Trò chuyện qua mạng
với nhà văn Lê Thị Thấm VânNhà văn Lê Thị Thấm Vân trong thời gian viết Bóng gẫy của thần tích
Hỏi: Trước hết, xin nhà văn kể đôi chút về tiểu sử của
mình. Nhà văn sinh ra và lớn lên ở đâu? Hồi nhỏ có thích đọc văn chương không?
Ðáp: Tôi sinh ở Quy Nhơn, nhỏ ở Ðà Lạt, tốt nghiệp trung học và đại học tại Hoa
Kỳ. Bố mẹ tôi từ Bắc di cư vào Nam năm 1954. Thuở bé tôi ưa tưởng tượng ra nhiều
câu chuyện thú vị rồi kể cho mọi người nghe. Tôi (tin tôi) có khả năng bịa chuyện
giỏi và có khiếu kể chuyện. Bố tôi cho tôi biết điều này lúc tôi 7 tuổi. Nhà
tôi có một tủ sách rất lớn. Tôi nhớ hồi nhỏ tôi ưa luẩn quẩn gần đấy. Có cuốn
tôi đọc say mê thích thú, có cuốn tôi đọc xong không hiểu gì cả, cứ như đọc
sách ngoại ngữ mình chưa học qua. Nhưng tôi vẫn đọc, vì bản tính tò mò muốn biết.
Hỏi: Ngày 30 tháng 4 nhà văn đang ở đâu, làm gì? Biến cố 30/4 thay đổi cuộc
sống của nhà văn như thế nào?
Ðáp: Ngày 30/4/75 tôi cùng gia đình tất tả chạy loạn ngược xuôi. Ngày 10/5/75
tôi rời gia đình (bố & chị, em) vượt biển sang Thái Lan. Ở trại tị nạn Thái
Lan 2 tháng, sau đó tôi sang Hoa Kỳ. Tôi rời Việt Nam vì tò mò, phiêu lưu, mạo
hiểm chứ lúc đó tôi không có chút ý thức chính trị hay kinh tế nào. Một năm
sau, tháng 6/1976 bố tôi mất ở Việt Nam.
Hỏi: Nhà văn bắt đầu viết văn từ bao giờ? Tác phẩm đầu tay là tác phẩm
nào? In ở đâu?
Ðáp: 10 tuổi tôi đã làm hơn hai chục bài thơ về mẹ sau khi mẹ tôi mất. Truyện
ngắn đầu tiên của tôi đăng trên tạp chí Văn, tháng 10 năm 1992, ấn hành ở
nam California. Tập truyện Ðôi bờ là tác phẩm đầu tiên, do Anh Thư Xuất
bản năm 1993.
Hỏi: Quá trình viết văn sau khi in tác phẩm đầu tiên có những thay đổi gì?
Ðáp: Càng viết tôi càng thấy khó. Kinh nghiệm viết lách chẳng giúp gì cho tôi
trước tác phẩm mới. Tôi luôn tự đặt tiêu chuẩn rất cao. Tuyệt đối tránh lặp lại
nội dung lẫn hình thức. Mỗi tác phẩm là một nỗ lực, thách thức. Giờ đây tôi
không còn cái hồn nhiên và dễ dãi như thuở ban đầu, nhưng càng viết càng yêu
thích. Viết với tôi như một nỗi đam mê lớn lao. Và tôi rất vui là có và thực hiện
được nỗi đam mê của mình. Trong thời gian viết tiểu thuyết, tôi tự khép mình
vào kỷ luật rất nghiêm.
Hỏi: Tại sao nhà văn lại thấy mình cần phải viết văn bằng tiếng Việt trong
hoàn cảnh sống lưu vong?
Ðáp: Tôi đến với văn chương là vì yêu thích ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ Việt.
Viết tiếng Việt ban đầu với tôi như là tự thách thức cho sự tìm kiếm hay tìm về.
Giờ đây, viết tiếng Việt đối với tôi dễ dàng hơn viết tiếng Anh. Viết tiếng Việt
giữa lòng một ngôn ngữ khác, tiếng Anh chẳng hạn, là một lý thú, hấp dẫn, tự
do, giữ được độc lập, bởi không dễ bị rơi vào công thức nhận diện hay đặt để của
thế giới phương Tây. Trong khi đó, là một người viết ở hải ngoại, tôi có tự do
hơn những người viết hiện đang ở trong nước, nơi mà họ vẫn còn bị chỉ đạo, kiểm
soát bởi những nhà cầm quyền. Tuy nhiên viết văn, nhất là viết tiếng Việt ở hải
ngoại thường rất cô đơn, cô độc vì độc giả không nhiều, không có lợi nhuận,
không có danh tiếng, không có chỗ đứng trong xã hội. Tôi mở nhà xuất bản Anh
Thư để in sách, tự bỏ tiền túi in, tự gửi mẫu quảng cáo sách mình mới xuất bản
cho các tạp chí đăng, tự mang sách đến gửi ở những nhà sách để bán, rồi tự gửi
sách đến cho độc giả ở xa. Những công việc tôi chán ghét vô cùng, nhưng vẫn phải
làm.
Hỏi: Sau khi các tác phẩm của nhà văn in ra, nhà văn có nhận được nhiều phản
hồi của độc giả không? Nhà văn nghĩ thế nào về môi trường phê bình văn học hiện
nay?
Ðáp: Theo tôi, môi trường phê bình hiện nay vẫn còn yếu kém. Ða phần phê bình
tác phẩm hoặc dựa trên cảm tính, hoặc viết về tác giả, hoặc bàn chuyện ngoài lề
hơn là đi sâu vào văn bản. Riêng với tác phẩm của tôi, độc giả chê hoặc khen đều
cực đoan. Nghĩa là ai thích rất thích hoặc ai ghét rất ghét, không ở lưng chừng.
Những tác phẩm của tôi đa phần được giới phê bình quan tâm. Một số độc giả cho
biết tác phẩm của tôi khó hiểu, muốn hiểu được thì phải đọc kỹ 2-3 lần, mỗi lần
đọc lại khám phá ra điều thú vị và mới mẻ. Một số khác nhận xét tôi viết táo bạo
quá! Thật ra, khi viết bao giờ tôi cũng cố gắng với cao, vượt lên trên khả
năng, sức lực của tôi rất nhiều. Vì thế người đọc cũng phải với lên để thưởng
ngoạn tác phẩm của tôi. Tôi viết không phải để làm vừa lòng độc giả.
Hỏi: Theo nhà văn thì độc giả phải đặc biệt chú ý đến những chi tiết
nào khi nghiên cứu những tác phẩm của nhà văn để họ có thể hiểu rõ hơn về
tác phẩm của nhà văn?
Ðáp: Tôi viết về thời đại di dân. Căn cước đôi. Ðịnh mệnh, thân phận của những
kẻ luôn đứng dạng hai chân ở hai nền văn hóa khác biệt. Sự bị bôi xóa. Những kẻ
vất vưởng bên lề, mép rìa. Ðồng thời tôi đặc biệt chú trọng đến vấn đề nữ quyền.
Hỏi: Trong các tác phẩm của mình, nhà văn có đề cập đến nhiều tác phẩm văn
chương nổi tiếng của miền Nam, chẳng hạn Tình ca trong lửa đỏ của Nhã
Ca. Tôi cũng thấy truyện ấy rất hay. Nếu một người không biết nhiều về kinh
nghiệm của người Việt ở miền Nam thời 54-75, nhà văn khuyên người ấy đọc tiểu
thuyết nào trong tất cả tiểu thuyết về/ở miền Nam Việt Nam?
Ðáp: Hỏi tôi đề nghị đọc tác phẩm nào thì thú thật rất khó trả lời. Có lẽ bạn
thử tìm đọc Giải khăn
sô cho Huế của Nhã Ca, Bếp lửa của Thanh Tâm Tuyền, Xóm
cầu mới của Nhất Linh...
Hỏi: Nhà văn nghĩ mình có chịu ảnh hưởng của tác giả nào khác không (kể cả
nhà văn Việt Nam và nước khác)? Là những tác giả nào?
Ðáp: Tôi chịu ảnh hưởng bút pháp, mỹ quan, ý tưởng của một số tác giả ngoại như
Kazuo Ishiguro, Monique Wittig, Arundhati Roy, Susan Sontag, Hélène Cixous,
James Joyce, Willam Faulkner, Alice Walker... Tôi cũng đọc nhiều tác giả Việt,
nhưng họ không gây ảnh hưởng tới kỹ thuật dựng truyện của tôi.
Hỏi: Trong tác phẩm Xứ nắng, người kể chuyện đề cập đến nền văn hóa Mỹ
lẫn Việt, chẳng hạn như Jack Nicholson, Nhất Linh, v.v... Ở trang 11 người
kể chuyện nói: “Giấc mơ Mỹ, màu trắng, liệu còn đứng vững được bao
lâu?” Theo tôi, cảnh này rất thú vị và quan trọng, vì hiện nay, các nhà
phê bình văn học Mỹ đang xem xét lại cách mô tả chủ nghĩa dân tộc và
“citizenship” [tạm dịch là: tư cách công dân] trong văn chương Mỹ. Nhà văn
có ý kiến gì về vai trò văn chương Việt hải ngoại tại Mỹ (viết bằng tiếng Việt)
trong cuộc thảo luận này?
Ðáp: Anh ngữ vẫn là một trong vài ngôn ngữ bá quyền hiện nay. Nó có khả năng lấn
át những tiếng nói khác, thậm chí biến những tiếng nói khác trở thành tiếng động.
Tôi chọn lựa viết tiếng Việt trong thế giới tiếng Anh là (cố gắng) tạo nên tiếng
nói thực tế, như nó là, tạo sự có mặt bình đẳng qua văn bản. Ðồng thời tôi muốn
đẩy tiểu thuyết Việt Nam vượt khỏi rào cản, sức ép, ám ảnh bởi chủ nghĩa quốc
gia, dân tộc hoặc tự/bị xếp vào vị trí thế-giới-thứ-ba mà bao nhiêu năm nay vẫn
cố bảo bọc, ôm giữ.
Hỏi: Nhà văn có ý kiến gì về quan hệ giữa văn chương Việt tại Mỹ và văn
chương Mỹ?
Ðáp: Văn chương Việt tại hải ngoại và văn chương Mỹ (hiện nay) như nước sông và
nước hồ. Cả hai hoàn toàn độc lập, riêng biệt. Tôi nghĩ không cần thiết phải
quan hệ, bởi nghệ thuật hay là ở tự thân tác phẩm. Quả cam hoặc quả táo đều là
trái cây nhưng có vị ngon khác biệt. Ai thưởng thức được cả hai loại trái cây,
tôi cho là người may mắn. Trong tương lai những tác phẩm hay viết bằng tiếng Việt
ở hải ngoại sẽ được chuyển ngữ sang tiếng Anh. Ðấy là một điều cần thiết.
Hỏi: Âm vọng kể về cuộc đời của bốn người đàn bà, mỗi người tượng trưng
cho một mùa trong năm. Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa (Tây Thi, Chiêu Quân, Ðiêu Thuyền
và Dương Quý Phi) có gợi cảm hứng cho nhà văn khi viết cuốn tiểu thuyết này
không?
Ðáp: Khi viết Âm vọng, tôi hoàn toàn không nghĩ đến “Tứ đại mỹ nhân” của
Trung Hoa. Tôi chọn 4 nhân vật huyền thoại trong Lĩnh nam chích quái, bản
dịch của Ðinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San rồi dựa vào thời tiết 4 mùa trong
năm xếp không thứ tự: Tiên Dung - Nhất Dạ Trạch, (mùa hạ); Mỵ Châu - Truyện Rùa
Vàng, (mùa thu); Âu Cơ – Họ Hồng Bàng, (mùa xuân); và Man Nương – Man Nương
(mùa đông). Bốn bà biểu tưởng cho thân phận, định mệnh, tiếng nói, trí tuệ, cá
tính, bản năng, quyền lực, yếu kém, thiếu hụt, bất hạnh, oan khiên... của người
phụ nữ.
Hỏi: Đọc Âm vọng, tôi rất ngạc nhiên thấy những tranh vẽ của một đứa
trẻ, những mẩu đơn, giấy chuyển tiền, giấy chép tay ghi lại công thức nấu món
ăn… Tất cả những cái đó làm truyện giống một tác phẩm hội họa “collage” (tạm
dịch: “nghệ thuật cắt dán”). Vì vậy, câu chuyện mang đậm chất thực. Cuộc sống
thực được phơi bày qua từng trang sách. Theo nhà văn, những tác phẩm văn học
hiện đại có nên kết hợp nhiều hơn với hội họa để tạo nên những tác phẩm mang
tính chất tổng hợp?
Ðáp: Những bức tranh, bài thơ, notes... là của con tôi, tôi đưa vào để lưu giữ
kỷ niệm tuổi thơ của chúng. Truyền đơn, thư nặc danh, chụp mũ, hóa đơn gửi tiền
về Việt Nam, công thức nấu ăn... là dấu ấn, chứng tích giai đoạn đầu của người
Việt tị nạn, lưu vong. Ðồng thời tôi cũng muốn đóng góp một hình thức mới mẻ
vào tiểu thuyết Việt Nam.
Hỏi: Theo Việt Nam ngày tôi trở về [VNNTTV], nhà văn đã về Việt
Nam năm 1995. Vậy xin hỏi, sau chuyến đó, nhà văn đã về Việt Nam lần nào nữa
chưa? Nếu có, xin nhà văn cho biết lần về sau này có thay đổi cái nhìn của nhà
văn với Việt Nam so với cái nhìn của năm 1995 không?
Ðáp: Lần đầu tiên về lại Việt Nam sau 20 năm xa cách, tôi bị khủng hoảng, bức
xúc khiến tôi viết cuốn Việt Nam ngày tôi trở về. Lần thứ nhì tôi đưa bố
chồng về thăm làng Hưng Yên ở miền Bắc sau 50 năm ông rời xa. Chuyến đi này tạo
cho tôi cảm hứng viết cuốn Xứ nắng, và sáng tác một số bài thơ (tình).
Hỏi: Nhà văn lên án chính phủ Cộng sản, qui cho họ trách nhiệm về sự suy
thoái của xã hội Việt Nam hiện nay. Vậy theo nhà văn, chính phủ Cộng sản nên giải
quyết như thế nào với các tệ nạn xã hội? Và theo nhà văn nếu chính phủ Việt Nam
Cộng hòa còn tồn tại cho tới ngày hôm nay, liệu các tệ nạn xã hội có xảy ra
không?
Ðáp: Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã không tồn tại, thì không còn giả như... nếu…
Tôi để đầu óc suy nghĩ chuyện khác thú vị hơn.
Tuy nhiên xã hội Việt Nam hiện nay cho ta thấy rõ sự chênh lệch giàu nghèo quá
rõ. Tham nhũng hối lộ trắng trợn. Tệ nạn xã hội càng ngày càng gia tăng. Ðạo đức
suy đồi. Là nhà văn, tôi chỉ viết điều tôi chứng kiến và suy tư, trăn trở. Còn
giải quyết như thế nào là việc của các nhà lãnh đạo.
Hỏi: Nhà văn phê bình chính sách của chính phủ Mỹ đối với những người Việt
miền Nam đã bị bắt vào trại cải tạo. Tôi cũng cho rằng cách kết thúc chiến
tranh Việt Nam năm 1975 là một vết nhơ trong lịch sử Mỹ. Theo nhà văn, chính phủ
Mỹ lẽ ra phải có chính sách nào đối với Việt Nam sau 1975? Còn ngày nay, chính
phủ Mỹ nên có chính sách ra sao đối với Việt Nam?
Ðáp: Trước hết, sau 30/4/1975, việc chế độ mới dựng lên các trại cải tạo là việc
làm phản dân chủ, nhân quyền. Không ai có quyền nhân danh bất cứ gì để cải tạo
sự suy nghĩ trong đầu của người khác. Việc Mỹ đã đem quân, súng đạn sang can
thiệp vào Việt Nam cũng hết sức sai lầm. Giờ đây Mỹ cần phải tỏ thiện chí và
sòng phẳng hơn nữa trong vấn đề bắc cầu giao hảo với Việt Nam.
Hỏi: Nhà văn nghĩ vai trò của văn chương trong lịch sử là gì?
Ðáp: Văn chương biểu lộ ý thức lịch sử. Con người không từ cõi không mà là một
phần sản phẩm của lịch sử. Nhà văn sống với lịch sử và không nhất thiết phải hiểu
lịch sử như người nghiên cứu lịch sử.
Hỏi: Trong VNNTTV, nhà văn có nhắc tới các bổn phận và trách nhiệm của người
phụ nữ Việt Nam. Vậy theo nhà văn, các trách nhiệm và bổn phận đó có còn ràng
buộc phụ nữ Việt tại hải ngoại không?
Ðáp: Trong thời chiến, phụ nữ Việt Nam phải gánh vác vai trò làm cha, làm mẹ lo
cho gia đình, con cái. Chồng trong quân/bộ đội, tử trận, tù cải tạo. Nay sống ở
hải ngoại, trách nhiệm & bổn phận người phụ nữ Việt Nam vẫn thế: lo cho gia
đình, con cái, nhưng họ được tự do hơn, có cơ hội hơn, nhiều lựa chọn hơn. Nhiều
người vì được học hành và độc lập kinh tế nên tự chủ hơn. Ðồng thời họ ít con
nên có thời gian chăm sóc bản thân và theo đuổi ý thích riêng của mình.
Hỏi: Có nhiều nhà phê bình cho rằng khi một nhà văn ngồi xuống viết thì họ
đang tạo ra trên trang giấy một không gian mới, một không gian lý tưởng, có thể
nói là ngoài luật lệ, ngoài chính trị [theo tôi, cách nghĩ này không hoàn toàn
đúng]. Khi viết, nhà văn có nghĩ là mình đang tạo lên một không gian ngoài
luật lệ không? Hay là nhà văn cảm thấy là việc viết bị những điều trong thực
tế ảnh hưởng nhiều, và viết là một cách để trả lời, để chống cự những điều đang
xảy ra trên thế giới?
Ðáp: Tác phẩm (có thể) dựa trên dữ kiện thực tế để sáng tạo một cách riêng của
chính nó, nghĩa là tự tạo luật lệ riêng. Nhà văn nhào nặn biến cố, sự việc theo
ngôn ngữ của nhà văn. Tuy nhiên, tưởng tượng, hư cấu hay sáng tạo bất cứ gì
cũng không thể dựa vào khoảng không hay cõi hư vô mà phải bắt rễ, vay mượn, học
hỏi, ăn cắp ý tưởng, hình ảnh của rất nhiều người. Viết là hành động nói lên sự
có mặt của mình trong cõi nhân gian này, và đúng/sai không phải là điểm thiết yếu
trong văn chương. Văn chương là chủ quan, là tiếng nói của cá nhân.
Hỏi: Câu hỏi cuối cùng: nhà văn nghĩ thế nào về tình hình văn chương trong
nước và hải ngoại hiện nay? Nhà văn lạc quan hay bi quan?
Ðáp: Văn chương trong nước đang hé mở khía cạnh tự do tính dục, bất đồng quan
điểm chính trị, xã hội, có lẽ nhờ vào internet một phần. Hải ngoại cũng nhờ
internet nên tác phẩm được độc giả trong nước đón nhận nhanh chóng và dễ dàng
hơn. Nhưng phải thực tế rằng ngày càng bớt dần độc giả. Internet, phim ảnh, nhạc,
TV, games.... chiếm quá nhiều thì giờ trong ngày của con người hiện đại, và nhu
cầu đọc không còn là điều thiết yếu. Không đọc tiểu thuyết cũng chẳng thiệt
thòi hay mất mát gì (nhiều). Ý thức được điều này, nhưng người viết vẫn cứ viết,
vì viết là đam mê, cũng là sự lựa chọn.
Viết lách, với tôi là một may mắn, hạnh phúc trong đời tôi có được, dù sự lựa
chọn này mang lại cho tôi mệt mỏi, mâu thuẫn, phức tạp, khó khăn, đơn độc và cả
những thiệt thòi.
13/3/2006 Hà Thục Chi, Nguyễn Bích, Trần Thanh Thúy, Alec Holcombe
13/3/2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét