Thứ Năm, 29 tháng 9, 2022

Nguyễn Bính và tuần báo Trăm hoa 1955-1957XXX

Nguyễn Bính và tuần báo
Trăm hoa 1955-1957

Hai mươi năm sau cái chết của Nguyễn Bính (20/1/1966), tác phẩm của nhà thơ này mới thoát khỏi cõi “im lặng đáng sợ” của sự quên lãng chẳng biết vô tình hay cố ý của những ai ai, trở lại được in ấn, đăng tải, bàn luận. Từ 1986, những sưu tập, tuyển tập thơ Nguyễn Bính liên tục được in ra, liên tục có mặt trên giá các quầy sách các hiệu sách. Tiếp đó cũng đã thấy xuất hiện nhiều cuốn sách nói về con người, cuộc đời và đặc sắc sáng tạo của nhà thơ này. Khá nhiều đoạn đời Nguyễn Bính đã được phác hoạ, dù có khi chỉ thông qua những giai thoại. Tuy vậy, có một loạt sự việc về hoạt động của Nguyễn Bính những năm 1955-57, tức là khi Nguyễn Bính từ miền Nam tập kết ra Bắc, sống và làm việc ở Hà Nội, làm báo Trăm hoa, rồi sau chừng như là bị an trí, nghĩa là bị buộc phải về sống ở Nam Ðịnh, - thì hầu như ít thấy ai nhắc đến. Những bài viết được gom vào các cuốn sách Nguyễn Bính, thi sĩ của yêu thương; Nguyễn Bính, đời và thơ; Thơ và giai thoại Nguyễn Bính; Nguyễn Bính, nhà thơ chân quê, v.v… không nhắc gì đến sự việc này; những người được xem là từng có xúc tiếp thậm chí cùng làm việc với Nguyễn Bính thời gian nói trên như Trần Lê Văn, Hoài Việt,… nếu nhắc đến cũng chỉ bất đắc dĩ xác nhận “Nguyễn Bính làm báo Trăm hoa”, thế thôi.
Có lẽ, Tô Hoài là người trong cuộc duy nhất tính đến nay có hé ra đôi dòng hồi ức về hoạt động nói trên của Nguyễn Bính. Rải rác trong hai cuốn Cát bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999), người đọc có thể nhặt được đôi chi tiết về Nguyễn Bính thời làm báo Trăm hoa, tất nhiên là được trình bày hoàn toàn theo cách nhìn của người kể chuyện.
Theo hồi ức của Tô Hoài: “không biết ai đã giúp tiền cho Nguyễn Bính ra những số báo Trăm hoa đầu tiên”, thế rồi “cấp trên” của Tô Hoài “có sáng kiến lấy giấy và tiền nhà xuất bản giúp Trăm hoa” (khi đó Tô Hoài làm việc ở Nhà xuất bản Văn nghệ, vậy nói “nhà xuất bản” đây có lẽ là NXB ấy – người viết bài này ghi chú), và chính Tô Hoài được giao nhiệm vụ “thuyết phục một tờ báo tư nhân nhưng có tiếng nói chống những luận điệu ngang ngược của báo Nhân văn”. Theo Tô Hoài, do sự can thiệp này, “tờ Trăm hoa rõ ra một vẻ khác. Không về bè với Nhân văn, như chẳng đi với ai”. Cấp trên của Tô Hoài nhận xét từng số từng bài, “cho là chưa đủ hơi sức hỗ trợ cần thiết”. Tô Hoài đem nhận xét ấy bàn lại với Nguyễn Bính. Nguyễn Bính bảo Tô Hoài: “Trăm hoa phải thế mới là báo của Nguyễn Bính chứ. Nếu không thì mày làm quách cho xong!” Sáng kiến “đầu tư” cho Trăm hoa kết thúc ở đấy. Một buổi tối, Nguyễn Bính rủ Tô Hoài đến ăn ở nhà hàng Lục Quốc. Nguyễn Bính bảo: “Hôm nay ăn cỗ đám ma Trăm hoa!” (Tô Hoài, Cát bụi chân ai, Hà Nội: Nxb Hội Nhà văn, 1992, tr. 56). Ông Hoài Việt, người mà nhà riêng ở gần toà soạn Trăm hoa và đương thời là một trong những cộng tác viên thường xuyên gặp gỡ Trúc Ðường và Nguyễn Bính ở toà soạn báo này, vừa sáng nay 23/12/2005 đã cho tôi biết 2 việc: 1) chính Nguyễn Bính kể với Hoài Việt rằng người khuyến khích Nguyễn Bính tục bản Trăm hoa là Tố Hữu với cái lý: cần tiếng nói của báo chí bên ngoài (tức là không phải báo chí nhà nước) cự lại giọng điệu Nhân văn; như vậy người “cấp trên” mà hồi ký Tô Hoài nói đến chính là “anh Lành” của chàng Tô; 2) nguồn tiền mua giấy để làm hầu hết các số Trăm hoa tục bản là Nguyễn Bính vay của ông Quách Phác ở phố Hàng Khoai; đây mới là nguồn chính, còn lại, nguồn giấy do Tô Hoài đưa tới, nếu có, cũng là về sau và vì là nguồn trợ giúp có điều kiện nên cũng rất ít và sớm bị cắt như chính Tô Hoài đã nói trong hồi ký của ông (người viết bổ sung ngày 23/12/2005).
Phải chăng sự việc Nguyễn Bính với tờ Trăm hoa như trên đã dẫn tới những sự việc tiếp theo: do “không về bè với Nhân văn” nên Nguyễn Bính đã không trở thành đối tượng phê phán trong vụ Nhân văn-Giai phẩm; tuy vậy, do tỏ ra “chưa đủ hơi sức hỗ trợ cần thiết” trước yêu cầu “chống những luận điệu ngang ngược của báo Nhân văn” nên tựu trung Nguyễn Bính vẫn bị đẩy khỏi Hà Nội, tức là vẫn bị trừng phạt, nhưng hình thức trừng phạt nhẹ hơn?
Tô Hoài cho rằng chỉ là giai thoại (lời đồn đại chứ không phải sự thật) những chuyện “Nguyễn Bính bị đầy phải xuống xin việc dưới quê, Nguyễn Bính chỉ được biên tập ca dao hò vè”. Theo Tô Hoài thì giản dị là “Nguyễn Bính về Nam Ðịnh rồi quyết định ở hẳn dưới ấy chỉ vì Nguyễn Bính đã sắp nên vợ nên chồng với cô hàng cà phê thành Nam. Nguyễn Bính đã bỏ không ở nhà xuất bản Hội Nhà văn với tôi (tức Tô Hoài – người viết chú) để xin ra làm báo Trăm hoa. Khi Trăm hoa hết tiền phải đình bản, Nguyễn Bính không còn ở biên chế nào thì Hội Nhà văn đã giới thiệu Nguyễn Bính về Nam Ðịnh”; “thời kỳ ở Nam Ðịnh, Nguyễn Bính đã in nhiều sách trên nhà xuất bản Phổ Thông ở Hà Nội. Trường ca Tiếng trống đêm xuân, lại vở chèo Cô Son đương công diễn. Mỗi lần lên lấy nhuận bút kha khá, tôi được Nguyễn Bính và Trúc Ðường rủ đi đánh chén” (Tô Hoài, Chiều chiều, Hà Nội: Nxb Hội Nhà văn, 1999, tr. 228).
Thật ra, nếu đối chiếu thời gian thì người ta sẽ không dám tin hẳn lời Tô Hoài, là vì Nhà xuất bản Hội Nhà văn được lập ra sau Ðại hội thành lập Hội Nhà văn (từ 01/04 đến 04/4/1957), khi đó tờ Trăm hoa do Nguyễn Bính đứng tên tục bản cũng đã chấm dứt hoạt động vài tháng rồi. Thời điểm mà Nguyễn Bính tham gia làm Trăm hoa có thể là giữa tháng 11/1955 (khi tên Nguyễn Bính xuất hiện với chức danh Chủ bút trên bìa tờ Trăm hoa cũ) hoặc muộn nhất là tháng 10/1956 (khi ra mắt số 1 tờ Trăm hoa tục bản do Nguyễn Bính làm chủ nhiệm). Có lẽ đúng ra cơ quan mà Nguyễn Bính đã rời bỏ để đi ra ngoài làm báo Trăm hoa là nhà xuất bản Văn nghệ. Còn chuyện Nguyễn Bính về Nam Ðịnh để tìm một công việc làm, nếu không do Hội Văn nghệ Việt Nam thì cũng do Hội Nhà văn Việt Nam giới thiệu, - điều này có thể suy ra từ hồi ức Tô Hoài.
Trên thực tế, Nguyễn Bính về Nam Ðịnh trước sau chỉ làm một nhân viên ngoài biên chế của Ty Văn hoá tỉnh, và ông trưởng ty Chu Văn dường như được giao đặc trách “chăm sóc” Nguyễn Bính, như Tô Hoài viết: “Những ai đã công tác cùng Nguyễn Bính ở Ty Văn hoá Nam Ðịnh có thể biết Chu Văn đã quần Nguyễn đến điều thế nào” (Chiều chiều, sđd, tr. 228). Tô Hoài nói điều này trong Chiều chiều chứ không phải trong Cát bụi chân ai (1992), khi Chu Văn (1922-1994) còn sống; hãy nhớ rằng trước đó nữa, cả hai ông, Tô Hoài và Chu Văn, người đề tựa, kẻ viết lời bạt cho Tuyển tập Nguyễn Bính (1986), giọng điệu rất hoà hợp nhau, như đều là hai “cố nhân” của Nguyễn Bính.
Dù có thể là đáng tin cậy đến mức nào, “chứng từ” của Tô Hoài về Nguyễn Bính như trên vẫn là quá ít ỏi. Trong khi đó, những nhân vật chính từng chịu nạn Nhân văn-Giai phẩm, trong một vài cuộc trò chuyện tương đối cởi mở gần đây, khi được hỏi về trường hợp Nguyễn Bính thì dường như lại không còn giữ được thông tin nào đáng kể.
Bởi vậy, cần tìm hiểu lại Trăm hoa.


*

Nếu ai quá tin vào những chỉ dẫn có sẵn hẳn sẽ nhận được thông tin sai lạc, ví dụ nếu tra trong Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam (Hà Nội: Nxb Văn hoá thông tin, 2001, tr. 652) sẽ chỉ biết có một tờ Trăm hoa của Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Nguyễn Bính, ra từ tháng 10/1956.
Trên thực tế có hai tờ Trăm hoa:
1. Ðầu tiên là tuần báo Trăm hoa do Nguyễn Mạnh Phác làm Chủ nhiệm, ngoài tên gọi Trăm hoa (đặt theo tinh thần “trăm hoa đua nở” đang là khẩu hiệu đương thời ở Trung Quốc, tinh thần này được nói rõ ở lời mở đầu số 1 của toà soạn) còn có phụ đề là “tuần báo tiểu thuyết”, toà soạn đặt tại 15 Hai Bà Trưng, Hà Nội, gọi là tuần báo nhưng khuôn khổ lại có vẻ “tạp chí” nhiều hơn. Số 1 ra ngày 2/9/1955 (xin mở ngoặc nói thêm, ở bìa 1 số 1, dưới chỗ ghi “số 1” có in thêm chữ nhỏ: “tái bản”; chưa rõ liệu có phải Trăm hoa còn có một tiền sử xa hơn chăng? và điều này hẳn có liên quan với việc chính toà soạn Trăm hoa loại mới, - tức là tờ tục bản sau này, - một vài lần viết rằng tờ báo của mình ra mắt từ tháng 7/1955?). Tờ Trăm hoa loại cũ cỡ nhỏ này ra được cả thảy 31 số, tồn tại từ tháng 9/1955 đến giữa tháng 5/1956; mỗi số thường có 26 trang ruột và 4 trang bìa, khổ báo 18x26 cm; ban đầu trang bìa chỉ ghi chức danh Chủ nhiệm của Nguyễn Mạnh Phác; từ số 11 (19/11/1955) trên tiêu đề mới xuất hiện thêm chức danh Chủ bút của Nguyễn Bính.
2. Tuần báo Trăm hoa do Nguyễn Bính làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút là Trăm hoa loại mới, toà soạn đặt tại 17 Lê Văn Hưu, Hà Nội; số 1 loại mới ra ngày thứ bảy 20/10/1956; sau số 11 (chủ nhật 6/1/1957) là hai số cuối cùng, đều không đánh số: Trăm hoa Xuân, và Trăm hoa số đặc biệt đầu Xuân, đều phát hành trước và sau Tết Ðinh Tỵ. Trăm hoa số thường gồm 8 trang in typo 28x40cm, giá bán 300 đ; hai số cuối là hai đặc san: Trăm hoa Xuân gồm 24 trang, giá bán 1000 đ, phát hành từ 23 Tết; Trăm hoa số đặc biệt đầu xuân gồm 16 trang, giá bán 600 đ, phát hành đầu xuân Ðinh Tỵ.
Cả hai tờ Trăm hoa và Trăm hoa loại mới đều là báo tư nhân. Trăm hoa của ông anh là Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Ðường) bị “chết” vì lỗ vốn, thì ít lâu sau ông em là Nguyễn Bính tục bản thành Trăm hoa loại mới, và tờ này cũng lại “chết” vì lỗ vốn. Ở miền Bắc khi đó báo chí và xuất bản tư nhân còn được phép tồn tại, nhưng phải chịu nhiều thiệt thòi và bị chèn ép mạnh: phải mua giấy giá cao hơn so với giá cung cấp dành cho các báo nhà nước và đoàn thể, do đó giá bán cao hơn; các cơ sở phát hành lớn của hệ thống “hiệu sách nhân dân” không nhận bán các báo tư nhân; ngoài ra còn một trở ngại đáng kể là cán bộ chính quyền và đoàn thể các địa phương thường gây trở ngại cho phóng viên và người phát hành các báo tư nhân.
Ðặt trong tình thế toàn bộ nền kinh tế công thương nghiệp tư bản tư doanh và nông nghiệp tư hữu lớn và nhỏ ở miền Bắc lúc đó đang bước vào “đêm trước” của sự giải thể tư doanh để công hữu hoá, công tư hợp doanh, tập thể hoá, hợp tác hoá, thì thất bại của cả hai tờ Trăm hoa cũng như của tất cả các tờ báo tư nhân ở miền Bắc lúc ấy là không thể tránh khỏi. Tất nhiên Trăm hoa đã “chết” khá lâu (nếu tính thời gian tồn tại bằng tháng chẳng hạn) có lẽ vì không chịu đựng nổi tình trạng báo chí tư nhân bị phân biệt đối xử về điều kiện kinh doanh, trước khi người ta thực hiện chủ trương xoá sổ toàn bộ báo chí và xuất bản tư nhân trên miền Bắc.


*

Có một điều hơi khác lạ là một mặt thì Nguyễn Bính bỏ cơ quan (nhà xuất bản Văn nghệ hồi 1955 hoặc nhà xuất bản Hội Nhà văn từ 1957, đều là đơn vị của đoàn thể, có thể xem là thành phần kinh tế nhà nước) để đi làm báo tư nhân (tờ Trăm hoa của anh ruột và về sau là của chính Nguyễn Bính) nhưng mặt khác ngòi bút Nguyễn Bính bộc lộ ra hồi này lại rất đậm chất cán bộ: các sáng tác đưa in lại hoặc viết mới thời kỳ này thường mang tình cảm chính trị của một chủ thể “ta-dân tộc” chung. Ít ra điều này là nhất quán ở Nguyễn Bính tính đến hết năm 1955.
Trên tờ Trăm hoa (cũ) đăng một loạt sáng tác mới và sáng tác trong kháng chiến của ông. Ðó là các bài thơ “Nổi dậy” (viết 1948 ở Nam Bộ; đăng TH số 3 ngày 17/9/1955), “Máu chảy trên đường phố” (viết ngay sau cuộc biểu tình của học sinh Sài Gòn-Chợ Lớn 19/1/1950; đăng TH số 7 ngày 22/10/1955) với giọng điệu hào hùng tương tự bài ca “Tiểu đoàn 307”.
Hai bài thơ viết tháng 10/1954 khi Nguyễn Bính còn ở Nam Bộ: “Thao thức” (đăng TH số 6 ngày 15/10/1955) là tưởng tượng của tác giả về không khí tưng bừng của những đoàn quân tiến về tiếp quản thủ đô.
Từng lớp người vĩ đại
Cuồn cuộn đi trong một biển cờ
Ði giữa lòng ngưỡng mộ
Ði giữa tiếng hoan hô
Những bước chân chiến thắng
Rầm rập vang rền nẻo cố đô
Người Hà Nội vỗ tay trào nước mắt
Ôi! Tám năm đằng đẵng mong chờ…
Bài thơ “Hẹn hò” làm lời một người ở lại miền Nam tiễn bạn tập kết ra Bắc, xa nhau nay để mai gặp lại. Hai bài thơ viết tháng 11/1954: “Thương nhau” và “Chiếc giường gỗ thông” (đăng TH số 2, ngày 10/9/1955) trên tàu thuỷ từ Nam ra Bắc, nói lòng biết ơn bạn bầu quốc tế: “…Ðường dài nghĩa nặng tình sâu / Ăn cơm Trung Quốc đi tàu Liên Xô…”
Ngay khi đã sống trong đời thường trên đất Bắc, nhà thơ vẫn sẵn sàng phổ dòng tình cảm chính trị sẵn có như trên vào những sự kiện như đón đoàn nghệ thuật Triều Tiên (bài “Thông cảm”, đăng TH số 1, ngày 2/9/1955).
Thời gian này bài thơ dài “Gửi người vợ miền Nam” của Nguyễn Bính đã nhanh chóng được in thành sách riêng và ông trở thành một trong những tác giả nổi bật ngay từ đầu của mảng đề tài “thơ đấu tranh thống nhất”. Nhưng có vẻ như ông còn sẵn sàng nhúng bút vào nhiều đề tài thời sự khác của đời sống miền Bắc, ví dụ đề tài cải cách ruộng đất. Truyện ngắn “Bức thư tuyệt mệnh” (TH , số 13, ngày 3/12/1955), bài thơ “Hình ảnh chị” (TH số 14, ngày 10/12/1955) đều có chung mô-típ tố cáo tội ác địa chủ.
Tuy nhiên, sang năm 1956, dường như ở Nguyễn Bính có những biến chuyển nào đó, - điều này bộc lộ rõ nhất ở những số đầu của tờ Trăm hoa loại mới do Nguyễn Bính làm Chủ nhiệm; thậm chí cũng đã bộc lộ ở một số bài đăng ở những số Trăm hoa cũ ra đầu năm 1956 (Xin mở ngoặc để nói rõ rằng, thử tìm trong các nguồn lưu trữ Trăm hoa hiện có của Thư viện Quốc gia, Thư viện Quân đội ở Hà Nội, phối hợp lại vẫn thấy thiếu 14 số Trăm hoa loại cũ từ số 18 đến số 31, tức từ đầu tháng 1/1956 đến tháng 5/1956).
Có thể tin rằng một trong những lý do đưa tới biến chuyển ấy là việc Giải thưởng văn học 1954-55 được Hội Văn nghệ Việt Nam công bố (15/3/1956) [1] , gây phản ứng mạnh trong giới văn nghệ sĩ. Tất nhiên chỉ trên báo hoặc ấn phẩm tư nhân mới thấy rõ sự phản ứng ấy mà rõ nhất là bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” của Phan Khôi đăng trong Giai phẩm mùa thu tập I (1956). Theo bài mở đầu Trăm hoa loại mới (20/10/1956) thì Trăm hoa loại cũ cũng đã từng động đến giải thưởng này, cụ thể là đã đăng 3 bài phê thơ Xuân Diệu, hẳn là phê tập Ngôi sao, tuy chất lượng kém nhưng lại được trao giải nhì (3 bài phê bình này có lẽ Trăm hoa (cũ) đăng khoảng tháng 4 hoặc tháng 5/1956). Ðọc một đoạn bài mở đầu mang tên “Hoa lại nở” ấy ở trang đầu số 1 Trăm hoa loại mới cũng thấy một giọng điệu khác hẳn Trăm hoa cũ:
“Tuần báo văn nghệ Trăm hoa ra đời từ tháng bảy năm 1955. Nó ra đến số 31, sống gần một năm thì nó tạm đình bản. Nói cho văn hoa thì “Trăm hoa chết vì phương diện tài chính khó khăn”. Còn nói nôm na vắn tắt thì “Nó chết vì nó lỗ vốn quá!” Nó chết vì hết tiền. Than ôi! Sớm nở tối tàn, thân Hoa thầm trách số phận mình sao lại sinh vào cửa tư nhân! Sung sướng thay những bạn đồng nghiệp cơ quan ngôn luận của đoàn thể! Có bao giờ chịu cái số phận nửa chừng xuân như số phận Trăm hoa. (…) Một lần nữa xin nhắc lại, sở dĩ Trăm hoa chết là vì hết tiền, chứ không phải vì đã “ngạo mạn” dám đăng ba bài phê bình thơ Xuân Diệu, mà Xuân Diệu vốn là bạn thân của ông Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá, và ông Hoài Thanh trong Ban Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam như một vài dư luận…”
Nguyễn Bính đã dành trang phê bình của 2 số đầu Trăm hoa loại mới cho bài viết của chính mình về giải thưởng văn học 1954-55, nhan đề “Vì những sai lầm nghiêm trọng, cần phải xét lại toàn bộ giải thưởng văn học 1954-1955”; dưới nhan đề là mấy dòng chapeaux in đậm: “Ðề nghị đưa tập thơ Việt Bắc xuống giải nhì. Loại tập thơ Ngôi sao và một số quyển không xứng đáng. Bổ sung một số tác phẩm khác”. Ðây là bài tiểu luận vào loại khá hiếm hoi trong đời văn Nguyễn Bính, trong đó tác giả đã trình bày thẳng thắn ý kiến của mình về một sự kiện đang chia rẽ giới nhà văn vừa tập hợp về Hà Nội sau kháng chiến chín năm.
Xin dừng lại kỹ hơn ở bài này của Nguyễn Bính.
“Kết quả giải thưởng văn học 1954-55 đã gây nên rất nhiều dư luận, nhiều thắc mắc trong giới văn nghệ và yêu văn nghệ. Những dư luận và thắc mắc ấy đã kéo dài đến nửa năm nay. Dư luận càng sôi nổi từ sau lớp học tập lý luận văn nghệ 18 ngày và nhất là sau bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” của ông Phan Khôi đăng trong Giai phẩm mùa thu tập I.
Tại sao lại có nhiều dư luận thắc mắc? Chính vì căn cứ vào những tác phẩm trúng giải, người ta thấy có nhiều quyển không xứng đáng, nhiều quyển cần phải xét lại thứ bậc, nhiều quyển tại sao không trúng giải? Thành phần ban giám khảo cũng như lề lối làm việc độc đoán, hẹp hòi, xa rời quần chúng, bè phái, và có cả cái tệ sùng bái cá nhân nữa.
Nhờ có dư luận ấy mà ban giám khảo và Thường vụ Hội Văn nghệ đã kiểm điểm lại vấn đề giải thưởng. Mới đây Hội Văn nghệ có ra một thông báo và ông Nguyễn Tuân (vừa là trưởng ban giám khảo vừa là tổng thư ký) có viết một bài về giải thưởng văn học 1954-55. Theo tinh thần hai văn kiện ấy ta có thể kết luận là ban giám khảo và thường vụ Hội có nhận một số khuyết điểm về quan niệm, tổ chức và lề lối làm việc của giải thưởng.”
Sau khi trích dẫn một đoạn trong bài nói trên của Nguyễn Tuân và tóm tắt một số điểm trong thông báo của thường vụ Hội Văn nghệ, lưu ý đến một vài đề xuất sửa đổi (đưa tập Ngôi sao từ giải nhì xuống giải ba, sẽ cân nhắc trường hợp Người người lớp lớp), Nguyễn Bính cho rằng các đề xuất đó là quá ít, trong khi những khuyết điểm về nhận thức và tổ chức xét giải đã khiến toàn bộ giải thưởng “mất đi rất nhiều giá trị và tác dụng”.
Nguyễn Bính viết tiếp:
“Ðã đến lúc rất cần và đến mức đòi hỏi phải xét lại toàn bộ giải thưởng, chứ không chỉ hạ xuống hoặc thêm vào một vài tác phẩm là đã đủ cứu vãn được giá trị và tác dụng của nó. Ông Nguyễn Tuân cũng đã nhận rằng “đã có những sai lầm nghiêm trọng”. Vậy thì những sai lầm nghiêm trọng ấy nó có tác hại đến việc chấm giải, cụ thể ra bằng việc cho giải các tác phẩm như thế nào? Không lẽ lại chỉ sai lầm vẻn vẹn ở mấy quyển Ngôi sao, quyển Nam Bộ mến yêu, truyện Cái lu mà thôi? Như vậy sao lại gọi là sai lầm nghiêm trọng? Chúng tôi tưởng đã luộm thuộm thì phải luộm thuộm hết chứ không lẽ chỉ luộm thuộm riêng khi nhận xét quyển Ngôi sao mà không luộm thuộm khi nhận xét các quyển Thơ chiến sĩ, thơ Việt Bắc, Chú Hai Neo. Chúng tôi tưởng đã thiếu trình độ nhận thức thì không lẽ chỉ thiếu khi nhận xét quyển Cái lu mà lại đầy đủ nhận thức khi nhận xét những quyển khác. Chúng tôi tưởng đã nể nang thì không lẽ chỉ nể nang khi muốn giữ địa vị cho quyển Nam Bộ mến yêu mà lại rất nghiêm khắc trong khi chấm quyển Anh Lục hay cái kịch Việt ơi! Hơn nữa biết đâu chẳng có những tác phẩm còn trong bản thảo, gửi dự thi, có giá trị, mà đã phải vùi dập đi vì cái trình độ nhận thức kém, cái tính nể nang, thiếu tập trung, thiếu nghiêm chỉnh, cái lề lối làm việc luộm thuộm, thiếu dân chủ, cái gò ép, cái gượng gạo, cả cái không lắng nghe ý kiến quần chúng và văn nghệ sĩ của ban giám khảo? Huống chi Thường vụ Hội lại thiếu kiểm tra đôn đốc, thì sao mà biết được rằng giải thưởng có chu đáo hay không? Hay đã bỏ rơi một cách không thương tiếc những tác phẩm dự thi có giá trị? Do đó, vàng thau lẫn lộn, mà đã làm chết yểu đi một số mần non văn nghệ chăng?”
Tiếp đó Nguyễn Bính nói riêng về phần giải thưởng thơ mà ông lấy làm trọng điểm ý kiến của mình:
“…Khi bắt đầu đặt giải thưởng văn học toàn quốc 1954-55, anh chị em văn nghệ gặp nhau thường hay nói đùa một câu: “Giải thưởng này, cái gì thì không biết, chứ tập thơ Việt Bắc thì chém chết cũng được giải nhất rồi!” Tất nhiên chúng ta cũng đều hiểu rằng câu nói đó không phải là một câu tán dương. Anh em còn nhớ mãi cái cuộc tranh luận về quyển thơ Việt Bắc, chưa ngã ngũ ra sao thì các ông lãnh đạo Hội đã vội vàng đưa ra mấy bài “bịt lỗ châu mai” lại. Anh em không thể nào quên cái câu ông Hoài Thanh phát biểu: “Ðịch nó không mong gì hơn là ta chê thơ Tố Hữu”. Ông Hoài Thanh đã đem cả địch ra mà bảo vệ cho thơ Tố Hữu. Cái lối nịnh trên nạt dưới ấy tất nhiên ông Hoài Thanh phải đem sử dụng vào việc chấm giải. Vì ông Tố Hữu ai cũng biết là Trung uỷ, là lãnh đạo văn nghệ, là Thứ trưởng. Trong tất cả các thi sĩ có sách in ở nhà xuất bản của Hội Văn nghệ, chỉ duy có thơ Tố Hữu là được sắp vào loại A, nghĩa là thuộc cái loại giá trị nhất và được tính tiền bản quyền tác giả cao nhất (không biết các ông lãnh đạo Hội có kiểm tra đôn đốc việc này hay không?). Sở dĩ anh em biết trước thế nào tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu cũng được giải nhất là bởi anh em không còn lạ gì cái tệ sùng bái cá nhân của một số cá nhân lãnh đạo Hội Văn nghệ.”
Nguyễn Bính nói tiếp về tập Ngôi sao của Xuân Diệu:
“Bản thảo tập thơ Ngôi sao đã đưa cho nhà xuất bản Văn nghệ xem. Toàn thể anh em văn nghệ công tác ở nhà xuất bản đều thấy là dở quá (Tô Hoài, Kim Lân, Phùng Cung, Nguyễn Bính, v.v…), không đồng ý cho in; quyển đó cứ bỏ lay lắt mãi 4 – 5 tháng. Nhưng cấp trên cứ giục phải in. Túng thế, anh em đành lựa một số bài không đến nỗi tồi lắm đưa sang nhà in Quốc gia (lúc ấy còn coi cả việc phát hành sách báo) thì bên đó cũng không chịu in. Vì lẽ “thơ Xuân Diệu không có độc giả”. Xuân Diệu lại vận động mãi với cấp trên, sau bất đắc dĩ nhà in Quốc gia nể quá mới in cho 1500 quyển. Khi in ra, tập Ngôi sao đã bị dư luận chỉ trích rất nhiều. Ðiều đó thiết tưởng Thường vụ Hội phải biết rõ hơn ai hết. Xin nói thêm rằng hồi cho in tập Ngôi sao là hồi mà nhà xuất bản Văn nghệ cùng đóng chung một căn nhà với Thường vụ Hội (51 Trần Hưng Ðạo), Thường vụ Hội mặc dầu có bưng tai bịt mắt đến đâu chăng nữa chắc cũng phải nghe dư luận ở những anh em cùng chung một nhà ở, cùng chung một bàn ăn, đối với tập Ngôi sao. Vậy mà đến lúc chấm giải vẫn cứ để cho nó được giải. Mà lại giải nhì! Như thế thì hiền như bụt cũng phải thắc mắc.
Tập thơ Việt Bắc được giải nhất thì không ai lấy làm lạ (như đã trình bày) chứ đến như tập Ngôi sao mà đứng giải nhì thì anh em lấy làm lạ quá! Anh em lạ quá là vì anh em không thể tưởng tượng được rằng lại có một cuộc xâm phạm trắng trợn vào văn nghệ như thế? Anh em lạ quá là vì anh em không thể ngờ ban giám khảo lại có thể khinh thường văn nghệ, khinh thường anh em và quần chúng đến mức ấy. Anh em cho đó là một cái nhục. Nhục cho anh em. Nhục cho văn nghệ. Nhục cho cái giải thưởng văn học toàn quốc 1954-55. Anh em thắc mắc cao độ và thấy rằng cần phải đấu tranh. Hai ông Huy Cận và Hoài Thanh trong ban chung khảo tại sao lại “tích cực bênh vực cho tập Ngôi sao” (lời ông Nguyễn Tuân). Ông Hoài Thanh trước cách mạng đã biết chọn lọc các bài thơ hay của các thi sĩ để soạn thành quyển Thi nhân Việt Nam, có phê phán. Ông Huy Cận, tuy bây giờ là Thứ trưởng bộ Văn hoá, nhưng trước kia đã từng là một nhà thơ có tiếng tăm. Thế thì đối với một tập thơ dở như tập Ngôi sao, tại sao hai ông lại tích cực bênh vực? Có phải tại ông Huy Cận và Xuân Diệu chỉ là một, còn ông Hoài Thanh vụ trưởng vụ nghệ thuật thì lại là cấp dưới của ông Huy Cận hay không? Theo ý chúng tôi, cái chuyện đó là bè phái rõ ràng chứ không phải nể nang luộm thuộm. Chúng tôi kết luận rằng: ở bộ môn nào thì chưa biết chứ trong việc chấm giải thơ thì nhất định là có bè phái.”
Cuối cùng, Nguyễn Bính nêu những đề nghị cụ thể.
“Muốn cho cái giải thưởng văn học toàn quốc 1954-55 có giá trị toàn vẹn, chúng tôi có ý kiến đề nghị cụ thể như sau:
Về giải thơ: Nên đưa tập thơ Việt Bắc xuống giải nhì; tập thơ ấy tuy có giá trị thật, nhưng chưa xứng đáng được giải nhất, vì lẽ nó chưa hẳn là một tập thơ tiêu biểu. Loại tập thơ Ngôi sao và tập Thơ chiến sĩ ra khỏi giải thưởng. Tập thơ Chú Hai Neo và tập thơ của Tú Mỡ nên để xuống giải khuyến khích. Cả tập ca dao của Nguyễn Hiêm cũng nên loại ra khỏi giải thưởng.
Về giải bút ký và kịch: Nên loại tập bút ký Nam Bộ mến yêu và cái kịch Việt ơi! ra khỏi giải thưởng.
Về giải tiểu thuyết: Nên loại tập truyện Cái lu ra khỏi giải thưởng. Xét lại tập truyện Ðất nước đứng lên xem nên để giải nhất hay nên cho xuống giải nhì, vì tập truyện ấy chưa đúng nội dung một quyển tiểu thuyết. Xét lại thứ bậc quyển tiểu thuyết Anh Lục.
Về ngành nhạc xin nhường ý kiến cho các nhạc sĩ. Tôi vốn không rành về nhạc nên không dám có ý kiến. Và nên bổ sung một số tác phẩm có giá trị, cụ thể như những quyển tiểu thuyết Người người lớp lớp, tập thơ Hoàng Cầm, Lê Ðạt, v.v…”
Tờ Trăm hoa loại mới của Nguyễn Bính còn theo đuổi việc thảo luận về giải thưởng văn học này ở những số sau, chẳng hạn số 3 (4/11/1956) đăng ý kiến một cây bút miền Nam tập kết là Phạm Tường Hạnh, cho rằng bài nói lại của Nguyễn Tuân (tổng thư ký Hội Văn nghệ và trưởng ban giám khảo) bênh vực hai cuốn Nam Bộ mến yêu của Hoài Thanh và Ngôi sao của Xuân Diệu, “vô hình trung đã phủ nhận dư luận của anh chị em văn nghệ sĩ” về hai cuốn đó. Ðến cuối năm 1956, có lẽ nhận thấy những hứa hẹn sửa lại giải thưởng đã gần như trở thành lời hứa hão, số 6 (2/12/1956) trong mục “Chuyện làng ta”, Tường Vi nhắc lại câu hỏi: sau góp ý của văn nghệ sĩ và của dư luận, số phận giải thưởng văn học 1954-55 có gì thay đổi không, nhất là đối với cuốn bút ký Nam Bộ mến yêu và tập thơ Ngôi sao?
Nói chung, đọc lại tờ Trăm hoa, nhất là Trăm hoa loại mới, người nghiên cứu thời nay sẽ thấy rõ tờ báo này có vai trò bổ sung đáng kể cho một đời sống văn học đang bị chính thống hoá, phiến diện hoá, một số thông tin được tập trung tô đậm làm nổi bật trong khi khá nhiều thông tin khác bị cố tình ém nhẹm vào bóng tối. Vai trò bổ sung này thể hiện ở nhiều bài mục, từ đưa tin và điểm tin văn nghệ, đăng bài điểm sách hoặc phê bình, đăng sáng tác mới, đến “nhặt sâu hoa”, - tên đề mục khá hay, lại gắn với tên ký giả Trại Hàng Hoa dành riêng cho mục này. Không có tờ báo loại này hẳn hậu thế không thể hình dung được rằng Tú Mỡ cũng bị phê phán đích đáng vì những chữ dùng “kém cỏi, tối tăm” trong thơ trào phúng (số 4, 11/11/1956). Không có loại báo này sẽ ít ai biết là hồi ấy đã xuất hiện lối xin - cho sẽ rất phổ biến những năm sau: Hội Văn nghệ định cử Hoàng Cầm vào đoàn văn nghệ sĩ đi thăm Liên Xô, nhưng lại thôi, “chắc tại Hoàng Cầm còn bận việc viết báo Nhân văn”, lại định cử Hồ Dzếnh và Mộng Sơn đi thay, rồi lại thôi, “chắc tại Hội đã trả hai người lại cho văn nghệ sĩ Hà Nội rồi”, nghe nói sẽ cử Nguyễn Văn Bổng và Anh Thơ đi, vì hai người này “không bận viết báo như Hoàng Cầm” (bài của Tần Hoài trong mục “Việc làng việc nước”, số 5, 25/11/1956). Không có loại báo này sẽ ít ai biết chuyện hồi ấy một ty văn hoá nọ cố tình trao giải nhất một cuộc thi thơ cho một bài thơ kém cỏi chỉ vì tác giả của nó là một công nhân (bài của bạn đọc Bích Lục từ Nam Ðịnh, số 4). Trước sự kiện một Tuyển tập thơ Việt Nam 1945-1956 ra mắt, nếu không có loại báo này hẳn sẽ rất khó lọt đến tay bạn đọc những bài điểm sách như bài của Lưu Thuỷ (số 7, 9/12/1956), cho biết dư luận trong giới thấy tuyển tập này thể hiện tinh thần “thiếu đoàn kết”, hầu như chỉ có bài của những ai từ kháng chiến về, những ai ở trong biên chế; và không thể biết có bao nhiêu bài thơ hay bị bỏ quên, bao nhiêu bài thơ dở choán chỗ không hợp lý trong tuyển tập này, một tuyển tập mà “cái dở của một số thơ cũng như số lượng thơ dở trong tuyển tập rõ rệt quá”!
Vai trò bổ sung nói trên bộc lộ rất rõ ở việc báo Trăm hoa của Nguyễn Bính lên tiếng về trường hợp bài thơ dài “Chiếc lược” của Thụy An. Bài thơ kể chuyện một cô gái nghèo đi ở cho địa chủ, chỉ ước có cái lược chải tóc mà không thể có; một bữa nọ cô mượn trộm chiếc lược của mụ chủ chải tóc để đi dự hội làng, bị mụ bắt được, lấy dao cau gọt sạch tóc mai cô khiến cô không dám đi hội, cũng không dám đến chỗ hẹn gặp người yêu; khi cải cách ruộng đất thắng lợi, mụ chủ bị đấu tố, cô gái được người yêu tặng chiếc lược mà anh ta lấy được ở chỗ chia quả thực. Trăm hoa in toàn bộ bài thơ này (số 3, 4/11/1956) với phụ đề “Một bài thơ bị vùi dập” và sau đó có các bài nói rõ thêm. Nguyên tại lớp học chính trị cho một số văn nghệ sĩ, một cán bộ của Uỷ ban CCRÐ TƯ đến nói chuyện, có kể câu chuyện một chị cố nông lúc chia quả thực nói chỉ ước ao được một cái lược chải đầu vì từ bé tới giờ chị chưa hề có; cán bộ ấy nói thêm: câu chuyện này khiến Hồ Chủ tịch xúc động và tỏ ý nhắc văn nghệ sĩ khai thác đề tài này. Thuỵ An dự nghe buổi ấy, xúc động với câu chuyện, hăm hở ngày đêm viết xong bài thơ này, nhưng đưa đến Hội Văn nghệ chỉ được khen là khá rồi giới thiệu cho phòng văn nghệ quần chúng của vụ nghệ thuật, cơ quan ấy lại bảo rằng loại thơ này ở đây vô thiên lủng và trả lại, rốt cuộc để lay lắt gần một năm không được đăng. Lưu Thuỷ không bảo đây là tuyệt tác, là toàn bích, “nhưng ít nữa nó vẫn cứ hơn, hơn hẳn những loại thơ “tình Bắc Nam” của ông vụ trưởng Ðào Duy Kỳ mà vụ văn hoá đại chúng đã cho in hàng vạn cuốn”; bài như thế của Thụy An thì bị hết cửa nọ đến cửa kia từ chối in, kể cả Hội Văn nghệ, thế mà “biết bao nhiêu bài thơ, chưa nói đến văn, dở òm và nhạt phèo của Xuân Diệu, của Nguyễn Ðình Thi, của Huy Cận, vẫn được in ra một cách vô tội vạ”; “Chẳng cứ gì một bông hoa của chị Thụy An bị vùi dập. Vì cái tinh thần bè phái đương ngự trị trong đầu óc một số ông phụ trách báo và sách văn nghệ và văn hoá đại chúng, và trên hết là vì cái tinh thần bè phái ở ngay trong cơ quan lãnh đạo Hội. Tất cả rắc rối (hạn chế tài năng của cá nhân, kìm hãm sự tiến triển của phong trào, thiếu đoàn kết, gây phản ứng…) do đó mà ra cả” (bài của Lưu Thủy, số 4, 11/11/1956). Trăm hoa ( số 6, 2/12/1956) còn cho biết, lúc bài thơ nằm mãi không được phổ biến, “chị Thụy An lấy làm ức lắm. Chị có làm ngay một bài thơ khiếu nại lên Hồ Chủ tịch, vì lẽ cái đề tài này Hồ Chủ tịch có nhắn nhủ anh chị em văn nghệ nên sáng tác”. Tiếp đó báo đăng toàn bộ bài thơ kiêm thư khiếu nại ấy, ký Thụy An tức Phương Thao, mà thực ra tác giả còn chưa gửi đi vì sợ làm phiền cụ Hồ. Ðây là đoạn cuối: “Chuyện chiếc lược này đây / Viết thi đua sáng tác / Ðợt đầu tiên chín ngày / Sau đó sẽ liên tục / Làng văn nhiều chuyện hay / Bảo nhau bỏ cả Tết / Hăm hở viết mê say / Vâng lời Bác căn dặn / Viết chuyện chiếc lược này / It lâu Hội trả lại / Với lời phê: Khá hay / Nhưng ý Vụ văn hoá: / Hay gì mà kêu hay / Loại này vô thiên lủng / Ðem trả tác giả ngay / Nghe phê bình chẳng chuộc / Tác giả đâm ngẩn ngây / Lược đẹp hay không đẹp? / Vứt bỏ hay dùng đây?/ Luống thương công chuốt lược / Mà chẳng lọt đến tay / Sự tình kiện lên Bác / Hoạ có vơi hận này”.
Chuyện tờ Trăm hoa của Nguyễn Bính đưa ra ánh sáng một bài thơ không được đăng dù rất thích hợp về nội dung tuyên truyền đương thời, đã hé ra những phương diện khác của một cơ chế văn nghệ lúc ấy đang đi trên hướng nhà nước hoá, quan liêu hoá, với sự thao túng của những cá nhân nhất định, vốn là nhà văn nhưng đã trở thành quan chức cai quản guồng máy văn nghệ, với những ban phát, cho đăng hoặc không cho đăng, không chỉ căn cứ vào nội dung tác phẩm mà còn căn cứ vào “thành phần” tác giả (ví dụ Thụy An, Hồ Dzếnh, Ngân Giang… là nhà văn ở trong thành thời tạm chiếm, không được đối xử ngang với nhà văn đi kháng chiến trở về) hoặc tuỳ thuộc những ác cảm, thiện cảm và định kiến cá nhân.
Trăm hoa loại mới của Nguyễn Bính chủ yếu là tờ báo về văn nghệ, diện tích trang in dành cho đề tài đời sống xã hội không nhiều, tuy vậy vẫn thấy khá rõ xu hướng bảo vệ cái không gian tự do của sinh hoạt dân sự bình thường khi ấy hoặc đang bị thu hẹp dần hoặc lúc thắt lúc nới. Chẳng hạn, báo đăng ý kiến “chúng tôi đề nghị bỏ lệ khai báo trong chính sách quản lý hộ khẩu” (số 1); báo nêu chuyện báo bạn đã nêu: tố cáo một vị thủ trưởng cấm một đôi trẻ ở cơ quan mình kết hôn với nhau với lý lẽ: “anh” xuất thân nông dân, “chị” là con một tiểu chủ, hoặc tố một thủ trưởng khác đòi kiểm thảo một đôi trẻ tìm hiểu nhau bằng thư từ lại còn gửi kèm những bưu ảnh Tháp Rùa tặng nhau, cho thế là tiểu tư sản! (số 2); báo đăng bài vè của bạn đọc trách mấy ông cán bộ dân phố cứ khuyên người ta đừng mua báo tư nhân (số 4), v.v… Báo cũng thường đăng ý kiến bạn đọc kêu ca tình trạng cửa quyền của mậu dịch quốc doanh. Tranh biếm hoạ thường nhắm vào đề tài này: giễu thói “chụp mũ” (Bùi Xuân Phái vẽ, số 2); giễu kẻ tự xưng cán bộ khi đòi mua 2 gói Ðại Tiền Môn ở quầy bách hoá nhưng lúc xông vào nhà dân hành hung người ta lại chỉ “lấy tư cách cá nhân” (Bùi Xuân Phái, số 3); tả nỗi mừng của các bà nội trợ từ nay khỏi phải giấu con gà con vịt mua được xuống đáy rổ tránh con mắt dò xét của cán bộ thuế và hộ khẩu như trước (Bùi Xuân Phái, số 4); nỗi mừng của người đàn ông từ nay tối về ngủ chỗ vợ khỏi lo trình báo hộ khẩu (Tê Hát vẽ, số 5), tả anh chàng lảo đảo như trúng gió khi vừa chen mua hàng mậu dịch (Văn Tôn vẽ, số 7), mô tả “quái vật hai đầu”, một đầu nịnh trên, một đầu nạt dưới (Trần Hưởng và Văn Tôn, số 10), v.v… Mục “Hoa cười” ở các số Trăm hoa cũng thường có các mẩu chuyện cười tương tự như vậy.
Trăm hoa loại mới của Nguyễn Bính chỉ tham gia một số chủ đề chính trị, ví dụ rõ nhất là đưa tin Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam tại hội nghị lần thứ 10 ra 3 bản thông cáo (1/ nhận định kết quả và nghiêm khắc kiểm điểm sai lầm trong công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức; 2/ cử lại Tổng Bí thư sau khi cựu Tổng Bí thư Trường Chinh tự kiểm thảo và xin từ chức; 3/ thi hành kỷ luật 2 uỷ viên TƯ Hồ Viết Thắng và Lê Văn Lương), bày tỏ sự hoan nghênh nhiệt liệt trước “thái độ dũng cảm và chân chính cách mạng” của TƯ Ðảng LÐVN “đã công khai tự kiểm điểm và đề ra những biện pháp cụ thể” để sửa chữa những sai lầm đã mắc phải, bày tỏ nhiệt liệt tin tưởng tài đức của Hồ Chí Minh trong nhiệm vụ mới: Chủ tịch Ðảng kiêm Tổng bí thư (bài của Trần Nguyên, số 3 và số 4). Tiếp tục chủ đề này, Trăm hoa có những bài khẳng định Toàn Đảng toàn dân đoàn kết là yếu tố quyết định sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. “Phải nói rằng một trong những nguyên nhân mắc phải sai lầm là mũi nhọn chuyên chính đã chĩa cả vào ta và bạn” … “Máu và nước mắt đã chảy nhiều trong cuộc chiến tranh cách mạng. Máu và nước mắt của một số người lại chảy trong cải cách ruộng đất. Nỗi đau khổ của một số đồng bào nông dân, của một số đảng viên bị xử trí oan không phải là không chính đáng”…“Những hiện tượng rạch mồm, chửi bới, đánh xé, doạ nạt, những hiềm khích giữa nông dân và cốt cán, giữa nông dân với nhau, những mâu thuẫn ở trong Ðảng ngoài Ðảng lúc này đều không lợi cho việc sửa sai, cho việc củng cố miền Bắc, đấu tranh giành thống nhất” (bài ký Trăm Hoa, số 5). Cũng trên chủ đề này còn có bài báo dài 2 kỳ (số 6 và số 7) của Trăm Hoa (ký tên toà soạn nhưng chưa rõ ai viết) Ðể phát triển chế độ ta, phải bảo đảm cho nhân dân được tham gia quản lý kiểm soát tích cực mọi công việc của Nhà nước, không những đặt vấn đề tiếp tục sửa sai trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, trong công tác kinh tế tài chính, mà còn nêu vấn đề “xây dựng một chế độ pháp trị dân chủ”.
Nếu nói riêng về thái độ của Trăm hoa đối với báo Nhân văn và các cuốn Giai phẩm của nhà xuất bản Minh Ðức, thì ngay từ số đầu Trăm hoa loại mới đã có bài, không cổ vũ cũng không đả kích mà chỉ trêu chọc, cười cợt. Chẳng hạn số 1 đã có hí họa của Tê Hát “minh hoạ bài của Trương Tửu trong Giai phẩm mùa Thu tập II”, vẽ Trương Tửu quỳ khấn trước 5 thần tượng (1. Mác-Lênin, 2. Khơrutsốp, 3. Ðảng Lao động Việt Nam, 4. Ðại hội 20 ÐCS Liên Xô, 5. Lục Ðịnh Nhất với khẩu hiệu “trăm hoa đua nở”) xin được chư vị “phù hộ” để mình “choảng” bọn họ một trận cho mất cái thói sùng bái cá nhân! Cũng ở số 1 trong mục “Việc làng việc nước”, Trăm hoa đùa Phan Khôi: trong bài “Ông bình vôi” đăng trên Nhân văn, ông bảo cái gì người ta sợ thì người ta gọi bằng ông, vậy gặp ông (Phan Khôi) bây giờ biết gọi bằng gì? Ngay khi thử đặt ra để giải đáp nghiêm túc câu hỏi: trong bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”, ông Phan có nói xấu chế độ không? Hàm Tiếu (mục “Việc làng việc nước”, số 2) đem dư luận đang ồn ào về bài ấy so sánh với những lời bình “bách nhân bách khẩu” của hàng phố khi đứng xem cặp vợ chồng già nhà nọ cãi nhau. “Vậy thì ông Phan Khôi có nói xấu chế độ không? Có. Ông ví von chế độ dân chủ cộng hoà của chúng ta với chế độ triều Gia Long Tự Ðức gì gì đó, thế là quả nhiên nói xấu chế độ rồi. Giấy trắng mực đen còn rành rành, ai mà cãi cho ông được! Nhưng nếu gán ghép cho ông tội này tội khác, thì cũng chẳng khác mấy người đứng xem cãi nhau lúc nãy lên án bà hàng xóm của tôi là đa ngôn đa quá, cố tình phá phách gia đình ruồng rẫy chồng con! Và có kẻ còn toan gieo tiếng cho bà là có cả chuyện ngoại tình (!) Không tin xin cứ đợi ông Phan Khôi đi Trung Quốc về mà hỏi, hay hỏi bà láng giềng tôi xem có phải mặc dầu có quá lời có mỉa mai soi móc chồng nhưng rồi lại mỉm cười với chồng, lại lọm khọm đi chợ xa mua sắm lại những thứ chính tay mình đã trót đập vỡ để bày biện lại cửa nhà cho đẹp?Hay, nói mới lạ làm sao chớ? Quên nhau làm sao cho nỡ! Ai bảo họ quên nhau được nào?” Những tin tức về việc báo Nhân văn bị cảnh cáo được Trăm hoa (số 4, 11/11/1956) nói rõ với bạn đọc của mình: đó là vì nhân viên của báo này quên nộp lưu chiểu 3 số liền “chứ không phải tại báo Nhân văn nói mạnh quá, chứ không phải tại báo Nhân văn dám “xúc phạm” Nguyễn Chương tiên sinh của báo Nhân dân. Và cũng không phải tại Sở Báo chí có thành kiến với báo Nhân văn đâu!”
Một thái độ khác hẳn, ngược hẳn thái độ trên đây, đối với báo Nhân văn và các cuốn Giai phẩm và Ðất mới, đã xuất hiện trên Trăm hoa từ số 8 (16/12/1956). Ðiều này thật ra là hơi muộn nếu so với thời điểm báo Nhân văn ra số 5 (20/11/1956), số cuối cùng được phát hành, và ngay sau đó một chiến dịch phê phán Nhân văn được phát động mà cả giới báo chí phải hưởng ứng.
Chỉ có 3 số Trăm hoa có bài phê phán Nhân văn, Giai phẩm, Ðất mới. Ðó là bài của Thạch Lựu: “Báo Nhân văn nên thành khẩn tự phê” (số 8); bài điểm sách của Trần Nguyên: “Phê bình Ðất mới tập I” (số 9); thư của bạn đọc Hoàng Ðình Kính ở Hải Phòng phê bình Ðất mới tập I: “Ðộc giả vui lòng hoan nghênh các bạn nếu các bạn thành thực nhận khuyết điểm” (số 10). Bên cạnh đó Trăm hoa đăng tải những thư từ kiến nghị của nhiều nhóm cán bộ các ngành, của một số tập thể văn nghệ sĩ, tố cáo báo Nhân văn (“gieo rắc tư tưởng lạc hậu, gây bi quan hoài nghi chế độ ta, khuyến khích những hành động tự do vô kỷ luật; lợi dụng chủ trương mở rộng dân chủ, bịa đặt một số việc không có thật, xuyên tạc một số sự việc khác, thổi phồng một số khuyết điểm nhỏ để đả kích vu cáo các cơ quan lãnh đạo của Ðảng, chính quyền, quân đội, văn nghệ, công an, mậu dịch”, v.v…), kiến nghị đình chỉ cho phép xuất bản báo Nhân văn, đưa báo này ra trước pháp luật để trừng trị thích đáng, v. v…
Sau 3 số trên, Trăm hoa số 11 (6/1/1957) dành trang đăng văn kiện kỳ họp Quốc hội thứ 6 và không nhắc gì đến chuyện phê phán như đã làm ở 3 số trước nữa.
Như thế, câu chuyện Tô Hoài kể trong Cát bụi chân ai (1992) về việc báo Trăm hoa của Nguyễn Bính nhận tiền tài trợ (bằng giấy in báo) để viết và đăng bài phê phán báo Nhân văn, - nếu câu chuyện ấy là sự thật, thì ngày nay người nghiên cứu đối chiếu sẽ thấy rằng, báo Trăm hoa của Nguyễn Bính thực hiện việc được giao ấy khá muộn, hầu như chỉ thực hiện vào lúc phong trào phê phán đã được phát động, khi hầu hết báo chí nhà nước và đoàn thể đã lên tiếng hưởng ứng. Và quả thật Trăm hoa đã làm việc đó một cách khá tắc trách, ít hiệu quả, “chưa đủ hơi sức hỗ trợ cần thiết”, như cấp trên của Tô Hoài nhận xét.
Sau 3 số báo kể trên, Trăm hoa không còn được hỗ trợ giấy in, nhưng Chủ nhiệm Nguyễn Bính vẫn gắng tìm đường sống cho tờ báo. Số Tết Đinh Dậu (tức Trăm hoa Xuân) gộp 3 số thường lại (12, 13, 14) như một đặc san, một món quà Tết cho độc giả, với các sáng tác của Nguyễn Bính, Ðoàn Giỏi, Yến Lan, Tô Hoài, Trúc Ðường,… đồng thời thông báo dự định cải tiến tờ báo: sẽ đăng đều kỳ bản dịch tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa Hồng lâu mộng. Bài của Ðặng Thai Mai (rút từ Tập san Ðại học sư phạm số 2, tháng 6 & 7/1956) nói về những tranh cãi mới diễn ra cách đó ít lâu ở Trung Quốc xung quanh tác phẩm này, được Trăm hoa Xuân in lại, khởi động cho dự định ấy. Nhưng dự định đã không thành sự thật. Số tiếp theo, tức là số 15 và 16, được gọi là Trăm hoa số đặc biệt đầu Xuân, cũng là một đặc san với các sáng tác của Nguyễn Bính, Phùng Cung, Tạ Hữu Thiện, Yến Lan, Trúc Ðường…, đồng thời gửi đến bạn đọc thông tin không vui: ý định cải tiến nội dung và hình thức báo đã không thể làm được; nhiều khó khăn mới cộng vào những khó khăn cũ (giá giấy cao, công in tăng, giá sinh hoạt đắt đỏ, các nhà in đều bận những việc được đặt trước, Trăm hoa không có nhà in riêng, không tìm được nơi nào in báo hằng tuần, việc phát hành lại khó hơn trước…); toà soạn công bố dự định khác: chuyển Trăm hoa thành tạp chí ra hằng tháng. Tất nhiên đây chỉ là dự kiến thuần tuý, cũng tương tự một vài dự định khác, bộc lộ qua những khung chữ thông tin trên các trang báo này, ví dụ dự định lập nhà xuất bản Trăm Hoa! Trên thực tế, Trăm hoa kết thúc ở đấy.
Trước đó, Chủ nhiệm Nguyễn Bính như đã đã dự cảm được cái kết thúc của Trăm hoa đang đến gần. Ông dường như tập trung vào một vài quan tâm cuối cùng: tìm lại những tập thơ trước 1945 của mình để chuẩn bị cho việc tự soạn những tuyển thơ. Từ số 11 trên Trăm hoa luôn có thông báo cần mua lại bản in các tập thơ Tâm hồn tôi, Hương cố nhân, Một nghìn cửa sổ. Ðồng thời Nguyễn Bính cũng gắng để lại nét chữ của mình trên một số trang báo in (điều này kỹ thuật dùng bản khắc gỗ xen giữa khuôn in chữ chì xếp rời thời đó cho phép thực hiện được), ví dụ nhan đề hoặc chữ ký tên tác giả ở các bài thơ “Tỉnh giấc chiêm bao” (số 7), “Tình quê” (Trăm hoa Xuân), - kiểu cách làm thay hoạ sĩ trình bày như vậy chưa hề thấy ở nhiều số Trăm hoa trước.
Có thể nói Nguyễn Bính đã có những động tác chuẩn bị cho “cái chết được báo trước” của tờ Trăm hoa.
Trong đời ông, đây có lẽ là dịp duy nhất ông là chủ báo. Một tờ báo tư nhân. Ngay trước lúc báo chí tư nhân bị xoá sổ lâu dài trên miền Bắc.
Hà Nội, tháng Tám 2005
© 2005 talawas


[1]Giải thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-55:
Thơ - nhất: Việt Bắc của Tố Hữu; nhì: Ðồng tháng Tám và Dặn con của Trần Hữu Thung; Ngôi sao của Xuân Diệu; Nụ cười chính nghĩa của Tú Mỡ; ba: Thơ chiến sĩ của Hồ Khải Ðại; khuyến khích: thơ và ca dao về Nam Bộ kháng chiến của Nguyễn Hiêm; Chú Hai Neo của Nguyễn Hải Trừng; Chiếc vai cày của Việt Dung; Anh Ba Thắng của Việt Ánh.
Tiểu thuyết – nhất: Ðất nước đứng lên của Nguyên Ngọc; Truyện Tây Bắc của Tô Hoài; nhì: Truyện anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng; Con trâu của Nguyễn Văn Bổng; ba: Vượt Côn Ðảo của Phùng Quán; Cái lu của Trần Kim Trắc; khuyến khích: Ðồng quê hoa nở của Hoàng Trung Nho; Gặp gỡ của Bùi Hiển; Cá bống mú của Ðoàn Giỏi.
Ký sự , phóng sự – nhất: không có; nhì: không có; ba: Lên công trường của Hồng Hà; Nam Bộ mến yêu của Hoài Thanh; khuyến khích: Ðường lên châu Thuận của Quang Dũng; Trại di cư Pa-gốt Hải Phòng của Sao Mai; Lòng mẹ của Bích Thuận.
Kịch nói – nhất: không có; nhì: Lửa cháy lên rồi của Phan Vũ; ba: Mở nông giang của Nguyễn Khắc Dực; Chị Hoà của Học Phi; Lòng dân của Nguyễn Văn Xe; Ánh sáng Hà Nội của Hoàng Tích Linh; Việt ơi! của Bửu Tiến; khuyến khích: Chiến đấu trong lòng địch của Lộng Chương; Hai thái độ của Bàng Sĩ Nguyên; Cai Tô của Nguyễn Văn Thương.
Dịch văn học – nhất: không có; nhì: Chiến sĩ chân chính Ðổng Tồn Thụy (tác giả Trung Quốc Ðinh Hồng và Triệu Hoàn) của Lê Văn Cơ; Chiến sĩ và Tổ quốc (tác giả Trung Quốc Ngụy Nguy) của Ðào Vũ; Truyện vè Lý Hữu Tài (tác giả Trung Quốc Triệu Thụ Lý) của Ðào Vũ; Lưu Hồ Lan (tác giả Trung Quốc Lương Tinh) của Phan Sinh; ba: Bản thoại Lý Hữu Tài (tác giả Trung Quốc Triệu Thụ Lý) của Xích Liên; Vi-chi-a Ma-lê-ép (tác giả Liên Xô Ni-cô-lai Nô-xốp) của Hiệu đoàn trường Sư phạm; Vương Quý và Lý Hương Hương (tác giả Trung Quốc Lý Quý) của Hoàng Trung Thông (theo cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại do Hội Nhà văn Việt Nam biên soạn, Hà Nội, 1992, tr. 228-230).
Thơ - nhất: Việt Bắc của Tố Hữu; nhì: Ðồng tháng Tám và Dặn con của Trần Hữu Thung; Ngôi sao của Xuân Diệu; Nụ cười chính nghĩa của Tú Mỡ; ba: Thơ chiến sĩ của Hồ Khải Ðại; khuyến khích: thơ và ca dao về Nam Bộ kháng chiến của Nguyễn Hiêm; Chú Hai Neo của Nguyễn Hải Trừng; Chiếc vai cày của Việt Dung; Anh Ba Thắng của Việt Ánh.
Tiểu thuyết – nhất: Ðất nước đứng lên của Nguyên Ngọc; Truyện Tây Bắc của Tô Hoài; nhì: Truyện anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng; Con trâu của Nguyễn Văn Bổng; ba: Vượt Côn Ðảo của Phùng Quán; Cái lu của Trần Kim Trắc; khuyến khích: Ðồng quê hoa nở của Hoàng Trung Nho; Gặp gỡ của Bùi Hiển; Cá bống mú của Ðoàn Giỏi.
Ký sự , phóng sự – nhất: không có; nhì: không có; ba: Lên công trường của Hồng Hà; Nam Bộ mến yêu của Hoài Thanh; khuyến khích: Ðường lên châu Thuận của Quang Dũng; Trại di cư Pa-gốt Hải Phòng của Sao Mai; Lòng mẹ của Bích Thuận.
Kịch nói – nhất: không có; nhì: Lửa cháy lên rồi của Phan Vũ; ba: Mở nông giang của Nguyễn Khắc Dực; Chị Hoà của Học Phi; Lòng dân của Nguyễn Văn Xe; Ánh sáng Hà Nội của Hoàng Tích Linh; Việt ơi! của Bửu Tiến; khuyến khích: Chiến đấu trong lòng địch của Lộng Chương; Hai thái độ của Bàng Sĩ Nguyên; Cai Tô của Nguyễn Văn Thương.
Dịch văn học – nhất: không có; nhì: Chiến sĩ chân chính Ðổng Tồn Thụy (tác giả Trung Quốc Ðinh Hồng và Triệu Hoàn) của Lê Văn Cơ; Chiến sĩ và Tổ quốc (tác giả Trung Quốc Ngụy Nguy) của Ðào Vũ; Truyện vè Lý Hữu Tài (tác giả Trung Quốc Triệu Thụ Lý) của Ðào Vũ; Lưu Hồ Lan (tác giả Trung Quốc Lương Tinh) của Phan Sinh; ba: Bản thoại Lý Hữu Tài (tác giả Trung Quốc Triệu Thụ Lý) của Xích Liên; Vi-chi-a Ma-lê-ép (tác giả Liên Xô Ni-cô-lai Nô-xốp) của Hiệu đoàn trường Sư phạm; Vương Quý và Lý Hương Hương (tác giả Trung Quốc Lý Quý) của Hoàng Trung Thông (theo cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại do Hội Nhà văn Việt Nam biên soạn, Hà Nội, 1992, tr. 228-230).
Phụ lục
Dưới đây là bản ghi “nốt” của người viết về nội dung bài mục các số Trăm hoa loại mới. Tôi đã ghi để làm tư liệu chuẩn bị viết bài này. Sau khi bài viết xong, tôi thấy các ghi chép này tuy đã dùng một phần vào bài trên, nhưng vẫn còn khá nhiều dữ liệu chưa dùng đến. Tôi thấy tiếc nếu xoá bỏ đi. Vì vậy tôi để lại dưới bài như một thứ phụ lục, bạn nào cần có thể tham khảo, nếu ai không cần tưởng cũng không hại gì.
Số 1 Trăm hoa loại mới (thứ bảy 20/10/1956) mở đầu bằng lời toà soạn nhan đề “Hoa lại nở” cắt nghĩa vì sao Trăm hoa cũ lại chết.
“Tuần báo văn nghệ Trăm hoa ra đời từ tháng bảy năm 1955. Nó ra đến số 31, sống gần một năm thì nó tạm đình bản. Nói cho văn hoa thì Trăm hoa chết vì phương diện tài chính khó khăn. Còn nói nôm na vắn tắt thì nó chết vì nó lỗ quá! Nó chết vì hết tiền. Than ôi! Sớm nở tối tàn, thân Hoa thầm trách số phận mình sao lại sinh vào cửa tư nhân! Sung sướng thay những bạn đồng nghiệp cơ quan ngôn luận của các đoàn thể! Có bao giờ chịu cái số phận nửa chừng xuân như số phận Trăm hoa. Mà kể cũng sung sướng thật, những tờ báo đoàn thể cứ mặc sức mà in mà sống, không bao giờ bị lo chết, lỗ thế chứ lỗ nữa cũng trường sinh bất tử như thường! Có quỹ của đoàn thể trợ cấp, lại có đủ phương tiện mua giấy má, phát hành sâu rộng, v.v., tha hồ mà bán rẻ. Biếu không còn được nữa là! Một lần nữa xin nhắc lại, sở dĩ Trăm hoa chết là vì hết tiền, chứ không phải vì đã “ngạo mạn” dám đăng ba bài phê bình thơ Xuân Diệu, mà Xuân Diệu vốn là bạn thân của ông Huy Cận thứ trưởng Bộ Văn hoá, và ông Hoài Thanh trong Ban thường vụ Hội văn nghệ Việt Nam như một vài dư luận. Nó tự chết chứ không ai truy bức nó chết. Chuyện có sao nói vậy; đặt điều gieo tiếng là không tốt.
Nhớ lại lúc Trăm hoa mới ra, có kẻ tin là mình thấy rộng nghĩ xa, vội vàng phun nọc độc: “Bọn ấy làm gì có tiền mà ra báo? Tiền ở đâu? Tiền của địch chăng??? Phải cảnh giác!” Ðến khi Trăm hoa chết vì hết tiền, không biết những cá nhân ấy có đến nỗi thẹn mà chết theo vì cái bệnh vu cáo láo hay không?”
Hai số đầu đăng liền mạch một bài báo dài của Nguyễn Bính: “Vì những sai lầm nghiêm trọng, cần phải xét lại toàn bộ giải thưởng văn học 1954-1955. Ðề nghị đưa tập thơ Việt Bắc xuống giải nhì. Loại tập thơ Ngôi sao và một số quyển không xứng đáng. Bổ sung một số tác phẩm khác.”

Nhân kỷ niệm ngày nhà văn Vũ Trọng Phụng từ trần (13/10/1939), báo trích đăng tiểu thuyết Số đỏ. Trong mục “Việc làng việc nước” có các bài nhỏ, trong đó cợt trêu Phan Khôi: trong “Ông bình vôi” ông bảo vật gì có thể hại mình thì người ta gọi bằng ông, vậy nếu gặp ông Phan, biết gọi là gì? Về sáng tác, báo đăng thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan, truyện “Cái hắt hơi” của Sê-cốp (Chekhov) do Triêu Dương dịch. Về thời sự xã hội, báo có bài “Chúng tôi đề nghị bỏ lệ khai báo trong chính sách quản lý hộ khẩu”, ký tên Người Hà Nội.
Số này và các số sau thường xuyên có mục “Tầm vông vạt nhọn” đả kích Mỹ-Diệm.
Số này có 3 bức biếm hoạ ký Tê Hát, một đăng trang 1, vẽ Tú Mỡ xua tay bảo mình không “ở cùng một bị” với các ông lãnh đạo hội văn nghệ là Hoài Thanh, Nguyễn Ðình Thi, Nguyễn Tuân; một vẽ tấm da bọc thây tướng chết trận nhưng “không phải là da ông Yến Lan” (đáp lại lời nhận lỗi thay người khác của nhà thơ này khi đó vừa đăng báo Văn nghệ về chuyện giải thưởng văn nghệ đang gây tranh cãi); một nữa đăng trang 5, vẽ Trương Tửu quỳ khấn trước 5 thần tượng (1. Mác-Lênin, 2./Khơrutsốp, 3. Ðảng Lao động Việt Nam, 4. Ðại hội 20 ÐCS Liên Xô, 5. Lục Ðịnh Nhất với khẩu hiệu “Trăm hoa đua nở”) xin được “chư vị” phù hộ để mình “choảng” bọn sùng bái cá nhân .
Bài của Nguyễn Bính về kết quả giải thưởng văn học trong giải thưởng văn nghệ Việt Nam 1954-55 đăng liền hai số 1 và 2. Xin dừng lại kỹ hơn ở bài này.
“Kết quả giải thưởng văn học 1954-55 đã gây nên rất nhiều dư luận, nhiều thắc mẳc trong giới văn nghệ và yêu văn nghệ. Những dư luận thắc mắc ấy đã kéo dài đến nửa năm nay. Dư luận càng sôi nổi từ sau lớp học tập lý luận văn nghệ 18 ngày và nhất là sau bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” của ông Phan Khôi đăng trong Giai phẩm mùa thu tập I.
Tại sao lại có nhiều dư luận thắc mắc? Chính vì căn cứ vào những tác phẩm trúng giải, người ta thấy có nhiều quyển không xứng đáng, nhiều quyển cần phải xét lại thứ bậc, nhiều quyển sao không trúng giải? Thành phần ban giám khảo cũng như lề lối làm việc độc đoán, hẹp hòi, xa rời quần chúng, bè phái, và có cả cái tệ sùng bái cá nhân nữa.
Nhờ có dư luận ấy mà ban giám khảo và thường vụ Hội Văn nghệ đã kiểm điểm lại vấn đề giải thưởng. Mới đây Hội Văn nghệ có ra một thông báo và ông Nguyễn Tuân (vừa là trưởng ban giám khảo vừa là tổng thư ký Hội Văn nghệ) có viết một bài về giải thưởng văn học 1954-55. Theo tinh thần hai văn kiện ấy ta có thể kết luận là ban giám khảo và thường vụ Hội có nhận một số khuyết điểm về quan niệm, tổ chức và lề lối làm việc của giải thưởng”.
Sau khi trích dẫn một đoạn trong bài nói trên của Nguyễn Tuân và tóm tắt một số điểm trong thông báo của thường vụ Hội Văn nghệ, lưu ý đến một vài đề xuất sửa đổi (đưa tập Ngôi sao từ giải nhì xuống giải ba, cân nhắc trường hợp Người người lớp lớp), Nguyễn Bính cho rằng các đề xuất đó là quá ít, và những khuyết điểm trong quan niệm và tổ chức xét giải thưởng đã khiến toàn bộ giải thưởng “mất đi rất nhiều giá trị và tác dụng”.
…“Ðã đến lúc rất cần và đã đến mức đòi hỏi phải xét lại toàn bộ giải thưởng, chứ không phải chỉ hạ xuống hoặc thêm vào một vài tác phẩm là đã đủ cứu vãn được giá trị và tác dụng của nó. Ông Nguyễn Tuân cũng đã nhận rằng “đã có những sai lầm nghiêm trọng”. Vậy thì những sai lầm nghiêm trọng ấy nó có tác hại đến việc chấm giải, cụ thể ra bằng việc cho giải các tác phẩm như thế nào? Không lẽ lại chỉ sai lầm vẻn vẹn ở mấy quyển Ngôi sao, quyển Nam Bộ mến yêu, truyện Cái lu mà thôi? Như vậy sao lại gọi là sai lầm nghiêm trọng? Chúng tôi tưởng đã luộm thuộm thì phải luộm thuộm hết chứ không lẽ chỉ luộm thuộm riêng khi nhận xét quyển Ngôi sao mà không luộm thuộm khi nhận xét các quyển Người chiến sĩ, thơ Việt Bắc, Chú Hai Neo. Chúng tôi tưởng đã thiếu trình độ nhận thức thì không lẽ chỉ thiếu khi nhận xét quyển Cái lu mà lại đầy đủ nhận thức khi nhận xét những quyển khác. Chúng tôi tưởng đã nể nang thì không lẽ chỉ nể nang khi muốn giữ địa vị cho quyển Nam Bộ mến yêu mà lại rất nghiêm khắc trong khi chấm quyển Anh Lục hay cái kịch Việt ơi! Hơn nữa biết đâu chẳng có những tác phẩm còn trong bản thảo, gửi dự thi, có giá trị, mà đã phải vùi dập đi vì cái trình độ nhận thức kém, cái tính nể nang, thiếu tập trung, thiếu nghiêm chỉnh, cái lề lối làm việc luộm thuộm, thiếu dân chủ, cái gò ép, cái gượng gạo, cả cái không lắng nghe ý kiến quần chúng và văn nghệ sĩ của ban giám khảo? Huống chi thường vụ Hội lại thiếu kiểm tra đôn đốc, thì sao mà biết được rằng giải thưởng có chu đáo hay không? Hay đã bỏ rơi một cách không thương tiếc những tác phẩm dự thi có giá trị? Do đó, vàng thau lẫn lộn, mà đã làm chết yểu đi một số mầm non văn nghệ chăng?”
Tiếp đó, Nguyễn Bính nói riêng về phần giải thưởng thơ.
…“Chúng tôi xin góp một vài phát hiện và nhận xét về giải thơ. Tạm lấy giải thơ làm trọng điểm.
Khi bắt đầu đặt giải thưởng văn học toàn quốc 1954-55, anh chị em văn nghệ gặp nhau thường hay đùa một câu: “Giải thưởng này, cái gì thì không biết, chứ tập thơ Việt Bắc thì chém chết cũng được giải nhất rồi!” Tất nhiên chúng ta cũng đều hiểu rằng câu nói đó không phải là một câu tán dương. Anh em còn nhớ mãi cái cuộc tranh luận về quyển thơ Việt Bắc, chưa ngã ngũ ra sao thì các ông lãnh đạo Hội đã vội vàng đưa ra mấy bài “bịt lỗ châu mai” lại. Anh em không thể nào quên cái câu ông Hoài Thanh phát biểu: “Ðịch nó không mong gì hơn là ta chê thơ Tố Hữu”. Ông Hoài Thanh đã đem cả địch ra mà bảo vệ cho thơ Tố Hữu. Cái lối nịnh trên nạt dưới ấy tất nhiên ông Hoài Thanh phải đem sử dụng vào việc chấm giải. Vì ông Tố Hữu ai cũng biết là Trung uỷ, là lãnh đạo văn nghệ, là thứ trưởng… Trong tất cả các thi sĩ có sách in ở nhà xuất bản của Hội văn nghệ, chỉ duy có thơ Tố Hữu là được sắp vào loại A, nghiã là thuộc cái loại giá trị nhất và được tính tiền bản quyền tác giả cao nhất (không biết các ông lãnh đạo Hội có kiểm tra đôn đốc việc này hay không?). Sở dĩ anh em biết trước thế nào tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu cũng được giải nhất là bởi anh em không còn lạ gì cái tệ sùng bái cá nhân của một số cá nhân lãnh đạo Hội Văn nghệ.”
Về tập thơ Ngôi sao.
… “Bản thảo tập thơ Ngôi sao đã đưa cho nhà xuất bản Văn nghệ xem. Toàn thể anh em văn nghệ công tác ở nhà xuất bản đều thấy là dở quá (Tô Hoài, Kim Lân, Phùng Cung, Nguyễn Bính, v.v…), không đồng ý cho in; quyển đó cứ bỏ lay lắt mãi 4-5 tháng. Nhưng cấp trên cứ giục phải in. Túng thế, anh em đành lựa một số bài không đến nỗi tồi lắm đưa sang nhà in Quốc gia (lúc ấy còn coi cả việc phát hành sách báo) thì bên đó cũng không chịu in. Vì lẽ “thơ Xuân Diệu không có độc giả”. Xuân Diệu lại vận động mãi với cấp trên, sau bất đắc dĩ nhà in Quốc gia nể quá mới in cho 1500 quyển. Khi in ra, tập Ngôi sao đã bị dư luận chỉ trích rất nhiều. Ðiều đó thiết tưởng thường vụ Hội phải biết rõ hơn ai hết. Xin nói thêm rằng hồi cho in tập Ngôi sao là hồi mà nhà xuất bản Văn nghệ cùng đóng chung một căn nhà với thường vụ Hội (51 Trần Hưng Ðạo), thường vụ Hội mặc dầu có bưng tai bịt mắt đến đâu chăng nữa chắc cũng phải nghe dư luận ở những anh em cùng chung một nhà ở, cùng chung một bàn ăn, đối với tập Ngôi sao. Vậy mà đến lúc chấm giải vẫn cứ để cho nó được giải. Mà lại là giải nhì! Như thế thì hiền như bụt cũng phải thắc mắc.
Tập thơ Việt Bắc được giải nhất thì không ai lấy làm lạ (như trên đã trình bày) chứ đến như tập Ngôi sao mà đứng giải nhì thì anh em lấy làm lạ quá! Anh em lạ quá là vì anh em không thể tưởng tượng được rằng lại có một cuộc xâm phạm trắng trợn vào văn nghệ như thế? Anh em lạ quá là vì anh em không thể ngờ rằng ban giám khảo lại có thể khinh thường văn nghệ, khinh thường anh em và quần chúng đến mức ấy. Anh em cho đó là một cái nhục. Nhục cho anh em. Nhục cho văn nghệ. Nhục cho cái giải thưởng văn học toàn quốc 1954-55. Anh em thắc mắc cao độ và thấy rằng cần phải đấu tranh.
Hai ông Huy Cận và Hoài Thanh trong ban chung khảo tại sao lại “tích cực bênh vực cho tập Ngôi sao” (lời ông Nguyễn Tuân). Ông Hoài Thanh trước cách mạng đã biết chọn lọc các bài thơ hay của các thi sĩ để soạn thành quyển Thi nhân Việt Nam, có phê phán. Ông Huy Cận, tuy bây giờ là thứ trưởng Bộ Văn hoá, nhưng trước kia đã từng là một nhà thơ có tiếng tăm. Thế thì đối với một tập thơ dở như tập Ngôi sao, tại sao hai ông lại tích cực bênh vực? Có phải tại ông Huy Cận và Xuân Diệu chỉ là một, còn ông Hoài Thanh vụ trưởng vụ nghệ thuật thì lại là cấp dưới của ông Huy Cận hay không? Theo ý chúng tôi, cái chuyện đó là bè phái rõ ràng chứ không phải nể nang luộm thuộm. Chúng tôi kết luận rằng: ở bộ môn nào thì chưa biết chứ trong việc chấm giải thơ thì nhất định là có bè phái.”
Cuối cùng, Nguyễn Bính nêu những đề nghị cụ thể.
“Muốn cho cái giải thưởng văn học toàn quốc 1954-55 có giá trị toàn vẹn, chúng tôi có ý kiến đề nghị cụ thể như sau:
Về giải thơ: Nên đưa tập thơ Việt Bắc xuống giải nhì; tập thơ ấy tuy có giá trị thật, nhưng chưa xứng đáng được giải nhất, vì lẽ nó chưa hẳn là một tập thơ tiêu biểu. Loại tập Ngôi sao và tập thơ Chiến sĩ ra khỏi giải thưởng. Tập Chú Hai Neo và tập thơ của Tú Mỡ nên để xuống giải khuyến khích. Cả tập ca dao của Nguyễn Hiêm cũng nên loại ra khỏi giải thưởng.
Về giải bút ký và kịch: Nên loại tập bút ký Nam Bộ mến yêu và cái kịch Việt ơi! ra khỏi giải thưởng.
Về giải tiểu thuyết: Nên loại tập truyện Cái lu ra khỏi giải thưởng. Xét lại tập truyện Ðất nước đứng lên xem nên để giải nhất hay nên cho xuống giải nhì, vì tập truyện ấy chưa đúng nội dung một quyển tiểu thuyết. Xét lại thứ bậc quyển tiểu thuyết Anh Lục.
Về ngành nhạc xin nhường ý kiến cho các nhạc sĩ. Tôi vốn không rành về nhạc nên không dám có ý kiến. Và nên bổ sung một số tác phẩm có giá trị, cụ thể như những quyển tiểu thuyết Người người lớp lớp, tập thơ Hoàng Cầm, Lê Ðạt, v.v…”
Số 2 Trăm hoa loại mới (chủ nhật 28/10/1956) đăng tiếp bài trên của Nguyễn Bính. Ông chủ bút còn có một bài nữa trên trang 1 nói về sự kiện Nguyễn Văn Tố tức Thiết Vũ, cán bộ Sở Báo chí đến gây rối tại trụ sở Trăm hoa chiều thứ hai 22/10/1956. Ngoài ra, các bút danh Hương Mai, Trại Hàng Hoa, Hàm Tiếu có lẽ cũng là của ông chủ bút. Hương Mai điểm vở múa Những bức tranh trong viện bảo tàng của đoàn múa Chim Sơn Ca Rumani trên sân khấu Hà Nội. Trại Hàng Hoa “nhặt sâu hoa” cho tuần báo Văn nghệ. “Chúng tôi không hiểu tại làm sao toà soạn báo Văn nghệ cho đăng một bông hoa có nhiều sâu như thế? Mà lại chữ tít đỏ, trang nhất. Nghĩa là đặc biệt lắm đấy nhé! Ðể khuyến khích mầm non chăng? Như thế là giết mầm non chứ không phải khuyến khích đâu!? Xin đừng làm cái kiểu nhân nghĩa bà Tú Ðễ”. Hàm Tiếu trong mục “Việc làng việc nước” đem dư luận đang ồn ào về bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” của Phan Khôi so sánh với những lời bình “bách nhân bách khẩu” của người hàng phố đứng xem vợ chồng già nhà nọ cãi nhau.
“Vậy thì ông Phan Khôi có nói xấu chế độ không? Có. Ông ví von chế độ dân chủ cộng hoà của chúng ta với chế độ triều Gia Long Tự Ðức gì gì đó, thế là quả nhiên nói xấu chế độ rồi. Giấy trắng mực đen còn rành rành, ai mà cãi cho ông được! Nhưng nếu gán ghép cho ông tội này tội khác, thì cũng chẳng khác mấy người đứng xem cãi nhau lúc nãy lên án bà hàng xóm của tôi là đa ngôn đa quá, cố tình phá phách gia đình ruồng rẫy chồng con! Và có kẻ còn toan gieo tiếng là bà có cả chuyện… ngoại tình (!) Không tin xin cứ đợi ông Phan Khôi đi Trung Quốc về mà hỏi, hay hỏi ngay bà láng giềng tôi xem có phải mặc dầu có quá lời có mỉa mai sói móc chồng, nhưng rồi lại mỉm cười với chồng, lại lọm khọm đi chợ xa mua sắm lại những thứ chính tay mình đã trót đập vỡ để bày biện lại cửa nhà cho đẹp? Hay, nói mới lạ làm sao chớ? Quên nhau làm sao cho nỡ! Ai bảo họ quên nhau được nào?”
Về sáng tác, số 2 có 2 bài thơ “Tay lại cầm tay” của Vương Cầm Thi và “Tái bút” của Yến Lan, truyện ngắn “Gặp lạI” của Nguyễn Thành Long.
Số này in biếm hoạ của Bùi Xuân Phái về trò “chụp mũ” với phụ đề nhại thơ Tú Xương “Thiên hạ đua nhau chụp mũ xằng…”.
Ở trang thời sự xã hội, dưới nhan đề “Có một ông thủ trưởng đấm thủng trái tim ngườI”, số này đăng lại hai bức thư từng đăng báo Tiền phong, tố cáo một vị thủ trưởng nọ cấm một đôi trẻ trong cơ quan mình kết hôn vì “anh” xuất thân nông dân, “chị” là con gái một tiểu chủ; một “cán bộ đội” khác đòi đem ra hội nghị kiểm thảo một đôi nọ tìm hiểu nhau bằng viết thư và tặng nhau các tấm bưu ảnh phong cảnh thủ đô Hà Nội.
Ở mục “Chuyện thời xưa” Xuân Thu kể tích Ðông Chu liệt quốc về thái độ đối với “đồ vật cũ”. Ngoài ra còn có mục “Hoa cười” giành đăng giai thoại, nụ cười.
Số 3 Trăm hoa loại mới (chủ nhật 4/11/1956) tiếp tục đăng ý kiến bạn văn nghệ về giải thưởng văn học 54-55: Phạm Tường Hạnh cho rằng cuốn Nam Bộ mến yêu của Hoài Thanh và tập Ngôi sao của Xuân Diệu bị số đông trong giới cho là chất lượng kém, nên đưa ra khỏi giải thưởng thì bài nói lại về giải thưởng của Nguyễn Tuân lại bênh 2 cuốn ấy, “vô hình trung đã phủ nhận dư luận của anh chị em văn nghệ sĩ về hai tập Nam Bộ mến yêu và Ngôi sao”. Báo đăng bài của Hồng Cầu (hẳn là bút danh của Nguyễn Bính) “Lê-nin hết sức chú ý đến văn học”, kể một số mẩu chuyện rút từ sách báo.
Về sáng tác, số này có truyện ngắn của Ðỗ Văn “Bài thơ ‘Mùa thu đến’” kể một người làm thơ vì lo vặn vẹo sao cho khỏi mất lập trường, khỏi bị coi là lãng mạn nên rốt cuộc đã giết chết cảm xúc, bài thơ bất thành; toàn bộ trang 3 dành đăng truyện thơ Chiếc lược cuả Thụy An mà toà soạn coi như “Một bông hoa bị vùi dập”: tác giả viết xong đã một năm nay, đưa đến Hội Văn nghệ nhưng không thấy hồi âm, đưa nhà xuất bản thì được nhận xét tương đối khá và chuyển tiếp sang vụ văn hóa đại chúng thì bị trả lại…
Ở trang thời sự xã hội báo đăng ý kiến một cán bộ ở Hà Nội nêu hậu quả của chuyện “tiêu chuẩn khám chữa bệnh” khiến nhiều cán bộ mắc bệnh nặng mà không được cứu chữa.
Ở trang 1 có biếm hoạ của Bùi Xuân Phái mô tả người tự xưng là cán bộ tại quầy bách hoá để được mua hai gói Ðại Tiền Môn nhưng khi sấn sổ xông vào nhà dân hành hung thì chỉ “lấy tư cách cá nhân”.
Ở mục “Việc làng việc nước” báo có bài của Trăm Hoa nêu nhận xét: nghe tin toà soạn Trăm hoa bị ông Thiết Vũ đến gây rối, từ nhân viên đến chủ nhiệm chủ bút các báo tư nhân đều đến thăm hỏi, duy các báo đoàn thể thì tuyệt nhiên không ai lai vãng; cạnh đó là bài của Trần Nguyên, nói về việc Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam tại hội nghị lần thứ 10 vừa ra 3 bản thông cáo (1. nhận định kết quả và nghiêm khắc kiểm điểm sai lầm trong công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức; 2. cử lại Tổng bí thư sau khi cựu Tổng bí thư Trường Chinh tự kiểm thảo và xin từ chức; 3. thi hành kỷ luật 2 uỷ viên Trung ương là Hồ Viết Thắng và Lê Văn Lương), bài viết bày tỏ sự hoan nghênh nhiệt liệt trước “thái độ dũng cảm và chân chính cách mạng” của Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam “đã công khai tự kiểm điểm và đề ra những biện pháp cụ thể” để sửa chữa những sai lầm đã mắc phải, bày tỏ nhiệt liệt tin tưởng vào tài đức của Hồ Chí Minh trong nhiệm vụ mới: Chủ tịch Ðảng kiêm Tổng bí thư.
Ở mục “Chuyện thời xưa” Xuân Thu kể tích Hoa Ðà nêu liệu pháp “bổ óc chữa bệnh” cho Tào Tháo, bị Tháo giam chết trong ngục.
Số này toà soạn mở cuộc thi hoạ bài thơ do một bạn đọc gửi đến nhan đề “Cảnh giác”, trêu đùa những người “cảnh giác” quá độ, trở nên hẹp hòi, máy móc, hoài nghi tất cả mọi người; toà soạn cũng công bố kết quả cuộc thi câu đối do báo tổ chức: Lê Kim trúng giải nhất với câu “Báo Trăm hoa bài chưa đủ trăm hoa” đối lại câu ra đối của toà soạn “Diêm Thống nhất giá sao không thống nhất?”
Số 4 Trăm hoa loại mới (chủ nhật 11/11/1956) đăng ở đầu trang 1 thư của Thanh Châu chào mừng Trăm hoa tục bản. “…Trên bàn viết của tôi, những tờ Tiền phong, Nhân dân, Nhân văn, Ðộc lập, Văn nghệ, Giai phẩm, Tổ quốc, Phụ nữ, v. v… đang vừa khoe sắc khoe khôn vừa có ý chờ thêm bạn mới. Giá những tờ báo này cho phép, tôi sẵn sàng ngả mũ chào thêm anh bạn Trăm hoa, giữa lúc đường lối văn học đương khuyến khích trăm hoa đua nở”. Toà soạn rút “tít” cho bức thư này từ câu Thanh Châu dẫn lời nhà văn Tourgueniev: “Chỉ có kẻ nào yêu tha thiết mới có quyền trách móc và sửa đổi ”
Số này đăng phóng sự “Ðêm Kiếp Bạc” của Thanh Châu, hai bài thơ “Chiều” của Lê Cẩm Hồ và “Rang thóc” (viết trong kháng chiến) của Trần Lê Văn, truyện ngắn “Con chó” (Triêu Dương dịch truyện “Le Caméléon” của Chekhov).
Trang bình luận văn nghệ có bài của Bích Lục từ Nam Ðịnh nêu nhận xét: vì nặng về “thành phần chủ nghĩa” nên cuộc thi thơ do ty văn hoá tỉnh này tổ chức đã có sai lầm lệch lạc đáng tiếc, trao giải cao cho những bài chất lượng kém chỉ vì tác giả là công nhân.
Cạnh đó là bài “Chẳng cứ gì một bông hoa đó bị vùi dập!” của Lưu Thuỷ nói rõ hơn về trường hợp bài thơ dài Chiếc lược của Thụy An. Bài thơ kể chuyện một cô gái nhà nghèo đi ở cho địa chủ, chỉ ước có cái lược chải tóc mà không thể có; một bữa nọ cô mượn trộm chiếc lược của mụ chủ chải tóc để đi dự hội làng, bị mụ bắt được, lấy dao cau gọt sạch tóc mai, khiến cô không dám đi hội, cũng không dám đến chỗ hẹn gặp người yêu; khi cải cách thắng lợi, mụ chủ bị đấu tố, cô gái được người yêu tặng chiếc lược mà anh lấy được ở chỗ chia quả thực… Lưu Thuỷ không bảo rằng đây là tuyệt tác, là bài thơ toàn bích… “nhưng ít nữa thì nó vẫn cứ hơn, hơn hẳn những loại thơ “tình Bắc Nam” của ông vụ trưởng Ðào Duy Kỳ mà vụ văn hoá đại chúng đã cho in hàng vạn cuốn”. Bài thơ của Thụy An bị nhiều cửa từ chối, kể cả Hội Văn nghệ, kể cả vụ văn hoá quần chúng, thế mà “biết bao nhiêu bài thơ, chưa nói đến văn, dở òm và nhạt phèo của Xuân Diệu, của Nguyễn Ðình Thi, của Huy Cận… vẫn được in ra một cách vô tội vạ”... “Chẳng cứ gì một bông hoa của chị Thụy An bị vùi dập. Vì cái tinh thần bè phái đương ngự trị trong đầu óc một số ông phụ trách báo và sách văn nghệ và văn hoá đại chúng, và trên hết là vì cái tinh thần bè phái ở ngay trong cơ quan lãnh đạo Hội. Tất cả rắc rối (hạn chế tài năng của cá nhân, kìm hãm sự tiến triển của phong trào, thiếu đoàn kết, gây phản ứng…) do đó mà ra cả”.
Ở mục “Nhặt sâu hoa” Trại Hàng Hoa chỉ ra một loạt chữ dùng kém cỏi, tối tăm của Tú Mỡ trong một bài thơ đả kích đăng báo Văn nghệ.
Ở mục “Việc làng việc nước” số này đăng một bài ca vè của bạn đọc phê phán nhiều ông cán bộ tổ dân phố cứ khuyên người ta đừng mua báo tư nhân; cạnh đó là ý kiến một bạn đọc khác nêu chuyện quốc doanh rượu ăn lãi nhiều quá.
Ở mục thời sự xã hội, số này đăng bài của Trần Nguyên, tiếp tục bày tỏ hoan nghênh thông cáo của TƯ Ðảng về việc thi hành kỷ luật trong sai lầm cải cách ruộng đất.
Tranh biếm hoạ của Bùi Xuân Phái ở số này tả nỗi mừng của hai bà nội trợ từ nay không còn phải giấu con gà con vịt mua được xuống đáy rổ để tránh cặp mắt dò xét của cán bộ thuế và hộ khẩu như dạo trước.
Ở góc trang 7 Trăm Hoa thông tin ngắn “Tại sao báo Nhân văn bị thi hành kỷ luật?” khẳng định vì nhân viên báo Nhân văn quên nộp lưu chiểu 3 số báo trước khi phát hành nên báo bị cảnh cáo “Chứ không phải tại báo Nhân văn nói mạnh quá, chứ không phải tại báo Nhân văn dám “xúc phạm” Nguyễn Chương tiên sinh của báo Nhân dân. Và cũng không phải tại sở Báo chí có thành kiến với Nhân văn đâu!”
Sau số 4, toà soạn Trăm hoa đăng trên các nhật báo Thời mới và Hà Nội hằng ngày thông báo Trăm hoa nghỉ 1 kỳ chủ nhật 18/11/1956 “vì việc tổ chức nhà in”.
Số 5 Trăm hoa loại mới (chủ nhật 25/11/1956) đăng truyện ngắn của Thụy An “Chuyện Bố, Mẹ, Bé, và con Búp bê”, các bài thơ “Mưa Huế” của Hà Nhật, “Chiếc chăn hoa” của Hồ Thiện Ngôn và các bài tham dự cuộc thi hoạ thơ “cảnh giác” do báo Trăm hoa tổ chức. Ở trang thời sự chính trị số này có hai bài dài. Bài “Tiếng nói” của Thạch Lựu: “Ðem những lời trung thực của ta để xây dựng chế độ ngày thêm tươi đẹp, chúng ta sẽ không bị câm, và nhất định không bao giờ để phải bị câm”. Bài “Một vấn đề chính trị trọng yếu: Toàn Ðảng toàn dân đoàn kết là yếu tố quyết định sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức” ký Trăm Hoa nhưng không phải giọng văn Nguyễn Bính: “Phải nói rằng một trong những nguyên nhân mắc phải sai lầm là mũi nhọn chuyên chính đã chĩa cả vào ta và bạn”… “Máu và nước mắt đã chảy nhiều trong cuộc chiến tranh cách mạng. Máu và nước mắt của một số người lại chảy trong cải cách ruộng đất. Nỗi đau khổ của một số đồng bào nông dân, của một số đảng viên bị xử trí oan không phải là không chính đáng”… “Những hiện tượng rạch mồm, chửi bới, đánh xé, doạ nạt, những hiềm khích giữa nông dân và cốt cán, giữa nông dân với nhau, những mâu thuẫn ở trong Ðảng ngoài Ðảng lúc này đều không lợi cho việc sửa sai, cho việc củng cố miền Bắc, đấu tranh giành thống nhất”…
Ở mục “Việc làng việc nước” số này, Trần Nguyên nêu ý kiến nên cải tạo nhà tù Hoả Lò thành trường học, xoá ấn tượng nặng nề về nhà tù thực dân; Trăm Hoa đưa tin báo Nhân văn kháng cáo quyết định cảnh cáo của sở báo chí; Tần Hoài kể việc Hội Văn nghệ định cử Hoàng Cầm vào đoàn văn nghệ sĩ đi thăm Liên Xô, nhưng lại thôi, “chắc tại Hoàng Cầm còn bận việc viết báo Nhân văn”, lại định cử Hồ Dzếnh và Mộng Sơn đi, rồi lại thôi, “chắc tại Hội đã trả hai người lại cho văn nghệ sĩ Hà Nội rồi”, bây giờ nghe nói Hội cử Nguyễn Văn Bổng và Anh Thơ, hai người không bận viết báo như Hoàng Cầm.
Cạnh mục trên báo đăng ý kiến bạn đọc Nguyễn Văn Ðiều ở Nam Ðịnh “Chúng tôi đề nghị Sở thuế trung ương xét lại bản lề thuế suất lợi tức đối với hộ nhỏ”.
Số này có hai biếm hoạ, một của Tê Hát tả nỗi vui mừng của người đàn ông về nhà qua đêm với vợ từ nay khỏi lo trình báo hộ khẩu; một của Văn Tôn tả một anh cán bộ tổ chức bảo cô nhân viên: yêu ai phải báo cho tổ chức, cô này nói cô yêu chính anh ta, anh ta vội bảo thế thì không cần báo cho tổ chức biết nữa!
Mục “Chuyện thời xưa” Xuân Thu kể tích Ðông Chu liệt quốc về dùng người hiền.
Số 6 Trăm hoa loại mới (chủ nhật 2/12/1956) ở trang 1 có bài của Thạch Lựu “Nói để xây dựng”, “lời nói của ta lúc này đương góp phần xây dựng chế độ… cũng vì thế mà lời nói của ta càng nên thận trọng… nói điều gì, nói làm sao cho có lợi, cho lọt tai người nghe…”
Ở trang 2 có bài ký Trăm Hoa với giọng chính luận thành thục nhan đề “Ðể phát triển chế độ ta, phải bảo đảm cho nhân dân được tham gia quản lý kiểm soát tích cực mọi công việc của Nhà nước.”

Về sáng tác có truyện ngắn của Ðỗ Văn “Một bài tính sai”; trang thơ có bài Nguyễn Bính dịch thơ Ðường, bài “Chén cơm” viết trong kháng chiến của Nguyễn Ngọc Tấn, và nhất là bài thơ của Tạ Hữu Thiện “Xem lá thư tình của Bích” kể chuyện cô gái Hồng Gai tên Bích: người yêu từ thời kháng chiến của Bích nay báo tin kết hôn với cô bần nông gặp trong cải cách, anh ta từ bỏ Bích vì nghe nói lý lịch nhà Bích không trong sạch; Bích đau khổ; tác giả an ủi: cô sẽ gặp người yêu chân chính và trong cuộc hôn nhân ấy “vấn đề lý lịch” sẽ thành chuyện lố bịch!
Về bình luận văn nghệ ở trang 2 có bài của T.H. (= Trăm Hoa) “Ðầu đuôi câu chuyện bài thơ ‘Chiếc lược’ và bài thơ khiếu nại lên Hồ Chủ tịch”, cho biết rõ thêm: tại lớp học chính trị cho một số văn nghệ sĩ, một cán bộ của Uỷ ban CCRÐ Trung ương đến nói chuyện, có kể câu chuyện một chị cố nông lúc chia quả thực nói chỉ ước ao được một cái lược chải đầu vì từ bé tới giờ chị chưa hề có; cán bộ ấy nói thêm: câu chuyện này làm Hồ Chủ tịch xúc động và tỏ ý nhắc văn nghệ sĩ khai thác đề tài này. Thụy An dự nghe, xúc động với câu chuyện, hăm hở ngày đêm viết xong bài thơ “Chiếc lược”, tiếc rằng để lay lắt gần một năm không được sử dụng, chuyển đến phòng văn nghệ quần chúng của vụ nghệ thuật (chứ không phải vụ văn hoá đại chúng như một vài số trước viết thiếu chính xác) thì bị cho là thơ không hay, vẫn bị loại bỏ. “Lúc ấy, bài thơ ‘Chiếc lược’ không được phổ biến, chị Thụy An lấy làm ức lắm. Chị có làm ngay một bài thơ khiếu nại lên Hồ Chủ tịch, vì lẽ cái đề tài này Hồ Chủ tịch có nhắn nhủ anh chị em văn nghệ nên sáng tác…” Tiếp đó dẫn toàn bộ bài thơ kiêm thư khiếu nại ký Thụy An tức Phương Thao mà thực ra tác giả còn chưa gửi đi vì sợ làm phiền cụ Hồ. Ðây là đoạn cuối:
Chuyện chiếc lược này đây
Viết thi đua sáng tác
Ðợt đầu tiên chín ngày
Sau đó sẽ liên tục
Làng văn nhiều chuyện hay
Bảo nhau bỏ cả Tết
Hăm hở viết mê say
Vâng lời Bác căn dặn
Viết chuyện chiếc lược này
It lâu Hội trả lại
Với lời phê: “Khá hay”
Nhưng ý Vụ văn hoá:
“Hay gì mà kêu hay
Loại này vô thiên lủng
Ðem trả tác giả ngay”
Nghe phê bình chẳng chuộc
Tác giả đâm ngẩn ngây
Lược đẹp hay không đẹp?
Vứt bỏ hay dùng đây?
Luống thương công chuốt lược
Mà chẳng lọt đến tay…
Sự tình kiện lên Bác
Hoạ có vơi hận này
Kết thúc bài báo, T.H. bảo chuyện Thụy An có ý trách Hội văn nghệ nay đã là chuyện cũ, vì thường vụ Hội đã tự kiểm điểm và hứa sửa chữa.
Ở mục “Nói gần nói xa” Trần Nguyên tỏ ý không tán thành lời bào chữa cho một kẻ đã phạm tội cướp của lại toan cưỡng hiếp nạn nhân và cho rằng mức kêu án 7 năm tù đối với y là nhẹ quá.
Ở mục “Học người xưa”, Hải Ðường kể tích Lạn Tương Như và Liêm Pha “vì lợi nước bỏ thù riêng”.
Ở mục “Việc làng ta”, Tường Vi hỏi: sau góp ý của văn nghệ sĩ và dư luận, số phận giải thưởng văn học 54-55 liệu có thay đổi gì không? Nhất là đối với tập bút ký Nam Bộ mến yêu của Hoài Thanh và tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu? Cạnh đó là thông tin: Văn phòng Thủ tướng phủ gặp đại diện báo Nhân văn, khẳng định báo này có khuyết điểm trong việc chấp hành thể lệ lưu chiểu, việc sở báo chí cảnh cáo báo này là đúng, tuy lẽ ra chưa đến mức nên đăng công khai lên báo.

Số này có 2 biếm hoạ, một tả thủ trưởng nói với vợ một cán bộ dưới quyền: thằng bé gầy thế, sao không mua nhung Liên Xô cho nó uống? Trả lời: lương chồng tôi ít quá lại đông con; một nữa vẽ cặp vợ chồng ngồi ghế công viên, thấy bọn trẻ đốt pháo “tạch tạch sè” chột dạ mình là tiểu tư sản, bảo nhau ngồi xa nhau ra!
Số 7 Trăm hoa loại mới (chủ nhật 9/12/1956), về sáng tác báo đăng bài thơ “Tỉnh giấc chiêm bao” của Nguyễn Bính, truyện ngắn “Tư Mã Thiên bất mãn” của Quách Mạt Nhược do Ðỗ Quyên dịch, và một bản dịch thơ Ðường.
Ở mục “Việc làng ta” có bài “Một vài nhận xét về Tuyển tập thơ Việt Nam 1945-1956” của Lưu Thuỷ. Tác giả khen những bài được tuyển như “Cô lái đò” của Lương An, “Bên kia sông Ðuống” và “Tâm sự đêm giao thừa” của Hoàng Cầm, “Hoa lúa” của Hữu Loan, “Trưa hè” của Nguyễn Bính, “Cha tôi” của Lê Ðạt, “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Lại về tỉnh nhỏ” của Yến Lan, lại dẫn ý kiến một người khác cho rằng tuyển tập này “thiếu đoàn kết, chỉ đăng thơ của những anh em kháng chiến và hầu hết ở trong biên chế”; riêng người viết bài này cho “vấn đề là có bao nhiêu bài thơ hay bị bỏ quên và có bao nhiêu bài thơ dở choán chỗ không hợp lý trong tuyển tập”, “cái dở của một số thơ cũng như số lượng thơ dở trong tuyển tập nó rõ rệt quá làm cho vấn đề trở thành dư luận rộng rãi”, “đã gọi là một tuyển tập mà bài dở nhiều, bài hay ít, thì chữ tuyển tập thành ra vô nghĩa”.
Mai Sinh trong mục “Nói gần nói xa” nhắc ngành mậu dịch giữ bình ổn giá cả diêm, rượu, thuốc lào, thuốc lá trong dịp Tết sắp đến cho dân nhờ.
Biếm hoạ của Văn Tôn tả anh chàng người lảo đảo, miệng há hốc, mặt tái xanh như bị trúng gió vì vừa chen mua hàng mậu dịch.
Phần thời sự chính trị in lại bài “Nói để xây dựng” đã đăng số trước nhưng nhiều chữ mất dấu khó đọc; cạnh đó cũng đăng tiếp 2 phần cuối bài ký Trăm Hoa nhan đề “Ðể phát triển chế độ: 2. Vai trò của nhân dân trong việc xây dựng và phát triển chế độ ta; 3. Mấy vấn đề cần giải quyết”. Bài báo nêu nhiệm vụ nâng cao nhận thức của nhân dân về vai trò của mình đối với xã hội, mở rộng dân chủ cho nhân dân, nhấn mạnh vai trò của báo chí. “…Việc xây dựng một chế độ pháp trị dân chủ, cải tiến các cơ quan nhà nước và không ngừng mở rộng mối liên hệ giữa nhà nước với nhân dân, kết hợp với việc sửa sai trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, trong công tác kinh tế tài chính, v.v… là những yếu tố chính bảo đảm về chính trị và tổ chức để nhân dân tham gia quản lý và kiểm soát tích cực mọi công việc nhà nước”.
Số 8 Trăm hoa loại mới (chủ nhật 16/12/1956) được gọi là “Số kỷ niệm Toàn quốc Kháng chiến”, đăng ở trang nhất bài của Thạch Lựu nhan đề “Báo Nhân văn nên thành khẩn tự phê”. Bài báo nói việc phê bình phản đối báo Nhân văn hiện lúc ấy đương là phong trào quần chúng sôi nổi, từ bản kiến nghị của 500 công nhân các nhà in đến các bản kiến nghị, thư của các ngành các cơ quan đến các bài trên các báo, các cuộc họp tại các khu phố, “đã phân tích phê phán và vạch rõ ràng đầy đủ từ nét lớn tới chi tiết những khuyết điểm căn bản, những tư tưởng lạc hậu, lối đả kích thiếu xây dựng, những sự việc vu khống xuyên tạc chế độ của báo Nhân văn”, “điều quan trọng ngay bây giờ không phải là việc báo Nhân văn có ra nữa hay không, những người phụ trách báo Nhân văn có bị truy tố, bị tội tình nặng nhẹ gì không. Ðiều quan trọng ngay bây giờ là ở chỗ báo Nhân văn có nhận thấy sâu sắc những sai lầm của mình, những tai hại do mình gây ra hay không, mức tiếp thu ý kiến xây dựng của quần chúng đến đâu. Và báo Nhân văn có đủ dũng cảm thành khẩn tự phê bình công khai trước nhân dân trước Ðảng và Chính phủ hay không?”
Số này dành toàn bộ mục “Nói gần nói xa” đăng kiến nghị chung của 44 đoàn viên Công đoàn vụ Tổ chức bộ Thương nghiệp (gửi Quốc hội, Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc) tố cáo báo Nhân văn (gieo rắc tư tưởng lạc hậu, gây bi quan hoài nghi chế độ ta, khuyến khích những hành động tự do vô kỷ luật; lợi dụng chủ trương mở rộng dân chủ, bịa đặt một số việc không có thật, xuyên tạc một số sự việc khác, thổi phồng một số khuyết điểm nhỏ để đả kích vu cáo các cơ quan lãnh đạo của Ðảng, chính quyền, quân đội, văn nghệ, công an, mậu dịch, v.v…; gây nghi ngờ các nước bạn, xuyên tạc tình hình Hungary…; giúp cho địch tuyên truyền vu cáo phá hoại ta, làm mất uy tín Ðảng, chính phủ và chế độ ta), kiến nghị: đình chỉ cho xuất bản báo Nhân văn, đưa báo này ra trước dư luận và pháp luật để trừng trị thích đáng, kiến nghị ra một đạo luật “đảm bảo quyền tự do báo chí của nhân dân đồng thời ngăn cấm những hành động lợi dụng tự do ngôn luận để xuyên tạc, gieo rắc tư tưởng lạc hậu, hoài nghi, chia rẽ, kích thích những hành động vô kỷ luật có lợi cho địch v.v. như trường hợp báo Nhân văn.
Về sáng tác số này đăng thơ Hữu Loan “Tâm sự Thủ đô”, bài thơ viết ngày kháng chiến “Phá đồn giặc” của Nguyễn Bính, truyện ngắn “Sẵn sàng tha thứ cho em” của Trúc Ðường, truyện hài hước “Sách dạy gửi thư theo lối mớI” của Chekhov do Triêu Dương dịch.
Mục “Học người xưa” kể chuyện vua U Vương nhà Chu chiều ý mỹ nhân cho đốt đuốc trên chòi canh khiến lệ báo động chư hầu đến cứu nguy bị mất tác dụng.
Ở trang thời sự xã hội số này Trăm Hoa có bài “Phải làm gì để cải thiện đời sống nhân dân?” Cạnh đó là thơ vui của Mai Sinh về giá bán thuốc lá Trung Quốc ở Hà Nội lúc ấy:
Nghe nói rằng bên quê bác Mao
Tính ra ba bốn trăm một bao
Hà Nội-Bắc Kinh xe lửa suốt
Về đây sao giá vọt lên cao...
Số này bắt đầu công bố kết quả cuộc thi “hoạ thơ cảnh giác” do báo Trăm hoa tổ chức.
Số 9 Trăm hoa loại mới (chủ nhật 23/12/1956) đăng ở trang 1 bài “Nói và làm” của Thạch Lựu. “Ai chả nói được rằng tôi yêu nước. Ai chẳng nói được rằng tôi vì dân. Ai chẳng nói được rằng tôi chịu sự lãnh đạo của Ðảng, theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhưng chỉ căn cứ vào việc làm, người ta mới có thể xác định được rằng ai yêu nước ai không yêu nước, vì nhân dân hay chỉ vì cá nhân mình? Có theo đúng đường lối của Ðảng, có thực hành đúng chủ nghĩa Mác-Lênin hay không?”
Ở mục “Ðọc sách báo” có bài của Trần Nguyên “Phê bình Ðất mới tập I”. “Ðất mới chỉ chứa đựng một mớ hằn học, ghen tuông, xuyên tạc đến trắng trợn sự thật trong phạm vi nhà trường đại học của chúng ta. Ðất mới thực ra chỉ là một miếng “đất cũ” xác xơ cằn cỗi đến thảm hại, mọc lơ thơ dăm ba bông hoa độc trái mùa. Không những không phản ánh trung thực được phong trào sinh viên hiện nay, những tác giả viết trong Ðất mới còn dụng tâm đưa ra một số sự việc đã cũ, thổi phồng lên, bóp méo đi, khoét sâu thêm, hòng gây cho người đọc một ấn tượng đen tối và những nhận xét sai lầm về chế độ đại học của chúng ta. Ai chưa biết gì về trường Ðại học Việt Nam (dân chủ cộng hoà) đọc Ðất mới sẽ phải nghĩ rằng trong cái khu vườn ươm nhân tài đất nước đó chỉ toàn có chuyên chính, độc tài, đảng trị khắt khe, bè phái nhũng lạm, tình yêu bị cướp phá, nhân tài bị vùi dập, hơn 300 sinh viên hiện đương sống ở đấy như trong một ngục tù ngột ngạt có bàn tay sắt (của Ðảng) lúc nào cũng thò ra để bóp nghẹt hết tiến bộ, hết hạnh phúc, tương lai. Qua những sự việc kể ra trong Ðất mới (cấp phát học bổng, thi tốt nghiệp, tham gia đấu tranh chính trị ở Thanh Hoá năm 1952, chế độ đảng trị, lịch sử một câu chuyện tình, chuyện Phùng Quán hỏng thi) ta thấy rõ rệt một điều: nội dung các bài viết chỉ cố moi móc một số khuyết điểm và nhược điểm của những người lãnh đạo sinh viên (giáo sư Trần Văn Giàu, hiệu đoàn trưởng, phó, trưởng ban tuyên huấn, bí thư…) nhằm mục đích chĩa mũi dùi công kích vào Ðảng lãnh đạo, tức là đánh thẳng vào chế độ nhà trường đại học của chúng ta nói riêng, vào chế độ dân chủ cộng hoà của chúng ta nói chung.”
Số này dành toàn bộ mục “Nói gần nói xa” đăng những kiến nghị và thư từ phản đối báo Nhân văn. Bản tuyên bố của 180 nhà báo ở Hà Nội đòi báo Nhân văn phải chấm dứt ngay thái độ và phương pháp tuyên truyền xuyên tạc. Bản tuyên bố của các nhà văn hiện ở Hà Nội ký tên Tô Hoài, Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Võ Huy Tâm, Nguyễn Bính, Học Phi, Hoàng Trung Thông, Hoa Bằng, Mộng Sơn, Vân Ðài, Bùi Hiển, Nguyên Hồng, Thanh Tịnh, Ðào Vũ, Nguyên Ngọc, Bửu Tiến, Ðặng Thai Mai, Từ Bích Hoàng, Phạm Hổ, Trần Huyền Trân cho rằng những quan điểm nghệ thuật và xu hướng khác nhau, giá trị của những tác phẩm đã đăng trên Nhân văn là những điều còn phải thảo luận lâu dài, nhưng những vấn đề chính trị bộc lộ trên Nhân văn thì tỏ rõ là khuynh hướng xấu và có hại, cần nghiêm khắc đấu tranh ngăn chặn. Tuyên bố của những người công tác văn nghệ Liên khu 5 ký tên Nguyễn Văn Bổng, Y Yôn, Khương Hữu Dụng, Phan Huỳnh Ðiểu, Vân Ðông, Trinh Ðường, Tế Hanh, Nguyên Hồ, Phạm Hổ, Hoàng Châu Ký, Hoàng Kiệt, Nguyễn Lai, Nguyễn Viết Lãm, Yến Lan, Vương Linh, Nguyễn Thành Long, Nguyên Ngọc, Phan Thao, Ngô Thông, Nam Trân, Nguyễn Nho Tuý, Nguyễn Văn Song “…nhận thấy báo Nhân văn có nhiều tac hại về chính trị (…) chúng tôi, những người yêu chân lý và tha thiết với việc xây dựng và bảo vệ chế độ tốt đẹp của chúng ta, kiên quyết đòi báo Nhân văn phải chấm dứt ngay thái độ sai lầm có hại cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà”. Bản tuyên bố của các bạn văn nghệ Nam Bộ cho biết có 235 bạn văn nghệ Nam Bộ hiện có mặt ở Hà Nội đã ký vào tuyên bố này, cho rằng “…báo Nhân văn chỉ lấy khuyết điểm làm đề tài, và lúc nói khuyết điểm lại có nhiều chỗ xuyên tạc sự thật”, “báo Nhân văn là một phương tiện để cho địch lợi dụng gây sự hiểu lầm miền Bắc, gây chia rẽ Bắc-Nam”, “chúng tôi phản đối thái độ không xây dựng của báo Nhân văn và đòi Nhân văn chấm dứt ngay thái độ có hại ấy”.

Về sáng tác số này có 2 bài thơ: “Chim thêu” của Nguyễn Bính và “Bút tung hoành” của Võng Xuyên, và phần tiếp truyện ngắn “Sẵn sàng tha thứ cho em” của Trúc Ðường.
Trang xã hội đăng tiếp (kỳ 2) bài “Phải làm gì để cải thiện đời sống nhân dân?” của Trăm Hoa; cạnh đó là bài thơ vui “Tự thán thuốc lào đắt”.
Số này cũng tiếp tục đăng các bài trúng giải cuộc thi hoạ thơ “cảnh giác” của báo Trăm hoa.
Số 10 Trăm hoa loại mới (chủ nhật 30/12/1956) ở trang 1 có bài của Thạch Lựu “Nguyện vọng thiết tha, chân chính”, bày tỏ sự tin tưởng và hy vọng vào kỳ họp thứ 6 của Quốc hội (họp từ 29/12/1956).
Chen giữa bài này cũng trên trang 1 là biếm hoạ vẽ người có hai đầu “một cái quái thai nịnh trên nạt dưới”.
Số này dành toàn bộ mục “Nói gần nói xa” cho bài của Trần Nguyên, hoan nghênh sắc lệnh số 282 của Chủ tịch nước ký ngày 14/12/1956, quy định chế độ báo chí… “Bản sắc lệnh này định rõ tính chất và nghĩa vụ của báo chí dưới chế độ của ta. Báo chí phải là một công cụ đấu tranh của nhân dân, phải phục vụ quyền lợi của tổ quốc, phải bảo vệ chế độ của chúng ta và ủng hộ chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà”, “điều thứ 9 có định rõ báo chí không được tuyên truyền chống pháp luật của nhà nước, chống đường lối chính sách của chính phủ, viết bài có tính chất chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại chính quyền, chia rẽ nhân dân và chính quyền, nhân dân và bộ đội”; “báo chí không được tiết lộ bí mật quốc gia, không được tuyên truyền dâm ô, trụy lạc, đồi bại”.
Về sáng tác số này có bài thơ “Xuống trần” của Nguyên Thuỷ và 3 bài thơ “Cây giang xanh vỏ”, “Gác đêm”, “Nếu cần em cứ gọI” của Phác Văn, truyện ngắn “Chiếc hôn đầu” của nhà văn Tiệp Lu-i A-sơ-kê-na-si (?) do Mai Thúc Luân lược dịch.
Trang bạn đọc đăng bài của Hoàng Ðình Kính ở Hải Phòng về tập sách Ðất mới tập 1. “Một số bài đăng trong Ðất mới như bài của Bùi Quang Ðoài, của Q. Ngọc và T. Hồng đều không ít thì nhiều có những luận điệu giống như luận điệu của Giai phẩm và Nhân văn”; “Tóm lại Giai phẩm, Nhân văn, Ðất mới lần lượt ra đời và toàn nhìn xã hội bằng con mắt của những người bất mãn, ghen ghét, đố kỵ; đọc trong ba thứ sách báo đó người ta có cảm tưởng rằng từ khi có chế độ dân chủ cộng hoà đến giờ, Ðảng và Chính phủ không lãnh đạo được nhân dân làm được việc gì ích quốc lợi dân cả, xã hội ta toàn những chuyện ngửa nghiêng đen tối, cơ hồ khó có thể vững vàng được”.
Cạnh đó là bài hoạ thơ “Thuốc lào đắt tự thán” đăng kỳ trước.
Số 11 Trăm hoa loại mới (chủ nhật 6/1/1957) dành phần lớn số trang đăng báo cáo của Ban Thường vụ Quốc hội tại kỳ họp thứ 6, diễn văn của Hồ Chủ tịch chào mừng Quốc hội.
Về sáng tác số này có các bài thơ “Tôi tìm em” của Tạ Hữu Thiện, “Mưa rừng” của Hoàng Yến, dịch thơ “Ðộc toạ Kính Ðình sơn” của Lý Bạch, truyện ngắn “Nhớ nhà” của Ðỗ Văn; ngoài một vài biếm hoạ nội bộ và đả kích Mỹ-Diệm, số này dành nhiều chỗ quảng cáo cho Trăm hoa Xuân sẽ phát hành ngày 23 Tết âm lịch.
Số Tết Đinh Dậu (thay cho các số 12, 13, 14) tức là Trăm hoa Xuân có các bài chính: “Mùa xuân năm nay” (xã luận của Thạch Lựu); “Ðầu năm xông các báo, hay là một giấc mơ xuân” (phóng sự hư cấu của Tường Vi); “Tình quê”, “Mùa xuân xanh” (hai bài thơ Nguyễn Bính); “Cùng lứa tuổi” (bút ký viết 1947 của Tô Hoài); “Bên đường chiến khu” (thơ, viết 1948 của Yến Lan); “Theo thời” (truyện ngắn của Ðoàn Giỏi); “Chấp một xe” (truyện vui của Trúc Ðường); “Tình luỹ tre xanh” (thơ của Văn Tôn); ngoài ra còn có dịch thơ Ðường, thơ vui Khấn Táo quân, hoạ thơ Thuốc lào đắt, tranh vui, nụ cười. Trăm hoa số này đăng thể lệ cuộc thi câu đố và câu đối đầu xuân. Với thông báo sắp tới Trăm hoa sẽ đăng đều kỳ bản dịch tiểu thuyết Trung Hoa Hồng lâu mộng, số này trích đăng bài của Ðặng Thai Mai (đã đăng Tập san Ðại học sư phạm số 2, tháng 6&7/1956) về những tranh luận gần đây ở Trung Quốc xung quanh tác phẩm này.
Số 15 & 16 (không đánh số, ra sau số Tết Đinh Dậu) tức là Trăm hoa số đặc biệt đầu Xuân đăng một số sáng tác như “Xuân nhớ”, thơ Nguyễn Bính; “Quản ThổI”, truyện ngắn của Phùng Cung; “Mỗi khi vò trang lịch”, thơ của Tạ Hữu Thiện; “Cô đào hát”, truyện ngắn, dịch của Ê-ren-bua; “Chiếc quả sơn”, thơ Yến Lan; “Lên xe xuống ngưạ”, truyện ngắn của Trúc Ðường; ngoài ra còn có: dịch thơ Ðường, thơ đả kích Ngô Ðình Diệm, tranh hài hước, v.v…
Bài “Kính cáo bạn đọc” của Trăm Hoa cho biết dự định thay đổi nội dung và hình thức tờ báo từ số đầu xuân này đã không thể thực hiện được vì báo gặp quá nhiều khó khăn (giá giấy vốn cao, giá in lại lên cao, giá sinh hoạt và tiền thuê nhà đắt đỏ, các nhà in đều bận những công việc được đặt trước, Trăm hoa không có nhà in riêng, khó tìm được nơi nhận in cho mình báo hằng tuần, việc phát hành cũng gặp thêm nhiều trở ngại…), vì vậy để Trăm hoa khỏi bị gián đoạn, sau số đầu xuân này Trăm hoa sẽ chuyển thành tạp chí mỗi tháng một số, mỗi số khoảng 60 trang, đăng trọn 1-2 tác phẩm thơ, truyện ngắn thật có giá trị.
Tất nhiên đây chỉ là dự kiến thuần túy. Trên thực tế, tuần báo tư nhân Trăm hoa kết thúc ở đây.
30/12/2005
Lại Nguyên Ân
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một chuyến hoa xuân

Một chuyến hoa xuân Nhà văn trẻ Trác Diễm vừa trở thành hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Chị sinh năm 1988 ở Quảng Bình, bắt đầ...