rợn khi đối diện với Thần của các Thần trong bầu không khí thâm nghiêm từ ngàn xưa để lại này.
Tượng Thần Serapis làm bằng cẩm thạch và vàng, cao gấp ba người thường, sừng sững ngự trong tòa đại điện. Bức tượng như toát ra quyền lực vô biên, nghiêm trang nhưng hòa ái. Đặc biệt nhất là bộ râu quăn dài tới đầu gối và hai cánh tay dang ra trong một cử chỉ bao dung nhân ái. Vầng ánh sáng từ khung cửa nhỏ trên mái đền rọi xuống chiếc miệng chạm trổ công phu sơn bóng khiến người ta có cảm tưởng như cặp môi đang rung động trong một chiếc hôn hòa bình hoặc một lời hứa muôn đời còn văng vẳng.
Phía trước bức tượng là chiếc bàn thánh khắc hình mười hai cung hoàng đạo, ở giữa là một đĩa dầu đang cháy và những bình vàng chứa máu của các con vật tế thần, rượu, lúa mì, nước sông Nil, và bảy thứ trầm hương Ả Rập, mùi thơm xông lên choáng váng.
Đã tới lúc Quan Chủ Tế gỡ tấm vải che mặt. Gỡ xong, ông khum người gần ngọn lửa và bắt đầu đổ vào đó lúa mì, rượu, nước và các thứ hương thơm.
Cléopâtre phủ phục trước vị Thần, trong khi Quan Chủ Tế đọc lời thỉnh nguyện đơn sơ nhưng thiết thực của toàn dân Ai Cập: "Hỡi Thần Serapis với quyền năng tạo gió, hãy giải thoát những vùng nước đọng cho giòng sông chảy mãi!"
Trong giây phút ngắn ngủi quỳ trước mặt thần, Cléopâtre đã khấn nguyện cho toàn dân và cho riêng nàng. Mùa gặt của Ai Cập hay những cao vọng của nàng lúc này quan trọng ngang nhau.
Buổi lễ chấm dứt, các nữ tu đỡ Nữ Hoàng đứng dậy, trong khi cánh cửa đền lại mở rộng để đón ánh dương quang. Nữ Hoàng bước ra đứng trước cửa đền. Tiếng kèn trỗi lên báo hiệu Nữ Hoàng sắp có lời phán cùng toàn thể quốc dân: "Nhờ ơn thần Serapis, Ai Cập chúng ta sẽ được hưởng vinh quang và thịnh vượng. Nước sông Nil sẽ tưới nhuần khắp chốn, đồng lúa sẽ xanh tươi và dân chúng ấm no!"
Tiếng hoan hô vang trời dậy đất, muôn người đều hớn hở nối đuôi nhau đi theo loan giá đến tận Hoàng Cung. Những kẻ đi gần nhất nếu tinh mắt sẽ thấy nét mặt Nữ Hoàng lúc này bớt đăm chiêu hơn trước, môi nàng phảng phất nụ cười bí ẩn. Nhưng họ không thể biết được rằng trong lúc hành lễ nàng đã khấn nguyện xin thần linh hãy đem Marc Antoine, đương kim chúa tể La Mã, đặt dưới chân nàng để Césarion, con nàng, có người phò tá. Thần không trả lời nhưng sự yên lặng chứng tỏ thần đã bằng lòng, và nàng sung sướng lắm.
22
Phải chăng Cléopâtre chỉ cầu nguyện cho con và cho xã tắc? Vẫn biết nàng là một người mẹ thương con, một nhà cai trị sáng suốt, nhưng nàng còn trẻ, còn cần cuộc sống cho riêng mình. Nàng cô đơn quá, cô đơn đến chết được. Từ ngày César vĩnh viễn ra đi, nàng mất một người bạn tình thâm trầm nhưng nồng nhiệt, một người bạn đường ý hiệp tâm đầu. César, con người kỳ quặc, vừa là chính trị gia quý phái, vừa là nhà thông thái khắc khổ, một tay chơi lão luyện, một mưu sĩ bạo tàn, một nhà cai trị quỷ quái, một ông chồng phản bội, một sử gia lỗi lạc, một gã sở khanh phóng đãng, một kẻ chuyên dụ dỗ gái lành. Và César, con người đã chiếm trọn quả tim và lòng tin mãnh liệt của Cléopâtre. Nhiều lúc nàng đau đớn nghĩ rằng chính nàng là nguyên nhân đưa đến cái chết của ông, sự hiện diện của nàng tại La Mã đã khiến ông nhiều thù hơn bạn. Nhưng nàng không ân hận, và nàng chắc César cũng không ân hận. Người ta có thể hy sinh thật nhiều để đổi lấy những phút giây trọn vẹn, để có được những kỷ niệm êm đềm mà mỗi lần nhớ tới còn cảm thấy bồi hồi sung sướng.
Trước kia nàng chỉ để ý tới ngôi vị Nữ Hoàng, danh thơm Thần Nữ, nhưng giờ đây nàng mới biết những thứ này hoàn toàn giả tạo, không thể đem lại cho nàng những cảm xúc chân thành như tình yêu mà nàng đã dành cho người đàn ông phi thường César. Nàng đã may mắn gặp ông, sao trời không cho nàng may mắn sống với ông mãi mãi. Oái oăm thay Césarion con nàng càng lớn càng giống cha đến độ chua chát, biết đến bao giờ nàng mới quên được ông đây? Lòng nàng thật rối như tơ vò, nàng biết chia xẻ cùng ai? Họa chăng là người đó cũng biết rõ về César, có thể cùng nàng ôn lại sự khôn ngoan, chững chạc, những nét cười, điệu bước của ông... Và dĩ nhiên người đó phải là đàn ông, vì nếu là đàn bà chắc sẽ bị nàng xé ra từng mảnh.
Có lẽ thần linh muốn chiều lòng nàng, cho nàng gặp người nàng muốn gặp. Sáu tháng sau trận đánh tại Philippes, nghĩa là khoảng mấy hôm sau ngày hội Thần Serapis, một sứ thần của Marc Antoine tới yết kiến nàng tại Hoàng Cung.
Marc Antoine rất khéo chọn người. Sứ thần là Quintus Dellius, một gã bảnh bao, học thức, khôn ngoan, hoạt bát, tinh quái, và biết ép mình theo thời thế. Gã đúng là mẫu người phù thịnh, sẵn sàng đổi chủ để cầu vinh. Trước kia gã là thuộc hạ của thủ lãnh phản loạn Cassius, hiện thời là đầy tớ "tâm phúc" của Antoine, chuyên lo kiếm gái cho chàng.
Ngoài ra gã còn là mật báo viên cho mụ vợ cọp cái Fulvie của chàng. Gã báo cáo cho mụ tất cả tin tức về chàng, từ những trận đánh khốc liệt trên chiến địa cho tới những cuộc đấu sức tàn bạo trong tình trường. Antoine vô tình không biết điều này, nhưng Cléopâtre biết hết nhờ những tay gián điệp kỳ tài.
Không hiểu vì sự khéo léo của gã, hay vì Cléopâtre đã có chủ ý, gã được nàng tiếp đãi niềm nở, và khi gã ngỏ lời mời nàng đi Tarse gặp Antoine, nàng vui vẻ nhận lời ngay.
Thế rồi Cléopâtre sửa soạn một cuộc viễn chinh không bằng đao kiếm mà bằng một thứ khí giới bí mật. Nàng ra lệnh chất lên hạm đội riêng của nàng hàng mấy trăm rương vàng bạc châu báu, một ngàn tinh binh và hàng trăm nô lệ. Đó là chưa kể những thứ rượu ngon, trầm hương quý giá, thực phẩm đắt tiền, lụa là, gấm vóc, màn trướng, áo quần... Bản liệt kê tưởng chừng vô tận. Ra đi lần này nàng quyết chí làm mờ mắt Antoine, lôi kéo bằng được viên tướng khổng lồ dũng mãnh đó về phe mình để có phương tiện trả thù cho César và đưa Césarion lên ngôi chí thượng.
Tuy nhiên cho đến lúc này nàng vẫn chưa nắm vững được vấn đề, chưa biết sẽ phải hành động ra sao, vì Antoine ngày nay là lãnh tụ của Tam Đầu Chế La Mã chứ không còn là một phó tướng tầm thường như xưa nữa. Nàng không hề biết rằng Antoine không có ý chí và chiều sâu như César. Antoine nhạy cảm hơn César nhiều, sẵn sàng phởn chí nghe lời nịnh hót của bọn theo đóm ăn tàn. Cộng thêm những thành công rực rỡ, chàng hiện đang tưởng mình như đang bay bổng trên trời.
Ở tuổi bốn mươi chàng đã đạt được tột đỉnh vinh quang. Chàng không còn nhận mình là dòng dõi của Thần Sức Mạnh Hercule nữa, vì như thế tầm thường quá. Chàng thích mình là hiện thân của Thần Vương Jupiter cho gần với Thượng Đế hơn. Chàng bắt đầu tập cách đứng ngạo nghễ của các vị thần, dùng ánh mắt loang loáng để áp đảo tinh thần những người đối diện. Lúc chàng tỉnh táo, vẻ oai phong của chàng khiến người ta phải run sợ, đâu có ai ngờ rằng chỉ một lát sau chàng đã khề khà bên hũ rượu, bình dân đến độ khôi hài.
Một trở ngại lớn trong đời Antoine là chàng thiếu cương quyết. Chàng rất hay gặp trường hợp phải chọn lựa giữa con đường chính trị và con đường đam mê dục vọng. Hầu như chàng luôn luôn chọn con đường thứ hai, vì hấp dẫn hơn. Nói cách khác, chàng là người có học nhưng không học thức. Sự hiểu biết của chàng nặng về vật chất hơn tinh thần. Là một thần tượng giữa nơi trận mạc, chàng có thể nằm gai nếm mật, ăn rễ cây, uống nước ao tù, ngủ trên nền đất lạnh; nhưng sau trận đánh chàng thường tự thưởng cho mình những cuộc vui quá lố, ăn uống, phá phách, dâm loạn đến mức tối đa.
Sau chiến thắng tại Philippes, chàng đã tận hưởng những của lạ miền đông, những vưu vật phương bắc. Giờ đây chàng muốn đổi món. Chàng tha hồ chọn lựa: Hy Lạp, Tiểu Á, Ai Cập.
Những bông hoa Hy Lạp tuy nõn nà đẹp đẽ, nhưng mùi vị đã quá quen với chàng, chẳng còn gì hấp dẫn. Chàng vội vã đi Á Châu khám phá những huyền bí tại đây. Thành phố mà chàng chọn lựa là Antioche, thành phố quan trọng hạng ba trên thế giới sau La Mã và Alexandrie, nhưng hạng nhất về ăn chơi trác táng. Khi thuyền tiến vào hải cảng, chàng kêu lên với viên phó tướng:
– Ngươi trông kìa. Cả thành phố như treo trên sườn núi!
Chàng nói đúng. Thành phố như lơ lửng bên sườn núi với những thành lũy khổng lồ ăn sâu vào vách đá. Dưới là giòng sông Oronte, trên là nhà cửa san sát xây bằng đá trắng long lanh, thành phố trông vừa nên thơ vừa huyền ảo. Từ khi thành Athènes của Hy Lạp suy vi, các nhà buôn lớn về lập nghiệp tại Antioche rất đông. Dù La Mã hay Alexandrie cũng chưa chắc đã quy tụ nhiều sắc dân đến thế.
Tiểu Á là xứ đồi trụy nhất thế giới, còn Antioche là thành phố đồi trụy nhất Tiểu Á. Đủ loại gái điếm từ khắp các xứ đến tụ tập tại đây. Vào ngày hội Nữ Thần Maia, vô số gái khỏa thân tay cầm đuốc và gậy hoa chạy nhông ngoài đường, kêu gọi bọn đàn ông hãy theo họ tới các vườn cây hoặc hồ nước để ăn mừng ngày hội sinh sản. Dĩ nhiên bọn đàn ông hưởng ứng nhiệt liệt.
Thật đúng là thiên đường của Antoine. Vừa tới nơi, chàng vứt bỏ ngay lối trụy lạc đơn sơ của người Hy Lạp để trở thành bậc vua chúa, ăn chơi theo kiểu đế vương.
Nhưng ở mãi một chỗ cũng chán, chàng tiếp tục cuộc phiêu lưu tìm hoa thơm cỏ lạ. Tại mỗi thành phố mà chàng ghé vào, chàng lại được thưởng thức một thứ khoái cảm mới, càng ngày càng mở rộng tầm mắt trong địa hạt dâm ô.
Và cuối cùng chàng quyết định lưu lại Tarse, một hải cảng trù phú thuộc xứ Silicie, dưới chân rặng Taurus phía đông Địa Trung Hải.
Nằm tại cửa sông Cydnus, thành phố mơ mộng Tarse thường gợi lại những kỷ niệm chua chát cho quân La Mã, vì đây từng là điểm xuất phát của nhiều cuộc tiến quân đánh chiếm xứ Parthie, mà lần nào cũng thất bại. Từ trước đến giờ, Parthie là xứ duy nhất có thể kháng cự được uy lực ghê hồn của La Mã và Alexandrie.
Bản tính trẻ thơ trong óc Antoine vùng dậy khi chàng quyết định chọn thành phố này làm nơi ăn mừng các chiến thắng của La Mã để bù lại những thất bại ê chề của những người đi trước. Chàng bắt các Vua chư hầu lần lượt đến ra mắt: Vua thành Antioche, Vua thành Sysima, Lãnh Chúa Pamélon, Vua Hérode của xứ Judée, Vua Adallus xứ Sidonie, Tù Trưởng các đất Lycaonie và Pont...
Trong một ngôi lều tráng lệ, Antoine tiếp đón các Vua chư hầu rất tưng bừng, ban phát ân huệ cả cho họ lẫn vợ và con gái họ. Dần dần các vị này khám phá ra rằng mỗi khi vào gặp chàng, họ nên đem theo vợ và con gái, hoặc tốt hơn hết nên cử vợ và con gái đi thay.
Kết quả, người đẹp Glaphyra của xứ Phrygie xin được chiếc ngai vàng cho đứa con trai của nàng. Người vợ góa của Aristobule làm đẹp lòng Antoine đến độ chàng hứa cho nàng làm Nữ Chúa (của xứ nào sáng hôm sau chàng cũng không nhớ nữa). Ngay cả Marianne vợ cưng của con cáo già Hérode, Vua xứ Judée, chẳng ngon lành gì cũng được chàng ưng thuận những điều mà mụ cầu xin cho chồng.
Chỉ có mình Cléopâtre không tới. Điều này khiến Antoine vừa căm tức vừa khó chịu nôn nao. Kể từ buổi gặp mặt cuối cùng sau đêm rằm tháng ba kinh hoàng đó, chàng bắt đầu ấp ủ hình bóng nàng, nhớ nhung vẻ đẹp, vẻ đài trang, và những nét ủ dột não lòng của nàng. Nhưng thực sự nàng ra sao chàng chưa biết, và đang muốn biết. Chàng tự hỏi nàng có cảm tình gì với mình không? Ngày đó nàng hờ hững với chàng, nhưng biết đâu đó chỉ là giả tạo vì sợ César ghen. Riêng về mặt tình ái, chàng chủ quan đến chết vẫn không chừa.
Chàng đã nhiều lần cho vời nàng tới, nhưng nàng đều lạnh lùng từ chối, làm như thể nàng là một nữ vương độc lập, chẳng có chút liên quan gì đến Đế Quốc La Mã như thế giới lầm tưởng. Đến nỗi cuối cùng, chàng phải phá bỏ thông lệ, gửi một sứ thần đặc biệt tức Quintus Dellius đến Alexandrie "mời" nàng theo đúng nghi thức.
Và giờ đây Dellius lật đật trở về, hớn hở với cái tin Nữ Hoàng Ai Cập sắp tới. Antoine cười lớn, uống rượu ăn mừng, và chạy tới trước gương ngắm nghía lại bộ dạng. Thấy mình bảnh trai hơn bao giờ hết, chàng nhảy lên vui sướng.
23
Antoine được mời đến xử án tại chợ Tarse. Trời sáng tinh sương, không khí trong lành, thình lình người ta nghe tiếng reo hò từ hải cảng vọng vào.
– Chuyện gì vậy?
Antoine nhăn mặt hỏi viên phó tướng có thân hình vạm vỡ. Đêm rồi chàng khó ngủ, tiếng ồn ào làm chàng khó chịu.
Phó Tướng Gellius chạy đi một lát rồi trở lại:
– Họ điên mất. Họ nói Thần Vệ Nữ con gái thần Zeus đã đến.
– Đã đến? Bằng cách nào?
– Trên một chiếc du thuyền lộng lẫy, đang từ hải cảng tiến vào.
Antoine cau có:
– Theo ngươi thì sao? Đúng nàng không?
Gellius đáp một cách thận trọng:
– Có lẽ không phải đâu.
Lúc này tiếng la ó lại càng vang dội.
– Tốt hơn chúng ta ra đó xem sao.
Antoine đứng dậy bỏ đi, không xử án để mặc số phận của người đàn ông can tội đánh chết hai người vợ chưa đủ bằng cớ.
Chàng lững thững tiến về phía hải cảng. Nơi đây đám đông đang lớn tiếng tán dương một chiếc thuyền lớn cực kỳ lộng lẫy đang tiến vào bờ.
Lộng lẫy cũng phải, vì đó là chiếc thuyền của Cléopâtre.
Sau khi tuần du dọc bờ biển Syrie, băng qua vịnh Issus, chiếc thuyền đã vào cửa sông Cydnus sáng nay và hiện đang lừng lững tiến vào gần bờ.
Vẻ tráng lệ của chiếc thuyền vượt quá sức tưởng tượng của người dân Tarse. Những cánh buồm mầu đỏ tía, thứ mầu đỏ đặc biệt của thành phố Tyr. Dân chúng ven Địa Trung Hải quen gọi "Cánh Buồm Đỏ" để chỉ chiếc thuyền của Nữ Hoàng với vẻ ngưỡng mộ trầm trồ. Đó chính là điểm nổi bật của chiếc du thuyền không tiền khoáng hậu.
Đứng trên bờ người ta có thể trông thấy những "hải nữ thần" đứng sát bên cột buồm đang xòe quạt và tung những cánh hoa hồng.
Những cánh buồm bằng lụa dày. Sàn thuyền lót nhung đỏ thẫm, năm mươi thay chèo ngồi thành ba hàng nhịp nhàng đưa những mái chèo nạm bạc lấp loáng theo tiếng nhạc. Một chiếc kiệu hình con sò vàng có mái che bằng vải kim tuyến hiện ra trên khoang thuyền. Vị Nữ Hoàng nằm trên kiệu, mình phủ hờ chiếc áo mỏng dính khiến người trên bờ cũng có thể mường tượng thấy tấm thân mịn màng. Một luồng gió nhẹ mang vào đất liền mùi trầm hương pha lẫn mùi quế vị và đám đông đang la hét như ngất ngây: "Thần Vệ Nữ đấy! Thần Vệ Nữ đến thăm Thần Bacchus!" Thần Bacchus tức là Antoine.
– Ai vậy nhỉ?
Gellius ngạc nhiên hết sức, cái ngạc nhiên háo hức của một người con trai khi nhìn thấy sắc đẹp mê hồn.
– Cléopâtre!
Antoine đáp cộc lốc, nửa mừng được gặp lại người ngọc, nửa tức giận vì không ngờ nàng đến đây bằng cách phô trương đó.
Các vị Vua và Nữ Hoàng khác khi đến ra mắt chàng đều khiêm cung, đều nhìn xuống và cúi đầu thật thấp. Còn nàng, mắt hờ hững nhìn vào bờ, không phải để chào người mà là để chờ người chào kính.
Phó Tướng Gellius vẫn tiếp tục nhìn trân trối. Antoine bực mình gắt:
– Thôi, đi về!
Rồi chàng quay mình bỏ đi, nét mặt rầu rĩ, không buồn nói một lời trên suốt quãng đường về dinh. Về đến nơi, chàng bảo quân hầu mang giấy mực (thứ giấy đặc biệt làm bằng cây Chỉ Thảo mọc bên bờ sông Cydnus) để chàng viết thư mời Nữ Hoàng đến dùng tiệc chiều hôm đó. Chàng viết một cách khó khăn vì viết không phải nghề của chàng. Khi trao thư cho viên phó tướng, chàng giải thích cũng với vẻ khó nhọc:
– Chắc ngươi hiểu, đôi khi mình cũng phải đối xử đặc biệt, chư hầu cũng có nhiều loại. Thế thôi.
Nửa giờ sau Gellius quay trở vào. Chàng ngạc nhiên về lời báo cáo của y. Nữ Hoàng Ai Cập cám ơn lời mời của chàng, nhưng nàng lấy cớ thuyền nàng đang neo ở một vùng biển trung lập, yêu cầu được quyền thết đãi chàng trước.
Vụ này ra ngoài thông lệ. Cách xử sự của nàng vượt quá quyền hạn của một chư hầu. Chàng phân vân suy nghĩ, ngón tay rắn chắc gõ nhẹ trên mặt bàn. Cuối cùng chàng quyết định: mình đã lỡ hạ mình mời nàng thì cũng có thể hạ mình nhận lời nàng mời.
Cléopâtre phải bỏ ra nhiều thời giờ để trang điểm trước khi dự tiệc, đây là một việc quan trọng và phức tạp kinh khủng đối với nàng.
Giờ tắm đối với Cléopâtre là một trong những giờ trọng đại trong ngày. Nàng luôn luôn chờ giờ này vì đây là lúc nàng có thể tự chiêm ngưỡng sắc đẹp của mình.
Nước trong bồn tắm cẩm thạch vừa đủ ngập mình nàng, nhưng vẫn để lộ những đường nét tuyệt vời của tấm thân ngà ngọc. Đôi chân duỗi thẳng như dài thêm ra dưới làn nước trong xanh thơm phức. Cặp hông khiêu gợi não nề, chiếc bụng hơi phồng lên mũm mĩm, chiếc eo thon mịn màng chắc nịch, tất cả là những tuyệt phẩm của bàn tay tạo hóa. Nàng cúi đầu tựa cằm trên làn da cổ trắng mịn và ngắm nghía bộ ngực căng cứng hơi nhọn của mình, bộ ngực không cần đến dụng cụ nhân tạo để đỡ lên như những mệnh phụ La Mã. Thân hình nàng gọn ghẽ và nhẹ nhàng đến độ chỉ cần chạm hai đầu ngón tay xuống đáy bồn, nàng có thể nâng người mình lên dễ dàng.
Thả mình bồng bềnh trên mặt nước, nàng có cảm giác của một vị thần linh phiêu diêu trên tất cả bàn dân thiên hạ. Nàng buông tay ra, tấm thân lại chìm xuống.
Nàng cẩn thận ngắm nhìn từng chút tấm thân kiều diễm của mình: làn da trong như ngọc, mỗi phần mang một nét mỹ miều... Nàng chợt hỏi một cách ngây thơ:
– Charmian, ta vẫn còn dễ thương chứ nhỉ? Phải chăng kể từ ngày Đại Soái yêu dấu của ta mất đi không một gã đàn ông nào ở La Mã hay trên thế giới này đáng mặt đặt tay lên thân hình này? Chẳng kẻ nào xứng đáng chia xẻ nỗi lòng thầm kín của ta?
Không đợi câu trả lời vì có lẽ nàng biết trước nó sẽ ra sao, nàng ra hiệu cho mấy thị nữ dìu nàng đứng dậy. Các thị nữ quấn quanh người nàng một chiếc khăn thật êm ái và đặt nàng trên một chiếc sập để gã nô lệ da đen ra tay chà xát, mang lại cho nàng những cảm giác nóng rần thích thú.
Nàng nằm nghe máu chảy trong người dưới những ngón tay thoăn thoắt, nàng nhủ thầm: "Không một người đàn ông nào đáng mặt đặt tay trên thân xác ta, tuy nhiên ta sẽ không từ chối nếu gặp được người vừa ý. Chắc César yêu dấu của ta sẽ không nguyền rủa ta vì một người đàn bà trẻ không thể nào sống cô đơn mãi được..."
Ý nghĩ của nàng bị gián đoạn khi hai thị nữ bắt đầu xoa dầu lên khắp người nàng, một thứ dầu mua tận Sidon.
Sau đó nàng ngồi tựa mình trên sập để một thị nữ thoa kem trắng pha dầu hoa lài trên đôi tay nhỏ nhắn, một ả khác dùng phấn ngọc trai đánh bóng những móng tay mầu hồng, và một ả thứ ba sơn móng chân mầu đỏ chói.
Trong khi bọn thị nữ lăng xăng trang điểm, nàng thầm nghĩ: "Chắc chắn đôi bàn tay dễ thương thế này không phải chỉ dùng để xoa đầu con. Vậy ta mất công trang điểm cho đẹp, cho hấp dẫn là để làm gì nhỉ?"
Tiếng trả lời của César như vang lại từ bên kia thế giới: "Để làm vui lòng thần linh, để tưởng nhớ đến ta, và để xứng đáng là một Nữ Hoàng lộng lẫy!" Câu trả lời hơi làm nàng bẽ bàng cụt hứng.
Iras, cô gái Ba Tư chuyên lo việc chải tóc, lễ phép mời:
– Mời Lệnh Bà sang bàn trang điểm.
Tại bàn trang điểm, cô gái lau khô tóc nàng và sửa soạn chải bới. Dưới vùng ánh sáng chan hòa, mầu tóc ẩm ướt của nàng ánh lên lóng lánh.
Cô gái xoắn mái tóc hai vòng và cài kim vàng để giữ cho khỏi tuột, đoạn dùng dây nơ mầu xanh lá cây cột lại cho thật chắc.
Cléopâtre nhìn trong gương theo dõi việc trang điểm một cách thích thú nhưng không tò mò như mọi khi. Ngày thường Iras, người thợ chải tóc điêu luyện luôn luôn sáng chế những kiểu tóc mới, vừa làm vừa cắt nghĩa cho nàng nghe. Còn hôm nay thì phải làm tóc theo kiểu cũ cho hợp nghi lễ và dễ đội vương miện. Làm tóc xong, người thợ trang điểm mang ra một chiếc hộp lớn, lấy bút tô thẫm mi mắt của Nữ Hoàng, hóa trang cho mi mắt dài thêm ra, đoạn dùng phấn hồng thoa lên má và ngực, đánh phấn trắng dọc cánh tay và xung quanh cổ, sau đó tô son đỏ lên môi và núm nhũ hoa. Giờ chỉ còn tô điểm thêm ba lằn nếp ở ngang eo, hai vết núm đồng tiền ở phía trên mông, và thoa hồng hai khuỷu tay. Công việc thế là xong. Mỹ nhân được chau chuốt, đẽ đẹp lại càng thêm lộng lẫy.
Bây giờ đến lượt những nữ tì lo việc quần áo. Họ đem vào một rương lớn đầy quần áo xếp ngay ngắn không một vết nhăn. Từng chiếc được mang ra để Nữ Hoàng lựa chọn, và nàng đã chọn một chiếc áo dài mầu ngọc bích có nút cài ở vai bằng hồng ngọc. Nàng hỏi thị nữ Charmian:
– Chiếc này tuyệt! Ta đã thấy nó lần nào chưa nhỉ?
– Tâu Lệnh Bà, chưa. Đây là thứ lụa dệt ở Sidon, dệt xong rồi mới thêu hoa.
Cléopâtre rất hài lòng khi thấy tay áo và bụng áo chỉ là những sợi tua khiến tay và bụng nàng hở nhiều hơn kín.
Nàng đã chọn xong đôi hài vừa ý, loại hài làm bằng da dê trắng mịn, viền vàng, khuy cài hình bọ cam có cánh.
Sau cùng một thị nữ đeo cho nàng những chiếc vòng quý giá và một đôi hoa tai hồng ngọc hình trái lê.
Cléopâtre đã trang điểm xong để dự tiệc.
24
Lúc mặt trời lặn, một rừng người xuống tận mé biển để ngắm chiếc du thuyền đang từ từ cập bến. Những cánh buồm đã được thả trùng xuống. Người tài công đứng thẳng người phía sau lái, dưới chiếc mui hậu hình đầu voi mạ vàng. Âm thanh dìu dặt của những mái chèo bịt bạc nhẹ khua trên mặt nước lẫn với tiếng thụ cầm và tiếng sáo, hòa thành một khúc nhạc mơ hồ dậm dật. Vị Nữ Hoàng Ai Cập đang ngả mình trên chiếc giường nệm đỏ sau bức màn lụa vàng, thị nữ vây quanh phe phẩy những chiếc quạt lông đà điểu. Chiếc lư hương trên thuyền tỏa khói thơm ngào ngạt.
Thuyền vừa cập bến, Antoine hiên ngang bước lên. Chàng mang giáp bạc, mặt và râu thơm ngát nước hoa. Theo sau là đoàn tùy tùng.
Chàng thầm nghĩ nếu có hỏi tại sao Nữ Hoàng không chịu đến ra mắt chàng, chắc chắn nàng sẽ không trả lời. Rõ ràng nàng tiếp chàng như một người ngang hàng, thân mật nhưng đúng lễ nghi. Nàng có phong cách của một vị thần linh khiến Antoine phải đem hết tài diễn xuất ra để khỏi làm những điều thất thố.
Sắc đẹp của Cléopâtre càng dội hơn lên bên cạnh những cánh buồm, những tấm thảm, tiếng nhạc êm ái, mùi hương dịu dàng, và ánh sáng chập chờn huyền ảo của buổi hoàng hôn. Antoine say mê nhưng cũng hơi lúng túng. Chàng thầm nghĩ chưa bao giờ mình được gặp một "ả" vừa thần bí vừa khêu gợi thế này.
Phó Tướng Gellius có hứa sẽ tả lại cảnh này cho đám bạn bè ở nhà nghe, nhưng gã không tìm được tiếng để diễn tả hết ý.
– Các anh chưa bao giờ thấy một cảnh như vậy trong đời mình đâu! Nữ Hoàng dắt tay Chủ Tướng, và bọn tôi đi theo xuống phòng tiệc. Một phòng tiệc lớn, tôi có thể nói như vậy! Các anh có thể tưởng tượng một sảnh đường trên một chiếc thuyền không? Một chiếc giường lớn được kê thật cao dành cho Nữ Hoàng và Chủ Tướng, mười hai chiếc khác xếp vòng quanh cho khách. Tất cả đều có lưng tựa và vải lót bằng lụa mang mầu sắc Đông Phương. Bàn tiệc đầy những đĩa vàng dát ngọc, những ly rượu chạm trổ tinh vi...
Một sĩ quan lẩm bẩm:
– Những thứ đó đủ để đài thọ một chuyến thám hiểm quần đảo Indes...
Gellius sửa lại:
– Hai chuyến mới đúng! Còn cả những màn treo tường nữa... Sàn thuyền thì lót bằng hoa hồng.
Những người nghe tỏ vẻ nghi ngờ:
– Hoa hồng thật hả?
– Hoa thật, còn tươi như mới hái, chắc phải ướp lạnh, các anh chưa bao giờ thấy đâu.
– Chắc Chủ Tướng thích lắm nhỉ?
Gellius hạ thấp giọng một cách chân thành:
– Giữa bọn mình với nhau tôi mới dám nói, Chủ Tướng làm bộ bình thản, nhưng có một lúc ông phải buột miệng kêu lên "Cléopâtre, cảnh này lộng lẫy quá!".
– Và nàng nói gì?
Gellius đáp gọn gàng:
– Nàng bảo "Tặng Tướng Quân đó".
– Sao? Tặng tất cả?
Gellius gật đầu:
– Nàng nói "Tất cả là của Tướng Quân", và nàng nói thật.
Một sĩ quan trẻ kêu lên:
– Chưa thấy người đàn bà nào chịu chơi như vậy!
Sau khi đã thấm men rượu lẫn men tình, Antoine ngỏ lời mời Nữ Hoàng đến dự tiệc tại tư dinh chàng vào đêm hôm sau, nhưng Cléopâtre chỉ nhìn chàng với đôi mắt mê hoặc:
– Xin để thiếp khoản đãi Tướng Quân theo đúng chương trình đã dự liệu. Đêm mai xin mời Tướng Quân cùng tất cả thuộc tướng tại soái phủ đến đây một lần nữa. Tướng Quân đừng từ chối nhé.
Antoine như kẻ mất hồn, gật đầu ưng chịu.
Và chiều hôm sau thầy trò Antoine lũ lượt kéo tới dự một bữa tiệc chưa từng có.
Các thực khách đều được tặng những chén dĩa cẩn ngọc mà họ đã dùng, những chiếc giường mà họ đã ngả lưng trong khi ăn uống, và cả những chiếc kiệu cùng quân hầu đã đưa đón họ. Riêng với các vị tướng dưới quyền Antoine, nàng tặng những con ngựa Ả Rập cực quý, mình mang giáp vàng sáng rực.
Sáng hôm sau Antoine có vẻ uể oải, nhưng không hẳn vì men rượu tối hôm trước. Chàng như có điều khó nghĩ, nói:
– Khắp thành phố Tarse này, biết tìm đâu ra những phương tiện để thết tiệc đáp lễ Nữ Hoàng cho tương xứng? Thật là rắc rối... Thôi thì đành lo hết sức mình, tới đâu hay tới đó vậy.
Và chàng lo hết sức thật, nhưng cũng chẳng đi tới đâu. Bữa tiệc nghèo nàn đến độ chàng cảm thấy mình lố bịch và phải hết lời xin lỗi. Cléopâtre có cảm tưởng đang dự một bữa khao quân ngoài trận địa, hơn là một bữa tiệc giữa chốn cung son. Nàng chợt xót xa nhớ tới César. Ngày xưa nàng cũng từng dự với ông những bữa tiệc đơn sơ như thế này, nhưng vẻ khôn ngoan hoạt bát của ông thường làm bữa tiệc vui hẳn lên, ngon hơn gấp bội...
Tuy nhiên, trước mặt Antoine, nàng vẫn tỏ ra hết mình thưởng thức những món ăn tầm thường của chàng. Nàng còn tìm cách khiêu khích chàng, tống tình chàng, khiến chàng mỗi lúc một bàng hoàng, lòng ngưỡng mộ và thèm muốn bốc lên ngùn ngụt.
Những đêm ở Tarse đó đã đi vào lịch sử. Vào chiều ngày thứ tư, Cléopâtre lại mời tất cả các cấp chỉ huy dưới quyền Antoine tới dự tiệc. Thêm một bữa tiệc đặc biệt khác khiến thực khách lác mắt. Sàn phòng ăn được trải một lớp dày những cánh hồng tươi, phía trên phủ lưới để giữ. Nghe nói tấm thảm bằng hoa hồng này trị giá khoảng mười ngàn Anh Kim!
Trong khi Antoine mỗi lúc một thêm ngơ ngẩn như trên trời rơi xuống, Cléopâtre vẫn tỉnh táo như thường. Nàng cần phải tỉnh táo hơn bao giờ hết để đưa chàng vào mê hồn trận. Nàng muốn lung lạc chàng, thuyết phục chàng phải thay nàng – và Césarion con nàng – đứng ra đương đầu với gã mặt mụn gớm khiếp Octave. Nàng rất tin tưởng ở Antoine vì nàng vừa được mật báo viên cho biết kể từ khi gã mặt mụn tỏ ra bất tài trong chiến dịch Philippes, quân đội La Mã hoàn toàn ủng hộ Antoine.
Để đạt mục đích, nàng tận dụng những mánh khóe chinh phục đàn ông mà nàng được biết nhờ kinh nghiệm, nhờ đọc sách, và nhờ bản năng thiên phú. Nàng biến chàng thành một anh khờ, nhờ sự tế nhị, hoạt bát, mơn trớn, dụ hoặc, và sắc đẹp trời cho của nàng.
Nàng biết rằng không thể bắt một người đàn ông chờ đợi quá lâu khi người đó đã đẫn đờ vì thèm muốn. Lúc này Antoine đã bị nàng hớp hồn, nàng nói gì chàng cũng phải nghe. Ngoài tấm thân mời mọc, nàng còn đem cả những xa hoa, những kho tàng vô tận của Ai Cập ra làm mờ mắt chàng. Nàng muốn chàng hiểu rằng chàng sẽ có một hậu thuẫn mạnh mẽ về tài chánh nếu chàng bằng lòng đứng ra chống đối gã mặt mụn dùm nàng.
Nhưng trong lúc thuyết phục chàng, nàng đã phạm một lỗi lớn. Nàng yêu cầu chàng giết hộ Nữ Hoàng Arsinoé, em gái nàng, vì Arsinoé đã giúp Brutus chống Antoine (Sau khi César chết, Arsinoé đã trốn sang Tiểu Á và lánh nạn tại ngôi đền Diane trong thành Ephèse vì sợ Cléopâtre trả thù). Chị đòi giết em là một chuyện khiến Antoine phải lạnh gáy. Chàng cố khuyên can Cléopâtre mà không được. Cuối cùng vì quá mê muội trước sắc đẹp của nàng, chàng đành sai người giết Arsinoé ngay trên những bậc thềm trước tế đài của ngôi đền cổ kính.
Vụ này khiến Antoine bắt đầu gờm Cléopâtre, tình thân cũng vì đó mà suy giảm. Nhưng đến khi nàng quyết định trở về Ai Cập, chàng lại sốt sắng hứa rằng sẽ nối gót nàng vài tuần sau đó. Chàng không quen sống xa đàn bà, nhất là khi khát vọng đã ngập tràn cơ thể. Cléopâtre biết chàng sẽ tới. Và chàng tới thật.
Người dân ở Alexandrie lại thêm một lần thắc mắc. Họ còn nhớ rõ trước kia một vị tướng La Mã tên César đã tới đây dưới lốt một nhà chinh phục, để rồi ở lại đây, yêu Nữ Hoàng, lấy Nữ Hoàng, sanh một người con, được tôn làm thần, trở về La Mã để nối liền hai Đế Quốc, và bị giết nửa chừng. Giờ đây lại một vị tướng La Mã tìm tới. Phải chăng lịch sử sắp tái diễn?
Khi lý do cuộc thăm viếng của Antoine được loan báo, người dân Alexandrie thở phào mừng rỡ. Thì ra chàng đến để đáp lễ Nữ Hoàng của họ với tư cách một người bạn. Họ quyết định làm cho chàng một cuộc tiếp rước trọng thể. Thật ra họ chẳng cần phải lo, vì Nữ Hoàng của họ đã sắp sẵn một chương trình đãi khách đồ sộ. Nàng nhất định chứng tỏ cho Antoine thấy những bữa tiệc sang trọng tại Tarse ngày nào chỉ là đồ bỏ. Nàng treo giải thưởng cho bất cứ ai, thuộc bất cứ quốc tịch nào từ Hy Lạp đến các xứ Đông Phương, nghĩ ra cách tiếp đón tưng bừng nhất, tổ chức những cuộc vui hấp dẫn tân kỳ nhất.
Các đường phố tại Alexandrie mang bộ mặt mới nhờ những cổng chào, cờ xí và thảm lót đường. Cléopâtre đứng chờ vị khách quý tại bậc thềm trên cùng, ngay trước cung điện. Xung quanh nàng đủ mặt triều thần văn võ phẩm phục chỉnh tề, những lễ quan lo việc xông trầm hương cho bầu không khí thêm phần trang trọng.
Khi Antoine rời thuyền đặt chân lên thềm đá, Cléopâtre tung về phía chàng một nhánh nguyệt quế để tỏ dấu chúc mừng, rồi nàng bước xuống trịnh trọng đón chàng.
Antoine nghiêng mình chào nàng theo kiểu La Mã, rồi dang hai tay chiêm ngưỡng nàng theo kiểu Đông Phương. Với chiếc hộ tâm giáp chạm trổ tinh vi và chiếc áo choàng đỏ bay phất phới, trông chàng đẹp như một vị thần. Chàng dùng hai ngón tay nắm hờ tay nàng thật đúng cách và hai người sóng đôi bước lên những bậc thềm.
Rất có thể Cléopâtre đã đánh giá quá thấp bản lãnh chính trị của chàng. Nàng ngỡ rằng chàng đến đây là chỉ mong được ôm nàng, được dìu nàng lên giường. Nhưng sự thực, ngoài vấn đề cấp bách đó, chàng còn nhắm những mục tiêu lâu dài hơn: chàng muốn liên minh với Ai Cập trong một tư thế vừa công vừa thủ, với mục đích chính là dòm ngó kho tài nguyên vô tận của xứ này cho riêng chàng chứ không phải cho La Mã. Với nguồn tiếp tế dồi dào của Ai Cập chàng sẽ có thể hạ độc thủ để loại bỏ gã mặt mụn Octave và trở thành lãnh tụ độc tôn của La Mã.
Tiếp đó, có lẽ khoảng mùa xuân năm sau, chàng sẽ mang đại binh chinh phục xứ Parthie rộng lớn. Lúc đó tên tuổi chàng sẽ bất diệt, La Mã sẽ rạng danh vì chàng, dân La Mã sẽ chẳng có lý do gì không tôn chàng lên ngôi báu. Chàng sẽ ung dung ngồi trên chiếc ngai vàng mà đáng lẽ trước kia César đã ngồi. Chàng sẽ cưới vị Nữ Hoàng trẻ đẹp của Ai Cập, ghép hai đế quốc rộng lớn lại với nhau, lập ra một triều đại mang tên chàng. Còn "Thái Tử" Césarion? Cứ từ từ rồi sẽ tính. Nếu một ngày kia Cléopâtre cũng sanh cho chàng một đứa con trai...
Antoine vừa đi bên cạnh Cléopâtre vừa miên man với giấc mộng đế vương. Thật là vỏ quít dày móng tay nhọn. Nàng thì muốn lợi dụng chàng làm công cụ giành giật chiếc ngai vàng cho Césarion, còn chàng thì rắp tâm chiếm đoạt nàng, chiếm đoạt luôn kho tàng của nàng, mượn đà bước lên ngôi báu và truyền ngôi cho con cháu mình.
Còn một lý do nữa, khẩn yếu hơn cả chuyện tình ái, đã khiến Antoine tới Ai Cập: tình hình khẩn trương tại La Mã. Hôm chàng rời Tarse, chàng được tin Fulvie vợ chàng và Lucius Antonius em chàng sắp sửa dốc toàn lực tấn công gã mặt mụn Octave. Chàng đã phân vân rất nhiều. Một đằng phải khởi binh đánh miền đông như đã giao ước với Ai Cập, một đằng muốn trở về La Mã để ngăn cản vợ và em đừng nhúng tay vào chuyện chính trị hoặc gây ra nội chiến. Nếu chàng trở về La Mã, coi như lỡ dở bản hiệp ước mà chàng đã dụng tâm ký kết với Ai Cập.
Cuối cùng chàng quyết định cứ để mặc La Mã xào xáo. Có lẽ chẳng sớm thì muộn thiên hạ sẽ giết nhau chết hết, để đất trống cho chàng dụng võ.
 Carlo Maria Franzero 
Vũ Hùng dịch
Theo https://vietmessenger.com/ 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...