Cao Bá Quát có tài văn chương
Uống rượu tiêu sầuNgán đời |
Cao Bá Quát có tài văn chương. Tài ấy được người khác trầm trồ: “văn như Siêu Quát…”, “thần Siêu thánh Quát”. Tài ấy cũng được chính Cao Bá Quát xác nhận: trong thơ ông xưng mình là “tài tử”. Cao Bá Quát có tài kinh bang tế thế hay không? Rõ ràng ông nghĩ là có. Trong thơ ông xưng mình là “anh hùng”, “hào kiệt”. Rồi đến khi nổi loạn, ông chọn làm “quốc sư”. Dĩ nhiên không thể lấy thành bại mà luận anh hùng, nhưng thiết tưởng trước sự thất bại quá nhanh chóng của giặc Châu Chấu ai nấy đều phải phân vân… Hễ nghĩ mình tài giỏi tột bực, thì dễ sinh kiêu. Cái tiếng “cao kỳ, ngạo mạn”(1) của Cao Bá Quát nó đã như chuông! Có lẽ vì cao kỳ mà ông hay gặp nạn, rồi có lẽ vì hay gặp nạn mà ông càng thêm cao kỳ! Người dù sao cát bụi lâu rồi. Chỉ thơ ở lại. Chín bài, cùng một giọng “cao kỳ” độc đáo. Làm thơ hát nói, mấy ai làm được bằng ông. Uống rượu tiêu sầu Ông nói “Thôi công đâu chuốc lấy sự đời”, mà rồi ông vẫn cứ chuốc, chuốc kỹ đến mức mất đầu mình và liên lụy đến toàn thể họ Cao. Kể, con người ấy “làm giặc” thì không lạ. Tính kiêu kỳ mà phận thấp, sớm muộn cũng “bùng”. Nhanh quá lửa rơm là giặc Châu Chấu. Cái gì mà vừa mới nổi lên đã bị quân triều đình dẹp tan, “Binh bộ Thượng thư” Nguyễn Kim Thanh, “Quốc sư” Cao Bá Quát hoặc bị giết hoặc bị bắt sống tại trận! Giá ông cứ tiếp tục “tiêu khiển một vài chung lếu láo”, vừa uống rượu vừa “nực cười” cho “cảnh phù du”… Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, Khoảng trời đất cổ kim, kim cổ, Ngán đời Trong bài Uống Rượu Tiêu Sầu, ông bảo “Thôi công đâu chuốc lấy sự đời”. Trong bài này, ông cũng bảo “Làm chi cho mệt một đời”. Thơ nôm ông làm có mấy bài đâu, mà đã lặp ý. Cái ý lặp hẳn ám ảnh ông nhiều. Tự bảo đi bảo lại mình rằng đừng, thế mà rốt cục vẫn. “Tri dị bất hành nan”! “Thế sự thăng trầm quân mạc vấn, Gõ nhịp lấy, hát câu Tương Tiến Tửu, May rủi Phạm Thế Ngũ bảo hát nói, như một thể văn vần, là một “kỳ công tổng hợp”. Nó cơ bản là con của thơ bảy chữ Việt và nói lối, tức nó cha Việt mẹ Việt. Nó có “quà” của lục bát ở mấy câu mưỡu. Ngoài ra, nó có chứa một chút “kỷ niệm” của thơ Đường: hai câu đầu trong khổ nhì là hai câu thơ bảy chữ Tàu.(4) Chứa thêm nhịp Tàu cho “đa nhịp”, không sao. Bất ổn là ở chỗ các cụ ta xưa rất thường làm hai câu ấy bằng tiếng Tàu! Trong bài thơ Việt mà lại có câu tiếng Tàu! Cao Bá Quát nổi tiếng giỏi Hán văn: “Văn như Siêu Quát…”. Nhưng trong bài May Rủi, ở cái chỗ câu “chữ thánh hiền” thường “cao ngọa”, ta bất ngờ gặp câu chữ nôm: “Nằm khểnh ngâm thơ cho vợ ngủ, Chẳng những ở chỗ thường gặp… Tàu, không gặp, mà ở khắp mọi chỗ trong bài thơ ấy, đều không gặp. Hát nói thuần nôm đầu tiên là đây chăng? Dù sao, mãi đến Tản Ðà nó vẫn hiếm. Văn chương toàn lời tiếng mẹ đẻ mà vẫn rất trí thức, rất “cao kỳ”. “Thánh” Quát quả “siêu”! Một rủi một may là máy tạo, Ngoài tai ấy tha hồ ai gọi, Hơn nhau cũng một chữ thì Để thành công, cần gặp thời và cần có tài trong cái lĩnh vực mà mình muốn thành công. Cao Bá Quát không được vua trọng dụng, kêu “hơn nhau cũng một chữ thì”, ngụ ý mình không gặp may chứ mình có tài kinh bang tế thế. Nhưng ai biết thực ra ông có tài ấy hay không. Mặt khác, Cao Bá Quát lừng danh thi sĩ. Ấy bởi ông có tài làm thơ và ông đã gặp thời. Trong thời của ông, chuyện văn chương vàng thau không lẫn lộn, hễ sáng tác xuất sắc thì nhất định sẽ nổi tiếng. Không như bây giờ. Chẳng lưu lạc, dễ trải mùi nhân thế, Thôi đã biết cùng, thông, là mệnh cả, Thanh nhàn là lãi Thật, biết không nên làm là dễ hơn không làm. Đã hay “mây trôi mấy chốc”, “nợ tang bồng” trả quấy quá cho xong, “hội công danh” tuy nhỏ cũng coi đã “trải”, thế mà rốt cục vẫn không nhịn được… Giá Cao Bá Quát đừng làm giặc Châu Chấu, cứ thảnh thơi đánh giấc, thức dậy khề khà mấy “chén hoàng hoa”, ngồi nghe gió hiu hiu thổi, rồi làm nhiều nhiều thơ, thì lãi cho cả ông lẫn hậu thế bao nhiêu! “Xử thế nhược đại mộng, Hiền ngu thiên tải tri thùy thị, Tìm thú cũ hỏi thăm sơn thủy, Núi cao trăng sáng “Núi cao trăng sáng”, nếu uống rượu làm thơ, xong làm thơ uống rượu, xong… đi ngủ, thì “lãi” quá. Đằng này, Cao Bá Quát lại cứ muốn làm anh hùng. “Tiếc thay kìa núi, nọ trăng!”. Cao sơn nhất phiến nguyệt, Rượu một bầu, thơ ngâm một túi, Xinh thay kìa núi, nọ trăng!(8) Phận hồng nhan có mong manh “Trai tài gái sắc”. Tài, nhưng mà tài gì? Tài văn chương, là thứ mà Cao Bá Quát chắc chắn có, nói chung không “xe duyên” tốt lắm đâu. Tuy xưa kia văn tài rất được quý, nhưng người đẹp nói chung rốt cục vẫn hay được ông tơ bà nguyệt mối lái với chỗ giầu sang… “Buồn cho anh mà lại tiếc cho em“… Anh tiếc cho em đi lấy “cú”. Cú không biết làm thơ, nhưng cú có nhiều thứ hấp dẫn có thể làm em vui vui, chóng quên anh đấy! Tự cổ hồng nhan đa mệnh bạc, Nhắn ông nguyệt hãy xe dây xích, Tự tình Cao Bá Quát có đôi bài thơ làm nhớ Nguyễn Bính. Người trước kẻ sau sống cách nhau hàng trăm năm, thế mà có chỗ giống nhau, là cùng “ước gì…” và cùng không toại ước (chắc cùng vì một lý do rất thông thường là điều kiện vật chất chưa đủ). Khi “mộng không thành”, tiền bối và hậu bối xử sự khác nhau. Cháu Nguyễn khóc ướt khăn hồng, kêu chị rối rít. Cụ Cao thì điềm đạm, không “nói cùng ai” cả, mà chỉ “tự tình”. Giai nhân nan tái đắc, Bứt rứt nhẽ trăm đường nghìn nỗi, Tài hoa là nợ Đọc “Tương tư ai để cho nhau”, nhớ “Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.(11) Cùng mắc “bệnh” khá trầm trọng, nhưng Cao Bá Quát lời lẽ cao kỳ: “Thương những kẻ giai nhân tài tử”, trong khi Nguyễn Bính khiêm tốn: “Bao giờ bến mới gặp đò, “Tài tử” xem ra đã đầu hàng duyên phận, còn “bướm lang thang” hình như chỉ mới bắt đầu thắc mắc. Nhưng ai nấy đều biết, người ở “Thôn Đoài” rồi cũng sẽ bó tay lạc lệ như bậc tiền bối trăm năm trước của mình thôi. Thương những kẻ giai nhân tài tử, Tương tiếu nhất thanh song lệ lạc, Dẫu dạ sắt gan vàng cũng rối, |
(1) Chữ dùng của Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên.
(2) Cảnh phù du: ý nói như đời con vờ, sống ngắn ngủi. Dứt hẳn với đời duy chỉ có rượu / Nghĩ cho sâu thì trăm kế chẳng gì bằng chữ nhàn. Nam san: núi nam: trong thơ Đào Tiềm, chỉ nơi ẩn dật.
Cửu hoàn: chín cõi trong thiên hạ. Thiên tứ vạn chung: nghìn cỗ xe, muôn hộc thóc, chỉ cảnh giàu sang. (Theo Tuyển tập thơ ca trù, nxb. Văn Học, VN, 1987)
(3) “Cuộc thế thăng trầm thôi chớ hỏi / Thuyền câu khói sóng, dập dềnh bơi!”. Chỉ có gió mát trên sông, trăng trong đầu núi. “Ngươi chẳng thấy kìa nước sông Hoàng Hà từ trên trời đổ xuống…” (Lý Bạch). (Theo sách đã dẫn)
(4) Phạm Thế Ngũ, VNVHSGUTB.
(5) Gươm trí cắt giặc phiền: lấy trí tuệ mà vượt qua phiền não. Nỏi: non nớt. Trang Tử: “Gọi ta là ngựa? Vâng, là ngựa! / Gọi ta là trâu? Vâng, là trâu!”. (Theo sách đã dẫn)
(6) Đại thụ: trao cho việc lớn. Thân mình gắn bó với nước nhà, thế nào rồi cũng được dùng / Trời sinh ra người tài giỏi lẽ nào lại cho nghỉ ngơi. Thời đã đến, cá rồng biến hóa. Lúc may, lúc rủi đều là số phận. Làm tôi tớ cho hình hài, thể xác. (Theo sách đã dẫn)
(7) “Đời là giấc mộng lớn, nhọc thân mà làm gì!” (Lý Bạch). Ngựa hay, ngày đi ngàn dặm. Nghìn năm biết ai hiền, ai ngu? / Giàu sang trăm năm được mấy nỗi? Nâng chén rượu cúc, lắng nghe gió thu thổi: ý thơ cổ, muốn bỏ quan về. Cửa sổ hướng bắc. (Theo sách đã dẫn)
(8) Một mảnh trăng trên núi cao. Núi còn mãi đối với trăng giữ mực thường mãi mãi. Núi lạnh trăng treo, thơ nửa bài / Trăng lồng bóng núi, rượu nghìn chung. (Theo sách đã dẫn)
(9) Từ xưa đến nay, má hồng phần nhiều số phận mỏng manh. “Kiếp hồng nhan, có mong manh” (Kiều). Gương treo trước lồng chim loan, để chim loan nhìn bóng mình tưởng là chim phượng đến mà hót lên. Loan là chim cái, phượng là chim đực. Cú đậu cành mai: người đẹp lấy chồng xấu. Việc (trời) định từ kiếp trước. Dây tơ đỏ của ông tơ hồng, xe cho đôi lứa thành vợ chồng. (Theo sách đã dẫn)
(10) Người đẹp khó gặp lại được. Chàng trai trẻ phong lưu nhiều tình xuân / Tiêu nương đứt ruột vì một bức thư (thơ Dương Cự Nguyên đời Đường, gọi Tiêu nương là người đẹp). (Theo sách đã dẫn)
(11) Xem bài Tương Tư của Nguyễn Bính.
(12) Cười với nhau một tiếng, hai hàng nước mắt rơi / Khá thương nửa giọt nước mắt thấm ướt dây tơ. (Theo sách đã dẫn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét