Thứ Tư, 28 tháng 9, 2022

XXXXSo sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam

So sánh Truyện Kim Vân Kiều
Trung Quốc và Việt Nam

Bài viết sau đây của tác giả Đổng Văn Thành, Giáo sư Văn học Trung Quốc tại Trường đại học Liêu Ninh, được công bố lần đầu trên Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng, số 4 (tháng 6.1986) và số 5 (tháng 9.1987). Theo nhà nghiên cứu Đài Loan Trần Ích Nguyên, Đổng Văn Thành là học giả Trung Quốc đầu tiên đã nghiên cứu so sánh giữa Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và Truyện Kiều của Nguyễn Du. Trước đó, từ năm 1984, tác giả đã nghiên cứu chuyên sâu về Kim Vân Kiều truyện. Các kết quả nghiên cứu về đề tài này về sau được ông tập hợp trong cuốn Thanh đại văn học luận cảo (Nxb. Xuân phong văn nghệ, Thẩm Dương 1994), bao gồm các phần khảo văn bản, bổ sung khảo văn bản Kim Vân Kiều truyện, diễn tiến của câu chuyện, khảo nguyên hình nhân vật, xây dựng hình tượng bi kịch của Vương Thúy Kiều, so sánh Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc và Việt Nam (thượng, hạ) và mối quan hệ với văn học Giang Hộ hậu kỳ của Nhật Bản. [1]
Bản dịch tiếng Việt của bài viết “So sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam” đã được nhà nghiên cứu Phạm Tú Châu thực hiện cách đây khoảng mười năm, từ đó chỉ lưu hành dưới dạng bản thảo đánh máy và vừa rồi mới được in trong cuốn 200 năm nghiên cứu bàn luận “Truyện Kiều”, Nxb. Giáo dục, Hà Nội 2005. Mặc dù không được công luận văn học rộng rãi biết đến, bài viết so sánh từ ngòi bút của học giả Trung Quốc này đã gây ra những chấn động lớn trong giới nghiên cứu văn học cổ điển Việt Nam, đến mức có nhiều công trình về Truyện Kiều và Nguyễn Du ra đời ở Việt Nam từ thời điểm này trên thực tế là những “đối thoại ngầm” với tác giả Đổng Văn Thành, và chỉ ở một số ngoại lệ là những tranh luận trực diện như bài viết mới đây của nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi (talawas, 02.12.2005). Xin giới thiệu với bạn đọc bài viết của Đổng Văn Thành qua bản dịch tiếng Việt của Phạm Tú Châu để rộng đường dư luận.
talawas
Phần I
Vào cuối đời Minh, đầu đời Thanh, trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc xuất hiện cuốn tiểu thuyết chương hồi Truyện Kim Vân Kiều do Thanh Tâm Tài Nhân biến tứ. Sau đó 160 năm, nhà thơ Việt Nam Nguyễn Du dùng hình thức thơ ca dân tộc “thể lục bát” của Việt Nam và thứ chữ của Việt Nam – chữ Nôm – để cải biên tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân thành một truyện thơ có cấu trúc lớn, tên lúc đầu là Đoạn trường tân thanh, sau đó lưu truyền rộng rãi bằng tên Truyện Kim Vân Kiều. Tác phẩm cùng tên của Trung Quốc và Việt Nam ấy phân biệt rõ về mặt hình thức bề ngoài: một đằng là tiểu thuyết Hán văn, một đằng là thơ trường thiên Việt Nam. Vì vậy việc so sánh hai tác phẩm ấy để qua đó nhận thức mối quan hệ giữa chúng, nhận thức chỗ được, chỗ mất về mặt sáng tác của mỗi bên là một vấn đề rất có ý nghĩa.

I. Hai tác phẩm cùng tên có số phận khác nhau
Những năm 60, hồi học khoa Trung văn trường đại học, qua giáo trình văn học nước ngoài, tôi được biết ở Việt Nam có một truyện thơ nổi tiếng thế giới gọi là Truyện Kim Vân Kiều. Từ đó tên Truyện Kim Vân Kiều – viên ngọc sáng của văn học phương Đông, in vào ký ức tôi. Sau đó, qua bài giới thiệu của ông Hoàng Dật Cầu, người dịch truyện thơ đó ra Trung văn, tôi mới biết truyện thơ ấy vốn dĩ là cải biên dựa trên tiểu thuyết thông tục của Trung Quốc đã thất truyền ở trong nước. Vì truyện thơ đó có quan hệ máu thịt với văn học của tổ quốc cho nên tôi rất hứng thú với cuốn sách đó, không những đã đọc bản dịch của ông Hoàng Dật Cầu mà còn luôn lưu tâm đến bài giới thiệu của nhiều người khác. Năm 1965, sau khi đọc bài “Nguyễn Du, nhà thơ kiệt xuất của Việt Nam và Truyện Kim Vân Kiều của ông” do Lưu Thế Đức và Lý Tu Chương viết chung, tôi càng có ấn tượng sâu về truyện thơ nổi tiếng này. Theo bài đó giới thiệu, truyện thơ này có ảnh hưởng lớn đến mức thực sự khiến cho người ta kinh ngạc: phần lớn người Việt Nam đều thuộc mấy câu, thậm chí mấy đoạn truyện thơ. Câu chuyện về cô gái Trung Quốc Vương Thúy Kiều trở thành đề tài cho văn học dân gian Việt Nam với đủ mọi hình thức “vịnh Kiều”, “phú Kiều”, “tế Kiều” bằng thơ, văn xuôi hay câu đốI, đến “tập Kiều”, “đố Kiều” không sao kể xiết. Trong dân ca, truyền thuyết dân gian, truyện dân gian ở nhiều nơi trên đất Việt Nam đều có thể thấy ảnh hưởng sâu rộng của Truyện Kim Vân Kiều. Kịch nói, cải lương và chèo của Việt Nam càng thường xuyên diễn tích Kiều, toàn bộ hay trích đoạn; có những vở Thúy Kiều du xuân, Thúy Kiều bán mình, Hoạn Thư đánh ghen, Kiều tập I, II, III, v.v… đủ thấy hình tượng Vương Thúy Kiều của Trung Quốc được dân chúng Việt Nam đồng tình và yêu mến sâu sắc. Truyện Kim Vân Kiều của Nguyễn Du đã được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật, Tiệp và nhiều tiếng nước khác, trở thành một tác phẩm văn học phương Đông có ảnh hưởng trên thế giới. Đó không thể không nói là sự may mắn của Nguyễn Du.
Muốn phát triển nền văn học xã hội chủ nghĩa ở nước ta, chúng ta cần phải học tập và tham khảo di sản ưu tú của nước ngoài, nhưng cũng không nên lãng quên gốc gác mà nên tôn trọng và kế thừa di sản văn học ưu tú của dân tộc mình. Dựa trên tinh thần đó, từ lâu tôi đã mong có ngày nhìn thấy Truyện Kim Vân Kiều, cuốn tiểu thuyết Trung Quốc nghe nói đã thất truyền ở trong nước. Năm 1981 bất ngờ phát hiện ra cuốn sách đó ở thư viện Đại Liên, nỗi vui mừng của tôi thật không sao hình dung nổi. Tôi đọc một hơi hết cả cuốn sách và lập tức nảy ra ý nghĩ muốn so sánh nó với Truyện Kiều của Việt Nam.
Trước hết tôi so sánh chúng về mặt phản ứng của giới nghiên cứu: Truyện Kiều của Việt Nam được giới nghiên cứu Việt Nam tôn là tác phẩm thành công nhất, lớn nhất, điển hình nhất trong toàn bộ văn học Việt Nam (xem Trên đường học tập và nghiên cứu của Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam Đặng Thai Mai, tr. 233, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1955 [2] . Sau khi truyện dịch sang Trung văn, giới nghiên cứu nước ta cũng đánh giá rất cao, gọi là “tác phẩm lớn vạch thời đại”, “toàn vẹn không khuyết” (xem Hoàng Dật Cầu: “Nguyễn Du, nhà thơ Việt Nam và kiệt tác Truyện Kim Vân Kiều của ông”, đăng trên Học san Học viện Sư phạm Hoa Nam, số 4-1958). Phó Giáo sư Trường Đại học Liêu Ninh Trương Triều Kha trong sách Sơ giản Lịch sử văn học Á Phi do ông biên soạn, viết: “Nguyễn Du là nhà thơ nổi tiếng có địa vị quan trọng trong văn học sử Việt Nam. Tác phẩm tiêu biểu Truyện Kim Vân Kiều của ông phản ánh thành tựu cao nhất trong sáng tác văn học cổ điển Việt Nam. Tác phẩm ở Việt Nam luôn được coi là mẫu mực cao nhất về thơ ca bằng chữ quốc ngữ” (tr. 496). Ông còn dẫn chứng một câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nhân dân Việt Nam, trong sách Bác Hồ của chúng ta dặn dò các đồng chí gần gũi bên mình: “Các chú nên tìm hiểu và học thuộc Truyện Kiều và Chinh phụ ngâm mới được, đó là những tác phẩm văn học nổi tiếng của nước ta”. Để chứng minh Truyện Kiều của Nguyễn Du được coi trọng như thế nào, Giáo sư Trương còn viết: “Người dân Việt Nam so với Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều, với Pushkin của Nga, Balzac của Pháp và Tào Tuyết Cần của Trung Quốc. Điều đó chứng tỏ đầy đủ rằng Nguyễn Du chiếm vị trí quan trọng trong văn học sử Việt Nam” (sđd, tr. 516).
Ngoảnh đầu nhìn tiểu thuyết Truyện Kim Vân Kiều của Trung Quốc, số phận của nó cũng như số phận Vương Thúy Kiều – nhân vật chính trong truyện, bấy lâu nay đã bị đối xử rất không công bằng.
Trước hết, cuốn sách của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân bị vùi lấp hàng mấy thế kỷ trong văn học sử Trung Quốc; từ cuối đời Thanh cho tới những năm 50 của thế kỷ XX, cuốn tiểu thuyết ấy hầu như được ít người biết đến. Trong tất cả các sách về lịch sử tiểu thuyết, lịch sử văn học, kể từ cuốn Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc của Lỗ Tấn đến nay, đều không có đến nửa chữ giới thiệu về nó. Thứ hai, ông Tôn Khải Đệ, chuyên gia nghiên cứu tiểu thuyết Trung Quốc, người sớm nhất nhắc đến nó trong sách Thư mục tiểu thuyết được thấy ở Tokyo – Nhật Bản, xuất bản năm 1932, lại coi nó là điển hình của những tác phẩm kém cỏi. Ông nghiêm khắc chê bai: “Dựa vào sự việc của Thúy Kiều mà viết cho sáng rõ ra – vốn có thể mở một thế giới khác ngoài lối tiểu thuyết cũ rích in hệt nhau, tiếc rằng lực hút của tác giả quá yếu, không thể mang lại sức sống cho Thúy Kiều. Còn việc Thúy Kiều nhảy xuống sông tự trầm vốn là kết cục rất tự nhiên, có thể viết rất hay, thế mà tác giả lại cố ý xóa nhòa sự thực, cho nàng được người cứu sống, trả lại đoàn viên. Nhân đấy than thở cho kẻ tục trong đời, thật là muốn chữa chạy cũng chữa không nổi. Người xưa tiết hạnh lạ kỳ đến thế, không may lạc vào sách của kẻ tầm thường nên cảnh tượng mới ra như vậy”.
Cuốn sách hầu như bị sổ toẹt, từ đó tiếng xấu lan xa trong ngoài nước. Lúc được phát hiện thì đồng thời cũng là lúc dường như bị phán quyết án tử hình, Truyện Kim Vân Kiều khó mà thay đổi được số phận đáng buồn là bị vứt bỏ. Sau khi người Trung Quốc tự đẩy cuốn tiểu thuyết của mình xuống vực, học giả nước ngoài nghiên cứu văn học Trung Quốc càng không thèm để ý đến nữa. Nếu không có Nhà xuất bản Xuân Phong văn nghệ in lại tiểu thuyết đời Minh–Thanh, hẳn bộ tiểu thuyết này còn bị ngăn cách với bạn đọc lâu hơn nữa.
Phải chăng tác giả Trung Quốc Thanh Tâm Tài Nhân – con người “tầm thường”, “không thể cứu chữa” – đã làm hỏng đề tài Vương Thúy Kiều đến nỗi không một chỗ nào coi được, phải hoàn toàn nhờ sự gia công “thiên tài” của tác giả Việt Nam Nguyễn Du mới biến miếng sắt bỏ đi thành vàng ròng lấp lánh? Muốn trả lời câu hỏi này tất phải trải qua sự so sánh kỹ càng. Tôi bước đầu đã làm như thế. Bản nền tôi căn cứ là bản phồn [3] Truyện Kim Vân Kiều gồm 20 hồi khắc in đầu đời Thanh, tức là bản mà Nhà xuất bản Xuân Phong văn nghệ dựa vào để in, còn bản Truyện Kiều Việt Nam để so sánh là truyện thơ Kim Vân Kiều do ông Hoàng Dật Cầu dịch ra Trung văn, dù bản dịch của ông Hoàng so với truyện thơ Việt Nam khó tránh khỏi có chỗ sai biệt. Ngoài ra tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân có một loại bản rút gọn tên là Song hòa hoan, cũng 12 hồi như số quyển của Truyện Kiều Việt Nam [4] , có lẽ có mối quan hệ trực tiếp hơn với truyện thơ của Nguyễn Du. Hiện tôi chưa được thấy loại bản đó, đành chỉ dùng loại bản 20 hồi để tiến hành so sánh.

II. So sánh nhân vật và cốt truyện
Để tránh chủ quan, dưới đây trích dẫn lời giới thiệu nội dung cuốn sách của người khác để giúp cho việc so sánh.
Về tiểu thuyết Truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân, bài “Tuyển lời tựa bạt tiểu thuyết đời Minh–Thanh” do bộ phận tham khảo thư viện Đại Liên biên soạn (Nhà xuất bản Xuân Phong văn nghệ, in lần thứ nhất, tháng 5 -1983) có giới thiệu như sau:
“Sách lấy tên Kim Vân Kiều là do hợp nhất tên của ba nhân vật Kim Trọng, Vương Thúy Vân, Vương Thúy Kiều, như cuốn Kim Bình Mai, Bình Sơn Lãnh Yến vậy. Cốt truyện lấy Vương Thúy Kiều làm đầu mối chính, xen với sự kiện lịch sử Từ Hải quy hàng rồi bị giết chết. Đại ý như sau: khoảng năm Gia Tĩnh đời Minh, cô gái nhà lành ở Lâm Thanh là Vương Thúy Kiều thoạt đầu thề ước hôn nhân với thư sinh Kim Trọng, chẳng bao lâu Kim Trọng vì việc nhà phải xa nhau rồi cha Thúy Kiều mang họa bị bắt giam. Để cứu cha già, mẹ yếu, em còn nhỏ dại, Thúy Kiều bán mình chuộc cha, bị lừa rồi luân lạc làm gái làng chơi. Trong chốn lầu xanh, nàng quen biết thư sinh Thúc Chính, chàng chuộc nàng tòng lương. Vợ cả của Thúc rất ghen, giam lỏng nàng trong gian nhà riêng sai viết kinh, Thúy Kiều thừa cơ bỏ trốn nương nhờ sư bà Giác Duyên; rồi vì lo ngại không ở yên được, lại bị lừa bán làm gái lầu xanh lần nữa, may thay tướng cướp Từ Hải dắt về tôn làm phu nhân. Từ Hải cai quản một vùng biển thanh thế rất lớn, nhiều lần đánh bại quan quân, Thúy Kiều mượn thế lực của Từ Hải trả được thù. Nhiều lần nàng khuyên Từ Hải quy hàng quan phủ, Từ Hải nghe theo. Nhưng quan phủ nuốt lời, Từ Hải bị giết, Thúy Kiều phẫn chí nhảy xuống sông Tiền Đường, được sư Giác Duyên cứu sống. Vừa hay Kim Trọng đi khắp nơi hỏi thăm tin tức Thúy Kiều và khóc điếu nàng ở vùng biển, tình cờ gặp Giác Duyên mới biết nàng còn sống. Lúc ấy, Thúy Vân theo lời chị dặn buổi chia tay đã lấy Kim Trọng thay chị để khỏi phụ lòng ước hẹn trước kia. Sau khi Kim – Kiều đoàn tụ, Kim Trọng đòi nàng thành hôn, song Thúy Kiều chỉ bằng lòng kết nghĩa vợ chồng trên danh nghĩa mà không chung phòng làm cái việc của vợ chồng. Sách này văn chương khá đẹp, tình tiết cảm động, không có những miêu tả dâm uế”.
Xét đoạn giới thiệu trên đây, lời lẽ tương đối ngắn gọn, về cơ bản khái quát được hành động nhân vật và nội dung cốt truyện của cả cuốn sách. Song có hai chỗ lầm: một là nguyên quán Thúy Kiều ở Bắc Kinh chứ không phải Lâm Thanh; hai là người Thúy Kiều quen biết ở chốn lầu xanh là thư sinh Thúc Thủ chứ không phải cha chàng là Thúc Chính. Ngoài hai điểm cần cải chính trên đây, trong đoạn giới thiệu vừa nhắc chỉ có một điểm hơi xuất nhập với Truyện Kiều của Việt Nam, ấy là chi tiết Thúy Kiều cuối cùng “chỉ bằng lòng kết vợ chồng với Kim Trọng trên danh nghĩa mà không chung phòng làm việc của vợ chồng” thì truyện thơ Việt Nam viết tương đối hàm súc hơn. Ngoài ra, không còn chỗ nào không giống, nghĩa là nói sau khi sửa hai điểm sai nói trên, đoạn giới thiệu vừa nhắc tới hoàn toàn có thể dùng để thuyết minh cho nội dung Truyện Kim Vân Kiều bằng thơ của Nguyễn Du, không sai một chữ.
Cũng như vậy, phần giới thiệu nội dung truyện thơ của ông Hoàng Dật Cầu trong lời ghi chép sau khi dịch Truyện Kiều [5] của Nguyễn Du, cũng hầu như hoàn toàn có thể dùng để giới thiệu nội dung cuốn tiểu thuyết cùng tên của Thanh Tâm Tài Nhân. Ông Hoàng chia ra toàn bộ cốt truyện thành 6 đoạn lớn:
Đoạn thứ nhất, từ quyển 1 đến quyển 3, kể về gia đình một sĩ phu sa sút là Vương Viên ngoại. Ông có ba người con, cả trai lẫn gái. Trai út là Vương Quan, chăm chỉ hiếu học; chị cả Thúy Kiều, chị hai Thúy Vân đều vô cùng xinh đẹp. Đoạn này đặc biệt mô tả sự thông minh tài nghệ của cô lớn để bạn đọc trước hết có ấn tượng sâu sắc về nàng. Sau đó tả hội đạp thanh trong tiết Thanh minh, Thúy Kiều điếu mồ hoang của ca kỹ Đạm Tiên, hồn ma xuất hiện tỏ ý cám ơn nàng.
Trên đường về, nàng gặp thư sinh Kim Trọng, do Vương Quan giới thiệu làm quen. Sau đó hai bên quyến luyến, đính ước trăm năm riêng với nhau. Cuối cùng Kim Trọng phải chịu tang, hai người nén đau chia tay nhau.
Xét đoạn trên, Thúy Kiều lần đầu gặp Kim Trọng “trên đường về”, còn ở Truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân thì vào lúc Thúy Kiều cùng hai em vừa kết thúc lễ viếng trước mộ Đạm Tiên. Ngoài ra, tình tiết không có gì khác.
Đoạn thứ hai từ quyển 4 đến quyển 6. Ở phần này, cốt truyện triển khai. Gia đình êm ấm của Vương Viên ngoại bị gian thương câu kết với quan phủ hạch sách, bóp nặn. Người cha và người con trai bị tống giam, Thúy Kiều bị tên lưu manh Mã Giám Sinh lừa gạt rơi vào lầu xanh, chịu đủ nỗi nhục nhã và ngược đãi của mụ dầu Tú Bà và thằng đểu Sở Khanh, sống không ra người.
Xét đoạn này cùng hồi thứ 4 cho đến cuối đoạn hai của hồi thứ 11 trong Truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân, tình tiết về cơ bản như nhau. Chỉ có một chi tiết hơi khác: trong truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, quan lại và công sai lợi dụng việc họ Vương có dính dáng đến bọn cướp [6] , thừa cơ tra tấn người vô tội để bóp nặn tiền của, Nguyễn Du đổi thành “bị xưng xuất của tên bán tơ” làm mờ nhạt sắc thái chính trị của vụ án, đồng thời giảm nhẹ tội lỗi của quan lại và công sai. Ngoài ra, mụ dầu trong tiểu thuyết là “Tú ma” (mụ Tú) sang truyện thơ của Nguyễn Du thành “Tú Bà”.
Đoạn thứ ba từ quyển 7 đến quyển 8. Phần này tả Thúy Kiều khao khát tự do muốn thoát khỏi hố lửa và chọn người gửi thân như thế nào. Kết quả nàng lấy lẽ Thúc Sinh, con nhà giàu mà nhu nhược bất tài. Cha Thúc Sinh là người mang nặng đầu óc lễ giáo và đẳng cấp, vợ cả Thúc Sinh lại là người cả ghen, xuất thân trong gia đình quan to. Trong hoàn cảnh đen tối đó, Thúy Kiều chịu bao nỗi giày vò; trong lúc đó tuy nàng được bà quản gia và sư Giác Duyên che chở song cuối cùng vẫn rớt xuống hố lửa, một lần nữa mua vui cho khách.
Xét đoạn giới thiệu này hoàn toàn giống tình tiết một đoạn truyện từ giữa hồi 11 đến giữa hồi 17 trong tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân.
Đoạn thứ tư, gồm quyển 9, tả Thúy Kiều sau khi bỏ trốn nhà Hoạn Thư, tá túc am ni sư, rốt cuộc vẫn không thể yên thân, thế lực xã hội đen tối một lần nữa đẩy nàng xuống địa ngục trần gian: lầu xanh. Nàng chịu mọi nỗi giày xéo, làm nhục trong cuộc sống thấp hèn nhưng không khi nào thôi khao khát tự do, hạnh phúc. Nàng rất tỉnh táo, hiểu rằng muốn giũ bỏ trói buộc, thoát khỏi hố lửa mà không có sự giúp đỡ mạnh mẽ của người đàn ông có tinh thần chính nghĩa và trách nhiệm thì không xong. Nàng nhẫn nại đợi chờ, cuối cùng một ngày kia, một anh hùng cứu vớt nàng xuất hiện. Từ Hải – người anh hùng xưng bá trên mặt biển cõi Nam, chẳng những đưa tay kéo Thúy Kiều ra khỏi hố lửa mà còn rửa sạch làu nỗi sỉ nhục mà nàng phải chịu suốt mười năm qua. Yêu ghét phân minh, ơn thù rõ rệt, Thúy Kiều được phán xử những kẻ thù của mình, từ đầu gấu, lưu manh cho đến mụ đàn bà độc ác, gã đàn ông dâm bôn; người lương thiện cũng được báo đền đầy đủ. Tình yêu của Từ Hải đối với nàng xiết bao chân thành trong trắng; chàng trân trọng, bảo vệ người mình yêu, khác hẳn những kẻ thuộc giai cấp bóc lột quen bỡn cợt đàn bà. Thúy Kiều gửi gắm tất cả lý tưởng và tình yêu thuần khiết của mình cho nhân vật anh hùng này. Trong cuộc sống hàng ngày, nàng luôn luôn biểu lộ tình yêu chân thành của mình, bày tỏ niềm hân hoan sau khi được sổ lồng”.
Xét đoạn giới thiệu trên đây, mấy câu mở đầu lặp lại một nội dung của quyển trước, còn phần sau hoàn toàn giống nhau với đại ý tình tiết đoạn truyện từ giữa hồi 17 đến giữa hồi 18 của Thanh Tâm Tài Nhân.
Đoạn thứ năm, trọn quyển 10, viết về Từ Hải sau khi nghe lời khuyên của Thúy Kiều, khuất phục trước đạo đức phong kiến trung hiếu công danh, đầu hàng quan quân; nhưng cái gọi là quan quân do Hồ Tôn Hiến đứng đầu ấy chỉ là một lũ hũ rượu, túi cơm, u mê, bất tài. Chúng không thắng được bằng chiến trận đành thi hành âm mưu quỷ kế, lợi dụng Thúy Kiều, tấn công vào nhược điểm “chồng sang vợ hiền” theo quan niệm phong kiến, nhờ sức lực một người đàn bà mà lừa gạt lấy thắng lợi. Thế là anh hùng tài năng, đảm lược bị chết uổng trong một tay lũ bất tài, bất nghĩa. Còn Thúy Kiều, người “có công” với quan quân, kết quả chẳng những không được quan trên tôn trọng mà còn bị chúng làm nhục đủ điều rốt cuộc đành nhảy xuống sông tự tận.
Xét đoạn giới thiệu trên hoàn toàn giống với tình tiết một đoạn truyện từ giữa hồi thứ 18 đến giữa hồi thứ 19. Chỗ khác duy nhất là tiểu thuyết không điểm danh đốc phủ là Hồ Tôn Hiến còn truyện thơ Nguyễn Du trực tiếp gọi đích danh ông ta.
Đoạn thứ sáu, từ quyển 11 đến quyển 12… thuật thêm việc Kim Trọng và Vương Quan “đỗ cao trong kỳ thi Hội”, dọc đường nhậm chức hỏi thăm tin tức Thúy Kiều; được tin nàng đã chết, họ làm lễ cũng tế bên sông. Cuối cùng được Giác Duyên chỉ dẫn, thuật lại việc nàng được cứu sống, rốt cuộc cả nhà vui mừng đoàn viên.
Xét đoạn giới thiệu này hoàn toàn giống với tình tiết câu chuyện từ giữa hồi 19 đến hết truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.
Sau khi đối chiếu qua lại như trên chúng tôi có được một kết luận rõ ràng, dễ thấy, đó là nhân vật chính cùng tình tiết cốt truyện ở hai bộ Truyện Kiều của Trung Quốc và Việt Nam hoàn toàn giống nhau, kể cả kết cấu tự sự cũng không có chút thay đổi. Chỗ khác nhau chỉ là Truyện Kiều Trung Quốc có bản 12 hồi và bản 20 hồi, còn Truyện Kiều Việt Nam chỉ có bản gồm 12 quyển, không có bản gồm 20 quyển. Tiểu thuyết Truyện Kiều Trung Quốc lưu truyền cuối đời Minh, tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân in đầu đời Thanh còn Truyện Kiều của Việt Nam, Nguyễn Du hoàn thành vào năm thứ hai sau chuyến đi sứ Trung Quốc lần thứ nhất (năm 1815, niên hiệu Gia Khánh năm thứ 20), muộn hơn Truyện Kiều Trung Quốc ít nhất là trên 160 năm. Rõ ràng Nguyễn Du chịu ảnh hưởng tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân chứ quyết không thể ngược lại. Năm 1958, Hội trưởng hội Hữu nghị Việt–Trung Bùi Kỷ viết lời tựa cho bản dịch Truyện Kiều thừa nhận rõ ràng: “Truyện Kiều của Nguyễn Du lấy đề tài ở tiểu thuyết Trung Quốc”. Qua sự đối chiếu trên đây, nên nói rằng Nguyễn Du chẳng những chỉ “mượn đề tài của tiểu thuyết Trung Quốc” mà dường như bê nguyên xi; về mặt thuật lại từng trải của nhân vật và viết truyện, Nguyễn Du không có bất kỳ một sáng tạo mới nào, chỉ chuyển thuật khá trung thực nội dung tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân mà thôi.

III. So sánh về chủ đề tư tưởng
1. Chủ đề Truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân
Bài từ khúc “Nguyệt nhi cao” ở đầu Truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân đã hé cho thấy chủ đề chung “giai nhân mệnh bạc, hồng phấn trái thời”, vẽ lên một không khí bi kịch nồng đậm bao trùm cả cuốn sách. Tiếp đó tác giả kể ra số phận bi kịch của chín giai nhân tài sắc tuyệt vời xưa nay để luận chứng cho đề tài trên. Sau rốt tác giả giải phẫu cụ thể bi kịch của nàng Tiểu Thanh, tài nữ ở Dương Châu, đề xuất cách hiểu của mình về giá trị thẩm mỹ của bi kịch:
“Chuyện xin thôi không nói nữa. Đến như Tiểu Thanh ở Dương Châu, tài sắc tính tình chẳng vẻ nào không vào bậc nhất, lấy phải gã chồng ngây ngô đến thế đã đủ hại rồi, lại gặp phải mụ đàn bà độc ác ghen tuông đến thế, đang đầy sức sống mà bị giết chết bằng nỗi buồn khổ, há chẳng thương, há chẳng đáng đau lòng? Chính vì đáng thương, đáng đau lòng nên làm cảm động nhiều văn nhân mặc khách, bao người khắc văn tập, soạn truyền kỳ cho nàng để thành bất hủ, trở nên giai nhân một đời”.
Rõ ràng Thanh Tâm Tài Nhân cảm động trước bi kịch của giai nhân, tự nhận mình chung tình như những văn nhân mặc khách khác, cho nên tự xưng là Thanh Tâm Tài Nhân - Thanh Tâm có nghĩa ẩn là “tình” vậy [7] . Mục đích sáng tác của ông đương nhiên là lập truyện cho Thuý Kiều, nêu rõ số phận bi kịch của nàng, ngợi ca phẩm chất tốt đẹp, than thở cho nỗi không may, mượn đó để làm cảm động đông đảo bạn đọc, khiến họ cùng “khen nết đẹp mà sinh lòng thương, nghe tiếng thơm mà cùng than thở”, tỏ nỗi bất bình thay cho nàng. Bằng cách khái quát nghệ thuật điển hình, tác giả gộp nhiều số phận không may của những giai nhân tuyệt thế vào một mình Vương Thuý Kiều, bắt nàng trăn trở với một tai nạn khiến nghe hãi hùng, từ vạ oan tan cửa nát nhà, luân lạc phong trần, đánh ghen tàn hại đến bỏ trốn đi tu, trải cơn binh hỏa rồi bị nhục tự tử, v.v… Qua rất nhiều bất hạnh và những xung đột mâu thuẫn phức tạp xen kẽ nhau đó, tác giả xây dựng từ nhiều mặt nghiêng, nhiều góc độ tính cách bi kịch của Vương Thuý Kiều, tỏ bày từ nhiều phương diện phẩm chất tốt đẹp trong tính cách của nàng, giành được sự đồng tình sâu sắc của mọi người; đồng thời ánh sáng rực rỡ của tính cách ấy lại soi tỏ biết bao tội ác của thế lực đen tối trong xã hội khiến người ta dựng tóc gáy. Để khuếch trương chính nghĩa, để nhân vật bi kịch có cơ hội mở mày mở mặt, tác giả đã chú ý tô vẽ tình tiết Vương Thuý Kiều dựa vào người anh hùng phản nghịch để báo thù cho mình. Tác giả còn xuất phát từ tình cảm không đành tâm để cho tính cách tốt đẹp bị huỷ diệt hoàn toàn và thuyết luân hồi báo ứng, đặc biệt xếp sắp một kết cục đại đoàn viên cho Thuý Kiều, mượn đó để an ủi nỗi lòng đau đớn mà bản thân bi kịch gây ra cho bạn đọc.
Về nét đẹp tình người hàm chứa trong tính cách Thuý Kiều, tuy tác giả chưa khẳng định đầy đủ, song ông có khái quát rõ ràng về nét đẹp đạo đức của nàng. Chẳng hạn tác giả đã mượn lời tiên tri của Tam Hợp đạo cô và lời báo mộng Lưu Đạm Tiên để khái quát chung về phẩm chất đạo đức cao thượng của Thuý Kiều: “Nàng thoạt đầu si mê tình ái song khéo giữ được đức trinh không hề phạm dâm, sau gặp bao khổ nạn đều do chữ hiếu, không có nguyện vọng nào khác. Nay lại không vương vấn với con nhỏ, coi trọng đại nghĩa của triều đình, khuyên được kẻ nghịch quy thuận, tránh được sự tàn hại cho trăm vạn sinh linh ở miền Đông Nam, do vậy công đức của nàng lớn mà nghiệp chướng cũ tiêu trừ, được kết tân duyên vậy” (lời đánh giá của Tam Hợp đạo cô).
Thuý Kiều không những có tài, sắc, tình của người đẹp thông thường và có đẹp truyền thống về hôn nhân tình ái (trung với tình yêu, quan tâm tới người khác) mà còn tinh thần tự hy sinh mà người đẹp thông thường chưa biểu hiện ra, chứng tỏ một tình yêu phi phàm, thiên luân, ân oán rạch ròi, vì lợi ích dân tộc, quốc gia mà hy sinh ơn nhỏ của riêng mình v.v… Tất cả những điều đó làm cho người đẹp bị ô nhục, tàn hại này có được phong thái, tiết tháo cao đẹp của bậc trượng phu trong đám nữ lưu, trở thành một điển hình nữ tính giàu nội hàm tư tưởng. Trong thời đại tác giả sinh sống, hình tượng đó cao hơn hẳn cuộc sống hiện thực và có ý nghĩa điển hình tương đối lớn.

2. Chủ đề Truyện Kiều của Nguyễn Du
Truyện Kiều của Nguyễn Du tuy rập theo nhân vật và cốt truyện Truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân song động cơ sáng tác có khác biệt lớn, vì thế ảnh hưởng đến sự biến đổi của chủ đề. Trong lời tựa viết cho bản dịch Truyện Kiều của Nguyễn Du, Hội trưởng Hội Hữu nghị Việt-Trung Bùi Kỷ chỉ rõ: “Nguyễn Du tiếc cho mình có tài mà vô mệnh. Ngày nay sống trong xã hội vinh quang lao động sáng tạo, chúng ta mới được phát triển hoàn toàn, không còn thuyết định mệnh nữa. Nếu Nguyễn Du sống lại thì thuyết tài mệnh tương đối hẳn ông sẽ tự đả phá”.
Mấy câu này đại khái có thể tiêu biểu cho cách nhìn nhận chung của giới văn học Việt Nam về chủ đề Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tóm lại, chủ đề đó là mượn truyện tiểu thuyết Trung Quốc để gửi gắm nỗi cảm khái về “có tài mà vô mệnh”.
Mở đầu truyện thơ, nhà thơ cũng có đoạn nghị luận:
Nhân sinh bất mãn bách,
Tài mệnh lương tương phương.
Thương tang đa biến ảo,
Xúc mục sự kham thương.
Bỉ sắc tư phong, nguyên vô túc dị,
Hồng nhan thiên đố, sự diệc tầm thường.
(Đời người không đầy trăm,
Tài mệnh ngáng trở nhau.
Biển dâu nhiều biến ảo,
Mắt thấy việc mà thương.
Bỉ sắc tư phong, vốn không đáng lạ,
Hồng nhan trời ghét, việc cũng tầm thường.)
Lời nghị luận mở đầu nguyên bản cuốn tiểu thuyết Trung Quốc xuất phát từ lập trường một người đa tình mà than thở cho số phận bi kịch của giai nhân kim cổ, lên tiếng bất bình thay cho họ. Còn đoạn nghị luận của Nguyễn Du là nhằm phát tiết nỗi phẫn uất bất bình với việc có tài mà không gặp thời của mình; cuối cùng nghị luận tuy cũng có mấy chữ “trời ghét hồng nhan” song tình cảm đối với bi kịch của người phụ nữ rất lạnh nhạt, bảo đó chẳng qua “việc cũng tầm thường”.
Nguyễn Du trong Truyện Kiều tuy không nhắc tới Tiểu Thanh song ông có riêng một bài “Độc Tiểu Thanh ký” bằng thơ:
Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng? [8]
Tố Như là tên chữ của Nguyễn Du. Câu cuối cùng nêu chủ đề, tỏ rõ Nguyễn Du than thở cho Tiểu Thanh cũng vì mục đích gửi gắm nỗi lòng “thấy người lại nghĩ đến ta”. Chủ đề sáng tác của cái lối mượn chén người khác để rót bầu tâm sự của mình ấy hoàn toàn nhất trí với việc ông cải biên Truyện Kiều. Đó có thể nói là chủ đề chung của việc Nguyễn Du ca vịnh những nhân vật trong văn học Trung Quốc. Ông còn có hai bài thơ “Đến Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu’’ mà theo ông Hoàng Dật Cầu, “trong hai bài thơ này, nhà thơ coi Khuất Nguyên là người tri kỷ nghìn xưa của mình, thậm chí ví mình với Khuất Nguyên, điều đó cho thấy nỗi đau khổ và hoài bão trong nội tâm nhà thơ”. Ý phân tích đó khá xác đáng.
Chủ đề của nguyên tác bao hàm trong bản thân cốt truyện, đương nhiên Nguyễn Du không thể hoàn toàn xoá nhoà song chỗ nào ông cũng cho thẩm thấu quan niệm mình vào. Chẳng hạn, tuy Nguyễn Du chuyển dịch mấy câu Tam Hợp đạo cô khẳng định phẩm chất ưu tú của Vương Thúy Kiều, song đã làm tăng luận điểm “tài lắm gây lo” lên rất nhiều.
Câu 2659:
Thúy Kiều thông minh tuyệt luân,
Hồng nhan bạc mệnh thiên chủ tựu.
(Thuý Kiều thông minh không ai bằng,
Hồng nhan bạc mệnh trời định sẵn.)
Và câu 2673:
Đoan vị đa tình chiêu hoạ,
Đa tài thức dã chiêu oán ưu.
(Nguyên vì đa tình mà chuốc hoạ,
Tài nhiều biết lắm cũng chuốc oán lo.)
Trong lời hồn Lưu Đạm Tiên báo qua mộng cho Thuý Kiều biết đã hết đoạn trường, Nguyễn Du cũng tăng thêm nội dung “mệnh bạc tài cao” (Nhĩ mệnh bác tài cao - câu 2715) để làm rõ chủ đề sáng tác của ông.

IV. Kết luận
Thông qua so sánh như trên, có thể rút ra kết luận gồm mấy điểm như sau:
Nhìn tổng thể, tôi thấy Truyện Kiều của Nguyễn Du bất luận về nội dung hay về nghệ thuật (Phần II sẽ nói rõ) đều không vượt được trình độ của bản gốc - Truyện Kiều của Trung Quốc - mà nó mô phỏng.
Truyện Kiều của Nguyễn Du bảo tồn được phần lớn tinh hoa của nguyên bản tiểu thuyết Trung Quốc tuy có tăng giảm về nội dung và nghệ thuật của nguyên tác, song phần nhiều vẫn bảo tồn được, vì vậy có cống hiến cho sự giao lưu văn hoá giữa Trung Quốc và Việt Nam. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm đáng được khắng định.
Truyện Kiều của Trung Quốc bị mai một, thậm chí bị đánh giá thấp trong thời gian dài. Hiện tượng kỳ lạ đó chứng tỏ chúng ta vẫn còn thiếu nhận thức đầy đủ về kho báu văn học nghệ thuật phong phú mà tổ tiên để lại cho chúng ta; công tác nghiên cứu văn học cổ đại về cơ bản vẫn dừng ở một số ít tác giả và tác phẩm nổi tiếng, có ảnh hưởng lớn mà chưa hứng thú bao nhiêu với tác giả và tác phẩm loại hai. Việc nghiên cứu cô lập đó không thể thích hợp với tình hình phát triển của học thuật hiện nay. Vì vậy, việc đi sâu vào công tác nghiên cứu tiểu thuyết quý giá cuối đời Minh đầu đời Thanh có tác dụng gợi mở quan trọng nhằm đẩy mạnh việc nghiên cứu toàn bộ văn học cổ điển của nước ta.
Tiểu thuyết Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân cần được đánh giá lại, ảnh, hưởng quan trọng của nó trong lịch sử văn học Tnmg Quốc và lịch sử văn học thế giới cần được thừa nhận và đánh giá công bằng.
Mệnh đề “tiểu thuyết tài tử giai nhân” không thể khái quát một cách khoa học tất cả tiểu thuyết bạch thoại của các văn nhân mà tuyến cốt truyện là tình yêu và hôn nhân. Cần phân tích so sánh nhiều tác phẩm với nhau, nhận thức lại bộ mặt vốn có của số tiểu thuyết này, bổ sung những đoạn còn yếu trong lịch sử tiểu thuyết truyền thống.


[1]Trần Ích Nguyên, Nghiên cứu câu chuyện Vương Thúy Kiều, Bản dịch tiếng Việt của Phạm Tú Châu, Nxb Lao Động – Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội 2004, tr. 136
[2]Nguyên văn tiếng Việt: “Trong toàn bộ văn học Việt Nam ngày xưa, Truyện Kiều là một thành công vẻ vang nhất, là áng văn chương tiêu biểu hơn hết” (các chú thích trong bài đều của người dịch – P.T.C.)
[3]Bản đầy đủ, gồm 20 hồi
[4]Tác giả viết không biết 12 hồi hay 12 quyển là do dịch giả Hoàng Dật Cầu tự chia, không phải vốn có.
[5]Không phải lời ghi chép sau khi dịch mà là lời nói đầu. Người viết bài lầm.
[6]Vợ chồng Vương Viên ngoại đến chơi nhà em gái vợ gặp hai người đến bán tơ hồng, không ngờ là hai tên cướp. Chúng bị phát giác ở đấy và một mực khai nhà chủ là người đã oa trữ của ăn cướp. Viên ngoại có ngồi uống rượu với chúng.
[7]Chữ “thanh” và bộ “tâm” đứng ghép thành chữ “tình”.
[8]Bản dịch của cụ Vũ Tam Lập trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb. Văn học, 1988
[2]Nguyên văn tiếng Việt: “Trong toàn bộ văn học Việt Nam ngày xưa, Truyện Kiều là một thành công vẻ vang nhất, là áng văn chương tiêu biểu hơn hết” (các chú thích trong bài đều của người dịch – P.T.C.)
[3]Bản đầy đủ, gồm 20 hồi
[4]Tác giả viết không biết 12 hồi hay 12 quyển là do dịch giả Hoàng Dật Cầu tự chia, không phải vốn có.
[5]Không phải lời ghi chép sau khi dịch mà là lời nói đầu. Người viết bài lầm.
[6]Vợ chồng Vương Viên ngoại đến chơi nhà em gái vợ gặp hai người đến bán tơ hồng, không ngờ là hai tên cướp. Chúng bị phát giác ở đấy và một mực khai nhà chủ là người đã oa trữ của ăn cướp. Viên ngoại có ngồi uống rượu với chúng.
[7]Chữ “thanh” và bộ “tâm” đứng ghép thành chữ “tình”.
[8]Bản dịch của cụ Vũ Tam Lập trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb. Văn học, 1988
Phần II

I. Từ chi tiết xem xét những sai dị
Ở phần I, thông qua so sánh nội dung tổng thể Truyện Kim Vân Kiều của Trung Quốc và Việt Nam, chúng tôi đã nêu những điểm chung rõ rệt giữa hai sách. Muốn biết những điểm khác nhau giữa hai sách, không thể đơn giản như thế là được mà phải phát hiện ra bằng cách so sánh nghiêm túc tất cả những chi tiết không khiến người ta mấy chú ý, sau đó tổng hợp những sai biệt nhỏ nhặt, cục bộ này lại rồi so sánh thì mới có thể thấy rõ những điểm khác nhau trong sự giống nhau, từ đó mới thực sự phân biệt giữa hai sách. Có điều, sự sai biệt về chi tiết giữa hai sách lại rất ít, chủ yếu biểu hiện ở ba phương diện sau đây.

A. Nguyễn Du đã in dấu ý thức chủ quan của mình cho một số nhân vật, làm tổn hại sự hoàn chỉnh và thống nhất về tính cách của những nhân vật ấy ở mức độ nhất định
1. Hạ thấp anh hùng nổi dậy, tô đẹp cho quan quân tướng soái
Tiểu thuyết nguyên tác khắc hoạ Từ Hải - anh hùng nổi dậy - như một điển hình anh hùng chính nghĩa và trí dũng. Trong truyện, ngay từ lúc xuất hiện, Từ Hải đã không phải tầm thường:
“Có một hảo hán họ Từ tên Hải, hiệu là Minh Sơn hoà thượng, người đất Việt đến chơi. Người này có lòng ưu ái, phóng khoáng đại lượng, ôm chí lớn lao, coi giàu sang nhẹ tựa lông hồng, xem người bằng vai như cỏ rác. Khí tiết hơn hẳn cùng lứa, cao lớn hùng vĩ trùm đời, hiểu rõ lược thao, giỏi giữ ngay thẳng. Thường nói: “Trời cho ta tài năng ắt cho ta sử dụng. Hữu tài vô dụng là trời phụ ta vậy. Nhược bằng hoàng thiên phụ ta thì ta cũng phụ lại hoàng thiên. Đại trượng phu ở đời phải làm sao cho được lỗi lạc, lập được những sự bất hủ trên đời, sao có thể chết già bên cửa sổ như những kẻ sống vì miếng ăn? Còn nếu có tài mà vô mệnh, anh hùng không có đất dụng võ, không để lại được tiếng thơm cho trăm đời thì phải tự mình tạo ra mệnh. Khinh suất gây binh đao nơi ngòi đầm chỉ tổ để lại nỗi sỉ nhục đến vạn năm. Nếu không được như thế thì bầu nhiệt huyết sôi sục trong người này làm thế nào sử dụng được? Hồi nhỏ học hành nhưng không thành đạt bèn bỏ đi buôn, của cải sung túc, thích kết giao với bạn bè”.
Đoạn không tiếc lời ca ngợi để miêu tả tính cách, phấm chất nhân vật như trên không có ở nơi nào khác trong sách ngoài nhân vật chính là Vương Thuý Kiều. Khi Từ Hải gặp được Thúy Kiều, Thúy Kiều thổ lộ mình xưa nay “không đem gan ruột gửi cho kẻ phàm tục”. Ấn tượng đầu tiên của Thuý Kiều đối với Từ Hải là “bậc anh hùng, có độ lượng lớn, xứng đáng là người kỳ lạ ở Thái Nguyên, ngay đến Bình Nguyên Quân cũng không khoáng đạt được bằng”. Vừa gặp mặt, Thuý Kiều bèn xiêu lòng, trao thân gửi phận. Ngay khi đó, Từ Hải đã tỏ rõ chí lớn chống triều đình với Thuý Kiều: “Nàng hãy ở lại đây, không quá ba năm ta sẽ đón nàng về. Đao lớn búa to, cung lắp tên, kiếm tuốt trần, tiền hô hậu ủng, vạn ngựa ngàn quân, ấy là lúc Từ Hải này đắc chí vậy”. Thông qua lời La Trung Quân, sách thấy rõ hơn nguyên nhân chống lại triều đình của Từ Hải: “Đốc phủ hay tin đại vương là kẻ sĩ hào kiệt, không chịu nhục với tham quan ô lại buộc phải làm giặc, tình thực ấy đáng nên tha thứ”. Trong các câu thơ ở đầu mỗi hồi, có ba lần xuất hiện tên hiệu của Từ Hải: “Hội Vu lan bỗng gặp yêu ma thành trụy lạc - Chốn yêu lại đua phong nguyệt gặp anh hùng” (Hồi 17), “Vương phu nhân xử chém phường bất nghĩa - Từ Minh Sơn tặng vàng kẻ có ơn” (Hồi 18), “Chiêu an giả, Minh Sơn mất mạng - Đứt ruột thật, Thuý Kiều quyên sinh” (Hồi 19). Đích thân Từ Hải rửa sạch nỗi oan lớn cho Thuý Kiều, cho nên Thuý Kiều
”đứt ruột thật” cũng vì cái chết tàn khốc của Từ Hải, đủ thấy trong con mắt tác giả, Từ Hải ở địa vị cao cả.
Tới ngòi bút của Nguyễn Du, bậc anh hào thảo dã Từ Hải ôm chí lớn ngút trời bị thay đổi thành võ sĩ giang hồ lưu lạch khắp nơi:
Câu 2165:
Có một người khách biên cương,
Người ấy râu hùm, hàm én, mày ngài.
Bỗng tới câu lan du đãng,
Vai rộng, thể mạo hiên ngang.
Dáng vóc anh hùng, tinh thông quyền côn,
Càng thêm tài lược thao cường.
Đội trời đạp đất trang nam tử,
Tên gọi Từ Hải, vốn ở Việt Đông sinh trưởng.
Quen chốn giang hồ, mặc tình lưu lãng,
Nửa vai cầm kiếm, một mái chèo.
Vượt qua núi cao với hải dương.
Do trò chuyện ăn ý với Thuý Kiều, Từ Hải thổ lộ ngay tâm sự của mình với nàng.
Câu 2203:
Một lời nói toạc,
Ta có vạn chung ngàn cỗ ngựa.
Khá cùng nàng hưởng hết vinh hoa.
Trong đoạn này cũng có câu chữ khen ngợi nhưng so với tiểu thuyết nguyên tác thì khí khái tinh thần kém xa. Ở đây ra sức nói về quãng đời lưu lãng của Từ Hải rõ ràng có liên quan tới quãng đời 13 năm lưu lãng của Nguyễn Du ở tỉnh Thái Bình từ 1789 đến 1802. Bản thân Nguyễn Du không hề có thái độ tạo phản, lúc ấy ông coi quân khởi nghĩa nông dân là kẻ thù, rồi sau khi thất bại, thì trở thành kẻ vong mệnh nước mất nhà tan... Vì vậy khi viết về Từ Hải, liền tiện tay cắt bỏ chí hướng và tinh thần của Từ Hải, khiến Từ Hải trở thành nhân vật khái niệm hoá có hình hài mà vô hồn. Quãng thời gian duy nhất Nguyễn Du vất bút tòng nhung là lúc ông giữ chức Thái Nguyên Hùng hậu quân hiệu Chánh Thủ hiệu của vương triều nhà Lê; trong quá trình quân khởi nghĩa nông dân Tây Sơn lật đổ nền thống trị thối nát của vương triều nhà Lê lập nên chính quyền mới của quân khởi nghĩa nông dân, Nguyễn Du “chiêu tập hào mục mưu khôi phục nhà Lê, gây phong trào phục quốc nhưng việc bị lộ, bị trấn tướng Sơn Tây là Thận quận công bắt được..., sau mấy tháng bị giam được tha cho về” (theo Hoàng Dật Cầu: “Nguyễn Du - nhà thơ Việt Nam và kiệt tác Truyện Kim Vân Kiều của ông’’). Sự từng trải đó khiến cho giữa người tạo phản và kẻ trấn áp, Nguyễn Du đã dành sự đồng tình của mình cho kẻ sau, bởi vậy mới có sự khen chê trái ngược hẳn với nguyên tác đối với nhân vật tiêu biểu đó.
Trong tiểu thuyết nguyên tác, Từ Hải bấy lâu vẫn nhờ dựa bọn giặc bên ngoài nghe lời khuyên của Thuý Kiều mới quyết định nhận lời chiêu an của nhà Minh. Còn động cơ thuyết hàng của Thuý Kiều, ngoài lời dụ dỗ của bọn gian tế khuyên lơn những là: “chồng sang vợ rạng, áo gấm về quê” theo lối phong kiến ra, còn xuất phát từ suy nghĩ “lo lắng cho sinh dân” và rõ ràng nàng không tán thành Từ Hải cấu kết với bọn hải khấu nước ngoài để cướp bóc nước nhà. Vì vậy, Thuý Kiều khuyên Từ Hải cũng có một mặt là yêu nước. Nàng nói với Từ Hải:
“Huống chi những kẻ bất lương đâu phải là hạng có thể kết thân lâu dài? Việc làm giặc cũng thực sự bất đắc đĩ, như vậy mà còn luyến tiếc mãi sao?”
Từ Hải cũng cho Vương Thuý Kiều khuyên mình nhận lời chiêu an là có lý:
“Bởi đã chịu sự sắc phong của Minh triều thì không còn coi nước cha mẹ là thù địch nữa... Hiền thay, phu nhân! Nàng vừa trung với vua lại yêu đất nước, mềm dẻo nên việc khiến cho Từ Hải này khỏi làm kẻ tội nhân cho muôn đời, ấy là công phu nhân vậy.”
Sang đến tay Nguyễn Du, chi tiết Từ Hải câu kết với bọn giặc biển nước ngoài ấy nhiễu nước mình đã bị xoá đi, Từ Hải chỉ còn là một người tạo phản bình thường, từ đó mượn việc hạ thấp Từ Hải này mà Nguyễn Du phát tiết tâm lý thù địch của bản thân với khởi nghĩa nông dân. Ông còn mượn lời nhân vật Thuý Kiều trong truyện thơ để nói.
Câu 2493:
Từ khi gây việc binh đao
Đống xương bên sông Vô Định đã cao như núi
Việc gì để tiếng xấu cho ngàn vạn năm?
Vận khí Hoàng Sào đâu có được dài?
Sao bằng quan cao lộc hậu,
Công danh nhanh chóng phi thường.
Cái lối mượn nhân vật trong truyện làm cái loa truyền thanh cho tư tưởng chủ quan của mình chẳng những xuyên tạc hình tượng Thuý Kiều, chữa những lời nói, việc làm yêu nước của nàng thành lời lẽ của một kẻ phản bội, nội gián, làm tan rã khởi nghĩa nông dân từ bên trong, mà còn vu cáo, rủa xả ác độc khởi nghĩa nông dân, hạ thấp hẳn ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm.
Tiểu thuyết nguyên tác phơi bày không nể nang và châm biếm chua cay sự thối nát bất tài của tướng soái quan quân. Vương Thuý Kiều từng nói:
“Chỉ vì thái bình đã lâu, dân không biết binh đao. Võ biền quen thói phụng thừa, văn quan quen thói bợ đỡ. Chủ soái không luyện tập lại binh đao, không chiến đấu, vừa nghe tiếng chiêng tiếng trống, vừa thấy cảnh chém giết oai phong, tức thì tay chân luống cuống, người chết chẳng kịp cứu thì còn ai dám cự địch so tài?... Trên miếu đường tuy không có tay hào kiệt mà nơi thảo dã thực có anh hùng.’’
Tác giả ca ngợi quân uy của Từ Hải, chê bai sự bất tài của quan quân, tính khuynh hướng ấy rất rõ. Xin dẫn đoạn miêu tả chiến trận như sau để làm ví dụ:
Minh Sơn dẫn quân trở về Đại Hoang rồi cho quân đi cướp phá bốn phương, binh uy ngày thêm vang dội. Đốc phủ sai viên tướng du kích là Cừu Nhiêu (âm tương tự với cầu xin tha – P.T.C) cùng tham tướng Bốc Tế (âm tương tự với chẳng nên việc – P.T.C) kéo một vạn quân đến nghênh địch, gặp đại quân của Từ Hải ở giữa đường. Từ Minh Sơn bảo với phu nhân:
“Từ trước tới nay quân của ta đến đâu, chưa từng có kẻ nào dám ra nghênh chiến. May mắn hôm nay cánh quân này, để tôi cùng hắn giao đấu một trận thử xem quân chúng ra sao, tướng sĩ mạnh hay yếu. Nàng hãy dốc trận chờ ta chém tướng chặt cờ của chúng, làm vang dậy cái oai hùng của quân ta.’’
Sau ba hồi trống, cửa trận đôi bên mở ra. Minh Sơn lên ngựa… quát to:
“Bớ bọn quan quân kia, kẻ nào mạnh hãy ra trận, kẻ nào yếu chớ có tới!’’
Hai tướng Cừu Nhiên, Bốc Tế thấy Từ Minh Sơn oai phong lẫm lẫm, sát khí đằng đằng, cầm búa thúc ngựa, phi qua phi lại, xông tới xông lui trước trận tiền, chẳng khác nào một vị thiên thần hay sát tướng xuống trần gian. Bốc Tế sai Cừu Nhiêu ra coi trận rồi bảo.
“Ông là du kích tướng quân nên xông ra trước.’’
Cừu Nhiên đáp:
“Ông là chánh tướng, tại sao lại đẩy một mình tôi ra trước?’’
Hai người cứ đùn đẩy nhau, chẳng ai dám ra nghênh chiến. Từ Minh Sơn thấy quang cảnh đó quát lên rằng:
“Quan quân như thế kia mà cũng sai chúng mày ra nghênh địch ư? Đợi ta phá nát trại chúng mày.’’
Rồi ngồi xuống ngựa, vung búa trong tay, thét lên một tiếng vang như sấm nổ giữa trời mà rằng.
“Quân ta đâu, theo ta phá trại!’’
Một mình một ngựa, Minh Sơn xông thẳng tới trước mặt Cừu Nhiên. Cừu Nhiên không dám đón đỡ, sai viên Thứ Bị là Không Hỗn nghênh chiến. Không Hỗn bất đắc dĩ cầm giáo lên ngựa đón đánh. Từ Minh Sơn quát to:
“Tên quan chó má hãy tới chịu chết!’’
Nói rồi phóng ngựa xông tới, Không Hỗn sởn người ngã quay xuống ngựa, Minh Sơn rượt theo, vung búa chém đứt làm đôi rồi xua quân chém giết. Cừu Nhiêu, Bốc Tế ôm đầu chạy trốn, chẳng còn dám nghênh chiến. Cảnh thảm bại của quan quân trông thật đáng thương…
Quan quân đã thua. Từ Hải thắng tiến lên, chưa đầy ba ngày đã phá xong năm huyện, quân uy vang dội.
Rõ ràng khi miêu tả cuộc chiến này, tác giả đứng trên lập trường ngợi ca quân đội của Từ Hải, nhiều lần dùng lối văn so sánh để đề cao, khoa trương quân uy của Từ Hải và kết luận bằng mấy câu thơ:
Thiên tử thất kinh doanh Tế Liễu
Tướng quân ngâm ngợi trướng Liên Hoa
Chỉ vì binh pháp thông trời đất
Rồng hổ náu mình chẳng dám ra.
Còn dưới ngòi bút của Nguyễn Du, ưu thế áp đảo tuyệt đối quân đội triều đình đó của Từ Hải giảm nhẹ rất nhiều. Câu 2430:
Từ sau đó – chiến quả liền liền,
Chia văn võ, vạch ranh giới sơn xuyên.
Khí tượng vạn nghìn,
Giơ chân đạp đổ cõi nam năm huyện.
Phong trần lắm chuyện, gươm báu như cầu vồng.
Coi quan quân giá áo túi cơm, sâu bọ côn trùng.
Nếu nói đoạn miêu tả trên đây về cơ bản là biểu hiện hàm súc khí thế của Từ Hải thì đoạn khen ngợi tướng lĩnh quan quân dưới đây quả đã đi ngược lại tinh thần của nguyên tác. Câu 2451:
Bỗng có một vị Tổng đốc, triều đình coi trọng,
Tên gọi Hồ Tôn Hiến, tài đức lớn gồm chung.
Vâng chỉ ra quân lọt mắt chín trùng,
Dẹp trừ giặc biển, quân sự toàn quyền thao túng.

Viết lại như thế chẳng những xóa bỏ toàn bộ lối châm biếm quan quân tướng lĩnh cùng lối miêu tả tô đậm binh uy của Từ Hải trong tiểu thuyết nguyên tác mà còn tả Đốc phủ Từ Hải đánh cho quân lính tan tác mà còn cả Đốc phủ bị Từ Hải đánh cho quân lính tan tác thành nhân vật có bàn tay sắt xoay chuyển được thế bại của quan quân; khi hắn nhận lệnh vào lúc nguy nan, Nguyễn Du tả hắn dựa hoàn toàn vào mưu trí khiến cho Từ Hải hoành hành một thời cũng thảm bại như bỡn, mạng toi, quân rã. Về thực chất, tả như thế là dùng Từ Hải để làm nổi bật tài lược và công lao của Đốc phủ.
Đốc phủ trong tiểu thuyết, võ chẳng thắng nổi người, đức không dung được ai, giết kẻ hàng, cướp lấy công, hoang dâm ngang ngược, là một kẻ tầm thường, gian nịnh. Ra sức tô vẽ hắn, hẳn việc đó cũng cùng chung một mạch với hành vi góp nhặt đội quân phản động để chống lại khởi nghĩa nông dân Tây Sơn của Nguyễn Du năm nào, hé lộ một cách khéo léo lập trường của giai cấp quý tộc quan liêu chống khởi nghĩa nông dân của ông. Thái độ tương phản đối với nhân vật trong nguyên tác của Nguyễn Du khiến truyện thơ do ông cải tác thêm nội dung phản động là tô vẽ kẻ thống trị quý tộc phong kiến, chống đối khởi nghĩa nông dân, từ đó làm suy yếu hẳn sức phê phán đối với sự thống trị phong kiến đen tối.
2. Tô vẽ cho tội ác của quý tộc phong kiến, che đậy phần miêu tả mâu thuẫn giai cấp của nguyên tác
Sau đây chỉ nêu 3 thí dụ:
a. Thay đổi lại nguyên nhân Vương Thúy Kiều bán mình.
Tiểu thuyết nguyên tác viết, sau khi cha mẹ Vương Thúy Kiều tới nhà dượng của cô dự lễ mừng thọ, về tới nhà bảo Thúy Kiều:
“Con ơi! Nguy rồi! Dượng con cho hai thằng bán tơ ở trong nhà, không biết chúng là cướp, khi chúng bán tơ bị nguyên chủ nhận ra đưa đi thưa quan, quan một mực cho dượng con là kẻ oa trữ. Cha mấy bữa cùng ngồi uống rượu với chúng, chỉ sợ bị chúng khai liều làm hại.”
Dương Binh mã thuộc Ty Binh mã trong thành chỉ dựa vào lời phạm nhân khai là có dính dáng đến Vương Viên ngoại, không cần xét thật giả đã lập tức lợi dụng khẩu cũng gian dối này làm cớ, sai ngay bảy, tám tên sai nha xông vào nhà họ Vương vơ vét của cải, dùng cực hình tra hỏi.
Công sai chẳng cần phân giải, bắt luôn hai cha con Vương Viên ngoại trói ghì vào cột rồi quát bảo nhau: “Khám tang vật”. Tìm khắp trước sau, trong ngoài, dưới bếp, nhà tiêu, sục vào mọi chỗ. Hòm xiểng, tủ giả, mở hết ra, thứ gì đáng giá ít nhiều, chúng đều thu hết. Vương Bà vừa mừng thọ về, trên người mặc bộ quần áo mới, chúng cũng lột lấy, đồ trang sức trâm thoa cũng không sót một thứ gì. Thấy quần áo Thúy Kiều, Thúy Vân dẫu đã cũ nhưng là hàng tơ, cũng bắt lột ra… Đáng thương cho một gia đình đang yên lành mà phút chốc tan tành như bể tuyết núi băng.
Hai cha con Vương Viên ngoại đầu tóc rối bù, chân không giày dép, tay trói chân xiềng, dựa cột ngoài sân, bị bọn công sai khảo đả trăm chiều… Chúng gọi Vương Quan lại, cởi bỏ dây trói, lột hết quần áo trơ da thịt, lấy thừng buộc chặt hai ngón chân cái treo lên cột cho gót chân chấm đất, ngón chỉ lên trời; lại buộc chặt hai ngón chân cái, đầu dây vứt qua xà, quát một tiếng: “Kéo!”, hai ba người ra sức kéo cho gót chân Vương Quan cao khỏi mặt đất hơn năm tấc. Vương Quan… thét lên một tiếng rồi lịm ngất đi. Chúng treo ngược tứ chi Vương Viên ngoại lên, bụng quay dưới đất, trên lưng chặn một hòn đá to đè nặng lên 360 đốt xương, đốt nào cũng như muốn rời, tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông, lỗ nào cũng rỉ mồ hôi, mặt xám như tro.
Những hành vi dã man, hung bạo đó quá hơn cả bọn cướp. Bọn tội phạm chính hiệu là cướp kia chỉ bị bắt giam là cùng, chưa bị hành phạt tàn khốc và khám nhà. Chẳng những thế, bọn công sai còn chia một phần số bạc Vương Thúy Kiều bán mình chuộc cha mà chúng bóp nặn được cho bọn cướp bị giam.
Người đầu bọn bảo: “Việc này mà đến cửa quan, nhất định là bị chém chết. Trừ phi một trong hai ngày phải có ba trăm lạng bạc, một trăm lạng lễ quan sai đi bắt cướp, một trăm lạng đút cho bọn cướp, bảo chúng khai không dính dáng đến nhà cô, còn một trăm thù lao cho bọn chúng tôi, có vậy mới xong việc được.”
Đủ thấy nguyên nhân gốc khiến Thúy Kiều buộc phải bán mình rồi lưu lạc phong trần là do tham quan ô lại bóp nặn, bức hại mà nên. Bọn chúng tham tiền bẻ queo luật pháp, đảo lộn phải trái, tùy tiện làm oan uổng người, lấy đó làm cách kiếm tiền.
Nhưng sang tới ngòi bút Nguyễn Du, bọn cướp bị bắt câu kết với quan lại được sửa thành “thằng bán tơ”, nguyên nhân nhà họ Vương bị cực hình và bị khám nhà mất của được quy kết thành “chuyện do tên bán tơ vu cáo, bịa đặt thành tội” (câu 586). Hành động tàn bạo của lũ công sai và người đầu bọn được sửa thành không phải do đòi đút lót, mà là “Tuy cũng nha dịch, nhưng có từ tâm/ Thông cảm nàng chí tình, trọng hiếu/ Bất giác thương xót sâu sắc, bèn ngầm thu xếp biện pháp/ Đòi ba trăm lạng bạc làm tiền phạt kết thúc vụ án” (câu 607 - 611).
Số bạc Thúy Kiều bán mình để đút lót, hối lộ trong nguyên tác được đổi thành “tiền phạt” tuy tiếp đó cũng có viết: “Vạn quan tiền giắt thắt lưng/ Tùy thời đổi được phải trái, trắng đen/ Chung Công (chỉ người đứng đầu bọn công sai – nguyên chú) cũng sớm liệu sắp xếp/ Tiền đến tay, là kết thúc kiện tụng chốn phủ quan” (câu 688 - 691). Xét về văn lý, kẻ Nguyễn Du chỉ trích là tên Mã Bất Tiến (tức Mã Giám Sinh- P.T.C) mạo xưng giàu có (Vạn quan tiền thắt lưng), bỏ tiền ra lừa mua Thúy Kiều, như thế chẳng những che đậy hoàn toàn tội ăn hối lộ, bẻ queo phép nước của quan lại mà còn biến công sai thành cứu tinh giúp đỡ vô tư nhà họ Vương thoát khỏi tai nạn. Sửa đổi như thế rõ ràng là giữ thể diện cho quan lại phong kiến, chứng tỏ Nguyễn Du đứng trên lập trường quan lại phong kiến mà cắt bỏ nội dung chống tham quan ô lại của nguyên tác.
b. Tô vẽ cho gia quyến ác nghiệt thâm độc của Thiên quan Bộ Lại.
Tiểu thuyết nguyên tác miêu tả rõ ràng, nổi bật sự đối lập giữa các giai cấp, Nguyễn Du đã sửa đổi hết những nội dung này, xuyên tạc và xóa nhòa mối quan hệ đối lập giai cấp đó, khiến cho giới hạn chính trị có tính nguyên tắc trở nên mơ hồ không rõ, từ đó tô vẽ cho giai cấp quý tộc quan liêu mà mình xuất thân. Sau đây là một vài ví dụ:
Tiểu thư họ Hoạn, con gái Thiên quan Bộ Lại trong nguyên tác làm ra bộ không tin chuyện chồng mình lấy vợ bé ở chỗ khác để dễ bề ngấm ngầm thi hành kế độc báo thù, nên đã bắt tên gia nô báo tin cho cô ta tự “vả vào miệng ba chục cái” tiếp đó tra ra tên gia nô Thúc Sô từ Lâm Truy mách tin đó về, lại lập tức ra lệnh bẻ nghiến bốn cái răng cửa của Thúc Sô, “lệnh truyền xuống vững như núi, ai dám trái lời? Kẻ lấy rìu, kẻ cầm sắt, trói cả chân tay, nhất tề động thủ. Thúc Sô thét lên một tiếng, ngất xỉu dưới đất, một lúc mới tỉnh thì bốn cái răng đã bị bẻ ra”. Đối với hành động tàn bạo áp bức giai cấp của tiểu thư quý tộc đó, Nguyễn Du sửa lại thành:
Câu 1555:
Tuần sau có hai người quen [1] ,
Kể hết điều hay dở của Thúc Sinh
Ngờ đâu tiểu thư nổi giận đùng đùng:
“Ta căm giận lời nói láo của mấy người,
Chồng ta không bao giờ có chuyện đó,
Hẳn là các người đơm đặt ra đó thôi”.
Tức thì hạ lệnh,
Bẻ răng vả miệng hai người, quyết không tha,
Từ đó, trong ngoài lặng phắc,
Không còn ai dám tùy tiện nói năng.
Nguyễn Du chuyển nỗi không may của hai người gia nô vô tội sang cho hai người quen biết nhau với Hoạn Thị, tả Hoạn Thị giở mặt thù hằn với hai người quen của mình, tàn ngược so với họ, tuy cũng biểu hiện lòng ghen tuông và tính độc ác dữ dằn của Hoạn Thị, song ý nghĩa áp bức giai cấp không còn, đồng thời cũng vi phạm tính chân thực, xuyên tạc tính cách của nhân vật này, khiến người ta khó có thể tin.
Ngoài ra, nguyên tác tỏ ra hết sức căm phẫn đối với hành vi kẻ cướp bắt cóc Thúy Kiều của bọn đầy tớ hung ác do mẹ con Hoạn Thị sai đi, cho nên đã đặc biệt đặt tên chúng là “Hoạn Ưng” và “Hoạn Khuyển” để ngụ ý chúng là lũ ưng, khuyển của nhà quan. Nguyễn Du đổi tên hai đứa gia nô này thành “A Ưng và A Khuyển”, là mờ nhạt hàm nghĩa phê phán thân phận chó săn cho kẻ quyền quý của chúng. Nguyên tác tả Hoạn phu nhân hạ lệnh đánh Thúy Kiều sau khi nàng bị bắt về Hoạn Phủ, đánh đến nỗi “máu chảy trôi chày”, ngất đi lại phun nước cho tỉnh rồi đe nẹt ác độc rằng: “Trong phủ ta, đầy tớ gái không dưới hơn ba trăm đứa, nếu mày có chết, chẳng qua là nhổ một sợi lông trên chiếc thảm mà thôi. Mày chớ có đem cái chết ra dọa ta”. Bộ mặt nanh ác của kẻ áp bức được khắc họa hết sức rõ nét. Mụ quản gia già cũng bảo Thúy Kiều: “Nếu cô có chết trong phủ này cũng chưa bằng chết một con gà, con bò”, đủ thấy nhà họ Hoan áp bức đầy tớ khắc nghiệt như thế nào. Trước sự áp bức thê thảm, vô nhân đạo đó, ngọn lửa báo thù cũng nhen nhóm trong lòng Thúy Kiều. Nàng thề rằng: “Ta lúc sống không trả được oan này thì lúc chết cũng làm ma quỷ để báo thù”. Sau này, khi Hoạn Thị đưa Thúy Kiều về nhà mình sai bảo, cũng lập riêng một “công đường” để khảo tra, ra oai nghiêm giọng đe: “Nếu mày bưng bít giấu quanh, ta đây cho kẹp tay mày lại, trả về cho cụ bà đánh chết tươi mày”. Về sau nhờ binh lực của Từ Hải báo thù cho mình, Thúy Kiều cũng cho người bắt cóc hai mẹ con Hoạn Thị đem tới, tự mình phán xét. Phu nhân họ Hoạn sợ mà chết còn Hoạn Thư tuy được Thúc Sinh xin tha nhưng vẫn bị hình phát xứng đáng:
“Vương phu nhân…, truyền lệnh cho cung nữ đem Hoạn Thị ra lột hết áo xiêm, đánh một trăm roi. Các cung nữ dạ ran, túm tóc Hoạn Thư lôi ra, lột hết áo xiêm, chỉ để lại cái quần lót, buộc tóc treo trên xà nhà. Hai cung nữ mỗi bên nắm một tay dang ra, hai cung nữ khác cầm mỗi người một cái roi ngựa, phía trước phía sau nhất tề chủ động. Một người từ trên quất xuống, một người từ dưới quất lên, đánh đến nỗi như con chạch rơi xuống đồng tro, như con lươn gặp nồi nước nóng, luôn miệng kêu trời, giãy giụa loạn xạ, khắp người không còn miếng da nào lành lặn”.
Cách báo thù như thế tuy có hơi tàn khốc nhưng đó là do buộc người bị áp bức phải làm, là hành vi chính nghĩa của người nô lệ phản kháng. Nhưng nội dung đấu tranh giai cấp sống động trên đây sang tới ngòi bút Nguyễn Du thì hoàn toàn bị làm cho biến dạng. Tả Hoạn phu nhân tra hỏi Thúy Kiều thì mụ này chỉ ra lệnh: “Hãy đánh ba chục roi cho biết thủ đoạn của lão nương”. Lời mụ già khuyên Thúy Kiều được đổi thành: “Thời vận khó ngang bằng/ Thân bồ liễu, trước hết đành thuận theo mà giữ mình!/ Nghiệp oan kiếp trước đã định/ Sa chân đến đây đâu phải ngẫu nhiên/ Ở đây tai mắt rất nhiều, làm như chưa từng gặp, dù thấy người quen/ Sợ rằng sấm sét khôn lường/ Thân kiến biết đâu mà kêu oan” (câu 1749 - 1756). Lời thề chống đối lại Thúy Kiều biến thành lời than thở, oán trách và cam chịu: “Kiếp phong trần đã tới điểm chót/ Không ngờ ngày nay lại thảm hơn nữa/ Sự đời khổ nỗi khó lặng bằng/ sao hồng nhan riêng chịu trời khiển trách?/ Nợ ngày ngay chuộc cho đời trước/ Ví dụ ngọc nát hoa tàn, thôi còn chi!” (Câu 1761 - 1766). Đoạn tả Hoạn Thị đem Thúy Kiều về nhà làm nhục càng được viết ôn hòa hơn nữa.
Câu 1774:
Thúy Kiều chỉ có phục tùng mệnh lệnh
Quản chi nơi đến là địa ngục hay thiên đường.
Ngày đêm chăm chỉ hầu hạ,
Một khắc chẳng dám lơ là.
Một đêm thanh gió mát.
Tiểu thư hỏi đến tơ trúc cung thương.
Nàng vâng lời ôm đàn diễn tấu.
Nỉ non nước chảy động can tràng.
Tiểu thư nảy lòng thương tiếc,
Nét oan thấy bớt đôi phân.
Chẳng những thế, Nguyễn Du còn lược bỏ chi tiết Hoạn Thị gạn hỏi lai lịch Thúy Kiều, mà đổi thành Hoạn Thị giao cho Thúc Sinh tra hỏi lai lịch (câu 1980) để Thúy Kiều tự viết “một tờ trình” (câu 1894) xin được quy y cửa Phật. Lời Thúc Sinh khuyên Thúy Kiều bỏ trốn cũng biến thành:
Câu 1951:
Vốn toan gian nguy không tránh,
Chung chăn sống chết đến cùng.
Duy bởi trung niên mà chưa có con trai,
Lẽ đáng cùng nàng ly hôn.
Câu 1967:
Tôi đã suy sâu nghĩ chín,
Nhưng vợ lớn nham hiểm vô luân.
Vạn nhất lại giở kết độc,
Oan khuất đôi ta khó giãi bày.
Khuyên nàng cao bay xa chạy.
Ân ái hai ta thế thôi.
Thói nham hiểm của Hoạn Thị chỉ trở thành khả năng “vạn nhất”! Sau này viết đến đoạn Thúy Kiều báo thù, Nguyễn Du nhẹ nhàng bỏ qua Hoạn phu nhân, căn bản không hề cho người đi bắt mụ đó. Đối với “thủ phạm” bức hại Thúy Kiều là Hoạn Thị, Nguyễn Du lại khoan dung, mở cho lọt lưới. Câu 2356:
Thủ phạm nhắc tới đầu tiên, chính danh Hoạn Thị
Thúy Kiều thoạt thấy gật đầu hỏi han:
“Không ngờ tiểu thư cũng đến đây!
Trong đám đàn bà ghê gớm,
Tiểu thư hung tàn thấp kém nhất.
Người đàn bà nham hiểm,
Cay nghiệt lắm, tội đáng đền.”
Hoạn Thị mười phần kinh hoảng,
Quỳ dưới trướng, luôn miệng xin tha:
«Đối xử xưa kia, tự thấy thẹn thùng,
Tất thảy do tình cảm ghen tuông.
Nhưng khi phu nhân trốn khỏi phật đường,
Tôi đã không làm phu nhân khó xử.
Trong lòng yêu kính,
Chỉ vì tranh được sủng ái không tránh khỏi xúc phạm tôn nhau.
Biết rõ tội lỗi,
Chỉ mong lượng biển bao dung.”
Thúy Kiều nói: “Thảo nào mọi người khen ngợi,
Quả thật lanh lợi thông minh, nhiều tài nói giỏi.
Ta tha cho, để mà tự sửa,
Trừng phạt nặng e có thiên kiến.
Biết lỗi chịu sửa cũng chưa muộn,”
Nói xong, sai tha tại chỗ,
Hoạn Thư trong lòng cảm phục, hổ thẹn, liến khấu đầu lạy.
Lần bị điệu đến này, Hoạn Thư chẳng những không xây xát một mảy lông mà còn nhờ chồng là Thúc Sinh được thơm lây. Hai vợ chồng nhận “gấm trăm cuốn bạc nghìn cân” của Thúy Kiều đền ơn Thúc Sinh, chở nặng mà về. Còn đối với kẻ tù xuất thân hèn kém, Thúy Kiều lại trừng phạt rất nghiêm. Sở dĩ Nguyễn Du viết như thế đương nhiên xuất phát từ sự đồng tình với những nhân vật thuộc giai cấp quý tộc là giai cấp xuất thân của mình. Ông đã tìm mọi cách che đậy cho tội áp bức của giai cấp ấy, sửa chữa cuộc đấu tranh giai cấp nghiêm túc đó thành cuộc tranh chấp thuần túy giữa vợ cả vợ lẽ ghen tuông với nhau trong gia đình. Thúy Kiều đòi hỏi trả thù nhưng khi thấy kẻ thù thì lại khâm phục tài ăn nói và khen ngợi cô ta biết sửa lỗi lầm. Cách cải biên ấy rõ ràng đã bóp méo, xuyên tạc nghiêm trọng nội dung có tính chính trị sâu sắc của nguyên tác.
c) Nguyễn Du coi xuất thân quý tộc và dòng dõi thư hương của mình như một dấu hiệu vinh dự và tùy tiện gán ghép cho nhân vật chính diện trong truyện.
Trong nguyên tác, Thúy Kiều là viên ngọc sáng của gia đình, bình thường, quần áo hai chị em mặc đều đã rung rúc, Nguyễn Du cố tình đổi gia thế cho hai cô. Thơ viết:
Câu 13:
Người con trai út
Tên gọi Vương Quang, nối dòng thư hương nhiều đời.
Sau lúc bán mình, trong khi tưởng nhớ ý trung nhân Kim Trọng, Thúy Kiều còn như trông thấy “chén vàng vẫn còn đó” (câu 701). Nếu chén vàng uống chung vẫn còn đó, làm sao Thúy Kiều lại phải bán mình? Rõ ràng sự sửa chữa lầm lẫn đối với gia thế của nhân vật đã làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn không sao giải thích nổi giữa các tình tiết của câu chuyện. Sau khi Kiều rớt xuống hàng kỹ nữ, Nguyễn Du nhiều lần cho cô trở thành “tài sắc tuyệt vời” để cho cô than thở: “Tại sao sinh trưởng trong gấm vóc, tại sao trở thành hoa bên đường, tùy tay người chơi”. (Câu 1235). Những kiểu miêu tả đó thật không ăn nhập với lời giới thiệu ở đầu truyện rằng gia đình Vương Thúy Kiều “thường thường bậc trung”.
Về người yêu của Thúy Kiều là Kim Trọng, tình cảm thiên lệch của Nguyễn Du lại càng nổi rõ, dường như dựa vào diện mạo của mình để cải biên nhân vật này. Kim Trọng trong nguyên tác là một “tú tài nhà giàu” trong làng, tức là con trai một tài chủ nhà quê chứ không phải công tử thế gia dòng dõi cao sang. Nguyễn Du thêm cho chàng ta dòng dõi thế gia “vốn nhà trâm anh”. Trong nguyên tác, một mình chàng ta mượn dịp tảo mộ trong tiết Thanh minh để gặp chị em Thúy Kiều ở đó, Nguyễn Du đổi thành chàng ta dắt theo “vài đứa hậu sinh” (câu 1948) cùng đi, lại còn nói nhà họ Kim với nhà họ Vương là “hàng xóm nhiều đời giao hảo” (câu 153). Nếu quả là như thế, khi nhà họ Vương oan uổng, mắc phải việc quan sao cái nhà “hàng xóm nhiều đời giao hảo” kia lại không đem tiền bạc, thế lực ra giúp bạn cũg mà đành trơ mắt nhìn họ Vương bán đứt con gái yêu của mình? Hiển nhiên là do sửa bừa gia thế của họ Vương dẫn đến làm hỏng tính chân thực của tình tiết.
Đối với nhân vật Thúc Sinh, nguyên tác viết rõ chàng ta là con trai một nhà buôn, vì người cha “mở ngôi hàng Lâm Truy” nên mới theo cha đến đó. Nguyễn Du cũng gán cho anh chàng nòi thư hương và để cho Thúy Kiều cảm thấy mình không xứng làm vợ bé của Thúc sinh qua câu: “Tự thẹn thân nhơ, e lụy đến danh vọng nhà chàng” (câu 1357). Trong nguyên tác, Thúy Kiều không có quan niệm hôn nhân phong kiến phân biệt đẳng cấp gia thế như vậy, cô do dự trước lời cầu hôn của Thúc Sinh chỉ vì sợ vợ cả không thể khoan dung, rốt cuộc chỉ làm mình thêm khổ. Điểm sửa chữa của Nguyễn Du đã bôi nhọ hình tượng Thúy Kiều, khiến hình tượng này có thêm sắc thái tư tưởng của con người tầm thường, phong kiến.


[1]Bản dịch Trung văn tự thêm “người quen” (thục nhân – P.T.C). B. Nguyễn Du còn làm sâu thêm quan niệm số mệnh phong kiến
Ở tiểu thuyết nguyên tác, tư tưởng số mệnh vốn đã có, như “mệnh bạc như hoa đào”, “giai nhân bạc mệnh, hồng lỡ phấn thì”, nhất định những tình tiết hư ảo về “hội đoạn trường”, “giáo chủ đoạn trường”, “sổ đoạn trường” ngầm cho biết đời Thúy Kiều là cả một mệnh bạc duyên ôi. Khi lần đầu Thúy Kiều sa vào lầu xanh và toan tự tử không thành, hồn kỹ nữ Lưu Đạm Tiên hiện ra bảo: “Món nợ oan nghiệt chưa trang trải xong, vội thoát cõi trần sao được?”. Hồi 19 lại thông qua ni cô Giác Duyên để chuyển lời dự đoán về thân phận Thúy Kiều của đạo cô Tam Hợp “thông tỏ dữ lành”, “công đức lớn nên oan nghiệt tiêu trừ được, lại còn được kết mối tân duyên”. Rồi hồn Lưu Đạm Tiên lại hiện ra trong mộng của Thúy Kiều và cũng nói: “Vả trước đây từng nếm trải hết mùi cay đắng, ngày nay món nợ kiếp trước đã trả xong. Từ nay thân hưởng phúc lộc, tình duyên như ý. Hôm qua hội đoạn trường đã xóa tên chị, vậy thơ đoạn trường cũng xin trả lại”. Từ đầu chí cuối, lực lượng u minh đều giám sát và quyết định số mệnh của Thúy Kiều. Mặc dù những đoạn miêu tả này chỉ như mây mù nhẹ mỏng lan tỏa trên những đỉnh cao hiện thực được miêu tả trong toàn bộ nguyên tác nhưng dù sao vẫn có tác dụng tiêu cực là tuyên truyền cho tư tưởng định mệnh.
Dưới bút Nguyễn Du, những đoạn miêu tả đó được giữ nguyên. Chẳng những thế, ông còn cho thuyết định mệnh này thâm nhập vào ý thức tư tưởng của Vương Thúy Kiều ở những đoạn miêu tả có tính hiện thực cũng thấm đượm quan nhiệm mê tín về thuyết nhân quả định mệnh, làm mờ nhạt thêm ý nghĩa hiện thực xã hội của những xung đột bi kịch. Chẳng hạn, ông thường tả Thúy Kiều dùng thuyết định mệnh để giải thích số phận bi kịch của mình. Câu 1193:
Mầm thiện đời trước chưa trồng;
Túc trái đời nay nên trả.
Há từng đoái hoài bình vỡ,
Gạt bỏ thân này trả nợ, đặng đợi tử vong.
Câu 2345:
Ngày sau họa do tôi gây,
Lẽ trời báo ứng, ai dám gánh chịu.
Câu 1129:
Hóa nhi trêu cợt,
Vì có chút nhan sắc mà phải chịu.
Nghìn trùng ma chướng…
Câu 1765:
Nợ ngày nay chuộc kiếp trước,
Dù có hoa tàn ngọc nát cũng nói năng chi.
Câu 1886:
Lỡ thì vận xúi, tôi nén chịu số mệnh rủi may
Một loạt những miêu tả tâm lý trên đây đã được thay thế cho tinh thần bất bình, phản kháng của Vương Thúy Kiều đối với số phận bi kịch trong nguyên tác, từ đó sửa chữa một linh hồn luôn luôn tố cáo và phản kháng thành một con người tầm thường, đầy tính tôi đòi, luôn luôn chịu khuất phục sự chi phối của số phận.

C. Truyện thơ của Nguyễn Du còn thêm chân cho rắn khiến chúng mâu thuẫn với hoàn cảnh và tình tiết trong toàn bộ nguyên tác.
Ví dụ:
- Trong nguyên tác, Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau trong tiết Thanh minh, không bao lâu đã yêu nhau say đắm, cả lịch trình tình yêu đó xảy ra không quá nửa năm. Còn ở Nguyễn Du lại có thêm cảnh mùa đông xuất hiện trong lúc họ yêu nhau: “Đầu tường sương đậm tuyết dày “ (câu 367). Những câu thơ cho thấy đặc trưng của thời tiết còn có “Phất phơ tơ liễu phẩy mành” (câu 269), “Đầy sân hoa rụng” (câu 272); “Hồng thưa xanh nõn” (câu 370) v.v… Nhưng thời tiết được mô tả đó tự mâu thuẫn với nhau, phá hoại tính thống nhất và cảm giác chân thực về hoàn cảnh được miêu tả trong nguyên tác.
- Viết về Mã Giám Sinh, kẻ đến lừa mua Thúy Kiều, Nguyễn Du thoạt đầu nói ý là “viễn khách”, tiếp ngay sau lại nói: “Quê quán ở thị trấn Lâm Thanh không xa”. Vậy rốt cuộc y là người ở xa hay ở gần, thật là khó hiểu.
- Trong nguyên tác, Thúy Kiều phải trốn khỏi nhà Hoạn Thư vì Hoạn Thư bức bách từng bước một. Thúc Sinh tuy có tình với Thúy Kiều song không dám để cho Hoạn Thư thấy được, bất đắc dĩ đành khuyên Kiều đi trốn. Còn Nguyễn Du, ông lại để cho Thúc Sinh nói ra những lời tuyệt tình, hủy bỏ lời hứa trước. Câu 1554:
Duy bởi trung niên mà chưa có con trai
Lẽ đáng cùng nàng ly hôn.
Lời thề vàng đã thành chuyện cũ,
Trăm thân không chuộc chung quy lời hữa cũ khó theo.
Như thế là từ một thư sinh sợ vợ, Thúc Sinh đã trở thành anh chàng phụ tình. Nếu Thúc Sinh đã tuyệt tình phụ nghĩa mà sau này Thúy Kiều còn báo đáp anh ta như một vị ân nhân số một, chẳng hóa ra vô lý lắm sao? Những nét bút thêm chân cho rắn này chẳng những làm méo mó hình tượng nhân vật và mối quan hệ giữa nhân vật với nhau mà còn phá hoại sự hoàn chỉnh và thống nhất của tình tiết, do vậy rõ ràng là những nét bút thất bại.
Nguyên tác kể Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi thanh lâu để làm thiếp chủ yếu dựa vào sự ủng hộ của Vệ Hoa Dương, một bạn chưa có vợ và rất có thế lực ở ngay tại địa phương ấy. Còn Nguyễn Du cho Thúc Sinh tự lo liệu lấy một mình chuyện đó.
Câu 1371:
Mượn điều trúc viện thừa lương,
Dẫn Thúy Kiều về lén giấu đi.
Chàng chuẩn bị lý lẽ với kỹ viện,
Cử người được việc đến dò la đối phương.
Cuối cùng thuyết phục được Tú Bà,
Cờ thua một nước, đành cho nàng tòng lương.
Nguyễn Du sửa như thế là làm biến dạng Thúc Sinh, một anh chàng yếu đuối, tầm thường, chẳng có tài cán gì dường như trong phút chốc biến thành một người thạo việc lại có khí phách, ngoài ra dưới tay còn có một người giúp việc. Điều này chẳng những mâu thuẫn với tính cách của Thúc Sinh mà còn mâu thuẫn với cả mặt phát triển của truyện.
Tóm lại, tuy những chi tiết Nguyễn Du đổi khác so với nguyên tác không nhiều song tuyệt đại đa số đều không được như mức độ tư tưởng và mức độ nghệ thuật của nguyên tác.

II. Nguyên nhân của sự dị đồng
Qua so sánh như thế có thể thấy Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam có khác nhau. Nguyên nhân của sự dị đồng đó là gì?
Nhìn chung, những chỗ tương đồng là do Nguyễn Du tán thưởng và thích thú với nguyên tác, nhất là nhân vật chính Vương Thúy Kiều. Nhân vật tài sắc hơn người nhưng lại trải qua cảnh ngộ đau thương ít có trong những khổ đau của con người, gợi lên cảm xúc sâu sắc nơi ông về thân thế của bản thân mình. Ông cất tiếng trách “chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, tỏ niềm đồng tình sâu sắc với những bất hạnh của nàng và tán thưởng thái độ thanh cao, trong trắng, kiên trì của nàng. Do vậy, Nguyễn Du hầu như hoàn toàn bám sát nhân vật và cốt truyện của nguyên tác, về đại bản thể bảo tồn được hệ thống hoàn chỉnh của hình tượng và cốt truyện của nguyên tác. Còn nguyên nhân của những chỗ sai dị chủ yếu có ba điểm như sau:
1. Lập trường của một người dòng dõi cao sang như Nguyễn Du đã để lại dấu ấn giai cấp trong tác phẩm của mình, khác lạ với nguyên tác.

Tác giả nguyên tác tuy không để lại họ tên thật nhưng từ khuynh hướng để lộ trong tác phẩm và sự ăn ý về tình cảm, hứng thú với Thiên Hoa Tàng chủ nhân là người cùng sáng tác tiểu thuyết thông tục mà xét thì Thanh Tâm Tài Nhan là văn sĩ tầng lớp dưới, có tài mà không gặp thời, vì vậy thái độ cơ bản của ông khi thuật chuyện, tả người là đồng tình sâu sắc với những người hèn kém, bất mãn, căm ghét kẻ thống trị. Còn Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình quý tộc nổi tiếng hiển hách nhiều đời ở Việt Nam, gia đình ông là một trong những cột trụ chống đỡ cho vương triều phong kiến họ Lê đang suy vi, thi lễ truyền gia, đầy nhà khoa giáp. Năm mười chín tuổi, Nguyễn Du đỗ tú tài, hai mươi bốn tuổi thừa hưởng phúc ấm của cha, giữ chức Hùng hậu quân hiệu Chánh Thủ hiệu tỉnh Thái Nguyên. Ông sinh vào thời loạn hồi cuối Lê, hai tập đoàn phong kiến thống trị hai miền Nam Bắc đánh nhau đến nửa thế kỷ, gây cho nhân dân biết bao tai nạn nặng nề, cuối cùng dẫn đến khởi nghĩa vũ trang của nông dân Tây Sơn. Quân khởi nghĩa lật đổ nhà Lê và cũng giáng những đòn nặng nề cho gia tộc họ Nguyễn. Nguyễn Du cùng hai người anh tích cực mưu đồ cần vương, ngoan cố chống lại khởi nghĩa nông dân song đều thất bại. Nguyễn Du còn là tù binh của họ trong một thời gian. Thất bại đó khiến Nguyễn Du trở thành di dân nước mất nhà tan của triều Lê trong 13 năm từ 1789 đến 1802, nếm đủ mọi khổ cực, nghèo túng, ốm đau, loạn ly, thất vọng, cô đơn. Sau đó vương triều Gia Long được thế lực thực dân Pháp vực dậy đã thay thế chính quyền nông dân, vời Nguyễn Du vào làm Đông các học sĩ, phong tước Du Đức hầu. Tuy quan cao bổng hậu nhưng ông luôn bị gièm pha, đả kích khiến ông chất chứa nhiều mâu thuẫn và đau khổ trong lòng. Ông rất tự hào vì được xuất thân trong gia tộc “trọng trung nghĩa, giỏi văn chương”’; trong tình hình bất đắc chí về chính trị, ông say mê với thơ, tự cho là có tài, đặc biệt là yêu thích thơ từ cổ điển của Trung Quốc và tác phẩm văn học thông tục [1]. Sự từng trải và địa vị đặc thù ấy để lại dấu ấn về bốn phương diện sau đây trong truyện thơ của ông: một là tô vẽ cho quý tộc dòng dõi thư hương danh tiếng; hai là, che đậy mâu thuẫn giai cấp; ba là, ác cảm với khởi nghĩa nông dân; bốn là, đặc biệt nhấn mạnh sự mê tín đối với thuyết nhân quả.
2. Ảnh hưởng tư tưởng văn học của Nguyễn Du đối với hình thức nghệ thuật của tác phẩm
Ảnh hưởng này biểu hiện ở bốn phương diện như sau:
a. Chú trọng học tập hình thức nghệ thuật dân ca của nước mình, vận dụng ca dao thể lục bát riêng có ở Việt Nam. Thể thơ này bắt nguồn từ ca dao dân ca Việt Nam, sau đó được văn nhân vận dụng, trở thành hình thức phổ biến của thơ tự sự trường thiên Việt Nam và cũng là hình thức thơ ca độc đáo ở Việt Nam. Hình thức này còn được gọi là “điền từ Việt Nam” [2] . Truyện Kim Vân Kiều của Nguyễn Du đạt tới thành tựu cao nhất của những sáng tác văn học vận dụng đề tài này, từng được khen là: “Hữu Minh nhất đại vô song kỹ - Đại Việt thiên thu tuyệt diệu từ” [3] . Cấu trúc thể thơ của hình thức này là: mỗi hàng thơ gồm hai câu, câu trên sáu chữ, câu thứ sáu của câu trên hiệp vần với chữ thứ sáu của câu dưới; chữ thứ tám của câu dưới hiệp vần với chữ thứ sáu của câu trên hàng tiếp theo, cứ theo thứ tự như thế mà tuần hoàn đến hết thì thôi. Hình thức này có thể phối hợp với nhạc diễn xướng, cũng có thể ngâm ca, rất được nhân dân Việt Nam hoan nghênh. Truyện Kim Vân Kiều của Nguyễn Du cả thảy 3254 hàng thơ, đầu cuối quán xuyến thông suốt, một hơi có thể làm thành, là tác phẩm mẫu mực hoàn chỉnh lớn lao nhất, trau chuốt nhất và làm cảm động người đọc nhất trong thơ ca thể lục bát của Việt Nam. Việc sử dụng hình thức này khiến cho truyện thơ ấy có đặc sắc dân tộc Việt Nam. Đồng thời về ngôn ngữ, Nguyễn Du còn sử dụng xen kẽ tục ngữ, ngạn ngữ, khẩu ngữ dân gian Việt Nam làm cho ngôn ngữ sinh động, hoạt bát. Chẳng hạn, “Đào tiên giống quý không ai biết – Chẳng chuộng đào tiên chuộng cam quýt” (câu 833). Câu ngạn ngữ Việt Nam này hình dung con người ta không phân biệt được thật giả, lầm tưởng thật là giả. Nguyễn Du mượn câu này để miêu tả tâm lý của tên buôn người Mã Giám Sinh bịp bợm cho rằng dễ lừa được người đời.
b. Khuynh hướng trữ tình chủ quan của nhà thơ biểu hiện mạnh mẽ. Trữ tình là khí chất nghệ thuật của Nguyễn Du vì ông là một nhà thơ chứ không phải là nhà tiểu thuyết. Truyện Kiều của ông không có nhân vật và câu chuyện sáng tạo thêm mà chỉ mượn nhân vật và cốt truyện có sẵn để trữ tình, khiến cho câu chuyện tăng thêm một tầng thái trữ tình nồng đậm nữa, làm cho truyện được thi hóa. Về phương diện này, ông đạt được thành công rất lớn. Điều đó biểu hiện trước hết ở tính cách của nhân vật chính Vương Thúy Kiều được tăng thêm khí chất một nhà thơ trữ tình. Ông thường dùng ngôn ngữ trữ tình rất đẹp đẽ để tô đậm hoạt động tư tưởng nội tâm và tình cảm phức tạp phong phú của nàng. Chẳng hạn lần đầu tiên Thúy Kiều sa vào nhà chứa, sau khi nàng tự tử và được cứu sống, có một đoạn khắc họa tâm lý đậm tính trữ tình tinh tế và cảm động.
Câu 1033:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân.
Trăng gần, núi xa cùng trong sáng.
Trông bốn bề chân trời xa tắp,
Cồn đất vàng, dặm bụi hồng, cảnh hoang lương.
Mây sớm đèn khuya thẹn thùng vô hạn,
Lòng tan nát, nửa vì cảnh vật, nửa vì đa tình.
Nhớ năm xưa chung chén dưới trăng,
Tin sương hoán cải, tin tức vô bằng.
Chân trời góc biển một mình bơ vơ,
Ngày nào mới rửa sạch được ô danh.
Phụ người tựa cổng,
Hỏi ai là người thay thăm hỏi ấm lạnh?
Mặc áo lão là múa, biết đến năm nao,
Cây du tử trước cửa hẳn đã lớn vừa một ôm.
Đoạn thơ này đã gộp đoạn miêu tả tâm lý ngắn gọn cùng nội dung than thở cho thân thế trong tổ khúc “Thập bất hài” và trong bài thơ luật của Thúy Kiều ở nguyên tác vào làm một nên tình cảm biểu lộ ra thật là cảm động, là mẫu mực điển hình cho thành công về cải biên của Nguyễn Du. Những đoạn trữ tình viết rất hay tương tự như trên còn có nữa, như đoạn khắc họa tâm lý Thúy Kiều tiễn chồng là Thúc Sinh về quê và đoạn miêu tả tình cảm của nàng lần đầu yêu Kim Trọng v.v… Đây là tâm trạng của Kiều sau khi gặp và yêu Kim Trọng.
Câu 169:
Nước suối trong núi chảy ra trong veo.
Bên cầu, bóng tơ liễu phân minh.
Nàng trở về nơi gác thêu rèm vẽ.
Mặt trời lặn khuất núi, lầu thành vừa báo sơ canh.
Trăng sáng nhòm người,
Nước gợn sóng vàng, sân lồng bóng cây.
Hải đường phất nhẹ lâu dài,
Trong sương gió nhè nhẹ đu đưa.
Tĩnh mịch đêm khuya trăng sáng,
Nghĩ xa nghĩ gần, mối sầu khó gạt bỏ.
Trong lúc trữ tình, nhà thơ gửi gắm vào đó cả thể nghiệm cuộc đời của mình nên những đoạn đó chân thực tha thiết, làm cảm động lòng người. Nhưng đồng thời, có lúc nhà thơ mải mê gửi gắm tình cảm chủ quan của mình nên đã làm tổn hại đến sự hoàn chỉnh và thống nhất của hình tượng nhân vật. Chẳng hạn, tình cảm khi chia tay của Thúy Kiều thì bất kể là Kim Trọng, Thúc Sinh hay Từ Hải, đều nặng lòng như nhau. Nhìn riêng rẽ, mỗi lần trữ tình là một lần làm người đọc cảm động, nhưng nếu liên hệ lại mà xét thì người đọc sẽ thấy Thúy Kiều lấy người nào thì yêu người đó và như thế thì mâu thuẫn với số phận bất hạnh của nàng về mặt hôn nhân. Xét những đoạn miêu tả trong nguyên tác, Thúy Kiều chỉ thực sự yêu có một mình Kim Trọng, còn đối với Thúc Sinh và Từ Hải thì chủ yếu chỉ cảm ơn chuộc mình ra khỏi lầu xanh của họ; tuy cũng có tình nhưng tính chất và mức độ có khác. Có như thế mới đúng là bản sắc của “nòi tình”.
c. Nguyễn Du rất yêu mến văn học Trung Quốc, lại có tu dưỡng cao về văn học Hán ngữ, tự mình đã viết ba tập thơ chữ Hán. Trong Truyện Kim Vân Kiều cải biên, ông đã vay mượn hoặc vận dụng biến hóa rất nhiều câu nổi tiếng trong thơ và từ của Trung Quốc. Cách viết đó làm giàu rất nhiều cho ngữ vựng Nôm của tiếng Việt, tăng cường sức biểu hiện của nó, có cống hiến quan trọng cho sự phát triển ngữ văn dân tộc của Việt Nam. Vì vậy, Phó Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam là Hoài Thanh [4] cho rằng Nguyễn Du “về lời, về chữ thì chưa có một nhà văn, nhà thơ nào khác sánh kịp trong lịch sử văn học Việt Nam”. Sáng tạo đặc sắc đó khiến mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và Trung Quốc càng thêm mật thiết.
d. Nguyễn Du cũng chịu ảnh hưởng của phong cách thơ ca hình thức chủ nghĩa và phỏng cổ chủ nghĩa phổ biến ở Trung Quốc thời bấy giờ nên trong thơ của ông bắt gặp những chỗ khoe khoang kiến thức văn hóa và thơ từ Trung Quốc của mình, vay mượn một số lượng lớn những câu có sẵn trong thơ Đường và từ Tống, sử dụng rất nhiều điển cố Trung Quốc. Mặt thành công của ông như trên đã nói. Có điều, do mải mê theo đuổi quá mức về mặt này nên cũng thường mắc sai lầm là chồng chất, gượng ép, thậm chí vận dụng không đúng, gây tổn hại cho nội dung. Có thể nói những dẫn chứng về mặt này nhặt đâu cũng có. Chẳng hạn:
Ở quyển số 3, Nguyễn Du dùng “mây lầu Tần khóa kín rèm khuê rủ” để miêu tả nỗi tương tư của chàng Kim Trọng mới yêu đối với cô thiếu nữ Vương Thúy Kiều trong khuê các. Nguyễn Du đã dùng lầm lầu Tần chỉ nhà chứa để chỉ khuê phòng của Thúy Kiều; dùng “mai sau mận chịu tội thay đào, kết thành vợ chồng” trong lời Kiều nhờ em gái thay mình lấy Kim Trọng thì rõ ràng thành ngữ “mận chịu vạ thay đào” đã mâu thuẫn với tình cảm của Kiều đối với Kim Trọng. Bởi theo Thúy Kiều, lấy được Kim Trọng là mối nhân duyên hạnh phúc lý tưởng chứ tuyệt nhiên không phải là chịu vạ thay cho người khác.
Nguyễn Du thường vay mượn những khuôn sáo quen thuộc đã được khái niệm hóa, loại hình hóa vẻ mặt trong tiểu thuyết thông tục của Trung Quốc để miêu tả nhận vật khiến cho nhân vật đã được bản sắc văn hóa trong nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân trở thành người nào cũng cùng một vẻ mặt. Chẳng hạn khi miêu tả Thúy Vân, Thanh Tâm Tài Nhân dùng “thiên kiều tuyệt thuyến, tính cam ninh đạm” (vẻ kiều diễm trời cho xinh đẹp tuyệt vời, tính ôn hòa, điềm đạm), “tinh thần tĩnh chính, dung mạo đoan chính, biệt hữu phong thái” (tinh thần điềm tĩnh ngay thẳng, dung mạo đoan trang, riêng một phong thái). Bằng ngọn bút truyền thần ông đã vẽ nên tính cách hướng nội, vẻ đẹp tự nhiên mộc mạc thanh tân của một thiếu nữ nhàn tĩnh văn nhã. Nguyễn Du thì lại mượn “ngọa tàm mi” (mày tằm nằm) mà Tam quốc diễn nghĩa dùng để miêu tả Quan Vũ trang nam nhi cao lớn, uy vũ, khoáng đạt, lắp vào khuôn mặt cô thiếu nữ mười phần xinh đẹp đó. Nếu khuôn mặt thiếu nữ xinh tươi mơn mởn lại mọc ra một đôi lông mày võ sĩ vừa đen rậm, vừa thẳng cứng thì cái điều kệch cỡm nghiêm trọng ấy há chẳng phải phá hoại cả vẻ đẹp của cô thiếu nữ đó sao? Cũng như vậy, khi miêu tả thiếu nữ Thúy Kiều con nhà trung lưu, Nguyễn Du lại mượn những khuôn sáo mà tiểu thuyết thông tục Trung Quốc dùng để tả những cậu ấm quý tộc có bộ mặt đầy đặn núc ních, nên mới tả nàng có khuôn mặt như trăng tròn. Còn tả tướng mạo của tướng giặc biển Từ Hải thì Nguyễn Du lại mượn cả lông mày của Quan Vũ lẫn cằm và râu của Trương Phi để gắn lên mặt Từ Hải, đó là “râu hùm, hàm én, mày ngài”. Về phương diện này, không thấy những từ vựng do chính tác giả sáng tạo nên, do vậy cảm thấy cũ kĩ, cứng nhắc không có chút sinh khí nào.
Về việc mượn những danh cú trong thi từ cổ, ở Nguyễn Du cũng có nhiều chỗ vận dụng không được thỏa đáng. Chẳng hạn để khen một câu thơ hết sức bình thường của Thúy Kiều đề trên bức tranh phong cảnh của Kim Trọng, Nguyễn Du đã mượn câu thơ có sẵn của Đỗ Phủ tự khen tài thơ của mình khi ông đã về già là câu “Bút lạc kinh phong vũ” (Tay tiên gió táp mưa sa – N.D.); khen nét chữ Thúy Kiều thì viết “Tinh khéo như thiếp tựa Lan Đình” (So vào với thiếp Lan Đình nào thua – N.D.), khen tài thơ Thúy Kiều thì viết: “Quán quân trên thi đàn đâu nhường cho ai” (Thì treo giải nhất chi nhường cho ai, N.D.), “Ban Siêu, nàng Tạ, chẳng nhường cho ai” (Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này – N.D.). Khen ngợi quá mức ngược lại đã làm mất tính chân thực.
Khi miêu tả Thúy Kiều lần đầu tiên gảy Hồ cầm cho người yêu Kim Trọng nghe, Thanh Tâm Tài Nhân dùng thủ pháp phỏng thanh tả ý, ý cảnh hàm súc, để lại một khoảng cách cho bạn đọc đủ tưởng tượng, khiến người ta cảm thấy tiếng đàn như tình yêu của nàng, nồng đượm như rượu ngon, làm ý trung nhân của nàng say đắm. Nguyễn Du không hiểu được điều tuyệt diệu của việc tả ý đó, lại kể tên bốn khúc nhạc cổ điển là Sở Hán tương tranh, Phụng cầu hoàng, Quảng Lăng tán, Chiêu Quân oán mà trong số đó không một khúc nào có nội dung biểu hiện được nỗi lòng người thiếu nữ đang yêu say đắm. Khúc thì tiếng sát phạt vật lộn trên chiến trường thời cổ, khúc thì tả hiệp sĩ thời xưa giết kẻ thù trừ bạo ngược, hoặc nếu không là niềm u oán bị buộc phải gả cho người ngoại tộc thì cũng là lòng hâm mộ của tài tử đối với giai nhân. Lối tả thực này tuy về hình thức ngợi khen tài đàn tinh diệu của Thúy Kiều nhưng về thực chất thì sự việc ngược với ý định, người ta chỉ cảm thấy chẳng qua Thúy Kiều biết gảy thành thạo một số ca khúc xưa mà thường ngày từng luyện tập, chứ không thể dùng đàn để kí thác tư tưởng tình cảm một cách tùy ý. Cái ngón đàn vừa nhập môn ấy thật không tương xứng chút nào với lời khen đi khen lại trong truyện, đủ thấy đó chỉ là kết quả của việc Nguyễn Du khoe khoang kiến thức về âm nhạc của mình.
Trong thời gian Nguyễn Du đi sứ nhà Thanh, ngoài trường phái phỏng cổ chủ nghĩa ra, văn đàn Trung Quốc còn có phái tính linh và các nhà thơ chủ trương phong cách thơ hiện thực chủ nghĩa chống lại những tác phong đáng ngán nói trên. Nguyễn Du không chịu học những phái tiến bộ đó mà lại chọn con đường đỡ mất công sức là phỏng cổ, phục cổ, chẳng những bê nguyên xi nhân vật và cốt truyện có sẵn mà về mặt ngôn ngữ cũng viện dẫn hầu khắp, lắp ghép tùy tiện nên rất ít có sáng tạo mới độc đáo về nghệ thuật. Điều này là có liên quan với địa vị chính trị và thế giới quan của ông.
Ngoài ra, những chỗ hổng về kiến thức cũng dẫn Nguyễn Du tới những sai lầm về ngôn ngữ và chi tiết. Đó là:
Mặc dù Nguyễn Du là một nhà thơ của Việt Nam tinh thông văn học Hán nhưng rốt cuộc không thể sánh với bậc thông nho của Trung Quốc được. Là một người thông hiểu Trung Quốc ở nước ngoài, làm thơ bằng phương pháp vay mượn của thi phái khảo cứu, nhặt nhạnh tài liệu ngôn ngữ trong biển tư liệu văn hóa Trung Quốc mênh mông quả là không tránh khỏi có chút quá khó đối với Nguyễn Du. Vì thế, trong khi vận dụng cụ thể câu chữ trong thi, từ và thành ngữ, điển cố Trung Quốc, ông khó tránh khỏi bộc lộ những nhược điểm, những chỗ sửa lầm, vận dụng lầm, chứng tỏ ông chưa thông hiểu hoàn toàn. Chẳng hạn, dùng lầm “lầu Tần” (kỹ viện) để chỉ buồng the, “đồng môn” thay cho “đồng song” trong nguyên tác; sửa lầm cách gọi mẹ dởm Mã Tú Ma trong nhà chứa thành “Mã Tú Bà”, thậm chí còn gọi là mụ mối. Đó đều là những hiểu lầm do không nắm được cách dùng một số từ ngữ có liên quan của Trung Quốc mà ra.
Còn như những lầm lẫn về mặt vay mượn thơ, từ cổ điển của Trung Quốc lại càng nhiều, chẳng hạn:

Để tỏ ra ngôn ngữ của Kim Trọng cao nhã, Nguyễn Du đã cho chàng ăn nói sặc mùi sách vở, để cho chàng ví hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân với “hai Kiều khóa xuân đài Đồng Tước”. Rõ ràng Nguyễn Du vay mượn câu tuyệt cú “Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều” trong bài “Xích Bích” của Đỗ Mục nhằm khoe khoang học vấn của mình. Nhưng sự khoe khoang chỉ làm lộ tẩy sự bất thông – câu này trong thơ Đỗ Mục là một câu giả định. “Đông phong bất chữ Chu Lang tiện – Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều” có nghĩa là nếu như trong trận Xích Bích, Chu Du không gặp được điều kiện có lợi cho hỏa công là gió đông nam nổi lên thì Đông Ngô ắt bị mất về tay Tào Tháo. Dùng một ý thơ như thế để ví hai thiếu nữ chốn phòng the mà mình yêu mến, chẳng hóa ra râu ông nọ cắm cằm bà kia hay sao?
Tả Kim Trọng tỏ nỗi tương tư của mình với Thúy Kiều, Nguyễn Du đã cho nhân vật này nói câu thành ngữ: “Lòng này chăm chăm, đâu dám từ bỏ ý nghĩ ngây dại là ôm cây đợi thỏ” (câu 328 – N.D.). Mượn truyện ngụ ngôn về một anh chàng ngốc ôm cây chờ đợi thỏ đâm đâu vào cây chết cho mình bắt, để ví với tình cảm nhớ thương chờ đợi người thiếu nữ mình yêu, thật là đường đột quá mức.
Thơ, từ Trung Quốc thường dùng tóc mai bạc trắng để tả nỗi sầu nhưng Nguyễn Du lại dùng cách viết này để tả nỗi sầu vì tình cảm của chàng trai cô gái nên đã để cho thư sinh trẻ tuổi Kim Trọng bộc bạch tình yêu với Thúy Kiều như sau: “Vì nàng, thêm sầu chất hận – Đến nỗi tóc mai như sương” (câu 383 – 384, N.D.). Nói như thế thật là làm bộ mặt giả mạo hết mức, chẳng khác gì một công tử trăng hoa gặp dịp vui, làm tổn hại đến tính cách đa tình nhưng trung hậu của Kim Trọng.
Do còn xa lạ với đề tài tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân, xa lạ với hoàn cảnh địa lý, tập tục sinh hoạt được miêu tả trong sách nên Nguyễn Du thường nhầm lẫn, thậm chí gây tức cười. Tuy tác phẩm văn học là nghệ thuật được phép hư cấu nhưng khi miêu tả hoàn cảnh địa lý chân thực, có thực thì không nên miêu tả quá xa sự thực khách quan, nếu không sẽ gây ấn tượng giả dối trong bạn đọc, làm hỏng hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm. Sau đây là một vài dẫn chứng như thế về hoàn cảnh địa lý:
Dưới bút Nguyễn Du, Lâm Truy của Sơn Đông và Vô Tích của Giang Tây là hai thành phố duyên hải đều cách biển 150 dặm, lại được ông chuyển ngay đến cạnh biển. Miêu tả như thế là do không nắm vững hoàn cảnh địa lý vùng duyên hải của Trung Quốc, phá hoại tính chân thực của chi tiết.
Đặc biệt là khi miêu tả chi tiết Thúy Kiều nhảy xuống sông tự tử, những vi phạm về thường thức địa lý của Nguyễn Du càng điển hình. Ông viết:
Câu 2619:
Bỗng nghe thủy triều ào dâng.
Biết thân đã đến Tiền Đường…
Câu 2636:
Xa trông biển không giới hạn.
Buông mình nhảy xuống Trường Giang
Thổ quan hay tin vội đến cứu.
Sớm đã châu tìm đáy sông, một dải mênh mang.
Như thế là lẫn lộn Tiền Đường với Trường Giang [5]. Một loạt những mâu thuẫn như trên đã làm hỏng hầu hết tính chân thực của chi tiết, còn gì để nói đến tính chân thực nghệ thuật nữa?
Chú thích:
[1] Tên gọi chung cho tiểu thuyết Minh - Thanh, kể cả Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử…
[2] Có nghĩa là lối lắp từ ngữ của Việt Nam. Có lẽ là “vần điệu” (P.T.C).
[3] Có nghĩa: Một đời nhà Minh không có nàng ca kỹ thứ hai – Nghìn năm Đại Việt là bài thơ tuyệt diệu nhất.
[4] Tác giả bài viết nhầm là Hoài Tố. Ở đây chữa lại cho đúng.
[5] Người phê bình hiểu lầm “trường giang” (con sông dài rộng) danh từ chung thành “Trường Giang” danh từ riêng.
7/12/2005
Đổng Văn Thành
Phạm Tú Châu dịch
Nguồn: Nguyên văn tiếng Trung đăng trên Minh Thanh 
tiểu thuyết luận tùng, số 4 (tháng 6.1986) và số 5 
(tháng 9.1987). Bản dịch tiếng Việt của Phạm Tú Châu 
in trong 200 năm nghiên cứu bàn luận 
“Truyện Kiều”, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 2005
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một chuyến hoa xuân

Một chuyến hoa xuân Nhà văn trẻ Trác Diễm vừa trở thành hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Chị sinh năm 1988 ở Quảng Bình, bắt đầ...