Thanh Lương trên đường về cố quận
Thanh Lương là bút hiệu của
Thích Thiện Sáng, một hành giả Thiền tông. Thế danh Trương Thượng
Trí, sinh năm 1956, lớn lên bên dòng sông Cửu Long giữa trời thơ đất
mộng An Giang. Bản chất thông minh, mẫn tuệ, vốn từ bi, hiếu
thảo, có trực giác bén nhạy, ngay từ thời còn bé nhỏ đã có những biểu
hiện khác thường như trầm tư, ưa đọc sách đạo lý suốt ngày,
thích ăn chay và học hành ở trường lớp thì tinh tấn,
luôn luôn dẫn đầu, xuất sắc.
Lặng lẽ miệt mài dụng công, âm thầm trao dồi nội
tâm theo đường hướng thượng, giải thoát, từ thuở còn thanh xuân.
Cho nên sau biến cố năm 1975, dù đang theo học ngành điện tử ở Đại
học Kỹ thuật Phú Thọ, Sài Gòn, Thanh Lương liền vất bỏ hết,
ném lại sau lưng những bọt bèo kiến thức, những sự nghiệp phù
du, quay về quê nhà ở Cù lao Ông Chưởng. Một mình cần
mẫn cất thảo am giữa cánh đồng hoang vu, cô quạnh, cạnh
dòng sông Hậu im lìm, tiếp tục nghiên cứu Phật học và hành
thiền miên mật. Thật là hy hữu, mới 20 tuổi, còn quá trẻ trung mà biết áp
dụng, thực hành thiền định vào đời sống hằng ngày rồi.
Ngồi quán chiếu, nhập thất thường xuyên, hết tháng này sang năm
nọ… Trải qua nhiều trạng thái vô phân biệt trí, xuất thần, nhập
diệu phiêu diêu:
Hốt nhiên không còn phân chủ khách
Tự nhiên muôn pháp lộ thân trần
Trăng thanh gió mát đều như thị
Trùng trùng duyên khởi tự Pháp thân
Nhân duyên đầy đủ, chí xuất trần quá mạnh nên
đến năm 1981, Thanh Lương quyết định xa lìa thảo am, lên
đường đi xuất gia ở chùa Bửu Liên, Cần Thơ. Quy y với Hòa
thượng Thích Thiện Tâm, một bậc đạo cao đức trọng trong hàng thạch
trụ tòng lâm. Từ đó, mở ra một phương trời mây trắng, phong quang không
bờ bến, thênh thang qua lại khắp muôn chiều:
Luân lưu trong các nẻo
Giờ tỉnh lại thanh nhàn
Tu là ăn với mặc
Tỉnh tỉnh dứt lầm than
Tuy lòng yên tịnh, tỉnh thức nhưng hành
giả vẫn công phu hàm dưỡng, trên những dặm trường cô lữ đó đây.
Ngày đêm niệm niệm không rời công án tử sinh, dù ở dưới
vùng quê hẻo lánh hay trên thị thành náo nhiệt, phồn hoa. Năm 1983, trên
đường du hóa, hành giả dừng chân tạm trú nơi chùa Pháp Vân,
Gò Vấp, Sài Gòn, bắt đầu thuyết giảng Phật pháp, thính chúng theo
học cũng khá đông. Trong thời kỳ này, hành giả cũng tùy
duyên, phương tiện, cũng tham gia các khóa học ngoại điển trong
vài ba năm. Tốt nghiệp, lấy bằng Thủ khoa giảng sư Phật học và Cử
nhân Anh văn, một cách dễ dàng.
Cưu mang, nung nấu một thời gian dài gần mười
năm nghiền ngẫm thâm sâu lý đạo, lẽ đời, rồi đến năm 1993, mới
thực sự làm cuộc viễn ly triệt để, biệt từ chốn thành đô hào
nhoáng, ồn ào phố hội phù hoa, bồng tênh quảy gió mây trời lên cõi miền hoang
vắng tịch liêu trên tuyệt đỉnh Núi Dinh, thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, dựng lập Thanh Lương am, làm kẻ độc hành ca giữa thâm
sơn cùng cốc:
Chí hướng về trên đỉnh núi cao
Nghìn năm mây vờn chẳng hề xao
Cho dù bão tố từng đưa đẩy
Có chuyển lay đâu một chút nào
Có chuyển lay đâu một chút nào
Tình trần sáu nẻo luống lòng đau
Mong ngày giải thoát cho ba cõi
Đưa chúng sinh qua giấc mộng sầu
Phải chăng đó chính là đại nguyện thiết tha,
khiến cho hành giả xả buông tất cả, sau khi đã từng thấy nghe tận mắt,
từng chứng kiến biết bao nhiêu chuyện điêu linh, trầm thống, biết
bao vô thường, dâu bể tang thương giữa trăm miền huyễn hóa phù
sinh. Nhiệt tâm chiêm nghiệm, lặn sâu vào tận bên trong đáy lòng tịch
mịch của mình, rồi một chiều bữa nọ, hoát nhiên bừng ngộ một điều chi vi
diệu, hành giả lặng lẽ vất hết mọi nhiêu khê thế sự, buông
xuống, bỏ lại dưới phố thị kia mọi thứ hư danh, phù phiếm, để đơn thân
độc mã, viễn hành ca lên rừng cao núi thẳm, tình tự với mây trời
bằng hồn thơ lồng lộng gió trăng phơi:
Trời mây vô niệm đến cùng ta
Trăng gió từ bi vốn của nhà
Vũ trụ bao la lòng quảng đại
Ngàn năm tánh cũ chẳng hề xa
Tánh cũ là Tánh Không, là Tự tánh thanh tịnh vốn
sẵn có nơi chính mình. Ai thấy được Tánh Không ấy là sống bồng tênh,
nhẹ nhõm, thung dung. Hùng tâm tráng khí, thi gan cùng tuế nguyệt miên trường
suốt bao nhiêu năm trời đằng đẵng trôi qua trên đỉnh núi thanh trầm. Thấp
thoáng vào ra, lên xuống một hình một bóng người cô đơn, lạnh lẽo, thoạt
trông có vẻ như buồn thiu, hiu hắt lắm, nhưng ai có ngờ đâu, kẻ
cô liêu ấy, lại vô cùng thong dong, nhàn nhã và thanh thản an
nhiên. Tiếng thơ lại vang lên, đồng vọng khắp ba nghìn thế giới giữa mười
phương vũ trụ xanh ngần:
Cô đơn lặng lẽ độc hành thân
Tự tại an nhiên bặt dấu trần
Ai sống được tâm không bạn lứa
Khắp trời hiển lộ Pháp vương thân
Pháp thân hay Chân tánh là cố hương vĩnh
cửu, là cố quận, quê nhà mà hành giả luôn luôn thao thức
tìm phương cách trở về, muốn quy hồi trên cuộc lữ tư
tưởng uyên tư. Từ niềm tin tưởng tuyệt đối đó
làm động lực cho những bước đi kỳ cùng sáng tạo, vô ngần nhẫn nại, kiên
trì, dốc hết ý chí bình sinh đầy linh động, để vượt qua và vượt
qua những hố hầm ngã chấp, những truông đèo mê vọng tối
tăm:
Năm qua qua hết vọng mê
Năm nay hiện tại cũng về huyễn thôi
Nghìn năm khắp nẻo luân hồi
Một trường mộng ảo bời bời tỉnh chưa ?
Tỉnh ra mộng chẳng thiếu thừa
Mà nơi huyễn tính thường ưa tu trì
Hỏi rằng ai đó tu chi?
Tu là tu vậy có gì được đâu
Bình an vốn thật thẳm sâu
Thiền đạo tu tập là tự mình chuyển nghiệp, chuyển
hóa tâm thức, làm cho bùng vỡ, tan biến hết mọi ràng buộc, dính mắc
vào ngã chấp, vào âm thanh, sắc tướng, những hiện tượng vốn không
thật, chỉ là huyễn hóa, giả hợp kia thôi. Với cây tuệ kiếm Kim
Cang, hành giả vung lên một nhát mạnh mẽ, chặt đứt những sợi
dây mê vọng, hư huyễn, tà kiến ngay lập tức, làm vụt hiện bừng
ra nụ cười bình an, thanh thoát thẳm sâu. Sâu thẳm một tâm
hồn chan chứa yêu thương, một nguồn thương yêu diệu kỳ,
trang trải đại bi tâm tuyệt hảo vô ngần:
Trần thế khó lường ý thật yêu
Yêu người mà chẳng bị người xiêu
Tình yêu chân thật vô năng sở
Yêu thế mới yêu thật mỹ miều
Mỹ miều tuyệt đẹp là tình yêu như thế, một thứ tình
yêu vô điều kiện như Krishnamurti: “Có thể yêu thương,
nhưng không mắc vướng vào một người nào, vào bất cứ gì. Đó là mức chí thiện của đời
sống tình cảm. Phải tách lìa tất cả nhưng cũng vẫn thương yêu tất
cả, vì tình thương là sự bừng nở của cuộc sống.” Trên tinh
thần vô chấp, khoan dung, độ lượng đó thì mặc tình tùy
hỷ, tùy duyên, tùy thuận chúng sinh, thung dung niêm
hoa vi tiếu, nhẹ nhàng buông xả và buông xả :
Xả buông hết cả tìm chân đạo
Khai mở trí tâm mới thật mầu
Thấu suốt bản lai đầy ngọc quý
Đạo hằng lưu chuyển dứt lo âu
Khi biết bản lai diện mục là viên ngọc như ý vốn
có sẵn trong lòng mình rồi thì còn âu lo, sợ hãi chi nữa? Mọi thứ phiền
não tự nhiên cũng rụng tàn theo mưa ngàn, gió nắng giữa rừng cao lấp
lánh, long lanh. Thanh Lương am quanh năm lãng đãng, bàng bạc
mây trắng lẫn sương mù, là nơi chốn ẩn cư của một tâm hồn hoằng
đại, thâm trầm, một bậc thượng thừa, vừa cao vời như mây núi vừa sâu thẳm
như đáy trùng dương, người đã nếm được hương vị cô liêu của cuộc sống:
Vạn sự thanh nhàn có với không
Can chi huyễn mộng chỉ hoài công
Tùy duyên mây nổi theo chiều gió
Nào có chi riêng một tấc lòng
Một tấc lòng sanh lắm đảo điên
Theo chiều suy thịnh khổ triền miên
Hãy xem cho rõ hư không tính
Một niệm dừng sanh giải thoát liền
Khi thấy rõ Tánh Không thì lồng lộng như
mây ngàn bát ngát mông mênh, chẳng còn chỗ đi, chẳng còn chốn đến mà ngay
đây là đương xứ tức chân, hân hoan cất lên tiếng hát đại
hòa điệu chơi trên cung bậc bất nhị, như như:
Mọi sự đều lạc an
Lưu chuyển rất thanh nhàn
Chỉ cần không thắc mắc
Vui thú sẽ vô vàn
Mọi sự đều yêu nhau
Thác đổ tiếng ào ào
Mưa rơi liền ướt tóc
Chẳng hề hỏi vì sao
Mọi sự đều như như
Ban rải tính bi từ
Chỉ lòng không riêng có
Hòa sự sự như như
Như như, như thị, như nhiên, như vậy, như vầy, như
thế… Hành giả Thanh Lương trên đường quy hồi cố quận
đã từng băng qua nhiều sa mạc hư vô quằn quại, nhiều địa ngục lùng
bùng giam nhốt sân si, nhiều cảnh đời tuyệt lộ, khô khan trong cơn
túy sinh mộng tử. Băng qua cõi ta bà khủng khiếp, rùng rợn đang
đắm chìm trong bóng tối vô minh và một mình đã vượt lên
trên tuyệt đỉnh cô phong, đứng chơ vơ giữa ngút ngàn mây trắng, thăng
hoa, ngờm ngợp trước huy hoàng càn khôn vũ trụ mênh mông. Lòng
bát ngát, rỗng rang nghe chim suối, hoa ngàn hợp tấu bản Vô sự ca
thanh thoát, rạt rào:
Bao năm lặng lẽ trôi
Trên đỉnh núi xa bặt dấu trần
Với mây trời quang đãng
Với gió mát trăng trong
Với núi đồi rừng bụi
Lòng quên đi các duyên sự
Lòng quên đi lòng không nương gá
Có không nào quản
Theo ngày tháng nào biết đâu đầu cuối
Chỉ sáng ra trời mọc chiều lại lặn về tây
Chim hót ngọt ngào gió lùa mát rượi
Bỗng mọi sự không còn sai biệt chốn vô tâm
Sự sự vật vật tuôn trào dòng pháp nhũ
Linh diệu thay ! Huyền nhiệm thay!
Ai hay không có đêm ngày luân lưu
Đó là bài thơ Trên đỉnh núi hay là bản nhạc
hòa khúc cung cầm nhập hoan hỷ địa của hành giả đã uống được
ngụm nước đầu nguồn của mạch sống xanh trong? Thong dong là niềm vui
vô sự, vô tâm. Cảm hứng làm thơ là bất chợt thôi, còn suốt
ngày, hành giả chú tâm nhập thất, thiền định là
chính. Thỉnh thoảng cũng làm dịch giả lai rai chơi, vì tâm đắc với
Krishnamurti, một bậc đạo sư kỳ vĩ của nhân loại. Những tác
phẩm của Krishnamurti đã dịch thuật và được nhà xuất bản Phương Đông ấn
hành như:
Đường vào hiện sinh, Tâm thiền, Lửa thiền, Tham thiền vẻ
đẹp của tình yêu, Đường bay chim đại bàng, Buổi nói chuyện tại thủ đô
Washington Hoa Kỳ 1985.
Ngoài ra cũng dịch thuật và nhà Tôn Giáo đã xuất
bản những tác phẩm ưa thích, nói về cảnh giới trùng trùng duyên
khởi của Hoa Nghiêm:
Thomas Cleary. Nhập bất khả tư nghì cảnh giới.
Francis H. Cook. Lưới trời Đế thích.
Minoru Kiyota. Thiền đại thừa, lý thuyết và thực
hành.
Steve Odin. Siêu hình học tiến trình và triết
học Phật giáo Hoa Nghiêm tông.
Garma C. C. Chang. Triết học Phật giáo Hoa
Nghiêm tông
Nhiều tác giả. Pháp môn Thiền quán theo Hoa
Nghiêm tông.
Nhiều tác giả. Nghiên cứu Thiền và Hoa
Nghiêm tông.
Đặc biệt, duy nhất một tác phẩm Tham thiền tự cảnh
sách văn là của hành giả Thanh Lương viết, trong
suốt thời kỳ du sĩ, lặng thầm nhập thất đó đây, từ năm 1976
đến 1996, qua những vùng biển núi xa xôi ở khắp mọi miền: Núi Sập, Long Xuyên,
Phú Quốc, Cần Thơ, Sài Gòn, Đồng Nai, Vũng Tàu, Long Hải, Đại Tòng Lâm, Đại
Ninh, Đà Lạt… Tác phẩm này như một tâm bút, bút ký, ghi lại những ý
nghĩ thâm trầm, những trải nghiệm sâu thẳm, những kinh nghiệm vi
tế, những trạng thái nhập diệu, xuất thần trong quá trình dụng
công, công phu hàm dưỡng để thể nhập Tâm Như, tự tánh thường
hằng.
Lặng lẽ một nếp sống đạm bạc, thanh bần,
làm ẩn sĩ trên núi rừng mông quạnh, chỉ biết tiêu dao,
hào sảng với ngàn trăng sương mây gió tự do, hít thở khí trời tự tại,
rồi cũng có khi làm một cuộc xuống núi, làm một chuyến phiêu bồng, thõng tay
vào phố chợ Sài Gòn. Có lúc cũng lướt cánh đại bàng vút bay qua bên kia đại
dương nước Mỹ, ngao du xứ lạ Hoa Kỳ, theo lời mời của
những bằng hữu thâm tình. Có dịp thuận duyên theo bè bạn, đã bước đi
khoan thai ở Thái Lan, tham dự, thảo luận tư tưởng Krishnamurti
cùng Hiệp hội Krishnamurti, hằng năm thường tổ chức họp mặt ở đó.
Có thể nói, Thanh Lương hành giả là người
đã lãnh hội giáo lý Krishnamurti và triết lý Hoa Nghiêm
một cách thâm sâu, thấu thị, sâu sắc, qua lời phát biểu tế nhị: “Giáo
lý Krishnamurti và Triết học Hoa Nghiêm có điểm giống nhau
trên phương diện ứng dụng là sự tự tri, tự giác, quan
sát và quán chiếu thực chất hay thực tướng của cuộc
đời. Đặc biệt là đời sống tâm thức ta để thấy bản
ngã là không thật, như huyễn, để sống trong cuộc sống thực
tiễn đầy bất trắc, đau thương mà vẫn được hạnh phúc, thương
yêu.” *
Quy hồi cố quận, trên con đường phong quang,
ngút ngàn mây trắng bao la, thấp thoáng đóa hoa Đức Phật đưa
lên trên tuyệt đỉnh Linh Sơn và Ma Ha Ca Diếp mỉm cười.
Nụ cười thiên thu bất diệt ấy bây giờ lại hốt nhiên bừng
nở trên tuyệt đỉnh Núi Dinh, một cách nhiệm mầu :
Linh Sơn họp mặt dễ gì đâu
Núi dựng rừng cao hố thẳm sâu
Qua đỉnh ngã nhân liền kiến Phật
Tuyệt thay! Pháp pháp tại tâm đầu
Tâm đầu tựu đức mới thành viên
Cảnh cảnh tùy tâm mục hiện tiền
Ngăn nắp tùng Không đều chẳng ngại
Viên dung sự lý tánh thường nhiên
Một khi lý sự viên dung được rồi thì thi ca, hội
họa, âm nhạc, văn chương hay toàn thể sinh hoạt cuộc
đời, toàn thể pháp giới mười phương đều dung thông vô
ngại, vô quái ngại trên từng bước đi phóng khoáng giữa muôn
chiều diệu dụng thương yêu.
Yêu thương vô lượng vô biên như vầng trăng
sáng vằng vặc trên núi đồi cô tịch Thanh Lương am. Cảm nhận một điều
chi đơn sơ giản dị, tôi biết cũng gần 30 năm rồi, tôi với hành
giả là chỗ giao tình đồng điệu, cùng tương ứng trên bước đi
Krishnamurti và Hoa Nghiêm nhịp nhàng tiêu sái. Cõi mộng vân
hành, Thanh Lương hành giả đã có lần ra tận ngoài hải đảo xa
ngút mù khơi thăm tôi và tôi cũng tìm về Cù lao Ông Chưởng viếng thảo
am một bận. Rồi mỗi năm, vào dịp nghỉ hè hay cuối năm là tôi
cùng vài người bạn văn nghệ như Lê Giao Văn, Vũ Anh Sương, Đoàn Sỹ
Toàn, Nguyễn Ngọc Tiến rủ nhau kéo lên Núi Dinh, cùng hàn huyên, trà đạo với Thanh
Lương am chủ cả ngày, có khi ở lại qua đêm, để thưởng thức rừng
khuya tĩnh mịch dưới ngàn sương, trăng gió núi lung linh. Để rồi sớm mai hồng
tinh sương hôm sau xuống núi, tôi không quên lưu lại một bài thơ Thanh
Lương Am, như gởi gắm một chút tâm tình lung linh bình dị:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét