Làm cách gì cho hoa nở?
Ngày 26 tháng 4 năm 2005, tôi hân hạnh được tham dự Hội thảo
tại Đại học Sư phạm Hà Nội về đề tài “Văn học Việt Nam từ sau 1975 - Những vấn
đề nghiên cứu và giảng dạy”. Tôi đã gửi báo cáo trước, nhưng đến cuộc họp lại
thấy không tiện súng sính trên diễn đàn, nên đã chọn cách nói vo. “Bài nói” của
tôi được một giáo sư tóc bạc ngồi trên đoàn chủ tịch khen là... đúng giờ. Sau
đây là “biên bản” của bài nói đó.
Chủ đề cuộc hội thảo có hai vế, văn học sau 1975, và những vấn đề liên quan đến
nghiên cứu, giảng dạy các tác phẩm đó. Về vế thứ nhất, văn học Việt Nam từ sau
1975, thì cũng bao hàm hai ý, một là những tác phẩm chiến tranh ra đời
sau cột mốc 1975 khi chiến tranh đã kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất non
sông thu về một mối, và hai là cao trào đổi mới tác phẩm, phần nào gắn với
“cây đũa thần” của ông Nguyễn Văn Linh. Theo lô gích tự nhiên, sau đó khi chuyển
sang vế thứ hai, thì đó là nghiên cứu và giảng dạy văn học sau chiến tranh và
văn học đổi mới.
Con người thường có hai loại thái độ đối với các thành tựu văn học. Một thái độ
chờ đợi xem hoa nở, và một thái độ tìm cách làm cho hoa nở. Tôi nghĩ trong chuyện
này tốt hơn là ta nên tham khảo ở bên Trung Hoa người ta đã làm cho hoa nở rộ
ra sao.
Tại sao lại Trung Hoa? Không phải vì tôi là chuyên gia trong địa hạt văn học
Trung Quốc, không phải thế. Mà bởi vì tình cờ vừa rồi tôi cùng Dương Tường được
Đới Tư Kiệt (tác giả tiểu thuyết và phim Balzac và
cô thợ may Trung Hoa) rủ đi đóng cho bộ phim ông ta quay tại Hà Nội. Dương
Tường đóng một đoạn ông già tiếp tân khách sạn mang cặp lồng cơm vào phòng cho
khách. Tôi đóng vai ông sư, trong hai ngày quay phải chờ nhiều, để sau đó cũng
chỉ ngồi im, đầu cắt trọc, ra vẻ ngoan ngoãn như bất kỳ nhà sư nào chưa bị bắt
lỗi.
Phạm Toàn, vai nhà sư, trong
bộ phim mới của Đới Tư Kiệt
Thành thử những lúc thư nhàn trong hai ngày “làm phim”, tôi
có dịp thảo luận với những người thích văn chương nghệ thuật trong đoàn làm
phim này. Nhân việc họ hỏi tôi về giá trị bộ phim đang làm, tôi đã nói dài dòng
và ngẫu hứng về nền văn học Trung Hoa sau Mao và sau Cách mạng Văn hoá. Mao và
Cách mạng Văn hoá là sự kiện có người bảo là đã làm chết 50 triệu người Trung
Hoa, có người bảo không đến thế, chỉ mươi mười lăm triệu thôi. Trong vụ thống
kê với hai ba kiểu sự thật này, chỉ có một người nói được đúng một và chỉ một sự
thật giữ sâu kín trong lòng người, đó là các nhà văn. Vì chỉ có nhà văn mới đủ
sức chỉ ra cái tiếng sấm rền trong lòng mình cho nó cộng hưởng cái tiếng sấm tắc
nghẹn vùi sâu trong nấm mồ tập thể những chục triệu con người. Vì chỉ có nhà
văn mới nói lên được cái ngón tay đau trước khi cả cơ thể mục ruỗng trong quên
lãng.
Thế nhưng trong cái xã hội Trung Hoa đầy cấm đoán sau Mao và sau Cách mạng Văn
hoá, sĩ khí các nhà văn có thể không giống nhau. Thật lòng nghĩ đến sự nảy nở của
một nền văn học hậu kỳ sự kiện lớn đó, thì phải có cách tổ chức cho hoa nở. Người
Trung Hoa tài tình làm công việc đó theo ba giai đoạn (xin nói lại, theo tổng kết
ngẫu hứng của riêng tôi).
Tại chặng thứ nhất, họ công bố rất nhiều hồi ký. ở Việt Nam từ đầu những năm
1990 đã có thể mua được hồi ký dịch sang tiếng Việt của Hán Tuyết Anh, và hai
cuốn khác có tên Xuân Nguyệt và Đỗ quyên đỏ. Rất nhiều cuốn khác
chưa dịch sang tiếng Việt. Những hồi ký này có đặc điểm chung là nói sự thật
không tô vẽ gì hết. Thậm chí nếu ai nói nó “phản động” cũng khó cãi. Chẳng hạn
qua hồi ký của viên bác sĩ riêng của Mao ta biết được cách sống đế vương của
con người hễ cất lời là nói đến nhân dân. Ta cũng còn biết cả việc khi ông được
lấy từ tủ lạnh ra thì má ông bị bong một mảng. Trong nhiều hồi ký, không hiếm
chuyện mẹ bỏ rơi con dọc đường để sống tháo thân. Đại loại các hồi ký như vậy
đã ra mắt bạn đọc. Nó có tác dụng gì? Nó làm cho con người vốn coi văn học như
chốn đền miếu sạch như lau như li, nay có thể thấy trong đền miếu có rác rưởi.
Đó không chỉ là hồi ký, mà đó là một bài tập lớn cho toàn dân về chủ nghĩa hiện
thực. Người Trung Hoa rất khôn, họ biết rằng cấm đoán loại hồi ký kiểu đó thì
các cụ về hưu vẫn truyền nhau những gì họ viết ra, khi đó cái hồn nhiên lại
thành cái ấm ức vô ích.
Giai đoạn thứ hai diễn ra sau khi nhân dân đã quen quen với những hồi ức đầy những
sự thật kiêng cữ. Khi đó có cơ hội ra đời những tác phẩm nói về cái cuộc sống đầy
những vết thương đã lên sẹo ấy. Trước đó, nếu người đọc chưa quen với những
tình tiết còn bị coi là xa với một chủ nghĩa hiện thực theo đúng quy chế, thì mọi
vết thương đều giấu kín và do đó mọi vết sẹo cũng chẳng phơi ra. Ở Việt Nam đã
dịch và bán rầm rộ rất nhiều tác phẩm Trung Hoa thuộc giai đoạn hai này. Điều
đáng buồn là nhiều người chỉ thấy thích thú với việc hoa nở rộ ở vườn nhà hàng
xóm, song có bao nhiêu ban bệ mà vẫn chẳng thấy ai lên tiếng về cách làm cho
hoa nở rộ ở vườn nhà mình.
Sau đó là giai đoạn thứ ba. Đây là thời kỳ đã nói đủ về những vết thương và những
vết sẹo, nói nữa sẽ nhàm trừ phi có cách nói hoàn toàn khác hẳn. Đời sống vật
chất vài ba chục năm đổi mới cũng tạo ra thế hệ độc giả có học và có của, tâm
lý của họ dị ứng với cách nói năng kéo dài về những vết thương và những vết sẹo.
Đến lúc đó, người ta sẽ viết ra cho bạn đọc những cuốn sách thiền hơn, đạo hơn,
sang hơn, thoát hơn, rất đời mà lại ít bợn đời hơn, đắm đuối nhìn về chân trời
xa hơn, và nhất là càng ngày càng cá nhân hơn. Các tác giả sẽ đáp ứng
đòi hỏi đó một cách tự nhiên một khi cả nền văn học đã trải qua hai giai đoạn
trước đó. Vì thế ở bên kia biên giới người ta mới có những Mạc Ngôn và Giả Bình
Ao, người ta chấp nhận Cao Hành Kiện và người ta cũng dung cả Lý Nhuệ lẫn Vệ Tuệ.
Đấy mới chỉ là vài thí dụ theo sự tổng kết nông cạn của tôi. Nhưng tôi nghĩ là
mình không sai lắm khi hôm qua thấy trên mạng một cuộc trình diễn có tên “A
còng 41” với 41 anh chị sinh viên Học viện Mỹ thuật Âm nhạc Thành Đô ngày
13-4-2005 nằm trần truồng đè nhau kiểu quân domino xếp thành hính chữ A-còng
trên thảm cỏ xanh sân gôn Mục Mã Sơn.
Việt Nam đang ở chặng đường nào trong cuộc hành trình nở hoa dài dằng dặc đó?
*
Sang chuyện nghiên cứu và giảng dạy, điều kiện trước hết là cần phải có những
tác phẩm sau 1975. Vì phải có những vật liệu ấy thì mới có cái mà đưa vào “nhà máy
cháo phổi” giảng dạy văn chương chứ? Đến đây vẫn lại thấy nổi lên chuyện làm
cách gì nghiên cứu và giảng dạy về những đoá hoa đã nở và còn nở.
Một lần nữa xin bạn đọc cho tôi gợi ý từ cách làm của người Mỹ đương thời. Họ
đã làm gì để nghiên cứu và giảng dạy các tác phẩm văn học về cuộc chiến được họ
đặt tên là Chiến tranh Việt Nam? Tôi không được đi Mỹ nghiên cứu, chỉ lướt
trên các trang web để học hỏi, thấy gần như mỗi trường đại học danh tiếng ở Mỹ
đều có trang web riêng cùng với bộ Bách khoa thư riêng của mình về
Chiến tranh Việt Nam. Các tài liệu đó lại đều liên kết trên mạng, thành thử chỉ
đọc của một trường thì cũng có cơ hội đọc tham khảo tài liệu những trường khác.
Thử dừng lại ở một trong nhiều bộ sách đó, tôi gặp bộ ba tập của Đại học Oxford
in năm 1998 có tên Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam: Lịch sử chính trị,
xã hội và quân sự. Trong bộ sách đồ sộ này có phần về Văn học Chiến tranh
Việt Nam và trong phần này lại có những tác giả và các nhóm khác nhau làm
những thư mục riêng. Và mỗi nhóm hầu như đều có chung cách tổng kết như sau: •
Tư liệu riêng (hồi ức, ghi chép, thư tín chẳng hạn) là những
thứ có thật để người đọc được đi vào nguồn tư liệu chưa nhào nặn;
Tài liệu lưu trữ (những tuyên ngôn chính trị của các nhóm chống
chiến tranh thường nằm ở mục này);
Tiểu luận - nghiên cứu (về văn học Chiến tranh Việt Nam);
Văn xuôi (tiểu thuyết, tập truyện ngắn, bút ký);
Thơ;
Tài liệu bàn đến việc giảng dạy Văn học Chiến tranh Việt Nam
(khá dầy dặn, gồm ba phần nhỏ sách, các bài báo, và các trang
web liên quan);
Các kết nối từ những thư mục nói trên sang các địa chỉ có chứa
những tác phẩm cùng chủng loại không chọn vào thư mục này;
Các trang web liên quan để người đọc rộng đường tra cứu.
Xin giới thiệu qua qua một nhóm do John Clark Pratt chủ trì. Ông này
làm tiến sĩ về văn học Anh tại đại học Princeton, song lại đeo lon trung uý đi
dạy môn hoa tiêu tại Học viện Không quân, rồi là phi công chiến đấu thời Chiến
tranh Việt Nam và đến năm 1974 thì rời quân ngũ với lon đại tá và xuất bản tiểu
thuyết Những mẩu chuyện Lào. Từ 1974 đến 1980, ông là chủ nhiệm khoa tiếng
Anh Đại học Colorado ở Fort Collins, hiện vẫn là giáo sư tiếng Anh tại đây. Đường
lối của Pratt có thể tóm tắt như sau “Chính là nhờ đọc tiểu thuyết – một hành động
cần sự tham gia của thời giờ, suy tư và đồng cảm... mà có thể hiểu rõ được sự
thật căn bản của cuộc Chiến tranh Việt Nam”.
Tôi thử đi vào phần tiểu thuyết của cái ông Pratt này. Ông giới thiệu 120 cuốn
(những cuốn ông không chọn thì ông mời bạn đọc tìm kiếm ở địa chỉ khác do ông
giới thiệu đàng hoàng, không thèm tường lửa người không cùng cánh). Lướt tên
tác giả thấy có ba người mình biết tên tuổi, một là Bảo Ninh (1 cuốn) một là
Dương thu Hương (2 cuốn) còn một người nữa là Larry Heinemann. Tôi chú ý anh cựu
binh Mỹ này vì anh đã sang lại Việt Nam, làm việc ở Huế cả năm dài, đã ra Hà Nội,
đã uống chén rượu với nhau trong cuộc đón tiếp các nhà thơ hậu hiện đại, đã bô
lô ba la với anh ta tại cuộc gặp gỡ ở Hội Nhà văn Hà Nội... Thế mà có 2 cuốn tiểu
thuyết của anh ta thì mình lại không đọc! Vả chăng cũng không có sách đó mà đọc.
Nhưng giá mà biết trước thì đã vào mạng và ít ra cũng được giới thiệu vắn tắt
sách của Larry.
Quyển thứ nhất: Gần gụi (Close Quarters), Farrar, Strauss &
Giroux xuất bản năm 1974, 336 trang. Philips Dosier đến một đơn vị chiến đấu ở
Việt Nam để thay thế một người đã chết khi làm nhiệm vụ. Ngây thơ và kích động,
anh tìm hiểu ý nghĩa công việc anh làm ở đây, bảo dưỡng, sửa chữa và vận hành
xe tải, xe bọc thép chuyên chở lính, và anh sớm quen với sự xù xì và phi nhân
tính của chiến tranh qua những lời lẽ thô tục, những sự phân biệt chủng tộc, những
cảnh đếm xác chết vô đạo lý, những thi thể bằm nát, và sự giết người. Cuối
cùng, tất cả những gì anh muốn làm là... “Giết và đốt và hiếp và cướp...” cho tới
khi chẳng còn gì sót lại.
Quyển thứ hai: Chuyện của Paco (Paco’s Story), Farrar, Strauss &
Giroux xuất bản năm 1974, 336 trang. Một linh hồn còn sống sót của một trận
đánh huỷ diệt quân Việt Cộng trở về đời sống dân sự làm nghề rửa chén bát tại
quán cà phê một thành phố nhỏ. Anh thành một người kể chuyện nói lên mọi điều
kinh hoàng một cách vô cùng chi tiết qua lời người kể là một tử sĩ nói từ dưới
mồ vọng lên. Tác giả dùng ngôn ngữ như một thứ vũ khí, và tác động nhiều khi
làm ta vô cùng đau đớn.
Xin hãy tạm viết đến đây, và bạn thừa biết tôi đã nêu sẵn câu hỏi, thử xem
chúng ta đang ở khúc đường nào so với bạn bè năm châu bốn bể.
Tôi xin kể một kỷ niệm riêng tư. Năm 1994, sau rất nhiều năm bận bịu không theo
dõi thời sự văn học, bỗng dưng bữa kia tại một cửa hàng sách ở Sydney tôi ngồi
xổm đọc ngốn ngấu một Nỗi buồn chiến tranh bằng tiếng Anh của Bảo
Ninh. Cuốn sách đã đem lại cho tôi một lời hứa với chính mình: từ nay phải nắm
vững thời sự văn học hơn nữa. Thế nhưng, khi về nước, một “nỗi buồn chiến
tranh” đẹp đẽ bao nhiêu lại bị đổi thành một “thân phận tình yêu” ngớ ngẩn
(nhưng có thể là nhất thời được việc). Mà tại sao cũng tác phẩm tiếng mẹ đẻ đẹp
đến thế của Bảo Ninh nhưng in tiếng nước mình thì khác mà in bằng tiếng nước
ngoài thì vẫn trung thực được một “nỗi buồn”?
Tôi xin kể thêm một kỷ niệm thứ hai. Đi dự một cuộc bảo vệ luận án liên quan đến
tác phẩm của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp, sau khi thí sinh đã đỗ đạt xong
xuôi đầy đủ, khi ấy tôi mới nêu câu hỏi: có bao nhiêu người Việt Nam đã đọc họ?
Có bao nhiêu người khen hoặc chê họ? Tầng lớp nào khen và khen thế nào, tầng lớp
nào chê và chê thế nào? Trong trường có bao giờ tính đến lập ra một thư mục
hoàn chỉnh để bất cứ ai muốn đào sâu nghiên cứu thì khỏi lúng túng? Ai sẽ đứng
ra tổ chức những việc làm thực chứng đó?… Rồi trong chỗ riêng tư, tôi đã hỏi
các bạn nghiên cứu sinh trẻ: Bạn chịu đựng tới bao giờ cái cung cách
nghiên cứu (và giảng dạy) theo lối đèn xanh đèn đỏ đèn vàng?
Tôi tin rằng người Việt Nam cũng có thể có những nhà văn không kém Mạc Ngôn hoặc
không thua cả em Vệ Tuệ điên rồ, vấn đề là chưa có cách làm cho hoa nở. Thế
thôi.
Hà Nội, 11/5/2005
Phạm Toàn
Nguồn: Tham luận tại Hội thảo toàn quốc “Văn học Việt Nam
sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy”
tại Khoa Ngữ văn, Đại học Hà Nội, 26/4/2005
Theo http://www.talawas.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét