Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022

XXXTừ điển văn học bộ mới, một công trình đáng đọc

Từ điển văn học bộ mới,
một công trình đáng đọc

Từ điển văn học là một công cụ tra cứu chuyên ngành không thể thiếu nhằm hỗ trợ cho những nhà nghiên cứu, giảng dạy, cho học sinh, sinh viên và người yêu văn chương trong việc tìm hiểu và thâm nhập vào thế giới văn học. Ở một phương diện khác, hơn đâu hết, từ điển văn học phản ánh khá rõ trình độ, thành quả nghiên cứu và tư duy văn học của thời điểm mà nó ra đời. Từ điển văn học - bộ cũ - gồm hai tập là kết quả hơn bảy năm biên soạn của một tập thể 56 nhà khoa học ngữ văn, được xuất bản năm 1983, 1984 đã được đón nhận rộng rãi, trở thành một công cụ tra cứu thân quen với giới chuyên môn, những người yêu văn chương và cũng đã ghi một dấu mốc trong việc biên soạn loại sách công cụ chuyên ngành này. Sau 20 năm, với tiến trình đổi mới xã hội, ngành nghiên cứu văn học đã đi một bước khá xa trong nhận thức, trình độ người đọc cũng tăng lên rõ rệt, bộ Từ điển văn học in năm 1983, 1984 tự nó đã trở nên “cũ”. Đời sống văn học chờ đợi một bộ từ điển mới, quy mô hơn, phong phú hơn và nhất là có cách nhìn nhận mới mẻ, hiện đại hơn đối với các hiện tượng văn học.
Đầu năm 2005 này, Nhà xuất bản Thế giới cho ra mắt Từ điển văn học bộ mới, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi trên. Bộ sách in đẹp, phụ bản ảnh phong phú với độ dày 2370 trang - một khối lượng khá đồ sộ, gấp đôi số trang của bộ sách cũ (1117 trang). Bên cạnh Đỗ Đức Hiểu, vị Chủ biên kỳ cựu của bộ cũ là ba vị Chủ biên vốn từ Ủy viên thường trực Ban biên tập cũ mới được bổ sung: Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá và hai Thư ký thường trực - Đặng Thị Hảo, Vũ Thanh. Bộ sách được sự cộng tác của 58 tác giả và 48 cộng tác viên - hầu hết là những Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ chuyên ngành thuộc các trường đại học, viện nghiên cứu trong cả nước. Có thể nói, một khối lượng lớn “chất xám” đã được huy động vào việc biên soạn Từ điển văn học bộ mới này. Thời gian biên soạn kéo dài tới mười năm với sự làm việc cẩn trọng của các tác giả, đặc biệt là chặng hoàn thành công trình - như một vị Chủ biên cho biết, các Giáo sư Chủ biên và Thư ký đã phải “nhốt mình” từ sáng đến khuya trong Dinh Thống nhất để hoàn thành những công đoạn cuối cùng của bản thảo [1] : cân nhắc, thêm bớt, điều chỉnh nhằm tạo cái nhìn nhất quán về kiến giải, nhận định và tư liệu; thống nhất lại văn phong, thao tác; chuẩn hóa mọi quy cách; bổ sung đầy đủ tiếng nước ngoài vào các mục từ... Tất cả những điều đó là những nhân tố cơ bản đầu tiên để đảm bảo chất lượng khoa học của bộ sách. Bộ sách đã khắc phục nhiều nhược điểm của bộ Từ điển văn học (bộ cũ), có những đổi mới quan trọng cả về hình thức và nội dung, cả về quan điểm và phương pháp, tạo ra được những đột phá đáng kể cả về lượng và chất.
Có thể nói ưu điểm nổi bật của Từ điển văn học bộ mới là sự tích hợp được những thành quả nghiên cứu văn học trong một cách nhìn đổi mới mấy chục năm qua để nhằm tới mục tiêu cuối cùng là cung cấp cho độc giả một khối lượng kiến thức văn học phong phú và hiện đại. Vẫn giữ cấu trúc hợp lý của bộ cũ, bộ sách mới bao gồm bốn bộ phận: tác gia, tác phẩm, tổ chức và hoạt động văn học, thuật ngữ văn học, nhưng ở mỗi bộ phận, số lượng mục từ đều phong phú hơn hẳn trước, nhiều mục từ cũ được chỉnh sửa hoặc viết lại theo những nguồn tư liệu mới, quan điểm mới, và cả phương pháp tiếp cận mới.
Quan niệm biên soạn được thể hiện khá rõ trong Lời nói đầu: “Từ điển văn học là một loại sách công cụ chuyên ngành nhằm hỗ trợ đắc lực cho việc thâm nhập vào các bộ môn khoa học nhân văn. Từ điển văn học bộ mới coi đối tượng của mình là hết thảy mọi sự kiện văn học đã tồn tại và được thừa nhận trong lịch sử văn học và văn hóa nhân loại từ trước đến nay”. Cách nhìn sáng rõ này được biểu hiện qua việc lựa chọn tác giả, tác phẩm... đưa vào Từ điển, qua việc trình bày mỗi mục từ. Xét ở cấp độ tổng thể, nó đã góp phần tạo ra một diện mạo mới, một tầm vóc khoa học mới của bộ sách so với bộ cũ. Xem văn học Việt Nam là bộ phận chủ chốt, quan trọng, bộ sách đồng thời cố gắng bao quát những hiện tượng của văn học thế giới; trong văn học thế giới, cũng không chỉ chú ý đến những nền văn học lớn mà còn quan tâm đến những nền văn học “nhỏ” hoặc còn ít nhiều xa lạ với chúng ta như văn học Na Uy, Phần Lan, Sec, Bờ Biển Ngà, Indonesia, Campuchia, Lào... Các trường phái, trào lưu văn học hiện đại, hậu hiện đại cùng những tác gia tiêu biểu vốn trước đây từng bị kỳ thị hoặc có cái nhìn dè dặt nay cũng đã được giới thiệu, trình bày như những kiến thức văn học cần thiết, vừa để rộng đường tham khảo vừa giúp người đọc có thể hình dung một cách đầy đủ hơn về toàn cảnh đa dạng của văn học thế giới hiện đại. Người đọc có thể tìm thấy ở đây các mục từ về chủ nghĩa siêu thực, về kịch phi lý, tiểu thuyết mới, về chủ nghĩa hiện sinh... với các tên tuổi của Apollinaire, Butor, E. Ionesco, J. P. Sartre, A. Camus, Simone de Beauvoir, Kafka... Một số tác gia nước ngoài mới được thừa nhận và định giá lại một cách thỏa đáng (theo quan điểm chính thống của nước sở tại cũng như theo dư luận của văn đàn nước nhà) cũng được kịp thời giới thiệu hoặc viết lại thích đáng trong Từ điển như Maria Svetaeva, Akhmatova, Kuprine, Bunine, Pasternac, Bakhtine, Platonov, Brodsky, Bulgakov, Solzhenitsyn, Steinbeck (ông này từng bị coi là đã đi máy bay thị sát “giặc lái” Mỹ bắn phá miền Bắc), Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Hồ Thích, Hồ Phong, Ba Kim, Điền Hán, Đinh Linh, Hạ Diễn, Lão Xá, Lâm Ngữ Đường, Kim Dung (bỏ hẳn mục từ “chưởng” với giọng phê phán gay gắt trước đây), Quỳnh Dao... Đặt văn học trong mối tương quan rộng với văn hóa, các tác giả đã đưa vào bộ sách những mục từ về các nhà triết học, sử học, nhà văn hóa Đông Tây mà tư tưởng và thành quả nghiên cứu của họ có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sự phát triển văn học, chẳng hạn: Khổng Khâu, Lão Đam, Mặc Địch, Trang Chu, Mạnh Kha, Tuân Huống, Hàn Phi, Chu Hy, Hegel, Nietzsche, Freud, Lévi-Strauss, Marx, Engel, Lénine, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Cao Xuân Huy, Kim Định, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khánh Toàn, Trần Văn Giàu, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Đăng Thục (nên thêm Thích Nhất Hạnh)... Trong số này không phải tất cả nhưng có những mục từ được viết thật thấu đáo, giúp người đọc hiểu được vị trí của họ trong đời sống tinh thần, tư tưởng, văn học.
Tiếp thu những thành quả không nhỏ của giới nghiên cứu thời gian qua về phương diện phát hiện và khảo sát tư liệu, đồng thời có được sự đổi mới trong việc nhìn nhận và đánh giá tác giả, tác phẩm, các hiện tượng văn học - đó là những yếu tố làm nên chất lượng mới của Từ điển, rõ nhất ở bộ phận văn học Việt Nam, bộ phận quan trọng và thiết thân nhất với người sử dụng. Có thể thấy điều này ở các mục từ văn học cổ cận đại cũng như hiện đại. Dường như mỗi mục từ đều có những bổ sung mới mẻ về tư liệu hoặc rọi chiếu một cách nhìn ít nhiều khác trước, kỹ lưỡng hơn, khoa học, khách quan và nhất là công bằng hơn, không bỏ lý nhưng rất thấu tình - từ các tác giả có vị trí ổn định trong lịch sử văn học cho đến những tác giả, tác phẩm, trào lưu mà những đánh giá trước đây còn chưa thỏa đáng: Hương Hải, Nguyễn Gia Thiều, Cung oán ngâm khúc, Quan âm tân truyện, Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Nhạ, Phan Thanh Giản, Dương Lâm, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh, Phan Châu Trinh, Nhất Linh, Khái Hưng, Đoạn tuyệt, Bích Khê, Lê Văn Trương, Vũ Trọng Phụng, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Bính, Tự lực văn đoàn, Phong trào “thơ mới”, Nhóm Thanh nghị, Nhóm Tri tân, Nhóm Hàn Thuyên, Xuân thu nhã tập..., trong đó có những tác giả, tác phẩm và trào lưu được viết mới gần như hoàn toàn. Ngoài ra, Từ điển văn học bộ mới cũng bổ sung những mục từ tác giả, tác phẩm, thể loại mà bộ cũ chưa có điều kiện đưa vào, hoặc vì “né tránh” hoặc sơ ý bỏ quên, như Khương Công Phụ, Alexandre de Rhodes, Thiền uyển tập anh, Nguyễn Húc, An Nam chí lược, Nguyễn Huy Tự, Ngô Thì Nhậm, Philipphê Bỉnh, Trần Văn Vi, Ngô Thế Vinh, Chu Doãn Trí, Nguyễn Văn Lý, Nam phong giải trào, Phan Văn Hùm, Nguyễn Tiến Lãng, Phạm Duy Khiêm, Phạm Văn Ký, Bướm trắng, Đôi bạn, Gia đình, Một linh hồn, Đau thương, Bức tranh quê, Túp lều nát, Nhượng Tống, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Đức Quỳnh, Lan Khai, Tchya, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Vỹ, Đinh Hùng, Hoàng Đạo, Hoàng Xuân Hãn, Văn Cao, Thanh Lãng, Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Phùng Tất Đắc, Cung Giũ Nguyên, Toan Ánh, Võ Hồng, Bùi Giáng, Nguyễn Văn Xuân, Dương Nghiễm Mậu, Ngân Giang, Nguyễn Ngu Í...; các tác giả vốn thuộc nhóm Nhân văn-Giai phẩm như Hữu Loan, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phan Khôi, Phùng Quán, Đặng Đình Hưng (thiếu Thụy An)...; rất nhiều tác giả Nam Kỳ lục tỉnh thời cận đại, và khá nhiều tác phẩm cũng như loại hình văn học dân gian hoặc dân ca của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Trên tinh thần trân trọng mọi giá trị văn chương và vun đắp gốc rễ văn học dân tộc, một số cây bút từng xuất hiện trên văn đàn miền Nam Việt Nam trước đây và sau đó sinh sống, định cư tại nước ngoài cũng được chọn lọc, giới thiệu - chu đáo, vô tư, không thiên vị -trong Từ điển, tuy chưa nhiều và chưa hẳn tiêu biểu nhất: Thái Can, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Thị Vinh, Nhật Tiến, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng... Đối với các tác gia văn học hiện đại, việc Từ điển chỉ lựa chọn những tác giả có mặt trên văn đàn từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX trở về trước là một điều có thể hiểu được: không dễ có những đánh giá chắc chắn cho một sự nghiệp văn chương vẫn còn đang trong hành trình được mất của nó, và mỗi hiện tượng cũng cần có một độ lùi thời gian để có thể lưu dấu ấn trong đời sống văn học (và cũng có thể có những khó khăn nào khác nữa chăng khi người viết muốn lựa chọn thế hệ nhà văn từ những năm 60 trở về sau, cả Bắc và Nam, sao cho “chuẩn mực”, không đưa vào xô bồ vì nể nang, cũng không phải sợ một áp lực nào cả?). Bên cạnh đó, việc cân nhắc và đưa vào những tác giả xuất hiện sau thời điểm ấn định mà nay đã mất như Nguyễn Minh Châu, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Dậu (sao không có Hà Minh Tuân?)... cũng là một sự hợp lý và cần thiết, vừa theo truyền thống “cái quan định luận”, vừa kịp thời cung cấp cho người đọc những giá trị để lại của một văn nghiệp đã kết thúc.
Việc lựa chọn tác gia, tác phẩm luôn là một điều khó khăn đối với người biên soạn. Cách xử lý vừa nguyên tắc, chặt chẽ vừa cởi mở, uyển chuyển của Từ điển văn học bộ mới đã có được hiệu quả tích cực: khung trời văn học như được nới rộng thêm ra. Dẫu sao, thực tế của bộ sách cũng đặt ra một vấn đề để cùng ngẫm nghĩ: các tác gia, tác phẩm loại một, loại hai, dĩ nhiên là đã và còn nên thêm vào cho đủ, còn các tác giả thuộc loại “thường thường bậc trung” (Nguyễn Xuân Huy, Huy Phương, Minh Huệ, Hoàng Tố Nguyên...) có khi lại nên thu bớt, và cả những tác phẩm chỉ có tiếng vang một thời rồi sau đó không còn ai chú ý, hoặc không điểm một dấu mốc lịch sử, nên chăng là tóm gọn lại và lồng vào các mục từ tác giả như nhiều mục trong sách đã làm (Con trâu, Xung kích, Mùa lạc...)?
Trong việc giới thiệu tác gia, bộ sách đã cố gắng đưa ra những thông tin chính xác, có độ tin cậy cao về tiểu sử, đặc biệt là những chi tiết thuộc lĩnh vực hoạt động văn chương, trình bày sáng rõ những đặc trưng nội dung cũng như nghệ thuật trong những tác phẩm chính yếu của họ. Đối với việc tiếp cận hệ thống tác phẩm, các mục từ đều cố gắng từ bỏ hướng tiếp cận xã hội học thô thiển hoặc đơn giản - một nhược điểm của bộ cũ - tiếp thu lý luận và thành quả nghiên cứu phê bình đương đại để phân tích tác phẩm một cách khoa học, chỉ ra được những đặc sắc nội dung và nghệ thuật cùng những đóng góp của nó, đem đến cho người tra cứu không chỉ những thông tin, nhận định cần thiết mà phần nào khơi gợi những rung động thẩm mỹ - một điều không dễ đi đôi với văn phong chặt chẽ, kiệm lời luôn cần có ở mỗi cuốn từ điển. Các yêu cầu này được thực hiện ở nhiều mức độ đậm nhạt cao thấp khác nhau, nhưng nhìn chung vẫn là một hướng nhất quán làm tăng thêm chất lượng các mục từ. Có những mục từ tác gia không dễ viết, đó là những tác gia “phức tạp” lần đầu tiên được đưa vào Từ điển như Hoàng Cao Khải, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, Hồ Hữu Tường, Phan Khôi, Trương Tửu... Các tác giả mục từ đã vượt qua được định kiến quen thuộc để có được những phân tích, đánh giá khách quan, sâu sắc, trong một lối trình bày mực thước, chắc chắn, có sức thuyết phục. Ngay với những tên tuổi đã được “định giá” như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Hồ Chí Minh và Nhật ký trong tù, Tố Hữu, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Văn Tố, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Đình Thi, Anh Thơ, Vũ Đình Liên, Nguyên Ngọc, Tô Hoài, Văn Cao..., nếu để ý người đọc cũng có thể nhận ra những nhận xét thêm và bớt, những điểm xuyết kín đáo, tạo nên một cái nhìn cân đối, mới mẻ và hữu ích.
Sự tin cậy của người tra cứu Từ điển trước hết đặt vào sự phong phú và độ chính xác của những tư liệu được đưa ra. Từ điển văn học bộ mới đã có những cố gắng lớn trong việc sưu tầm, khảo sát tư liệu. Chỉ đơn cử một ví dụ: Bộ tác phẩm đồ sộ của Maiôrica - một Linh mục người Ý sang Việt Nam truyền giáo - gồm 45 cuốn viết từ khoảng 1632 đến 1656, nay chỉ còn 16 cuốn được lưu trữ trong Thư viện Quốc gia Pháp đã được tìm lại vừa như kết quả của những nỗ lực săn tìm lại vừa như một “duyên may”. Mục từ Maiôrica được Gs. Nguyễn Huệ Chi giới thiệu trong Từ điển cho ta thấy nội dung phong phú và đa dạng của bộ sách quý này, nơi “bảo lưu kho từ ngữ thuần Việt tương đối cổ cũng như kho văn liệu chữ Nôm từ thế kỷ XVII trở về trước mà về mặt nguyên dạng của văn bản, không một tài liệu nào sánh được”. Tìm tòi những chi tiết tiểu sử tác giả, nhất là những tác giả đã khuất bóng vài thế kỷ hoặc những tác giả đang sinh sống định cư ở nhiều chân trời khác nhau quả là một công việc khó khăn. Ngay việc tìm hiểu tiểu sử của nữ thi sĩ Blaga Dimitrova, tác giả tập thơ Vây giữa tình yêu rất quen thuộc với độc giả Việt Nam, những nhà biên soạn đã phải nhờ vào sự hỗ trợ của Đại sứ quán Bulgari [2] ...
Sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến cách “kiến trúc” và trình bày khoa học của Từ điển văn học bộ mới. Các danh từ riêng và nhan đề tác phẩm được in kèm nguyên văn. Để giúp người đọc dễ dàng tìm đến tận gốc trong khi tra cứu, Từ điển có thêm mười bảng phụ lục ở cuối sách: hai bảng tra cứu tác gia và tác phẩm theo tiếng Việt có chú nguyên văn, các bảng tra cứu tác gia và tác phẩm theo khối chữ Latinh, theo tiếng Nga, theo tiếng Hán, hai bảng tra cứu thuật ngữ bao gồm cả các tổ chức, hoạt động, trào lưu văn học. Giá thử bộ sách thêm được vào một bảng tra cứu tác giả tác phẩm theo đơn vị quốc gia thì sẽ càng hoàn chỉnh và tiện lợi. Phần tư liệu ảnh chiếm đến 188 trang, trong đó có những bức ảnh quý hiếm sưu tập trong tư liệu các gia đình, được in đẹp, sang trọng, đã tăng thêm tính mỹ thuật, tính văn hóa và tính sinh động trực quan của Từ điển.
Tất nhiên không phải mọi sự đều đã hoàn hảo. Người tra cứu có thể nhận ra sự đơn giản, sơ lược hoặc chưa đủ độ chín ở mục từ này hay mục từ khác, nhất là ở những mục từ chuyển ngữ từ các bộ từ điển nước ngoài - trong đó, rất đáng tiếc là những tác gia thuộc các nền văn học lớn như Ý, Mỹ, Anh... viết quá vắn tắt và nhiều khi chỉ điểm tên tác phẩm (những tác gia như Amicis, Manzoni, Castiglione, James, Kipling, Bellow, Thomas S. Eliot, Toni Morison... mà sao viết “gọn gàng” quá đến vậy?), một số mục từ văn học Nga luận điểm đã quá cổ, thậm chí tóm tắt tác phẩm cũng chưa chính xác (ví dụ: Anh em nhà Karamazov) - một điều dẫu sao cũng có thể ít nhiều thông cảm ở một bộ sách lớn do hơn trăm người chấp bút sâu nông khác nhau và nói cho cùng, trong chiều sâu tâm lý của người viết và cả người đọc, phần văn học nước ngoài trước sau cũng chỉ có tính cách đơn thuần thông tin mà thôi. Từ điển cũng còn có những sơ suất thiếu sót cần được khắc phục và bổ sung trong dịp tái bản, chẳng hạn việc dịch đồng loạt nhan đề tác phẩm chữ Hán ra tiếng Việt là một cố gắng đáng kể (và có lẽ đây là một cuộc “cách mạng” đối với thói quen ỷ lại vào cách phiên âm Hán Việt của bao nhiêu thế hệ nghiên cứu, dịch thuật ròng rã từ một thế kỷ trước đây, bất chấp người đọc có hiểu được hay không), nhưng dẫu sao, có những trường hợp trong khi dịch vẫn cần được cân nhắc thận trọng hơn nữa (dịch Ỷ Thiên Đồ Long kiếm là “Thanh kiếm Đồ Long dựa vào trời” là không đúng, phải là “Thanh kiếm Ỷ Thiên và thanh kiếm Đồ Long”; dịch Lộc Đỉnh ký là “Chuyện tranh giành hươu vạc” cũng không đúng, phải là “Chuyện ghi ở Lộc Đỉnh”...). Ngay việc thông tin, đôi khi do điều kiện chuyển ngữ gián tiếp nên có thể chưa thật chuẩn xác, như ở một số mục từ văn học Nhật Bản và các nền văn học chưa có chuyên gia người Việt. Hoặc việc để sót mục từ Quang Dũng (một tác gia quan trọng, một tài thơ sáng giá, dầu rằng đã có in ảnh rất đẹp) là điều rất đáng tiếc, và cả việc không có mục từ Hội nhà văn Việt Nam, một tổ chức có quá trình lịch sử khá dài trong đời sống văn học nửa thế kỷ qua cũng nên nghĩ lại (dễ thường đây là một chủ ý của người làm sách?). Việc ghi chép ngày sinh ngày mất và sinh quán của tác gia có trường hợp làm tỷ mỷ, cặn kẽ nhưng cũng có trường hợp còn chung chung và chưa cập nhật (nay là xã huyện tỉnh nào), tuy không phải không có khả năng để làm.
Về cách tiếp cận, nói rằng bộ sách đã có một sự đổi mới rất căn bản không có nghĩa là không còn một số mục từ vẫn còn để lộ dấu vết cách tiếp cận của bộ Từ điển cũ. Ai cũng biết trong văn học cổ Việt Nam, nhiều tác phẩm vốn có nguồn gốc xa gần từ văn học Trung Quốc, vậy khi trình bày chúng trong một bộ từ điển hôm nay phải chăng nên chỉ rõ xuất xứ mà chúng đã tiếp nhận hoặc vay mượn, và cố gắng nêu lên mức độ tiếp biến, sáng tạo khác nhau của từng tác phẩm so với nguyên bản? Điều này đã được chú ý nhưng chưa đồng bộ, đặc biệt đối với một vài tác phẩm tiêu biểu như Truyền kỳ mạn lục, Hoa tiên, Truyện Kiều... thì gần như bỏ qua hoặc nhắc đến quá vắn tắt, trong khi đó lại không cần thiết phải đi sâu vào việc Nguyễn Du “chưa thể thực sự đến với chủ nghĩa hiện thực” (trang 1123, cột 2) vì vấn đề chủ nghĩa hiện thực có đặt ra với thời đại Nguyễn Du đâu, và chủ nghĩa hiện thực đâu phải là tiêu chí không thiếu được của văn học nhân loại; hoặc cũng chẳng cần thiết hiện đại hóa khiên cưỡng khi nói “Truyện Kiều là vấn đề chế độ mặc dù Nguyễn Du không biết thế nào là chế độ” (trang 1845, cột 2). Trong văn học hiện đại, một thực tế là không phải hễ nhà văn nhà thơ nào đi theo cách mạng nhất thiết sáng tác của họ cũng đều có giá trị nghệ thuật cao hơn những tác phẩm ra đời trước cách mạng. Cách nghĩ công thức này nhìn chung đã không còn tồn tại trong Từ điển văn học bộ mới, tuy vậy cá biệt một đôi trường hợp hình như người viết vẫn chưa thoát khỏi cái thành kiến cho rằng ở chặng đường cũ nhà thơ nhà văn lâm vào bế tắc thì thơ văn của họ cũng hiển nhiên tiêu cực. Chẳng hạn đối với cảm xúc vũ trụ trong thơ Huy Cận trước 1945 - một cảm hứng thi ca đặc sắc, độc đáo và là một trong những nguồn thi hứng làm nên phong cách của thơ ông - bộ sách vẫn còn giữ lại một lời quy kết dẫu đã cố ý giảm khinh vẫn không thể nói là thỏa đáng: “Lẩn tránh xã hội với những vấn đề gay gắt trong những năm đen tối ấy, Huy Cận không rơi vào sa đọa (cứ sống trong những năm đen tối ấy là rơi vào sa đọa - trừ Huy Cận - sao?) nhưng lại muốn trốn vào “vũ trụ” siêu hình”(!) (trang 664, cột 2).
Ngoài ra, dù là điều khó tránh đối với một bộ sách có thể nói rất dày và khí nặng cân, trong nội dung trình bày phải đan xen nhiều loại ngôn ngữ, co chữ dùng để in sách lại tương đối nhỏ, vẫn phải nói đến những thiếu sót trong khâu chữa bông và in ấn - xin ghi lại sau đây những trường hợp do chính Chủ biên Nguyễn Huệ Chi cung cấp mà theo ông, đã bị sai khi làm bản nhũ: trang 78, cột 2, dòng 22: Kýphải là; trang 215, cột 2, dòng 25 (dưới lên): Yên phải là ; trang 216, cột 1, dòng 23 (trên xuống): Viphải là; trang 254, cột 1, dòng 15 (dưới lên): Thư phải là ; trang 335, cột 2, dòng 22 (trên xuống): câuphải là; trang 732, cột 1, dòng 16 (dưới lên): trungphải là; trang 414, cột 1, dòng 13 (trên xuống): Chiêuphải là ; cột 2, dòng 8 (trên xuống): Nga Lân  phải là Nga Lâm ; trang 642, cột 2, dòng 9 (dưới lên): xuphải l sô; trang 656, cột 2, dòng 21 (dưới lên): Bài Khuê tập phải là Bài Huề tập; trang 729, cột 2, dòng 15 (dưới lên): Yến Anh phải đọc là Án Anh; trang 440, cột 2, dòng 20 và 21 (dưới lên): Khoa Bính tuất (1446) dưới đời Lê Nhân Tông (1442-59) phải sửa là Khoa Bính tuất (1467) dưới triều Lê Thánh Tông; trang 1417, cột 2, dòng 21 (dưới lên): Cao phải là; trang 1364, cột 2, dòng 2 (trên xuống): ngày mất của Phạm Quỳnh ghi 20.VIII.1945 không chính xác vì mâu thuẫn với những điều được viết trong nội dung mục từ; trang 1418, cột 1, dòng 1 và 2 (trên xuống): Lý Nguyên phải đọc là Lý Nguyện; trang 1626, cột 1, dòng 11 (dưới lên): Chiêu Cơ  bản nhũ dán ngược chữ Hán; trang 1891, cột 2, dòng 8 (trên xuống): Thiên phải là Như ; trang 1894, cột 1, dòng 3 (trên xuống): Ứcphải là; dòng 11 (trên xuống): Trang phải là ; trang 1973, cột 2, dòng 7 (dưới lên): Dương phải là...
Từ điển văn học bộ mới sẽ còn trải qua những thử thách với thời gian, trong quá trình sử dụng của người tra cứu để bộc lộ thêm những giá trị cũng như những bất cập của nó. Nhưng có thể nói mà không sợ là quá sớm, đây là một bộ sách được biên soạn công phu, đầy tinh thần trách nhiệm, một công trình khoa học có giá trị, một công cụ tra cứu tin cậy. Và hơn thế - một sản phẩm văn hóa mở đầu cho thế kỷ XXI, đánh dấu công sức của cả một thế hệ những nhà nghiên cứu đã biết tự “phản bác” lại mình, khắc phục đáng kể những nếp mòn trong tư tưởng.
Chú thích:
Từ điển văn học bộ mới sẽ còn trải qua những thử thách với thời gian, trong quá trình sử dụng của người tra cứu để bộc lộ thêm những giá trị cũng như những bất cập của nó. Nhưng có thể nói mà không sợ là quá sớm, đây là một bộ sách được biên soạn công phu, đầy tinh thần trách nhiệm, một công trình khoa học có giá trị, một công cụ tra cứu tin cậy. Và hơn thế - một sản phẩm văn hóa mở đầu cho thế kỷ XXI, đánh dấu công sức của cả một thế hệ những nhà nghiên cứu đã biết tự “phản bác” lại mình, khắc phục đáng kể những nếp mòn trong tư tưởng.
Chú thích:
[1] PGs. Trần Hữu Tá trả lời phỏng vấn báo Lao động ngày 2-2-2005.
[2] Bài đã dẫn.
19/5/2005
Vũ Tuấn Anh
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 
Viện Văn học, Hà Nội tháng 3.2005
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một chuyến hoa xuân

Một chuyến hoa xuân Nhà văn trẻ Trác Diễm vừa trở thành hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Chị sinh năm 1988 ở Quảng Bình, bắt đầ...