Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022

Đọc lại Truyện KiềuXXXX

Đọc lại Truyện Kiều

Truyện Kiều là một trong những tác phẩm luôn gợi ra những suy nghĩ mới mỗi lần đọc lại. Dưới đây là vài suy nghĩ nhân lần đọc lại Truyện Kiều như là một hưởng ứng bài viết công phu và đầy cảm hứng của Thái Kim Lan “Ý niệm đoàn viên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du”.
Hơn hai trăm năm nay, về văn chương, Truyện Kiều đã có hàng ngàn lời bình, tán; những khám phá, phát hiện góp vào việc đọc hiểu, thẩm, thụ cảm, thưởng ngoạn vẻ đẹp lộng lẫy của ngôn từ, văn phong, tình tiết, tâm lý. Góp, vì những bình tán ấy thường là hòa hợp, bổ sung cho nhau mà ít khi tranh giành loại trừ nhau, làm cho ta hiểu các tầng ý nghĩa của truyện ngày càng phong phú và sâu sắc thêm. Ngay cả khi các kiến giải khác nhau về cách hiểu, cách đọc một chữ, thì tất cả các lý giải vẫn còn bỏ ngỏ đó để người đọc, người nghe tự mình lựa chọn, tâm đắc.
Còn về tư tưởng, triết lý Truyện Kiều? Các nhà học giả chia làm nhiều phe, dùng vũ khí lý luận của mình nhất quyết chiếm lĩnh mảnh đất Truyện Kiều cho riêng mình, bằng cách loại trừ, đánh bại, đánh bạt đối thủ để giành phần thắng. Mỗi bên có cái lý của riêng mình, và Truyện Kiều còn đó.
Hãy hình dung Truyện Kiều là “vườn xuân một cửa”, thì cửa ấy đâu có ngăn cấm một ai. Bước chân vào đấy, ta có thể suy tư về đủ điều, mọi lẽ. Dựa trên những diễn biến, nhưng tâm tình trong truyện, ta có thể trầm tư về lẽ đạo hay ngẫm ngợi lẽ đời, và ta thấy mình có toàn quyền như thế. Còn nếu xác quyết rằng “chính Nguyễn Du đã nghĩ thế này” hay “đây mới thực là tư tưởng Nguyễn Du”, thì xin hãy dè dặt, chậm rãi một chút. Tôi e rằng Nguyễn Du sẽ mỉm cười lặng lẽ: “Ta quả có viết 3254 câu thơ, nhưng ta có nói gì đâu?”

1. Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân. Đoạn trường tân thanh và Kim Vân Kiều truyện
Bàn về nội dung và triết lý Truyện Kiều, nhiều học giả cứ vô tư viết rằng Nguyễn Du đã để cho Kiều thế này, Nguyễn Du đã chọn cho Kiều thế kia: “Nguyễn Du đã không để Kiều lưu lại trong chùa trong quãng đời còn lại”, “Nguyễn Du nên nhân đạo hơn hay nên thoát khỏi tư tưởng phong kiến luôn luôn chà đạp đàn bà, bằng cách cho nàng Kiều chết thật”, v.v…
Nhưng thực ra Nguyễn Du có muốn chọn cũng không được, vì Thanh Tâm Tài Nhân đã chọn rồi. Xin cử một vài ví dụ so sánh:
Ví dụ 1: “Hai lần Nguyễn Du đã không để cho nhân vật của mình chết” (xin đính chính: Thanh Tâm Tài Nhân không để cho nhân vật của mình chết)
Lần một: Kiều định tự tử trong đêm tân hôn với Mã Giám Sinh:
Trong Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm Tài Nhân):
Kiều thốn đạo: tha phí ngân thảo ngã, ngã nhược tử liễu, tha khởi cam tâm, tất liên luỵ ngã phụ thân. Bãi! bãi! Phủ đắc nhất tử phóng tại hung trung tha đáo tha gia như bất thoả thiếp tử tại tha gia vị trì.
(Kiều ngẫm nghĩ: hắn bỏ tiền ra mua mình, nếu mình chết hắn đâu có chịu ắt rồi liên luỵ đến cha. Thôi, thôi, việc chết không để bụng nữa, đợi hắn về đến nhà, nếu không thoả mình chết tại nhà hắn cũng chưa muộn.)
Trong Đoạn trường tân thanh (Nguyễn Du):
Nghi đi nghĩ lại một mình,
Một mình thì chớ hai tình thì sao
Sau dầu sinh sự thế nào
Truy nguyên chẳng kẻo luỵ vào song thân
Lần hai: ở nhà Tú Bà, sau khi tự tử không thành, mơ gặp Đạm Tiên
Trong Kim Vân Kiều truyện:
Kiều tưởng đạo tiền sinh nghiệp trái, kim nhật vị hoàn, hựu tăng lai sinh nhất trùng oan trái, hà thời hoàn đắc can tịnh.
(Kiều thầm nghĩ: nợ kiếp trước đến giờ chưa trả, lại để kiếp sau nợ chồng lên một tầng nữa, thì bao giờ gỡ cho xong.)
Trong Đoạn trường tân thanh:
Kiếp này nợ trả chưa xong
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau
Ví dụ 2: “Nguyễn Du đã chọn cho nhân vật của mình giải pháp sống lại” (xin đính chính: không phải Nguyễn Du, mà Thanh Tâm Tài Nhân chọn)
Trong Kim Vân Kiều truyện:
Đạm Tiên vị kiều tòng tiền khổ dĩ lịch tận, kim nhật kiếp hựu tiêu hoàn, tự thử phúc lộc chung thân, tình duyên như ý, đoạn trường hội tạc dĩ trừ danh, đoạn trường thi kim đương phụng bích
(Đạm Tiên bảo Kiều khổ trước đã hết, kiếp này được toàn vẹn, từ đây cả đời được phúc lộc, tình duyên như ý, hội đoạn trường đã xoá tên, thơ đoạn trường nay mang trả lại).
Trong Đoạn trường tân thanh:
Đoạn trường sổ rút tên ra
Đoạn trường thơ phải đem mà trả nhau
Còn nhiều hưởng thụ về sau
Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào
Qua đây, có thể thấy Nguyễn Du đã dịch khá sát nguyên bản của Thanh Tâm Tài Nhân. Tôi không đồng ý với những người cho rằng Nguyễn Du đã phóng tác ra Truyện Kiều. Khi nói đến những đỉnh cao tư tưởng xuất phát từ nội dung, cốt truyện Truyện Kiều, ta nên thận trọng trừ bớt đi phần của Thanh Tâm Tài Nhân, phần còn lại mới đích thực là của Nguyễn Du.
Hãy xem đoạn tả cuộc đối thoại Kiều-Kim trong đêm tân hôn:
Trong Kim Vân Kiều truyện:
Dĩ lang ái thiếp chi cách ngoại, cố hàm tu dĩ tương tòng, nhược bất cập vu tiết hiệp, sử thiếp vong tình thượng khả lược thi nhan đối quân tử. Nhược tất dĩ thiếp thụ nhục chi thời giả nhục thiếp, thị phi ái thiếp dã, cừu thiếp dã.
(Chàng yêu thiếp lối bên ngoài, thì thiếp cố gượng theo chàng, nếu không đến nỗi suồng sã quá trớn, không đến nỗi để thiếp quên tình, thì thiếp có thể mở mặt hầu quân tử. Còn như cứ lấy những điều tui đã bị nhục trước đây để sỉ nhục tui, thì không còn là yêu tui nữa, mà là thù tui đấy.)
Chỗ này Đoạn trường tân thanh viết thế nào?
Những như âu yếm vành ngoài
Còn toan mở mặt với người cho qua
Lại như những thói người ta
Vớt hương dưới đất, bẻ hoa cuối mùa
Cũng nhơ dở nhuốc bày trò
Còn tình đâu nữa chỉ thù ấy thôi!
Cùng một ý tưởng mà một bên thì cục mịch, thô vụng; một bên thì ý nhị rõ ra ngôn ngữ của ngưòi có tâm hồn, và có học. Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân là một cô gái điếm hoàn lương, rất nhạy cảm với vết ô nhục cũ chỉ sợ đến một lúc nào đó chàng Kim lại coi thường mình, giở những nỗi nhục cũ ấy ra mà làm mình nhục thêm lần nữa: đó là suy nghĩ thường tình của người trong cảnh ngộ ấy. Hai chữ tiết hiệp (suồng sã, quá trớn, khinh lờn) có ý ngăn đe, “chặn trước”, khiến người đối thoại không khỏi cảm thấy ê chề.
Kiều của Nguyễn Du tự thẹn mình không còn “phong nhuỵ” để đối đãi tình nhân, Người yêu ta xấu với người, tuy rằng từ trong sâu thẳm cõi lòng trong sạch, Kiều luôn xứng đáng với Kim Trọng, như Phạm Quí Thích đã viết “Băng tâm tự khả đối Kim lang”. Ấy là vì nàng trân trọng mối tình cũ, đặt nó ở vị trí quá cao nên không muốn đem thân mình đã lấm bụi trần dự vào chuyện chăn gối làm thấp nó đi. Và nàng cũng rất hiểu người tình, hai bên đúng là “tương tri dường ấy mới là tương tri” không làm gì có cái ý “xấu với người thì người xấu lại”.
Người yêu ta xấu với người
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau.
Kiều không e sợ bị chàng đối xử thế nào, mà chỉ lo mình không còn đủ tư cách đáp lại tấm tình cao quí ấy. Xấu ở đây là xấu hổ, chàng vì quá yêu mà thiếp cố theo, miễn cưỡng mà theo thì khác gì phụ nhau.
Cái giống và cái khác, cái chung và cái riêng giữa hai văn bản là thế. Về nội dung, cốt truyện giống nhau đến từng chi tiết. Cái khác ở đây là khác giữa một câu chuyện kể thường với một kiệt tác văn chương, khác nhau về chiều sâu tâm lý, khác nhau giữa thơ và cái không thơ.

2. Truyện Kiều: hiện thực và siêu hình
Trong Truyện Kiều có hai mạch chuyện: mạch nổi và mạch ngầm.
Mạch nổi là cái mà ta có thể thấy bằng con mắt trần tục: bọn sai nha gây oan khổ cho nhà Vương viên ngoại, đẩy Kiều đến bước bán mình; Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh mưu mô hại đời Kiều; Hoạn Thư hiểm ác và cay nghiệt đày đoạ, Thúc Sinh thực lòng yêu thương cứu chuộc, bà quản gia, vãi Giác Duyên thương tình cứu vớt; Từ Hải nâng nàng lên cao đỉnh chót vót vinh hoa và quyền thế, Hồ Tôn Hiến đạp nàng xuống đáy ô nhục… Tất cả mọi khổ đau của Kiều đều có nguyên nhân trực tiếp do những con người bằng xương bằng thịt gây ra, nếu ta nhìn sự vật bằng con mắt tự nhiên của những người chưa bị vướng bận với những học thuyết về bản thể, sự vật thế nào cứ để nguyên như thế, không thêm bớt cái gì từ bên ngoài vào, và xét đoán mọi người mọi việc bằng lương tri thông thường. Từ cách nhìn này, thấy rõ ngườì lành kẻ ác, kẻ hèn hạ người cao thượng. Trước mỗi nhân vật, mỗi cảnh ngộ, Nguyễn Du đều bày tỏ bộc trực hay thâm thuý thái độ của mình, và những tâm cảm ấy qua lời thơ mà truyền vào người đọc, người nghe. Đối với người đọc bình thường, thế cũng đủ đáp ứng nhu cầu về phương diện nhận thức thực tại.
Một số lý luận gia “có tinh thần chiến đấu” muốn đi đến một kết luận khái quát đậm màu chính trị, mà Xuân Diệu là một trường hợp điển hình. Trong “Bản cáo trạng cuối cùng trong truyện Kiều” [1] chúng ta được thấy mối cảm thương trái khoáy của ông đối với nàng Kiều, và ngợi ca nhầm chỗ đối với Nguyễn Du. Trái khoáy và nhầm chỗ, bởi vì cái sáng tạo thêm rất lớn của Nguyễn Du. không phải ở bản cáo trạng cuối cùng do Xuân Diệu tưởng tượng ra một cách nực cười vì nó không đúng, mà ở hình tượng một nàng Kiều độc đáo, sâu sắc mà sự lựa chọn đã nâng nàng lên cao hơn tầm nghĩ của hàng “nữ nhi thường tình”. Điều đó có được chính là nhờ tài nghệ ngữ ngôn của một Nguyễn Du trác việt.
Xuân Diệu lo cho nàng Kiều ba mươi tuổi sẽ sống như thế nào, thực chất là không chồng không con cho đến hết đời. [2] Chính Nguyễn Du đã nói rõ điều này: “Môt nhà phúc lộc gồm hai…”, nhưng Xuân Diệu không chịu nhận đó là hạnh phúc thực sự, vì nó là “buộc-gioa”, tư sản, dù ông không hỏi Nguyễn Du và Kiều xem nàng có thoả nguyện với cái phúc lộc “buộc-gioa” ấy không? Còn lại một điều là Xuân Diệu xót xa cho cái cảnh “chay tịnh”, “tình mà không dục” của Kiều cho đến hết đời. Nhưng đây chính là sự lựa chọn tự do của Kiều, đem nó ra làm cáo trạng để tố cáo xã hội, thật ra đã hạ thấp nàng Kiều ở cuối câu chuyện, từ vị trí một người ung dung làm chủ đời mình và thân mình, sống cái đời mà tự mình đã chọn, xuống thành ra một nạn nhân có cảnh ngộ và tâm trạng tủi nhục đáng thương; và như vậy, cái ý nghĩa của đoàn viên, tái hồi chẳng còn lại gì, cái kết có hậu lại thành không hậu. Cái đau hão, thương hờ của Xuân Diệu ở đây chỉ càng chứng tỏ ông không hiểu cả Kiều và Nguyễn Du.
Nhà thi sĩ mơ mộng xưa kia có lần đứng giữa đất trời mà cảm nhận cái huyền vi của không gian như có dây tơ, bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu lúc này hăm hở chiến đấu cho một lý tưởng “chống áp bức bóc lột”, lại đưa ra những ý tưởng thô thiển, kỳ cục và thật chẳng thơ chút nào.
Bất cứ lúc nào nhà thơ cũng nên chống áp bức bất công của xã hội dù dưới hình thức nào. Đúng lắm. Vấn đề là bằng cách nào? Bằng cái lối của kẻ độc quyền chân lý: vơ nhận tất cả cái cao đẹp về phía mình và tống tất cả cái xấu xa bị ổi sang phía địch, cuộc “chiến đấu” thật quá dễ dàng.
Cái lôgích ở đây khá đơn giản: Chúng ta (tức là Xuân Diệu) tuyên chiến với mọi xã hội (cũ) áp bức bất công. Và Nguyễn Du, thi hào lớn của dân tộc, trong Truyện Kiều đã lớn tiếng tố cáo những tàn ác bất công của xã hội phong kiến. Có được một Nguyễn Du thiên tài làm đồng minh thì còn gì bằng. Ở đây cũng như nhiều nơi khác, sự tiện lợi là chân lý.
Với những luận đoán ấy, cách cảm cách nghĩ ấy, Xuân Diệu không phải là đơn độc trong cái thời đồng thanh đồng phục về tư tưởng, phần nhiều nặng về khẳng định lập trường chính trị của bản thân hơn là đưa ra những kiến giải, lập luận có tính khoa học. Với những nhà “chiến sĩ tư tưởng” ở những mức độ tự nguyện khác nhau ấy, chỉ xin có một câu hỏi thực tiễn cho mọi lý luận cao siêu: vậy thì sau chừng ấy năm, cái xã hội lý tưởng không có người bóc lột người của quý vị, nó đang ở đâu rồi?
Cái mạch thứ hai trong Truyện Kiều, cái mạch ngầm, cũng khá rõ nét: bóng ma Đạm Tiên một lần hiển hiện và ba lần báo mộng là một sợi tơ xuyên suốt cuộc đời chìm đắm của Kiều, một thầy phù thuỷ cao tay “phi phù trí quỷ”, một bà Tam Hợp đạo cô nhìn rõ bước đường đời vị lai của Kiều mà như đọc từ sách ra, đúng đến từng chân tơ kẽ tóc.
Mạch ngầm này phải được lý giải bằng thuyết siêu hình. Có hai thuyết được nhắc đến nhiều: thuyết “tài mệnh tương đố” và thuyết nhân quả nhà Phật.
Thuyết “tài mệnh tương đố” mang nặng màu sắc định mệnh, thật ra là một thứ triết lý của giới nho sĩ tài tử, là nơi gửi gắm tâm sự của những con người tự thấy mình có tài mà không thoả chí, tự cho mình lao đao lận đận vì tài. Ta có thể tán đồng hay bác bỏ nó, nhưng không thể phủ nhận sự có mặt của nó trong Truyện Kiều, từ nội dung đến hình thức, kết cấu, từ cốt truyện đến ngôn ngữ. Khác với các thuyết khác, thuyết này có một đặc điểm gọi là “đồng bệnh tương liên” của những người cùng hội cùng thuyền: Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như khóc Kiều, ba trăm năm nữa ai người khóc Tố Như? Chữ khóc ở đây không đơn giản đâu, khóc thương thì ai cũng khóc được, nhưng tiếng khóc của Trần Dần, Văn Cao chẳng hạn, khác với tiếng khóc của Tố Hữu, Xuân Diệu... nhiều lắm. Tất nhiên những Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, Bùi Ngọc Tấn, cũng như những M. Bulgakov, B. Pasternac, v.v…, những tài hoa của thời hiện đại biết rõ tai hoạ của mình đến từ đâu, nên họ không kêu “trời xanh”, “hoá công” hay “con tạo” làm gì cho mất công; nhưng đó là vấn đề thời đại. Chỗ nương dựa của chủ nghĩa định mệnh là những “hoạ phúc khôn lường” trong thế gian, những chuỗi ngẫu nhiên của đời sống vô thường trước sự bất lực của lý trí, ở người thường thì không sao, nhưng hễ rơi vào những bậc tài hoa lỗi lạc thì luôn gợi lên lòng thương cảm mênh mang nơi những ai biết giá trị của “Tài” mà không làm được gì khác hơn là oán “Mệnh”. Xem thân thế và văn chương Nguyễn Du, ta thấy cái tâm sự này xuất hiện hơi nhiều. “Nghĩ về mình”: Bản vô văn tự năng tăng mệnh, Hà sự càn khôn thác đố nhân? (văn chương vốn chẳng căm hờn mệnh, cớ chi trời đất ghét ghen người - Bùi Hạnh Cẩn dịch). “Độc Tiểu Thanh ký”: Phong vận kỳ oan ngã tự cư (Ta tự thấy mình trong nỗi oan lạ lùng của con người phong vận). “Viếng mộ Đỗ Phủ”: Nhất cùng chí thử khởi công thi (Có phải vì thơ hay nên mới nghèo đến thế) và sâu đậm hơn cả, thống thiết hơn cả chính là Truyện Kiều, đã nói hộ tâm sự của bao lớp ngườì, như Phạm Quí Thích, người bạn tâm giao của Nguyễn Du đã viết: “Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy, Tân thanh đáo để vị thuỳ thương?” (Một mảnh tài tình là cái lụy chung của muôn đời, vậy thì cuốn Tân Thanh này cốt để thương xót ai?)
Về thuyết nhân quả của Phật giáo, chúng ta còn có dịp xem xét kỹ dưới đây.

3. Sự lựa chọn của Kiều trên hai bình diện
Trong đời mình, Kiều không phải con người thụ động mà luôn tự mình lựa chọn, quyết định. Ta có thể xem xét các lựa chọn của Kiều trên hai bình diện: hiện sinh và siêu hình.
Trên bình diện hiện sinh, con người hoàn toàn tự do (“buộc phải tự do”) lựa chọn hành vi thái độ của mình, mỗi lựa chọn cho thấy Ta là ai, Ta thế nào (“không phải lựa chọn hoàn cảnh cho TA, mà lựa chọn TA cho hoàn cảnh”).
Trên bình diện siêu hình, theo lý thuyết nhân quả và nghiệp của Phật giáo, lựa chọn là lựa chọn lấy một cái nhân và rồi quả sẽ đến sau, nhân nào thì quả ấy, lựa chọn bây giờ là nhân của mai hậu, hoạ phúc trong vị lai. Trần Trọng Kim viết: “Theo cái lý thuyết ấy, thì phàm phúc hay họa là ở tự mình gây ra cho mình. Mình đã có cái hoàn toàn tự do mà làm việc thiện hay việc ác, thì mình lại có hoàn toàn trách nhiệm về những việc ấy”. [3]

3.1. Cuộc đời Kiều trong giới hạn hiện sinh:
Lựa chọn đầu đời của Kiều là lựa chọn tình yêu:
Rằng trong buổi mới lạ lùng,
Nể lòng có dễ cầm lòng cho đang.
Chót lòng quân tử đa mang,
Một lời vâng tạc đã vàng thuỷ chung
Cái lý lẽ “vì buổi mới lạ lùng nên khó lòng chối từ” nghe mới thật lạ lùng, nhưng nó thật dễ thương vì đúng là lý lẽ của con tim.
Trong sự lựa chọn ấy, ta thấy một nàng Kiều say đắm nhưng tự tin, thanh thoát và dường như cảm thấy được hoàn toàn tự do. Trong suốt quãng ngày đêm nhớ nhung, hò hẹn, kể cả ban ngày Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường lẫn ban đêm Xăm xăm băng nẻo vườn khuya một mình nàng chỉ nghĩ đến tình yêu và người yêu, không một thoáng bận lòng về những trói buộc cấm đoán của lễ giáo hay những đe doạ của miệng lưỡi thế gian. Đây là điều mà các nhà nho chính thống không thể nào chấp nhận, họ nổi xung vì trong cái vòng lễ giáo của họ, người phụ nữ làm gì có quyền tự do chọn tình yêu và hôn nhân cho mình. Sau Nguyễn Du cả gần thế kỷ mà những bậc quân tử ở ta còn cho rằng đạo đức chỉ là tuân phục sự cấm đoán, mà hành vi đẹp nhất là biết tự cấm mình Khoan khoan ngồi đó chớ ra, nàng là phận gái ta là phận trai, thì quả thật hành vi của Kiều đã vượt lên trên những dây dợ lằng nhằng của thời đại mình mà trở thành biểu tượng đẹp của tình yêu muôn thuở.
Trong cả đoạn thơ 22 câu (từ câu 501 đến câu 522): Thưa rằng đừng lấy làm chơi… Còn thân còn một đền bồi có khi - lời nàng Kiều khuyên ngăn Kim Trọng giống như một bài thuyết giảng đầy chữ nghĩa, ta thấy nàng là người có suy tư sâu sắc chứ không phải nặng tình mà nhẹ lý như có người nhận xét. Cũng là theo những ước lệ về “chữ trinh”, “bố kinh”, “tòng phu”, nhưng thấu đáo hơn, nàng cốt giữ cho tình yêu được vẹn toàn, những chữ “chán chường”, “rẻ rúng” cho thấy cái từng trải, nhìn xa của cô gái mới chớm tuổi “cặp kê” đã không hoàn toàn là “vị thành niên” nữa. Về phương diện tình dục, trong suy nghĩ của Kiều, không phải bao giờ cũng chỉ đơn giản một chữ “không”. Trong đêm “tân hôn” trớ trêu với Mã Giám Sinh, Kiều đã hối tiếc Biết thân đến bước lạc loài, nhị đào thà bẻ cho người tình chung cái ý nghĩ thầm kín nhưng rất táo bạo - ước vọng quyền tự do, làm chủ đối với thân xác của mình - nhất định sẽ bị các nhà đạo đức Khổng giáo kết tội là hư đốn, vì cam chịu và vâng phục mới là chuẩn mực đạo đức mà họ đề ra cho người nữ. Trong hành vi này Kiều có nét điển hình của người phụ nữ Phương Đông: yêu thiên về cho - hiến tặng, không màng nhiều đến nhận - thụ hưởng. Đây cũng là một nội dung chữ TRINH của nàng, ham muốn tình dục được dẫn dắt, định hướng bằng lý trí hơn là bản năng. Để ý đến tính nhất quán trong hành vi, ngôn ngữ, tâm lý của nhân vật Thúy Kiều từ lần gặp gỡ đầu tiên với Kim Trọng đến khi tái hồi như nhắc đến ở trên, ta càng thêm thán phục thiên tài Nguyễn Du.
Lựa chọn lớn nhất trong đời Kiều là “bán mình chuộc cha” cứu được gia đình nhưng đã đẩy nàng vào một bước ngoặt tăm tối trong đoạn đời tiếp theo với biết bao đau đớn nhục nhã dày vò. Khi lâm sự, Kiều là người dám có những quyết định khốc liệt. Nàng đã ba lần chọn cái chết. Hai lần định quyên sinh để giữ trọn danh tiết (lần một: ở Phường trọ với Mã Giám Sinh, Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh. Nghĩ đi nghĩ lại…; lần hai: trong tay Tú Bà, Thôi thì thôi có tiếc gì. Sẵn dao tay áo tức thì giở ra); đó là những lựa chọn của phẩm giá (Đến điều sống đục sao bằng thác trong) nên không thể coi là tiêu cực. Lần cuối ớ sông Tiền đường, cái chết là lối thoát duy nhất sau những đớn đau nhục nhằn cùng tột của kiếp người. Hai lần nàng đã chọn lầm khi mong dựa vào người khác để tìm kế thoát thân khỏi chốn ô nhục: một lần với Sở Khanh, Cũng liều nhắm mắt đưa chân là đưa chân vào cạm bẫy; một lần với Thúc Sinh, Thương sao cho trọn thì thương, Tính sao cho vẹn mọi đường thì vâng, thì kết cục là không trọn ven. Và rất nhiều lần, trong nhiều hoàn cảnh (với mẹ Hoạn Thư, với Bạc Bà Bạc Hạnh, với Hồ Tôn Hiến sau cái đêm hạ công ấy) nàng không hề được lựa chọn.
Những lựa chọn của nàng Kiều cho thấy nàng là một người đàn bà không tầm thường, vì dám sống bằng những ý nghĩ của riêng mình, dám là chính mình. Trên kia ta đã nhắc tới một nét tính cách điển hình của phụ nữ Phương Đông trong tình yêu. Trong tính cách của phụ nữ phương Đông, còn có một nét khác cũng rất điển hình, đôi khi được hiểu như một đức hy sinh cao cả: đó là sự cam chịu nhẫn nại, suốt đời âm thầm như một cái bóng của người khác, của những người khác (cha, chồng, con), suốt đời sống cho người khác mà chưa một lần sống cho riêng mình. Kiều không thuộc type này.
Dù là lựa chọn hành vi ứng xử hay đường đi nước bước, từ những toan tính, đắn đo, hay trước thúc ép của hoàn cảnh, mỗi lựa chọn của Kiều một mặt dẫn đến bước tiếp theo trong số phận của nàng, mặt khác cho ta thấy Kiều là Kiều.
Trong các lần lựa chọn của nàng, có một lần sai lầm chết người: đó là lần xui Từ Hải ra hàng để rồi chui đầu vào thòng lọng của Hồ Tôn Hiến. Lựa chọn đó rốt cuộc đưa đến cái chết và làm tiêu vong sự nghiệp của Từ. Đối với một anh hùng như Từ Hải, trong chiến trận thắng bại sống chết tưởng cũng là chuyện thường. Riêng hình ảnh một Từ Hải Khí thiêng khi đã về thần, nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng là một dấu hỏi khủng khiếp chất lên lương tâm nàng Kiều - lầm lỡ hay phản phúc? thật dạ hay hai lòng? - và chỉ câu trả lời của nàng thà cùng sống chết một ngày với nhau mới giải được cái khí uất ngất trời kia, để Từ đi về nơi chín suối mà không phải ôm hận đã chết dưới tay nàng. Ý này đã hai lần dội lại lương tâm nàng Kiều, Trong mình nghĩ đã có người thác oan, và giết chồng mà lại lấy chồng lương tâm nàng tự gánh lấy trách nhiệm do lầm lỡ trong lựa chọn của mình.
Thái Kim Lan viết: “Kiều thường không được nghe, ngay cả với Thúc Sinh hay Từ Hải, Kiều đã không được nghe bằng tất cả tấm lòng yêu thương và trân trọng, và nhất là không được hiểu.”2 Không đúng! Kiều đã được Hoạn thư nghe (cho ra ở Quan âm các). Thúc sinh lúc đầu cũng có ý định nghe (lời khuyên của Kiều), nhưng sau tự ý làm trái là do nhu nhược và vụng dại - điều mà Kiều đã tiên cảm. Chính vì Kiều được nghe mà những lựa chọn của Kiều mới được thực hiện, và dở hay thế nào, chính nàng phải chịu trách nhiệm, có khi không chỉ với bản thân nàng. Những lần lựa chọn mà không được nghe là những lựa chọn phản kháng. Về phần Từ Hải, Từ Hải chưa hề tỏ ra không nghe lời Kiều, trừ cái lần quyết lòng dứt áo ra đi, cười rằng Tâm phúc tương tri, sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình - (mà không nghe như thế là đúng!). Trong cái mối tâm phúc tương tri ấy, Từ không phải lúc nào cũng chiều theo ý Kiều, nhưng luôn luôn hiểu cả đến những nỗi niềm sâu kín của nàng: Xót nàng còn chút song thân, bấy lâu kẻ Việt người Tần cách xa. Ngược lại, Kiều đã không thật sự hiểu Từ, để có lúc thì tán dương và khích lệ: Tấn Dương được thấy mây rồng có phen rồi có lúc lại cảnh tỉnh: Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào. Hồ Tôn Hiến đã biết đánh vào chỗ yếu nhất của cặp anh hùng - giai nhân này: đứng trước nguy cơ và thử thách (sự chiêu hàng của Hồ Tôn Hiến) mà tâm tư hai người không đồng điệu:
Từ Hải:
Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?
Kiều:
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha
Hai hướng suy nghĩ ngược chiều nhau về cùng một khía cạnh của vấn đề: viễn cảnh của giải pháp ra hàng. Cuối cùng thì chàng đã nghe nàng,... ra hàng, và chết! Nếu lần này Từ Hải quyết đoán hơn và không nghe cái tâm sự nữ nhi thường tình kia, thì sự nghiệp của Từ chưa biết thế nào, (sức này đã dễ làm gì được nhau) có thể cũng sẽ tan vỡ, nhưng mối tình của hai người chắc không chia lìa, và cái ước nguyện thà cùng sống chết một ngày với nhau chắc có cơ thực hiện được.
Sự thiếu nhất quán trong tâm tư Kiều là điều hoàn toàn có thể hiểu được. Sau bao nhiêu sóng gió dập vùi, bao nhiêu bất trắc khôn lường, từ trong sâu thẳm tâm can, khát khao cháy bỏng nhất của nàng là khát khao cuộc sống yên bình, như mọi người dân thường. Đi theo Từ Hải, nàng đã cảm tất cả cái bấp bênh của kiếp phù hoa. Mong muốn của nàng chỉ là đánh đổi cái vinh hoa phú quí bấp bênh này lấy cái địa vị vững vàng bình ổn của một danh nghĩa chính thống. Những ngôi mệnh phụ, những phu quí phụ vinh, những rỡ ràng mẹ cha chẳng qua là cái hệ quả kéo theo nếu mong ước kia thành sự thật. Nàng biết đâu rằng cái bất trắc khủng khiếp nhất, sự dập vùi tàn tệ nhất đang rình nàng ở phía trước, trong những lời mời gọi đường mật kia. Nhưng Từ Hải, một khi đã dấn thân vào cuộc chơi, đã rạch đôi sơn hà, Từ thừa hiểu cuộc đổi chác đâu có đơn giản như vậy. Dựng lên một nhân vật Từ Hải phản loạn trên đường đời của Kiều, dù có ý thức hay không, (những) ngườì viết Truyện Kiều cũng đã đặt ra vấn đề chính thống và phản kháng. Và ở đây đã thể hiện toàn bộ mâu thuẫn trong tư tưởng Nguyễn Du. Giọng thơ của ông chưa bao giờ sảng khoái hào hùng như khi ngợi ca Từ Hải, và ai bảo cái chí Phong trần mài một lưỡi gươm, những phường giá áo túi cơm sá gì không phải là của chính Nguyễn Du? Và rồi những thánh trạch dồi dào, năm mây chiếu trời làm ta thấy sự kính cẩn của ông đối với cửu trùng, niềm tin của ông vào cái vĩnh cửu chính thống Bốn phương phẳng lặng hai Kinh vững vàng vẫn không hề lay chuyển.
Để nhận rõ hơn thân phận nàng Kiều, chúng ta hãy xem những bộ mặt người đứng bên kia - những nguyên nhân trực tiếp của mọi nỗi thống khổ của nàng - qua cách miêu tả cũng là lối thể hiện thái độ của Nguyễn Du. Với Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, đó là những tiếng chửi dân dã: giống hôi tanh, mặt mo, phường bán thịt, quân buôn người. Bộ mặt Hồ Tôn Hiến thì lại được phác thảo trang trọng, uy nghi nhất - Quan Tổng đốc trọng thần, kinh luân gồm tài, vâng chỉ đặc sai. Trong khi những Tú Bà, Mã, Sở… là phản diện, thì Hồ Tôn Hiến là hình ảnh chính diện, đại diện chính thức của xã hội phong kiến. Ta đừng nên suy diễn theo lối dân gian gán cho hai chữ “quân tử” mọi nghĩa tốt đẹp ở đời để rồi gọi Hồ Tôn Hiến là nguỵ quân tử là không đúng: Hồ Tôn Hiến đáp ứng đầy đủ nội dung của các định nghĩa của Khổng Tử về “quân tử”. Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ! Tu thân ư? Thì Hồ đã biết hổ thẹn cho cái phương diện quốc gia của mình sau khi chung đụng với gái giang hồ là nàng Kiều: Phải tuồng trăng gió hay sao? Hỡi ôi, chính cái nỗi hổ thẹn của Hồ Tôn Hiến mới thật sự chôn vùi vĩnh viễn nàng Kiều, mới diệt trừ tận gốc mọi niềm kiêu hãnh làm người của nàng, mới cho nàng nếm trải đến cái nhục nhã tột cùng của kiếp người. Sau cái lằn mức đó thì cái chết xem ra là lối thoát nhẹ nhàng thanh thản nhất.
Thái độ nàng Kiều trong cái đêm oan nghiệt ấy mới thật lạ lùng. Một nàng Kiều biết phản kháng và dám phản kháng, giờ chỉ còn khóc lóc và tuân phục. Một nàng Kiều có tâm hồn cực kỳ mẫn cảm, bây giờ như một cái máy vô hồn nhất nhất theo lời người khác.
Đôi hàng nước mắt đôi làn sóng,
Nửa đám ma chồng nửa tiệc quan
Tổng đốc ví thương người mệnh bạc
Tiền đường chưa chắc mả hồng nhan
Cái bi phẫn của nhà nho thi sĩ kia về cách hành xử của nàng Kiều đêm ấy, dù hơi quá cay độc, chưa hẳn là không có lý. Tất cả diễn ra vào cái đêm ngay sau buổi chiều mà Kiều phục xuống tạ tội với Từ. Từ Hải, đối với Kiều, còn hơn một người chồng.
Người ta nói đến việc Kiều ngang nhiên ca tụng Từ Hải trước mặt Hồ Tôn Hiến. Và rồi người ta không thể hiểu nổi, và linh hồn Từ Hải sẽ ngỡ ngàng biết bao trước cái cảnh người phu nhân yêu dấu, tâm phúc tương tri vốn được Từ vớt ra khỏi bụi lầm đưa lên ngôi hiển quý, nay đang hạ mình xin xỏ lòng thương hại nơi kẻ thù của Từ: xin cho thiển thổ một đôi, gọi là đắp điếm lấy người tử sinh. Ta nên lưu ý điều này: Hồ Tôn Hiến, với danh nghĩa chính thống đã tiêu diệt Từ, dập tắt Từ, là kẻ thù của Từ Hải, nhưng trước sau chắc chắn không hề là kẻ thù của Kiều. Hồ Tôn Hiến có ghi công nàng trong thắng lợi của mình. Kiều cũng đã nhận công ấy, dù chỉ là công ít, tội nhiều. Bà Tam Hợp đạo cô cũng nhắc công ấy khi nói đến phán xét của Trời: hại một người cứu muôn người. Nghĩa là cái việc vô tình của Kiều khi khuyên Từ Hải ra hàng bây giờ trở thành hữu ý. Từ Hải và triều đình (thông qua Hồ Tôn Hiến) là hai phe đối nghịch. Vậy Kiều đứng về phe nào? Câu hỏi này xin gửi cụ Nguyễn Du. Không, Kiều không lựa chọn.
Một số nhà phê bình như Hoài Thanh cho rằng Từ Hải là hình bóng một lãnh tụ khởi nghĩa, và hình tượng Từ là giấc mơ tự do, mơ công lý. Đúng, chỉ đến khi với Từ Hải, Kiều mới có tự do, và mượn quyền uy của Từ, Kiều đã có lần nắm lấy cán cân công lý. Không sai, nếu ta cho rằng đây chính là giấc mơ của Nguyễn Du. Qua giấc mơ này, quyền làm người của Kiều đã được lập lại sau bao tan nát.
Bây giờ ta hãy xét cái quyền làm người ấy đã được tiếp nối thế nào dưới tay Hồ Tôn Hiến. Dưới mắt Hồ Tôn Hiến, Kiều là ai? Dĩ nhiên, sau khi Từ Hải thất trận, Kiều không hề là đại vương phu nhân, là người đàn bà tài trí cũng dự quân trung luận bàn mà nhờ đó kế của Hồ mới thành. Hồ công cũng có ân cần hỏi han, cũng thương tình nghe lời xin của Kiều mà cho quấn cỏ quanh xác Từ Hải vùi sơ sài ven sông. Rồi khi bắt nàng thị yến dưới màn. Dở say, lại ép cung đàn nhặt tâu, rồi đến lúc rạng ngày nhớ ra, tất cả những việc mà người đời bảo là “dở trò dâm ô” ấy, Hồ làm một cách điềm nhiên, thản nhiên đến thế, ta mới hiểu ra rằng: dưới mắt Hồ, Kiều chỉ là một con hát, không hơn, không kém. Đó là điểm rơi của Kiều, kể từ khi mơ được thấy mây rồng, đến khi phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng, rồi lên nữa, đã có lúc cùng Từ Hải sánh vai ngồi giữa trướng hùm, lên đến đỉnh tót vời của tự do ý chí: vung ngàn vàng báo ân và hạ lưỡi đao báo oán, thì giờ đây: thân cát bụi lại trở về cát bụi, cái tấm thân khiến người dính dáng đến nó phải hổ thẹn, tìm cách xí xoá là gả cho thổ quan để đáp lại cái nguyện ước nhỏ nhoi của nàng được thấy gốc phần là may.
Khi bị Hoạn Thư vùi liễu dập hoa, làm cho không ngẩng được mặt lên, Kiều đau hơn là nhục, cái đau bị chia uyên rẽ thuý hơn là cái đau thể xác. Ghen với Kiều, Hoạn Thư còn coi Kiều là đối thủ, là tình địch, và những mưu chước hiểm ác lạ đời kia chính là để đối phó với sức quyến rũ mê hồn của Kiều mà Hoạn Thư tự biết mình không sánh nổi. Với Hồ Tôn Hiến, Kiều không có cái hân hạnh ấy. Từ Hải bị tiêu diệt, thân phận Kiều trở về con số không. Kiều đã được ân cần hỏi han ý kiến, và khi nghe cái ước nguyện của Kiều chỉ là Hơi tàn được thấy gốc phần là may, thì đây Quyết tình, Hồ mới đoán ngay một bài. Lệnh quan ai dám cãi lời, Ép nàng mới gán cho người thổ quan. Phải rồi, lệnh quan thì ai dám cãi, và mọi đau đớn dập vùi chỉ là do ông tơ kia đã vơ quàng vơ xiên!
Hoạn Thư khi xem qua tờ thân cung biết được cảnh ngộ của Kiều, đã động lòng trắc ẩn, Rằng: tài nên trọng mà tình nên thương, cho ra ở Quan Âm các, cách giải tình thế của Hoạn Thư cũng là mở cửa cho Kiều. Quyết sách của Hoạn Thư thật là sâu sắc: để cách ly Kiều, còn gì hay bằng cho nhờ Cửa Không, nếu thành tâm theo Phật, lửa lòng nào chả tắt! Đó chính là nguyện ước của Kiều, mà Kiều không theo được. So sánh với cách hành xử sau này của Kiều khi muốn báo oán, thi sĩ Bùi Giáng đã hài hước cho rằng Hoạn Thư có chỗ còn “quân tử” hơn Kiều. Vâng, ông thật chí lý, nếu như các nhà nho ta có thể nuốt trôi cái khái niệm “quân tử-gái”, thưa Bùi tiên sinh!
Sau khi kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền số phận Kiều diễn biến thế nào ta đã biết. Để thoát ra khỏi cái tình thế khó xử (sự này biết tính thế nào được đây?) Hồ đã quyết một bài được một công đôi việc: thổ quan được trả công hậu hỹ, mà cái phương diện quốc gia kia được bảo toàn trọn vẹn.
Qua bao thăng trầm, rõ ràng đây là điểm thấp nhất mà phận Kiều rơi xuống.
Ta thấy rõ ở đây, từ khi nói đến chuyện ra hàng, ý nghĩ của Kiều luẩn quẩn bao nhiêu, đụng đến chính thống và phản kháng, Nguyễn Du lại mâu thuẫn bấy nhiêu. Thuý Kiều bị giằng xé hay Nguyễn Du bị giằng xé?

Kiều đã ba lần thuyết phục các người tình của mình. Với Kim Trọng, là thuyết về chữ TRINH, hay là giữ gìn sự trong sáng và bền chặt của tình yêu. Với Thúc Sinh là phương sách để vừa giữ yên gia đạo vừa định rõ danh phận của Kiều. Hai lần ấy, lần nào lý lẽ cũng rạch ròi, phân minh, tỏ tường, sắc sảo, và cũng là những ý nghĩ của chính nàng. Nhưng đến lý lẽ thuyết phục Từ Hải ra hàng thì ta thấy không xuôi. Nó như một bài đọc thuộc lòng kinh sách. Với Từ Hải dọc ngang nào biết trên đầu có ai thì nàng có câu Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao. Với Từ Hải vào luồn ra cúi công hầu mà chi thì nàng đã có lý lẽ Công danh ai dứt lối nào cho qua, v.v…; thật là ông nói gà bà nói vịt. Chưa hết. Trên vì nước dưới vì nhà, một là đắc hiếu hai là đắc trung, phải chăng là tâm sự của nàng Kiều, chữ TRUNG phải chăng là bổn phận của một người con gái lê thân qua kiếp phong trần và gửi gắm cuộc đời vào kẻ phản loạn? Câu hỏi này xin gửi cụ Nguyễn Du. Không, chính cụ cũng chưa trả lời được câu hỏi ấy cho mình.
Không thể nào bảo rằng những dằn vặt này không phải là một phần quan trọng trong tư tưởng Nguyễn Du. Bằng hiển ngôn, Nguyễn Du không tố cáo, ông chỉ phơi bày. Nhưng nỗi lòng thật của mình, ông không giấu được, và cũng không muốn giấu.
Chú thích:

[1] Xuân Diệu, “Bản cáo trạng cuối cùng trong Truyện Kiều”, Tuyển tập Kỷ niệm 200 năm Nguyễn Du, Nxb Khoa học xã hội, 1965 (Dẫn theo chú thích 3)
[2] Bài đã dẫn.
[3] Thái Kim Lan, “Ý niệm đoàn viên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du”, talawas, 14.3.2005

3.2. Cuộc đời Kiều qua cái nhìn Phật giáo
Những ai học Phật đều cảm thấy mình đi dưới bầu trời tự do tư tưởng. Phật không độc quyền nắm giữ chân lý. Dĩ nhiên người muốn theo Phật thì phải có niềm tin vào Phật, nhưng vẫn có thể tôn trọng những niềm tin khác. Qua hai mươi lăm thế kỷ hệ tư tưởng Phật giáo đã phát triển ra vô số hệ phái với nhiều cấp độ khác nhau. Thái Kim Lan cho rằng tư tưởng Nguyễn Du trong Truyện Kiều thuộc hệ Bát Nhã (Không luận) của Long Thọ và Thiền tông của Huệ Năng. Cũng cần phân biệt trong đạo Phật hai phương diện: triết học và tôn giáo; trong đó tôn giáo là nơi lý trí bất lực và chỉ còn lòng tin là chỗ dựa duy nhất.

a. Tứ diệu đế
Thái Kim Lan viết: “Nguyễn Du đã sử dụng cái khung giáo lý Phật giáo “tứ diệu đế“ để thực hiện bản trường ca Ðoạn trường tân thanh một cách sáng tạo: nếu câu chuyện 15 năm lưu lạc giang hồ của nàng Kiều từ khi “bán mình chuộc cha”, “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần” cho đến khi trầm mình ở sông Tiền Ðường là một thực chứng thấu đáo của hai diệu đế đầu “khổ và tập khổ”, thì cuộc đoàn tụ gia đình và tái ngộ người yêu thuở ban đầu là cơ hội diệt khổ của nàng Kiều, là cơ hội sự thực hiện giải phóng khổ đau toàn diện nằm trong hai diệu đế sau “diệt và đạo” như vế đối hay vế đóng cho hai vế đầu.”
Cơ hội diệt khổ, giải phóng trong cuộc đoàn viên và tái ngộ, chính là nhờ ở Kim Trọng quân tử, khác lòng người ta. Nếu Kiều có được quả phúc từ kiếp tu của mình hay nhờ phép màu cứu độ của Quan Âm, thì phép màu ấy đã cho nàng đến lúc này gặp lại một Kim Trọng vẫn còn là chàng Kim - người tình tuyệt diệu - như xưa. Hãy thử tưởng tượng một kết cục khác, Kiều gặp lại một Kim Trọng đã bị quan trường làm cho biến chất, thành một phường giá áo túi cơm chẳng hạn? Cội nguồn khổ đau hạnh phúc cho con người vẫn là chính con người. Không biết Nguyễn Du có nghĩ thế không, nhưng Truyện Kiều nói thế. Thái Kim Lan cũng hơn một lần nói đến “tha nhân là địa ngục” (mượn cách nói của J. P. Sartre nhưng không phải cách hiểu của Sartre), có lẽ lúc này phải nói tha nhân cũng là thiên đường.

Khổ đế:
Thái Kim Lan ca ngợi sự đồng cảm của Nguyễn Du với nỗi đau xé lòng của Kiều: “Giây phút giác ngộ mà Nguyễn Du bắt gặp cũng là giây phút bừng nở hạnh từ bi, hàng tâm theo Phật ‘thuyết pháp độ nhân như hằng hà sa số’, từ đó phát tâm lân cảm vô hạn với nỗi đọa đày ’đau đớn thay phận đàn bà’”.
Điều này có thể hoàn toàn đúng dưới một góc nhìn, nhưng nó không loại trừ cách nhìn khác: cái tâm đắc “Tài mệnh tương đố” của giới văn nhân tài tử, Kiều khóc Đạm Tiên, Nguyễn Du khóc Kiều, ba trăm năm nữa còn ai khóc Nguyễn Du, đều là đồng bệnh tương liên cả.

Tập đế:
Thái Kim Lan nhiệt thành ca ngợi mối tình Thúy Kiều Kim Trọng: “Mối tình đầu vừa hé cánh cửa cho người con gái thấy cõi hạnh như chốn ‘động đào’, tràn đầy yêu thương và hi vọng của miền đất phúc ‘thiên thai’, với nỗi gắn bó ‘song song hai miệng một lời đinh ninh’ trước ‘vầng trăng vằng vặc’”.
Nhưng thiết nghĩ, dù đẹp đẽ đến đâu, mối tình này, ái dục này, chẳng phải là một biểu hiện của vô minh sao? (nếu như tác giả không có ý định bác bỏ nguyên lý Tu là cỗi phúc, tình là dây oan - tư tưởng nhà Phật hay cũng là của chính Nguyễn Du?)
Thái Kim Lan say sưa ca ngợi “khát vọng đoàn viên” của Kiều trong bước đường lưu lạc, lòng thương cha nhớ mẹ, nhớ cảnh gia đình êm ấm xưa kia. Nhưng cái tham luyến ấy chính là cái mà nhà Phật gọi là phiền não. Đó chỉ là những tình cảm rất thông thường của con người, nhưng ở nàng Kiều tài hoa, nó sâu đậm khác thường. Muốn bước lên đường giải thoát thì phải ly nó ra, xả nó đi, chớ có đâu cứ khư khư ôm lấy nó mà tưởng rằng nó là phương tiện giải thoát?
Dù Phật giáo Bát nhã có cái nhìn hết sức cởi mở đối với chữ “Tình” thì ta thấy vẫn có chỗ khác biệt, “có điều kiện”. Đối với Thái Kim Lan thì điều kiện đó là chữ TRINH - “ái mà không dâm”. Chúng ta thấy rõ tình của Thuý Kiều ở đoạn đoàn viên này không còn là cái tình say đắm ban đầu nữa, mà đã khác hoàn toàn về chất. Có lẽ đây chính là điểm làm thất vọng những người vốn nặng lòng với mùi tục luỵ của TÌNH, những người nghiêng về Thị Mầu hơn là Thị Kính, như Xuân Diệu chẳng hạn.

Diệt đế:
“Ðắm chìm trong thân phận ấy, con người có thể có hai thái độ, như Kiều đã có: tuyệt vọng phẫn uất và khao khát được giải thoát, tìm mọi cách để giải thoát. Chính vì đi đến tận cùng của cái khổ, con người mới khát khao sự diệt khổ. Diệt khổ có nguyên nhân đã nằm sẵn trong ’chân lý’ đời là bể khổ, chứ không nằm ở một thế lực nào khác. Trong ý nghĩa ấy, bị đoạ đày và mong ước giải thoát trên phương diện triết lý và tu chứng cùng nằm trên một bình diện và cùng trong hiện tại; đồng thời đạo Phật cũng nhấn mạnh, đời người trăm năm là mảnh đất tốt nhất để thực hiện giải phóng, đạt giác ngộ.
“Ước vọng của con người trái lại, và đây chính là diệu đế thứ ba (Tôi nhấn mạnh - HT), là được giải phóng toàn diện lên trên vòng sinh tử ấy mà chỉ có cuộc sống mới cho con người cơ hội thực hiện giác ngộ để giải phóng.” [1]
Diệt khổ thực ra có điều kiện tiên quyết nằm ở chân lý thứ hai (tập đế). Con người có khổ và có khao khát diệt khổ đi nữa, nhưng nếu không có liễu tri về nguyên nhân của khổ theo Phật giáo, thì làm sao được giải thoát theo con đường của Phật? Trong Truyện Kiều qua tâm tư và ngôn ngữ của Kiều, không chỗ nào thấy nói đến điểm này.
Tóm lại, có thể qua cuộc đời oan khổ của nàng Kiều để luận về khổ đế, nhưng Truyện Kiều và Nguyễn Du đã chẳng cho ta biết gì về ba diệu đế sau cả.

b. Nghiệp
Tư tưởng về nghiệp trong Truyện Kiều được bộc lộ rõ hơn. Nguyễn Du viết: Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. Tuy nhiên, tư tưởng này cũng vẫn chung sống với các tư tưởng khác chứ không phải là chủ đạo, lấn át như Thái Kim Lan kết luận.
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài, chữ mệnh, dồi dào cả hai.
Có tài mà cậy chi tài?
Chữ tài đi với chữ tai một vần
Ðã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Trong đoạn thơ trên đây, mở đầu bằng chữ Ngẫm hay, toàn là phát biểu của Nguyễn Du, chứ đâu phải “chỉ 4 câu cuối nói lên chủ trương của tác giả nghiêng hẳn về lý thuyết Phật giáo”.
Câu thơ “Trời kia đã bắt làm người có thân” được Thái Kim Lan diễn giải là thân nghiệp. Nếu đúng thế thì ở câu này đã là tư tưởng Phật giáo. Nhưng câu này lại liền mạch tư tưởng với 4 câu sau, nói về tài - mệnh. Ngay cả câu Trời kia đã bắt làm người có thân cũng gợi cho ta nghĩ ngay đến câu Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả vị ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn? của Lão Tử, dù cho có thể đây là chỗ gặp nhau giữa Phật và Lão. Ngay chữ “thiện căn” cũng có thể thấy nó gần với “tính bản thiện” của Mạnh Tử hơn là cái quan niệm khá đặc biệt của Thái Kim Lan “Chữ TRINH như thiện căn ở tại lòng ta”.
Ở đây cũng như ở những chỗ khác, Nguyễn Du không “dùng tư tưởng Phật giáo để phê bình Nho giáo”. Ông chỉ nói lên tư tưởng của mình, một tư tưởng hỗn hợp cả Phật - Lão - Nho, cả những tâm lý đã tồn tại dài lâu trong dân chúng, niềm tin ngây thơ về một ông trời thưởng phạt, vốn rất xa với tư tưởng Phật học. Rất có thể Nguyễn Du thiên về Phật hơn Nho, nhưng điều đó ông không có hàm ý ở đây. Sự so sánh đánh giá nằm ở chủ quan người đọc.

c. Sự thuần nhất của tư tưởng Phật học
Một điều đáng chú ý là trong truyện Kiều, người nói lên cái tư tưởng về nhân quả, về nghiệp lại chính là Đạm Tiên, một bóng ma, Hội viên Hội Đoạn Trường, một hiện thân của thuyết Tài-Mệnh tương đố:
Âu đành quả kiếp nhân duyên
(Câu 201, báo mộng lần thứ nhất)
Rỉ rằng: nhân quả dở dang
Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao,
Số còn nặng nợ má đào
Người dù muốn quyết, trời nào đã cho
(Câu 995-998, báo mộng lần thứ hai)
Cái tiền oan túc trái ở đây được xử lý bởi một ông trời!
Nhân vật thứ hai diễn giải về chữ NGHIỆP của Kiều là bà Tam Hợp đạo cô, là người mà Giác Duyên, người quan tâm đến vận mệnh của Kiều thường tham vấn. Bà đạo cô này là một tiên tri, thường hé hộ thiên cơ, cả đến sự cân nhắc thưởng phạt của trời, chính nhờ bà này mách trước đia điểm gieo mình của Kiều mà Giác Duyên vớt được nàng, tạo ra cơ hội tái sinh, chuyển nghiệp! Trên bình diện tư tưởng, bà Tam Hợp đạo cô (cái tên có nói lên gì về hợp lưu của ba đạo không nhỉ?) phải được coi ngang hàng với thày phi phù trí quỷ ở chỗ Thúc Sinh, một dạng mê tín dị đoan mà các bậc chân tu luôn bài bác.
Theo Hoàng Ngọc Hiến: “Tư tưởng ’nhân quả’ khẳng định quan hệ nhân quả giữa kiếp này và kiếp trước, kiếp sau. Nội dung hình tượng Truyện Kiều chỉ nói về kiếp này của nàng Kiều. Như vậy, quan hệ ‘nhân quả’ không được bộc lộ ở ngay nội dung của tác phẩm. Ðó là một quan hệ không có nội dung… Như vậy trong Truyện Kiều, triết lý Phật giáo là ngôn ngữ Phật giáo, là những lời giải thích nhưng không phải phải là ý nghĩa đích thực của nội dung hình tượng tác phẩm”. [2]
Theo chúng tôi, chỗ này Hoàng Ngọc Hiến nói đúng vì nhân “Hiếu Tâm” động đến Trời với quả “đoàn viên” phúc sau dồi dào, qua lời Tam Hợp, không phải là ý nghĩa chữ nghiệp của đạo Phật. Trong chữ nghiệp của đạo Phật không có ông trời.

d. Tu là cỗi phúc, tình là dây oan
Tu là cỗi phúc, tình là dây oan, lời phát biểu của sư Tam Hợp đúng là tư tưởng đạo Phật, có lẽ cũng là suy nghĩ của chính Nguyễn Du. Lý trí nghe Phật dạy “tình là dây oan” là ái dục là vô minh che lấp bản thể, nhưng trái tim nghệ sĩ lại rung động sâu xa để viết lên những dòng thơ tả tình đẹp đến nao lòng, với những xúc động ngọt ngào gợi lên hạnh phúc đích thực của tình yêu trần tục.
Lựa chọn của Kiều giữa TU và TÌNH: Sau khi được cứu vớt, cùng Giác Duyên ở lều tranh bên sông Tiền Đường, với Kiều, tu là chuyện đương nhiên, nhưng trước đó Kiều đã có đến hai cơ hội để tu.
Lần đầu ở nhà Hoạn Thư, qua tờ thân cung nàng xin nhờ cửa Không, đã được chấp thuận cho ra ở Quan Âm các, kiểu tu hành thật là sang trọng. Nếu nàng thật khôn ngoan và tỉnh táo, thì phải đủ sức cắt hẳn mối tình vô vọng ấy, và sự thể chắc đã khác. Nhưng mối tình với Thúc Sinh, một mối tình đã khiến Nguyễn Du viết nên những câu thơ đẹp nhất trong văn chương Việt (Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san / Dặm hồng bụi cuốn chinh an, trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh… Vừng trăng ai xẻ làm đôi / nửa soi gối chiếc, nửa soi dặm trường, hay: Long lanh đáy nước in trời, thành xây khói biếc non phơi bóng vàng…) còn quá nặng, quá ám ảnh, tâm trạng nàng những là nhân duyên đâu lại còn mong? Còn tiếc lắm, còn đau lắm, đến nỗi Phật tiền thảm lấp sầu vùi, vẫn nói lời trước mặt, rơi châu vắng người. Chủ tâm của Hoạn Thư không phải muốn hành hạ Kiều, mà chỉ muốn cách ly Kiều khỏi Thúc Sinh. Nhưng chính sự chia cắt ấy đối với Kiều mới là đau đớn nhất. Đến khi có cơ hội lén gặp nhau, thì nói rồi lại nói, lời chưa hết lời, để lúc bị Hoạn Thư bắt gặp mới hốt hoảng đến thế, mới tính bài chạy trốn. Kiều xin Thúc Sinh liệu bài mở cửa cho ra nhưng cách cửa ấy Hoạn Thư đã mở rồi mà Kiều không biết. Đây chính là lúc tình che mờ trí, đến nỗi không chỉ Thúc Sinh thấp cơ thua trí đàn bà mà cả Kiều cũng thua!
Lần thứ hai tu ở Chiêu Ẩn am với Giác Duyên thì bị chính Giác Duyên vì quá khiếp sợ trước uy quyền nhà họ Hoạn mà vô tình đẩy vào tay họ Bạc.
Trong suốt quãng đời chìm nổi, thân phận Kiều đã gợi được niềm thương cảm của nhiều người, nhưng Kiều ít có dịp thể hiện lòng từ bi của mình với người khác. Vụ báo ân báo oán khi Kiều được tựa lưng vào quyền lực của Từ, đã gây thêm nghiệp xấu. Người ta thường đọc xuôi theo truyện Kiều Đạo Trời báo phục, Lồng lộng trời cao, hại nhân nhân hại, rồi trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen, để cho hành động báo ân báo oán ấy một danh nghĩa cao đẹp: thực thi công lý, thoả mãn nỗi khát khao công lý của chúng dân, mà không nhận ra rằng nó chỉ thoả mãn cá nhân nàng Kiều. Lẽ ra, sau bước chuyển biến to lớn của số phận - kết duyên cùng Từ Hải, và sau chừng ấy thời gian, Kiều đã có thể quên đi mọi hận thù để chỉ giữ trong lòng niềm thương nhớ cố hương và ước ao đoàn tụ. Nhưng nàng đã để nó đè nặng trong lòng đến nỗi chỉ sau khi có đầu rơi máu chảy, bể oan mới dường đã vơi vơi cạnh lòng. Hai chữ “khư khư” của bà Tam Hợp nói về Kiều đâu chỉ đúng với chữ Tình. Cái “phiên toà” mà Kiều làm chủ, nghĩa là sẽ gánh hết trách nhiệm ấy, nếu đúng, chưa chắc đã hay, thế mà còn có lầm, khi cho tuốt tuột từ Tú Bà đến Ưng Khuyển chịu chung một tội hình. Sai lầm ấy từ cõi lòng sân hận quá đỗi mà ra. Ngay cả việc đem ngàn vàng để trả ơn bát cơm Phiếu mẫu, và những lời đối đáp với Hoạn Thư chỉ bộc lộ rõ cái ngã mạn của Kiều. Câu nói chối tai nhất thốt ra từ miệng Kiều là câu: Xem cho rõ mặt biết tôi báo thù, và hành vi kỳ lạ nhất là mời sư Giác Duyên chứng kiến cuộc báo thù ấy! Nếu sau này có lúc nhờ Phật mà túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi, thì Kiều nên nghĩ lại để nhìn Tú Bà hay Ưng Khuyển, Thúc Sinh với cùng tấm lòng từ bi độ lượng như nhau. Sau cuộc báo oán, Kiều đã lạy tạ Từ Hải đến câu “Dễ đem gan óc đền nghì trời mây”nhưng rốt cuộc nàng Kiều có tiếng là “ân oán rạch ròi”, “trước sau trọn vẹn” ấy chỉ làm được cái việc cầu xin một nấm đất cho cái xác tàn của Từ, một việc mà nếu chứng kiến chắc Từ phải chết đến lần thứ hai. Nhưng ta cũng phải thể tất cho Kiều, trong tay Từ Hải và trong tay Hồ Tôn Hiến là hai hoàn cảnh khác nhau, với Từ là có tự do và có cả quyền lực nữa, còn với Hồ thì nàng có gì?

e. Đoàn viên và chuyển nghiệp
Có hai loại ý kiến khác nhau về các giải pháp có thể có cho số phận Kiều trong truyện: kết thúc ở sông Tiền đường hay tái sinh và tài hợp. Giải pháp nghệ thuật kết thúc ở sông Tiền đường là ý muốn trung thành với lôgích của hiện thực, đó là tâm trạng phải chấp nhận thực tế, dù nó cay đắng thế nào. Câu chuyện Giác Duyên vì biết được mệnh trời mà đón vớt nàng Kiều khó được những người có đầu óc thực tế chấp nhận. Giải pháp “tái sinh và đoàn viên” thể hiện ước mong, hy vọng thiết tha của tác giả và người đọc. Hy vọng, ước mong có đem đến giải thoát thực sự hay không lại là chuyện khác. Ở đây tác giả đưa yếu tố phi thực vào là do quá thương yêu con người, không nỡ nhìn nàng mãi đau khổ và không muốn kết thúc truyện trong bế tắc nên bằng tưởng tượng của mình đã mở ra lối thoát. Triển khai ý niệm đoàn viên, tác giả lại mở ra một hướng hiện thực mới, hiện thực của Tâm hồn. Giải pháp này phản ánh quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Du (đúng hơn là của Thanh Tâm tài nhân - ta luôn luôn thấy Nguyễn Du chỉ diễn đạt các sự kiện bằng bút pháp và cái tâm của riêng mình, không có ý định sửa đổi nguyên tác)
Về tác nhân chuyển nghiệp, Thái Kim Lan cho rằng: “Cho dù với hành động đó cuộc đời lưu lạc giang hồ của nàng Kiều bắt đầu, nhưng ’hiếu tâm’ của nàng đã trở nên một trong những điều kiện cho ‘phúc sau dồi dào’’’.
Ý Thái Kim Lan muốn nói đến chữ nghiệp trong hiện tại, đây là một ý niệm siêu hình không thể kiểm chứng được mà phải nhờ cậy đến niềm tin tôn giáo.
Hành động hiếu (bán mình) của Kiều là điều kiện để cứu gia đình khỏi tai vạ nhất thời. Trước khi tai vạ xảy ra, đang là MỘT NHÀ êm ấm. Sau thời điểm ly tán ấy “người đàn ông” Kim Trọng một tay cáng đáng, khôi phục, nâng đỡ gia đình trong suốt 15 năm qua cảnh ngặt nghèo; Kim cùng bốn người nhà họ Vương luôn đi cùng một nẻo, còn Thuý Kiều lưu lạc nẻo khác. Khi đoàn viên, lại hợp MỘT NHÀ
“Một nhà phúc lộc gồm hai”
Chữ Phúc ở đây phải hiểu theo hai nghĩa: giàu sang vinh hiển trong cõi tục hay niềm hoan lạc của tâm linh đã được giải thoát? Đạo Phật cho rằng nghĩa thứ hai cao hơn nghĩa trước. Chúng tôi nghĩ rằng ở đây gồm hai cảnh: Kim-Vân hưởng giàu sang vinh hiển, do thành quả công lao của Kim. Kiều vui với cái tâm đang tìm đến Niết bàn (Chẳng tu thì cũng như tu mới là) sau khi đã bén mùi thiền. Bởi vậy “hợp” mà không “hợp” và theo nghĩa của đạo Phật, đó mới là “điều kiện của phúc sau dồi dào”. Hãy thử tưởng tượng nếu cả nhà không tìm được Kiều? Thì vẫn cứ “phúc lộc, quan giai lần lần” dù nhớ thương khôn nguôi! Hay nếu như Kiều cũng theo thói thường trở về với tục? Thì câu chuyện sẽ chẳng còn gì để nói!Vậy thì ở đây là chuyển nghiệp hay chuyển tâm?
Theo Thái Kim Lan: “Nguyễn Du muốn gửi gắm điều gì trong đoạn cuối này, điều gì có thể làm nền tảng cho cuộc sống đoàn viên, cho sự hòa hợp hòa đồng của những con người sống chung với nhau dưới một mái nhà, hay nói theo thuật ngữ chuyên môn: nguyên tắc chung sống hòa bình giữa con người với con người”.
Đặt vấn đề hoà bình và hoà hợp giữa Kiều với Kim Trọng và gia đình - những người suốt đời thương yêu Kiều, từ trước đến sau luôn luôn chấp nhận nàng không một điều trách cứ, thì thật lạ kỳ. Nếu muốn nói đến hoà bình hoà giải đại đồng thì phải nói đến những ai kia, vì trong đời nàng thiếu gì kẻ thù?

f. Không và Thiền
Với cảm hứng dạt dào, Thái Kim Lan say sưa nói đến trình độ cao của tư tưởng Phật học Nguyễn Du qua Long Thọ (Bát nhã), Huệ Năng (Thiền tông), trích dẫn cả Mãn Giác Thiền sư đến Lương Chiêu Minh Thái Tử phân kinh thạch đài, để biết rằng Nguyễn Du đã nghìn lần đọc Kinh Kim Cương. Nhưng vấn đề là tư tưởng Phật học ấy được biểu hiện trong Truyện Kiều như thế nào? Tiếc thay khi cho rằng tư tưởng cao siêu ấy thể hiện qua ý niệm đoàn viên, “là cơ hội diệt khổ, là cơ hội sự thực hiện giải phóng khổ đau toàn diện nằm trong hai diệu đế sau ‘diệt và đạo’… là ý niệm của sự nối tiếp (mùa xuân tiếp sau mùa đông), như ‘đêm qua sân trước một nhành mai’… là ý niệm nhân quả toàn vẹn, là cánh cửa mở ra Niết bàn trong hiện tại”…, thì những lời bình ấy vẫn chỉ là nhã hứng của người viết, trong sự liên hệ với những ý niệm về Phật và Thiền, mà không phải bật lên từ chính hình tượng trong truyện Kiều. Cảnh tượng đoàn viên, xét cho cùng, cũng chỉ là cái kết thúc có hậu giống như trong Nhị Độ Mai, Lục Vân Tiên, Hoa Tiên, Tấm Cám, Phạm Công Cúc Hoa… Tư tưởng Thiền tông hay Bát nhã của Nguyễn Du thể hiện ở đâu khác, chứ không phải trong Truyện Kiều.
Thái Kim Lan đã lấy Nguyễn Du ngoài Truyện Kiều để bình về Truyện Kiều. Những cảm nghiệm về Phật và Thiền được mang từ ngoài vào khi đọc Kiều.
Thái Kim Lan nói nhiều đến khát vọng đoàn viên trở nên một bản ngã thứ hai của nàng Kiều, cho khát vọng ấy là điều kiện tái sinh tái hợp, là điều kiện giác ngộ của Kiều. Chúng tôi không tìm thấy căn cứ cho luận đoán này. Nói như Nguyễn Ðăng Thục có vẻ có lý hơn: “Tâm hồn Kiều trước kia đang còn vọng động, bắt đầu bước vào trường đời, còn ngày nay thì bình tĩnh vì đã biết qua kinh nghiệm bản thân đến chỗ giác ngộ”.

Đúng. Nhưng để giác ngộ đâu có đơn giản dễ dàng. Kinh nghiệm và khát khao là cần nhưng chưa đủ. Để đủ, còn cần có hai điều kiện: Một là, trên bình diện đạo, ngoài kinh nghiệm đời (bể khổ) điều quan trọng hơn là phải có kinh nghiệm tu (giải thoát). Hai là, trên bình diện đời, bể khổ của đời thật sự đã vơi đi. Nếu Thân vẫn quằn quại trong bể khổ mà Tâm đã được giải thoát, thì phải là trình độ siêu việt, chẳng hạn như Mãn Giác Thiền sư trong cơn bệnh trọng vẫn chỉ cho người khác nhìn nhành mai nở buổi xuân tàn hoa rụng hết. Chớ tưởng lầm rằng thần lực của tâm thiền có thể biến hoa tàn thành hoa nở, có thể đẩy lui cơn ác bệnh đang hành hạ thân mình. Chính là trong cõi tâm không vọng động có một bông hoa luôn mãi nở tươi cho dù ngoài kia, trong cõi vô thường có lúc hoa tàn hết. Theo Thái Kim Lan phải nhìn sự vô thường trong viễn tượng của một mùa xuân lại về. Cách nhìn đẹp đấy, nhưng nếu trong đời thực, trong cõi vô thường ấy nó không về, hay trong cái hữu hạn của một đời người, nó chưa kịp về…, thì xin hãy nhìn vào trong TÂM để tìm lấy mùa xuân trong ấy. Không thể lấy cái nhìn lạc quan, lấy ước mơ khát vọng thay cho cái nhìn thẳng vào mặt thật của đời sống, vì đó cũng là mê lầm không kém phần nguy hại.
Nguyễn Du chắc hằng tâm niệm lời dạy của Phật trong Kinh Kim Cương: ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm, nhờ đó mà Lục tổ Huệ Năng cũng như Trần Thái Tông của Trúc Lâm Yên Tử đã bừng ngộ. Với Kiều, cái Tâm vướng luỵ nhất là ở cõi Tình, vậy trình độ tâm linh của Kiều đạt tới mức nào để được gọi là giác ngộ? Như trên ta đã biết, hai lần Kiều ở chùa đều là miễn cưỡng: ở Quan Âm các là tạm chấp nhận để thoát cảnh khổ nhục của kiếp hoa nô, (nhân duyên đâu lại còn mong, khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi), lần sau ở Chiêu ẩn am là tìm nơi độ thân khi bơ vơ chưa biết đi đâu (gửi thân được chốn am mây, muối dưa đắp đổi…). Ảnh hưởng của Phật không thể không có, nhưng nó đến từ từ. Lần đầu Dường gần rừng tía dường xa bụi hồng những tưởng giọt nước cành dương, lửa lòng rưới tắt mọi đường trần duyên nhưng chưa tắt hẳn. Con đường tu Phật vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện để thoát khỏi chữ Tình. Chỉ đến khi gặp lại gia đình, nàng mới có lời tiếp tục chọn đường tu khi trả lời cha:
Đã đem mình gửi am mây,
Tuổi này bạn với cỏ cây cũng vừa,
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi
Lựa chọn của Kiều trong việc nối lại với Kim Trọng, đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ, chính là lựa chọn của một tâm hồn đã bén mùi thiền, cũng có nghĩa là những khao khát duyên tình trong nàng đã thật sự nhạt phai. Sự đời đã tắt lửa lòng không phải chỉ là câu mói buông xuôi. Chỉ có nhờ nó mà nàng mới giữ được sự yên tĩnh của tâm hồn. Khi chén rượu, khi cuộc cờ, khi xem hoa nở khi chờ trăng lên là cái phong độ thanh nhàn không bị câu thúc vì những bức bách của đời sống hay khát khao bản năng. Có thể nghĩ Kiều đã tìm thấy tự do nội tâm, đã tìm được cách làm chủ đời mình, điều mà trong suốt quãng đời luân lạc trước kia, nàng chưa bao giờ có được. Có lẽ không chuyên tâm về tu Phật, nhưng cũng đã xa tục luỵ lắm rồi. Chẳng tu thì cũng như tu mới là.

g. Ái và Dâm
Khi cân nhắc công - tội Thuý Kiều, Tam Hợp đạo cô cho rằng Kiều có “tình tiết giảm nhẹ” là mắc điều tình ái (tội nhe hơn) khỏi điều tà dâm (tội nặng). Có công bằng không khi xã hội đẩy Kiều vào chỗ ô uế phục vụ cho những “giống hôi tanh”, trái ngược với ý chí của nàng muốn giữ “thân nghìn vàng”, mà lại luận về nàng Dâm hay không Dâm, trong khi cả linh hồn nàng, cả cuộc đời nàng là một biểu tượng chống lại nó?
Hết lời ca ngợi Tình yêu cùng với chữ Trinh, Thái Kim Lan đòi hỏi rằng ngay trong quan hệ tình yêu, cũng phải tỏ rõ ranh giới giữa “ái” và “dâm”, giữa mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm.
Yếu tính của ”tình đạo” ấy, theo Nguyễn Du, nằm ở chỗ phải nêu lên được và làm tỏ rõ ranh giới giữa “ái” và “dâm”, giữa “mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm”, chính ranh giới này người phụ nữ hoàn toàn có tự do ấn định, và chính nó khẳng định thể tính (être, Sein) tự do của người đàn bà trong tương quan tình yêu.
Chúng tôi không hiểu nội hàm của chữ “dâm” ở đây. Nếu chỉ là “quan hệ xác thịt” giữa những người yêu nhau, thì đó cũng chính là tình yêu, sao có thể gọi là tà dâm? Và khi yêu thì cả hai đều có quyền tự do lựa chọn. Nếu là quan hệ “không có tình yêu”, chẳng hạn quan hệ mua bán (như Mã Giám Sinh) hay cưỡng bức (như Hồ Tôn Hiến), thì đó là dâm, là vô đạo đức, nhưng trong trường hợp này người đàn bà là nạn nhân, là nô lệ.
“Chưa một lần trong đời, Kiều đã dùng tự do của mình để quyết định dấn thân cho ham muốn tình dục của chính nàng” [3] . Điều này không lấy gì làm chắc. Trong đời người đàn bà đa tình Thuý Kiều đã có ba cuộc tình đều sâu nặng ơn nghĩa, đều yêu bằng cả tâm hồn. Chỉ riêng với Kim Trọng là chưa chăn gối, còn với Thúc Sinh, Từ Hải, đã là vợ chồng. Tình chăn gối với Từ Hải được miêu tả thật cao sang lộng lẫy: đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên. Đó là hôn nhân có tình yêu mãn nguyện, Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng. Nếu trong cuộc hợp hôn ấy Kiều không hề cảm thấy ham muốn tình dục của chính nàng thì có gì là đẹp?
Hãy nên cảnh giác với chữ TRINH vì nó rất gần, dễ lẫn với ý đồ nô dịch nữ giới, hạn chế người phụ nữ trong cái vòng là phương tiện hay tài sản sở hữu của người chồng. Chữ TRINH trong Truyện Kiều có ý nghĩa đặc thù là sự trong trắng của tâm hồn nàng Kiều, mà Nguyễn Du có ý thức trân trọng giữ gìn (hay đúng ra không phải Nguyễn Du, mà Thanh Tâm Tài Nhân đã giữ, nhưng Nguyễn Du đã nâng cao lên) cho nàng suốt cuộc trầm luân.
Chính trong tương quan xung đột, mâu thuẫn giữa “bắt phong trần phải phong trần” mà đó là thể xác, và “cho thanh cao mới được phần thanh cao” mà đó là cái “tâm”...
Theo tôi hiểu thì Trời chỉ bắt được phần xác, còn Kiều vẫn giữ được phần hồn (“Tâm”). Cái thanh cao trong tâm nàng Kiều, đâu phải Trời cho. Nếu là bắt và cho thì phong trần hay thanh cao chỉ là đầy đoạ hay cho nhẹ nhàng phần thể xác, còn phần tâm hồn của Kiều, luôn mãi thanh cao, không hề thay đổi (Bụi nào cho đục được mình ấy vay) . Đấy mới là theo nghĩa đạo Phật.
h. Chữ Tâm
Thái Kim Lan muốn “trả lại cho Nguyễn Du gia tài tư tưởng mà ông đã gửi gắm cho người đi sau: Gia tài tư tưởng ấy nằm vỏn vẹn trong một chữ duy nhất: chữ TÂM, trái tim mà nhà thơ đã cảm nghiệm và muốn trao lại cho đời sau là một trái tim nhìn ‘vạn pháp thảy đều là tâm’, linh thiêng hay trần thế chỉ nằm ở một chữ TÂM ‘Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu’”.
Nhưng đó chỉ là suy đoán chủ quan: Nguyễn Du có nói tâm, nhưng có rõ cái TÂM nào đâu? Sự mù mờ về ngữ nghĩa của khái niệm - nội hàm thì mông lung nên ngoại diên cũng nhập nhằng - vốn là điểm yếu của cách tư duy phương Đông thiếu tính khoa học chặt chẽ, đôi khi lại được nâng lên thành ưu việt. Chính vì để mở như thế nên mỗi người đọc có quyền hiểu theo cách của mình. Trong Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu - có một chữ tâm, nghĩa là “Phật chỉ có trong tâm của ngươi, chứ không đâu khác”. Không chỉ Phật mà giới Nho cũng nói nhiều nhất đến tâm, có rất nhiều trường phái, nói chung tâm được hiểu là ý thức chủ quan, thường do trời phú vì Trời với Người là một. Trong dân gian cũng hay nói chữ Tâm, với nghĩa tấm lòng. “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Tâm được so với tài trong quan hệ với vận mệnh, hạnh phúc con người. Để tìm kiếm hạnh phúc trong cuộc đời này thì đừng trông cậy nhiều vào tài, vì nó rất dễ gây nhiều trắc trở tai hoạ. Trong mọi hoàn cảnh, hãy cứ trông vào cái Tâm, vào tấm lòng vốn thiện của mình mới mong tìm thấy hạnh phúc đích thực.
Thái Kim Lan có nói đến chữ tâm bằng ba lần chữ tài, nhưng đọc đi đọc lại chỉ thấy đưa ba chữ Tâm ra để so với một chữ Tài. Quả thật quá hăng say không phải lúc nào cũng là ưu điểm.
4. Kết luận
Nguyễn Du là một trong những người học vấn uyên bác nhất trong thời đại mình, bởi vậy tư tưởng của ông thể hiện trong tác phẩm, dù là tác phẩm dịch, hết sức phong phú, đa dạng, đa chiều có khi mâu thuẫn, nhưng không cột chặt vào một lý thuyết duy nhất nào. Nguyễn Du là một nghệ sĩ, không phải nhà tư tưởng, Truyện Kiều cũng không phải tiểu thuyết hay kịch luận đề như La Nausée hay Les Mouches của J. P Sartre. Là một nghệ sĩ lớn đồng thời là một tri thức uyên thâm, ông đã thể hiện nhiều tư tưởng của thời đại mình (Phật, Lão, Nho…) và bộc lộ những thái độ, những quan điểm đôi khi vượt trên thời đại. Đó cũng là triết lý, vả chăng, triết lý nào chẳng mang đến một thái độ? Cái hay của Truyện Kiều dường như vô tận. Cách của Nguyễn Du là miêu tả sự vật như nó có, tự nó nói lên và gây xúc cảm mãnh liệt nơi người đọc. Truyện Kiều cũng như bất kỳ tác phẩm lớn nào, không chỉ có một tư tưởng dù là cao siêu. Nó luôn luôn chỉ là gợi ý để ta đào sâu suy ngẫm về Đạo và Đời, nó không chứng minh cho đạo và không thể dùng nó để chứng minh, vì nó rộng lớn, phong phú hơn nhiều cái được chứng minh. Được đọc lại Truyện Kiều hay đọc các tác phẩm viết về Truyện Kiều đối với tôi bao giờ cũng thú vị vì nó cho thêm cơ hội để suy ngẫm. Tôi muốn nói điều này như một lời cảm ơn tác giả Thái Kim Lan.
Chú thích:
[1] Thái Kim Lan, bài đã dẫn
[2] Hoàng Ngọc Hiến, “Triết lý Truyện Kiều”, trong Kỷ niệm 200 năm Nguyễn Du (1765-1965), tr. 279, 281, 284 (Dẫn theo chú thích 1, kỳ 1)
[3] Thái Kim Lan, bài đã dẫn.
3/9/2005
Hiếu Tân
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một chuyến hoa xuân

Một chuyến hoa xuân Nhà văn trẻ Trác Diễm vừa trở thành hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Chị sinh năm 1988 ở Quảng Bình, bắt đầ...