Thứ Sáu, 6 tháng 8, 2021

Sự đời 3

Sự đời 3

Nghĩ lai rai - Hai tám

1. Nay nói chuyện phiêu lưu đường rừng: Chuyện Tarzan.

Hồi nhỏ coi phim Tarzan thấy lần nào đu dây Tarzan cũng hú, lấy làm thắc mắc. Đi săn mà hú om sòm kiểu này thì thú rừng bỏ chạy hết, làm sao mà bắt được con gì? (Xin quý vị vui lòng vặn nghe nhỏ bớt !) Vượt biên sang tới bên Tây, bèn tò mò vô thư viện tra cứu, tìm hiểu vì lẽ gì mà Tarzan hú mỗi khi đu dây.
Thoạt đầu, hồi còn trẻ, Tarzan chỉ đu dây âm thầm thôi, không có hú hiếc gì hết. Lớn lên lúc gặp Jane, cũng không phải vì mừng quá mà hú. Rồi sau đó, khi “nếm thử thương đau” lần đầu, cũng không phải vì sướng ran mà hú. Vậy thì bởi lẽ gì mà Tarzan hú? Tra cứu tiếp. Khởi đầu Tarzan đi săn một mình. Tới khi gặp Jane thì bắt đầu đi săn hai mình. Cho tới bận nọ, hai người vì ham mê rượt đuổi theo thú rừng mà săn mồi quá xa. Tới khi muốn trở về thì trời đã sẩm tối. “Hoàng hôn dần xuống, tiếng chuông chùa dần dần vẳng xa, cánh buồm nâu đã khuất bóng dưới ánh tà dương, tư bề vắng ngắt, chơn trời góc bể, biết đâu là nhà...”!
Tarzan bèn lật đật níu một sợi dây dài trong tầm tay trước mặt mà đu. Jane cũng vội vã phóng tấm thân bồ liễu theo chàng cho có đôi – như chim liền cánh như cây liền cành. Rồi trong bóng hoàng hôn nhá nhem nhìn không rõ mặt người, đôi tay ngà may mắn vớ được một sợi dây gì ngăn ngắn mềm mềm nhũn nhũn mà đu vèo một cái...
Và kể từ đó Tarzan biết hú! Úuuu... Úuuu... Úuuu...
2. Bần tăng vội vã kể chuyện Tarzan mở đầu là vì những chuyện gì mà bần tăng sắp kể tiếp theo có thể sẽ khiến cho bà con ta hết cười nổi. Và sẽ mếu khóc luôn không biết chừng.
Bần tăng vốn đại ghét nói chuyện tiền bạc - có lẽ tại vì mình không có tiền chăng? Không có thì biết nói mần răng? Nhưng lần này, bần tăng đành phải phạm điều cấm kỵ. Bần tăng viết tiết mục này vào đầu năm 2008. Một vụ xì căn đan vĩ đại vừa bùng nổ tại Pháp! Một vụ thất thoát lỗ lã lên đến 7 tỉ euros (hơn 9 tỉ đô la Mẽo)! Mà ai lỗ lã mới được? Một ngân hàng đứng hàng thứ nhì của nước Phúlanxa Đại Pháp: Société Générale (SG). Vì sao mà lỗ? Một mặt, Jérôme, một trong những tay traders (mua bán chứng khoán) của SG đã tung ra 50 tỉ euros của ngân hàng để đầu cơ vào những nghiệp vụ ngắn hạn có thể lời nhiều mà vô cùng rủi ro: các hedge funds (HF). Loại quỹ đầu cơ HF này càng lúc càng gia tăng vùn vụt trên khắp thế giới: từ 120 tỉ đô năm 1990, HF đã vượt lên đến mức 1870 tỉ đô năm 2007! 1870 tỉ đô! Một số tiền khổng lồ khó lòng mà hình dung được trong trí người thường. Thử so sánh với nội sản thô (PIB: produit intérieur brut) tức là trị giá toàn bộ khối lượng sản xuất trong vòng một năm của một vài quốc gia để có một ý niệm: Năm 2007, PIB của Nga 1420 tỉ đô, Nam Hàn 1020 tỉ đô, Việt nam: 83 tỉ đô. Có nghĩa là toàn dân Việt Nam 85 triệu người già trẻ bé lớn phải cày cục đổ mồ hôi xót con mắt trong vòng 23 năm mà không ăn uống, nhậu nhẹt, áo quần, bia ôm, son phấn và không tiêu xài chi chi hết mới có được khối tiền đầu cơ khổng lồ 1870 tỉ đô.
Jérôme đã tinh ranh và lén lút vượt qua được hàng chục chặng kiểm soát nội bộ của SG và luôn cả các chặng kiểm soát ngoại bộ của các cơ quan bên ngoài để mà tung 50 tỉ euros của các cổ đông (nhiều hơn vốn riêng 39 tỉ euros của SG) vào thị trường chứng khoán HF. Sa vào trận khủng hoảng tài chánh thế giới, tới khi vỡ lẽ, SG lật đật bán đổ bán tháo các chứng khoán hết sức rủi ro này để thu hồi vốn lại được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Kết quả: lỗ 5 tỉ euros! Một lượng tiền kếch sù khó lòng mà tưởng tượng nổi trong đầu. Đương cử một ví dụ: ở Pháp một căn nhà trung bình cho 4 người ở trị giá khoảng 100 ngàn euros. Với khối tiền 5 tỉ euros, có thể mua được 50 ngàn căn nhà như vậy cho 200 ngàn người ở! Cả một thành phố nhỏ!
Chưa hết. SG còn lỗ thêm 2 tỉ euros trong nghiệp vụ subprime ở Mỹ. Subprime là nghiệp vụ cho vay tiền mua nhà với điều kiện ban đầu vô cùng dễ dãi, tới mức gần như không có, những người trước đây không đủ lợi tức để vay, nay cũng vay được. Vay dài hạn, nhưng với lãi suất biến đổi (gia tăng rất nhiều theo thời gian). Kết quả, đa số dân Mỹ vay tiền subprime để mua nhà không trả góp nổi, bị trục xuất. Cơ quan cho vay không thu lại được tiền, chỉ còn nước sập tiệm. Lôi những ngân hàng khác đã đầu tư vào nghiệp vụ subprime này sạt nghiệp theo trên khắp thế giới, từ Mỹ sang Âu, từ Âu sang Á. Lỗ 5 tỉ HF thêm 2 tỉ subprime: tổng cộng SG lỗ liền tù tì 7 tỉ euros! Nghe qua xây xẩm mặt mày! Bèn hét lên một tiếng lớn rồi té nhào xuống ngựa, mà hộc máu cả chậu như Châu Du.
3. Trên đây là tóm lược vụ lỗ 7 tỉ euros của SG qua tin tức báo chí và TV ở Pháp. Nhưng không phải bần tăng có mục đích tường thuật vụ lỗ này với tính cách lặp lại - phần lớn ai nấy đều đã rõ. Bần tăng chỉ muốn nhân cơ hội này bóp cái trán nhỏ nằm hiên ngang trước cái đầu trọc của mình để mà tư duy Mác Lê nặn ra một vài suy gẫm (và lòi con mắt luôn thể!)
Cái vụ subprime sập tiệm đưa tới khủng hoảng kinh tế tài chánh ở Mỹ đã do ai chủ mưu? Đừng tìm kiếm đâu xa: chính Uncle Sam made in USA chính cống đã đánh trống phất cờ! Vì sao? Ai cũng còn nhớ vụ máy bay khủng bố đánh sập hai cái Twin towers ở New York ngày 11 tháng 9 năm 2001. Sau vụ đó, kinh tế Mỹ xuống dốc. Để khôi phục lại và đẩy mạnh lên mức tiêu thụ của dân Mỹ, hai đầu sỏ của Toà Bạch Ốc và Fed (Quỹ dự trữ liên bang), Bush con và Greespan đã đồng ý giảm lãi suất chỉ đạo của Fed xuống thấp liên tiếp 5 năm. Mục đích: xúi giục các định chế tài chánh và ngân hàng Mỹ vay những món tiền khổng lồ của Fed rồi sau đó tung ê hề ra thị trường cho dân Mỹ vay lại dễ dãi. Có tiền rủng rỉnh thì mới có mua bán rầm rộ. Có mua bán rầm rộ thì mới đẩy mạnh tiêu thụ (CQFD). Rồi chương trình subprime được tung ra thị trường. Rồi dân Mỹ ùn ùn kéo tới ngân hàng vay tiền mua nhà. Số tiền các ngân hàng lớn của Mỹ cho vay trong nghiệp vụ subprime lên tới 130 tỉ đô. Nếu tính luôn các ngân hàng lớn Âu Á và cả các ngân hàng nhỏ, số tiền cho vay lên đến hàng ngàn tỉ đô. Khi cho vay, các ngân hàng cố tình che đậy sự rủi ro về sau, không muốn giải thích cho người vay biết rõ cái nguy hiểm của "lãi suất biến đổi" dính liền với subprime: tiền lời tăng vọt theo thời gian. Kết quả: các con nợ trả nợ không nổi. Rồi bị trục xuất ra ngoài đường ở.
Không thâu lại được tiền, nhiều ngân hàng Mẽo theo nhau sập tiệm lôi nhiều ngân hàng khác trên thế giới sập tiệm theo. Theo các chuyên viên tài chánh thì trong cơn khủng hoảng bất động sản này, số tiền lỗ lã của các ngân hàng lên tới 300 hoặc 400 tỉ đô. Và cuối cùng khủng hoảng kinh tế tài chánh bùng nổ ngay tại xứ của Uncle Sam cuối năm 2007. Hơn thế nữa, khi giảm lãi suất của Fed sau vụ khủng bố năm 2001, Bush con và Greespan dư biết là nước Mỹ sẽ có nguy cơ khủng hoảng khi làm như vậy.
Lần này, để bổ thần dược chữa trị cho trận khủng hoảng bất động sản subprime, đầu năm 2008, Bush con và Fed lại tung ra một tuyệt chiêu bảo đảm hoàn toàn "mới ra lò": giảm lãi suất chỉ đạo của Fed bớt 0.75 điểm một cái rụp. Vô tiền khoáng hậu! Chưa từng thấy hơn mấy chục năm vừa qua tại Mẽo. Hiểu nổi không? "Lấy độc trị độc" chăng? Hay lại thúc đẩy dân Mỹ tiêu thụ để duy trì hoạt động kinh tế Mỹ? Ai hiểu được thì cứ hiểu tự nhiên. Riêng mình, bần tăng xin nhìn nhận mình "tối dạ" và chịu thua. Đầu hàng vô điều kiện!
4. Tuy nhiên, dù không hiểu nổi lối hành xử quái gở này, nhưng cũng tìm xem do đâu mà đưa tới lối hành xử kỳ quặc như vậy? Cái lối hành xử đầy mạo hiểm của Bush con, của Fed, của các định chế tài chánh và các ngân hàng trên khắp thế giới là hệ quả của chính sách toàn cầu hoá. Đã toàn cầu hoá rồi thì mọi biên giới tài chánh bị xóa bỏ. Vô số lượng tiền khổng lồ (hàng ngàn tỉ đô) nườm nượp vượt biên giới, qua lại, tới lui xoèn xoẹt mà không một ai ngăn nổi, không một ai kiểm soát nổi, và cũng không ai biết được hiện trạng tài chánh thế giới ở bất cứ thời điểm nào. Hầu hết những khối tiền kếch sù này và các hedge funds đều được tung vào những nghiệp vụ đầu cơ bởi các định chế có trụ sở đặt tại những địa điểm offshore (gần như vô gia cư) và các "thiên đường thuế vụ" (để trốn thuế), như các đảo Caimans, Bahamas, vân vân… Những địa điểm này nằm ngoài quyền kiểm soát của các quốc gia, nơi những kẻ nắm tiền thực sự cư ngụ. Thì tha hồ mà múa gậy vườn hoang! Chỉ cần nằm thẳng cẳng khoẻ re ra cho mấy em bé xoa dầu đấm bóp và từ xa mà bấm nút ra lịnh. Thế là xong. Gọn, nhẹ và nhanh. Để sau đó còn rút vô phòng riêng có gắn máy lạnh và kiếng rọi bốn bề mà tính chuyện khác. Thì giờ là tiền bạc!
Trước khi có toàn cầu hoá thì tiền bạc còn được sử dụng để đầu tư vào các hoạt động kỹ nghệ, thương mại và phát triển mở mang, nghĩa là có “làm ăn” thiệt sự. Sau toàn cầu hoá thì tiền bạc được sử dụng hầu hết vào các nghiệp vụ đầu cơ tài chánh để duy nhứt... đẻ ra tiền. Tiền lời đẻ ra được đầu cơ trở lại vào các nghiệp vụ đầu cơ tài chánh để... đẻ ra tiền, và lại... đẻ ra tiền, rồi lại... đẻ ra tiền, và cứ thế cứ thế... Cái cách tiền phát triển cũng giống như tế bào sinh sôi luỹ thừa để cuối cùng trở thành một cái nhọt ung thư. Một ngày nào đó, cái nhọt ung thư sẽ giết chết cơ thể mang nó, có gì mà lạ? Tiền không còn là một phương tiện như trước nữa, mà đã lột xác biến thành một cứu cánh: Tiền chỉ duy nhứt phục vụ cho chính nó, phục vụ cho Tiền. TIỀN trở thành một tôn giáo: “Tôn giáo TIỀN”, trong đó TIỀN là Thượng đế. Mọi người đều tôn thờ và quỳ lạy trước Thượng đế, trước TIỀN. Mội người đều xả mình phục vụ và sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng tử vì đạo: Đạo TIỀN! Mọi thứ khác đều trở thành thứ yếu: xứ sở, xí nghiệp, việc làm, thất nghiệp, an sinh xã hội và ngay cả mạng sống con người đều phải nhường bước cho tiền đi trước, bất chấp rào cản, kẽm gai, hầm chông, bảng cấm hay đèn đỏ. Sau thời điểm “toàn cầu hoá”, cái tư bản kinh tế cổ điển đã từ từ lột xác biến thành tư bản tài chánh “hậu hiện đại”. Giống như con nhộng lột xác biến thành... con đỉa! Rồi đi kiếm máu người mà hút.
5. Như đã nói, trong thời buổi toàn cầu hoá, không một ai nắm được hiện trạng tài chánh của thế giới ở bất cứ thời điểm nào, kể cả Tổng thống, kể cả Fed, kể cả các ngân hàng quốc gia và các ngân hàng tư nhân trên thế giới, các định chế tài chánh và ngay cả những tay chủ mưu đầu cơ. Mọi người đều nhắm cái hải đăng lù mù phía xa và cái lợi trước mắt của mình mà lấy quyết định và hành động. Trước mắt là phải kiếm lời, bằng mọi cách. Kiếm lời có nghĩa là kiếm ra tiền. Kiếm tiền chưa đủ, mà còn phải kiếm cho thiệt nhiều tiền. Kiếm thiệt nhiều tiền chưa đủ, mà còn phải kiếm cho thiệt lẹ. Mục tiêu, tóm lại: kiếm thiệt nhiều tiền cho thiệt lẹ (và trốn thuế, dĩ nhiên. Understand ?) Bất chấp mọi rủi ro, bất chấp mọi hiểm nguy: các hedge funds được đẻ ra trong hoàn cảnh đó.
Trong cái môi trường tài chánh mù sa không một ai thấy rõ đường đi đó, các định chế tài chánh và ngân hàng bèn thừa cơ chế tạo ra những cái “quái thai”, những sản phẩm - tài chánh (như cái subprime chẳng hạn) phức tạp, rắc rối và bí hiểm tới mức người mua sản phẩm không hiểu nó là cái chó gì hết - mà ngay cả các tác giả và luôn cả người đứng bán chưa chắc đã am hiểu tận tường. Nhưng đâu có sao (no stars where!). Không một ai hiểu nổi, đó chính là mục tiêu mà lối làm ăn đầu cơ nhắm tới để mà ngù ngờ đánh lận con đen. Thị trường tài chánh trở thành một cái casino minh mông, một sòng bạc thế giới vĩ đại dẫy đầy những tay cao thủ đánh bạc lận. Những người góp vốn và các tay con chỉ còn nước lãnh đủ, lời ăn lỗ chịu, hên xui may rủi. Cũng giống như trong một gánh xiệc mà các tay nghệ sĩ đu bay tự ý bịt mắt và đu không có lưới hứng bên dưới. Chỉ được dùng mũi đánh hơi để nhắm hướng mà tung người ra chụp đại, may nhờ rủi chịu. Nhưng khổ nỗi là có vô số người đeo chưn “đu sĩ” để mà tòn teng đu theo. Càng đông càng vui. Đu sĩ vừa đu vừa hú om sòm như Tarzan. Úuuu! Úuuu... Vô cùng ngoạn mục. Nào nào: úuuu... úuuu... một! hai! ba! Xin mọi người hãy cùng lặp lại theo ta! Please, repeat after me: “Lạy đức Chúa Cha ở trên trời, xin Người hãy xót thương...” Úuuu! Úuuu...
6. Chẳng những không một ai rõ được hiện trạng tài chánh thế giới vào bất cứ thời điểm nào, mà trên bình diện quốc tế, thiếu hẳn một sự điều hành tổng quát, một công cuộc lèo lái chung chung con tàu tài chánh thế giới giữa đại dương tràn ngập phong ba, dẫy đầy cá mập, ngổn ngang đá ngầm, và thêm nữa lại lểnh nghểnh xác tàu chìm khắp nơi. Cái tình trạng "vô chính phủ" này cũng chẳng phải mới mẻ gì, và cũng chẳng phải giới trách nhiệm mù tịt. Đã dư biết và biết rõ từ khuya! Trong thế giới tài chánh, từ lâu ai cũng đều biết cần phải có những luật chơi quốc tế, chặt chẽ và minh bạch. Vậy thì các cấp trách nhiệm còn chần chờ gì nữa?
Khổ thay! Khổ thay! Những cấp có thể thay đổi luật chơi hoặc đặt ra luật chơi tài chánh mới phần đông lại là những tay đầu sỏ có "ăn chịu", có bàn tay vấy máu, có dính líu, có phần hùn trong các nghiệp vụ đầu cơ. Sửa đổi hả? Còn khuya! Thôi, bỏ đi Tám! Hơn nữa, nếu đặt ra luật lệ thì sẽ trói buộc, sẽ cản ngăn. Mà trói buộc và cản ngăn thì lại là một hành vi bất kính, là xúc phạm tới "tôn giáo toàn cầu hoá" vốn chủ trương xóa bỏ mọi rào cản. Là dám cãi lệnh xé xác của Giáo chủ TIỀN! Không thể tha thứ. Phạm thuợng à? Chém! Để giữ cho còn có cái đầu mà đội nón, thì thôi, statu quo! Giữ nguyên tình trạng cũ. Cứ ngậm thẻ mà ăn tiền. Après moi, le déluge! Chết sống mặc bây, tiền thầy bỏ túi. Cố sức sửa đổi làm chi cho mệt. Mà lại không ăn cái giải gì hết. Có khi còn mất cả chức lẫn tiền. Rồi do đó mà mất cả vợ lớn lẫn vợ nhỏ. Và mất luôn cả đào nhí. "Ai mà làm vậy chết liền!"
Bàn về sự giám sát tài chánh ở cấp bực thế giới. Quỹ tiền tệ quốc tế (FMI) đã phát biểu: "Sự giám sát đã bị các áp lực chính trị vô hiệu hoá". Nói rõ hơn, nguyên tắc giám sát đã tỏ ra hết sức vô hiệu trong việc ngăn ngừa các cuộc khủng hoảng vì nó hoàn toàn không ảnh hưởng gì tới quyền tự quyết của các quốc gia: các quốc gia kỹ nghệ lớn, trong đó Mỹ đứng đầu, luôn luôn từ chối áp dụng một thủ tục đa phương có thể tạo vấn đề cho quyền tự quyết kinh tế của mình. Hơn thế nữa, Mỹ còn vô địch trong việc chuyển hướng sự giám sát sao cho có lợi cho mình so với Nhựt và Âu châu trong những năm 80, và Trung Quốc trong những năm 2000. Mỹ đã ép buộc Trung Quốc tăng giá đồng yuan (nhân dân tệ) của mình vì Mỹ đã kết án đồng yuan gần như là cái cớ duy nhứt đã làm cho cán cân thương mại của Mỹ thâm thủng triền miên.
Thôi thôi! Nhức cái đầu trọc quá rồi! Bần tăng xin tạm ngưng trình diễn cái tiết mục bàn xăm tài chánh ở đây. Hẹn lần sau sẽ bàn tiếp chuyện dài nhân dân tự vệ. Các tay làm ăn thua lỗ có bị trừng trị? Nếu đồng đô Mẽo phá giá thì sao? Các Ông Trời con đóng vai gì trong vụ án này? Bush con có bị ăn đòn hội chợ? Muốn biết chuyện sau thế nào, xin đón xem hồi sau sẽ rõ.
Hơn nữa, (con lợn) lòng của bần tăng nó đang rối tựa tơ vò. Trong vụ lỗ lã 7 tỉ euros vừa rồi của SG, bần tăng đã tiêu tùng trong đó ngót nghét 1 tỉ rưỡi. Hết tiền ăn chay! "A di đà Phật", chắc phen này phải đành ngả mặn mà thôi. Xin Phật thông cảm mà hỉ xả cho con nhờ. Cái "cơ ngơi" của bần tăng ở từng lầu 15. Ngày nào bần tăng cũng cú rũ ra đứng ở bao lơn mà "bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Biết tính sao đây? Bay lên thì không có phản lực jet riêng. Mà bay xuống thì sợ bị trặc cẳng, hết còn mong gì là lướt được nữa trên sàn nhảy. Đu dây như Tarzan thì sợ Jane đu theo (hay đu keo?) Mà đi vô thì sợ bị vợ la. Thiệt là một mình lưỡng lự canh chầy… "Phật ơi! Cứu con với! Nam mô a di Đà Lạt…” Nghiêng vai ngửa vái Phật Trời, Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân!
7. Những khi nào bị bức xúc (bứt nút?) như hôm nay, bần tăng thường trốn chùa ra quán ngồi nhậu một mình giải khuây. Thì lần này cũng vậy thôi. Rượu vô ngà ngà, bần tăng thả hồn lâng lâng về miền dĩ vãng rong rêu sỏi đá, có căn nhà màu tím và sơn nữ Phà Ca vú lớn. Và trong cái đầu trọc có sạn láng te của mình chợt loé lên một kỷ niệm, hay đúng hơn là một câu chuyện rất là hằn lên nỗi đau. Không phải chuyện tình của con sâu nhỏ rúc trong trái táo đỏ, hay của con chim bói cá ngồi làm thơ trong căn nhà màu tím. Số là…
Bận nọ, bần tăng trúng số hạng cá kèo nên có tiền rủng rỉnh. Bèn làm gan bước vô một cái bar khá le lói để nhậu cho cuộc đời nó lên... hang! Ngồi bên cạnh là một anh chàng sồn sồn ăn mặc bảnh bao, trước mặt hắn là một chai champagne Dom Pérignon thơm phức. Rượu vô tì tì anh chàng rót thêm một ly nữa mời bần tăng cùng đối ẩm cho vui. Ừ, dô thì dô! Hắn ta vui lắm, nói chuyện huyên thuyên. Rồi cứ tà tà như vậy. Dô! Dô! Cho tới khi quán đóng cửa, hai đứa bắt buộc phải giã từ tửu quán. Ra ngoài, hắn cứ nằng nặc đòi kéo bần tăng tới nhà chơi cho biết. Ô kê! Hắn bước tới một chiếc xe đỏ mui sập láng cón lịch sự mở cửa mời:
“Chiếc Ferrari kiểu chót này là của tao!”
Phóng xe bay tóc trán trên xa lộ phom phom một hồi, hắn quẹo vô một con đường nhỏ quanh co, rồi cuối cùng đậu lại trước cổng lớn của một ngôi nhà vô cùng hoành tráng và đầy đủ dấu ấn (muốn lòi con mắt!). Hắn chỉ ngôi nhà lớn bự trước mặt:
“Biệt thự đồ sộ này là của tao!”
Mở cổng, đoạn mở cửa nhà bước vô. Hắn chỉ bộ salon bọc da trắng to tổ bố:
“Phòng khách nguy nga này là của tao!”
Xong, hắn dắt vô một căn lớn khác đầy máy móc tân kỳ:
“Nhà bếp tối tân này là của tao!”
Xong, hắn nắm tay dắt lên lầu. Mở cửa bước vô một phòng lớn thơm lừng có thắp đèn mờ mờ ảo ảo:
“Phòng ngủ trang nhã này là của tao!”
Đoạn, hắn cởi giày rón rén bước tới một cái giường rộng minh mông, rồi đưa ngón tay chỉ vào một người đàn bà tóc vàng đang đánh giấc dạ lan mơ màng trên nệm gối, để lộ đôi vú tròn lớn mũm mĩm rất hấp dẫn.
“Người đàn bà lộng lẫy này là vợ tao!”
Đoạn, hắn nhè nhẹ giở mền đắp của vợ mình lên... Phát hiện bên dưới một người đàn ông trần truồng như nhộng, nằm co ro bên cạnh cô vợ thơm phức của mình. Hắn ngó bần tăng mỉm cười, đưa tay chỉ:
“Còn cái thằng cha nầy là... tao đó!”
8. Đố vui để chọc. Hãy tìm động vật nào thích hợp với các môi trường sau đây:
Đố loài gì thích hợp với cuộc đất chính trị? Đáp: loài bò sát
Đố loại gì thích hợp với biển kinh tế? Đáp: loài cá mập
Đố loài gì thích hợp với đại dương tài chánh? Đáp: loài đỉa trâu
Đố loài gì thích hợp với khu vườn trí thức? Đáp: loài chích chòe
Đố loài gì thích hợp với rừng già triết lý? Đáp: loài tu hú
Đố giống gì thích hợp với cuộc đất văn chương? Đáp: giống cù lần
Tuy nhiên, hài tên mấy loài thú ra chỉ là đáp theo nghĩa bóng, có nghĩa là đáp chơi cho vui vậy thôi. Chớ loài thú không có những luân lý và đạo đức (thiệt/giả), cũng như những thói hư tật xấu của con người.
9. Nhắc tới con cù lần, nhân tiện thử luận về con cù lần xem sao.
Trước hết, con cù lần là con gì? Theo chỗ bần tăng thiển nghĩ thì cù lần là con paresseux (có nghĩa là làm biếng), theo tên gọi của mấy ông Tây bà Đầm. Giống cù lần sống ở Nam Mỹ, đặc biệt là xứ Brésil. Mặt con cù lần coi rất hề, hai mắt có quầng đen, tóc ngắn chải “xụt” xuống trán, miệng lúc nào cũng như là cười mỉm chi một cách rất ư là... cù lần. Mình cù lần có lông rất dài để che mưa, và che luôn lũ rận lểnh nghểnh bên dưới nằm vùng để mà đánh du kích. Cù lần có bốn cẳng (không chấm đất). Cẳng có ba hoặc bốn móng rất dài để leo và níu lấy cành cây trên cao mà đeo tòn teng cả ngày. Không thấy có đuôi ló ra ngoài. Cù lần không biết nói. Không biết kêu. Cũng không biết hú như Tarzan.
Tại sao gọi nó là con cù lần? Dễ ợt. Tại vì nó rất là... cù lần! Cả ngày nó chỉ dùng móng dài mà đeo bốn cẳng tòn teng trên ngọn cây. Tại sao? Tại vì bước xuống đất nó sợ bị ăn thịt. Vì sao? Vì nó không biết chạy. Cũng không biết đi trên bốn cẳng. Trên mặt đất, nó chỉ biết có bò mà thôi. Nó nằm xoải hết bốn cẳng dài ngoằng ra rồi... bò (hay gọi là bò). Nó bò rất là quều quào, lờ quờ, lạng quạng (như đã nói, nó rất là cù lần!). Nó bò mà giống như giậm chưn tại chỗ. Bò chậm rì - thấy mà sốt ruột. Nếu xả hết ga thì tốc độ tối đa của nó là 1,752 mét/một giờ, tính ra là 0,486 ly/một giây. Có nghĩa là khi bò hết tốc lực thì cứ 2 giây là nó tiến lên được 1 ly! (Kỷ lục “bò chậm” ôlympic!) Tuy rằng nó bò lờ quờ nhưng mà nụ cười mỉm chi vẫn không bao giờ tắt trên môi. Chịu thua! Không tin mấy cha nội thử bò bốn chưn chậm rì, vừa bò vừa cười mỉm chi từ sáng tới chiều thử coi. Nếu được, bần tăng hứa sẽ cõng cho đi chơi và chạy bốn vòng sân banh.
Bởi lẽ bò quá chậm nên cù lần chỉ đặt chưn xuống đất khi nào tối cần thiết mà thôi: lúc nó đi... ỉa. Bộ ở trên ngọn cây mà ỉa tưới hột sen xuống đất không được sao cha nội? Hay là lấy giấy nhựt trình gói lại rồi quăng qua nhà thằng khít vách, chờ lúc nó đi ngủ. Mà sở dĩ cù lần không dám cử động nhiều là cũng có lý do sinh lý riêng tư chánh đáng chớ không phải tại vì làm biếng hay bởi lẽ cù lần mà ra. Nó không bao giờ ăn chất béo (làm đai ếch?) Nó cũng thuộc loài ăn chay như bần tăng. Nó chỉ ăn toàn là lá cây - còn bần tăng thì đôi khi còn có thêm được đậu hũ (nhồi thịt chay) chấm nước tương cho nó đúng điệu nâu sồng. Mà lá cây con cù lần khoái xơi lại thuộc loại khó tiêu và rất ít chất dinh dưỡng, rất ít vitamin. Vì cù lần đổ xăng ít nên di chuyển nhiều sợ hao xăng, chạy lẹ e hết hơi bình. Bởi lẽ đó, suốt ngày nó chỉ đeo tòn teng trên ngọn cây mà cười mỉm chi. Vì cười ít tốn xăng. Bây giờ mấy cha nội đã hiểu tại sao con cù lần nó “cù lần” rồi chớ? Và cũng hết chửi con người ta là “đồ cù lần!”? Chẳng những vậy, đôi khi còn cường điệu: “đồ cù lần lửa!”
10. Bần tăng không rõ đời sống tình dục của con cù lần nó ra sao. Tuy nhiên, coi TV thỉnh thoảng thấy nàng cù lần cái bồng con (trông chồng) nên đoán chừng là chàng cù lần đực, cho dù có cù lần cách mấy đi nữa, nhưng đụng tới cái "chuyện đó" thì cũng phải hết cù lần cho người ta nhờ (Hoan hô!) Cũng đành phải "chàng ơi thức zậy chìu em tí!". Nhưng khi nghĩ tới cái "chuyện đó" của con cù lần, bần tăng bỗng hoang mang và đâm lo. Với tốc độ tối đa 1ly/2giây thì chàng cù lần mới làm ăn ra làm sao đây? Bèn viết phương trình bực ba trên giấy trắng và lôi cái máy tính nhỏ bỏ túi ra làm toán. Sau khi cộng trừ nhơn chia lấy căn, lên bình phương, luỹ thừa, đạo hàm (ếch), bỏ bớt bốn con zéro, thêm ba dấu phẩy thì được kết quả xác suất như sau: Nếu trời vừa hừng sáng, chàng cù lần tức tốc leo lên ngựa liền thì sau khi hít đất ba cái, lúc đó mặt trời sẽ bắt đầu xế bóng non đoài. Và "anh (cù lần) sẽ đưa em (cù lần) về chân trời tím" là vừa. Cũng được. Cũng tốt thôi! Cho "em có thằng cu để bế bồng" là được lắm rồi. Hơn nữa, như vậy sẽ tránh được nạn "cù lần mãn". Sẽ không có cái cảnh "bồng bế nhau lên nó ở non" như giống người có trí tuệ. Cứ yên chí lớn để mà cả đời đeo tòn teng trên ngọn cây tử thủ, hầu bảo tồn cái truyền thống "cù lần" cho nó phải đạo.
Về vấn đề tình dục, cũng không bao giờ thấy hai con cù lần đực đánh nhau để giành gái như thường thấy ở các loài khác: nai, sấu, trâu, bò, cọp, beo, sư tử, con người… Như vậy mà gọi là "cù lần" được sao? Thêm nữa, có lẽ thịt con cù lần rất là "cù lần" nên không thấy người ta ăn thịt nó. Mà một khi thịt mình bị con người chê thì là diễm phúc lớn. Không tin thử đi làm một màn phỏng vấn và thăm dò ý kiến heo, bò, gà, vịt, tôm hùm, cá mập… thì biết. Ngoài ra, trong một gánh xiệc bần tăng còn thấy chó, ngựa, gấu, cọp, voi, sư tử, hải cẩu, bồ câu, két biểu diễn, chớ chưa hề thấy một con cù lần nào bước ra sân khấu cúi đầu thiệt sâu chào khán giả rồi leo lên thang dây mà hát xiệc hoặc đu nhào. Mới biết, nhờ con cù lần nó "quá cù lần" nên không bị con người bóc lột lao động, khai thác giai cấp và nhốt trong chuồng sắt.
Gẫm ra mới biết, cù lần ta sao cứ mỉm cười kinh niên là phải lắm! Ngoài cù lần ra, chỉ có Phật Thích ca đắc đạo mới mỉm cười bất tận được như vậy. Bần tăng đã cố gắng để giữ cho thiệt lâu nụ cười mỉm chi trên môi mình. Nhưng chỉ cầm cự được 1 phút 5 giây là oải. Mỏi không chịu được! Không tin, mấy cha nội cứ làm thử đi thì biết. Bởi vậy, lúc chụp hình, khi nào em nhỏ hậu phương nhoẻn nụ cười duyên dáng là phải bấm liền tức khắc. Bằng không, nếu để lỡ cơ hội bằng vàng, thì phải nghỉ giải lao ít nhứt 32 giây, xong mới có thể tắt đèn làm lại. Đó là chưa kể trường hợp em nhỏ giận lẫy thì sẽ hỏng hết cả ngày - và cả đêm, không biết chừng. "Em ơi! Hãy cười lên đi cho sụp đổ chiếc ngai (ơơờ…) vàng!" (Phựt đèn). Flash!
Như đã nói, con cù lần không biết đi trên bốn cẳng (khỏi mất công làm footing), cũng không biết chạy bộ (khỏi phải mất công làm jogging). Ấy vậy mà cù lần lại biết lội, và lội nhanh hơn là bò bốn cẳng trên mặt đất. Như vậy mới ngộ. Nhưng lúc nào thì cù lần mới lấy quyết định lao mình xuống nước để mà lội? Là lúc rừng Amazone bị ngập nước. Từ beo dữ, heo rừng, ngựa vòi (tapir), cho tới con sâu, cái kiến cũng phải lội để tìm sống. Thì sá gì một con cù lần! Chừng đó mới thấy cù lần ta trổ tài mọn: lội sấp (lội ngửa), lội bươm bướm (lội chuồn chuồn), lội ếch (lội nhái), lội đủ hình đủ kiểu. Và hơn nữa, còn lội nhanh. Dĩ nhiên là không thể lội đua với cá mập, nhưng vẫn còn hơn bần tăng xa lắc.
Không thấy cù lần lái xe bốn bánh (và hửi khói xăng), lạng moto (và té gãy cẳng), hay đạp xe 2 bánh lẫn 3 bánh (và bị cảnh sát phạt). Không thấy cù lần chen lấn hay chạy theo cho kịp chuyến métro. Còn ngó phe ta thì thấy có vô số con "cù lần" chạy theo xe buýt muốn tắt thở. Hoặc đánh bóng cái xế 4 bánh của mình, hút bụi nhà và cắt cỏ trong sân hết cả một weekend. Rồi phè cánh ra ngủ gật. Sáng thứ hai mở mắt ba ngù, húp vội cái cà phê nóng, đi làm việc tiếp tục. Vậy thì khi nói “cù lần”, ai mới thiệt sự là “cù lần”? Cứ ngó xem cho kỹ phong thái con cù lần khi nó trổ hết kỹ thuật tinh xảo để đeo tòn teng trên ngọn cây cả ngày, cả tháng, cả năm, cả đời. Như vậy mà là “cù lần” được sao?
Cuối cùng, một điều chót hết: không bao giờ thấy con cù lần bị bức xúc, nôm na là bị xì trét, căn bịnh của thời đại. Không bao giờ bị khủng hoảng tâm lý, thắt cổ tự tử, hay uống thuốc ngủ tự vận. Bởi lẽ đó, nếu được phép ước một điều duy nhứt trước khi từ giã cõi đời ô trọc này, bần tăng xin ước được đầu thai làm con cù lần. Để được đeo tòn teng trên ngọn cây tít ở trên cao nhìn xuống đám thiên hạ xì trét bên dưới mà mỉm cười bất tận.
Bèn thơ rằng:
Mặc ai lội suối trèo non
Riêng ta quyết chí làm con... cù lần!
Mặc ai xuôi ngược rần rần
Riêng ta cười mỉm cù lần rất tươi
Mặc ai xì trét ngất ngư
Riên ta đủng đỉnh rất ư... cù lần
Mặc ai nhào lộn giựt gân
Riêng ta chí quyết cù lần mãi thôi
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cù lần đứng giữa trời mà reo!
Nghĩ lai rai - Hai chín
1. Có ai xuôi vạn lý/ Nhắn đôi câu giúp nàng (…)/ Cuối xuân năm Mậu Tý/ Tướng quân mang kiếm về… ("Hòn vọng phu", Lê Thương)
2008. Tết năm nay, Tết Mậu Tý. Tết con chuột. Tuy nói vậy mà không phải vậy. Tết con chuột nhưng lại không có chuột. Vì “mậu” tý, theo tiếng Cắc chú, có nghĩa là “không có” chuột! Thế nhưng, thêm một lần nữa, tuy nói vậy mà không phải vậy. Vì cái đám nhân loại khốn khổ 6 tỉ rưỡi này há chẳng phải là đám chuột chù khổng lồ đang phá hoại mùa màng, rừng rú, đất đai, sông ngòi trên địa cầu này hay sao? Và hơn nữa, lại còn ỉa cứt chuột độc địa gây ô nhiễm khắp cùng trên mặt đất, sông biển, khí quyển, núi rừng, địa cực. Như một nhọt ung thư vĩ đại. Như một trận dịch hạch tràn lan hết thuốc chữa.
Mới đầu năm mà đã nói chuyện không khá!
2. Tết Mậu Tý. Can Mậu làm liên tưởng tới tết Mậu Thân, năm 1968! Một trận lửa sắt tơi bời. Tuy nhiên, bần tăng không có ý muốn “gợi giấc mơ xưa”, nhắc lại cuộc binh đao hãi hùng tại miền Nam cách đây đúng 40 năm tròn. Vậy mà tưởng chừng như mới hôm qua, còn nghe tiếng trực thăng rần rật trên đầu. Thời binh lửa, tóc hãy còn xanh. Giờ đây tóc đã bạc nhiều. Ngày xưa Hàng Xanh. Bây giờ Paris. Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương. Ngửng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ quê xưa. Như Lý Bạch đã từng thở than từ thời thịnh Đường huy hoàng thi phú nào xa lắc.
Hôm nay còn xuân mai còn xuân
Rượu uống say rồi nhớ cố nhân
Ngày xưa, Nguyễn Bính uống say rượu Tết nhớ tới Huyền Trân. Bần tăng rượu xuân vào cũng nhớ cố nhân. Nhưng cố nhân đây không phải là một bóng hồng ngày cũ, hay là một em nhỏ hậu phương năm nào. Mà cố nhân đây là ông chủ quán rượu Ba Cây Lý. Một tửu quán nằm ở miệt Chợ Lớn mà dân nhậu sành điệu thời chiến ai cũng đã từng ghé qua và “dô! dô!” tưng bừng với bè bạn. Thiệt ra thì quán rượu này không có tên (Bài không tên số 3!) Nguyên trong sân quán có 3 cội lý già đứng thi gan cùng tuế nguyệt, dân nhậu bèn gọi đại tửu quán là quán Ba Cây Lý cho dễ nhớ và dễ hẹn nhau.
Hẹn nhau cốt là để nhậu. Uống rượu là chủ yếu, vì món nhắm ở đây xét ra chẳng có gì là ly kỳ. Cũng đại khái tôm cua sò mực. Và đồ ăn đóng hộp, vô keo: thịt, cá, củ kiệu, tôm khô... Nhưng cái đặc biệt của Ba Cây Lý là bán rượu mạnh thứ thiệt: nào là uých ky “Zoanhny Đi bộ” nhãn đen nhãn đỏ, Chó đen Chó trắng, VAT 69... nào là Cognac, Courvoisier, Martel cổ lùn, ba sao, VSOP... Ối thôi, đủ thứ hết. Dân ít tiền thì uống uých ky nội địa. Những tên rượu nghe rất là “dấu ấn”, rất là “siêu” hình: Ông già chống gậy, Ông già bật ngửa, Ba con rắn, Bốn con thằn lằn, Hai con nai, Năm con bìm bịp... toàn là những thứ rượu thuốc hảo hạng thuộc loại “ông uống bà khen” - thời đó chưa có viagra. Bần tăng và mấy tay bợm nhậu thường kéo nhau tới đây để khao quân khi bạn ta vừa mới thoát chết ở mặt trận trở về, hoặc để nâng cao tinh thần chiến đấu của quân ta trước khi xuất trận giao đấu... với mấy em Kiều. “Một, hai, ba! Dô! Dô!...” Có dô thì phải có ra, đó là lẽ Trời, cãi làm sao được mà cãi?
3. Nhưng tửu quán Ba Cây Lý dính dáng tới Tết Mậu Thân ra làm sao mà nhắc?
Số là sau cái tết Mậu Thân tơi bời hoa lá cành đó, trở lại chốn xưa thấy quán ta tiêu điều hơn trước rất nhiều. Bèn khóc ba tiếng, cười ba tiếng mà than lên bốn câu đầu của “Ba Cây Lý thành hoài cổ”:
Tạo hóa gây chi cuộc hý cầu
Đến nay thấm thía cái phao câu
Dấu xưa xe ngựa còi lông hết
Nền cũ lâu đời muốn mọc râu!
Còn đâu cái cảnh "quán rằng thịt cá ê hề, khô lân chả phụng bốn bề thiếu đâu". Gẫm ra mới thấm thía cái lẽ tang thương trong thơ của cụ Tiên Điền: "Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau… thấy bà!"
Hỏi cố nhân, chủ quán bèn tâu trình cớ sự: "Mấy cậu nghĩ coi, giặc giã đánh tới rần rần nên tui phải tản cư tới nhà bà con để lánh nạn. Mà khu vực Chợ Lớn này hai bên giành qua giựt lại không biết là bao nhiêu bận. Lần nào phe Cộng chiếm được thì bọn du kích hốt đồ ăn trong quán. Lúc nào phe ta chiếm được thì lính quốc gia dọn rượu của tui. Đánh qua đánh lại, rốt cuộc quán tui bị dọn láng te! Cũng may là quán không bị cháy rụi. Thôi thì tui mượn đỡ tiền bà con mà mần lại từ đầu. Mấy cậu nhớ tới nhậu đều đều giúp cho tui làm lại cuộc đời nghe!"
Sau khi quan sát tình hình quân sự ngay tại mặt trận, bèn đi tới nhận xét sau: Không những chỉ đối chọi nhau về mặt chính nghĩa thôi, mà ta và địch lại còn rất xung khắc nhau về mặt ẩm thực. Địch lấy cái ăn làm gốc. Còn ta thì lấy cái nhậu làm cơ sở. Đánh nhau chí tử là phải lắm. Duy có điều, ăn vô thì chắc bụng. Còn nhậu vô thì… xỉn. Cuộc chiến đã kết thúc rất đúng theo cái lẽ "duy vật biện chứng Mác Lê". Sau Tết Mậu Thân, nghe lời than của chủ quán và chứng kiến tận mắt cái cảnh "tiêu điều nhân sự đã xong" của chốn cũ, bần tăng bèn xúc động khôn cùng, lại ngửa cổ lên trời khóc ba tiếng cười ba tiếng và bắt chước Bà Huyện Thanh Quan mà vi vút bốn câu thơ cuối của “Ba Cây Lý thành hoài cổ":
Đá đã đau gan vì quá nhậu
Nước còn xanh mặt với phân trâu
Ngàn năm kim cũ khi xìu ển
Cảnh đó người đây thấy phát rầu!
4. Tại quán Ba Cây Lý này cũng đã xảy ra một biến cố rất là “dấu ấn” và đã đi vào văn nhậu sử muôn đời không có cách nào đi ra được nữa.
Lần đó, cũng như mọi bận, bần tăng và mấy tay bạn nhậu kéo tới quán Ba Cây Lý để chuẩn bị hành quân lớn. Trong số có Lộc, ông anh yêu dấu của bần tăng. Nhậu tì tì từ trưa cho tới xế chiều. Lộc xỉn quá nên đâm ra buồn ngủ. Chịu hết nổi, anh của ta bèn lẳng lặng chuồn êm ra khỏi quán. Lò dò ra tới đường lộ, thấy có chiếc xe lôi đạp không người lái và không biết của ai đậu đó. Bèn vén màn cao su che phía trước leo lên nằm bật ngửa mà mở tiệm cưa bất hợp pháp: “Rằng xưa có gã từ quan, Lên non tìm động hoa vàng ngủ say”.
Buổi chiều hôm đó, như mọi bận, anh phu đạp tạt qua, ghim xe lôi vô lề đường bỏ đó, rồi tấp vô quán làm bậy vài ly giải khuây. Sau mấy ly “Ông già bật ngửa”, đạp sĩ trở ra đường, lấy chiếc công xa của mình đạp về cố quận. Đạp mấy vòng, chợt cảm thấy chiếc công xa của mình hôm nay sao bỗng nặng chưn đạp hơn mọi bữa. Bèn dừng cương lại, xuống ngựa, đoạn bước tới vén màn cao su lên mà khán binh thư: Lần này thì mới quả thiệt là “Ông già bật ngửa”! Đạp sĩ bèn khều anh của ta dậy và mời người ra ánh sáng cho tui nói chuyện. Xong cất cổ lên mà ca mấy lời dìu dặt:
Tui đưa anh sang sông
Bằng xe lôi hay xe đò...
Lộc lầm lũi trở lại quán, ngồi vô bàn và kể lại “sự cố” (nội), bàn tiệc được một chầu cười hể hả. “Trống treo ai dám đánh thùng/ Bậu không ai dám giở mùng chun vô?”
5. Nhưng người xưa có nói: “Cười người hôm trước hôm sau người cười”. Quả thiệt không sai! Và lần này, người gây nên “sự cố” là bần tăng, dĩ nhiên.
Bữa đó, Lộc và bần tăng dắt hai người em nhỏ hậu phương sang Khánh Hội thưởng thức lẩu mắm ở quán Ba Cây Dừa (lại 3 cây!). Ở đây chỉ có bia. Ăn mắm vào thì càng khát nước. Càng khát nước, càng nốc bia. Càng nốc bia, càng mắc tè. Quán không có chỗ tiện nghi nên đành phải tự động kiếm chỗ nào tè được thì cứ tè. Cũng bởi lẽ đó cho nên gẫm ra mới biết bần tăng vốn đã mắc cái bịnh “tiểu đường” ngặt nghèo từ lúc thiếu thời, và kéo dài cho tới những nay mà không sao hết, “no stars end”!
Phía trước quán là một vùng đất hoang tối đen có cỏ mọc cao. Buồn ngủ mà lại gặp chiếu manh! Bần tăng bèn xăm xăm băng qua phía bên kia đường, đứng lẩn vào trong bóng tối. Kéo cái khóa kéo xuống. Xong “hò dô ta! nắm cu kéo ra” mà giải thủy. Vừa khai pháo (quá đã!), chợt nghe có giọng đàn bà trong trẻo cất lên réo rắt từ trong bóng tối: “Mấy người thử nghĩ! Mấy người đương ngồi hứng mát mà khi không người ta tới đái đại trên cẳng mấy người thì mấy người tính sao?” Còn tính sao nữa! “Ba mươi sáu chước, chước nào lẹ hơn?” Không kịp đóng cái khoá kéo lại, và cũng không kịp từ giã hiền thê, bần tăng bèn “bồng con ôm gói bon bon chạy hoài!”
Sau khi hồi loan và kể lại tự sự, mấy em gái hậu phương ôm bụng cười ngặt nghẽo. Và cứ cười ruồi luôn suốt cả buổi. Quê một cục... rất lớn! Thề từ nay đi nhậu sẽ lận theo cái đèn bấm (cho nó le lói). Thêm nữa, trước khi “hò dô ta” và khai pháo, sẽ nộp đơn xin phép bà con ta trước cho nó phải phép.
6. Các chuyện tiếu lâm của dân nhậu nó dài bất tận - như là chuyện dài Nhân dân tự vệ (NDTV)! Hẹn sẽ kể tiếp lai rai trong những bài sau. Để tạm kết, bần tăng xin trình bày quan điểm sau đây của một đệ tử Lưu Linh, về chuyện nhậu nhẹt:
Trong một nhà thờ nhỏ ở một tỉnh nhỏ, ngày nào cũng có một bợm nhậu mặt mày đỏ ké, nặc nồng mùi rượu ngồi ngủ gục ở hàng ghế chót mà ngáy phì phò. Cho tới một bữa nọ, vị linh mục bực mình chịu hết nổi, bèn từ từ dấn bước thăng trầm xuống tận dưới chót lay bợm nhậu ta dậy và tỏ lời khuyên giảng:
“Con biết không, rượu giết con người ta chết từ từ. Con phải hiểu điều đó mà chừa rượu.”
Bợm nhậu cố nhướng một mắt lên, rồi cất giọng lè nhè:
“Thưa... thưa cha... rượu giết chết... chết từ từ hả... vậy... vậy thì cũng... rất tiện... vì con... vì con đâu... đâu có... muốn... muốn chết gấp... chết gấp... làm gì... làm gì...”
7. Nhân dịp đầu năm 2008, thử làm một màn tổng kết tình hình kinh tế thế giới năm 2007, và đưa ra một vài con số để so sánh thành quả của một vài quốc gia tiêu biểu so với Việt Nam mến yêu của ta.
Đại khái, các thành quả được thể hiện qua chỉ số sau:
PIB: tổng số nội sản thô trong năm.
PIB/ đầu người (chuyển ra PPA: tương đương mãi lực, lấy nước Mỹ làm chuẩn).
Tăng trưởng PIB so với năm trước (%)
LP: lạm phát trong năm (%)
Theo tạp chí kinh tế có uy tín thế giới, The Economist, sau đây là thành quả của một vài quốc gia trong năm 2007:

Quốc gia

Tăng PIB
(LP) (%)

PIB (PPA)
(tỉ đô)

PIB/ người
(PPA) (đô)

Mỹ

1.2
(2.7)

14 400
(14 400)

47 330
(47 330)

Pháp

2.2
(1.9)

2 680
(2 170)

43 640
(35 430)

Nga

6.3
(7.8)

1 420
(2 080)

10 010
(14 650)

Trung Quốc

10.1
(3.0)

3 940
(12 910)

2 960
(9 700)

Thái Lan

5.0
(2.1)

263
(697)

3 930
(10 400)

Việt Nam

8.1
(7.3)

83
(347)

953
(3 990)

Các con số trên đây cho thấy:
Việt Nam có mức tăng PIB khá cao (8.1 %), nhưng lạm phát cũng không kém (7.3 %)
Việt Nam có mức PIB trên đầu người (có thể coi như lợi tức trung bình) quá thấp (953 đô), so với Trung Quốc 2 960 (9 700 đô) và Thái Lan 3 930 (10 400 đô). Cũng may là tính ra mãi lực PPA có khá hơn lên được phần nào (3 990 đô).
Về mặt PIB/ đầu người, tại Á châu, Việt Nam (953 đô, PPA 3 990 đô) đứng sau Phi Luật Tân (1 640 đô, PPA 5 620 đô), nhưng trước Ouzbékistan (hạng chót) và Pakistan (940 đô, PPA 2 940 đô). Tuy nhiên, có thể là còn khá hơn Bắc Hàn (không biết thành quả)! So với lợi tức của đồng chí Cu Ba : 4 350 đô (PPA 11 970 đô) thì Đảng ta còn kém hơn khá xa. Cũng may, Việt Nam ta đã “Đổi mới” từ 1989 mà còn vậy. Thử tưởng tượng nếu Đảng ta cứ ôm gốc Mác Lê mà tử thủ thì toàn dân ta chỉ có từ chết tới bị thương. Dòng giống “Con Rồng cháu Tiên” oai hùng của ta phen này ắt sẽ tróc vảy rụng lông hết... là cái chắc!
Hướng về tương lai, các chuyên gia kinh tế đưa ra những nhận định và ước đoán như sau về nước ta:
Việt Nam cần phải củng cố thêm về hạ tầng cơ sở, xây dựng đường xá cầu cống (cái nạn “rút ruột” vật liệu!). Cần thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kỹ nghệ bằng cách giảm thuế xí nghiệp. Cần đào tạo nhân lực chuyên môn vì còn khiếm khuyết rất nhiều. Nền nông nghiệp đang giậm chưn tại chỗ. Cái quốc nạn đứng hàng đầu: tham nhũng. Đảng hò hét bài trừ tham nhũng nhưng chưa thấy kết quả gì thiết thực - tham nhũng còn có mòi gia tăng thêm nữa là đằng khác. Nếu đạt được những thành tích tốt đẹp trong các lãnh vực vừa nói, Việt Nam ta may ra mới tiến lên được tới hàng quốc gia “mở mang một nửa” ở ngưỡng cửa... năm 2020!
Bởi lẽ đó, năm 2008 trên Thái Bình dương sóng dậy ngất trời, đứa nhỏ ngoái đầu hỏi má mình (bà mẹ Việt Nam):
Má ơi má! Nước Mỹ còn xa hông má?
Nín đi! Má con ta phải rán để dành hơi để mà... lội tiếp.
8. Trong “Sự đời bài 14”, bần tăng có hứa trở lại vấn đề tư bản tài chánh.
Như đã nói, chính sách toàn cầu hoá đã đưa tới nền tư bản tài chánh, lấy tiền làm cứu cánh để phục vụ. Nền tư bản tài chánh đã tạo ra hai hệ luỵ không thể nào tránh được: bất ổn và bất công. Sự bất ổn phát sinh từ đầu cơ tài chánh nhằm mục đích tạo ra nhu cầu giả tạo. Cho tới mức tột điểm, quả bóng đầu cơ bùng nổ đưa tới khủng hoảng: như khủng hoảng internet đầu năm 2000 và khủng hoảng bất động sản subprime cuối năm 2007. Khủng hoảng thì xí nghiệp đóng cửa, nhân công bị sa thải, và những người tiết kiệm nhỏ lãnh đủ những số tiền lỗ lã kếch sù. Những tay bỏ vốn lớn thì đã thu lợi về trước đó.
Sự bất công là bất công về mặt tài chánh và tài sản. Sau những năm toàn cầu hóa, khắp nơi trên thế giới, thiểu số giàu lại càng giàu thêm vượt bực, còn đa số nghèo thì lại càng nghèo thêm sặc máu. Có lần bần tăng đã đưa ra nhận xét: “Muốn kiếm cơm thì phải làm việc, còn muốn kiếm tiền thì phải làm chuyện khác”. Trong lãnh vực tiền bạc, nói tới bất công thì phải đưa ra vài con số mới thấy rõ và hùng hồn hơn:
Năm 2006, tổng số tích sản (tiền bạc lẫn tài sản) của toàn thể thế giới là 94 283 tỉ đô. Trong số này, 37 200 tỉ đô (khoảng 40%) thuộc về tài sản tư của những tay giàu có hàng đầu trên thế giới (khoảng vài ngàn). Phần 60% còn lại chia ra cho hơn 6 tỉ dân số còn lại của toàn cầu. Và hơn một nửa dân số 6 tỉ người đó không có một cắc trong tay. Riêng trường hợp nước Pháp, từ 1998 đến 2006, trong toàn thể dân số 61,4 triệu Phú-lang-sa thì:
lợi tức của 0,01% (một phần mười ngàn) dân số thuộc hàng giàu nhứt (khoảng 3 500 người chịu thuế) tăng lên 42,6%
lợi tức của 90% dân số làng chàng còn lại (55,26 triệu) tăng lên ít hơn, 4,6%
Thêm nữa, những con số trên đây chỉ căn cứ vào tờ khai lợi tức (để đóng thuế). Chưa kể những lợi tức kếch sù do di sản riêng sinh ra hàng năm.
Còn ở quê hương Việt Nam ta, nói tới chênh lệch giữa giàu và nghèo thì xin miễn bàn (bất khả tư nghì!) vì không có thống kê chính thức và chính xác. Phải về tận nơi và chứng kiến tận mắt, ắt sẽ thấy rõ. Chừng đó, e chỉ còn nước theo chưn sư phụ Văn Vỹ mà... chạy xe Hông đa ôm cho nó đỡ ngứa con mắt!
Thử đương cử một hiện tượng cuối năm 2007: chiếc xế 4 bánh đắt tiền nhứt thế giới (hơn 1 triệu đô) đã có mặt tại Việt Nam liền tù tì và thuộc về tay một cán bộ gộc. Trong khi đó dân ngu khu đen mỗi ngày kiếm đỏ con mắt không ra một đô để lót bụng! “Bà con thử nghĩ!”
9. Khủng hoảng thì đưa tới lỗ lã kếch sù. Lỗ lã? Đúng! Nhưng không phải ai cũng lỗ. Có người chẳng những không lỗ mà còn lời đậm nữa là đàng khác.
Chẳng hạn định chế tài chánh Goldman Sachs. Hai năm trước vụ khủng hoảng bất động sản subprime ở Mỹ vào năm 2007, ban quản trị đã tiên đoán trước và đã “xoay sở” trên thị trường chứng khoán. Kết quả: lời 16 tỉ đô! Mỗi nhân viên được chia đều 660 000 đô. Riêng vài traders xuất sắc được hưởng 100 triệu đô tiền “bonus”. Chính những món tiền bonus khổng lồ này đã làm mờ con mắt và thúc đẩy các traders khác chọn lựa đầu tư những món tiền kếch sù (hàng chục, hằng trăm tỉ đô) vào những vụ đầu cơ đầy rủi ro. Gặp vận xui hoặc khủng hoảng thì lỗ lã nặng (5 tỉ, 10 tỉ đô) và sập tiệm. Trong số đó có trader Jérôme của Société Générale Pháp: Société Générale lỗ 5 tỉ euros (7 tỉ đô) một cái rụp.
Một thí dụ khác: Trường hợp Merrill Lynch ở Mỹ. Trong vụ khủng hoảng subprime vừa qua, sau khi đã nướng hết 10 tỉ đô của ngân hàng mình, Chủ tịch Tổng Giám đốc (PDG) Stanley O’Neal bắt buộc phải từ chức. Trước khi ra đi, PDG đã không quên vói tay bợ tạm món tiền thưởng bonus rất khiêm nhượng là... 160 triệu đô để tráng miệng!
Tại Pháp, sau khi thông báo nhà băng Société Générale do mình lãnh đạo lỗ 7 tỉ euros (9,5 tỉ đô) vào đầu năm 2008, PDG Daniel Bouton tình nguyện không lãnh lương nửa năm (khoảng 1,8 triệu euros) để giúp cho Société Générale phục hồi trở lại (!). Được biết số lương toàn năm của PDG là 3,6 triệu euros. Cộng thêm trị giá gia tăng trên các stocks options của mình tại Société Générale thì của hồi môn của chàng PDG già vào tháng năm 2007 xỉu xỉu lên tới món tiền nho nhỏ là 57,8 triệu euros (80 triệu đô). Đó là chưa kể món tiền bồi thường cho PDG trong trường hợp Société Générale cho chàng “de”: hai chục, năm chục, hoặc một trăm triệu euros (như O’Neal) hay còn nhiều hơn nữa?
Tục tĩu! Phải nói là tục tĩu! Trường hợp của O’Neal, của Bouton, và của rất nhiều PDG mất chức vì lỗ lã khác, phải nói là tục tĩu. Không có tính từ nào khác hơn. Những cảnh hành dâm trâng tráo thô bạo trong phim X nếu đem mà so sánh xem ra còn ít chướng mắt và còn đạo đức hơn rất... rất nhiều. Nhưng than ôi! Châm ngôn của cái bọn tục tĩu quốc tế này là “tiền không có mùi”!
Khi bình tĩnh mà xét lại thì công việc phân tích những cái “thối nát” trong chế độ tư bản của Karl Marx đâu phải là hoàn toàn vô căn cứ (nói theo kiểu Đảng ta: “không có cơ sở”!) Nhưng khổ thay, liều thuốc trị độc mà Các Mác đề ra lại còn độc hơn là căn bịnh: mấy chục triệu người đã bỏ mạng trên khắp thế giới vì chế độ toàn trị, và kết quả đạt được là sự sụp đổ tan tành của khối cộng sản. Nga, Tàu, Đông Âu và Đảng ta đã bắt buộc phải đổi mới, mở rộng cửa mời tư bản “thối nát” vào làm bizinết. Luôn tiện hốt “bạc cắc” (!) bỏ túi riêng: “tiền thối nát đâu có mùi miếc gì!” Hơn nữa, tiền đô Mỹ “In God we trust” còn thơm phức tột bực nữa là đàng khác: “Ối giời! thơm quá nà thơm! Cái xắc ziện của Ngài Tổng thống Mỹ trên đồng đô trông nó còn hồng hào hơn nà cái bản mặt của cha zà rân tộc!”
Mới biết, từ cổ chí kim, từ ngàn xưa cho tới những nay, dân ngu khu đen, dân nghèo sặc máu, nông dân chơn chất, từng lớp bần cố nông thiệt sự bao giờ cũng bị xách động, bị khai thác, bị bóc lột và rốt cuộc bị chiếc xe tiến bộ bỏ quên, bị sự phồn thịnh đá đít, bị bánh xe lịch sử nó cán cho dẹp lép. Thử nhìn lại lịch sử Trung Quốc và Việt Nam từ thời trước cộng sản, từ thời thuộc địa, cho tới thời cách mạng, thời cộng sản, qua tới thời hậu cộng sản, thời xã hội - kinh tế thị trường thì thấy. Nông dân bao giờ cũng là thành phần “tiên phong”, và rốt cuộc lãnh đủ một chăm phần chăm! Trong suốt lịch sử, tầng lớp bần cố nông lúc nào cũng đóng vai trò “xê xê xê đê” (CCCĐ: cầm cặc chó đái!). Và hứa hẹn sẽ còn tiếp tục “xê xê xê đê” dài dài. Trong hoàn cảnh đó, thử hỏi ở xứ ta, các em bé hậu phương không rời bỏ nông thôn tay lấm chưn bùn mà tuôn ra thành thị để làm “bia ôm”, để phục vụ trong các khách sạn, quán ăn, tiệm nhậu, hộp đêm, karaôkê, hay lấy chồng Đài Loan (và còn làm cái gì khác còn tệ hơn nữa) cho được?
Một bận bần tăng về viếng (“tham quan”, mẹ rượt!) Tràm Chim ở Đồng Tháp, được một em phục vụ cho biết: “Tới mùa gặt ở Đồng Tháp, kiếm đỏ con mắt không thấy bóng một cô con gái!” Cần nhắc lại, bà con yêu nước Đồng Tháp Mười ngày xưa, thời chống Pháp chống Mỹ, đã hy sinh tận mạng và ủng hộ kháng chiến hết mình. Bây giờ cách mạng thành công rồi, bà con ta ở đó có hưởng được một chút gì, ngoài đặc sản chuột, rắn (và đầm lầy) như tự muôn đời? Còn Việt kiều “Việt gian”, “Mỹ ngụy” ngày xưa giờ đây đã trở thành Việt kiều “yêu nước”, trong đó có vị tăng khả kính trọc đầu này (pháp danh: “Thích Đàn Bà”, kinh nhựt tụng: “Ban ngày lặt cỏ tối công phu”). “A di đà Phật!” Thiện tai! Thiện tai! “Yêu nước” là cái mẹ rượt gì? Thà chết sướng hơn! Nói theo kiểu thời trang bi giờ ở quê hương ta: “Yêu được chết liền!”
10. Thôi, nói chuyện "tư bản tài chánh" như vậy, tạm thời tưởng cũng đã "đủ liều" (đủ dose) lắm rồi. Bàn thêm nữa e sẽ bị lậm thuốc mà thác - bỏ vợ lớn, bỏ vợ nhỏ, bỏ đào nhí lại ai nuôi? Sẽ thác mà chỉ nhắm có một con mắt bên trái.
Để kết thúc bài này, trở lại chuyện dân nhậu có lẽ vui hơn (là cái chắc!) Chuyện có thiệt: Hồi thuở còn là học trò ở Vĩnh Long, bần tăng thường la cà nơi quán nước chị Tư Tùng để cua em Tuyết. Một đêm, bàn bên cạnh có hai ông sồn sồn ngồi nhậu tì tì. Trước thì là bàn chuyện, kế đó chuyển sang cãi vã, và sau cùng cả hai đứng dậy xô xát. Ông thứ nhứt cung tay vớt bạn mình một cái. Ông kia chếnh choáng ngửa người ra sau né. Ông nọ vớt hụt, quay một vòng rồi té ngửa xuống đất. Ông kia bèn vỗ ngực mình mà hét lớn:
Ê!... ê!... Chưa chắc… chưa chắc thằng nầy sợ thằng nào!
Ông nọ lếch nghếch bò bốn chưn, đoạn đứng lên lạng quạng rồi cũng vỗ ngực mình mà đáp lễ:
Ê!... ê!... Cũng chưa chắc… chưa chắc thằng nào sợ thằng nầy!
Thông báo
Nghe đây! Nghe đây! Muốn biết nước Mỹ mắc nợ thế giới và dân Mỹ mắc nợ ngân hàng tới mức nào, mời bà con đón xem bài tới sẽ rõ. Chuyện khó tin nhưng có thiệt. Xin bà con nhớ đem theo kleenex!
Nghĩ lai rai - Ba mươi
1. Lại bàn qua về khủng bố. Trong “Sự đời - Bài 10” bần tăng có nói phớt qua về những hình thức khủng bố, từ bạo động như đặt bom, cướp máy bay, sang ngụy trang như khủng bố chính trị, tôn giáo, cho tới tinh vi như khủng bố kinh tế, tài chánh. Thử phân tích vài trường hợp khủng bố kinh tế đã xảy ra tại Ấn Độ: vụ bò cái và vụ coton (bông vải).
Ai cũng biết Mỹ và Liên Âu (liên hiệp Âu châu) trợ cấp cho các sản phẩm nông nghiệp của mình để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, nhứt là cạnh tranh với các quốc gia nghèo và kém mở mang vì họ bán cùng sản phẩm với giá thấp hơn. Song song, Tổ chức Thương mại Thế giới (OMC), Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ Quốc tế (FMI) lại có thói quen đòi hỏi các quốc gia nghèo giảm thuế quan đối với hàng nhập cảng, đồng thời cắt giảm số trợ cấp ít oi của chánh phủ các quốc gia này nhằm giúp cho nông dân mình sống cầm cự. Tình trạng chèn ép này khiến cho các nông dân nghèo phá sản, đói kém, đưa tới nhiều vụ tự sát vì không còn cách gì sống được.
Ngân khoản trợ cấp của Mỹ và Liên Âu dành cho nền canh nông của mình đạt tới mức điên rồ. Tiền trợ cấp hàng ngày cho mỗi con bò tại các quốc gia giàu có này bằng gấp hai lần lương công nhật của một nông dân Ấn Độ (khoảng 1 euro). Bởi vậy, khi được hỏi họ ước mơ gì, một nông dân Ấn Độ có trình độ đã đáp liền tù tì: “Được sinh ra làm con bò Âu châu”!
Thị trường coton cũng vậy thôi. Cái đòn trợ cấp của Mỹ và Liên Âu đã tác hại khủng khiếp trên hoạt động trồng coton tại Ấn Độ, và tại nhiều quốc gia khác ở Phi châu. Chẳng hạn năm 2005, trị giá tổng sản lượng coton của Mỹ ước lượng vào khoảng 3,9 tỉ đô la. Thế nhưng ngân khoản trợ cấp cho 20 ngàn nông dân Mỹ trồng coton đã lên tới 4,7 tỉ đô la! Kết quả: giá cả coton đã bùng nổ trên thị trường thế giới. Được thổi phồng một cách giả tạo bởi ngân khoản trợ cấp quá trớn của các quốc gia giàu có, các giá cả này đã tiêu diệt tàn bạo các nông dân nhỏ tại các quốc gia nghèo vì họ sản xuất bằng chính những phương tiện ít ỏi của mình. Lại phá sản và tự sát hằng loạt.
Cái đòn trợ cấp của Mỹ và Liên Âu trong 2 trường hợp bò cái và coton rõ ràng đã đưa tới nghèo đói, phá sản và nhiều vụ tự sát của nông dân tại các quốc gia nghèo. Cái đó không gọi là khủng bố thì gọi là gì? Dùng nguỵ biện hay một mỹ từ nào khác chỉ là đạo đức giả và đểu ác/ cynique. Cái khủng bố kinh tế và cái khủng bố đặt bom, cái nào tàn độc và khủng khiếp hơn cái nào? (mặc dù cả hai đều là khủng bố và đều khốn kiếp như nhau) “Cái lý của kẻ mạnh bao giờ cũng mạnh.” Tâm địa con người vốn nó như vậy đó. Chối cãi được chăng?
2. Cách mạng! Chưa thấy dân tộc nào khoái cách mạng bằng dân tộc ta. Cách mạng trong nhà, cách mạng ngoài ngõ. Cách mạng trên trời, cách mạng dưới đất. Cách mạng mùa thu, cách mạng mùa đông. Cách mạng chính trường, cách mạng sân khấu. Cách mạng anh, cách mạng tui. Cách mạng sẵn sàng trên đầu lưỡi của mọi người… Nói sao cho hết.
30 tháng Tư! Ai cũng biết đó là ngày gì. Phe thắng thì gọi là ngày “giải phóng”. Phe thua thì gọi là ngày “sập tiệm”. Mười năm đầu sau 75, ở Pháp phe ta đều có tổ chức “đêm không ngủ” để ghi dấu ngày quốc hận. Hận chết bỏ! Hận bỏ ăn, hận bỏ ngủ. Một năm nọ, bần tăng cũng tham dự với tính cách giúp vui bà con ta: biểu diễn võ thuật! Không phải bần tăng biểu diễn - bần tăng chỉ biết múa võ Lèo và đánh vỏ... chai mà thôi. Nhưng đàn em biểu diễn. Trong phiên họp chuẩn bị không ngủ, thình lình có một vị đeo kính cận mặt mày sáng sủa chợt đứng dậy phát biểu: “Đêm nay, chúng ta sẽ làm cách mạng!”» Đang chuẩn bị (cho hai đứa mình) “thức trắng đêm nay”, giờ bỗng nghe kêu gọi “làm cách mạng”, bần tăng tự nhiên bị dị ứng phát nổi ngứa cùng mình, bèn tự động phản pháo cái rụp: “Bộ anh tưởng chỉ nội trong một đêm mà làm xong cách mạng được hả? Hơn nữa cũng tại bác Hồ làm cách mạng mà bọn mình mới bỏ chạy qua bên Tây để mà thức trắng đêm đây, bộ chưa tởn hay sao mà bây giờ lại còn đòi làm cách mạng?” Báo hại ông chủ toạ phải vội vàng đứng lên có đôi lời hòa giải. “Kách mạng! Ôi kách mạng!” Mẹ rượt! Chính những thằng làm cách mạng, sau khi thành công, mới sợ “bị” cách mạng tiếp theo lật đổ mình hơn ai hết.
3. Nói tới cách mạng thì không thể nào không nói tới cái ngày “cát tót zuy dê”. Ngày 14 juillet 1789, Cách mạng Pháp: Lần đầu tiên ở Âu châu dân ngu khu đen tự động đứng dậy với gậy gộc, giáo mác, bắt cóc đức vua đem lên đoạn đầu đài chặt đầu rồng đá banh. Ngon lành chưa?
Cái lòng oán hận nền quân chủ vốn đã chất chứa từ lâu trong lòng dân Pháp. Cho tới đời Louis XVI thì nó lên tới mức sẵn sàng bùng nổ. Hoàng hậu Marie-Antoinette rất hời hợt, hoang phí, ném tiền (và ném cả vua?) qua cửa sổ. Kho vua cạn. Trong dân gian xảy ra nạn đói kém. Thường ngày dân Tây ăn pain rẻ tiền (loại bánh mì dài đòn, vỏ dòn và hơi mặn mặn). Dân trưởng giả ăn sáng với brioche đắt tiền (loại bánh mì tròn xốp như bánh bông lan, hơi ngọt ngọt). Khi nhìn thấy hoàng hậu phung phí quá trớn, một cận thần đã lên tiếng nhỏ nhỏ nhắc khéo: “Khải tấu Hoàng hậu, dân chúng không có bánh mì/ pain để ăn”. Toanh-Nết bèn đáp nhỏng nhảnh: “Thì họ lấy bánh mì ngọt / brioches mà ăn!” Ngon lành chưa? Câu nói đó chính là giọt nước làm tràn ly đầy. Cách mạng do Robespierre cầm đầu đã phá ngục Bastille, bắt vua Louis XVI và hoàng hậu Toanh-Nết hạ ngục.
Vào thời điểm đó, có một vị hiểu biết khoa học tên Guillottine. Vị này chế ra được cái máy chém có lưỡi dao to bảng vạt xéo rất nặng, từ trên cao rớt xuống. “Bụp!” một cái, mượn đỡ cái đầu đội nón để đá banh. Bèn đặt tên luôn cho cái máy chém của mình là guillottine. Thiệt là đúng thời và đúng lúc hết cỡ nói. Phe cách mạng bèn nảy ra sáng kiến đem đầu đức vua Louis XVI ra chặt thử. Ai dè nó đứt thiệt - tưởng là nó (không) đức ai dè nó đứt! Kế đó đem đầu hoàng hậu Toanh-Nết ra chém thử tiếp theo. Ai dè nó cũng đứt luôn! Đem đầu cận thần của đức vua ra thử tiếp. Đứt dài dài. Vậy mà cái guillottine vẫn chưa đã khát. Bèn xoay qua xơi tái lai rai đầu các con dân đã ủng hộ Cách mạng. Trong “Sự đời – Bài 6”, bần tăng có đề cập tới trường hợp của Condorcet, người đã hết lời ca ngợi các đức hạnh của Cách mạng. Nhưng tới hồi kết cuộc: “Tưởng rằng nó đức hạnh, ai dè nó… đứt thiệt”. Đó là tin vịt bần tăng tung ra để chọc quê Condorcet chơi cho vui đó thôi, chớ Condorcet không bị máy chém guillottine nó mượn đỡ cái đầu. Nhà toán học này trước kia phục vụ cho hoàng thượng. Khi Cách mạng bùng nổ thì theo Robespierre. Nhưng khi thấy phe Cách mạng chém đầu mọi người hăng quá nên có lên tiếng chỉ trích. Bị cách mạng lùng bắt, nhà toán học bỏ trốn, nhưng cuối cùng bị tóm và tống giam. Qua ngày hôm sau, khi lính tới dắt tên phản động lên phòng thẩm vấn “làm việc” thì thấy nhà toán học đã sùi bọt mép mà chết thẳng cẳng. Chết vì thuốc độc – có lẽ để trốn tránh những câu hỏi về đức hạnh tréo cẳng ngỗng, khó “zả nhời” của Robespierre. “Tưởng rằng nó đức hạnh, ai dè nó… đứt chến!” Đức hạnh, đứt đầu, hay đứt chến, đàng nào thì cũng đều đứt hết cả.
Nhưng chưa hết. Được ít lâu sau, tới phiên Robespierre cũng tình nguyện biếu cái đầu lãnh tụ cách mạng của mình cho Cách mạng mượn đỡ để đội nón. Mở màn cho cái truyền thống “tự ăn thịt” cho các cuộc cách mạng vĩ đại của lịch sử sau này. Truyền thống: “Sau khi ăn thịt xong bọn phản động thì cách mạng xoay qua ăn thịt chính những đứa con của mình”. Ở Nga, sau khi cuộc cách mạng vô sản của Lénine 1917 thành công, Trotski, Kirov, Boukharine và rất nhiều đồng chí trung kiên của Lénine bị Staline thanh toán. Ở Trung cộng, Mao hạ bệ và thanh trừng Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu… Ở xứ ta, khi Cách mạng mùa thu 1945 của Bác thành công thì Nguyễn Bình, Tạ Thu Thâu, Phan văn Hùm bị thịt. Và sau năm 1975, MTGPMN bị giải tán, hạ bệ sau khi Cộng sản Bắc Việt chiếm xong mìền Nam.
Nhưng vẫn chưa hết. Hồi kết thúc của cuộc Cách mạng Pháp vô cùng lâm ly bi đát: chính nhà khoa học Guillottine cha đẻ của cái máy chém cách mạng, cuối cùng đã bị chính cái guillottine con mình nó “Bụp”! Ô voa cái đầu! Truyền thống “xơi con mình” của cách mạng phải được duy trì!
4. Nói chuyện khoa học có lẽ vui hơn. Nay thử bàn qua vấn đề tình dục của loài thú (con người tự bản chất không phải là thú ư?)
Nhắc lại truyện ngắn Em vịt vàng nhỏ của bần tăng. Trong truyện có một nhân vật cuồng dâm bất hủ là con vịt xiêm đực già Đại Bàng. Ngoài gà, ngỗng, heo (và bà chủ cho mướn nhà) ra, bất cứ nàng vịt mái nào lảng vảng, bất kể vịt xiêm vịt ta, bất luận già trẻ bé lớn, đều bị Đại Bàng hiếp dâm ráo trọi. Sử ta có chép vua Minh Mạng nhờ uống rượu thuốc loại “ông uống bà khen” mà cho ra đời ngót nghét 108 thằng lỏi và con nhóc. Nhưng nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ so với thành tích của Đại Bàng. Suốt triều đại Vịt Xiêm dài mút mùa lệ thủy của Cuồng Dâm Hoàng đế, qua bốn năm thế hệ, đếm làm sao cho hết đám vịt thái tử và công chúa - bốn trăm? năm trăm?
Hồi nhỏ bần tăng còn thơ ngây nên những tưởng là Đại Bàng con đàn cháu đống. Dè đâu mới đây, đọc tạp chí khoa học thấy nói tới một khám phá lạ lùng, khiến cho bần tăng phải đặt nghi vấn về cái niềm tin khờ dại hồi thơ ấu của mình. Số là cô Patricia thuộc đại học Yale bên Mẽo, sau khi mổ xẻ và khảo sát dục bộ của 16 loài vịt và ngỗng, đã đi tới nhận xét sau: Dục bộ của vịt mái nó xoáy ngược chiều với dục bộ của vịt đực. Hơn thế nữa, âm bộ lại còn có nhiều ngõ ngách (như địa đạo Củ Chi?), có khi lại dẫn tới ngõ cụt. Kết quả: vịt đực khó lòng mà hiếp dâm ẩu nữ vịt. Mà cho dù có hiếp dâm được đi nữa, cũng chưa chắc gì đã truyền được cái giống cuồng dâm đích thực của mình. Như vậy, có chắc gì cái đám vịt con thái tử và công chúa, kết quả của những cuộc tình ép uổng đầy nước mắt và lông rụng khi xưa đích thực là con của bạo chúa Đại Bàng? Mà bạo chúa thì đã chết mất đất (và mất xác) từ khuya rồi, làm sao trắc nghiệm ADN để xác định dòng dõi cho được? Biết tôn thái tử nào lên nối ngôi Hoàng đế Đại Bàng bây giờ đây?
Tuy nhiên, cái khám phá của cô Patricia cũng khiến cho bên trong cái đầu trọc của bần tăng loé lên một niềm hy vọng le lói và tin yêu mới. Trong thời đại di truyền học ngày hôm nay, các nhà sinh học có thể sửa đổi được các di thể (gènes) truyền giống. Biết đâu một ngày nào đó, các khoa học gia sẽ sửa đổi din con người sao cho nình bà có được cái dục phận rắc rối, xoáy ngược chiều và có nhiều địa đạo Củ Chi như âm bộ của các con vịt mái vậy đó. Chẳng hạn lấy din vịt mái ghép vô din nình bà, như khoa học đã từng ghép din dạ quang của loài sứa vô tế bào của mấy con cá Tàu cho nó vô cùng le lói by night. Khi đó, các bà nữ quyền sẽ yên chí lớn: bọn đực rựa sẽ hết phương trổ mòi và bất ly cục cựa (quê chưa?) Sẽ không còn cái nạn các bà la toáng lên om sòm “Em chả! Em chả!” Còn bọn đực rựa thì cũng hết cái nạn bị đội nón macho và bị nón nó xiết cái đầu nhức như búa bổ!
5. Nhưng gì chớ nói tới tình dục thì chẳng khác gì kể chuyện dài Nhân dân tự vệ. Nó dính dấp tới muôn loài và có thiên hình vạn trạng. Sau loài vịt, thử tìm hiểu cái sắc thái tình dục của loài bọ ngựa trời (có bộ mặt ngựa?) và loài nhền nhện (có bộ mặt người?)
Bọ ngựa trời được mấy ông Tây tặng cho cái hỗn danh mỹ miều là mante religieuse, có nghĩa là bọ nữ tu, vì hai cánh tay trước của bọ lúc nào cũng khép nép chắp trên ngực như nữ tu cầu nguyện. Cầu nguyện gì? Cầu nguyện sao cho Thượng đế xui khiến ngày hôm nay có một nam tu sĩ tự nguyện tới nạp mạng cho chằn. Mà quả nhiên bọ nữ tu thuộc loại “chằn ăn trăn quấn” hàng cao cấp. Mỗi lần bọ nam tìm tới nữ tu để tỏ tình thì chẳng khác gì Kinh Kha sang sông Dịch thích khách bạo chúa. Sang Tần tráng sĩ Kinh Kha chết/ Máu đỏ trôi sông Dịch thủy về…!
Bọ nam chỉ lớn và nặng ký bằng một nửa Nữ chúa. Trận đấu rất là chênh lệch cán cân trọng lượng. Vậy mà chàng vẫn hiên ngang và hân hoan sang sông thí mạng… cùi. Thừa cơ bọ nam đang lâm trận mê tơi, Nữ chúa thò hai cánh tay khép nép cầu nguyện của mình ra mượn đỡ cái đầu của Kinh Kha mà nhâm nhi khai vị. Dù đã mất đầu nhưng thân mình còn lại của tráng sĩ vẫn tiếp tục hành hiệp (hành lạc?) say sưa. Thích khách kiểu này quả nhiên là thích quá thích! Gẫm lại tráng sĩ bọ nam còn sướng hơn tráng sĩ Kinh Kha rất… rất nhiều. Sau khi hoàn tất nhiệm vụ truyền giống, thân thể bọ nam hoan hỷ cúng dường luôn cho Nữ chúa lót dạ. Yến tiệc xong, Nữ chúa ợ một cái dài, lấy tăm ra xỉa răng. Đoạn rút khăn kleenex chùi miệng, lấy son tô lại đôi môi xanh dờn của mình, ướm thử một nụ cười ruồi, rồi chắp hai cánh tay lên ngực mà khép nép cầu nguyện như trước. Tiêu tùng một kiếp Kinh Kha. Qua Tần tráng sĩ Kinh Kha chết/ Tráng sĩ một đi chẳng trở về…
6. Bây giờ thử bàn qua “dấu ấn” tình dục của loài nhện. Trong truyện Tây du có nói tới loài Nữ yêu Nhền nhện giăng lưới nhựa bắt thầy trò Tam Tạng đem về động ăn thịt. Thì ở ngoài đời cũng y chang vậy thôi. Có điều khác hơn một chút là ngoài đời nam nhện tự nguyện đu lưới nhựa và hú như Tác Zăng để tới nạp mạng cho yêu nữ. Mỗi lần ra đi chẳng khác nào khủng bố ôm bom vô chợ cho nổ thí mạng cùi.
Nam nhện chỉ lớn và nặng ký bằng một phần mười yêu nữ nhền nhện, nghĩa là chỉ vừa đủ để chở dụng cụ hành hiệp (lạc?) - nhưng ở đây là bom khủng bố. Tuồng tích thì cũng y chang như là Kinh Kha ngựa trời. Nữ chúa mượn tạm trước tiên cái đầu nam nhện, kế đến là thân thể rồi tới bát chi tám cẳng (Nghe đâu đây tiếng reo cười sung sướng ớn xương sống của nàng nữ quyền khoái bạo dâm). Cũng vậy, dù mất đầu, thân nam nhện vẫn tiếp tục thi hành nghĩa vụ (công dân) truyền giống thiêng liêng của mình đối với dòng giống con Rồng cháu Nhện một cách hoành tráng - cho Cha già dân Nhện được ngậm cười (khúc khích) nơi suối vàng. Với loài nhện, chung chung “dấu ấn” tình dục là như vậy.
Nhưng mới gần đây, cô Jutta thuộc viện đại học Hamburg bên Đức khám phá ở loài nhện Argiope một hiện tượng lạ: dâm cụ của loài nam nhện này có “đầu đạn” có thể tháo rời được (như cái đuôi con thằn lằn, hoặc cái nòng súng hãm thanh)! Bèn đưa giả thuyết: lúc lâm trận, khi nữ nhện sắp ra tay thì nam nhện bèn vứt đầu đạn lại rồi ôm súng vắt tám giò lên cổ mà bỏ chạy thục mạng để thoát thân - y chang cái kiểu “bỏ của chạy lấy người” hồi thời sau “giải phóng”. Nhưng sau khi thanh tra chiến trận nhiều lần, cô Jutta nhận thấy các anh bộ đội hành hiệp đều bị nữ chằn rượt theo với tốc độ gấp 10 lần, và kết cuộc bị xơi tái hết ráo - chớ không được cái may mắn như Đường tăng Tam Tạng thời Tây du ký. Bèn đưa giả thuyết thứ hai: nam nhện dùng “đầu đạn” để đóng nút địa đạo Củ Chi hầu không cho một tên địch nào khác xâm nhập sau khi chàng bộ đội phơi thây nơi chiến địa. Như vậy là chắc ăn! Bảo đảm đám nhện thái tử và công chúa do Nữ chúa hạ sanh sau này đều là con của mình một chăm phần chăm. Khỏi cần thử ADN.
Tuy biết vậy, nhưng bần tăng sẽ không bao giờ hành hiệp theo lối để lại “đầu đạn” như loài nhện Argiope. Vì thử tưởng tượng… Thà chết sướng hơn! Tuy nhiên, so sánh với cõi người thì chiến thuật dùng “đầu đạn” đóng nút cũng đâu có khác gì cái “xì líp sắt” mà các mệnh phụ bắt buộc phải tròng lên người mỗi khi đấng trượng phu của mình xuất chinh ngoài biên ải xa xôi.
7. Giờ đây hãy rời màng nhện và trở lại cõi người, cũng vẫn trong lãnh vực tình dục: chuyện cái xì líp sắt. Thời Trung cổ, thiên hạ chưa có thuốc ngừa thai và bao cao su cao cấp. Vì vậy mỗi lần xuất chinh dài hạn, đức vua đều buộc hoàng hậu phải tròng vào hạ thân cái xì líp sắt có khóa đặc biệt, mà chìa khoá thì đức vua lận theo người rất kỹ. Làm như vậy hầu bảo đảm khi hồi cung khỏi đưa nhầm con rơi của kẻ khác lên ngôi mà đắc tội với tiên đế.
Bận nọ, vua Arthur của vương quốc Anh xuất chinh có hơi xa và hơi lâu. Bèn buộc hoàng hậu mặc xì líp sắt có khóa vô cùng bí mật. Chìa khóa có 2 cái. Vua lận lưng một cái. Chìa thứ hai vua giao cho cận thần tâm đắc là Tony (Blair?) và căn dặn kỹ: “Nếu trẫm có mệnh hệ nào ngoài trận tiền thì khanh hãy mở khóa giải thoát cho hoàng hậu để nàng kiếm nơi quyền thế khác mà hầu cận. Khanh nhớ kỹ: chỉ mở khóa khi nào ta thực sự băng hà thôi nghe!” Tony sụp gối: “Thần xin phụng mạng!”
Rồi thì kèn trống trỗi lên: Tiễn chàng theo lớp mây đưa/ Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà… Vua thót mình lên lưng con ngựa quý, khoát tay ra lịnh xuất quân. Người ngựa hàng hàng lớp lớp, rần rần rộ rộ đăng trình. Đức vua dẫn quân đi được khoảng một dặm đường thì phía sau có một chàng kỵ mã cấp tốc đuổi theo. Tới sát lưng đức vua thì người ngựa dừng lại. Trong đám bụi mù, kỵ sĩ Tony lật đật xuống ngựa và quỳ phủ phục dưới chưn rồng, hai tay dâng lên một vật nhỏ, khải tấu: “Muôn tâu bệ hạ! Trong lúc cấp bách, bệ hạ đã trao cho hạ thần lộn chìa khoá. Chìa khoá này hạ thần có mang ra mở thử cái xì líp sắt của hoàng hậu nhiều lần mà vẫn không mở được đấy ạ!”
8. Đó là chuyện bên vương quốc Anh. Còn bên vương quốc Phú lang sa thì sao?
Đây nói qua về triều đại Louis XIV và thập nhị ngự lâm quân. Thời đó chinh chiến không ngừng. Rồi bận nọ, đức vua, thêm một lần nữa, lại xuất chinh dài hạn. Bèn buộc hoàng hậu vận khố một cái xì líp sắt rất dầy. Tuy nhiên, đức vua cũng ban cho hoàng hậu chút ơn mưa móc: phía trước khố, đức vua cho khoét một cái lỗ “tiện nghi”. Dù vậy, đức vua cũng đề cao cảnh giác nên xung quanh lỗ được cắt theo hình răng cưa để “lấy thẹo” cái phường dâm tặc. Kế đó, vua cho dời thập nhị ngự lâm quân đến chầu và giao cho sứ mạng giữ cấm cung cho hoàng hậu. Rồi vua xuất quân, người ngựa rần rộ lên đường. Bạn hỡi! mai nầy ai hỏi đến tên tôi/ Thì xin hãy nói khoác chinh y rồi…
Hoàng hậu ở lại cung, ngày ngày vun xới khu vườn Versailles giải khuây để ẩn nhẫn chờ đấng lang quân hồi trào. Vợ lân mò/ ra trước ao/ bắt cá lòng tong nấu canh bí đao… Rồi một năm qua, sau khi dẹp xong loạn nước, đức vua hồi trào trong hàng cờ xí rợp trời. Vừa đặt đít rồng ngồi lên bệ rồng, vua lật đật vuốt râu rồng và há miệng rồng truyền lệnh cho vời thập nhị ngự lâm quân đến chầu. Vua đuổi hết quần thần ra khỏi cung rồi bắt các chàng ngự lâm tín cẩn phải lần lượt “cuổng trời” ra hết cho mắt rồng duyệt binh. Ngự lâm thứ nhứt: “em nhỏ” có mười thẹo. Ngự lâm thứ hai: có chín thẹo. Thứ ba: lại có nhiều thẹo. Thứ tư, thứ năm: vẫn có thẹo dài dài… Cho tới ngự lâm thứ mười một: lại thẹo nữa. Đức vua vô cùng thất vọng. Tuy nhiên, tới ngự lâm cuối cùng, một bất ngờ: “thằng nhỏ” của ngự lâm vẫn còn nguyên xi! Chưa chịu tin, vua lật qua lật lại khám rất kỹ: không một thẹo nhỏ, còn mới cắt chỉ! Đức vua lấy làm đẹp dạ, bèn cất giọng oanh rồng hỏi đấng trung quân: “Khanh làm thế nào mà giữ cho mình được thanh khiết như vậy?” Im lặng. Hỏi lần thứ hai. Vẫn im lặng. Đến lần thứ ba, đức vua kéo râu rồng, há miệng rồng quát lớn: “Sao khanh không giả nhời trẫm hỏi? Bộ không sợ ta hạ lịnh chém đầu vì tội khi quân sao?”
Tới đây, ngự lâm thứ mười hai bấn quá bèn đưa một ngón tay chỉ vào miệng mình mà ú ớ. Vua không hiểu ý, lại hỏi. Vẫn ú a ú ớ. Đức vua tưởng ngự lâm bị á khẩu nên lập tức cho vời ngự y tới khám. Khi ngự y vạch miệng ngự lâm ra để khảo sát thì cả đức vua lẫn ngự y đều đồng thời bật ngửa: lưỡi của trung thần ngự lâm mang đầy những thẹo là thẹo!
9. Có những câu nói mà một khi đã trót nghe rồi là nhớ cả đời. Rất ư là “hằn lên nỗi đau”! Chẳng hạn như lần nọ bần tăng lỡ dại “bàn xăm” chuyện văn nghệ văn gừng với một thằng bạn cầm bút. Bần tăng có ý chê nó viết truyện không đầu không đuôi, ngồi lê đôi mách, dài dòng lê thê. Nó tức lắm, bèn nổi xung ném một câu rất là thách thức “thần linh” vào mặt bần tăng (ui da!): “Vậy chớ tao đố mầy xeo tao ra khỏi văn học sử!” Một cách tự động, bần tăng bèn phản pháo: “Mầy vô chưa được thì làm sao mà tao xeo mầy ra?” Nó lại càng mắng chửi bần tăng thậm tệ hơn trước, dĩ nhiên. “Thiện tai! Thiện tai!”
10. Nói chuyện Bush con. Đấng lãnh tụ Đệ nhứt Quốc gia trên trái đất nầy nổi tiếng là xử lý chuyện thế giới y chang như một cow boy Texas chính cống. Và hơn thế nữa, lại còn là một tay súng bắn lẹ nhứt thiên hạ: phát súng đầu tiên chưa kịp nổ là Bush con đã bắn phát thứ hai.
Sau khi phịa ra cái cớ Irak có vũ khí tiêu diệt tập thể, Bush con nối chí Bush cha xua quân lần thứ hai sang đánh Irak. Lần đầu Bush cha tiến đánh: mục đích dằn mặt khối Á Rập và duy trì cái hình nộm bạo chúa Sadam để hù các nước Á Rập xung quanh nhằm chiêu dụ và bán ồ ạt vũ khí Mẽo cho các quốc gia nầy “tự vệ” - lên tới mức hằng mấy trăm tỉ đô la! Lần thứ hai, bất chấp sự chống đối của Liên hiệp quốc, Bush con gởi máy bay dội bom và xua quân xâm lăng Irak: nhằm đặt bàn tay chiến lược của Uncle Mẽo lên cái vòi “mở/ khóa” giếng dầu hỏa của Irak, dưới chiêu bài “diệt bạo chúa, lập dân chủ”, dĩ nhiên. Một khi Mẽo làm chủ được dầu hỏa Irak rồi thì Trung cộng sẽ “mệt” cầm canh với Mẽo. Mà nếu găng quá, có thể sẽ xảy ra thế chiến, biết đâu? Nhưng lần này Mẽo đang sa lầy tại mặt trận Irak, cũng như đã từng sa lầy tại chiến trường Việt Nam trước đây. Quốc hội Mẽo đã nhiều lần yêu cầu Đệ nhứt thiện xạ rút quân. “No! No! And no!” Và lần sau cùng, Bush con đã tuyên bố rất ư là hung hăng con bọ xít: “Ngày nào vợ tui và con chó của tui còn ủng hộ thì tui còn uýnh Ia Rắc!” Quả nhiên lời đồn không sai: phát súng thứ nhứt chưa kịp nổ là Bush con đã bắn phát thứ hai liền tù tì. Rất xứng đáng là khuôn vàng thước ngọc cho cái quốc gia hùng mạnh nhứt thế giới! (Nhắc lại: “Cái lý của kẻ mạnh bao giờ cũng… mạnh!”)
Tưởng cần nên biết là trên cái thế giới hết sức “công bằng” này, thiên hạ có thiết lập cái Toà án quốc tế La Haye để xét xử các tội ác đối với nhân loại - thường là đem ra xử các bạo chúa và tội phạm chiến tranh của các quốc gia… nghèo yếu. Và cũng nên biết là Mẽo không hề chịu ký tên vào công ước của Toà án La Haye. Sức mấy mà lôi được Cao bồi năm bờ one ra hầu Toà án quốc tế. Và cũng còn lâu… rất lâu mới lôi được chóp bu nào đó của Nhóm G8 (tám quốc gia giàu mạnh nhứt thế giới) ra trả lời tội ác mình trước lương tâm nhân loại. Mà tội ác của Nhóm G8 thì nó sờ sờ trước mắt, thường nhựt như ăn cơm bữa. Cha nội nào không đồng ý thì cứ cởi áo ra mà lôi bọn nó thử đi, ắt biết liền. Tuy nhiên, ví lòng từ bi đối với chúng sanh, bần tăng xin dặn nhỏ: “Trước khi lôi, nhớ đóng bảo hiểm toàn diện… cho vợ con nó nhờ!”
Nghĩ lai rai - Ba mốt
1. Hãy thả hồn về dĩ vãng... dĩ vãng êm đềm...
Cái thuở bần tăng mới bể tiếng, mới nhổ giò, mới biết trét bidăngtin lên tóc, biết bận cái quần din xanh lè đầu đời để làm cao bồi hương thôn, biết liếc gái, biết rung động vì yêu nữ, và biết... làm thơ! Đâu khoảng 14 hay 15 tuổi gì đó - nhưng cũng có thể sớm hơn nữa không chừng.
Mà một khi đã rớ tới thơ rồi là không bỏ được nữa. Kể từ đó bần tăng làm thơ dài dài cho tới 18, 19 tuổi. Rồi 20, 21, 22 tuổi… May quá! Mọt mối không biết từ đâu bỗng kéo tới thanh toán những tập thơ đầu đời giùm bần tăng - ăn nhằm loại thơ này ắt khó tiêu là cái chắc! Gẫm ra, con sâu cái kiến cũng có chỗ đắc dụng của nó. Mới biết cái Lẽ Trời vốn nó huyền diệu khôn cùng. Kìa thế cục như in giấc mộng/ Máy huyền vi mở đóng khôn lường! Mới thấy (thơ) đó, bỗng rồi mất (thơ) đó.
Cho tới năm 26 tuổi thì bởi trót nghe theo lời (u mê) xúi dại của bạn bè, bần tăng cho in tập thơ đầu tay Điệp khúc tình yêu và trái phá - cái tựa mới nghe qua đã mệt cầm canh! Hơn nữa, đã thơ mà lại còn là thơ “tự ro”, muốn viết sao đó thì cứ viết, người đọc phải rán cắn răng mà chịu.
Trong tập có bài “Con vịt sở thú”, hoàn toàn tự ro… như cánh vịt giời. Đại khái bài thơ ta thán nỗi đau khổ rất hiện sinh phi lý rong rêu của một con vịt cù lần bị nhốt chung với con già đãy hói đầu (rất khoái siêu hình), con công xoè múa (vươn tới cái đẹp), con đà điểu gân guốc (xưng tụng anh hùng), con gà trống ham gáy (ca ngợi tình yêu), con hạc trắng ngóng trời (đi tìm Thượng đế). Và kết thúc: con vịt chắp tay sau đít đi vòng vòng ngắm những chấn song sắt mà nhức đầu, nó đến bên hồ vốc nước rửa mặt, nó nắm chặt tay lại và nước chảy hết ra ngoài, nó nhìn nó dưới nước nhăn mặt thè lưỡi nói cạp cạp cạp cạp… cặp cặp cặp cặp… cặcặcặcặp… rồi lăn ra cười, cười chảy cả nước mắt nước mũi.
2. Không hiểu vì lẽ nào mà ngay từ những tuổi hai mươi, bần tăng đã bắt đầu nghi ngờ trí tuệ con người và dị ứng với những thứ gì mà trí tuệ bày đặt ra (có phải mơ hồ thấy đó toàn là hoang tưởng?) Cũng may thời đó chưa có “đỉnh (cứt) cao trí tuệ”. Nếu có, chắc là bần tăng đã tiêu tùng xí quách trong trại cải tạo. Quả thật là “đầu xanh vương khổ hận”! Một mầm non văn nghệ chưa lên mà đã… xuống. “Vừa mới chớm yêu em đã biết sầu!”
Rủi thay bài “Con vịt sở thú” lại lọt vào mắt xanh của một nhà thơ rất là “rằng nghe nổi tiếng cầm đồ” thời đó. Nhà thơ bèn nhăn mặt cau mày và buông lời cằn nhằn có ý trách móc sao người mần thơ trẻ tuổi đã dám coi thường trí tuệ và dám hỗn láo buông tiếng kêu cặcặcặcặp trước những bàn thờ vốn đã được nhân loại khổ công gầy dựng bằng (đỉnh cao) trí tuệ từ bấy lâu nay. Vì bần tăng chỉ mần thơ theo cảm tính thôi nên không có đưa ra lập luận gì cứng như bê tông để binh vực cho cái ý nghĩ mơ hồ của mình.
Rồi thời gian trôi qua… trôi qua mau… trôi qua rất mau… Mãi đến 40 năm về sau, tình cờ đọc tạp chí Văn thấy nhà thơ năm xưa, đến gần cuối cuộc đời, đã phát biểu: «Và nói trí tuệ là nói vô cùng, nói đảo điên, nói xuôi nói ngược đều được. Càng ngày tôi càng coi thường trí tuệ". "Coi thường", vậy hả? Người có nói lộn cho người nói lại. Trước kia người coi trọng trí tuệ, bi dờ người coi thường? Mới biết đâu phải chỉ có những tư tưởng lớn mới gặp nhau. Những tư tưởng nhỏ cũng cụng đầu nhau chan chát tóe khói đều đều. Coi thường trí tuệ! Dù có hơi muộn, nhưng cũng tốt thôi. Cũng đủ để cho người ngậm cười (khúc khích) một cách hồn nhiên nơi chín suối… Lồ Ồ.
3. Khi nói tới trí tuệ thì người ta thường liên tưởng tới thông minh. Như thể trí tuệ tự nó là thông minh vốn sẵn tính trời. Một trong những định nghĩa: Thông minh là khả năng giải quyết vấn đề. Đã có lần bần tăng hạ bút: Một mình nó, trí thông minh không giải quyết được gì hết. Nó tạo thêm vấn đề nhiều hơn là giải quyết. Theo chỗ bần tăng trộm nghĩ thì trong thời điểm hiện tại, con người chỉ mới bò lên được tới trình độ khôn vặt chớ chưa đạt tới cái thông minh thực sự. Khôn vặt là loại thông minh nhỏ, gần với tiểu xảo, loại trí khôn chỉ nhằm phục vụ cho mình và bè đảng mình. Dĩ nhiên, thông minh là một vấn đề gây ra nhiều cuộc tranh cãi bất tận. Dài dòng lắm. Nói chuyện thực tế có lẽ dễ hiểu hơn.
Lần vừa rồi bần tăng về thăm quê hương, có con nhỏ cháu dâu Bắc cờ than phiền là thời buổi nầy nó cứ bị bà con ngoài Bắc vô Sài Gòn gạt gẫm hoài, mặc dầu (mặt mỡ) nó rất là đề cao cảnh giác. Bần tăng an ủi nó chiếu lệ và căn dặn: “Bởi có tin nên mới bị gạt”, nó chớ nên để cho người khác lung lạc bằng những lời hứa nhăng cuội. Nó ngẫm nghĩ một hồi rồi buông ra phán xét (cuối cùng): “Người nào gạt được mình là người đó thông minh!” Bần tăng la lớn: “Là phường gạt gẫm điếm đàng chớ thông minh con mẹ gì! Nó đã lường gạt mình mà mình còn sụp lạy ca tụng nó. Cái gì mà quái gở vậy?” Bần tăng nổi sùng quạt cho nó một trận tơi bời hoa lá cành. Nó than phiền với thím Sáu: “Chú Sáu khó quá!” Rồi tới phiên vợ ta quạt lại ta trả thù - mát quá mát!
Chưa hết. Bận nọ bần tăng luộc một con vịt béo rồi kéo một thằng bạn hoạ sởi lẩm cẩm tới nhậu chơi cho vui. Chuyện vãn, nó than phiền là đã bị một thằng điếm ba da văn nghệ rủ hùn vốn làm tạp chí và đã gạt gẫm nó ba bốn bận rồi. Bần tăng tức quá: “Gặp tao tao đánh bỏ mẹ! Sao mà mầy cù lần quá vậy? Không dám chửi nó một tiếng nào hết?” Nó đáp tỉnh bơ: “Tại tao khiêm nhường”. Thiệt hết cỡ nói! “Tại mầy nhu nhược thì có!” Ngẫm nghĩ sao, nó lại bồi cho bần tăng thêm một đòn chí tử: “Thằng nào gạt được tao là thằng đó thông minh!” Nữa, lại thông minh nữa! Y chang như con nhỏ cháu dâu Bắc cờ. Bần tăng lại tái bản hung hăng con bọ xít lần nữa. Và vì tức cành hông nên bỏ ăn… thịt vịt luôn. “Thông minh”? Mẹ rượt! Thiệt tình hiểu không nổi. Có lẽ người bị gạt muốn ám chỉ “cái thằng gạt tui nó khôn hơn tui” để nâng cấp trí tuệ của mình lên lai rai hầu gỡ gạc lại chút đỉnh danh dự (!) chăng? Nôm na: cho đỡ mất mặt bầu cua. Nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ. Giờ nói chuyện lớn hơn: chuyện quốc tế.
4. Trở lại cuộc chiến Mỹ - Quốc - Cộng vừa qua. Tới đầu những năm 70 thì cuộc chiến bắt đầu kết thúc. Hoà đàm được mở ra tại Kinh đô Ánh sáng Paris. Phía Mẽo có ngoại trưởng Kissinger. Phía cộng sản Bắc Việt có ngoại trưởng Lê Đức Thọ. Dĩ nhiên còn có phe Quốc gia và MTGPMN tham dự. Bốn phe phải mất gần một năm trời để cãi nhau về hình dong cái bàn hội nghị (tròn, vuông, dài, méo, tam giác, bầu dục, khoanh vòng...) và phe nào ngồi chỗ nào, ngồi đâu, phía sau hay phía trước. Dĩ nhiên, trong khi đó thì binh sĩ và bộ đội tiếp tục chết tự nhiên, chết dài dài, chết nhăn răng trên chiến trường Việt Nam. Nhưng nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ. Mầy muốn chết cho mầy chết luôn!
Hòa đàm đang diễn tiến thì Kissinger đi đêm thậm thụt nói chuyện lén với Trung cộng. Và năm 72 thì cái tên thuộc nòi “bán Chúa” này đã dắt Nixon đi gặp Mao xếnh xáng tại Bắc Kinh, luôn tiện tính chuyện bỏ đứt miền Nam cho cộng sản xơi tái. Chưa hết. Song song với chiến trường Việt Nam, đồng thời còn có chiến tranh Trung Đông giữa Do Thái và Palestine (Á-rập). Mỹ đứng về phía Do Thái, dĩ nhiên. “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Về bản chất thì Mẽo vốn cũng là một dòng Do Thái cách tân và cùng thờ chung một tôn giáo: Thờ Tiền. Tên Kít bèn đội “da cu lên đầu” và vận động với quốc hội Mẽo nhằm chuyển ngân khoản viện trợ quân sự cho miền Nam sang yểm trợ cho mặt trận Do Thái. Thuật ngữ chính trị: làm lobby. Với hai đòn hèn đó của tên bán Chúa thì việc gì phải đến tất đến: Miền Nam mất vào tay cộng sản Bắc Việt năm 75.
Cái màn “hoà đàm Paris” là chỉ nhằm để che mắt thiên hạ và ru ngủ dư luận quốc tế. Tới năm 73 thì “Hòa ước” (!) được ký kết. Thọ và Kít được trao giải Nobel Hòa bình một triệu đô chia hai. Hai con buôn quốc tế bắt tay nhăn răng cười hả hê tại bàn hội nghị Paris cho phóng viên chụp hình lưu niệm để đời. Kít bỏ túi khỉ 500 ngàn đô. Thọ được Đảng ta chỉ thị không cho nhận tiền vì Bắc Việt còn đánh nữa chớ hoà bình con mẹ gì! Xơi trọn miền Nam còn ngon lành hơn gấp triệu lần cái món tiền lẻ tẻ 500 ngàn đô. Được tin Thọ “em chả! em chả!”, Kít lỡ bộ nên cũng giả đò đem tiền Nobel hoàn lại cho khổ chủ - thuở đời Do Thái mà chê tiền (như Chệt chê mì), tin nổi không? Kít dư biết, khi nhận tiền Nobel là hắn ta đã cam kết không được trả lại. Thì cũng lại giả đò bấm bụng và muối mặt mà nhét 500 ngàn đô trở lại túi khỉ lần nữa chớ sao. Tiền mà, đâu có mùi miếc gì đó mà sợ. “Ê! Có chớ. Mùi máu của lính miền Nam!” Thật là xứng mặt với cái lời dặn in trên tiền đô Mẽo: “In God we trust. The others pay cash” Tuy nhiên, bần tăng gợi lại mấy trang huyết sử vừa qua không phải nhằm để nhắc nhở cái chuyện “Kít ăn dơ” 30 năm về trước, chuyện mà hầu như bà con ta ai nấy đều đã biết. Cái sự thể về sau nó còn tức ói máu hơn nhiều.
5. Năm 75, miền Nam mất vào tay Bắc Việt. Cộng sản tràn chiếm trọn lãnh thổ, từ ải Nam Quan cho tới mũi Cà Mau (Cà lẹ?). Việc đầu tiên của phe chiến thắng: Trả thù! Trước hết chiếm nhà cửa, chiếm đất đai, chiếm tài sản, chiếm vợ con phe chiến bại. Kế đến, hốt hết những thành phần bị xếp vào hàng “Ngụy quân”: quân nhân, công chức, nghệ sĩ, đối lập, tình nghi… tống tuốt tuột vào các trại “cải tạo” để bắt học tập cách mạng. Ai nấy đều đã biết rõ, tưởng không cần nhắc lại.
Trong số những người bị hốt, có đông đảo thân hữu của bần tăng, trong đám có một nhân vật rất đáng chú ý. Bạn ta vừa là sĩ quan vừa là một nhà thơ cũng thuộc hạng “rằng nghe nổi tiếng cầm đồ” trong giới cầm bút ở miền Nam thời đó. Bạn ta bị giam rất kỹ ở những trại cải tạo càng lúc càng xa mút tí tè, ra tới tận miền Bắc, Sơn La, Lạng Sơn, Lào Kay… Đằng đẵng mười mấy năm trường. Nhiều lần tưởng đã bỏ xác nơi rừng thiêng nước độc. Có lúc bị lôi ra tòa để chờ lãnh án tử hình. Thế nhưng, nhờ có chân mạng đế vương nên bạn ta còn sống sót để mà ngó mặt trời. Sau đó, nhờ sự can thiệp của các hiệp hội quốc tế, của chính phủ Mẽo và sự tận tâm của các bạn bè nên bạn ta được móc ra khỏi trại cải tạo và đưa sang Mỹ tị nạn.
Sau khi định cư và đoàn tụ với vợ con đình huỳnh tại Mẽo được vài năm, bạn ta bèn làm một chuyến viếng thăm Âu châu. Nhân tiện ghé Paris chơi, và tấp vào tịnh xá của bần tăng mà thăm dân cho biết sự tình. Gặp nhau, tay mặt bắt tay trái, mừng lắm. Rồi nhậu nhẹt, dĩ nhiên. Nói chuyện bù khú. Nhắc lại chuyện năm xưa hồi lâu, bạn ta bỗng nghiêm giọng và buông lời vàng ngọc: “Trên thế giới này có một nhân vật rất là thông minh”. Bạn ta ngừng một chút. Ta chờ đợi. Bạn ta bèn dứt điểm: “Đó là Kissinger!” Trời hỡi! Kissinger mà là đệ nhất thông minh? Bần tăng thiếu chút nữa đã hét lên một tiếng lớn mà té nhào xuống ngựa, hộc máu có chậu như Châu Du. Lại “thông minh”! Mà lại là tên bán Chúa, bán luôn miền Nam và đưa bạn ta ở tù mút chỉ hơn mười mấy năm dài. Bây giờ bạn ta nỡ đành sụp lạy và tôn vinh cái tên Kít “đội da cu” lên hàng thông minh quốc tế! Thiệt không tưởng nổi! “Trời cao có thấu! Cúi xin người ban phước cho đời con”.
Tuy nhiên, vì là bạn lâu năm mới gặp lại nên bần tăng không tiện đốp chát. Dù vậy, trong bụng mình bần tăng cũng hầm hầm muốn tống ra một câu: “Mẹ rượt! Cái mửng nầy, thằng Kít nó có bán đứng vợ con mầy cho con mụ Tú Bà chắc mầy sẽ còn bốc thơm nó thông minh hơn lên thập bội!” Mẹ rượt và mẹ rượt! Sao trí tuệ con người nó thúi tha tới mức đó? Vậy mà là đỉnh cao đấy, đừng có giỡn mặt tử thần. Mẹ rượt!
6. Sẵn bàn về trí tuệ và thông minh thì hãy bàn cho tới bến.
Đây nói qua về Truyện Tam quốc, cái thời - Xứ Giữa của Ba Tàu được chia ra làm ba nước, theo thế chân vạc: Lưu Bị, Tào Tháo, Tôn Quyền, mỗi ông Chệt hùng cứ một phương. Gia cát Lượng, tự là Khổng Minh theo phò Lưu Bị vào thời Hán mạt, làm quân sư. Khổng Minh mưu trí hơn người, làu thông quá khứ, đoán được tương lai, giỏi thiên văn địa lý, điều binh khiển tướng như thần, chiến thắng nhiều trận ngoạn mục. “Mưu kế Khổng Minh!” Địch quân nghe tới là sợ toé khói, vắt giò lên cổ mà chạy. Khổng Minh đã từng bày mưu xúi Tào Tháo lập trận Xích Bích để đốt Tào Tháo cháy rụi hết râu. Tào tặc bỏ chạy tắt qua ngã Huê Dung để mong tẩu thoát. Đã đoán biết trước như vậy nên Khổng Minh sai Quan Vân Trường chận đón Tào A Man tại Huê Dung đạo hầu mượn đỡ cái đầu Tào tặc về cho Lưu Bị đội nón. Tào Tháo phải xuống ngựa kể lể ân tình ráo hết nước miếng và lạy sói trán mới được Quan Công tha mạng. Đời sau, đại thi hào Đỗ Mục có tới thăm Xích Bích và cảm khái đề thơ: Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu/ Tự tương ma tẩy nhận tiền triều/ Đông phong bất dữ Chu lang tận/ Đồng tước xuân thâm tỏa nhị Kiều.
Chu lang nói trong thơ đây là Chu Du (hay Châu Do), đô đốc kiêm quân sư rất giỏi theo phò tôn Quyền trấn giữ đất Ngô. Còn nhị Kiều là hai cô em gái xinh đẹp của Tôn Quyền: Tiểu Kiều là vợ Chu Du, và Đại Kiều thì còn đang kén chồng có máu mặt trong thiên hạ. Tôn Quyền bèn đem cô Đại Kiều ra dụ khị Lưu Bị sang đất Ngô cưới về làm vợ hầu bắt cóc đối thủ giết đi để trừ hậu hoạn, theo kế bày của Chu Du. Dè đâu Khổng Minh lại trở mưu “gậy ông đập lưng ông”, sai Triệu Tử Long theo phò Lưu Bị sang đất Ngô. Sau đó gạt cả Tôn Quyền lẫn Chu Du cướp được nàng Đại Kiều về làm vợ (thứ ba) cho Lưu Bị, khiến cho Chu Du tức ói máu. Chưa hết. Sau này, Khổng Minh còn bày mưu gạt và chọc quê Chu Du hết mức thêm hai lần nữa. Lần cuối cùng, Chu Du tức quá phải ngửa cổ lên trời mà hét lớn: “Thiên sanh chi Do hà do sanh Lượng!”, có nghĩa là trời đã sanh Châu Do sao lại còn sanh chi Gia cát Lượng? Hét xong bèn té nhào xuống ngựa hộc máu có chậu mà thác. Vì thế, nghe tới “mưu kế Khổng Minh” đã từng gạt đối phương nhiều phen chí tử, thiên hạ sợ vỡ mật xanh là cũng bởi lẽ đó. Bận nọ, các tướng thủ thành cho Lưu Bị đều xuất trận đi xa hết ráo. Địch quân biết được, kéo tới vây đánh thành, Khổng Minh bèn bình tĩnh lấy thang máy lên lầu cao chót vót. Đoạn cho thắp đèn nê-ông sáng trưng quanh chỗ mình ngồi. Xong, quân sư mở hộp đờn lôi ra cây vĩ cầm cũ mèm mà kéo vi vút một bài “Khổng Minh toạ lầu” tỉnh bơ. Kéo tới kéo lui nhiều bận. Ấy vậy mà không một tên địch nào dám cả gan tiến vô thành. Bởi lẽ địch quân sợ quân sư dụ cho lọt ổ phục kích thì bỏ mẹ cả đám - trước đó phe địch đã từng bị Khổng Minh gạt như vậy rồi nên còn tởn cho tới bi giờ. “Một lần tui tởn tới già/ Đừng đi nước mặn mà hà ăn chưn!”
7. Khổng Minh gạt được hết mọi người, vậy mà trong suốt thời Tam quốc duy có một người độc nhứt gạt được Khổng Minh: Lưu Bị! Không gạt ra mặt mà là gạt ngầm, gài bẫy khiến cho quân sư bị “kẹt” đành phải theo phò Lưu Bị suốt đời. Mà đâu phải chỉ có mình Khổng Minh bị “kẹt”. Kẹt dài dài, kẹt cả đám. Tất cả các tướng giỏi theo phò Lưu Bị sát cánh đều bị kẹt mà quên mình, quên cả vợ con. Không phải quên mà là “bỏ hết” chuyện lấy vợ đẻ con.
Trong trào “mạt Hán”, duy chỉ có mỗi một mình Lưu Bị là có vợ. Không phải chỉ một vợ mà là có tới hai bà xã, một lớn một nhỏ - và sau này còn cưới thêm nàng Đại Kiều đất Ngô về làm vợ thứ ba! Do đó mới có sự tích “Quan Công phò nhị tẩu”, có nghĩa là Quan Công cắp thanh long đao theo phò hai bà chị dâu, hầu đem hai bà về cho Lưu Bị hú hí. Ban đêm Quan Công phải chong đèn đọc sách suốt sáng, sợ thiên hạ dị nghị mình cắm sừng ông đại ca. Sau đó ba anh em kết nghĩa Lưu Quan Trương và nhị tẩu bị Tào Tháo đánh cho một trận tan tành xí quách, thất lạc tứ tán.
Hai bà vợ của Lưu Bị bồng đứa con trai nhỏ (ấu chúa) chạy lạc. May nhờ có Triệu Tử Long cang cường bám sát bảo vệ và giải cứu. Trong lúc hỗn loạn, bà vợ lớn bị thương, bèn giao ấu chúa cho Triệu Tử Long bọc lại, buộc chặt vào bụng mình. Xong bà nhảy xuống giếng tự tử để khỏi làm bận bịu tướng quân. Triệu Tử Long phải liều chết xả thân chém giết tưng bừng, máu nhuộm đỏ giáp trắng (lúc đi bạch giáp, lúc về hồng giáp) trong trận Đương Dương Trường Bản mới bảo vệ được ấu chúa an toàn đem về cho Lưu Bị… nựng. Lưu Bị mở bọc vải ôm con khóc lóc và buột miệng than: “Thiếu chút nữa vì mi mà ta đã mất một tướng tài!” Than xong, bèn liệng ấu chúa ra phía sau. Triệu Tử Long đứng sẵn phía sau bèn hoảng hồn phản xạ dang hai tay ra chụp được ấu chúa, như thủ quân thiện nghệ chụp được quả bóng bất thần - Lưu Bị đã thừa biết trước! Triệu tướng bèn lật đật sụp lạy mà năn nỉ Lưu Bị chớ nên làm tổn thương ấu chúa, hầu có người để nối nghiệp sau này. Thiệt hết cỡ nói!
Lưu Bị có tới ba cái gối ôm nơi phòng the, còn các tướng thì sao? Khổng Minh: không vợ! Quan công: độc thân! Trương Phi: cà nhỏng chống xâm lăng! Triệu Vân: sầu ôm gối chiếc. Người đà yên phận tốt (ba) đôi/ Riêng tui lẻ bóng mồ côi một mình. Khi các tướng qua đời hết rồi là kể như đứt chến, không người nối dõi. Tuy nhiên, chỉ một mình Quan Công có được một thằng con trai độc nhứt là Quan Bình. Không phải con rơi mà là con nuôi.
Trở lại chuyện cái ông quân sư và chuyện thông minh cho nó khỏi lạc đề. Một bận nọ, bần tăng họp bạn nhậu nhẹt và nói chuyện trời trăng. Rồi bắc sang nói chuyện Tam quốc. Và chuyện “mưu kế Khổng Minh”, dĩ nhiên. Ai nấy đều hết lời ca ngợi chước quỉ mưu thần của Gia cát Lượng - mặc dù thương ông Gia cát tài lành/ Gặp cơn Hán mạt phận đành phui pha - và khen quân sư là người thông minh đệ nhứt thiên hạ. Bần tăng bèn cất giọng ba ngù: “Nhưng Khổng Minh là một tên điếm!” Mọi người nhốn nháo phản đối. Bần tăng giải thích lằng nhằng: “Cha nội nầy chuyên môn gạt gẫm thiên hạ, không phải điếm thì là cái gì?” “Nhưng đó là mưu kế.” “Kế gì thì kế, cũng đều nhằm gạt gẫm thiên hạ hết ráo, không phải vậy sao? Mà một khi đã gạt gẫm thiên hạ rồi thì gọi là điếm, không phải sao?” “Ối! cái thằng nầy nói ngang, ba làng nói không lại!” Nói ngang, vậy sao?
Bần tăng gãi đầu, lên tiếng hỏi: “Giả thử bây giờ Khổng Minh đứng ra làm chủ hụi và gọi tay con, có thằng nào ở đây dám vô một chưn không?” Im lặng. Hỏi tiếp: “Nếu Khổng Minh mở casino, có thằng nào dám vô đánh bạc không?” Vẫn im lặng. Lại hỏi: “Nếu Khổng Minh rủ hùn hạp làm bizinết, có thằng nào dám bỏ vốn ra hùn không?” Lại im lặng. Tuy hỏi khó vậy, chớ trong thâm tâm mình, bần tăng lại trộm nghĩ: nếu thử thời bây giờ Khổng Minh bỗng nảy ra sáng kiến lập kế để đi ăn cướp nhà băng thì là bần tăng theo liền. Và nếu Khổng Minh bỗng nảy trong đầu âm mưu mở hãng bảo hiểm, bần tăng cũng ô kê và theo luôn. Và còn nhiều chuyện khác nữa, Khổng Minh rủ theo là bần tăng cũng sẽ vô cùng hồ hởi. Chẳng hạn như xổ đề, lắc bầu cua, quăng bài ba lá, tổ chức bầu cử... Ối thôi, thiếu gì! Tuy nhiên, nếu khen mấy thằng lường gạt - trong đó có Khổng Minh, có Kissinger, có Bush con, có thằng điếm ba da... - là thông minh, thì bần tăng sẽ phản đối tới cùng. Chết bỏ!
8. Trở lại thời kỳ hiện đại (trước khi vọt sang thời hậu hiện đại). Chuyện đâu còn có đó, đừng có gấp quá mà vấp té trước cái ngưỡng cửa “tình dục tân kỳ”.
Ai cũng biết ở xứ Tân Tây Lan đồng cỏ bát ngát nên có nuôi rất nhiều cừu. Nuôi cừu một mặt để ăn thịt cừu cha cừu con, mặt khác để hớt lông cừu biến chế thành len may mặc. Lông cừu Tân Tây Lan rất tốt nên xuất cảng khá nhiều sang Pháp - cái xứ nổi tiếng về thời trang. Len được tung ra thị trường dưới hai dạng: len thường có lẫn lộn chất lạ, và len tinh khiết chỉ gồm toàn là lông cừu thứ thiệt. Pháp gọi loại len này là laine vierge, có nghĩa là len trinh nữ, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
Do đó nên mới có câu đố: “Khi nào thì có được len trinh nữ?” Rồi lần nọ, một thằng cù lần không nắm vững vấn đề đã đáp rất là gà mờ: “Khi nào có được len trinh nữ à? Thì khi nào mấy con cừu cái chạy lẹ hơn cái thằng chăn cừu!”
9. Lần nọ, trong một buổi ra mắt sách, bần tăng đã phát biểu: “Tôi chỉ thích viết về những đề tài mà tôi có thực sự trải nghiệm và có sống thực. Vì vậy, có hai đề tài mà tôi thường viết tới, đó là đàn bà và quê hương”.
Về nhà, nằm đêm gác chưn lên trán nghĩ lại thì tuy nói là hai vấn đề, nhưng thiệt ra chỉ có một mà thôi. Bởi lẽ đàn bà, nghĩ cho cùng, cũng là quê hương của bần tăng. Có lần bần tăng đã viết trong một bài thơ của mình: Anh cám ơn các nàng đã cho anh mượn thân thể để anh cư ngụ. Ấm no là cái chắc! Ôi cái quê hương yêu dấu! Vô đó ở rồi là hết muốn ra luôn. Tử thủ. Chết bỏ! Bởi vậy, khi thiếu vắng đàn bà là bần tăng đứng ngồi không yên, bần thần suốt buổi, bể nghể cả ngày. Gẫm ra mới biết, ấy là do bởi “xa quê hương nhớ mẹ hiền!” mà ra hết cả. Trong người bần tăng có một thằng con nít nhớ má kinh niên. Cũng như lão ngoan đồng Châu Bá Thông trong truyện Kim Dung vậy đó. Từ ngày xưa, ngay ở bậc tiểu học, sách Quốc văn giáo khoa thư đã có dạy rằng: Chỉ có quê hương ta là đẹp hơn cả. Chí lý! Chí lý!
10. Ông già của bần tăng là một nhân vật ly kỳ, rất ư là quá cỡ... thợ mộc! Nói hoài không hết. Mà bần tăng có tới hai ông già (chết cha!): một ông già vợ khoái đá gà, và một ông già ruột khoái đá vịt.
Một bận nọ, tới nhà thăm anh suôi thấy ông đang ngồi chuốt cựa gà nòi đá độ ngoài sân nắng, ba tôi kề tai ông nói nhỏ: “Anh theo tui đi đá vịt vui hơn” Đá vịt? Ông già vợ tôi tưởng anh suôi mình nói lộn, cho nói lại. Ba tôi vẫn nhứt quyết là “đá vịt” chớ không phải “đá gà”. Ông kề tai anh suôi bổ túc thêm chi tiết: “Bà Tư Cắc kè ở xóm tui mới có mấy con vịt mái tơ ngộ lắm!” Bấy giờ ông già vợ tôi mới “À” lên một tiếng bồi hồi và chợt hiểu ra.
Chưa hết. Hồi ở Xóm Mới xó xỉnh tại Bạc Liêu, nhà bần tăng có nuôi nhiều gà vịt, trong đó có con vịt xiêm đực Đại Bàng mắc chứng cuồng dâm. Gà vịt heo ngỗng gì, bất luận trống mái, đều bị Đại Bàng ta hiếp dâm hết ráo. Bận nọ, bà chủ cho gia đình bần tăng mướn nhà ngồi khuất trong lùm cỏ cao “giải thủy”, tưởng đà yên chí. Dè đâu Đại Bàng nằm vùng sẵn ở đó tự bao giờ, bèn đưa mỏ cứng ướm thử cái bàn ngồi của bà chủ một phát. Bà hoảng hồn la làng chói lói, rồi phủi đít chạy vô nhà méc má bần tăng là bà bị con vịt xiêm phải gió của gia chủ nó rỉa. Ba bần tăng che miệng cười và nói nhỏ với anh Hai bần tăng: “Gặp tao tao cũng rỉa nữa, huống hồ là con vịt!”
Thiệt tình! Cái ông già thợ mộc nầy thiệt là… quá cỡ thợ mộc!
Nghĩ lai rai - Ba hai
1. Thử bàn về cái nhìn và quan niệm của con người về những gì xảy ra trong đời sống của chính mình và quanh mình. Cái mà đôi khi triết học gọi là nhân sinh quan và vũ trụ quan.
Có cái nhìn thực tiễn, đứng trong thế giới mà chiêm nghiệm và tìm cách thích ứng. Đó thường là cái nhìn của con người phương Đông, muốn tìm cách sống hoà thuận với thiên nhiên.
Lại có cái nhìn đứng ngoài thế giới mà nhìn vào rồi đề ra những ý niệm. Và sau đó tìm cách hành động và tổ chức thế giới theo ý niệm của mình. Đó thường là cái nhìn của con người phương Tây, muốn bắt thiên nhiên phải phục vụ con người.
Thoạt đầu, ý niệm chỉ là một cái gì hết sức trừu tượng. Nhưng khi con người bắt đầu bàn cãi và tranh luận thì cái trừu tượng đó dần dần khoác lên mình những lớp da lớp thịt hư giả, và ý niệm lột xác biến thành một cái gì (tưởng chừng như) có thiệt. Có thiệt tới mức nó thay thế hẳn thực tại: người ta chỉ chú tâm tranh cãi nhau về cái ý niệm trừu tượng, còn cái thực tế của đời sống thì không còn đó nữa. Nó có thiệt tới mức con người sẵn sàng chết cho ý niệm, chết cho lý thuyết, chết cho chủ nghĩa mà mình tin tưởng. Người là con thú duy nhứt chấp nhận chết cho ý tưởng. Và hơn nữa lại cho đó là “siêu”! Là cái đặc thù của giống Người. Là cái làm nên con Người. Và ca ngợi hết lời.
Tuy nhiên, lịch sử nhân loại đã từng cho thấy, những ý tưởng mà con người cho là chắc chắn đúng, hùa theo và hy sinh cả tánh mạng (chết cho lý tưởng!), nhưng than ôi! sau khi rõ ra thì cái ý tưởng mà mọi người đã liều mạng binh vực, nó sai bét, nó xuẩn ngốc hết chỗ chê. Vậy mà thiên hạ đã đua nhau mà chết như ruồi! Vả lại, không có gì bảo đảm một trăm phần trăm là một ý tưởng nào đó hoàn toàn đúng và đúng hoài hoài. Ý tưởng chỉ là sản phẩm của não óc, và có thể là não óc của một thằng ba trợn kinh niên, điên khùng tận mạng. Loại ý tưởng đó, mỗi giây phút cái “đỉnh cứt cao trí tuệ” nó ỉa ra hàng đống, không biết đổ đâu cho hết. Hơn nữa, đầu óc con người nó lăng xăng như con khỉ mắc phong, thay đổi “tư zuy” xoành xoạch, thấy phát chóng mặt. Không tin, thử tự quan sát cái hoạt động của trí não mình thì biết. Nói tóm, ý tưởng nó rất là vô thường, cũng như mọi thứ khác trên đời. Chết cho cái ý tưởng vô thường, phỏng có nên chăng? Thà chết cho tình yêu vậy mà còn “được” hơn. Nhưng nghĩ cho cùng, đừng có “thà chết” cho một cái gì hết là khỏe nhứt! Là an toàn… cho tánh mạng nhứt! Và tốt nhứt!
2. Bởi lẽ đó, chết cho ý niệm, chết cho ý tưởng cũng có nghĩa là chết cho hoang tưởng. Cái bản chất của “đỉnh cao trí tuệ” vốn nó là thế đó: hoang tưởng. Và hơn nữa, nó rất kiêu ngạo. Kiêu ngạo tới mức mù quáng. Kiêu ngạo hết thuốc chữa. Tuy nhiên, mặc dù là hoang tưởng, nhưng cái tác hại của ý tưởng, của ý niệm lại hết sức là có thiệt và tàn phá khủng khiếp. Thử nhìn vào những cuộc tranh chấp phát sinh từ những ý niệm của con người (như tổ quốc, biên giới, dòng giống…) từ tiền tài, quyền lực, cách tổ chức xã hội (như chủ nghĩa, lý thuyết, thánh thần, tôn giáo…). Muốn biết, chỉ cần nhìn vào các cuộc chém giết triền miên, thảm sát dài dài suốt trong lịch sử nhân loại, cho đến cuộc Đệ nhứt Thế chiến, Đệ nhị Thế chiến kết thúc bằng hai trái bom nguyên tử. Và tiếp theo là các hoả ngục do chính con người đã đốt lên và đang duy trì ngay trong đầu thế kỷ 21 rải rác trên khắp địa cầu (Rwanda, Darfour, Iraq, Afganistan, Palestine…), cùng với những tổ chức bóc lột kinh tế, bóc lột lao động chết người đại qui mô trên khắp thế giới hiện nay.
Trong thời điểm hiện tại, con người lúc nào cũng hờm sẵn để dội lên đầu nhau những vũ khí nguyên tử tàn độc nhứt. Cái mà con người tưởng là thực tế (như đất đai, quặng mỏ, tài nguyên, dầu hỏa…), nghĩ cho cùng cũng chỉ là hoang tưởng. Bởi lẽ cái mà con người thực sự rượt đuổi chính là sự “giàu có”, nghĩa là biến mọi thứ thành tiền để bỏ vô nhà băng! Bởi lẽ không một ai có thể trực tiếp ăn sắt hoặc uống dầu hỏa hết. Hưởng thụ ư? Sức hưởng thụ của cá nhân mỗi người vốn rất giới hạn. Phần còn lại chỉ là để “le lói” với thiên hạ. Le lói mà không phải là hoang tưởng ư? Con người rượt đuổi theo hoang tưởng cũng giống như là đứa con nít rượt đuổi theo chân trời. Ngất ngư! Nhưng lại lấy đó làm lẽ sống, làm ý nghĩa cho đời mình.
Con người bày đặt ra những ý niệm và mưu toan bắt Trời đất phải uốn nắn theo ý niệm của mình. Khi bị trái ý, con người phán rằng Trời đất vận hành như vậy là không “hợp lý” một chút nào hết. Con người bèn ra tay sửa đổi. Cái lý ở đây dĩ nhiên là cái lý phát sinh từ “«đỉnh (cứt) cao trí tuệ” hiu hiu của con người. Và cũng bởi lẽ cái “đỉnh cao” nó cao quá mức nên thường khi nó bị mây gió cuốn bay đi tuốt luốt. Phát sinh từ hoang tưởng, rốt cuộc “đỉnh cao trí tuệ” trở về với hoang tưởng. Đã có lần bần tăng viết trong một bài Sự đời: Nền văn hoá và văn minh của con người được xây dựng trên hoang tưởng.
“Đỉnh cao” đã hiểu chưa? Anhđượcxítten? Compờrenđô?
3. “Trong thời điểm hiện tại, con người lúc nào cũng hờm sẵn để dội lên đầu nhau những vũ khí nguyên tử tàn độc nhứt”. Chắc không?
Thiệt ra thì hiện nay, đầu thế kỷ 21, các quốc gia chỉ dùng vũ khí nguyên tử để hù dọa nhau. Ngoài những vụ nổ nguyên tử để thử nghiệm, cho đến nay chỉ có hai quả bom nguyên tử đã thiệt sự được Mỹ ném xuống Hiroshima và Nagasaki để buộc Nhựt Bổn đầu hàng năm 1945, chấm dứt Đệ nhị Thế chiến. Hai trăm ngàn người chết liền tại chỗ. Còn chết dài dài về sau thì con số có thể lên tới hơn triệu người. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân loại ý thức được sức hủy diệt khủng khiếp của loài ác quỷ mà chính tay mình đã chế tạo ra: vũ khí nguyên tử.
Người ra lịnh ném bom nguyên tử: Tổng thống Truman - cái tên có nghĩa là “Người thực”. Và quả nhiên chỉ có con Người mới thực sự hành động như vậy, loại con người thực sự có bộ mặt Người. Cái bộ mặt Người nó khủng khiếp như vậy đó, hãy ngó vào gương cho thiệt kỹ và chiêm ngưỡng dung nhan. Hãy ngó cho thiệt kỹ và ý thức để khỏi chụp mũ “con thú” lên những hành động táng tận lương tâm của con người, như chém giết dã man, khủng bố tàn độc, tra tấn hiểm ác, làm nhục tận cùng, tàn sát hàng loạt cả triệu người, trả thù khủng khiếp, thảm sát con nít, dội bom san thành bình địa cả một thành phố, rải thuốc độc, bỏ cho chết đói chết khát hàng triệu người… Kể sao cho hết! Tất cả những hành động đó đều có “bộ mặt Người”, và chỉ thuộc riêng về con Người. Bởi lẽ không một loài thú nào trong trời đất hành động như vậy hết. Nếu có, thì đó là con thú đi trên hai chân, không có lông, không có nanh, không có móng vuốt, không có nọc độc, không phát ra điện, nhưng lại có một cái độc nhứt mà không một loài nào có: “đỉnh cứt trí tuệ”!
4. Khi ném hai quả bom nguyên tử xuống nước Nhựt, trước dư luận thế giới, Mỹ chính thức tuyên bố là để buộc Nhựt đầu hàng nhanh chóng hầu tiết kiệm máu xương của lính Mỹ - ước lượng khoảng một triệu thương vong nếu Mỹ thực sự đổ quân lên đất Nhựt để đánh chiếm dằng dai và cam go. Nhưng biết đâu hai quả bom nguyên tử đó chẳng qua là để dằn mặt cộng sản Nga đang càng lúc càng mạnh lên và lăm le chinh phục trọn cả thế giới. “Thấy rõ chưa? Ta có bom nguyên tử giết người khủng khiếp như vậy đó. Mi hãy liệu hồn!”
Quả nhiên, Nga đã giựt hết cả mình mẩy! Bèn lật đật đóng cửa âm thầm chế tạo cấp tốc vũ khí nguyên tử để kình chống với Mỹ. Đặc biệt là loại hoả tiễn hạch nhân có nhiều đầu nổ nhắm vào các thành phố lớn của Mỹ như Washington, New York, Chicago, Los Angeles… Suốt nửa thế kỷ dài, nhân loại sống trong hồi hộp, ngày đêm ngay ngáy lo sợ một trận lửa nguyên tử nóng hơn một triệu độ của cuộc “Chiến tranh lạnh” (mẹ rượt!) chụp xuống đầu mình. Lý thuyết: dùng vũ khí nguyên tử đe doạ nhau để ngăn ngừa… chiến tranh nguyên tử. “Tao mà chết cha thì mầy cũng bỏ mẹ! Anhđượcxítten? Kôprốp kôprốp? Chớ có dại dột ra tay!”
Tuy nhiên, đâu phải chỉ có đe doạ nhau khơi khơi cho vui vậy thôi. Cuộc chạm trán nguyên tử giữa Nga và Mỹ suýt nữa đã thiệt sự bùng nổ năm 1962, khi Nga lén lút và hồn nhiên đưa hoả tiễn nguyên tử vào đặt ở đảo Cuba của đồng chí Castro để tiện bắn vào đất Mỹ cho nó gần, như vậy đỡ tốn xăng và tiết kiệm được nhiều giờ bay - “thì giờ là tiền bạc”! Trước đó nhiều năm, Mỹ cũng đã công khai và ngây thơ hồn nhiên giàn hàng loạt hoả tiễn nguyên tử tại các quốc gia đồng minh Âu châu xung quanh đất Nga. Và các hỏa tiễn nguyên tử này đều chăm chăm ngó vào các thành phố Leningrad, Stalingrad, Kiev, Mourmansk… một cách hết sức là tình cờ không có sắp đặt trước. Thì cũng giống như các em nhỏ hậu phương đã hồn nhiên ngây thơ và tình cờ khoét một trái tim rộng trên ngực áo của mình vậy đó. Dĩ nhiên, lỗi là tại hết mấy cha nội đực rựa bị mắc cái bịnh dòm voidơrít kinh niên. “Quỷ sứ! Người ta khoét thì thây kệ người ta. Ghét ghê! Có bị lọt tròng té nổ thì cũng phải rán mà chịu cho nó quen đi mấy anh hai. Ai biểu! Nghèo mà ham!”
5. Từ 2007 cho tới đầu năm 2008, thế giới bị náo động vì vụ Iran có thể chế tạo vũ khí nguyên tử. Phải khẳng định ngay rằng bần tăng chống vũ khí nguyên tử dưới mọi hình thức và bất luận của quốc gia nào. Nhứt định chống và chống tới cùng. Bởi lẽ hỏa tiễn nguyên tử có từ đâu và từ xứ nào phóng tới đi nữa thì lửa tam muội nó cũng đốt rụi hết cái mớ lông đầu của bần tăng - đó là chưa kể hai cái trứng gà “la cót” trở thành vô dụng. Đời tàn trong ngõ hẹp!
Chống Iran chế tạo vũ khí nguyên tử? Đồng ý! Và hoan hô hết mình. Nhưng thử bình tâm xét lại cái “vũng lầy nguyên tử” của chúng ta mà coi. Liệu cái việc chống nó có hợp lý và có khả thi hay không đã? Thoạt kỳ thủy, khi đã chế tạo vũ khí nguyên tử được khá bộn rồi thì Nga và Mỹ bèn bày đặt chơi cha: cấm các quốc gia khác chế tạo võ khí nguyên tử để được tiện bề mà thao túng. Hai đầu sỏ bèn bày ra “Thỏa ước cấm phổ biến” võ khí nguyên tử. Rồi khuyến dụ hoặc ép buộc các nước khác ký kết. Nhiều nước đã hạ bút ký. Nhưng Tàu không ký. Ấn không ký. Pháp không ký. Cũng vì vụ này mà Pháp và Mỹ sinh ra lục đục. Tướng De Gaulle đã nổi giận đùng đùng, xua tay đuổi Mỹ và đồng minh OTAN ra khỏi đất Pháp. Rút qua Bruxelles, Bỉ.
6. Đã có lần bần tăng bàn về cái hiện tượng sòng đời là một canh bạc lận. Trong sòng bạc, khi đã có một thằng bất lương và khôn vặt (đỉnh cao!) nào đó bắt đầu đánh lận rồi thì mấy thằng khác cũng bắt buộc phải đánh lận theo nếu không muốn cháy túi và đứng dậy ở truồng mà ra về - hơn nữa còn bị cả bọn trong sòng bạc xúm lại chê cười và chửi cho là “đồ ngu... quá cỡ thợ mộc!”
Nga Mỹ đưa ra cái đòn “Thỏa ước cấm phổ biến» để đánh lận rồi thì các nước khác cũng bắt chước đánh lận theo. Kết quả: Tàu có võ khí nguyên tử. Rồi Ấn cũng có. Pháp cũng có. Pakistan cũng có. Và còn nước nào đã có hoặc sẽ có nữa? Do Thái cũng có khả năng chế tạo võ khí nguyên tử. Sao không cấm Do Thái mà lại đi cấm Iraq, Iran? Nếu gạt qua một bên lý do quyền lợi riêng tư và bè đảng, thử giải thích cái thái độ thiên vị kỳ quặc và trắng trợn đó thử coi. Một điều nghịch lý: Khi xưa, Pháp chống Mỹ để được tự do chế tạo võ khí nguyên tử. Giờ đây Pháp đứng về phe Mỹ và doạ đem quân hùa theo Mỹ đánh Iran vì lý do Iran lăm le chế tạo võ khí nguyên tử. Vậy mà hợp lý chăng?
Giả thử bây giờ có một quốc gia nào đó bỗng dưng có sáng (tối) kiến và muốn tự sát, bất chấp Liên hiệp quốc, tự ý kéo quân sang đánh Mỹ vì Mỹ có võ khí nguyên tử (cái này thì có thiệt!) Hoặc đổ quân “đì”» Do Thái vì Do Thái có khả năng chế tạo võ khí nguyên tử (cũng có thiệt). Có quốc gia Văn Vỹ nào thấy như vậy “phải quá”, bèn xua quân hùa theo “xin ủng hộ gà nhà” một tí chăng? Ấy vậy mà Bush con đã bất chấp cái quyết nghị “no” của Liên hiệp quốc, đùng đùng tung máy bay liệng bom Bagdad tưới sượi rồi liền đó xua quân ùn ùn xâm lăng Iraq. Phải! Xâm lăng. Vì đúng là một cuộc xâm lăng qui mô, với mục tiêu kiểm soát dầu hoả Iraq. Cái chiêu bài “mang dân chủ” tới cho Iraq chỉ gạt được bà già con nít và những thằng hăng đi cáp nặng, nhắm mắt đeo “theo voi ăn bã mía”. Bọn này nhiều lắm. Có cả đám Á nàm dành vàng khè của ta. Mẹ rượt!
Đập cho Iraq một trận tơi bời hoa lá cành, xong Bush con tuyên bố vô cùng mặt chai mày đá là Iraq không có “võ khí tiêu diệt tập thể”. Và trơ trẽn đổ thừa là tại CIA báo cáo láo. Trong một cuộc họp báo, bộ trưởng Quốc phòng Rumphen thời đó đã nhấn mạnh: “Tôi biết chắc chắn Iraq có võ khí tiêu diệt tập thể. Tại vì sao?” Rumphen dừng lại, đoạn cười mỉm chi rất ư là “mặt trơ răng bóng” rồi dứt điểm: “Vì chính Mỹ đã bán cho Iraq các võ khí đó!” Thiệt là “chó đểu”! Thiệt là cynique hết cỡ nói! Tới mấy em gánh nước, mấy em chằn ăn trăn quấn, mấy em tráo chúa lộn chồng cũng không thể qua mặt được Rumphen ta. Mà quả thiệt vậy: chính Mỹ, Pháp và Đức đã bán kỹ thuật và cung cấp đồ nghề cho Iraq, Iran, Do Thái (và còn ai nữa?) chế tạo võ khí nguyên tử. Tuy nhiên, Rumphen còn thua xa cái cynique của xếp mình. Khi thấy Bush con đang sa lầy tại Iraq như ở Việt Nam hồi trước, quốc hội Mỹ yêu cầu tổng thống nhà ta rút quân ra khỏi Iraq. Bush con đã kiên cường quyết liệt hiên ngang không sợ chết, vỗ ngực thùm thụp mà tuyên bố phom phom trước báo chí: "Ngày nào vợ tui và con chó của tui còn ủng hộ thì tui còn nhứt định uýnh Iraq!" Cha nội nào có thể tuyên bố xuẩn ngốc hơn tên cao bồi cầm đầu cái quốc gia hùng mạnh nhứt thế giới, bần tăng nguyện sẽ bao cho ăn phở đặc biệt freefreefree (and with VAT of course!), bao cho đi bia ôm và bao luôn em út đầy đủ... mút mùa lệ thủy trọn đời.
7. Nhưng than ôi! Chỉ có những phường cẩu trệ tới mức đó mới nổi bật được trong cái thế giới chính trị “có bộ mặt người” chó má nầy! Tại sao ai nấy cũng đua đòi trang bị võ khí nguyên tử? Dễ ợt: tại vì có võ khí nguyên tử thì thiên hạ mới nể nang. Chẳng hạn như trường hợp Bắc Hàn. Cái tên ba trợn Kim Dung In (có bà con với cao thủ võ lâm Kim Dung của “Cô gái còi lông”?) đã bỏ đói dân mình để gom góp tiền bạc chế tạo hoả tiễn nguyên tử, bất chấp Mỹ hăm dọa mẻ răng, và Kim cũng ỉa luôn vào mặt thế giới. Ấy vậy mà một khi đã phóng thử được hoả tiễn nguyên tử thành công rồi thì Mỹ bèn xuống nước nhỏ nhẹ một cái rụp và tự nguyện viện trợ nhân đạo dồi dào cho Bắc Hàn để cứu đói (giảm nghèo?), hầu khuyến dụ Kim Dung In từ bỏ chương trình chế tạo võ khí nguyên tử. Nhân tiện dọn đường cho Bắc Hàn thống nhứt với Nam Hàn trong một tương lai gần xịt. Không biết dân Nam Hàn nên buồn hay nên vui trước cái viễn ảnh thống nhứt đất nước này.
Thử nhìn lại trường hợp các nước khác: Đông Đức đã phá bỏ bức tường “ô nhục”, ào ào tràn qua thống nhứt với Tây Đức: kinh tế Tây Đức suy sụp thê thảm cả chục năm liền. Bắc Việt xua quân “thống nhứt” (!) với miền Nam: dân miền Nam ào ào vượt biên, phần ở lại lay lắt trong các vùng kinh tế “mới” (!) và ăn bo bo thay gạo dài dài. Ấy vậy mà tại Bắc Hàn lại xảy ra thêm một điều hi hữu khác nữa: tên ba trợn (có bằng cấp) Kim Dung In mới đây đã thẳng thừng thành thật thút thít tuyên bố với đám nhân dân khốn khổ dưới ách thống trị của mình: “Ta nguyện sẽ noi gương “Đổi mới” của nước “Việt Nam - Chủ nghĩa xã hội - Khuynh hướng kinh tế thị trường” để mà phát triển Bắc Hàn!” Còn nước “Việt Nam - Xã hội - Thị trường” ta thì sẽ noi gương “Cu Ba (Cu má?) - Xã hội Mác Lê - Chính hiệu”… con nai vàng ngơ ngác chăng?
Xin ông Trời trên cao ngó xuống mà coi! Và cũng xin bà con ta thử nghĩ về cái cặp bài trùng: “Kim Dung đó, Bush con đây/ Kẻ kia tám lạng, người nầy nửa pound!” Tức là mỗi tay được chẵn chòi 226,50 cờ ram óc não đó vậy. Nên biết, trung bình mỗi người chúng ta có từ 800 tới 1200 g não óc.
Sau khi phân tích tâm lý các phe gây hấn, giờ đây gẫm lại mới biết cái hội chứng “võ khí nguyên tử” nó dễ lây như là dịch hạch chuột cống, hay là dịch cúm gia cầm vậy đó. Chỉ khác nhau ở chỗ mỗi lần bịnh dịch lây từ cá nhân này sang cá nhân khác thì chỉ có mỗi một người chết, hoặc một con gà chết (oan sích canh đoi!) Còn mỗi khi dịch nguyên tử lây thì có cả trăm ngàn người chết. Với tiến bộ kỹ thuật ngày hôm nay, sẽ có cả triệu người chết cùng một lúc. Nhưng cấm nó lây làm sao được mà cấm? Bởi lẽ đó, võ khí nguyên tử cứ tiếp tục lan tràn bất cưỡng như một loài nấm độc. Ngày nào trong lòng người còn tham lam, ngày nào lòng người còn gây hấn thì cái dịch hạch nguyên tử còn hoành hành trên mặt đất này bất kể biên giới. Bà con ta hãy bắt đầu đào hầm cho thiệt sâu và đổ bê tông cho thiệt dày đi là vừa.
8. Nhân loại vừa lập thêm một thành tích mới trong năm 2007: 1200 tỉ đô! Đó là trị giá khối lượng vũ khí bán ra cho khắp thế giới bởi các quốc gia sản xuất (Mỹ, Nga, Tàu, Pháp, Anh, Đức...) trong năm 2007. Tăng 15 % so với năm trước.
Để có một ý niệm về con số kếch sù 1200 tỉ đô này, thử so sánh nó với nội sản thô (PIB) của một vài quốc gia tiêu biểu trong năm 2007. PIB của Nga: 1420 tỉ, Canada: 1300 tỉ, Brésil: 1270 tỉ, Nam Hàn: 1020 tỉ. Với con số PIB khiêm nhường 83 tỉ đô, nước Việt Nam- Xã hội - Thị trường của ta phải mất 15 năm cặm cụi cắm đầu sản xuất mà không “ăn ngủ đ. ỉa” gì hết ráo mới mong đạt được con số 1200 tỉ đô, nếu không kể lạm phát. Và món tiền khổng lồ này đặc biệt chỉ dành để giết nhau! Nếu bổ đồng giết một người tốn 100 000 đô, thì khối tiền 1200 tỉ hạ thịt được 12 triệu người (nếu tốn 10 000 đô/người thì thịt được 120 triệu). Nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ! Đó là chưa tính những món tiền thiệt hại, tang tóc, tàn phá, mua hòm và mướn người chôn cất 12 triệu người chết do chiến tranh gây ra.
Thấy thiên hạ làm ăn được quá, bần tăng cũng muốn thử thời vận: đốt chùa, để tóc, gom hết chuông đồng trong xứ ta nấu chảy đúc súng cà nông bán đại hạ giá để cạnh tranh với Nga, Tàu, Mỹ, Pháp. Xin bà con hãy chúc cho bần tăng làm ăn phát tài. Bần tăng nguyện sẽ lấy tiền bán súng dắt bà con ta đi karaôkê, đi bia ôm, và bao thầu luôn hết các “dịch vụ” linh tinh khác.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu
Trăm nghìn vạn mớ để vào đâu?
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc
Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu!
9. Trong Sự đời/ Bài 15, bần tăng có viết là chính sách toàn cầu hoá hiện nay đã đưa tới nền tư bản tài chánh, lấy TIỀN làm cứu cánh. Nền tư bản này đã tạo ra hai hậu quả tai hại: bất ổn và bất công.
Bất ổn dẫn tới khủng hoảng kinh tế - tài chánh liên miên. Bất công khiến cho kẻ giàu càng giàu khủng khiếp, còn kẻ nghèo thì càng nghèo sặc máu. Nhưng khi nghĩ kỹ lại, đằng sau bất ổn và bất công, chính lòng tham muôn thuở của con người là nguồn độc. Chính lòng tham đã tạo ra biết bao là tang tóc trong nhân loại từ xưa tới nay, mà bất ổn và bất công hiện nay là hai hệ quả lộ liễu nhứt.
Lòng tham, khởi từ chế độ tư bản, giàu bóc lột nghèo. Sang chế độ cộng sản, kẻ nắm quyền tham nhũng công khai. Tới chính sách toàn cầu hoá với nền tư bản tài chánh, kẻ có tiền dùng tiền chỉ để tạo ra tiền, làm giàu thêm. Cho mình, dĩ nhiên. Bất kể tai hại và khổ đau trút lên đầu kẻ khác. Chế độ nào cũng vậy thôi. Lòng tham lúc nào cũng ngự trị khắp mọi nơi, và ở mọi thời… Bần tăng đã có lần cảnh cáo: Chính lòng tham của con người, cuối cùng, sẽ hủy diệt con người.
Cũng trong Sự đời/ Bài 15, bần tăng có hứa là sẽ bàn về vấn đề “nợ Mỹ”
Năm 2007, trong tổng số tín dụng (nợ vay) trên thế giới, Mỹ chiếm 60 % (chính xác hơn là 59,6 %). Năm 2005, Mỹ mắc nợ thế giới 2550 tỉ đô, tương xứng với 20,4 % PIB của mình. Vẫn trong năm 2007, theo tờ The Economist thì mỗi người dân Mỹ mắc nợ ngân hàng trung bình là 128 690 đô. Gấp 3 lần số lợi tức (PIB/ người) 47 330 đô của mỗi công dân Mỹ. Điều này có nghĩa là dân Mỹ tiêu xài nhiều hơn tiền mình kiếm được: làm được 1 đô, mượn thêm 3 đô để tiêu xài! Hơn nữa, món tiền vay mượn này lại do các nước nghèo hơn Mỹ cung cấp. Đem nhơn món nợ này với con số 304,8 triệu dân thì cả nước Mỹ mắc nợ 39 225 tỉ đô, gấp 3 lần PIB của Mỹ (14 400 tỉ đô)
Người ta thường cho rằng Mỹ là quốc gia giàu nhứt thế giới. Điều này đúng. Nhưng phải nói thêm: Mỹ giàu là nhờ… mắc nợ. Sở dĩ thiên hạ khoái cho Mỹ vay tiền là vì tin tưởng ở nền kinh tế Mỹ và tưởng (bở) rằng Mỹ giàu (mặc dù nợ như Chúa Chổm!) Cho tới lúc bừng tỉnh và rõ ra rằng mình đã trao duyên lầm tướng cướp thì than ôi!... đã rồi đời trinh nữ! Nhưng (lại than ôi!) thiên hạ vẫn khoái cho Mỹ vay tiền hơn là cho Việt Nam - Xã hội - Thị trường ta mắc nợ, dù là vay ít hơn rất nhiều. Mới biết, người ta chỉ cho kẻ có tóc mượn tiền chớ không bao giờ cho kẻ trọc đầu thiếu nợ. Để còn có cái mà níu chớ! Như bần tăng đây thì kể như vô phương ai cho thiếu nợ (no way!), mặc dù bần tăng lương thiện có bằng cấp Ph. D do chùa Thiếu Lâm chính cống bên Tàu đóng dấu. Một ví dụ: Mỹ mắc nợ Tàu 1400 tỉ đô, qua các công khố phiếu mà Tàu mua của Mỹ. Tàu phải giúp cho Mỹ có tiền để Mỹ mua hàng hóa… của Tàu (Hồi thời chiến, Mỹ cũng đã buộc Việt Nam dùng tiền “Viện trợ Mỹ” để mua hàng hoá của Mẽo). Giống như trong truyện Tam quốc: “Giáo Tàu đâm Chệt!” Bởi lẽ đó, để quân bình cán cân thương mại của mình, mấy năm trước đây Mỹ đã ép buộc Tàu tăng giá đồng yuan của mình lên.
Mà đâu phải chỉ có một mình Trung Quốc cho Mỹ vay. Cả thế giới đều làm như vậy hết, nếu có phương tiện. Một cách giản lược, guồng máy kinh tế tài chánh của thế giới vận hành theo mô thức sau: Thế giới đưa than đốt (tiền) cho dân Mỹ đốt lò (tiêu thụ). Hơi nóng làm chạy máy phát điện (kinh tế) Mỹ. Máy phát điện Mỹ chuyền điện làm vận hành guồng máy bizinết thế giới. Nhờ đó thế giới thu được tiền (than). Thế giới lại đưa than cho Mỹ đốt lò. Rồi cứ thế… cứ thế… Như trò chơi đèn kéo quân. Cũng giống như hoạt cảnh trong sách Quốc văn giáo khoa thư: “Cơm sốt canh nóng, bát đũa sạch sẽ, cả nhà ăn uống ngon miệng, no nê”. Vậy là đề huề vui vẻ cả làng! Nên cứ thế mà tiếp tục, tiếp tục…
Bây giờ chưa mãn cuộc vui
Anh em chưa vác dùi cui ra dìa!
Viết tới đây, trong lòng bần tăng chợt lóe lên một tia hy vọng le lói: Biết đâu bà con ta bỗng dưng có sáng kiến đưa “củi” cho bần tăng chụm lò để mái chùa tranh của ta được thêm phần ấm áp? Bần tăng nguyện sẽ đem củi ra nấu đậu hũ có nhưn thịt chay cho bà con ta dùng cho thêm được nhiều phước đức. Bà con cứ dùng tự nhiên. Xin bà con cầm đũa!
10. Tới đây, một vấn đề tâm lý được đặt ra: Khi cho vay quá nhiều, chủ nợ sợ điều gì xảy ra nhứt? Quá dễ: sợ con nợ bất thần lăn ra chết. Đùng một cái! Mất cả chì lẫn chài. Vì lẽ đó mà “phải lấy nợ nuôi nợ”. Và Mỹ biết rõ điều đó.
Mỹ giống như một con bịnh kinh niên mà các quốc gia trên thế giới phải gắn ống thở, ống máu, ống nước, ống dinh dưỡng, ống thuốc… để duy trì sự sống giả tạo trường kỳ. Tất cả nền kinh tế của Mỹ đặt trên nền tảng gồm 2 cột trụ: tín dụng và tiêu thụ. Ở xứ của Uncle Sam, mỗi người dân Mỹ có trung bình là 6 thẻ tín dụng. Càng có nhiều thẻ tín dụng, càng mắc nợ nhiều, càng thêm le lói. Có tín dụng (có mắc nợ) mới có tiêu thụ. Có tiêu thụ mới có sản xuất. Có sản xuất mới có hoạt động kinh tế. Có hoạt động kinh tế mới có tạo công ăn việc làm. Có công ăn việc làm mới có khả năng vay nợ. Nghĩa là được cấp tín dụng. Chung qui, có tín dụng mới có… tín dụng. Tín dụng nuôi dưỡng tín dụng. “Nợ nuôi nợ” (cqfd). Chủ nợ là người nắm tiền. Như vậy, tiền nuôi (đẻ ra) tiền. Tư bản làm giàu cho tư bản. Tư bản làm giàu bằng cách bóc lột lao động của kẻ khác, tức là bóc lột giới lao động. “A di đà Phật!”, điều này không phải bần tăng nói mà là sư tổ Các Mác đã nói hồi nẵm. Không tin cứ hỏi nại “Tra zà rân tộc” yêu rấu (vốn nà Trủ tịch Đảng Nao động) của trúng ta thì biết.
Một điều nghịch lý: Thế giới cho quốc gia giàu nhứt thế giới vay nợ. Nhà nghèo cho nhà giàu (Mỹ) mượn tiền để sống phây phây. Liệu tình trạng này còn tiếp tục và có thể kéo dài được bao lâu nữa?
Bên cạnh vấn đề phải cho Mỹ vay tiền để sống, thế giới còn tùy thuộc ở trị giá của đồng đô la Mỹ. Các mậu dịch trên thế giới được tính bằng đô Mỹ và thanh toán bằng đô Mỹ (giờ thì có đồng euro cạnh tranh). Bởi lẽ đó, các quốc gia đua nhau trữ tiền đô. Người ta thường nói: “Khi Mỹ hắt hơi thì thế giới bị cảm lạnh” là cũng bởi lẽ đó. Phải nhận thức một điều: cũng như mọi tiền giấy khác, đồng đô la là một tờ giấy nợ do Mỹ phát hành. Nợ, nhưng mà là nợ không phải trả tiền lời. Chẳng hạn, một quốc gia nào đó trữ 100 tỉ đô tiền mặt, thì 10 năm sau, số tiền này cũng vẫn trị giá 100 tỉ đô. Nếu tính lạm phát 2 % một năm thì Mỹ đã lời được 20 tỉ sau 10 năm. Ngon lành chưa?
Khi đồng đô giảm giá thì dân Mỹ bớt tiêu thụ và bớt đi chơi. Nhưng mặt khác, Mỹ xuất cảng nhiều hơn vì hàng Mỹ rẻ. Và đồng đô mất giá cũng là một cách gián tiếp để cho Mỹ quịt nợ các nước trữ đô la Mỹ, như Tàu, Âu châu, Singapour, Á Rập, Nhựt Bổn… Chẳng hạn nếu đồng đô Mỹ giảm giá 10 % thì trên số nợ 1400 tỉ đô, Mỹ quịt của Tàu 140 tỉ - hay ít ra là từ 70 đến 100 tỉ, sau khi bù trừ. Ngon ơ! Lấy trường hợp của bần tăng đây. Vừa rồi về Việt Nam chơi, bần tăng có đổi và lận theo 1000 đô la Mỹ. Giúp cho kinh tế thị trường nước ta: nhậu nhẹt, bia ôm, karaôkê… Trở về Pháp, kết toán còn lại được 15 đô. Nay đồng đô sụt giá (1 euro = 1,52 đô), bần tăng đang lo sợ phen này mình sẽ… sạt nghiệp!
Nhân tiện, nhắc lại một chuyện cũ thời chiến ít ai biết đến hoặc còn nhớ. Thời Mỹ tham chiến ở Việt Nam (1960-1975), lính Mỹ được trả lương một phần bằng đô la xanh (đô thiệt), và một phần bằng đô la đỏ (đô giả). Đô đỏ chỉ có trị giá ở Việt Nam, và trong một thời hạn rõ rệt (3 tháng chẳng hạn). Sau thời hạn đó, đô đỏ chỉ còn là một tờ giấy lộn giống như giấy tiền vàng bạc để đốt cúng cô hồn. Lính Mỹ xài đô đỏ để nhậu nhẹt trong các bars và chi cho các em bạc mạng Thúy Cầu da vàng của ta. Hết hạn định, nếu đổi đô đỏ ra đô xanh không kịp (chỉ cho đổi có vài ngày) thì các em Thúy Cầu chỉ còn nước… ôm mề mà khóc thét! Hồi miền Nam sập tiệm năm 75, biết bao người đã sạt nghiệp vì trữ đô đỏ và ôm sang Mỹ khi bỏ chạy. Quả là của Tào đem đổ âm ty! Vậy mà hồi đó, dân Á nàm dành ta cứ tưởng bở, coi lính Mỹ là một lũ nhà giàu ngây thơ dễ gạt. Hoá ra Mỹ là một tên điếm ba da quốc tế! Chưa biết ai đã gạt ai. Và gạt một cách hiên ngang trắng trợn: In tiền giả một cách (bất?) hợp pháp.
Mới biết, về cái Đạo thờ TIỀN thì Mỹ là con đẻ của dân Do Thái. Cũng bởi lẽ đó mà Bush con đã tận tâm tận lực báo hiếu phụ vương hết mình. Rất xứng đáng được ghi chép sổ vàng là “Gương hiếu thảo thứ 25”, thêm vào danh sách 24 gương “Nhị thập tứ hiếu” của Ba Tàu vậy. Dưới suối vàng, Đức Khổng tử phen này chắc sẽ mừng hết lớn!
Tin giờ chót:
Trong vụ khủng hoảng bất động sản subprime tính tới hôm nay (tháng 3/2008) cả thế giới thua lỗ tổng cộng là 2000 tỉ đô, gần gấp đôi PIB của Nam Hàn năm 2007 (1020 tỉ đô). Để cứu vãn tình thế, quỹ Dự trữ liên bang Mỹ Fed lại vừa sụt lãi suất xuống thêm 0.75 điểm (sau khi đã bớt 0.75 điểm hồi đầu năm), tổng cộng là bớt 1.50 điểm. Vô tiền khoáng hậu! Lãi suất chỉ còn 2.75 %. Lý do: để chữa cháy cho kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, các chuyên gia lo âu là ở Mỹ sẽ xảy ra một vụ khủng hoảng trầm trọng như hồi năm 1929. Và hậu quả suy sụp tai hại sẽ tràn lan qua Á châu, rồi tiếp đó sẽ ào xuống Âu châu như cái tsunami ở Ấn Độ dương hồi năm 2002. Cái lối sống dựa trên “mắc nợ” của Mỹ nó tai hại cho toàn thể thế giới như thế đó, Xanh kia thăm thẳm từng trên/ Vì ai gầy dựng cho nên nỗi này? Tuy nhiên, không phải chỉ một mình mình mà Mỹ tạo ra được cái cảnh “tàn sát Alamo” như vậy. Trên thế giới có rất nhiều đồng loã. Nhiều không đếm hết. Có khi chính bà con ta cũng đã tự tay mình “mài búa cho đao phủ” hồi nào không hay. Tới khi bị rụng đầu mới giựt mình khóc thét: “Tạo hoá gây chi cuộc hý cầu/ Đến nay thấm thía cái phao câu!” Khi nghĩ kỹ lại thì bởi lẽ ai cũng tham tiền hết nên mới ra tới nông nỗi đó.
Kể từ khi xảy ra khủng hoảng subprime, hiện nay tại Mỹ còn ối đọng 2 500 000 ngôi nhà bị tịch thu vì con nợ không trả nổi, bị trục xuất. Nhiều gia đình tan nát, nhiều đời người sụp đổ, trong đó có đông đảo sinh viên và học sinh. Những căn nhà này được đem ra bán đấu giá từ 30 % đến 50 % rẻ hơn trị giá khi mua. Trị giá 2,5 triệu căn nhà này tính ra xỉu xỉu là 250 tỉ đô hiện đang bị kẹt cứng tại chỗ. Đó là chưa kể món tiền phải bỏ ra để bảo trì 2,5 triệu ngôi nhà trống, và trị giá nhà bị giảm sút theo thời gian. Cũng xỉu xỉu một món tiền khiêm nhượng là 25 tỉ đô mỗi năm.
Mặt khác trong Sự đời/ Bài 14, bần tăng quên giải thích rõ vì sao vụ khủng hoảng subprime xảy ra bên Mỹ mà các ngân hàng khác trên thế giới cũng bị kéo sập tiệm theo. Sự thể là như vầy:
Sau khi tung ra hàng ngàn tỉ đô cho dân Mỹ vay bừa bãi, kể cả những người không đủ điều kiện hoàn trả, các định chế tài chánh Mỹ đã dùng “phép thuật” biến các tỉ đô nợ này thành một loại chứng khoán vô cùng phức tạp, không mấy ai hiểu nổi. Kế đó, đem ra bán tưới sượi trên các thị trường chứng khoán thế giới cho thiên hạ mua. Và quả nhiên, thiên hạ vốn hằng tin (như Chúa bị đóng đinh!) vào đại ca Mỹ nên cứ tưởng bở, nhào vô mua rần rần - cũng giống như dân Á nàm dành ta ùn ùn chạy mua chim cút và bị Ba Tàu Chợ Lớn gạt cho sạt nghiệp hồi thời Việt Nam cộng huề vậy đó (mua với giá mắc không tưởng nổi, nhưng một thời gian ngắn sau đó bán lại không ai mua). Đến khi hàng triệu dân Mỹ không trả nợ nổi, bị trục xuất, nhà bị tịch thâu, đưa tới khủng hoảng subprime, các ngân hàng ngoài nước Mỹ (Anh, Pháp, Đức, Thụy Sĩ…) đã trót đầu tư hằng trăm tỉ vào chứng khoán subprime bèn bị vạ lây vì không thâu lại được vốn, bị kéo sập tiệm theo. Lôi chìm theo luôn các tư nhân “cành cạnh” đã tin tưởng và góp tiền đưa cho ngân hàng của mình làm ăn: Cụt vốn!
Kết quả của vụ “khủng bố” subprime: Chết rạt! Chết khắp nơi! Chết liệt địa! Nhiều ngân hàng lớn và uy tín của Mỹ sập tiệm. Ngân hàng Northern Rock của Anh sạt nghiệp. Các ngân hàng lớn bên Pháp lỗ tổng cộng 11 tỉ euros. Ngân hàng Bavière Đức 5 - 6 tỉ, ngân hàng Thụy Sĩ UBS lỗ cả chục tỉ (Singapore phải nhào vô cứu bồ). Ngân hàng trung ương Âu châu (BCE) hoảng quá, bắt buộc phải tháo khoán liền tù tì hàng trăm tỉ euros để chữa cháy. Và còn vạ lây tới nhiều ngân hàng khác nữa trên thế giới - không rõ con số lỗ lã là bao nhiêu. Cái đòn “chứng khoán subprime” của Mỹ thiệt là ngoạn mục! Giống hệt thủ pháp “Càn khôn đại nã di” của đệ nhứt võ lâm Vô Kỵ trong “Cô gái còi lông”: đánh bên Đông mà chết… bên Tây. Đánh châu Mỹ mà châu Âu bị phế hết 10 thành công lực! Cũng may, Việt Nam - Xã hội - Thị trường ta nhờ có “Võ Nghèo” nên thoát chết về cái thảm hoạ subprime trong đường tơ kẽ tóc. Viết tới đây sực nhớ cái chuyện ông thầy nghề võ thoát chết ở Trà Vinh.
Hồi đó, cái thuở bần tăng còn là học trò đi coi cọp ở rạp hát tỉnh lẻ. Lần đó, rạp hát chiếu tuồng western. Ngồi ở hàng ghế đầu là ông “Thầy Gồng” người Miên. Khi thấy trên màn ảnh đại vĩ tuyến “xi nê ma cờ lốp cốp” đám mọi da đỏ hung hăng rượt theo bọn cao bồi da trắng, bắn tên xoèn xoẹt và phóng ngựa ào ào ra khỏi màn ảnh như sắp đạp lên mình, Thầy Gồng ta hoảng quá bèn từ trên ghế ngồi nhào xuống đất liền một cái “bịch” để né. Nghe có tiếng người té, cô xếp chỗ lật đật chạy tới bấm đèn, hoảng hốt hỏi Thầy Gồng chớ có sao không. Thầy Gồng nằm chổng gọng dưới đất ngóc đầu lên trả lời liền một cách ngon lành: “Dơ! Không có nghề võ thì chết mẹ rồi!”
Kể từ đó, bần tăng bèn “giã nhà ôm cái áo màu” theo thọ giáo ông Thầy Gồng. Nhờ đó mà còn ngáp ngáp được cho tới bi dờ. Quả nhiên: “Không có võ nghèo gia truyền thì phe ta đã chết mẹ”… từ khuya!
Ngoài ra, các chuyên gia còn tiên đoán một vụ khủng hoảng tài chánh khác nữa chắc chắn sẽ xảy tới, không có cách gì tránh được trong cái sinh hoạt tự nhiên của thị trường chứng khoán, như vẫn từ xưa cho tới những nay. Mới biết: “Hết cơn bĩ cực, tới hồi… chết cha!” Cái lòng tham của con người nó tác hại loài người tàn độc dài dài như thế đó. Xin chúc bà con ta may mắn. ” A di đà Phật”!
Phát triển - Tiêu thụ và le lói
DẪN NHẬP
“Sự đời như cái lá đa”! Tuy mới thoáng trông giữa một đêm không “giăng xao” thì nó giống và nó hấp dẫn như cái lá đa, nhưng khi mó vào thì sự đời nó khác hẳn: Nó thiên biến vạn hóa. “Xin đừng mân mó nhựa ra tay!” Nữ Kiều Xuân Hương đã cảnh cáo lũ đực rựa dê xồm như thế í, nhưng rốt cuộc có ngăn cản được ai đâu. Cái lũ mày râu (kể cả cái lũ không có râu để mài) và toàn thể lũ người nói chung, vẫn tiếp tục tự tử dài dài vì cái sự đời, nghĩa bóng cũng như nghĩa không bóng.
Sự đời thoạt sờ thì nó “phành ra ba góc da còn thiếu”, nhưng khi tiến xa hơn nữa thì mới biết “khép lại hai bên thịt vẫn thừa”. Không chỉ vỏn vẹn là cái lá đa, sự đời quả thiệt là một món tạp pín lù vô cùng hấp dẫn. Một cái lẩu thập cẩm của dân nhậu! “Cơm sốt canh nóng, bát đũa sạch sẽ, cả nhà ăn uống ngon miệng, no nê”. Và tất cả mọi người đều hài lòng, dĩ nhiên. Có chết cũng cam chịu. Khi đụng cảnh éo le đổ máu, cải lương về khuya vẫn thường hát: “Dù phải cam thác. Nào ta có than tiếc. Duyên tình chia lìa. Hỡi ai! Nhẫn tâm mà bày ra, mà bày ra?” Tạp pín lù gắp vài đũa, rượu được vài tuần “dô! dô!” thì dân nhậu cũng sướng miệng hát rân: “Kìa có con cóc. Rồi có con nhái. Hai con nầy đương ngồi. Còn con ễnh ương bò bò vô bò bò ra... bò bò vô bò bò ra...”! Bò mệt nghỉ.
Vì sự đời vốn là cái tạp pín lù nên khi viết loạt bài "Sự đời", bần tăng cũng cố gắng bàn xăm đủ hết mọi thứ tiết mục, giống như một cái lẩu thập cẩm, cho bà con ta có đủ hết mọi món để mà thưởng thức tùy theo khẩu vị, cho nó đỡ ngán miệng mà nuốt xuống cho trôi. Nhưng nói chung, cho dù Sự đời nó có lâm ly bi đát, nó có “nước mắt nhỏ sa, em lấy khăn mu soa em chặm”, nó có tàn canh gió lạnh cách mấy đi nữa, thì mục đích của bài viết cũng chỉ là để giúp vui văn nghệ. Cũng chỉ là, nói như cụ Tiên Điền Nguyễn Du, “mua vui cũng đặng một vài trống canh”. Canh ở đây phải hiểu là canh trong “canh gà Thọ xương”, diễn nôm tiếng Mẽo là “sích kên súp ốp Thọ xương”, đúng như lời giải thích của một vị cựu dân biểu thời Việt Nam cộng huề trong một chuyến công du thăm viếng xứ sở của phe Đồng minh ta thời chiến.
Tuy nhiên, thỉnh thoảng bần tăng cũng cảm thấy cần phải bàn xăm thêm đặc biệt về một đề tài nào đó cho nó tới nơi tới chốn. Vì cứ nói sơ sơ “vành ngoài bảy chữ” hoài e bà con ta sẽ bị “bất mãn tình dục”. Dồn nén lâu ngày chỉn e bất tiện trăm bề, chỉ sợ nó biến chứng khôn lường, các đấng “trên răng dưới dế” phe ta sẽ biến hết thành loài quỉ râu (rất) xanh rồi đi phá làng phá xóm, sách nhiễu tình dục lung tung mấy bà nữ quyền thì bỏ mẹ cả đám. Nói tóm: “Quậy!”, và bị chửi tắt bếp. Vì lẽ đó, kể từ nay trong loạt bài Sự đời, thỉnh thoảng bần tăng sẽ cho thêm một “Bài đặc biệt” (kiểu như “Tình khúc không tên”, và cũng không có luôn tuổi) để thanh toán kỹ một đề tài nào đó, cho nó đã ngứa. Lần đầu tiên này, bần tăng sẽ đề cập đến một vấn đề vô cùng thiết thực của bà con ta trong đời sống: vấn đề kinh tế.
Thiệt ra thì đây cũng không phải là lần đầu mà bần tăng bàn về chuyện tiền bạc, cơm áo hằng ngày của mỗi người chúng ta. Bần tăng rất kỵ cái “đỉnh cao trí tuệ” hiu hiu đi mây về gió (cái kiểu “thấy hiu hiu gió thì hay chị về”!) Bởi lẽ cái “đỉnh cao” nó phải nằm trong một cái sọ đầu rỗng tuếch. Sọ đầu nằm trên cổ. Cổ nằm trên thân. Trong thân có phèo phổi ruột gan, và nhứt là có một cái bao tử khìa. Và bên dưới thân có một cái lỗ ỉa vuông vức. “Cogito ergo sum”, “Tôi suy nghĩ vậy tôi có”? Cái đó không chắc lắm. Tuy nhiên, chắc một điều là “nô côgitô” thì còn ỉa được, chớ “nô ỉa” thì vô phương “côgitô”. Vậy thì cái nào mới là ưu tiên? Cái bịnh kinh niên của côgitô là nó đẻ ra hoang tưởng. Và chính đó là nguồn gốc tai hoạ của loài người, rồi từ đó mà truyền nhiễm sang muôn loài khác, và làm ô nhiễm tất cả địa cầu. Thử nghĩ kỹ lại đi: Nếu không có cái “đỉnh cứt” thì liệu cái thằng người nó có le lói ỉa bậy ỉa bạ làm ô nhiễm “nổi” trái đất như hiện nay không? Quá lắm là cũng tới mức nó đem mấy củ khoai xuống ao nước mà rửa trước khi ăn như con khỉ của mấy ông Xoa mu (lai) rai là cùng. Vậy mà nó cứ làm riết tới, càng lúc càng côgitô ra những đống cứt vĩ đại khác nữa! Nếu phải chọn lựa giữa “cogito ergo sum” hoặc “ăn gatô ergo sum“ thì chọn cái nào chắc ăn hơn, ngon lành hơn và an toàn hơn?
Khi nghĩ lại thì cái bịnh “làm bi zi nết”, cái bịnh “làm kinh tế” cũng là cái bịnh đặc thù của loài người, nghĩa là một loại bịnh của côgitô. Ngay giờ phút này, giữa tháng 05.2008, miền Nam Miến Điện bị bão lụt cả trăm ngàn người mất hết nhà cửa cơm ăn áo mặc. Còn vùng Tứ Xuyên của Trung Quốc thì bị động đất cả trăm ngàn người lâm nạn, năm chục ngàn người lớn lẫn con nít bị đè chết liệt địa, đói khát và bịnh dịch đe doạ. Vậy mà đồng thời ở Thụy Sĩ, Liên hiệp quốc cũng báo động một tin chết người không kém: gạo thóc đã biến mất trên khắp thị trường quốc tế. Mạnh ai nấy đầu cơ tích trữ. Nhứt là cái bọn nắm tiền rừng bạc biển trong tay. Sau vụ khủng hoảng tài chánh bất động sản subprime ở Mẽo, thua lỗ hàng ngàn tỉ đô, bọn này chuyển sang đầu cơ nguyên liệu và thực phẩm để gỡ gạc. “Chết sống mặc bây, tiền thầy bỏ túi”. “Bizinết iiizzz bizinết”. Có biết đâu, một trăm ngàn người đói thì còn chận được, một triệu người đói thì may ra còn chận được. Nhưng mười triệu người đói, một trăm triệu người đói, một tỉ người đói thì con người sẽ ăn thịt con người, không thể nào khác hơn được.
Một điều nghịch lý: toàn thể khối lượng thực phẩm mà thế giới sản xuất được hiện nay có thể đủ để nuôi 12 tỉ người (dân số địa cầu là 6,5 tỉ). Nhưng trong 10 kí thực phẩm thì đã có 8 kí dùng để nuôi súc vật và tiêu thụ trong kỹ nghệ (để chế xăng chạy xe hơi chẳng hạn). Một cách cố tình. “Một đứa nhỏ chết đói là một đứa nhỏ bị nhân loại ám sát” (J. Ziegler). Ấy vậy mà bọn giết người vẫn chứng đúng được hành động của mình. Nhờ đâu? Nhờ ở cái “đỉnh (cứt) cao côgitô” dĩ nhiên. Chớ có chửi cư xử như vậy là tàn độc như ác thú. Không! Đó là lối hành xử “đỉnh cứt cao” hết sức đặc biệt của con người. Một lối làm kinh tế “có bộ mặt (rất là) người”, do con người chủ mưu từ đầu đến cuối. Vậy, thử tìm hiểu thêm về cái lối làm bizinết rất là “đỉnh cao côgitô” của con khỉ không lông (như Tình khúc không tên) để nhận diện cái computer đi trên hai cẳng coi coi “nghề ngỗng” của nó ly kỳ tới mức nào.
Bài “Sự đời đặc biệt” này chia làm ba tiết mục. Thứ nhứt, bàn về cái nguy cơ khủng hoảng kinh tế ở Mỹ. Thứ hai, tìm hiểu cái tâm lý đã thúc đẩy con người tiêu thụ một cách xuẩn ngốc. Thứ ba, phân tích liên hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế. Bần tăng không rành về kinh tế gì cho lắm. Vì vậy, chỉ lược dịch lại đây bài viết của các chuyên gia kinh tế thế giới trong tạp chí Alternatives Economiques (AE) của Pháp, các số mới nhất năm 2008.
MỘT: NỀN KINH TẾ MỸ SẼ SỤP ĐỔ?
Tác giả: Anton Brender & Florence Pisani - chuyên gia kinh tế Dexia - AM
Nước Mỹ sắp sửa rơi vào một cuộc khủng hoảng tài chánh trầm trọng nhứt trong lịch sử của mình? (Thời điểm: năm 2008). Ông Nouriel Roubini, giáo sư kinh tế đại học New York đã loan báo tin này hết sức tin tưởng. Ông còn vạch rõ 12 giai đoạn của cuộc sụp đổ tài chánh đó và tính ra sẽ có hơn ngàn tỉ đô lỗ lã sắp tới của hệ thống tài chánh. Và tệ hại hơn nữa, ông còn chỉ ra 8 lý do khiến cho giới chức Mỹ có nguy cơ bất lực để ngăn chận cuộc khủng hoảng sắp tới (xem bài viết của Martin Wolf: “America’s Economy Risks Mother of all Meltdows” báo Financial Times, số 19 tháng hai 2008). Nghe mà ớn xương sống!
Tuy nhiên, thực tế bắt buộc không thể nào loại trừ một tai hoạ có triển vọng xảy ra với cường độ chưa từng thấy: trong 10 năm vừa qua, nền kinh tế thế giới há chẳng đã tích tụ một khối lượng tài chánh với tầm vóc và bản chất chưa từng thấy trước đây bao giờ? Khi mỗi năm đi vay hàng ngàn tỉ đô để tiêu thụ, các gia đình Mỹ đã cho phép các vùng vượt tiến (régions émergentes) một mặt tích tụ một khối lượng tín dụng tương đương với số nợ trên nền kinh tế Mỹ, và mặt khác gia tăng lợi tức của mình nhanh chóng chưa từng thấy.
Cơ cấu tài chánh cho phép một sự tích tụ khổng lồ như vậy dĩ nhiên là không vững chắc. Khi đưa tiền tiết kiệm của các gia đình Trung Hoa cho gia đình Mỹ tiêu xài, dĩ nhiên là đã tạo ra nhiều rủi ro. Hệ thống tài chánh Mỹ đã nhận lãnh một phần lớn các rủi ro đó. Hơn nữa, các giới chức có trách nhiệm canh chừng lại chọn lựa đường lối khoanh tay “để mặc kệ” (laisser faire). Dưới sức nặng của các rủi ro chồng chất này mà tưởng tượng ra sự sụp đổ của cái hệ thống tài chánh kỳ quặc đó thì chẳng có gì là khó khăn. Vấn đề là thử xem lời tiên đoán về cái tai họa khủng khiếp của N. Roubini sẽ diễn ra y như vậy không.
Một đám cháy bộc phát quá muộn
Thói thường, khi nhận thấy nhiều điềm bất thường thì chắc chắn là ta phải thận trọng. Khi đối đầu với cuộc khủng hoảng tài chánh (subprime) xảy ra đã hơn năm, các giới chức Mỹ, trong một thời gian dài, hình như đã quên lửng những bài học quá khứ. Mà những bài học này thì quá rõ rệt: các cuộc khủng hoảng tài chánh, giống như các đám cháy, càng can thiệp sớm thì càng dễ trị. Điều cốt yếu là phải làm đủ mọi cách để ngăn ngừa nguy cơ suy giảm hoạt động kinh tế rõ rệt. Khi hoạt động suy giảm thì dĩ nhiên các tác nhân mắc nợ khó mà đáp ứng được các điều cam kết. Đứng trước sự suy giảm đó, các chủ nợ chỉ còn một cách duy nhứt là phải hết sức thận trọng. Và nguy cơ suy thoái vì thế mà càng gia tăng.
Thế nhưng, nếu Quỹ Dự trữ liên bang (Fed), từ mùa hè năm ngoái (2007), đã tác động trên thị trường liên ngân hàng để làm giảm bớt căng thẳng, thì Fed đã đợi tới đầu năm nay mới biểu lộ ý định loại trừ nguy cơ suy thoái, vì muốn chống lạm phát. Về phần Ngân khố Mỹ thì lẽ ra đã phải có sáng kiến đặt trước giàn “cửa chắn lửa” (coupe-feux) để ngăn chận cuộc khủng hoảng cháy lan từ căn hộc này qua căn hộc khác của hệ thống tài chánh. Bị tê liệt bởi chủ trương không can thiệp vào công cuộc điều hành tài chánh của tư nhân, Ngân khố Mỹ gần như đã không làm gì hết để giảm thiểu nguy cơ khủng hoảng lan tràn, mặc dù nó đã biểu lộ ngay từ mùa hè 2007.
Tất cả các căn hộc của hệ thống tín dụng kể từ đây đã bị truyền nhiễm: tiền bảo hiểm rủi ro tăng vọt đối với các xí nghiệp, và ngay cả đối với các nghiệp vụ vay mượn thế chấp cổ truyền (prime); ngoài ra còn ngay cả đối với các công khố quận xã (municipales) vốn xưa nay là chỗ đầu tư tốt nhất của mọi gia đình Mỹ! Vì thế, vào mùa xuân 2008, nguy cơ suy thoái trầm trọng của nền kinh tế Mỹ đã tăng vọt khủng khiếp.
Khả năng đề kháng
Nếu thế, tại sao không coi sự sụp đổ như là chắc chắn? Trước hết, cho tới giờ, nền kinh tế Mỹ đã chứng minh một sức đề kháng lạ lùng: mức tăng trưởng năm 2007 của nó vượt hơn 2%, mặc dù đầu tư nhà cửa, vốn đã sa sút từ mùa hè 2006, lại giảm thêm gần 20%. Nhiều người đã tiên đoán suy thoái vào năm 2007: điều này đã không xảy ra, và còn đáng khen hơn nữa là vì giá dầu hoả đồng thời đã tăng lên gần gấp đôi trong năm. Thế nhưng, trong quá khứ, giá dầu tăng và suy giảm đầu tư nhà cửa luôn luôn làm thoái hoá hoạt động.
Tuy nhiên, cho dù sức đề kháng này có dũng mãnh thế mấy đi nữa thì nó cũng không phải là vô biên: kể từ tháng chạp 2007, các dấu hiệu giảm tốc chồng chất, tới mức hầu như bắt đầu suy thoái thực sự. Khác với năm 2000 (khủng hoảng internet), lần này các xí nghiệp đã biểu lộ các dấu hiệu trì trệ như tương đối ít mắc nợ, không có hàng tồn kho cũng như không có khả năng sản xuất thặng dư. Nhứt là một chương trình kích hoạt (stimulations) đã được biểu quyết trong một thời gian kỷ lục. Khi đem ra áp dụng vào tháng 05.2008, nó sẽ làm tăng lợi tức của các gia đình Mỹ thêm lên hàng trăm tỉ đô: kết quả gia tăng tiêu thụ tương ứng sẽ nâng đỡ hoạt động kinh tế thêm được vài tháng. Nguy cơ suy thoái nhanh chóng nhờ đó mà được giảm bớt: giới chức Mỹ sẽ có được một ít thời gian để củng cố lại tòa cao ốc tài chánh mà trên đó các đường nứt to lớn giờ đây đã quá lộ liễu.
Nhà nước phải chữa cháy
Công cuộc củng cố này phải dựa trên sự ổn định thị trường bất động sản vốn là trung tâm của cuộc khủng hoảng. Nếu các cuộc chuyển nhượng và giá cả tiếp tục giảm sút, hơn nữa lại có mòi gia trọng thì những vụ không hoàn trả nổi sẽ tăng thêm và do đó mà hệ thống tài chánh sẽ còn lỗ lã nặng. Đồng thời, khi tài sản bất động bị giảm sút thì các gia đình Mỹ sẽ giảm bớt tiêu thụ và vì thế hoạt động kinh tế sẽ chậm lại và sự trì trệ này sẽ kéo dài thêm ra. Nhưng muốn loại trừ tình trạng giảm sút chuyển nhượng bất động sản thì phải làm thế nào cho các gia đình Mỹ có thể vay tiền với lãi suất hấp dẫn. [...]
Điều này bắt buộc giới chức Mỹ phải đích thân chấp nhận rủi ro tài chánh để dập tắt hoả hoạn. Ngoài ra, giới chức Mỹ cũng phải làm thế nào cho các chủ nợ chấp nhận phần nào các thiệt hại bằng cách xóa bỏ một số nợ cũ, thay vì tiếp tục tịch thu và trục xuất các con nợ. Điều này sẽ làm giảm bớt lỗ lã và giảm bớt áp lực bắt buộc giá cả bất động sản tuột dốc.
Kể từ nay, nếu không được Ngân khố và Quốc hội Mỹ hỗ trợ thì Fed sẽ tương đối bất lực. Fed chỉ có thể tiếp tục giảm bớt lãi suất của mình càng lúc càng lẹ, như đã bắt đầu từ tháng 01.2008. Dĩ nhiên, nếu các gia đình Mỹ không vay nợ được nữa thì các cuộc giảm bớt lãi suất sẽ không tạo được quân bình nhanh chóng; nhưng ít ra, chúng sẽ giúp cho các ngân hàng bù đắp phần nào các khoản lỗ lã của mình (qua sự giảm bớt chi phí trên tài nguyên), và sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư tìm lại hứng thú để tiếp tục chơi trò rủi ro.
Tuy nhiên, sự bất lực của Fed cũng không to lớn như người ta tưởng: khi giảm bớt lãi suất thì đồng đô la sẽ giảm giá so với các ngoại tệ khác, nhứt là so với đồng euro của Âu châu. Điều này sẽ giúp cho nền ngoại thương Mỹ duy trì hoạt động tối đa, và sẽ gây thiệt hại cho Âu châu. Nhưng bằng cách đó, nó cũng nhắc nhở cho đồng minh Âu châu nhớ rằng cuộc khủng hoảng tài chánh toàn cầu hoá này cũng phần nào là cuộc khủng hoảng của mình.
(AE n° 268, Tháng tư 2008)
HAI: CÁI ĐÓI BẤT TẬN
Tác giả: Guillaume Duvel
Trong các xã hội tiêu thụ hậu hiện đại của chúng ta, cuộc tranh giành để thụ đắc càng lúc càng nhiều của cải và dịch vụ vẫn gay gắt như từ thế kỷ 19, mặc dù các đối tượng giành giựt đã thay đổi sâu xa. Và mặc dù thời đó không có những cuộc thăm dò dư luận, nhưng bảo đảm là con người hiện đại cũng vẫn bất mãn y như là những kẻ khốn cùng mà Karl Marx đã mô tả tại các ngoại ô Luân Đôn hoặc Manchester hồi đầu thế kỷ 19.
Sự ganh đua bắt chước
Ngày xưa, người ta thường nghĩ rằng sự tăng trưởng sẽ đưa tới phồn thịnh, nhưng ý nghĩ này đã dựa trên một quan niệm sai lầm về bản chất con người: nó giả thuyết rằng, trong các hoạt động kinh tế của mình, con người sẽ hành động một cách hợp lý nhằm thoả mãn chủ yếu các nhu cầu cơ bản của thân thể vốn có giới hạn, theo định nghĩa. Thế nhưng, động cơ thúc đẩy thực sự các hoạt động của con người rất khác xa giả thuyết đó, và hơn nữa, xưa nay nó vẫn như vậy thôi. Ngoài việc thoả mãn các nhu cầu của cơ thể, sự đói khát bất tận về mặt tiêu thụ đặc biệt dính liền với một hiện tượng mà triết gia Pháp René Girard đặt ngay tại trung tâm của động lực vận chuyển xã hội từ thời thượng cổ: sự ganh đua bắt chước (la rivalité mimétique). Nghĩa là ham muốn thường trực những gì mà kẻ khác có hoặc mơ ước. Ngày xưa, theo Kinh Thánh, Caïn vì ganh tị mà giết chết em mình là Abel. Thời nay, nhờ phát triển kinh tế và tiền tệ nên con người giải quyết vấn đề ganh tị một cách ít bạo động hơn. (NDT: Chiến tranh kinh tế tài chánh mà không giết chết người như rạ ư? Và nghĩ cho cùng thì bất cứ cuộc chiến tranh tàn sát nào cũng đều do tham lam, ganh tị và giành giựt mà ra hết. Lý do chính trị chỉ là chiêu bài và là một cái cớ).
Một trong những nhà lập thuyết đầu tiên đã hiểu được sự sai lầm trong lập luận của các kinh tế gia về vấn đề tiêu thụ là Thorstein Veblen. Ông là người Mỹ gốc Na Uy sống ở buổi giao thời giữa hai thế kỷ 19 và 20. Vì thế, ông đã chứng kiến sự cất cánh ngoạn mục của nền kinh tế Mỹ đã tạo ra được sự giàu có khổng lồ của một thành phần trong xã hội Mỹ - cũng giống như trường hợp Trung Quốc vọt tiến hiện nay. Nhờ đó, ông hiểu được động cơ cực mạnh thúc đẩy tiêu thụ chính là sự ưa thích “le lói” (l’ostentation), cái ham muốn loè mắt thiên hạ của mọi người. Và hoạt động kinh tế không phải chỉ đơn giản nhằm thoả mãn các nhu cầu căn bản của cơ thể. Hệ quả đi trái ngược với nhãn quan của các kinh tế gia cổ điển, và người ta nhận thấy thường xuyên là khi giá cả của một sản phẩm nào đó càng đắt đỏ thì nhu cầu về nó lại càng gia tăng.
Và cơ chế này không chỉ liên quan tới nhu cầu của các sản phẩm đại xa xỉ của giới giàu sụ. Nó cũng là nền tảng của một hiện tượng rất đáng ngạc nhiên xảy ra thường xuyên ở ngoại ô: giới trẻ thuộc từng lớp nghèo kém nhứt đã dốc hết “xương máu” gia đình mình để mua cho bằng được những loại kiếng mát hiệu “gộc” hoặc những đôi giày có “dấu ấn” (!) riêng, trong khi đó siêu thị bày bán dẫy đầy những kiểu hàng có công dụng tương đương mà giá rẻ hơn rất nhiều.
Sự tích lũy hủy diệt
Cái lòng đói khát tiêu thụ không thể nào “no thỏa” nổi này là nguyên do trực tiếp đưa tới sự tàn phá khủng khiếp mà con người gây ra trong môi sinh, và hiện nay lên tới mức đe doạ ngay cả sự tồn vong của chính loài người. Chủ nghĩa tư bản rõ rệt đã bành trướng hiện tượng này lên đến tột đỉnh: nó đã xô ngã các hàng rào giai cấp, xoá bỏ các biên giới, cho phép từng lớp nghèo có nơi ăn chốn ở khá tử tế (ít ra là tại các quốc gia mở mang). Khi làm như vậy, nó đã dân chủ hoá mạnh mẽ việc đua đòi tiêu thụ “le lói” và trải rộng lãnh thổ “ganh đua bắt chước” lên khắp xã hội, lên khắp địa cầu. Giờ đây, các công ty đa quốc khai thác triệt để hiện tượng “le lói” và “bắt chước” này để gia tăng thương vụ của mình, nhứt là qua thủ đoạn quảng cáo. [...]
Nhưng hiện tượng tiêu thụ quá trớn và hệ quả tàn phá môi sinh của nó cũng không phải là mới có đây. Nhà khảo cứu Mỹ Jared Diamond đã chứng minh một cách hùng hồn rằng cái ý tưởng về một “người mọi rợ tốt” (le bon sauvage) biết tôn trọng môi sinh là rất xa rời sự thật. Ông đã giải thích như thế nào các thổ dân châu Mỹ đầu tiên đã làm tuyệt chủng nhiều loài thú vì săn giết chúng quá trớn. (NDT: Có lẽ vì lẽ đó mà họ đã dạy cho các thế hệ thổ dân kế tiếp phải biết tôn trọng thiên nhiên chăng?) Và ông cũng giải thích vì sao công cuộc khai thác môi sinh quá trớn đã làm sụp đổ cả vùng Mésopotamie vốn mà chiếc nôi phát sinh của văn minh nhân loại.
Tuy nhiên, những lối hành động sai lầm đó, vốn đã ăn sâu trong bản tánh con người, hiện nay đã đạt tới một tầm vóc thảm hoạ. Chúng được khuếch đại bởi sự gia tăng khủng khiếp nhân số thế giới và bởi các kỹ thuật tinh xảo hiện đang nằm trong tay con người. Các xã hội bất công vô cùng lộ liễu hiện đang có mặt ngay trong lòng các quốc gia mở mang, và nhứt là hiện diện trên khắp cả thế giới giờ đây, chính cái tệ trạng này là mầm mống thúc đẩy con người đua nhau rượt đuổi sự “tích lũy hủy diệt”.
Còn một hy vọng duy nhứt: giờ đây chúng ta đã hiểu rõ các cơ chế xã hội và tâm lý nào vốn là nguồn gốc của những tình trạng bất quân bình vừa nói. Điều này may ra sẽ cho phép chúng ta tiếp tục chiêm ngưỡng cái đẹp và cái vô ích, và đồng thời ngưng hủy diệt ngay chính các điều kiện sống của mình?
(AE n° 267, Tháng ba 2008)
BA: PHÁT TRIỂN VÀ CHỐNG NGHÈO ĐÓI
Tác giả: Gilles Dostaler
Bà Irma Adelman là giáo sư kinh tế tại đại học Berkeley, Mỹ. Trong những hiện tượng liên quan tới tăng trưởng và phát triển, bà đặc biệt nghiên cứu vấn đề phân phối lợi tức và tệ nạn nghèo đói. Theo lý thuyết kinh tế chính thống thì sự tăng trưởng kinh tế sẽ tự động đưa tới giảm nghèo và thu ngắn khoảng cách giữa các lợi tức. Hệ quả của việc phân phối lợi tức là khi kẻ giàu làm giàu thêm thì đương nhiên sẽ có những mảnh vụn rơi rớt xuống vừa đủ để nuôi kẻ nghèo (NDT: kẻ nghèo ăn mót cơm rơi gạo rớt của kẻ giàu).
Trong kết quả khảo cứu ấn hành năm 1973 về các mối liên hệ giữa tăng trưởng và bình đẳng tại các quốc gia đang phát triển, bà Adelman đã cho thấy cái lý thuyết đó là sai bét. Bà cũng đã đi tới kết luận y như vậy trong bản nghiên cứu ấn hành năm 1978 về cách mạng kỹ nghệ tại Nam Hàn. Sự tăng trưởng kinh tế trong trường hợp này hoặc là trong thời kỳ sau đệ nhị thế chiến đều luôn luôn kèm theo, trong những giai đoạn đầu, hiện tượng gia tăng cách biệt lợi tức và sự gia trọng của nghèo đói. Chỉ những sự can thiệp có tính cách chánh trị mới làm chậm lại và lật ngược tiến trình này.
Cần phải phân biệt tăng trưởng và phát triển kinh tế, như Schumpeter đã làm. Tăng trưởng là một tiến trình lượng tính (quantitatif), nó không hề bảo đảm số phận của các quốc gia. Không những nó có thể làm tăng thêm nghèo đói và bất công, mà nó còn cho phép khai thác các tầng lớp yếu kém, hạn chế các tự do chính trị và gây tổn hại cho môi sinh. Trong khi đó, phát triển là một tiến trình phẩm tính (qualitatif). Vì vậy, chính nó phải hướng dẫn tăng trưởng trong công cuộc giải trừ nghèo đói, theo ý kiến của bà Adelman. Vì lẽ đó, trái với chủ trương của thỏa hiệp Washington, của Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế, phân phối lợi tức phải đi trước tăng trưởng, cải cách điền địa phải đi trước tăng trưởng năng suất canh nông, phổ biến giáo dục cấp tiểu học phải đi trước kỹ nghệ hóa. Cái quan niệm cho rằng phải “tạo ra sự giàu có” trước rồi mới đem nó ra phân phối sau là một ảo tưởng rất nguy hiểm.
Dĩ nhiên, cần phải có những thay đổi chính trị triệt để mới có thể đạt được các mục tiêu này. Không phải chỉ cần khuếch trương lãnh vực công hoặc thúc đẩy dân chúng tham gia chính trị là xong. Chỉ có những định chế mới, những chính sách mới, một sự phát triển “của nhân dân, bởi nhân dân và cho nhân dân” mới có thể chấm dứt nghèo đói và thiết lập công bằng xã hội. Đối diện với nguy cơ mà các biến chuyển gần đây tạo ra cho thế giới, cần phải tìm ra một con đường giữa cam chịu và cách mạng: một chủ nghĩa xã hội thị trường hoặc một chủ nghĩa tư bản cải cách sâu xa.
Bà Irma Adelman đã thú nhận sự bi quan của mình qua các bài viết gần đây. Tình trạng hiện nay đã trở nên càng trầm trọng thêm nữa xuyên qua các cuộc khủng hoảng tài chánh được tạo ra bởi sự giải tỏa hối suất và việc bãi bỏ luật lệ điều hành các chuyển động tư bản. Bởi lẽ những sự thay đổi này khiến cho các quốc gia bị cướp mất quyền tự chủ tài chánh vốn rất thiết yếu cho công cuộc theo đuổi các chính sách phát triển của mình.
(AE n° 267, Tháng ba 2008)
Khủng hoảng, tiêu thụ và phát triển là ba đề tài cứ trở đi trở lại hoài trong nền kinh tế hiện đại: Đề tài một cho thấy đưa tiền cho nhà giàu vay để tiêu thụ là làm chuyện phiêu lưu văn nghệ, mà không cho dân Mỹ mượn tiền để mua sắm cũng sẽ có nguy cơ khủng hoảng lớn làm liên lụy cả thế giới. Mới biết tiêu thụ là một thứ nghiện ngập cũng giống như là ghiền ma túy. Không phải chỉ trong một sớm một chiều mà bỏ dứt được. Lạng quạng bỏ “choác” bất tử thì nó sẽ hành cho mà chết luôn... cả đám! Nhưng cứ đua nhau mà tiêu thụ ào ào thì trái đất này sẽ sập tiệm vì ô nhiễm, nghĩa là cũng bỏ mẹ... cả đám! Bà con ta mới tính sao đây? Xin cho biết để bần tăng mừng, yêu đời hơn, để tóc mọc trở lại và đi cưới vợ mới, còn “nhí” nheo nhẻo!
Nhưng nói tiêu thụ không hẳn là nói chuyện hợp lý. Bài hai cho thấy người ta đi shopping không phải chỉ để mua cơm ăn áo mặc cho vừa đủ no thân ấm cật. Khi có tiền rủng rỉnh thì người ta lật đật chạy đi mua sắm những thứ gồ ghề và có dấu ấn (!) để “le lói” với thiên hạ. Trong Sự đời bần tăng cũng đã có dịp phát biểu là nhu cầu thiết yếu cho đời sống và sức hưởng thụ của mỗi người rất là có giới hạn. Chẳng hạn như nói về tứ khoái ăn, ngủ, “đê”, ỉa: không một ai có thể ăn đều đều bốn bữa thịnh soạn trong một ngày, ngủ cùng lúc trên hai cái giường bự lớn cẩn vàng và hột xoàn mỗi đêm, “đê” đều đều hai em thơm phức hai lần mỗi tối, ỉa bốn lần bốn đống vĩ đại mỗi bữa - trừ phi ỉa bằng cái “đỉnh cứt trí tuệ” hiu hiu bự xộn, vì ỉa kiểu này thì là ỉa... mệt nghỉ! Bởi lẽ đó, bần tăng vẫn hằng tin rằng phần lớn con người rượt đuổi theo những nhu cầu giả dối và mua sắm những thứ hoàn toàn không cần thiết cho đời sống hằng ngày. Để làm gì? Thì để “le lói” với thiên hạ! Hỏi cái gì mà lãng nhách! Anhđượcxítten? Comppờrenđô? Cứ thử nhìn vào cái đời sống để mà shopping và mua sắm những loại đồ vật nhằm mục tiêu “show up”, như nhà cửa cao cấp, xe cộ gồ ghề, nữ trang le lói, quần áo “dấu ấn”, giày dép hoa hoè hoa sói mà kiều bào Á nàm dành ta đua đòi ở cái xứ Mẽo phồn vinh của Bush con thì thấy liền. Bần tăng có thằng bạn đại cù lần nằm vùng lâu năm ở Cali. Bạn ta ngoan cố phản động không chịu chạy marathon kiểu đó cho theo kịp đồng bào cật ruột nên bị phe ta liếc xéo và nói xỏ xiên riết nên đành phải di tản chiến thuật đi chỗ khác chơi. Cho khuất mắt “Việt kiều yêu nước... Mẽo” ở xóm mình. Như một con chó ghẻ!
Đề tài ba cho thấy mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển và phân phối lợi tức. Trong thống kê kinh tế, có hai con số đứng hàng đầu: nội sản thô (PIB) và tăng trưởng. Tăng trưởng đại khái có nghĩa là giàu thêm. Nhưng ai giàu, vấn đề là ở chỗ đó. Lần trước, khi bàn về khủng hoảng bất động sản subprime ở Mỹ, bần tăng có phân tích hiện tượng “toàn cầu hoá” đã đẻ ra nền tư bản tài chánh hiện nay, lấy TIỀN làm cứu cánh. Từ đó nảy sinh hai hệ lụy: bất ổn và bất công. Bất ổn là khủng hoảng kinh tế tài chánh liên miên. Bất công là phân phối lợi tức hết sức chênh lệch, kẻ giàu thì càng giàu thêm khủng khiếp liên tục, người nghèo thì càng nghèo thêm sặc máu dài dài. Lịch sử đã từng cho thấy một tình trạng bất công như vậy sẽ đưa tới chiến tranh, bạo động và cách mạng. Mọi người và nhứt là bà con ta đã từng thưởng thức cái món cách mạng vô sản Mác Lê nên đã quá biết nó mặn ngọt như thế nào rồi. Trên nguyên tắc, cách mạng vô sản là để giải phóng và nâng cao mức sống của dân nghèo mạt rệp “trên răng dưới dế”. Thế nhưng trên thực tế, sau khi cách mạng thành công thì những kẻ vô sản “cách mạng chí cốt” nhảy lên nắm chính quyền và bắt đầu tham nhũng vô cùng hồ hởi (hỡi Hồ!). Một khi đã nếm mùi tiền và thấy nó ngọt sớt thơm phức không chịu nổi rồi thì đâm ra mê mẩn, ham hố và ghiền nó như ghiền ma túy. Cái bọn này ra tay bóc lột nhân dân kỹ hơn ai hết. Khi trước, tư bản chỉ mới lột có cái áo. Giờ đây cộng sản lột tuốt luôn cái quần, tịch thâu luôn đất đai, thắt cổ luôn cái bị gạo. Kinh nghiệm xương máu về cộng sản thời chiến tranh lạnh sau Đệ nhị Thế chiến vẫn còn chưa dứt nọc độc. Hiện nay, cái hội chợ tham nhũng ở bốn nước cộng sản anh em “đổi mới” còn sót lại: Trung Quốc (vô Mao), Cu Ba (Cu má), Việt Nam (hậu Hồ), Bắc Hàn (cao thủ Kim Dung) vẫn đang tiếp tục diễn ra sờ sờ trước mắt đó. Sự chênh lệch lợi tức giữa giàu và nghèo tại bốn nước “hậu hiện đại” này thiệt là vô cùng khủng khiếp, và càng lúc càng sâu rộng. Bây giờ về xứ ta hỏi khơi khơi ai giàu nhứt thì từ bà già lẩm cẩm chống gậy cho tới thằng con nít ke ở truồng lòi rún đều tự động đáp liền một cái rụp: “Cán bộ!”. “Các em nên lấy đó làm gương mà giữ (cửa) mình!”
Nói tăng trưởng thì phải tăng sản xuất và tăng tiêu thụ. Để hốt phiếu, đảng cầm quyền nào cũng hô hào tăng trưởng - cũng vì lẽ đó mà Bush con không chịu ký thỏa ước Kyoto nhằm giảm đốt dầu hỏa (giảm hoạt động kỹ nghệ) để giảm xả hơi độc làm nóng địa cầu. Tăng trưởng đã được loài người nâng lên hàng “Tôn giáo”, y chang như “Tôn giáo Tiền” và “Tôn giáo Tiêu thụ”. Hai ba thế kỷ trước, loài người tương đối còn ít ỏi, hoạt động kinh tế không mãnh liệt, trái đất còn đủ sức cung cấp cho loài người tăng trưởng kinh tế. Nhưng tới đầu thế kỷ 21 này thì trái đất bị con người bóc lột cạn kiệt, khí hậu trở nên hỗn loạn và nhứt là nạn ô nhiễm sắp giết chết mọi loài. Cái loài có “đỉnh cứt trí tuệ” không thể nào cứ đòi hỏi được tiếp tục tăng trưởng kinh tế, tiếp tục tăng trưởng tiêu thụ, tiếp tục bóc lột trái đất hoài hoài được. Đó là cách tự tử tốt nhứt và lẹ nhứt - cho các thế hệ con cháu, dĩ nhiên. Giả thử 1 tỉ 330 triệu ông Ba tàu, 1 tỉ 130 triệu ông Chà và, và nói chung hết thẩy 6 tỉ 500 triệu “đỉnh cao hai cẳng” đều tiêu thụ ào ào thực phẩm, quần áo, nước nôi, rượu mạnh, thuốc lá, ma túy, son phấn, keo xịt tóc, nhà cửa, xe cộ, xăng nhớt, sắt thép, đồng nhôm, hambơgơ, xanhgum, klinéc, quảng cáo, giải trí, xì líp, nịt vú, răng giả, móng giả, vú giả... y hịch như dân Mẽo hết thì nhân loại sẽ bắt buộc phải cử Tề thiên đại thánh xách thiết bảng lên đánh Trời một lần nữa để đòi thêm 10 trái đất mới toanh khác đem về cho loài “đỉnh cứt” tàn phá banh xà rông, và giải quyết thêm gấp 10 lần nạn khủng hoảng kinh tế, gấp 10 lần nạn ô nhiễm. Và nhứt là gây thêm 20 lần thế chiến, liệng thêm 20 trái bom nguyên tử, bắn thêm... ném thêm... giết thêm... Mệt quá! Mệt quá!... Bà con làm ơn làm phước cho bần tăng xin chút nước lạnh có dấu ấn, 10 viên thuốc nhức đầu cao cấp và một cái mền hoành tráng để bần tăng rút sâu xuống địa đạo Củ Chi oai hùng của dân tộc vô địch của ta mà nằm vùng với em bé hậu phương thơm phức cho thiệt kỹ.
Tuy nhiên, “nói gần nói xa không qua nói thiệt”. Xuyên qua ba đề tài kinh tế đã bàn ở trên, bà con ta thấy gì? Có thấy lòng tham không đáy của cái loài khỉ đi trên hai cẳng, không có lông nhưng có cái “đỉnh cứt trí tuệ” le lói rất bự trong đầu?.
27/9/2007
Kiệt Tấn
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Nghiên cứu và giảng dạy văn học Nhật Bản ở Việt Nam trong hai mươi năm đầu thế kỷ XXI Trong 20 năm đầu thế kỷ XXI, văn học Nhật Bản vẫn ...