Nguyễn Bính
Nhà thơ Thâm Tâm giới thiệu cho tôi quen với Nguyễn Bính. Những
năm ấy Nguyễn Bính đã được giải thưởng thơ Tự lực Văn đoàn và đương đăng nhiều
thơ trên tuần báo Tiểu thuyết thứ năm. Tôi chỉ mới viết vài truyện ngắn đầu
tay.
Ở cái nghề báo, nghề văn bát nháo hội này, lắm người vừa cầm bút, lại làm
áp-phe, làm du côn, vay chẳng, chơi bừa, tống tiền, ăn tiền mật thám, người ở lẫn
với ma, người nửa người nửa ma, không biết thế nào, cho nên cách người ta làm
quen với nhau cũng lắm sự lạ. Có thể trông thấy thì quay mặt đi, lỉnh ngay. Có
thể khệnh khạng không thèm giơ tay đáp lễ. Có thể xông luôn đến cho một cú
“thôi sơn” quai hàm, mạng mỡ. Lại có thể sụp xuống, chắp tay “đại huynh mới là
thiên tài, hân hạnh... hân hạnh...”. Tôi biết như thế thôi. Chứ tôi mới cầm bút,
được làm quen với một bạn viết nào cũng là điều mình mong mỏi. Và với Nguyễn
Bính, cũng thấy dễ chịu ngay, anh nhà thơ này dường như cũng tàng tàng, cảnh
mình.
Còn nhớ Nguyễn Bính mặc bộ quần áo Tây trắng đã tã, gấu quần và ống tay áo lờm
xờm như tóc tai, anh không cắp mấy quyển sách gì đó như mốt của những người viết
trẻ lúc ấy. Nguyễn Bính lại còn cầm một hộp sắt Tây màu đỏ lựu - cái hộp đựng
bánh bích quy.
Nhưng đây là cái hộp không đựng bánh. Những chiếc hộp này và những cái vỏ chai
thường thấy các bà “chai bao chè đồng nát” mua ở các nhà Tây vứt đi, bồi bếp nhặt
bán rồi người ta quảy đi bán rong ở các phố ta.
Tôi chưa hiểu Nguyễn Bính có cái hộp bích quy đựng gì.
Bắt tay rồi, Nguyễn Bính hỏi tôi: “Này, có tiền không?”
Như đã biết nhau từ bao giờ. Tôi cảm động được anh hỏi han thân tình như thế.
Tôi mỉm cười. Thế là, cũng chẳng đợi tôi trả lời, có lẽ cái cười hiền lành của
tôi đã khiến anh thấy tôi sẵn sàng, anh sai luôn: “Vào nhà bánh giò Đờ-măng chỗ
kia, mua dăm chiếc nhé, năm chiếc cũng không thừa đâu. Từ sáng, tớ chưa được miếng
nào vào bụng.”
Hàng bánh giò ngon có tiếng, ở xế cửa toà báo hàng ngày Trung Bắc tân văn gần
vườn hoa Cửa Nam, bên cái nhà gì của Tây mà người ta gọi là nhà “Đờ-măng” và
cũng thành tên hàng bánh giò cạnh đấy.
Nhưng cũng không phải Nguyễn Bính không có đồng nào trong túi. Buổi trưa oi nắng
ấy, chúng tôi đem cả xâu bánh rúc vào một tiệm thuốc phiện đầu phố Nhà Hoả.
Nguyễn Bính và Thâm Tâm không ai nghiện, nhưng đi hút, đua đòi đi hút cũng là một
thói của thời thượng. Chúng tôi đánh trần ra, ngồi chầu rìa quanh tấm phản gỗ
trong bóng tối ẩm thấp trần nhà bọc nhật trình thấp gần đụng đầu của cái tiệm
hút cà khổ, vắng ngắt, thế mà dường như chẳng ai biết nóng bức thế nào. Kéo
xong một điếu, Nguyễn Bính nằm gối đầu lên chiếc hộp bánh quy, mắt môi nhẫy
lên, rợn như mắt mèo.
Chỉ một lát sau, tôi đã biết được sự tích cái hộp bánh quy, khi Nguyễn Bính ngồi
lên, vuốt ve, xếp đặt lại các thứ trong ấy. Đấy là bản thảo những bài thơ của
anh và những bức thư tình, một hộp thư tình. Tờ trắng, tờ xanh, vết tay mồ hôi
mờ đọc đi đọc lại đã về vệt cả. Bao nhiêu thư của một mối tình, của những mối
tình, anh xếp chật cái hộp. Có điều chắc chắn đấy là những cái thư cũ và những
người ta ở những đâu đâu ấy đã “cho rơi” anh rồi. Chỉ còn lại những lá thư
trong hộp. Cơ chừng, mỗi lúc canh tàn rượu tỉnh, lại lôi những của oan trái giời
ơi trong cái hộp gối đầu ra.
Bây giờ nghĩ lại những ngày ấy, đứng ở góc nào mà ngẫm, khi vui khi buồn cũng
thế, chỉ rặt một màu ảo não, mặc dầu khi đó chúng tôi đương vào lứa tuổi đôi
mươi và mỗi bài thơ, cái truyện ngắn viết ra, các “thiên tài” lại bốc nhau lên
mây, mặc dầu những cuộc chơi nghiêng lệch cả đêm ngày, bằng tiền của ai không
biết, như lũ thiêu thân lao vào ánh đèn, chúng tôi đi, cứ đi, không biết đi đến
đâu, bởi chẳng biết đi đến đâu cả. Không phải tôi nói bóng gió cao xa về sự
nghiệp, về lý tưởng mà tuổi trẻ đi tìm. Tôi chỉ so sánh mọi việc bình thường ở
mỗi con người. Người ta tuổi đương độ, ai mà chẳng ao ước được sống tử tế, trai
có vợ, gái có chồng. Nhưng, với biết bao người, đấy chỉ là cơn mộng. Không biết
nhà thơ Nguyễn Bính tích được đến mấy chiếc hộp sắt đựng thư và thơ tình của những
ai ai đã tơ vương với anh, để anh cắp nách cả cái hộp kỷ niệm tha đi từ Bắc vào
Nam, nhưng suốt một thời thanh xuân, tôi cũng chưa thấy anh một lần nào lấy vợ.
Dẫu cho những bức thư tình kia là những bằng chứng sống về lời thề sông cạn đá
mòn, có lúc doạ cắt tóc đi tu và uống thuốc phiện dấm thanh cho chết, nhưng chẳng
có người con gái nào yêu thơ rồi say mê người làm thơ đến bỏ nhà đi theo không.
Còn anh chàng thì không làm sao lo nổi tiền cưới, ở cái thời mà những thói tục
phiền nhiễu và đồng tiền to hơn nghìn vạn lần tình cảm và tóc thề, trăng thề của
con người.
Tôi nghĩ mãi cũng không ra được câu trả lời nào khác hơn là đem cái kết luận
dung tục, phũ phàng kia mà phủ lên những mối tình xếp vào hộp gối đầu của kẻ si
tình. Nhưng mà tuổi trẻ vẫn nhởn nhơ những gặp ai tìm ai. Chán nằm trong cái
ngõ Sơn Nam tiểu thuyết Sau ánh sáng nhà Trần Huyền Trân chỗ Cống Trắng
Khâm Thiên, lại xuống ăn báo một người bạn chài lưới yêu thơ ở đầm Linh Đường,
rồi đến nhà Chu Ngọc “mà ai cũng tá túc được” ở phố Hàng Đồng, rồi có khi kéo
lên Nghĩa Đô. Những lúc ấy túng bấn nhất. Chơi bời có bao nhiêu, nhưng ở đâu
cũng không vùng vẫy khỏi cái cảnh tương tự ngày ngày ra bờ sông Tô Lịch mua xu
rau muống, có hôm xin được mớ rau của cô bơi thúng hái rau sinh hảo tâm bởi đã
thuộc lòng cả bài “Lỡ bước sang ngang”.
Mà mải mê đến thế. Tối đến, hình như mọi việc mới bắt đầu. Chúng tôi với Cương
và Lập mấy anh em trai làng lại nhởn khắp vùng đến rạc cẳng. Các làng Bưởi làm
nghề giấy, từng dãy tàu seo đêm seo đèn, từ dọc bờ sông vào suốt dãy làng Đông
sang Cầu Sau, ra Hồ Tây. Ánh đèn quang treo giữa lều tàu, những cái đèn chai
xách lúc hết seo, như đom đóm bay. Những chàng trai, những Cương, Lập và cả Nam
Cao ló mặt ra trong ánh đèn thấp thoáng, tiếng cái khuôn liếm khua vào thành
tàu đã kiệt nước đổ rả rích lẫn liếng cười canh khuya, như xé cơn buồn ngủ của
những cô thợ seo. Chỉ có thế mà cứ săn đón nhau suốt, đêm nào cũng như đêm nào.
Lại nhớ những hôm rét mướt vào áp Tết, chúng tôi chen chúc ngồi đánh tam cúc
trong ổ rơm. Đánh chơi ăn đẹt mũi, búng tai mà thôi. Những cô Tý, cô Mơ, cô Hứa
- gái làng canh cửi, thuộc Kiều lại cũng thuộc cả “Lỡ bước sang ngang”. Khi cười
thì cười ngặt nghẽo tít con mắt lá dăm. Tưởng như dứt cơn cười, những cô gái đa
tình ấy vứt cả lồng tơ khung cửi mà đi theo cái anh làm thơ tài đến thế. Nhưng
cũng chỉ vậy thôi.
Những ngày lang thang, những thất vọng và vô vọng bất đắc dĩ. Ở đâu cũng thế. Lại
cái lần đi Sài Gòn với Vũ Trọng Can tìm Nguyễn Bính - lại “chữ một đi không bao
giờ về”. Chẳng phải qua sông Dịch đâm chém ai đâu. Ấy mượn câu thơ xưa để nói
bóng cho đẹp và buồn cái nỗi chỉ xoay được tiền vé tàu hoả đủ suất vào đến Sài
Gòn mà thôi.
Có lẽ đây là một việc làm ngỗ ngược và ngây ngô nhớ đời, mà ý nghĩa của nó thật
bao thảm thương.
Ở trên tàu bước chân xuống ga xe lửa Mỹ giữa thành phố. Chẳng có người quen đến
mức phải ra ga đón và trong túi không đứa nào còn một xu. Chợ Bến Thành với cái
bãi bùng binh trước mặt, người ăn uống rào rào như tăm ăn rỗi. Làm thế nào được
bây giờ? Rồi tìm được Nguyễn Bính. Nhưng cũng đương ăn nhờ ở đậu.
Vũ Trọng Can nghĩ ra một kế hay hay. Mắt anh trố ra, ngơ ngác một cách hồn
nhiên.
“Ờ mà phải như thế. Sẽ làm ra tiền, có tiền hẳn hoi. Chúng ta sẽ diễn thuyết
thu tiền nhé. Đúng, diễn thuyết thu tiền. Cả ba thằng lần lượt sẽ diễn thuyết.
Tổ chức diễn thuyết thu tiền người đến nghe. Được lắm chứ.”
Nguyễn Bính hay cợt nhả, như thói quen của anh:
“Ừ, cũng được, như đi hát xẩm. Không phải xẩm mù, mà xẩm chợ, xẩm sáng. Còn thiếu
cái nón, cái nón ngửa ra, hay là làm cái nong cho người ta ném tiền thưởng
vào.”
Vũ Trọng Can không chấp câu mỉa mai, lại hăng hái hơn:
“In vé, in vé. Ta sẽ bán vé. Có người bán vé cẩn thận. Một công việc lương thiện.’’
Vũ Trọng Can còn cắt nghĩa nhiều lần, trong khi chúng tôi không tỏ ra vồ vập,
cũng không phải là ngãng ra. Viết sách, viết báo, bán chữ lấy tiền, thì người
ta có thể bán nói. Thế rồi làm thật. Vũ Trọng Can đã tìm được một người bạn
làng, anh Nguyễn Văn Tập. May mắn sao anh Tập đã sốt sắng tận tình lo liệu cho
cuộc diễn thuyết kiếm ăn này. Một tập vé từng tờ con con như cái vé chợ, vé xe
điện. Trong đó là những hàng chữ in: “Sáng ấy... sáng ấy…, từ giờ…, tại rạp
Thành Xương, văn sĩ Vũ Trọng Can, tác giả truyện ngắn “Màu hoàng yến’’ đã đăng
trên báo Ngày nay của Tự lực Văn đoàn, mới ở Hà Nội vào nói chuyện về...
Kính mời... Giá vé...”.
Nơi diễn thuyết tại rạp Thành Xương mới ghê! Tuy vậy, những rạp hát vào buổi
sáng thường bỏ không. Giá thuê rạp chẳng bao nhiêu. Nhưng bởi vì chẳng có cách
nào - nghĩa là không đào đâu thêm tiền, cho nên không thể thuê đăng báo hay in
cáo bạch. Chỉ viết được hai tờ quảng cáo rồi thuê chỗ mà dán vào tấm bảng gỗ cổng
rạp và ở bùng binh cửa chợ. Trước giờ sớm hôm ấy, mỗi người chúng tôi cầm một nắm
vé, đi các phố xung quanh, từ đường Ga-li-ê-ni sang ga xe lửa, chợ Bến Thành,
đường Ét-banh, hễ thấy người nào ăn vận vẻ chững chạc dân thày, bèn chìa xếp vé
ra: “Mời thầy đi nghe diễn thuyết... Văn sĩ... Giá vé một cắc, có một cắc thôi
mà... Xin mời...”
Tôi không thể hình dung lại được cái quang cảnh cuộc diễn thuyết lấy tiền có một
không hai này ra thế nào. Cả đến hôm ấy Vũ Trọng Can nói những gì, cũng không
nhớ. Nhưng tôi lại nhớ như nguyên vẻ lộn xộn từ hăng hái đến rầu rĩ của luôn mấy
hôm. Chúng tôi chia ra, người đứng cửa bán vé, người soát vé, người mời khách
vào. Diễn giả ra đứng ngay trước cửa, tóc chải bi-ăng-tin uốn lượn, thắt chiếc
cà-vạt màu hoàng yến. Từ ngày Vũ Trọng Can có cái truyện “Màu hoàng yến’’ đăng
báo, anh hay đeo cà-vạt màu hoàng yến, mỗi lần lại phải đi mượn, mà cũng cứ cầu
kỳ khó nhọc thế.
Diễn thuyết bán vé, kể cũng thật lạ và hình như chẳng mấy người, bước vào. Ở
nách rạp Thành Xương có cái trường nữ học, Nhật đã đóng, có lính nguỵ Ấn gác cổng
mà người ta gọi là lính oẳn Bô [1] . Hai người lêu đêu mặt bồ hóng, đầu quấn
khăn thừng, tay cầm chiếc côn gỗ, thơ thẩn nhìn người qua lại. Người đi chợ,
người đi đường tò mò xúm xem mấy “anh chín” quấn thừng có phần đông hơn người
vào rạp. Chốc chốc, hai cái đầu xe lửa kéo lũ toa ngược xuôi chạy rầm rầm ngoài
kia.
Tôi chỉ nhớ bằng cái cảm tưởng nhộn nhạo buồn bã như thế. Không nhớ được hôm ấy
đông hay vắng, vé còn ế một xấp hay mấy xấp. Nhưng không bao giờ có buổi diễn
thuyết thứ hai, thứ ba mà chúng tôi cũng phải đăng đàn như Vũ Trọng Can đã dọa.
Chỉ một buổi ấy thôi, một buổi ấy thôi. Đấy cũng là một điều quả nhiên không
vui vẻ như ý rồi.
Chỉ đi ăn vài bữa cơm thố, bấy giờ cơm thố còn là loại cơm mạt hạng rẻ nhất như
cơm đĩa bây giờ, lại đã hết tiền. Ngày ấy, cạn túi lắm mới phải đi quán cơm thố
của mấy chú chiệc Chợ Cũ. Cơm thố chưa cầu kỳ lắm món. Có một xu cơm ca la thầu
với nửa xu canh cải cúc - như hàng cơm đầu ghế ở các cổng chợ ngoài Hà Nội.
Thế rồi chúng tôi lại chia tay. May mà cũng êm ả, không có xô xát, cũng không
cãi cọ to tiếng cấu xé nhau, đánh nhau như thường cái cảnh bè bạn mỗi người mỗi
ngả khi đương cơn túng bấn.
Vũ Trọng Can và tôi lại trở ra Hà Nội.
Nguyễn Bính trôi nổi trong ấy cho tới 1945 rồi đi kháng chiến.
Năm 1976, tôi trở lại Sài Gòn. Năm ấy anh Nguyễn Văn Tập còn sống, anh vẫn
nghèo, làm ăn nhì nhằng như ngày trước. Tình cờ, tôi đi nhậu với Nguyễn Quang
Sáng và Đoàn Minh Tuấn. Gặp anh trong cái quán thịt chó gần chợ Đũi mỗi tuần chỉ
bán có ba buổi ở hẻm đường xe lửa của một bà già người Bắc xưa kia làm ả đào,
anh Tập ngồi ăn một mình, cái ô đen dựng cạnh bàn, anh móm hết răng, chỉ còn
nhai bằng lợi được món ăn dựa mận quá lửa. Tôi hỏi vui về cái ngày anh in vé
giúp cho Vũ Trọng Can diễn thuyết tang thương ấy. Cũng là bên chén rượu, hoài cổ
chơi thôi.
Anh lắc đầu, anh nói anh chẳng nhớ. Có lẽ anh vẫn nhớ - trí nhớ người ta khi trẻ
thường nhớ dai, nhưng dường như anh không muốn nhớ; chẳng còn hào hứng nói lại
nữa. Cũng như những chuyện bông lông chìm nổi như trên về Nguyễn Bính có thể kể
hết đêm, trời sáng rồi trời lại tối, câu chuyện lại bắt đầu, những thương đau của
đời người trong xã hội ấy bao giờ cạn được.
Chỉ biết cái thời ấy nó thế. Muốn có miếng cơm tử tế mà không được, muốn yên
thân cũng không thể yên. Chứ đâu phải bệnh giang hồ - đấy là những lời đẹp tự
trang trí hoa mỹ mà thôi. Chúng tôi chưa ai nghĩ có khi nào có thể có một cái
xe đạp. Ôi chao?
*
Tất cả những điều ấy sống trong mộng mị và đã thành thơ. Từ cuộc đời phũ phàng
đến thế, từ những ước ao thực như thế, đã thành thơ. Đấy cũng là tâm sự, là mộng
của vô vàn người trong xã hội lúc ấy. Điều đó nói được tại sao thơ Nguyễn Bính
nhiều người đọc, nhiều người thuộc. Bạn đọc và người thơ đã gặp nhau, hai người
cùng sống trong thơ, cái làng Thiện Vịnh trong thơ Nguyễn Bính cũng chỉ là một
bóng mơ. Làng Thiện Vịnh thật có giữa vùng chiêm khê, mùa thối đất Nam Định,
đâu đâu cũng xơ xác, nước trắng đồng, gió lùa sóng đồng cồn lên, quằn lại, lật
thuyền mảng, cả đến người ra cứu lúa cũng chết đuối. Mỗi năm, mỗi mùa, biết bao
người đã bỏ làng đi tha phương. Nhà thơ bó gối nhìn vào trong đêm. Chỉ nghĩ lại
cũng đã se lòng. Nhà thơ tưởng tượng, trên những khổ cực ấy, phấp phới những lứa
tuổi đương tơ, hoa cải vàng tháng chạp, mưa dây mưa dợ, trang rằm sáng như ban
ngày và những đêm chèo hát...
Thơ là niềm khát khao, là ước nguyện của con người. Khi chưa quen Nguyễn Bính,
tôi cũng không thật hiểu được những bài thơ viết về đồng quê của Nguyễn Bính và
cũng chưa phân biệt được đâu là chút lòng mộc mạc thiết tha của người làm thơ,
đâu là cái hoa hoè hoa sói của chàng trai quê ra tỉnh. Rồi mỗi khi gặp chính
trong cuộc sống khốn khó hàng ngày tháng như chẳng liên quan gì đến những bài
thơ quê đẹp nõn như lụa của Nguyễn Bính, tôi lại rõ ra ý nghĩa sâu thẳm của mỗi
câu thơ với quê hương. Chỉ có quê hương mới tạo nên được từng chữ, từng câu
Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỷ đời thơ, mỗi khi những gắn bó mồ
hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những
bài thơ tình tuyệt vời của Nguyễn Bính.
Những lịch lãm, những trải biết con người tất bật giữa cuộc sống bon chen cùng
với những lặn lội từ tấm bé đã làm cho Nguyễn Bính thành con người như mọi con
người, con người của làng xóm cả đời trong lũy tre, nằm mơ có quyển sách ước gối
đầu mà những điều to tát nhất cũng chỉ là ba gian nữa lá, giàn đỗ ván, cái
chuôm, tháng chạp chuôm cạn nước thì cấy cần. Mộng đẹp nho nhỏ ấy cũng chưa bao
giờ có được cho riêng mình.
Thì trong thơ có cả.
Nguyễn Bính chẳng khác một người tài kể chuyện, cứ nhẩn nha nói về mọi cái quen
thuộc quanh mình mà khiến ta phải chú ý. Ở mỗi làng quê, thường thấy những bác
thợ cày, thợ cối, thợ rèn, thợ ngõa, bà hàng nước nụ vối, nước chè tươi, hầu
như vùng nào cũng có những người giỏi đặt vè, nói tiếu lâm, pha trò kể chuyện
khéo đến đỗi “con kiến trong lỗ cũng phải bò ra”, ai cũng thích nghe, ví như cuốn
truyện hay, đọc chẳng bao giờ muốn thấy trang cuối, Nguyễn Bính là một người
tương tự. Cái thần của sáng tạo chính là cũng ở một người ấy, việc ấy, cảnh ấy,
ngòi bút đã tìm ra những dáng vẻ riêng biệt, trong khi ta trễ nải nhác qua, chẳng
thấy khơi gợi được điều gì mới mẻ khác lạ.
Con người Nguyễn Bính trông nhôm nham lắm. Tay chân thô nhám, quềnh quàng, lúc
nào cũng lừ đừ thủng thỉnh, như “ông từ vào đền”, như người thong thả đi giữa
làng. Lại lam lũ như vừa lướt mướt từ đồng sâu mà lên, dẫu cho anh đương mũ áo
chững chạc trên đường phố. Khi nào anh cũng là người của xứ đồng, của cái diều
bay, của dây hoa lý, của mưa thưa, mưa bụi giữa mọi công ăn việc làm vất vả
sương nắng. Bởi đấy là cốt lõi cuộc đời và tâm hồn thơ Nguyễn Bính.
Quê hương là tất cả, mà cũng là nơi in đậm dấu vết đời mình. Ở Nguyễn Bính,
tình quê là hình bóng đất nước, những nơi anh đã đặt chân với vô vàn kỷ niệm và
quê anh cũng là vùng chiêm trũng mênh mông Phú Xuyên, Bình Lục, Ý Yên, Vụ Bản -
cái rốn nước đồng bằng sông Hồng, ở đấy, nhà thơ thân thương của chúng ta đã
lênh đênh thân con cò, con diệc đồng sâu.
Sức mạnh sáng tạo của Nguyễn Bính cũng từ nơi đồng đất trắng trời, trắng nước
này. Làng Thiện Vịnh, làng quê chôn rau cắt rốn của anh, cái làng đồng trũng mà
chắc đến mùa nước thì con đường, con đê lên huyện kia chỉ còn là một sợi chỉ mỏng
manh bên làn nước giữa gò đất, bờ bụi, tre pheo. Sao mà cái lần tôi về Thiện Vịnh
hôm ấy lắm gió thế, gió trên đồng đêm ngày giật lên, gào lên từng cơn. Làng nước
xám ngắt, quang cảnh tiêu điêu lam lũ, ám đạm, nheo nhóc.
Thế mà:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay,
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy.
Tầm vóc thật, tầm vóc mỗi câu thơ Nguyền Bính.
Trong cuộc sống triền miên đồng trắng nước trong cả đời người ta vẫn đợi chờ
mong ngóng những rộn ràng óng á của một Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ.
Tinh thần và triết lý ấy, nhìn suốt đáy thơ Nguyễn Bính - thấy được từ mỗi ước
vọng hàng ngày của người ta. Tài năng và sức mạnh sáng tạo của nhà thơ là một với
cội nguồn thơ. Từ những dằn vặt, những mơ tưởng nhỏ nhoi đọng lại. Mùa này mất
trắng lại mong cho đến mùa sau được thấy mặt hạt thóc. Cái củi rều trôi qua
ngoài sông, không vớt được, cũng tiếc. Vợ chồng cãi nhau, người vợ ôm mặt, than
thở: “Giá như ngày ấy tôi theo cái người dưới Đông thì chẳng đến nỗi nào, khổ
cái thân tôi...”. Hoa xoan và mưa bay giữa hội chèo làng Đặng đã sinh ra từ những
chuyện như thế. Người ta than thân trách phận, nhớ tiếc, ước ao, ở giữa làng mà
tưởng như quê mình tận đâu đâu kia.
Được như thế mới là Nguyễn Bính. Thơ và cuộc đời, những con người và cuộc đời.
Nguyễn Bính biết làm thơ từ bé. Vừa thuộc mặt chữ đã đọc ra thơ, tài năng thơ bẩm
sinh. Cho đến khi thành những bài thơ đầu tiên, những bài thơ hay nhất của Nguyễn
Bính.
Thật rõ ở Nguyễn Bính, năng khiếu trong thơ được khơi từ cuộc sống chân thực,
lý trí và bản năng nhà thơ hoà một tấm lòng, khi ấy thơ Nguyễn Bính tuyệt trần.
Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...
Nguyễn Bính kể những câu thơ anh viết ở Thái Nguyên. Cũng chẳng ai chờ đợi, chẳng
có đò có bến, chỉ là tưởng tượng ra sự chờ đợi cho được có nỗi nhớ nào viết
chuyến này rồi bồng bềnh đi đâu. Tình cảnh tang thương của một lớp người. Chuyến
lang bạt kỳ hồ ấy cũng không khác mọi cuộc đi kiếm ăn. Nguyễn Bính có người anh
em lên vỡ đất làm ruộng trên Thái Nguyên. Thuở ấy, lên đến vùng chè Đồng Hỷ,
Tân Cương đã là vào đất đồng rừng xa xôi và người đồng chiêm tìm lên đường ngược
vào ở đồi như thế, làng nước xót xa cho con người phải bỏ làng đi quê người.
Thế mà lại còn phải đi theo những người tha phương, xem may ra kiếm được việc,
có tìm được chỗ ngồi bảo học kiếm cái ăn. Nhưng mà cũng lỡ, lại đi.
Bỏ đất quê, lại nhớ đất quê, đi đâu cũng lẽo đẽo, thui thủi một nỗi buồn. Những
cái gì không tới được thì nhớ. Những ước vọng thiết tha và xót xa ấy gắn bó
trong tâm hồn người làm thơ.
Nguyễn Bính làm thơ thật nhiều. Và sinh sống bằng thơ. Dẫu gặp mọi khốn khó, phải
long đong chạy vạy, nhưng Nguyễn Bính vẫn lần hồi có cái ăn do tiền bán thơ, chứ
không chỉ nhờ bạn bè hoặc phải lấy tay khác nuôi thơ, trong khi nghề viết thời ấy
chưa hề được coi như một công việc ngay ngắn, mực thước.
Tinh hoa của tài năng con người nảy nở vào một khi sức lực nhất - có thể chỉ nổi
lên ở một bài thơ, thậm chí ở một câu thơ. Một văn tài lỗi lạc đến mấy cũng
không thể cả đời lúc nào quanh mình cũng lung linh hào quang những sáng tạo tầm
cỡ. Sức mạnh sáng tác cũng ví như sức khoẻ con người, không phải và không thể
lúc nào cũng sung sức nhất được.
Nguyễn Bính chỉ thật riêng một góc trời ở những bài thơ với những mảnh đất quê.
Trong đời thơ của anh, đáng lẽ đến hết thời kỳ hồn nhiên năng khiếu phải được
nâng cao hơn nữa - như bây giờ ta nhận xét hoặc nói cách khác, sự rèn luyện tâm
hồn và ngòi bút phải được, cái tài trời phú lên hơn, mới bồi đắp được độ bền và
sức sống của sáng tạo. Nguyễn Bính không tới dược cơ hội ấy. Dù trong kháng chiến
và cho đến bài thơ cuối cùng, Nguyễn Bính vẫn thường viết về quê hương, nhưng
tinh hoa chỉ có một thời, và thời ấy đã qua rồi.
Nhưng thôi, chẳng nên nhận xét thơ và công việc làm thơ của Nguyễn Bính với con
mắt sắp đặt trong sự việc hôm nay. Tìm ra cái tinh hoa của Nguyễn Bính, hãy trở
lại cuộc sống và thơ từ ngày ấy.
Khi tâm hồn và sự chân thực đi cùng thơ, Nguyễn Bính đạt tới sự toàn bích. Rồi
Nguyễn Bính bôn ba đây đó Hà Nội và Sài Gòn, rồi cuộc sống tự nhiên thế nào, mà
Nguyễn Bính trải biết đều phản ánh trong thơ anh.
Nguyễn Bính không cắt nghĩa được số phận đời người và đời mình ở những nơi đó.
Nguyễn Bính cũng không bao giờ biết như thế, không bao giờ biết mình đã phí
hoài những chân chất tình quê, thơ anh lạc vào những “bụi kinh thành”, “vua nước
Bướm” “hồn trinh”, “mây Tần”, “đốt đường sạn đạo”. Anh ngỡ đấy là thiết tha,
nhưng thật ra, lại là hời hợt. Ở Nguyễn Bính, mỗi khi thơ sa vào câu chữ sẵn lại
chính ở những bài thơ tình yêu “một nghìn cửa sổ, “mười hai bến nước”, những
bài thơ “bụi bậm kinh thành”. Tôi nhớ lại. Ở quãng phố gần vườn hoa Cửa Nam, lần
đầu tiên gặp anh với chiếc hộp bích quy đựng thơ và những bức thư tình. Bao
nhiêu cuộc tình tưởng não nùng tê tái kia chẳng qua chỉ là hờ hững và nó đã đẩy
thơ anh ngoi ngóp vào những đau thương hình thức mà thôi.
Thơ và cuộc đời ràng buộc nhà thơ. Trước sau và mãi mãi, Nguyễn Bính vốn là nhà
thơ tình quê, chân quê, hồn quê.
*
Thơ Nguyễn Bính, một trường thơ. Một khoanh tre trong luỹ tre làng thơ. Có thể
dễ dàng nhận thấy hiện tượng ấy ở thơ của anh và bè bạn anh trước cách mạng và
thơ Nguyễn Bính trên sách báo những ngày đầu kháng chiến tại các chiến khu Nam
Bộ.
Đấy cũng là thực tế phong trào Thơ Mới phát triển đa dạng trước và sau những
năm 1940. Thơ Việt Nam ở thời kỳ này hoàn toàn đổi mới. Các nhà Thơ Mới đã
nhanh chóng chiếm được trận địa thơ với sự chấp nhận, cổ vũ và tin yêu của mọi
người đọc thơ. Không phải bằng chiến công những cuộc tranh cãi, mà bằng sự ra đời
những bài thơ dân tộc. Nghiễm nhiên, tức khắc Thơ Mới bay vào quỹ đạo thơ, thơ
Việt Nam.
Thơ Nguyễn Bính là một nhành hoa trong trào lưu cách tân thơ. Và cùng với Nguyễn
Bính, xuất hiện một trường thơ, một phái thơ.
Còn nhớ, vào mùa sen, có khi cả phiên chợ Mơ, chúng tôi về ở trong cái lều canh
sen trên hồ Linh Đường, phía nam thành phố. Chúng tôi đọc thơ rồi cãi nhau về
thơ. Chúng tôi chế giễu cuộc thi thơ bát cú có đầu đề và hoạ vần “Nghìn năm văn
vật đất Thăng Long” mà rải rác còn có báo đăng, như những bài thơ chết đuối.
Chúng tôi công kích những bài thơ son phấn màu mè cầu kỳ một câu cộc lốc và những
bài bắt chước “mười hai chân” Tây của Nguyễn Vỹ.
Bài thơ “Chân quê” của Nguyễn Bính không phải chỉ là đôi lời than thở của anh ả
gặp chị ả nào đó. “Chân quê” đã tuyên bố quan điểm của phái thơ này trong trào
lưu thơ đương rầm rộ:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh,
Thầy u mình với chúng mình chân quê.
Hôm qua em đi tỉnh về,
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
Tôi đã được thấy như thế ở thơ và hành động trong đời làm thơ của Thâm Tâm, của
Trần Huyền Trân, các bạn thơ Nguyễn Bính. “Đưa người ta không đưa qua sông”...,
và “Nhớ nhau vảy bút làm mưa gió”... Những áng thơ phảng phất “thét roi cầu Vị”
kỳ thực mang trong lòng hình ảnh tâm sự của người cầm bút thời đại, giữa khi cả
đất nước và dân tộc đương chuyển biến.
Ở trường thơ ấy, mỗi người thể hiện một phong cách. Thâm Tâm và Huyền Trân sừng
sững và cũng cô đơn như gốc đa, con đò một mình. Nhưng Nguyễn Bính in đậm ảnh
hưởng vào thơ của các bạn bè, vang vọng dư âm trong lòng một lớp độc giả rộng
rãi.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Bính đi vào kháng chiến ở Nam Bộ. Bởi đấy là
triển vọng của những điều mơ ước về quê hương.
Chú thích:
[1] Sanda Bô, bù nhìn Ấn Độ theo phát xít
Nhật.
31/12/2005Tô HoàiNguồn: Tô Hoài, Những gương mặt chân dung văn học, in lần thứ 3, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội 1997
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét