Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống 1
CHƯƠNG I
GIÁO DỤC VÀ Ý NGHĨA CUỘC SỐNG
Khi người ta đi khắp thế giới, người ta nhận thấy bản
chất của con người giống nhau kinh ngạc, dù ở Ấn hay ở Mỹ, ở
Châu âu hay Châu úc. Điều này đặc biệt đúng thực trong những trường
cao đẳng hay những trường đại học. Chúng ta đang sản sinh, như
thể qua một cái khuôn, một loại người mà sự quan tâm chính của họ là
tìm được sự an toàn, trở thành người nào đó quan trọng, hay hưởng
thụ sự vui vẻ và càng ít suy nghĩ bao nhiêu càng tốt.
Sự giáo dục hiện nay khiến cho sự suy nghĩ độc
lập trở nên khó khăn cực kỳ. Sự tuân phục dẫn đến sự tầm thường. Muốn khác
biệt với nhóm người và muốn kháng cự lại môi trường sống không dễ
dàng lắm, và thường xuyên rất nguy hiểm chừng nào chúng ta còn
tôn thờ sự thành công. Sự thôi thúc để thành công, mà là sự theo
đuổi của phần thưởng dù trong thế giới vật chất hay thế
giới tạm gọi là tinh thần, sự tìm kiếm cho an toàn bên
trong hay bên ngoài, sự ham muốn cho thanh thản – toàn quy
trình này bóp nghẹt sự bất mãn, kết thúc tánh tự phát và nuôi
dưỡng sự sợ hãi; và sự sợ hãi khóa chặt sự hiểu rõ thông
minh về sống. Cùng tuổi tác gia tăng, sự chai lì của cái trí và
quả tim bắt đầu xảy ra.
Khi tìm kiếm sự thanh thản, thông thường chúng
ta tìm được một góc yên tĩnh trong sống nơi có sự xung đột tối
thiểu, và sau đó chúng ta sợ hãi ra khỏi nơi trú ẩn đó. Sự sợ
hãi của sống này, sự sợ hãi của đấu tranh và của trải nghiệm mới
này, giết chết tinh thần mạo hiểm trong chúng ta; toàn sự
nuôi nấng và giáo dục của chúng ta đã khiến cho chúng
ta sợ hãi khác biệt với người hàng xóm của chúng ta, sợ hãi suy
nghĩ trái ngược với khuôn mẫu được thiết lập của xã hội, với
sự kính trọng giả dối của uy quyền và truyền thống.
May mắn thay, có một ít người nghiêm túc, sẵn lòng thâm
nhập những vấn đề của con người mà không có thành
kiến của lệch phải hay lệch trái; nhưng đa số chúng ta đều
không có tinh thần thực sự của bất mãn, của phản kháng.
Khi chúng ta nhượng bộ một cách không hiểu rõ đối với môi
trường sống, bất kỳ tinh thần của phản kháng nào mà có lẽ chúng
ta đã có đều nguội dần, và chẳng mấy chốc những trách nhiệm của chúng
ta kết thúc nó.
Sự phản kháng thuộc hai loại: có sự phản kháng bạo lực, mà
là phản ứng thuần túy, mà không có sự hiểu rõ, chống lại trật
tự đang tồn tại; và có sự phản kháng sâu thẳm thuộc tâm lý của thông
minh. Có nhiều người phản kháng những đạo đức đã được thiết lập nhưng
lại rơi vào những đạo đức mới, những ảo tưởng thêm nữa và
những tự buông thả lén lút. Điều gì thông thường xảy ra là, chúng ta rời
khỏi một nhóm người hay một bộ những lý tưởng và tham gia vào
một nhóm người khác, bắt đầu những lý tưởng khác, thế là tạo ra một
khuôn mẫu mới của sự suy nghĩ mà chúng ta sẽ phải phản
kháng nữa. Phản ứng chỉ nuôi dưỡng đối nghịch, và đổi mới cần
đổi mới thêm nữa.
Nhưng có một phản kháng thông minh, mà không
là phản ứng, và hiện diện cùng sự hiểu rõ về chính
mình qua nhận biết được suy nghĩ và cảm thấy riêng
của người ta. Chỉ khi nào chúng ta đối diện sự trải nghiệm khi
nó xảy ra và không lẩn tránh sự nhiễu loạn thì chúng ta mới duy
trì sự thông minh được thức dậy cao độ, và sự thông
minh được thức dậy cao độ là năng lực trực giác, mà là
sự hướng dẫn trung thực duy nhất trong sống.
Lúc này, ý nghĩa của sống là gì? Chúng ta đang
sống và đấu tranh cho cái gì? Nếu chúng ta đang được giáo dục chỉ
để đạt được sự khác biệt, để có một việc làm tốt hơn, để có
khả năng hơn, để có chi phối hơn vào những người khác, vậy thì những
sống của chúng ta sẽ trở nên nông cạn và trống rỗng. Nếu chúng
ta đang được giáo dục chỉ để là những người khoa học, những học
giả trung thành với những quyển sách, hay những người chuyên môn nghiện
ngập sự hiểu biết, vậy thì chúng ta sẽ đang đóng góp cho sự thoái
hóa và đau khổ của thế giới.
Mặc dù có một ý nghĩa bao quát và rộng
rãi hơn đối với sống, sự giáo dục của chúng ta có giá
trị gì nếu chúng ta không bao giờ khám phá về sống? Chúng
ta có lẽ được giáo dục nhiều, nhưng nếu chúng ta không
có sự hợp nhất sâu thẳm của sự suy nghĩ và cảm thấy, những sống
của chúng ta đều không trọn vẹn, mâu thuẫn và bị xé
nát bởi nhiều sợ hãi; và chừng nào sự giáo dục còn
không sáng tạo một tầm nhìn hợp nhất của sống, nó chẳng có ý
nghĩa bao nhiêu.
Trong văn minh hiện nay của chúng ta, chúng
ta đã phân chia sống thành quá nhiều mảnh đến độ sự giáo dục
chẳng còn ý nghĩa bao nhiêu, ngoại trừ trong việc học hành một
nghề nghiệp hay một phương pháp kỹ thuật đặc biệt. Thay vì thức
dậy sự thông minh hợp nhất của cá thể, sự giáo dục
đang khuyến khích anh ấy tuân phục vào một khuôn mẫu và vì vậy đang cản
trở sự hiểu rõ của anh ấy về chính anh ấy như một tiến hành tổng
thể. Nỗ lực giải quyết nhiều vấn đề của sự tồn tại tại
những mức độ riêng rẽ của chúng, bị tách rời như chúng ở trong những bảng phân
loại khác nhau, thể hiện một không hiểu rõ hoàn toàn.
Cá thể được tạo thành từ những thực thể khác
biệt, nhưng nhấn mạnh vào những khác biệt và khuyến khích sự phát triển
của nhiều loại hạn định dẫn đến nhiều phức tạp và mâu thuẫn. Giáo
dục nên sáng tạo sự hợp nhất của những thực thể tách rời
này – bởi vì nếu không có sự hợp nhất, sống trở thành một
chuỗi của những xung đột và những phiền muộn. Có giá trị gì
khi được giáo dục để là những luật sư nếu chúng ta cứ tiếp
tục sự tranh chấp? Sự hiểu biết có giá trị gì nếu chúng
ta cứ tiếp tục sự hỗn loạn của chúng ta? Khả năng về
công nghệ và kỹ thuật có ý nghĩa gì nếu chúng ta sử dụng nó
để hủy diệt một người khác? Ích lợi của sự tồn tại của chúng
ta là gì nếu nó dẫn đến sự bạo lực và đau khổ hoàn toàn? Mặc
dù chúng ta có lẽ có nhiều tiền bạc hay khả năng kiếm được nó, mặc
dù chúng ta có những vui thú của chúng ta và những tôn
giáo có tổ chức của chúng ta, chúng ta đang tiếp tục sống
trong xung đột vô tận.
Chúng ta phải phân biệt giữa cá nhân và cá
thể. Cá nhân là vật ngẫu nhiên; và qua từ ngữ vật ngẫu
nhiên tôi có ý những hoàn cảnh của sự sinh sản, môi trường trong
đó chúng ta tình cờ đã được nuôi nấng, cùng chủ nghĩa quốc
gia, những mê tín, những phân biệt giai cấp và những thành
kiến của nó. Cá nhân hay vật ngẫu nhiên chẳng là gì cả
ngoại trừ những phù du, mặc dù khoảnh khắc đó có lẽ kéo dài nguyên một cuộc
đời; và hệ thống hiện nay của giáo dục được đặt nền tảng
trên cá nhân, vật ngẫu nhiên, cái khoảnh khắc, nó dẫn đến sự biến
dạng của sự suy nghĩ và sự cố chấp của những sợ
hãi tự phòng vệ.Qua giáo dục và môi trường sống, tất cả chúng
ta đã được đào tạo để tìm kiếm những thành tựu và an
toàn cá nhân, và để đấu tranh vì chính chúng ta. Mặc dù chúng ta che
đậy nó bằng những cụm từ mỹ miều, chúng ta đã được đào tạo cho
những nghề nghiệp khác nhau trong một hệ thống được đặt nền tảng trên
sự trục lợi và sự sợ hãi do tham lợi. Chắc chắn, một đào
tạo như thế phải tạo ra sự hỗn loạn và đau khổ cho
chính chúng ta và cho thế giới, bởi vì trong mỗi cá thể nó
tạo ra những rào cản thuộc tâm lý mà tách rời và giam cầm anh ấy khỏi
những cá thể khác.Giáo dục không chỉ là một vấn đề của đào
tạo cái trí. Đào tạo mang lại sự hiệu quả, nhưng nó
không sáng tạo sự tổng thể. Một cái trí chỉ được đào tạo là
sự tiếp tục của quá khứ, và một cái trí như thế không bao giờ có
thể khám phá cái mới mẻ. Đó là lý do tại sao, muốn tìm
ra sự giáo dục đúng đắn là gì, chúng ta sẽ phải thâm
nhập ý nghĩa tổng thể của sống.Đối với chúng ta, ý nghĩa của sống như một tổng thể
không có sự quan trọng cơ bản, và giáo dục của chúng ta nhấn
mạnh vào những giá trị phụ, chỉ đang biến chúng ta trở
thành có hiệu quả trong một ngành nào đó của sự hiểu biết.
Mặc dù sự hiểu biết và sự hiệu quả là cần thiết, thiết
lập sự nhấn mạnh chính vào chúng chỉ dẫn đến xung
đột và hỗn loạn.Có một hiệu quả được sáng tạo bởi tình
yêu mà vượt khỏi và vĩ đại hơn sự hiệu quả của tham vọng;
và nếu không có tình yêu, mà sáng tạo một hiểu rõ hợp
nhất của sống, sự hiệu quả nuôi dưỡng sự nhẫn tâm. Đây
không là việc gì đang xảy ra khắp thế giới, hay sao? Giáo dục hiện
nay của chúng ta được hướng đến công nghiệp hóa và chiến
tranh, cùng mục đích cơ bản của nó là phát triển sự hiệu quả;
và chúng ta bị trói buộc trong bộ máy của sự ganh đua nhẫn
tâm và sự hủy diệt lẫn nhau này. Nếu giáo dục dẫn đến chiến
tranh, nếu nó đào tạo bạn để hủy diệt hay bị hủy diệt, liệu nó
không hoàn toàn thất bại, hay sao?Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc
chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng
thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ,
không cố chấp, nhưng hiệp thông và trung thực. Một người suy
nghĩ cố chấp là một người không suy nghĩ, bởi vì anh ấy tuân phục
vào một khuôn mẫu; anh ấy lặp lại những cụm từ và suy nghĩ trong một
khe rãnh. Chúng ta không thể hiểu rõ sự tồn tại một
cách trừu tượng hay lý thuyết. Hiểu rõ về sống
là hiểu rõ về chính chúng ta, và đó là cả sự khởi đầu lẫn sự kết
thúc của giáo dục.Giáo dục không chỉ là kiếm được sự hiểu biết, thâu
lượm và kết hợp những dữ kiện; nó là, thấy ý nghĩa của
sống như một tổng thể. Nhưng tổng thể không thể được tiếp cận qua bộ
phận – mà là điều gì những chính phủ, những tôn giáo có tổ chức và những
đảng phái chuyên chế đang nỗ lực thực hiện.Chức năng của giáo dục là sáng tạo những con
người hợp nhất và vì vậy thông minh. Chúng ta có lẽ có
những bằng cấp và hiệu quả thuộc máy móc nhưng không có thông
minh. Thông minh không chỉ là thông tin; nó không được rút ra từ những
quyển sách, nó cũng không gồm có những phản ứng tự phòng vệ
và những khẳng định hung hăng. Cái người không học hành có lẽ
còn thông minh hơn cái người có học thức. Chúng ta đã
khiến cho những kỳ thi và những bằng cấp trở thành sự tiêu chuẩn của thông
minh và đã phát triển những cái trí ranh mãnh mà lẩn tránh những vấn
đề cơ bản của con người. Thông minh là khả năng để nhận
biết cái cốt lõi, cái gì là; và thức dậy khả năng này,
trong chính người ta và trong những người khác, là giáo dục.Giáo dục phải giúp đỡ chúng ta khám phá những giá
trị vĩnh cửu để cho chúng ta không chỉ bám vào những công
thức hay những khẩu hiệu lặp lại; nó nên giúp đỡ chúng ta phá vỡ
những rào cản thuộc xã hội và quốc gia của chúng ta,
thay vì nhấn mạnh chúng, bởi vì chúng nuôi dưỡng sự thù hận
giữa con người và con người. Bất hạnh thay, hệ thống hiện
nay của giáo dục đang khiến cho chúng ta trở thành công
cụ máy móc, phục tùng, và không còn sự suy nghĩ chín chắn; mặc dù
nó đánh thức chúng ta phần trí năng, phía bên trong nó khiến
cho chúng ta không tổng thể, không nhạy bén và không sáng tạo.Nếu không có một hiểu rõ tổng thể của sống, những vấn
đề thuộc tập thể và cá thể của chúng ta sẽ chỉ sâu đậm
hơn và lan rộng hơn. Mục đích của giáo dục không là sản
sinh những người săn lùng việc làm, những chuyên viên và những học giả thuần
túy, nhưng những người đàn ông và những người phụ nữ tổng thể mà được tự
do khỏi sự sợ hãi; bởi vì chỉ giữa những con người như thế
mới có thể có được sự hòa bình vĩnh cửu.Chỉ trong sự hiểu rõ về chính chúng ta thì
sự sợ hãi mới kết thúc. Nếu cá thể mong muốn giải
đáp sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, nếu anh ấy mong muốn đối diện những phức
tạp của nó, những đau khổ của nó và những đòi hỏi bất thường của
nó, dứt khoát anh ấy phải linh hoạt và thế là được tự
do khỏi những lý thuyết và những khuôn mẫu đặc biệt của
sự suy nghĩ.Giáo dục không nên khuyến khích cá thể tuân phục
vào xã hội hay hòa hợp một cách tiêu cực với nó,
nhưng giúp đỡ anh ấy khám phá những giá trị thực sự
mà hiện diện cùng sự hiểu rõ về chính mình và sự thâm
nhập không thành kiến. Khi không có sự hiểu rõ về chính
mình, tự diễn tả trở thành tự khẳng định, cùng tất cả những xung
đột hung hăng và tham vọng của nó. Giáo dục phải thức
dậy khả năng để hiểu rõ về chính mình chứ không phải buông thả
trong tự diễn tả gây thỏa mãn. Học hành có tốt
lành gì đâu nếu trong sự tiến hành của đang sống, chúng ta đang
tự hủy diệt chính chúng ta? Bởi vì chúng ta đang có một chuỗi những
chiến tranh tàn phá, chiến tranh này tiếp nối ngay chiến tranh
khác, chắc chắn tại cốt lõi phải có điều gì sai lầm đối
với phương cách mà chúng ta nuôi nấng con cái của chúng
ta. Tôi nghĩ hầu hết chúng ta đều nhận biết được điều này,
nhưng chúng ta không biết làm thế nào để giải quyết nó.Những hệ thống, dù thuộc giáo dục hay chính trị,
không được thay đổi một cách kỳ lạ; chúng được thay đổi khi có một thay đổi cơ
bản trong chính chúng ta. Cá thể là quan trọng nhất, không phải hệ
thống; và chừng nào cá thể còn không hiểu rõ sự tiến
hành tổng thể của chính anh ấy, không hệ thống nào, dù của phía trái
hay phía phải, có thể mang lại trật tự và hòa bình trong thế giới.CHƯƠNG IILOẠI GIÁO DỤC ĐÚNG ĐẮNNgười dốt nát không là người không có học thức, nhưng
anh ấy là người không hiểu rõ về chính anh ấy, và người có học
thức là người dốt nát khi anh ấy phụ thuộc vào những quyển sách,
vào sự hiểu biết và vào uy quyền để trao cho anh ấy sự hiểu
rõ. Sự hiểu rõ hiện diện chỉ qua hiểu rõ về chính
mình, mà là nhận biết được qui trình tổng thể thuộc tâm lý của
người ta. Vì vậy, giáo dục, trong ý nghĩa thực sự của nó,
là hiểu rõ về chính người ta, bởi vì chính là phía bên trong mỗi người chúng
ta mà tổng thể của sự tồn tại được tập hợp.Hiện nay điều gì chúng ta gọi là giáo dục chỉ
là một vấn đề của tích lũy thông tin và hiểu biết từ
những quyển sách, mà bất kỳ người nào biết đọc đều có thể làm được. Giáo dục như
thế cống hiến một hình thức tinh tế của tẩu thoát khỏi chính chúng
ta và, giống như tất cả những tẩu thoát, chắc chắn nó tạo ra sự đau
khổ chồng chất. Sự xung đột và hỗn loạn sinh ra từ sự liên
hệ sai lầm riêng của chúng ta với những con người, những
sự vật và những ý tưởng, và nếu chúng ta không hiểu rõ sự liên
hệ đó và thay đổi nó, thuần túy học hành, thâu lượm những dữ
kiện, và kiếm được những kỹ năng khác nhau, chỉ có thể dẫn đến sự hỗn loạn và
hủy diệt sâu thẳm. Như hiện nay xã hội được tổ chức, chúng
ta đưa con cái đến trường để học hành kỹ thuật nào đó và cuối
cùng nhờ vào đó chúng có thể kiếm sống. Ưu tiên nhất, chúng
ta muốn biến đứa trẻ thành một người chuyên môn, hy vọng nhờ đó
cho em một vị trí an toàn thuộc kinh tế. Nhưng liệu sự vun
đắp của một kỹ thuật có thể giúp đỡ chúng ta hiểu rõ về
chính chúng ta?Chắc chắn trong khi rất cần thiết phải
biết đọc và biết viết, và học hành ngành kỹ sư hay nghề nghiệp nào
đó, liệu kỹ thuật sẽ trao tặng chúng ta khả năng để hiểu rõ sống? Rõ
ràng, kỹ thuật là thứ phụ; và nếu kỹ thuật là việc duy nhất mà chúng
ta đang cố gắng, chắc chắn chúng ta đang chối từ cái
gì đó mà là phần vĩ đại hơn của sống. Sống là đau khổ, hân hoan, vẻ đẹp, xấu
xí, tình yêu, và khi chúng ta hiểu rõ nó như một tổng thể, tại mọi
mức độ, sự hiểu rõ đó sáng tạo kỹ thuật riêng của nó. Nhưng
điều ngược lại không đúng thực: kỹ thuật không bao giờ có thể mang lại sự hiểu
rõ sáng tạo.Giáo dục hiện nay đã thất bại hoàn toàn bởi
vì nó đã quá nhấn mạnh vào kỹ thuật. Trong quá nhấn mạnh vào
kỹ thuật, chúng ta hủy diệt con người. Vun đắp khả
năng và hiệu quả mà không hiểu rõ về sống, mà không có một nhận
biết tổng thể về những phương cách của sự suy nghĩ và
sự ham muốn, sẽ chỉ khiến cho chúng ta trở thành tàn nhẫn
thêm, mà là gây ra chiến tranh và hủy hoại sự an toàn thuộc thân
thể của chúng ta. Sự vun đắp loại trừ của kỹ thuật đã sản
sinh những người khoa học, những người toán học, những người xây dựng cầu
cống, những người chinh phục không gian; nhưng liệu họ hiểu rõ sự
tiến hành tổng thể của sự sống? Liệu có bất kỳ người chuyên môn nào trải nghiệm
sự sống như một tổng thể? Chỉ khi nào anh ấy không còn là một người chuyên môn.Sự tiến bộ thuộc công nghệ có giải quyết những
loại vấn đề nào đó cho những người nào đó tại một mức độ, nhưng nó lại
tạo ra những vấn đề sâu thẳm hơn và nghiêm trọng hơn. Sống
tại một mức độ, không quan tâm đến sự tiến hành tổng thể của sự sống,
là mời mọc sự đau khổ và sự thoái hóa. Sự đòi hỏi cốt lõi và vấn
đề cấp bách nhất cho mỗi cá thể là phải có một hiểu rõ tổng
thể về sự sống, mà sẽ giúp đỡ anh ấy có thể gặp gỡ những phức tạp luôn gia
tăng của nó.Sự hiểu biết công nghệ, dù cần thiết ra
sao, sẽ không thể giải quyết những áp lực và những xung
đột bên trong, thuộc tâm lý của chúng ta; và do bởi chúng
ta đã thâu lượm sự hiểu biết công nghệ mà không hiểu rõ sự
tiến hành tổng thể của sống nên công nghệ đã trở thành một phương
tiện hủy diệt chúng ta. Cái người mà biết làm thế nào để tách rời
nguyên tử nhưng không có tình yêu trong quả tim của anh ấy trở thành một
quái vật. Chúng ta chọn lựa một nghề nghiệp tùy theo những
khả năng của chúng ta; nhưng liệu sự theo đuổi một nghề nghiệp
khiến cho chúng ta thoát khỏi sự xung đột và hỗn loạn? Hình
thức đào tạo kỹ thuật nào đó có vẻ cần thiết; nhưng khi chúng
ta đã trở thành những kỹ sư, những người vật lý, những người
kế toán – tiếp theo cái gì? Liệu sự thực hành một nghề nghiệp
là sự thành tựu của sống? Với hầu hết chúng ta, rõ ràng nó
là như thế. Những nghề nghiệp khác nhau của chúng ta có lẽ khiến
cho chúng ta bận tâm phần lớn sống của chúng ta; nhưng chính những vật
dụng mà chúng ta sản xuất và quá mê đắm đang gây ra sự hủy diệt
và đau khổ. Những thái độ và những giá trị của chúng
ta khiến cho những nghề nghiệp và những vật dụng đó trở
thành những dụng cụ của ganh tị, cay đắng và hận thù.Nếu không hiểu rõ về chính chúng ta, nghề
nghiệp thuần túy chỉ dẫn đến sự tuyệt vọng, cùng những tẩu
thoát không thể tránh khỏi của nó qua tất cả mọi loại hoạt động ranh
mãnh. Kỹ thuật mà không có sự hiểu rõ chỉ dẫn đến thù địch và nhẫn
tâm, mà chúng ta che đậy nó bằng những từ ngữ du
dương. Nhấn mạnh kỹ thuật và trở thành những thực thể hiệu
quả có giá trị gì nếu kết quả là sự hủy diệt lẫn nhau? Sự tiến
bộ công nghệ của chúng ta là kỳ diệu, nhưng nó chỉ gia
tăng những quyền hành để hủy diệt lẫn nhau của chúng ta, và có nạn
đói lẫn đau khổ trong mọi mảnh đất. Chúng ta không là những con
người hạnh phúc và hòa bình.Khi chức năng là quan trọng nhất, sống trở
thành tối tăm và nhàm chán, một thói quen máy móc và cằn
cỗi và thế là chúng ta tẩu thoát vào loại giải trí nào
đó. Sự tích lũy của những dữ kiện và sự phát triển của khả
năng, mà chúng ta gọi là giáo dục, đã tước đoạt chúng ta khỏi
sự phong phú của sống và hành động tổng thể. Do bởi chúng
ta không hiểu rõ sự tiến hành tổng thể của sự sống nên chúng
ta mới bám vào khả năng và hiệu quả, mà vì vậy đảm đương sự
quan trọng nhất. Nhưng cái tổng thể không thể được hiểu rõ qua
cái bộ phận; nó có thể được hiểu rõ chỉ qua hành động và trải nghiệm.Một nhân tố khác trong sự vun đắp của kỹ thuật
là nó trao tặng chúng ta một ý thức của an toàn, không
chỉ thuộc kinh tế, nhưng còn cả thuộc tâm lý nữa. Nó làm yên tâm khi
biết rằng chúng ta có khả năng và hiệu quả. Biết rằng chúng
ta có thể chơi đàn dương cầm hay xây dựng một căn nhà cho chúng
ta một cảm thấy của sức sống, của sự độc lập hung
hăng; nhưng nhấn mạnh vào khả năng bởi vì một ham muốn cho an
toàn thuộc tâm lý là khước từ sự phong phú của sự sống.
Nội dung tổng thể của sự sống không bao giờ có thể được hoạch định trước,
nó phải được trải nghiệm mới mẻ lại từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc;
nhưng chúng ta sợ hãi cái không biết được, và thế là chúng
ta tự thiết lập cho chính chúng ta những khu vực thuộc tâm
lý của sự an toàn trong hình thức của những hệ thống,
những kỹ thuật và những niềm tin. Chừng nào chúng ta còn
đang tìm kiếm sự an toàn phía bên trong, sự tiến hành tổng
thể của sống không thể được hiểu rõ.Loại giáo dục đúng đắn, trong khi khuyến
khích sự học hành một kỹ thuật, nên thành tựu cái gì đó mà
quan trọng nhiều lắm: nó nên khuyến khích con người trải nghiệm sự tiến
hành tổng thể của sự sống. Chính là đang trải nghiệm này sẽ giúp cho khả năng
và kỹ thuật được đặt vào vị trí đúng đắn của chúng. Nếu người ta
thực sự có điều gì đó để nói, chính đang nói về nó sáng tạo kiểu cách
riêng của nó; nhưng học hành một kiểu cách mà không trải nghiệm bên
trong chỉ có thể dẫn đến sự giả tạo.Khắp thế giới, những kỹ sư đang điên cuồng thiết
kế những máy móc mà không cần đến con người điều khiển chúng. Trong một
sống hầu như vận hành toàn bộ bởi những cái máy, những con
người sẽ trở thành cái gì? Chúng ta sẽ có càng lúc
càng nhiều nhàn rỗi hơn mà không biết tận dụng nó như thế nào một cách
thông minh, và chúng ta sẽ tìm kiếm sự tẩu thoát
qua hiểu biết, qua những vui chơi hèn hạ, hay qua những lý
tưởng. Tôi tin rằng vô số sách đã được viết về những lý
tưởng giáo dục, tuy nhiên chúng ta lại hoang mang nhiều
hơn chưa bao giờ trước kia. Không có phương pháp để giáo
dục một đứa trẻ sống hợp nhất và tự do. Chừng nào chúng ta còn quan
tâm đến những nguyên tắc, những lý tưởng và những phương
pháp, chúng ta không đang giúp đỡ cá thể được tự do khỏi hoạt
động tự cho mình là trung tâm riêng của anh ấy cùng tất cả những sợ
hãi và những xung đột của nó.Những lý tưởng và những bản thiết kế cho một
nơi Không tưởng hoàn hảo sẽ không bao giờ tạo ra sự thay đổi cơ
bản của quả tim, mà là cốt lõi nếu muốn có một kết thúc cho
chiến tranh và sự hủy diệt toàn cầu. Những lý tưởng không thể thay đổi
những giá trị hiện nay của chúng ta: chúng có thể được thay đổi
chỉ bằng loại giáo dục đúng đắn, mà là ấp ủ sự hiểu rõ về cái
gì là.Khi chúng ta đang làm việc cùng nhau cho một lý
tưởng, cho tương lai, chúng ta định hình những cá thể tùy
theo ý tưởng của chúng ta về tương lai đó; chúng ta không quan
tâm đến con người nhưng lại quan tâm đến ý tưởng của chúng
ta về họ nên là gì. Nên là gì này trở thành quan trọng
đối với chúng ta hơn là cái gì là, mà là cá thể cùng
những phức tạp của anh ấy. Nếu chúng ta bắt đầu hiểu
rõ cá thể một cách trực tiếp thay vì quan sát anh ấy qua bức
màn của chúng ta suy nghĩ anh ấy nên là gì, vậy thì chúng
ta quan tâm đến cái gì là. Vậy thì, chúng ta không
còn muốn thay đổi cá thể thành cái gì khác nữa; quan tâm duy
nhất của chúng ta là giúp đỡ anh ấy hiểu rõ về chính
anh ấy, và trong việc này không có động cơ hay kiếm được thuộc cá nhân. Nếu chúng
ta hoàn toàn nhận biết cái gì là, chúng ta sẽ hiểu
rõ nó và thế là được tự do khỏi nó; nhưng muốn nhận biết chúng
ta là gì, chúng ta phải không còn nỗ lực vì cái gì đó
mà chúng ta không là.Những lý tưởng không có vị trí trong giáo
dục bởi vì chúng ngăn cản sự hiểu rõ về hiện tại. Chắc
chắn, chúng ta có thể nhận biết cái gì là chỉ khi nào chúng
ta không tẩu thoát vào tương lai. Hướng tới tương lai, nỗ lực vì
một lý tưởng, thể hiện sự trì trệ của cái trí và một ham muốn để lẩn
trốn hiện tại. Sự theo đuổi của một Không tưởng được
thiết kế không là một phủ nhận của sự tự do và sự hợp nhất của cá
thể, hay sao? Khi người ta tuân theo một lý tưởng, một khuôn mẫu,
khi người ta có một công thức cho cái gì nên là, liệu người ta không
sống một sống tự động, rất giả tạo, hay sao? Chúng ta cần, không phải
những người lý tưởng hay những thực thể có một cái trí máy
móc, nhưng những con người tổng thể mà thông minh và tự
do. Chỉ có một bản thiết kế cho một xã hội hoàn hảo là tranh
luận và đấu tranh cho cái gì nên là trong khi bỏ quên cái gì là.Nếu những con người là những thực thể máy
móc, những cái máy tự động, vậy thì tương lai sẽ có thể tiên đoán được
và những kế hoạch cho một Không tưởng hoàn hảo có thể
được thiết kế; vậy thì chúng ta sẽ có thể lập kế hoạch cẩn
thận về một xã hội tương lai và làm việc hướng về nó. Nhưng những con
người không là những cái máy để được định hình tùy theo một
khuôn mẫu được xác định.Giữa lúc này và tương lai có một khoảng trống vô
biên mà trong đó những ảnh hưởng đang vận hành vào mỗi
người chúng ta, và trong hy sinh hiện tại cho tương
lai chúng ta đang theo đuổi một phương tiện sai lầm đến
một kết thúc đúng đắn. Nhưng phương tiện khẳng định kết
thúc; và ngoài ra, chúng ta là ai để quyết định con
người nên là gì? Dựa vào uy quyền nào mà chúng ta tìm
kiếm để đúc khuôn anh ấy tùy theo một khuôn mẫu đặc biệt,
được học hành từ những quyển sách nào đó hay được khẳng định bởi những tham
vọng, những hy vọng và những sợ hãi riêng của chúng ta?Loại giáo dục đúng đắn không quan
tâm đến bất kỳ học thuyết nào, dù nó có lẽ hứa hẹn một Không
tưởng tương lai ra sao: nó không được đặt nền tảng trên bất kỳ hệ thống nào,
dù được suy nghĩ tỉ mỉ ra sao. Nó cũng không là một phương tiện của quy
định cá thể trong cách đặc biệt nào đó. Giáo dục trong ý
nghĩa thực sự đang giúp đỡ cá thể chín chắn và tự do,
nở hoa trọn vẹn trong tình yêu và tốt lành. Đó là điều gì chúng
ta nên quan tâm, và không phải quan tâm đến định hình đứa
trẻ tùy theo khuôn mẫu lý tưởng nào đó. Bất kỳ phương pháp nào mà phân loại đứa trẻ tùy
theo tánh nết và năng khiếu chỉ nhấn mạnh những khác biệt của
chúng; nó nuôi dưỡng sự thù hận, khuyến khích những phân chia trong xã
hội và không giúp đỡ phát triển những con người tổng thể. Chắc
chắn rằng không có bất kỳ phương pháp hay hệ thống nào
có thể trao tặng loại giáo dục đúng đắn, và sự trung thành nghiêm
ngặt vào một phương pháp đặc biệt thể hiện sự trì trệ về
phía người giáo dục. Chừng nào giáo dục còn được đặt nền tảng
trên những nguyên tắc cũ kỹ, nó có thể sản sinh những người đàn ông
hay phụ nữ hiệu quả, nhưng nó không thể sản sinh những con người sáng
tạo.Chỉ tình yêu có thể tạo ra sự hiểu rõ về một
người khác. Nơi nào có tình yêu liền có sự hiệp thông tức khắc cùng người còn lại,
trên cùng mức độ và tại cùng thời điểm. Do bởi chính chúng ta quá
khô khan, trống rỗng, và không có tình yêu nên chúng ta đã cho
phép chính phủ và những hệ thống đảm đương sự giáo dục
con cái của chúng ta và sự định hướng những sống của chúng ta;
nhưng những chính phủ muốn những chuyên viên hiệu quả, không phải những con
người, bởi vì những con người trở thành nguy hiểm đối với những
chính phủ – và cũng cả đối với những tôn giáo có tổ chức nữa. Đó
là lý do tại sao những chính phủ và những tôn giáo có tổ chức tìm
kiếm để kiểm soát sự giáo dục.Sự sống không thể bị chuyển thành tuân phục vào một hệ
thống, nó không thể bị ép buộc vào một cái khung dù được tưởng tượng
cao cả biết chừng nào; và một cái trí chỉ được đào tạo trong sự hiểu
biết thuộc sự kiện không thể gặp gỡ sự sống cùng sự đa dạng của
nó, sự tinh tế của nó, những chiều sâu và những chiều cao của nó.
Khi chúng ta đào tạo con cái của chúng ta tùy theo một phương
pháp của sự suy nghĩ hay một môn học đặc biệt,
khi chúng ta dạy bảo các em suy nghĩ phía bên trong những phân
chia thuộc bộ phận, chúng ta cản trở các em không phát triển
thành những con người tổng thể, và thế là các em không thể suy
nghĩ một cách thông minh, mà là gặp gỡ sự sống như một tổng thể.Chức năng tột đỉnh của sự giáo dục
là sáng tạo một cá thể hợp nhất mà có thể hiệp thông cùng sự
sống như một tổng thể. Những người lý tưởng, giống như những người chuyên
môn, không quan tâm đến tổng thể, nhưng chỉ quan tâm đến một
bộ phận. Không thể có sự hợp nhất nếu người ta còn đang theo đuổi một
khuôn mẫu lý tưởng của hành động; và hầu hết những giáo viên mà là những
người lý tưởng đã gạt bỏ tình yêu, họ có những cái trí cằn cỗi và những
quả tim khô khan. Muốn học hành về một đứa trẻ, người ta phải tỉnh
táo, cảnh giác, tự nhận biết, và việc này cần đến tình yêu và thông
minh còn to tát hơn là khuyến khích đứa trẻ tuân phục một lý tưởng.Một chức năng khác của giáo dục là sáng
tạo những giá trị mới mẻ. Chỉ gieo trồng những giá trị đang
tồn tại trong cái trí của đứa trẻ, khiến cho em tuân phục vào những lý
tưởng, là quy định em mà không thức dậy sự thông minh của
em. Sự giáo dục liên quan mật thiết đến sự khủng hoảng
hiện nay của thế giới, và người giáo dục mà thấy những nguyên
nhân của sự hỗn loạn toàn cầu này nên tự hỏi chính anh ấy làm thế
nào để thức dậy sự thông minh trong em học sinh, do đó
giúp đỡ thế hệ kế tiếp không tạo ra sự xung đột và thảm
họa thêm nữa. Anh ấy phải trao tất cả sự suy nghĩ của anh ấy, tất cả
tình yêu và sự chăm sóc của anh ấy đến sự sáng tạo của môi trường đúng
đắn và đến sự phát triển của hiểu rõ, để cho khi đứa trẻ lớn lên em sẽ
có thể giải đáp thông minh những vấn đề của con
người mà em gặp phải. Nhưng muốn thực hiện việc này, người giáo
dục phải tự hiểu rõ về chính anh ấy thay vì ỷ lại vào
những học thuyết, những hệ thống và những niềm tin.Chúng ta hãy đừng suy nghĩ dựa vào những
nguyên tắc và những lý tưởng, nhưng hãy quan tâm đến những sự việc
như chúng là; bởi vì do bởi sự quan tâm đến cái gì là mới thức
dậy sự thông minh, và sự thông minh của người giáo dục còn
quan trọng hơn sự hiểu biết của anh ấy về một phương pháp giáo
dục mới. Khi người ta tuân theo một phương pháp, thậm chí nếu
nó được suy nghĩ kỹ càng bởi một con người thông minh và ân
cần, phương pháp đó trở nên rất quan trọng, và các em chỉ quan trọng
khi chúng phù hợp trong nó. Người ta đo lường và phân loại đứa trẻ,
và tiếp theo tiến tới để giáo dục em ấy tùy theo bảng
phân loại nào đó. Qui trình giáo dục này có lẽ tiện lợi cho
người giáo viên, nhưng không sự thực hành của một hệ thống nào
và cũng không sự độc đoán của quan điểm và học hành nào
có thể tạo ra một con người hợp nhất.Loại giáo dục đúng đắn cốt ở sự hiểu
rõ đứa trẻ như em ấy là mà không áp đặt vào em ấy một lý tưởng của
cái gì chúng ta nghĩ em ấy nên là. Bao bọc em ấy trong cái khung của
một lý tưởng là khuyến khích em ấy tuân phục, mà nuôi dưỡng sự sợ
hãi và sản sinh trong em một xung đột liên tục giữa cái gì
em ấy là và cái gì em ấy nên là; và tất cả những xung đột bên trong đều
có những thể hiện bên ngoài của chúng trong xã hội. Những lý
tưởng là một cản trở thực sự cho sự hiểu rõ của chúng
ta về đứa trẻ và cho sự hiểu rõ của đứa trẻ về chính em.Một phụ huynh thực sự mong muốn hiểu rõ người
con không quan sát em qua bức màn của một lý tưởng. Nếu anh ấy thương
yêu đứa trẻ, anh ấy nhìn ngắm em, anh ấy học hành những tánh nết
của em, những tâm trạng và những khuynh hướng của em. Chỉ khi nào người
ta cảm thấy không có tình yêu cho đứa trẻ thì người ta mới áp đặt vào
em ấy một lý tưởng, bởi vì lúc đó chính những tham vọng của người
ta đang cố gắng thành tựu nơi em, đang muốn em trở thành người
này hay người kia. Nếu người ta thương yêu, không phải lý tưởng,
nhưng đứa trẻ, vậy thì có thể giúp đỡ em hiểu rõ về chính
em như em là. Ví dụ, nếu một đứa trẻ nói dối, có ích lợi gì
đâu khi đặt trước em lý tưởng của sự thật? Người ta phải tìm ra tại
sao em đang nói dối. Muốn giúp đỡ đứa trẻ, người ta phải dành ra thời
gian để học hành và quan sát em, mà đòi hỏi sự kiên
nhẫn, tình yêu và ân cần; nhưng khi người ta không có tình yêu, không có sự hiểu
rõ, vậy thì người ta ép buộc em vào một khuôn mẫu của hành
động mà chúng ta gọi là lý tưởng.Những lý tưởng là một tẩu thoát thuận tiện,
và giáo viên mà tuân theo chúng không thể hiểu rõ những
em học sinh và tiếp xúc cùng các em một cách thông minh;
đối với anh ấy, lý tưởng tương lai, cái gì nên là, còn quan trọng hơn
đứa trẻ hiện tại. Sự theo đuổi một lý tưởng loại trừ
tình yêu, và nếu không có tình yêu không vấn đề nào của con
người có thể được giải quyết.Nếu giáo viên thuộc loại đúng đắn, anh ấy sẽ
không phụ thuộc vào một phương pháp, nhưng sẽ học hành mỗi học
sinh riêng biệt. Trong sự liên hệ của chúng ta cùng những
em học sinh và những người trẻ tuổi, chúng ta không
đang giao du với những dụng cụ máy móc mà có thể được sửa chữa mau
lẹ, nhưng với những con người đang sống mà dễ bị ảnh hưởng, hay
thay đổi, nhạy cảm, sợ sệt, dễ xúc động; và muốn tiếp xúc các
em, chúng ta phải có sự hiểu rõ vô hạn, sức mạnh của kiên
nhẫn và tình yêu. Khi chúng ta không có những thứ này, chúng
ta nương nhờ những chữa trị dễ dàng và nhanh chóng và hy vọng có
những kết quả tuyệt vời và tự động. Nếu chúng ta không tỉnh
táo, cứ máy móc trong những thái độ và những hành động của chúng
ta; chúng ta đấu tranh hèn nhát với bất kỳ đòi hỏi nào – mà
đang cản trở và không thể được gặp gỡ bởi một phản ứng tự động
– bắt buộc chúng ta phải thực hiện, và đây là một trong những
khó khăn chính của chúng ta trong giáo dục.Đứa trẻ là kết quả của cả quá khứ lẫn hiện
tại và vì vậy đã bị quy định sẵn. Nếu chúng ta chuyển
tải nền quá khứ của chúng ta sang em ấy, chúng ta tiếp
tục cả tình trạng bị quy định riêng của em lẫn của chúng
ta. Có sự thay đổi cơ bản chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ tình trạng bị quy
định riêng của chúng ta và được tự do khỏi nó. Bàn
luận điều gì nên là loại giáo dục đúng đắn trong khi
chính chúng ta bị quy định là hoàn toàn vô lý.Trong khi đứa trẻ còn bé, dĩ nhiên chúng ta phải bảo
vệ em không bị hư hại phần thân thể và giúp đỡ em không cảm
thấy bất an phần thân thể, nhưng bất hạnh thay chúng
ta không ngừng lại ở đó; chúng ta muốn định hình những
cách suy nghĩ và cảm thấy của em, chúng ta muốn
đúc khuôn em tùy theo những khao khát và những ý định riêng
của chúng ta. Chúng ta tìm kiếm để thành tựu chính chúng
ta trong những đứa trẻ của chúng ta, để tiếp tục chính chúng
ta qua các em. Chúng ta dựng lên những bức tường quanh các
em, quy định chúng bởi những niềm tin và những học
thuyết, những sợ hãi và những hy vọng – và sau đó chúng
ta khóc lóc và cầu nguyện khi các em bị giết chết hay
tàn phế trong những chiến tranh, hay nếu không thì khiến cho các em
phải chịu đựng đau khổ bởi những trải nghiệm của sống.Những trải nghiệm như thế không tạo ra sự tự do;
ngược lại, chúng củng cố ý muốn của cái tôi. Cái tôi được tạo
thành bởi một chuỗi những phản ứng bành trướng và phòng vệ, và sự thành
tựu của nó luôn luôn ở trong những chiếu rọi và những đồng hóa gây thỏa
mãn riêng của nó. Chừng nào chúng ta còn diễn giải trải
nghiệm dựa vào cái ngã, ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi,’ chừng nào ‘cái
tôi,’ cái vị kỷ, còn tự duy trì chính nó qua những phản ứng của
nó, trải nghiệm không thể được tự do khỏi xung đột, hỗn loạn và đau
khổ. Sự tự do hiện diện chỉ khi nào người ta hiểu rõ những phương
cách của cái tôi, người trải nghiệm. Chỉ khi nào cái tôi, cùng những phản
ứng tích lũy của nó, không là người trải nghiệm, trải nghiệm đó đảm
nhận một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn và trở thành sự sáng
tạo.Nếu chúng ta muốn giúp đỡ đứa trẻ được tự
do khỏi những phương cách của cái tôi, mà gây ra quá nhiều đau
khổ, vậy thì mỗi người chúng ta nên khởi sự thay đổi sâu thẳm thái
độ và sự liên hệ của anh ấy với đứa trẻ. Những phụ huynh và những
người giáo dục, qua sự suy nghĩ và cách cư xử riêng của
họ, có thể giúp đỡ đứa trẻ được tự do và nở hoa trong tình yêu
và tốt lành. Sự giáo dục như hiện nay nó là, không cách nào
khuyến khích sự hiểu rõ về những khuynh hướng được thừa hưởng và
những ảnh hưởng môi trường mà quy định cái trí và quả tim
và nuôi dưỡng sự sợ hãi, và vì vậy nó không giúp đỡ chúng
ta phá vỡ những quy định này và sáng tạo một con
người hợp nhất. Bất kỳ hình thức nào của sự giáo dục
mà liên quan đến một bộ phận và không phải đến tổng thể của con
người chắc chắn đều dẫn đến sự xung đột và đau khổ chồng
chất.Chỉ trong sự tự do cá thể thì tình yêu
và tốt lành mới có thể nở hoa; và loại giáo dục đúng đắn, một
mình nó, có thể trao tặng sự tự do này. Sự tuân phục vào xã
hội hiện nay cũng như sự hứa hẹn của một Không tưởng tương lai
không bao giờ có thể trao tặng cho cá thể sự thấu triệt đó
mà nếu không có nó anh ấy liên tục đang tạo ra những vấn
đề. Loại người giáo dục đúng đắn, bởi vì thấy bản
chất bên trong của sự tự do, giúp đỡ mỗi học sinh riêng biệt quan
sát và hiểu rõ những áp đặt và những giá trị được chiếu
rọi riêng của em; anh ấy giúp đỡ đứa trẻ nhận biết được những ảnh
hưởng bị quy định quanh em, và những ham muốn riêng của
em, cả hai đều giới hạn cái trí của em và nuôi dưỡng sự sợ
hãi; anh ấy giúp đỡ đứa trẻ, khi em đến tuổi trưởng thành, quan sát và hiểu
rõ về chính em trong liên hệ với tất cả những sự vật sự việc, bởi
vì chính sự khao khát tự thành tựu mới tạo ra đau khổ và xung
đột vô tận.Chắc chắn, có thể giúp đỡ cá thể nhận biết những giá
trị vĩnh cửu của sống, mà không bị quy định. Một số người có lẽ
nói rằng sự phát triển tổng thể này của cá thể sẽ dẫn đến sự hỗn
loạn; nhưng liệu sẽ như thế sao? Đã có sẵn sự hỗn loạn trong thế
giới rồi, và nó đã tồn tại bởi vì cá thể đã không được giáo
dục để hiểu rõ về chính anh ấy. Trong khi anh ấy đã được trao tặng
sự tự do giả tạo nào đó, anh ấy cũng đã được dạy bảo phải
tuân phục, chấp nhận những giá trị đang tồn tại. Chống lại khuôn mẫu này, nhiều người đang nổi
loạn; nhưng bất hạnh thay, sự nổi loạn của họ chỉ là một phản
ứng đang tự tìm kiếm, mà chỉ làm tối tăm thêm sự tồn tại của chúng
ta. Người giáo dục đúng đắn, nhận biết khuynh hướng của cái
trí đối với sự phản ứng, giúp đỡ học sinh thay đổi những giá
trị hiện nay, không phải từ sự phản ứng chống lại chúng,
nhưng qua sự hiểu rõ về tiến hành tổng thể của sự sống. Đồng hợp
tác tổng thể giữa con người và con người không thể xảy
ra nếu không có sự hợp nhất mà sự giáo dục đúng đắn có
thể giúp đỡ để thức dậy trong cá thể.Tại sao chúng ta quá chắc chắn rằng chúng
ta hay thế hệ sắp tới, qua loại giáo dục đúng đắn,
không thể sáng tạo một thay đổi cơ bản trong sự liên hệ của
con người? Chúng ta đã không bao giờ thử nó; và bởi vì dường như hầu
hết chúng ta đều sợ hãi loại giáo dục đúng đắn, chúng
ta không có ý định thử nó. Nếu không thực sự thâm
nhập toàn nghi vấn này, chúng ta khẳng định rằng bản
chất con người không thể được thay đổi, chúng ta chấp nhận những
sự việc như chúng là và khuyến khích đứa trẻ phù hợp vào xã hội hiện
nay; chúng ta quy định em vào những cách sống hiện nay
của chúng ta, và hy vọng cho điều tốt lành nhất. Nhưng
liệu sự tuân phục vào những giá trị hiện nay như thế, mà dẫn đến chiến
tranh và nghèo khổ, có thể được công nhận là giáo dục?Chúng ta sẽ không tự lừa dối chính chúng ta rằng tình
trạng bị quy định sẽ dẫn đến thông minh và hạnh
phúc. Nếu chúng ta vẫn còn sợ hãi, dửng dưng, không ân
cần, không hy vọng, nó có nghĩa rằng chúng ta thực sự
không quan tâm đến sự khuyến khích cá thể nở hoa trọn
vẹn trong tình yêu và tốt lành, nhưng lại ưa thích tiếp tục những đau
khổ mà chính chúng ta đã tự chồng chất và cá thể cũng
là một bộ phận của nó. Quy định học sinh phải chấp nhận môi
trường sống hiện nay chắc chắn là quá dốt nát. Nếu chúng ta không
tự nguyện sáng tạo một thay đổi cơ bản trong giáo dục, chúng
ta phải chịu trách nhiệm trực tiếp cho sự tiếp tục của hỗn
loạn và đau khổ; và cuối cùng khi cách mạng đẫm
máu và tàn nhẫn nào đó xảy ra, chắc chắn nó sẽ chỉ trao cơ hội cho một
nhóm người để trục lợi và độc ác. Mỗi nhóm nắm quyền hành phát triển những phương
tiện riêng của sự đàn áp, dù qua sự thuyết phục tâm lý hay
qua sức mạnh vũ phu.Vì những lý do công nghiệp và chính trị,
kỷ luật đã trở thành một nhân tố quan trọng trong cấu trúc xã hội hiện
nay, và do bởi sự ham muốn của chúng ta để được an
toàn tâm lý nên chúng ta mới chấp nhận và thực
hiện những hình thức khác nhau của kỷ luật. Kỷ luật bảo đảm một
kết quả, và đối với chúng ta kết quả còn quan trọng nhiều hơn phương
tiện; nhưng phương tiện khẳng định kết quả. Một trong những nguy hiểm của kỷ luật là rằng, hệ
thống trở thành quan trọng nhiều hơn những con người được
bao bọc trong nó. Vậy là, kỷ luật trở thành một thay thế cho tình
yêu, và do bởi những quả tim của chúng ta bị trống rỗng
nên chúng ta mới bám vào kỷ luật. Tự do không bao giờ
có thể hiện diện qua kỷ luật, qua kháng cự; tự do không là
một mục đích, một kết thúc phải đạt được. Tự do là
tại khởi đầu, không tại khúc cuối, nó sẽ không được tìm ra trong lý
tưởng xa xôi nào đó.Tự do không có nghĩa tạo cơ hội cho tự thỏa
mãn hay gạt đi sự ân cần với những người khác. Người giáo
viên chân thật sẽ bảo vệ các em học sinh và giúp
đỡ chúng trong mọi cách có thể được để thực hiện việc này nếu chính
anh ấy không quá nghiện ngập một học thuyết, nếu trong bất kỳ cách nào
chính anh ấy không tín điều hay đang tự tìm kiếm.Nhạy cảm không bao giờ có thể được thức dậy qua
sự ép buộc. Người ta có thể ép buộc một đứa trẻ phải yên lặng
phía bên ngoài, nhưng người ta đã không đối diện với sự kiện mà
đang khiến cho em ấy ương ngạnh, hỗn hào, và vân vân. Sự ép
buộc nuôi dưỡng hận thù và sợ hãi. Phần thưởng và hình phạt
trong bất kỳ hình thức nào chỉ khiến cho cái trí quy phục và
đờ đẫn; và nếu đây là điều gì chúng ta khao khát, vậy thì giáo
dục qua sự ép buộc là một cách hoàn hảo để thực
hiện. Nhưng giáo dục như thế không thể giúp đỡ chúng
ta hiểu rõ đứa trẻ, nó cũng không thể sáng tạo một môi trường xã
hội đúng đắn mà trong đó sự phân chia và hận thù sẽ
không còn tồn tại. Trong tình yêu đứa trẻ, giáo dục đúng đắn được
hàm ý. Nhưng hầu hết chúng ta đều không thương yêu con cái
của chúng ta; chúng ta nuôi tham vọng cho chúng – mà
có nghĩa rằng chúng ta có tham vọng cho chính chúng ta. Bất
hạnh thay, chúng ta quá bị ám ảnh bởi những bận rộn của
cái trí đến độ chúng ta chẳng có bao nhiêu thời gian lưu
tâm đến những nhắc nhở của quả tim. Rốt cuộc, kỷ luật hàm ý kháng cự,
và liệu sự kháng cự sẽ sáng tạo tình yêu? Kỷ luật chỉ có thể thiết
lập những bức tường quanh chúng ta; nó luôn luôn loại trừ, luôn luôn
dẫn đến xung đột. Kỷ luật không góp phần cho sự hiểu rõ; bởi vì sự hiểu
rõ hiện diện cùng sự quan sát, cùng sự thâm nhập mà
trong đó tất cả mọi thành kiến đều được xóa sạch.Kỷ luật là một cách dễ dàng để kiểm soát đứa
trẻ, nhưng nó không giúp đỡ em ấy hiểu rõ những vấn đề được
bao hàm trong đang sống. Hình thức của ép buộc nào đó, sự kỷ
luật của phần thưởng và hình phạt, có lẽ cần thiết để duy trì trật
tự và sự yên lặng bề ngoài trong số những học sinh chen
chúc tập hợp cùng nhau trong một lớp học; nhưng với người giáo dục đúng
đắn cùng một vài học sinh, liệu bất kỳ đàn áp nào, được lịch
sự gọi là kỷ luật, sẽ được cần đến? Nếu những lớp học khá nhỏ, giáo viên
có thể trao sự chú ý trọn vẹn của anh ấy vào mỗi em, quan sát và
giúp đỡ em, vậy thì ép buộc hay thống trị trong bất kỳ hình
thức nào chắc chắn là không cần thiết. Nếu, trong một nhóm
như thế, một học sinh kiên quyết vô trật tự hay nghịch
ngợm không có lý do, người giáo dục phải tìm hiểu nguyên
nhân gây ra sự nghịch ngợm của em ấy, mà có lẽ do bởi ăn
uống không phù hợp, không nghỉ ngơi đầy đủ, sự xáo trộn của gia
đình, hay sự sợ hãi giấu giếm nào đó.Tiềm ẩn trong giáo dục đúng đắn là
sự vun quén của tự do và thông minh, mà không thể xảy ra được nếu
có bất kỳ hình thức nào của ép buộc, cùng những sợ hãi của
nó. Rốt cuộc, sự quan tâm của người giáo dục là giúp đỡ
em học sinh hiểu rõ những phức tạp của toàn thân tâm
em. Bắt buộc em kiềm chế một phần bản chất của em vì lợi
ích của một phần khác nào đó là tạo ra trong em một xung đột liên
tục mà sẽ gây ra những hận thù trong xã hội. Chính thông
minh mới sáng tạo tự do, không phải kỷ luật.Tuân phục và vâng lời không có vị trí trong
loại giáo dục đúng đắn. Đồng hợp tác giữa giáo viên
và học sinh không thể xảy ra được nếu không có thương
yêu lẫn nhau, tôn trọng lẫn nhau. Khi sự thể hiện của tôn
trọng đến những người lớn tuổi hơn được yêu cầu nơi những đứa trẻ,
thông thường nó trở thành một thói quen, một trình diễn thuần
túy phía bên ngoài, không sự liên hệ sức sống nào có thể được, đặc
biệt khi giáo viên chỉ là một dụng cụ của sự hiểu biết của anh ấy.Nếu giáo viên đòi hỏi sự tôn trọng từ những học
sinh của anh ấy nhưng chẳng có bao nhiêu sự tôn trọng cho các
em, chắc chắn nó sẽ gây ra sự dửng dưng và bất kính về phần
của các em. Nếu không có sự tôn trọng đối với sống của con
người, sự hiểu biết chỉ dẫn đến hủy diệt và đau khổ. Sự vun
đắp của tôn trọng đối với những người khác là một phần cốt
lõi của giáo dục đúng đắn, nhưng nếu chính người giáo dục không
có chất lượng này, anh ấy không thể giúp đỡ những em học sinh đến một
sống tổng thể hợp nhất.Thông minh là sự hiểu rõ về cái cốt
lõi, và muốn hiểu rõ cái cốt lõi phải có sự tự do khỏi
những trở ngại đó mà cái trí chiếu rọi trong sự tìm kiếm an toàn và thanh
thản riêng của nó. Sợ hãi chắc chắn xảy ra chừng nào cái
trí còn đang tìm kiếm sự an toàn; và khi những con người được
tổ chức trong bất kỳ cách nào, sự nhận biết và thông minh nhạy
bén bị hủy diệt.Mục đích của giáo dục là vun quén sự liên
hệ đúng đắn, không chỉ giữa những cá thể, nhưng còn cả giữa cá
thể và xã hội; và đó là lý do tại sao rất cần thiết khi giáo
dục nên, trên tất cả, giúp đỡ cá thể hiểu rõ qui
trình tâm lý riêng của em ấy. Thông minh nằm trong hiểu
rõ về chính mình và vượt trên và vượt khỏi chính mình; nhưng không thể
có thông minh chừng nào còn có sợ hãi. Sợ hãi gây biến
dạng thông minh và là một trong những nguyên nhân của hành
động tự cho mình là trung tâm. Kỷ luật có lẽ kiềm chế sợ hãi nhưng
không xóa sạch nó, và sự hiểu biết bên ngoài mà chúng ta nhận
được trong giáo dục hiện đại chỉ che giấu nó thêm nữa. Khi chúng ta còn trẻ, sợ hãi ngấm
sâu trong hầu hết chúng ta cả ở nhà lẫn ở trường. Không phụ huynh và
giáo viên nào có dư thừa kiên nhẫn, thời gian hay thông
minh để xua tan những sợ hãi thuộc bản năng của thời
niên thiếu, mà, khi chúng ta lớn lên, chi phối những suy
nghĩ và nhận xét của chúng ta và tạo ra vô số vấn
đề. Loại giáo dục đúng đắn phải suy nghĩ nghi vấn của sợ
hãi này, bởi vì sợ hãi gây biến dạng tầm nhìn tổng thể
của chúng ta về sống. Không có sợ hãi là sự khởi đầu của thông
minh, và chỉ loại giáo dục đúng đắn mới có thể tạo ra sự tự
do khỏi sợ hãi mà trong đó, một mình nó, có thông
minh sâu thẳm và sáng tạo.Phần thưởng hay hình phạt cho bất kỳ hành động nào chỉ củng
cố tình trạng tự cho mình là trung tâm. Hành động vì lợi
ích của một thứ khác, nhân danh quốc gia hay Thượng đế, chỉ
dẫn đến sợ hãi, và sợ hãi không thể là nền tảng đúng đắn cho
hành động đúng đắn. Nếu chúng ta muốn giúp đỡ một đứa trẻ ân
cần với những người khác, chúng ta không nên sử dụng tình
yêu như một hối lộ, nhưng hãy dành ra thời gian và có đủ kiên nhẫn để giải
thích những phương cách của ân cần.Không có sự tôn trọng đối với một người khác
khi có một phần thưởng cho nó, bởi vì sự hối lộ hay hình phạt trở thành quan
trọng nhiều hơn sự cảm thấy của tôn trọng. Nếu chúng ta không tôn
trọng đứa trẻ nhưng chỉ trao cho em một phần thưởng hay đe dọa em
bằng hình phạt, chúng ta đang khuyến khích sự tham lợi và sợ
hãi. Bởi vì chính chúng ta đã được nuôi nấng để hành động vì lợi
ích của một kết quả, chúng ta không thấy rằng có thể có hành động
được tự do khỏi sự ham muốn để kiếm được.Loại giáo dục đúng đắn sẽ khuyến khích sự ý
tứ và ân cần với những người khác mà không có những dụ dỗ và
những đe dọa thuộc bất kỳ loại nào. Nếu chúng ta không
còn tìm kiếm những kết quả tức khắc, chúng ta sẽ bắt đầu thấy
nó quan trọng như thế nào khi cả người giáo dục lẫn
em học sinh phải được tự do khỏi sự sợ hãi của
hình phạt và sự hy vọng của phần thưởng, và khỏi mọi hình thức của
sự ép buộc; nhưng sự ép buộc sẽ tiếp tục chừng nào uy
quyền còn là bộ phận của sự liên hệ.Tuân phục uy quyền có nhiều ưu điểm nếu
người ta suy nghĩ dựa vào động cơ và thâu lợi cá nhân;
nhưng giáo dục được đặt nền tảng trên sự tiến bộ và lợi
lộc cá nhân chỉ có thể thiết lập một cấu trúc xã hội ganh
đua, thù hận, và tàn nhẫn. Đây là loại xã hội mà chúng ta đã
được nuôi nấng, và sự hận thù lẫn hỗn loạn là điều hiển
nhiên.Chúng ta đã được dạy bảo phải tuân phục
vào uy quyền của giáo viên, của một quyển sách, của một đảng phái, bởi
vì nó có lợi lộc khi thực hiện việc đó. Những người chuyên
môn trong mọi cái ngăn của sống, từ vị giáo sĩ đến những viên chức, lợi
dụng uy quyền và thống trị chúng ta; nhưng bất kỳ chính phủ
hay giáo viên nào mà sử dụng sự ép buộc không bao giờ có thể
tạo ra đồng hợp tác trong sự liên hệ mà là điều cốt
lõi cho sự hạnh phúc của xã hội.Nếu chúng ta muốn có sự liên hệ đúng
đắn giữa những con người, không nên có sự ép buộc và thậm
chí cả sự thuyết phục. Làm thế nào có thể có tình yêu và đồng hợp tác trung
thực giữa những người nắm quyền hành và những người phải qui phục quyền
hành? Bằng cách suy nghĩ không thành kiến nghi vấn của uy
quyền này và nhiều hàm ý của nó, bằng cách thấy rằng chính sự ham muốn cho uy
quyền, trong chính nó là hủy diệt, liền có một hiểu rõ tự phát về
toàn qui trình của uy quyền. Khoảnh khắc chúng ta phá tan uy
quyền chúng ta liền hiệp thông, và chỉ đến lúc đó mới có đồng hợp
tác và tình yêu. Vấn đề thực sự trong giáo dục là người giáo
dục. Thậm chí một nhóm nhỏ những em học sinh cũng trở thành công
cụ của sự quan trọng cá nhân của anh ấy nếu giáo viên sử dụng uy
quyền như một phương tiện của giải phóng riêng của anh
ấy, nếu đối với anh ấy nghề dạy học là một thành tựu tự bành trướng.
Nhưng thuần túy đồng ý thuộc trí năng và từ ngữ liên
quan đến những ảnh hưởng biến dạng của uy quyền là
dốt nát và hão huyền.Phải có sự thấu triệt sâu thẳm vào những động
cơ giấu giếm của uy quyền và chi phối. Nếu chúng ta thấy
rằng sự thông minh không bao giờ được thức dậy qua sự ép
buộc, chính sự nhận biết của sự kiện đó sẽ thiêu rụi những sợ
hãi của chúng ta, và vậy là chúng ta sẽ bắt đầu vun quén một
môi trường mới mẻ mà sẽ tương phản và thăng hoa hơn trật tự xã hội hiện
nay.Muốn hiểu rõ ý nghĩa của sống cùng những xung
đột và đau khổ của nó, chúng ta phải suy nghĩ độc
lập khỏi bất kỳ uy quyền nào, kể cả uy quyền của tôn
giáo có tổ chức; nhưng nếu trong sự ham muốn để giúp đỡ đứa trẻ
của chúng ta, chúng ta đặt ra trước em ấy những mẫu mực uy
quyền, chúng ta sẽ chỉ đang khuyến khích sự sợ hãi, bắt chước và
những hình thức khác nhau của mê tín. Những người có khuynh hướng tôn giáo cố gắng áp
đặt vào đứa trẻ những niềm tin, những hy vọng và những sợ
hãi mà họ đã thâu nhận từ những cha mẹ của họ; và những người chống
lại tôn giáo cũng thiết tha tác động đứa trẻ phải chấp
nhận cách suy nghĩ đặc biệt mà họ tình cờ tuân
theo. Tất cả chúng ta đều mong muốn con cái của chúng ta chấp
nhận hình thức tôn sùng của chúng ta hay nhập tâm học
thuyết đã chọn lựa của chúng ta. Quá dễ dàng để bị trói buộc trong
những hình ảnh và những công thức, dù được sáng chế bởi
chính chúng ta hay bởi những người khác, và vì vậy rất cần
thiết phải cảnh giác và canh chừng.Điều gì chúng ta gọi là tôn giáo chỉ
là những niềm tin có tổ chức, cùng những tín điều, những nghi
thức, những huyền bí và những mê tín của nó. Mỗi tôn giáo đều
có quyển sách thiêng liêng riêng của nó, người trung gian của
nó, những giáo sĩ của nó và những phương cách của đe dọa và
giam cầm con người của nó. Hầu hết chúng ta đều đã bị quy
định vào tất cả điều này, mà được hiểu là giáo dục tôn giáo;
nhưng tình trạng bị quy định này đã khiến cho con người chống
lại con người, nó tạo ra hận thù. Không chỉ giữa những người tin
tưởng, nhưng còn chống lại những người của những niềm tin khác.
Mặc dù tất cả những tôn giáo đều khẳng định rằng họ tôn thờ Thượng
đế và nói rằng bạn phải thương yêu lẫn nhau, họ thấm nhuần những giáo
điều của phần thưởng và hình phạt, và qua những giáo điều ganh
đua của họ họ tiếp tục sự nghi ngờ và hận thù.Những giáo điều, những huyền bí và những nghi
thức không góp phần vào một sống tinh thần. Sự giáo dục tôn
giáo trong ý nghĩa thực sự của nó là khuyến khích đứa trẻ hiểu
rõ sự liên hệ riêng của em với con người, với những sự vật
và với thiên nhiên. Không có sự tồn tại nếu không có sự liên
hệ; và nếu không có sự hiểu rõ về chính mình, tất cả những liên
hệ, với một người hay với nhiều người, đều mang lại xung đột và đau
khổ. Dĩ nhiên, giải thích đầy đủ điều này cho đứa trẻ là việc
không thể thực hiện được; nhưng tại sâu thẳm nếu người giáo dục và
những bậc phụ huynh hiểu rõ ý nghĩa trọn vẹn của sự liên
hệ, vậy thì bằng thái độ, ứng xử và lời nói chắc chắn họ
sẽ có thể chuyển tải sang đứa trẻ, mà không cần quá nhiều từ ngữ và sự giải
thích, ý nghĩa của một sống tinh thần.Sự dạy dỗ tạm gọi là tôn giáo của chúng
ta không khuyến khích sự chất vấn và nghi ngờ, tuy nhiên chỉ
khi nào chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của những giá trị mà xã
hội và tôn giáo đã sắp đặt quanh chúng ta thì chúng
ta mới bắt đầu tìm ra điều gì là đúng thực. Chính là chức
năng của người giáo dục khi phải thâm nhập sâu thẳm những suy
nghĩ và những cảm thấy riêng của anh ấy và gạt đi những giá
trị đó mà đã trao tặng anh ấy sự an toàn và thanh thản, bởi
vì chỉ đến lúc đó anh ấy mới có thể giúp đỡ những học sinh của anh ấy
có thể tự nhận biết và hiểu rõ những thôi thúc lẫn
những sợ hãi của các em. Thời gian để phát triển sự chân thật và
sự rõ ràng là khi người ta còn trẻ; và những người chúng ta mà
lớn tuổi có thể, nếu chúng ta có sự hiểu rõ, giúp đỡ những người
trẻ làm tự do chính chúng khỏi những chướng ngại mà xã
hội đã áp đặt vào chúng, cũng như khỏi những người mà chính chúng đang chiếu
rọi. Nếu cái trí và quả tim của đứa trẻ không bị đúc khuôn bởi những nhận
thức và những thành kiến thuộc tôn giáo, vậy thì em
ấy sẽ được tự do để khám phá qua sự hiểu rõ về
chính mình cái gì ở trên và vượt khỏi chính em ấy.Tôn giáo đúng đắn không là một bộ của những niềm
tin và những nghi thức, những hy vọng và những sợ hãi;
và nếu chúng ta cho phép đứa trẻ lớn lên mà không có những ảnh
hưởng gây cản trở này, vậy thì có lẽ, khi em ấy trưởng
thành, em ấy sẽ bắt đầu tìm hiểu bản chất của sự thật, của Thượng
đế. Đó là lý do tại sao, trong giáo dục một đứa trẻ, sự hiểu
rõ và thấu triệt sâu thẳm là điều cốt lõi.Hầu hết những người mà có khuynh hướng tôn giáo,
mà nói về Thượng đế và sự bất tử, tại cơ bản đều không tin
tưởng sự tự do và sự hợp nhất thuộc cá thể; tuy nhiên tôn
giáo là sự vun đắp của tự do trong tìm kiếm sự
thật. Không có sự thỏa hiệp với tự do. Tự do từng phần
cho cá thể không là tự do gì cả. Sự quy định của
tất cả loại nào, thuộc chính trị hay thuộc tôn giáo, không là tự do và
nó sẽ không bao giờ mang lại hòa bình.Tôn giáo không là một hình thức của quy
định. Nó là một tình trạng của yên lặng mà trong đó có sự thật, Thượng
đế; nhưng tình trạng sáng tạo đó chỉ có thể hiện diện
khi có tự do và hiểu rõ về chính mình. Tự do mang
lại đạo đức, và nếu không có đạo đức không thể có yên
lặng. Cái trí yên lặng không là cái trí bị quy định, nó không bị kỷ luật
hay bị giáo dục để được yên lặng. Yên lặng hiện diện chỉ
khi nào cái trí hiểu rõ những phương cách riêng của nó, mà
là những phương cách của cái tôi. Tôn giáo có tổ chức là sự suy nghĩ đóng
băng của con người, từ đó anh ấy xây dựng đền chùa và nhà thờ;
nó đã trở thành một giải khuây cho những người sợ hãi, một liều
thuốc vơi sầu cho những người đau khổ. Nhưng Thượng đế hay sự
thật còn vượt khỏi sự suy nghĩ và những đòi hỏi thuộc cảm
xúc. Những phụ huynh và những giáo viên nhận ra những qui trình thuộc tâm
lý mà tạo ra sợ hãi và đau khổ phải có thể giúp đỡ những
người trẻ quan sát và hiểu rõ những xung đột và
những thử thách riêng của chúng.Nếu chúng ta, những người lớn tuổi có thể giúp đỡ
những đứa trẻ, khi các em lớn lên, suy nghĩ rõ ràng và
không thành kiến, thương yêu và không nuôi dưỡng hận
thù, còn có gì để làm nữa đây? Nhưng nếu chúng ta liên tục gây phiền
muộn cho một người khác, nếu chúng ta không thể sáng tạo trật
tự và hòa bình trong thế giới bằng cách thay đổi thật sâu thẳm
trong chính chúng ta, những quyển sách thiêng liêng và những huyền
thoại của vô số những tôn giáo còn có giá trị gì
đâu?Sự giáo dục tôn giáo thực sự là giúp đỡ
đứa trẻ nhận biết một cách thông minh, hiểu rõ cho
chính em ấy những sự việc phù du và sự thật, và có một tiếp cận vô tư đến
sống; và liệu nó sẽ không có nhiều ý nghĩa hơn khi bắt đầu mỗi ngày ở
nhà hay ở trường bằng một suy nghĩ nghiêm túc, hay bằng một bài đọc
có chiều sâu và ý nghĩa, hơn là lẩm bẩm những từ ngữ hay những cụm
từ lặp lại nào đó? Những thế hệ quá khứ, cùng những tham vọng,
những truyền thống và những lý tưởng của nó, đã tạo ra sự
nguy hiểm và sự hủy diệt cho thế giới; có lẽ những thế hệ sắp tới,
cùng loại giáo dục đúng đắn, có thể kết thúc sự hỗn loạn này
và sáng tạo một trật tự xã hội hạnh phúc hơn. Nếu
những người trẻ tuổi có tinh thần của thâm nhập, nếu họ
đang liên tục tìm kiếm sự thật của tất cả những sự việc,
chính trị và tôn giáo, cá nhân và môi trường, vậy thì tuổi
trẻ sẽ có ý nghĩa lớn lao và có hy vọng cho một
thế giới tốt lành hơn.Hầu hết trẻ em đều hiếu kỳ, các em muốn biết;
nhưng sự tìm hiểu háo hức của các em bị đờ đẫn bởi những khẳng định độc
đoán của chúng ta, sự mất kiên nhẫn trịch thượng của chúng
ta và sự xua đuổi vô tình về sự hiếu kỳ của các
em. Chúng ta không khuyến khích sự hiếu kỳ của các em, bởi
vì chúng ta khá sợ hãi bởi điều gì có lẽ bị chất vấn; chúng
ta không nuôi dưỡng sự bất mãn của chúng, bởi vì
chính chúng ta đã không còn nghi ngờ. Hầu hết cha mẹ và giáo viên đều sợ hãi sự bất
mãn bởi vì nó xáo trộn tất cả những hình thức của sự an
toàn, và thế là họ khuyến khích những người trẻ khuất phục nó qua những việc
làm an toàn, thừa kế, hôn nhân và sự an ủi của những tín
điều thuộc tôn giáo. Những người lớn tuổi, chỉ biết quá rõ nhiều cách
làm đờ đẫn cái trí và quả tim, tiếp tục khiến cho đứa trẻ cũng đờ đẫn
như họ bằng cách áp đặt vào đứa trẻ những uy quyền, những truyền thống và
những niềm tin mà chính họ đã chấp nhận.Chỉ bằng cách khuyến khích đứa trẻ nghi ngờ quyển
sách, dù là loại sách nào, để thâm nhập vào tánh đúng đắn của
những giá trị, những truyền thống xã hội đang tồn tại, những hình
thức hiện nay của chính phủ, những niềm tin tôn giáo và vân
vân, thì người giáo dục và những cha mẹ mới có thể hy
vọng thức dậy và duy trì sự nhận biết bình phẩm
và thấu triệt mãnh liệt.Những người trẻ, nếu các em có sinh động, đều dư
thừa hy vọng và bất mãn; các em phải như thế, ngược lại chúng
đã già nua và chết rồi. Và những người già là những người lúc trước
có bất mãn, nhưng họ đã bóp nghẹt thành công ngọn lửa đó và đã
tìm được sự an toàn và thanh thản trong vô vàn phương
cách. Họ khao khát sự vĩnh cửu cho chính họ và gia đình của
họ, họ khao khát sự vĩnh cửu trong những ý tưởng, trong những liên
hệ, trong những sở hữu; vì vậy khoảnh khắc họ cảm thấy bất
mãn, họ trở nên say đắm trong những trách nhiệm của họ,
trong những việc làm của họ, hay trong bất kỳ việc gì khác, với mục
đích tẩu thoát khỏi sự cảm thấy xáo trộn của bất
mãn đó.Trong khi chúng ta còn trẻ tuổi là thời gian để
được bất mãn, không chỉ với chính chúng ta, nhưng còn cả với những sự
việc quanh chúng ta. Chúng ta nên học hành suy nghĩ rõ
ràng và không có thành kiến, để cho phía bên trong không còn phụ
thuộc và sợ hãi. Độc lập không dành cho những phần có tô
màu của cái bản đồ mà chúng ta gọi là quốc gia của chúng
ta, nhưng dành cho chúng ta như những cá thể; và mặc dù phía bên
ngoài chúng ta phụ thuộc lẫn nhau, sự phụ thuộc lẫn nhau này
không trở thành tàn nhẫn hay đàn áp nếu phía bên
trong, chúng ta được tự do khỏi sự khao khát cho quyền hành, vị
trí và uy quyền.Chúng ta phải hiểu rõ sự bất mãn, mà hầu
hết chúng ta đều sợ hãi. Sự bất mãn có lẽ tạo ra điều
gì có vẻ là vô trật tự; nhưng nếu nó, bởi vì nó nên, dẫn đến sự hiểu
rõ về chính mình và sự tự từ bỏ, vậy thì nó sẽ sáng tạo một trật
tự xã hội mới mẻ và hòa bình vĩnh cửu. Cùng tự từ bỏ hiện
diện sự hân hoan vô tận.Sự bất mãn là phương tiện dẫn đến tự
do; nhưng với mục đích thâm nhập không thành kiến, phải
không có sự phung phí cảm xúc mà thường mang hình thức của
những tụ họp chính trị, gào thét những khẩu hiệu, tìm kiếm một đạo
sư hay người thầy tinh thần, và những điên loạn tôn giáo thuộc
nhiều loại khác nhau. Sự phung phí này làm đờ đẫn cái trí và quả tim,
khiến cho chúng mất khả năng của thấu triệt và thế là dễ dàng bị đúc
khuôn bởi những hoàn cảnh và sự sợ hãi. Chính là sự khao khát hừng
hực để thâm nhập và không phải sự bắt chước dễ dàng của đám đông, mới sáng
tạo một hiểu rõ mới mẻ về những phương cách của sống.Những người trẻ rất dễ dàng bị thuyết phục bởi những giáo
sĩ hay những người chính trị, bởi những người giàu có hay những
người nghèo khổ, để suy nghĩ trong một cách đặc biệt; nhưng
loại giáo dục đúng đắn nên giúp đỡ các em cảnh giác những ảnh
hưởng này để cho các em không lặp lại những khẩu hiệu như những con vẹt
hay rơi vào bất kỳ cái bẫy ranh mãnh nào của tham lam, dù của
riêng các em hay của những người khác. Các em không được cho phép uy
quyền làm tê liệt những cái trí và những quả tim của các em. Theo sau một
người khác, dù vĩ đại đến chừng nào, hay trao sự trung thành của
người ta vào một học thuyết gây thỏa mãn, sẽ không tạo ra một
thế giới hòa bình.Khi chúng ta rời trường học hay cao đẳng, nhiều người
trong chúng ta quẳng đi những quyển sách và dường như cảm thấy rằng chúng
ta đã làm xong công việc học hành; và có những người bị kích
thích để suy nghĩ sâu thẳm thêm nữa, mà tiếp tục đọc
sách và mê đắm điều gì những người khác đã nói, và trở thành nghiện
ngập sự hiểu biết. Chừng nào còn có sự tôn sùng của hiểu
biết hay kỹ thuật như một phương tiện dẫn đến sự thành công và
sự thống trị, phải có sự ganh đua tàn nhẫn, sự hận thù và
sự đấu tranh vô tận vì miếng ăn.Chừng nào sự thành công còn là mục
đích của chúng ta, chúng ta không thể xóa sạch sự sợ
hãi, bởi vì chắc chắn sự ham muốn của thành công nuôi
dưỡng sự sợ hãi của thất bại. Đó là lý do tại sao những
người trẻ không nên được dạy dỗ để tôn sùng sự thành công. Hầu hết mọi
người đều tìm kiếm sự thành công trong một hình
thức này hay một hình thức khác, dù trên sân quần vợt,
trong thế giới kinh doanh, hay trong chính trị. Tất cả chúng ta đều ham
muốn ở trên đỉnh, và sự ham muốn này tạo ra sự xung đột liên
tục trong chính chúng ta và với những người gần bên; nó dẫn đến
sự ganh đua, ganh tị, đối địch và cuối cùng kết thúc trong
chiến tranh.Giống như thế hệ già nua, thế hệ trẻ
tuổi cũng tìm kiếm sự thành công và sự an toàn; mặc
dù thoạt đầu họ có lẽ bất mãn, chẳng mấy chốc họ bắt đầu được kính
trọng và sợ hãi khước từ xã hội. Những bức tường của những ham
muốn riêng của họ bắt đầu bao bọc họ, và họ tuân phục và chấp nhận sự kiềm
chế của uy quyền. Sự bất mãn của họ, mà là chính ngọn lửa của
sự thâm nhập, của sự tìm kiếm, của sự hiểu rõ, trở nên tàn lụi
và cạn kiệt, và thế vào nó xuất hiện sự ham muốn cho việc
làm tốt hơn, một hôn nhân giàu có, một nghề nghiệp thành
công, tất cả đều là sự khao khát cho an toàn nhiều hơn. Không có sự khác biệt cơ bản giữa người già và người trẻ,
bởi vì cả hai đều là nô lệ cho những ham muốn và những thỏa
mãn riêng của họ. Sự chín chắn không là một vấn đề của
tuổi tác, nó hiện diện cùng sự hiểu rõ. Tinh thần mãnh
liệt của sự thâm nhập có lẽ dễ dàng hơn cho những người trẻ, bởi vì
những người già đã bị vùi dập bởi sống, những xung đột đã
làm tơi tả họ và cái chết trong những hình thức khác nhau
đang chờ đợi họ. Điều này không có nghĩa rằng họ không thể thâm nhập có ý
định, nhưng chỉ vì rằng nó sẽ gian nan cho họ nhiều hơn.Nhiều người trưởng thành đều không chín
chắn và khá ngây ngô, và đây là một nguyên nhân đóng góp vào cả
sự hỗn loạn lẫn đau khổ trong thế giới. Chính những
người già phải chịu trách nhiệm cho sự khủng hoảng luân lý và
kinh tế đang lan tràn; và một trong những yếu ớt bất hạnh của chúng
ta là rằng chúng ta muốn những người khác hành động giúp chúng
ta và thay đổi cái nguồn của những sống của chúng ta. Chúng ta chờ
đợi những người khác cách mạng và xây dựng mới mẻ lại,
và chúng ta vẫn còn thụ động cho đến khi chúng ta được bảo
đảm về kết quả.Chính là sự an toàn và thành công mà
hầu hết chúng ta đều theo đuổi; và một cái trí đang tìm kiếm sự an
toàn, đang khao khát sự thành công, không có thông minh, và vì vậy không
thể hành động tổng thể. Có thể có hành động tổng thể chỉ khi nào người ta nhận
biết được tình trạng bị quy định riêng của người ta,
những thành kiến thuộc chủng tộc, quốc gia, chính trị
và tôn giáo của người ta; đó là, chỉ khi người ta nhận ra rằng
những phương cách của cái tôi luôn luôn gây tách rời. Sống là một cái giếng chứa nhiều nước. Người ta có thể
tiếp cận nó bằng một cái xô nhỏ và chỉ lấy được chút xíu nước, hay người ta có
thể đến với nó bằng những cái thùng to, lấy được dư thừa nước mà sẽ nuôi
dưỡng và duy trì. Trong khi người ta còn trẻ là thời gian để tìm
hiểu, để thử nghiệm mọi thứ. Trường học nên giúp đỡ những người trẻ khám
phá những năng khiếu và những trách nhiệm của chúng, và không chỉ
nhồi nhét vào những cái trí của chúng những sự kiện và hiểu biết kỹ
thuật; nó nên là mảnh đất trong đó các em có thể lớn lên hạnh phúc và
hợp nhất, không sợ hãi.Giáo dục đứa trẻ là giúp đỡ em ấy hiểu rõ sự tự
do và sự hợp nhất. Muốn có sự tự do phải có trật tự,
mà một mình đạo đức có thể trao tặng; và sự hợp nhất xảy ra chỉ
khi nào có sự đơn giản vô cùng. Từ vô vàn những phức tạp chúng
ta phải phát triển sự đơn giản, chúng ta phải trở nên đơn
giản trong sống bên trong của chúng ta và trong những nhu cầu
bên ngoài của chúng ta. Hiện nay sự giáo dục quan tâm đến sự hiệu
quả phía bên ngoài, và nó hoàn toàn không quan tâm, hay cố
ý biến dạng, bản chất bên trong của con người; nó phát triển
chỉ một bộ phận của anh ấy và để bộ phận còn lại trì trệ. Sự hỗn loạn, sự
thù hận và sự sợ hãi bên trong của chúng ta luôn luôn thắng
thế cấu trúc bên ngoài của xã hội, dù nó được tưởng tượng cao quý ra sao
và xây dựng khôn lanh như thế nào. Khi không có loại giáo dục đúng
đắn chúng ta hủy diệt lẫn nhau, và sự an toàn thân thể cho
mỗi cá thể bị khước từ. Giáo dục học sinh đúng đắn là
giúp đỡ em hiểu rõ toàn qui trình của chính em; bởi vì chỉ khi nào có
sự hòa hợp của cái trí và quả tim trong hành động hàng ngày thì mới
có thể có sự thông minh và sự thay đổi bên trong.Trong khi truyền đạt thông tin và đào tạo thuộc
kỹ thuật, trên tất cả, giáo dục nên khuyến khích một tầm nhìn tổng thể
về sự sống; nó nên giúp đỡ học sinh nhận ra và phá vỡ trong
chính em ấy tất cả những phân biệt và những thành kiến xã hội,
và không khuyến khích sự theo đuổi tham lợi của quyền hành
và thống trị. Nó nên khuyến khích loại quan sát đúng đắn về
chính mình và đang trải nghiệm sống như một tổng thể, mà không là trao sự quan
trọng cho bộ phận, ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi,’ nhưng giúp đỡ cái trí vượt trên
và vượt khỏi chính nó để khám phá sự thật.Tự do hiện diện chỉ trong sự hiểu rõ về
chính mình trong những bận rộn hàng ngày của người ta, đó là, trong sự liên
hệ của người ta với con người, với những sự vật, với những ý tưởng và
với thiên nhiên. Nếu người giáo dục đang giúp đỡ học sinh sống
tổng thể, không thể có sự nhấn mạnh cuồng tín hay vô lý trên
bất kỳ chặng đường đặc biệt nào của sống. Chính là sự hiểu rõ toàn
tiến hành của sự tồn tại mới sáng tạo sự hợp nhất. Khi
có hiểu rõ về chính mình, khả năng tạo ra những ảo tưởng kết
thúc, và chỉ lúc đó mới có thể cho phép sự thật hay Thượng
đế hiện diện.Những con người phải hợp nhất nếu họ muốn vượt
khỏi bất kỳ sự khủng hoảng nào, và đặc biệt là sự khủng hoảng hiện
nay của thế giới, mà không bị chia rẽ; vì vậy, đối với những cha
mẹ và những giáo viên mà quan tâm thực sự trong giáo dục, vấn
đề chính là làm thế nào phát triển một cá thể tổng thể; vì
vậy, loại giáo dục đúng đắn có sự quan trọng tột đỉnh, không chỉ
cho những người trẻ, nhưng còn cả cho thế hệ già nua nếu họ sẵn
lòng học hành và không quá cố chấp trong những phương
cách của họ. Cái gì là trong chính chúng ta còn quan trọng nhiều
hơn câu hỏi cổ lỗ của dạy dỗ đứa trẻ điều gì, và nếu chúng ta thương
yêu con cái của chúng ta chúng ta phải hiểu rõ rằng
các em phải có loại người giáo dục đúng đắn.Dạy học không nên trở thành nghề nghiệp của
người chuyên môn. Khi nó như thế, như thông thường xảy ra, tình yêu tan biến;
và tình yêu là cốt lõi cho sự tiến hành của sự hợp nhất. Muốn hợp nhất
phải có sự tự do khỏi sợ hãi. Tình trạng không sợ
hãi mang lại sự độc lập mà không tàn nhẫn, mà không khinh miệt một
người khác, và đây là nhân tố cơ bản nhất trong sống. Nếu không có
tình yêu chúng ta không thể giải quyết nhiều vấn đề xung
đột của chúng ta; nếu không có tình yêu, sự thâu lượm hiểu
biết chỉ gia tăng sự hỗn loạn và dẫn đến tự hủy diệt.Con người hợp nhất sẽ tiếp cận kỹ thuật qua đang
trải nghiệm, bởi vì sự thôi thúc sáng tạo tạo ra kỹ thuật riêng
của nó – và đó là nghệ thuật vĩ đại nhất. Khi một đứa trẻ có sự thôi thúc sáng
tạo để vẽ, em ấy vẽ, em ấy không bận tâm về kỹ thuật. Giống như vậy, con
người đang trải nghiệm, và vì vậy đang dạy học, là những giáo
viên đúng đắn duy nhất, và họ cũng sáng tạo kỹ thuật riêng
của họ.Điều này nghe ra rất đơn giản, nhưng nó thực sự là
một cách mạng cơ bản. Nếu chúng ta suy nghĩ về
nó, chúng ta có thể thấy sự ảnh hưởng lạ thường mà nó sẽ tác
động vào xã hội. Lúc này hầu hết chúng ta đều bị cuốn trôi
tại cái tuổi bốn mươi lăm hay năm mươi bởi sự nô lệ đối với lề
thói; qua sự thỏa hiệp, qua sự sợ hãi và sự phục tùng, chúng
ta chấm dứt, mặc dù chúng ta tiếp tục đấu tranh trong một xã
hội mà chẳng có ý nghĩa bao nhiêu ngoại trừ cho những người
mà thống trị nó và được bảo đảm. Nếu giáo viên thấy điều này và
chính anh ấy đang trải nghiệm, vậy thì dù tính khí và những
khả năng của anh ấy ra sao, sự dạy học của anh ấy sẽ không là một vấn đề của lề
thói nhưng sẽ trở thành một dụng cụ của sự trợ giúp.Muốn hiểu rõ một đứa trẻ chúng ta phải
nhìn ngắm em ấy chơi đùa, học hành em trong những tâm trạng khác nhau
của em; chúng ta không thể chiếu rọi vào em những thành kiến, những hy
vọng và những sợ hãi riêng của chúng ta, hay đúc khuôn em để phù
hợp vào những ham muốn của chúng ta. Nếu chúng ta liên
tục đang đánh giá em tùy theo những ưa thích và
những không ưa thích của chúng ta, chúng ta chắc chắn tạo
ra những cản trở và những chướng ngại trong sự liên hệ của chúng
ta với em và trong sự liên hệ của em với thế giới. Bất
hạnh thay, hầu hết chúng ta đều ham muốn định hình đứa
trẻ trong một cách gây thỏa mãn những ảo tưởng và những hành
vi đặc biệt riêng của chúng ta; chúng ta tìm được vô
số những mức độ của thoải mái và thỏa mãn trong sự sở
hữu và thống trị độc đoán của chúng ta.Chắc chắn, qui trình này không là sự liên hệ,
nhưng chỉ là sự áp đặt, và vì vậy điều cốt lõi là phải hiểu
rõ sự ham muốn phức tạp và khó thỏa mãn của thống
trị. Nó mang nhiều hình thức tinh tế; và trong khía cạnh tự cho là đúng
đắn của nó, nó rất cố chấp. Hiểu rõ sự ham muốn của
‘phục vụ’ cùng sự ao ước không ý thức của thống trị là
việc khó khăn cực kỳ. Liệu có thể có tình yêu nơi nào có sự sở hữu? Liệu chúng
ta có thể hiệp thông cùng những người mà chúng ta tìm kiếm để
kiểm soát? Thống trị là sử dụng một người khác cho tự thỏa
mãn, và nơi nào có sử dụng một người khác không có tình yêu.Khi có tình yêu có sự ân cần, không chỉ cho con
cái nhưng còn cho mọi con người. Nếu chúng ta không bị tác
động sâu thẳm bởi nghi vấn ‘tình yêu’ đó, chúng ta sẽ
không bao giờ tìm được cách giáo dục đúng đắn. Thuần túy đào
tạo kỹ thuật, chắc chắn dẫn đến sự tàn nhẫn, và muốn giáo dục những
đứa trẻ của chúng ta chúng ta phải nhạy cảm đối với
chuyển động tổng thể của sự sống. Điều gì chúng ta suy nghĩ, việc
gì chúng ta làm, điều gì chúng ta nói có sự quan trọng vô
cùng, bởi vì nó tạo ra môi trường sống, và môi trường sống hoặc giúp đỡ hoặc cản
trở đứa trẻ.Vậy thì, chắc chắn những người chúng ta mà quan
tâm đến nghi vấn ‘tình yêu’ này sẽ phải khởi sự hiểu rõ về
chính chúng ta và thế là giúp đỡ thay đổi xã hội; chúng ta sẽ
khiến cho nó trở thành trách nhiệm trực tiếp của chúng ta để sáng
tạo một tiếp cận mới mẻ cho giáo dục. Nếu chúng ta thương
yêu con cái của chúng ta, liệu chúng ta sẽ không tìm
ra phương cách để kết thúc chiến tranh, hay sao? Nhưng nếu chúng
ta chỉ đang sử dụng từ ngữ ‘tình yêu’ mà không có thực
chất, vậy thì toàn vấn đề phức tạp của sự đau khổ của con
người vẫn còn y nguyên. Phương cách thoát khỏi vấn đề này
nằm trong chính chúng ta. Chúng ta phải bắt đầu hiểu rõ sự liên
hệ của chúng ta với những người bạn, với thiên nhiên, với những ý
tưởng và với những sự vật, bởi vì nếu không có sự hiểu rõ đó
không có hy vọng, không có phương cách thoát khỏi sự xung
đột và đau khổ.Nuôi nấng một đứa trẻ đòi hỏi sự chăm sóc và quan
sát thông minh. Những chuyên gia và sự hiểu biết của họ không bao
giờ có thể thay thế được tình yêu của cha mẹ, nhưng hầu hết mọi cha mẹ lại
làm hư hỏng tình yêu đó bởi những sợ hãi và những tham vọng riêng
của họ, mà quy định và biến dạng tầm nhìn của đứa trẻ. Thế
là, chẳng mấy người chúng ta quan tâm đến tình yêu, nhưng đa phần chúng
ta lại kết giao với bề ngoài của tình yêu.Cấu trúc xã hội và giáo dục hiện
nay của chúng ta không giúp đỡ cá thể hướng về sự tự
do và hợp nhất, và nếu những phụ huynh có nghiêm túc và khao khát rằng đứa
trẻ nên lớn lên cùng khả năng tổng thể nhất của em ấy, họ phải bắt đầu thay đổi
sự ảnh hưởng của gia đình và khởi sự sáng tạo những
trường học có loại người giáo dục đúng đắn.Trong bất kỳ phương hướng nào sự ảnh hưởng của gia
đình và của trường học phải không được mâu thuẫn, vì vậy cả cha
mẹ lẫn giáo viên phải giáo dục lại chính họ. Sự mâu thuẫn thường
xuyên tồn tại giữa sống riêng tư của cá thể và sống của em ấy
như một thành viên của nhóm, tạo ra một trận chiến liên tục bên trong
chính em ấy và những liên hệ của em ấy.Sự xung đột này được khuyến khích và được nuôi
dưỡng qua loại giáo dục sai lầm, và cả những chính phủ lẫn những tôn
giáo có tổ chức đều gia tăng sự hỗn loạn bởi những tín
điều mâu thuẫn của chúng. Đứa trẻ bị phân chia trong chính
em ấy ngay từ khởi đầu, mà sinh ra những thảm họa xã hội và cá
nhân.Nếu những người chúng ta mà thương yêu con
cái của chúng ta và thấy sự cấp bách của vấn đề này
sẽ trao những cái trí và những quả tim của chúng ta vào nó, vậy
thì, dù có lẽ chúng ta có ít người bao nhiêu, qua sự giáo dục đúng
đắn và một môi trường tổ ấm thông minh, chúng ta có thể
giúp đỡ sáng tạo những con người tổng thể; nhưng nếu, giống
như quá nhiều người, chúng ta nhét đầy những quả tim của chúng
ta bằng những sự việc ranh mãnh của cái trí, vậy thì chúng
ta sẽ tiếp tục thấy con cái của chúng ta bị hủy diệt trong
những chiến tranh, trong nghèo khổ, và bởi những xung đột tâm lý riêng
của chúng ta.Sự giáo dục đúng đắn hiện diện cùng
sự thay đổi của chính chúng ta. Chúng ta phải giáo dục lại
chính chúng ta không được giết chết lẫn nhau bởi vì bất kỳ nguyên
nhân nào, dù ngay thẳng đến chừng nào, bởi vì bất kỳ học thuyết nào,
dù nó có vẻ hứa hẹn như thế nào cho sự hạnh phúc tương lai của thế
giới. Chúng ta phải học hành sống từ bi, mãn nguyện với
chút ít, và tìm kiếm sự Tối thượng, bởi vì chỉ như thế mới có thể
có sự cứu rỗi thực sự của con người.CHƯƠNG IIITRÍ NĂNG, UY QUYỀN VÀ THÔNG MINH
Dường như nhiều người chúng ta đều nghĩ rằng qua dạy
học mọi con người biết đọc và biết viết, chúng ta sẽ giải
quyết được những vấn đề con người của chúng ta;
nhưng ý tưởng này đã chứng thực là sai lầm. Những người tạm gọi
là có giáo dục không là những người hợp nhất, yêu hòa bình, và họ
cũng phải chịu trách nhiệm cho sự hỗn loạn và đau khổ của thế
giới. |
Loại giáo dục đúng đắn có nghĩa sự thức
dậy của thông minh, sự nuôi dưỡng của một sống tổng thể, và
chỉ sự giáo dục như thế mới có thể sáng tạo một văn
hóa mới mẻ và một thế giới hòa bình; nhưng để sáng tạo loại giáo
dục mới mẻ này, chúng ta phải có một khởi sự trong sáng trên
một nền tảng hoàn toàn khác hẳn.
Với thế giới đang rệu rã quanh chúng ta, chúng
ta bàn luận những lý thuyết và những chủ đề chính
trị hão huyền, và đùa giỡn cùng những đổi mới bên ngoài. Liệu việc này
không thể hiện sự không chín chắn hoàn toàn về phần của chúng
ta, hay sao? Một số người có lẽ đồng ý rằng đúng như thế, nhưng họ sẽ tiếp
tục làm chính xác như họ luôn luôn làm – và đó là điều kinh
hoàng của sự tồn tại. Khi chúng ta nghe một sự thật và
không hành động theo nó, nó trở thành một thuốc độc trong chính chúng
ta, và thuốc độc đó lan tràn, tạo ra những phiền muộn, mất cân bằng và
không lành mạnh thuộc tâm lý. Chỉ khi nào sự thông minh sáng
tạo được thức dậy trong cá thể mới có thể có một sống
hòa bình và hạnh phúc.
Chúng ta không thể thông minh bằng cách
chỉ thay đổi một chính phủ cho một chính phủ khác, một đảng phái hay giai
cấp cho một đảng phái hay giai cấp khác, một người trục lợi cho
một người trục lợi khác. Sự cách mạng đổ máu không bao giờ có thể giải
quyết được những vấn đề của chúng ta. Chỉ một cách mạng sâu
thẳm bên trong mà thay đổi tất cả những giá trị của chúng ta mới
có thể tạo ra một môi trường khác hẳn, một cấu trúc xã hội thông minh,
và một cách mạng như thế có thể được sáng tạo chỉ bởi bạn
và tôi. Không trật tự mới mẻ nào sẽ sinh ra nếu chúng ta, một
cách cá thể, không phá vỡ những rào chắn thuộc tâm lý riêng của chúng
ta và được tự do.
Trên giấy chúng ta có thể vẽ những bản thiết
kế cho một Không tưởng hoàn hảo, một thế giới mới mẻ hoành
tráng; nhưng sự hy sinh của hiện tại cho một tương lai
không biết được sẽ không bao giờ giải quyết được bất kỳ vấn đề nào
của chúng ta. Có quá nhiều yếu tố đang can thiệp giữa hiện
tại và tương lai, đến độ không người nào có thể biết tương lai sẽ ra sao.
Việc gì chúng ta có thể và phải làm nếu chúng ta nghiêm
túc, là giải quyết những vấn đề của chúng ta ngay
lúc này, và không trì hoãn chúng đến tương lai. Vĩnh cửu không
ở trong tương lai; vĩnh cửu là ngay lúc này. Những vấn đề của chúng
ta tồn tại trong hiện tại, và chỉ trong hiện tại chúng
mới có thể được giải quyết.
Những người chúng ta mà có nghiêm túc phải tái
sinh; nhưng có thể có sự tái sinh chỉ khi nào chúng ta phá
vỡ những giá trị đó mà chúng ta đã tạo ra qua những ham
muốn tự phòng vệ và hung hăng của chúng ta. Hiểu rõ về chính
mình là sự khởi đầu của tự do, và chỉ khi nào chúng ta biết về
chính chúng ta thì chúng ta mới có thể sáng tạo trật
tự và hòa bình.
Lúc này, vài người có lẽ hỏi, ‘Một cá thể duy
nhất có thể làm gì mà sẽ gây ảnh hưởng lịch sử? Liệu anh ấy có
thể thành tựu bất kỳ việc gì qua cách anh ấy sống?’ Chắc chắn,
anh ấy có thể. Chắc chắn, bạn và tôi sẽ không kết thúc những chiến
tranh tức khắc, hay tạo ra một hiểu rõ tức khắc giữa những quốc
gia; nhưng ít nhất, chúng ta có thể sáng tạo, trong thế
giới của những liên hệ hàng ngày, một thay đổi cơ bản mà sẽ có sự ảnh
hưởng riêng của nó.
Sự khai sáng của cá thể có ảnh hưởng những
nhóm đông, nhưng chỉ khi nào người ta không mong ngóng những kết quả. Nếu người
ta suy nghĩ dựa vào kiếm được và kết quả, sự thay đổi đúng
đắn của chính người ta không thể xảy ra được.
Những vấn đề của con người không đơn
giản, chúng rất phức tạp. Muốn hiểu rõ chúng đòi hỏi sự kiên
nhẫn và thấu triệt, và điều quan trọng nhất là chúng ta như
những cá thể phải hiểu rõ và giải quyết chúng cho
chính chúng ta. Chúng sẽ không được hiểu rõ qua những công
thức và những khẩu hiệu rõ ràng; chúng cũng không thể được giải
quyết tại mức độ riêng của chúng bởi những người chuyên môn đang vận
hành trong một phương hướng đặc biệt, mà chỉ dẫn đến sự hỗn
loạn và đau khổ thêm nữa. Nhiều vấn đề của chúng
ta có thể được hiểu rõ và được giải quyết chỉ khi
nào chúng ta nhận biết chính chúng ta như một tiến
hành tổng thể, đó là, khi chúng ta hiểu rõ toàn bản chất giả
tạo thuộc tâm lý của chúng ta; và không người lãnh đạo chính
trị hay tôn giáo nào trao tặng chúng ta chìa khóa cho sự hiểu
rõ đó.
Muốn hiểu rõ về chính chúng ta, chúng
ta phải nhận biết được sự liên hệ của chúng ta,
không chỉ với con người, nhưng còn với tài sản, với những ý tưởng và
với thiên nhiên. Nếu chúng ta muốn sáng tạo cách mạng thực
sự trong sự liên hệ của con người, mà là nền tảng của tất cả xã
hội, phải có một thay đổi cơ bản trong những giá trị và tầm nhìn
riêng của chúng ta; nhưng chúng ta lẩn tránh sự cần thiết và
sự thay đổi cơ bản của chính chúng ta, và cố gắng tạo ra những cách
mạng chính trị trong thế giới, mà luôn luôn dẫn đến sự đổ máu và thảm
họa.
Sự liên hệ được đặt nền tảng trên sự cảm
xúc không bao giờ có thể là một phương tiện của sự giải
thoát khỏi cái tôi; tuy nhiên hầu hết những liên hệ của chúng
ta đều được đặt nền tảng trên sự cảm xúc, chúng là kết quả của sự ham
muốn của chúng ta cho lợi ích cá nhân, cho thanh thản,
cho an toàn tâm lý. Mặc dù chúng có lẽ trao tặng chúng ta một
tẩu thoát thoáng chốc khỏi cái tôi, những liên hệ như thế chỉ củng
cố sức mạnh của cái tôi, cùng những hoạt động trói buộc và
khép kín của nó. Sự liên hệ là một cái gương trong đó cái tôi và tất
cả những hoạt động của nó có thể được nhìn thấy; và chỉ khi nào những phương
cách của cái tôi được hiểu rõ trong những phản ứng của
sự liên hệ thì mới có một giải thoát sáng tạo của cái
tôi.
Muốn thay đổi thế giới, phải có sự tái sinh bên
trong chính chúng ta. Không việc gì có thể được thành tựu bởi sự
bạo lực, bởi sự ung dung hủy diệt lẫn nhau. Chúng ta có lẽ
tìm được một giải thoát nhất thời bằng cách gia nhập những
nhóm người, bằng cách học hành những phương pháp của sự đổi
mới kinh tế và xã hội, bằng cách ban hành luật pháp, hay bằng
cách cầu nguyện; nhưng dù làm bất kỳ việc gì chúng ta ưa thích, nếu
không có sự hiểu rõ về chính mình và tình yêu vốn có sẵn trong
nó, những vấn đề của chúng ta sẽ mãi mãi gia tăng gấp
bội. Ngược lại, nếu chúng ta vận dụng những cái trí và những quả tim
của chúng ta vào công việc của hiểu rõ về chính chúng
ta, chắc chắn chúng ta sẽ giải quyết được nhiều xung
đột và đau khổ của chúng ta.
Sự giáo dục hiện đại đang khiến
cho chúng ta thành những thực thể không suy nghĩ; nó
chẳng làm bao nhiêu để giúp đỡ chúng ta tìm được năng khiếu cá
thể của chúng ta. Chúng ta vượt qua những kỳ thi nào
đó và kế tiếp, bằng một chút ít may mắn, chúng ta có một việc
làm – mà thường có nghĩa là lề thói liên tục cho
suốt phần còn lại thuộc sống của chúng ta. Chúng ta có lẽ
không ưa thích việc làm của chúng ta, nhưng chúng ta bị ép
buộc phải tiếp tục nó bởi vì chúng ta không còn phương
tiện nào khác để kiếm sống. Chúng ta có lẽ muốn làm việc gì
đó hoàn toàn khác hẳn, nhưng những cam kết và những trách nhiệm kiềm
chế chúng ta, và chúng ta bị vây bủa trong những lo lắng và
những sợ hãi riêng của chúng ta. Vì bị tuyệt vọng, chúng
ta tìm kiếm sự tẩu thoát qua tình dục, nhậu nhẹt, chính trị
và tôn giáo ảo tưởng.
Khi những tham vọng của chúng ta bị cản
trở, chúng ta cho sự quan trọng quá mức đến những sự việc bình
thường, và chúng ta phát triển một biến dạng thuộc tâm
lý. Nếu chúng ta không có một hiểu rõ tổng thể về sống của chúng
ta và tình yêu, về những ham muốn chính trị, xã hội và tôn
giáo của chúng ta, cùng những đòi hỏi và những cản trở của
nó, chúng ta sẽ có những vấn đề luôn luôn gia tăng trong
những liên hệ của chúng ta, dẫn chúng ta đến đau
khổ và thoái hóa.
Sự dốt nát là không có hiểu rõ về những phương
cách của cái tôi, và sự dốt nát này không thể được xóa sạch bởi những hoạt
động và những đổi mới bên ngoài; nó có thể được xóa sạch chỉ bằng sự nhận
biết được những chuyển động và những phản ứng của cái tôi trong
tất cả những liên hệ của nó.
Điều gì chúng ta phải nhận ra là, chúng
ta không chỉ bị quy định bởi môi trường, nhưng chúng ta là môi
trường – chúng ta không là cái gì đó tách khỏi nó. Những suy
nghĩ và những phản ứng của chúng ta bị quy định bởi
những giá trị mà xã hội, trong đó chúng ta là một bộ
phận, đã áp đặt vào chúng ta.
Chúng ta không bao giờ thấy rằng chúng ta là
môi trường tổng thể bởi vì có nhiều thực thể trong chúng ta, tất
cả đang vây quanh ‘cái tôi’, cái ngã. Cái tôi được tạo thành bởi những thực
thể này, mà chỉ là những ham muốn trong những hình thức khác
nhau. Từ khối lượng của những ham muốn sinh ra hình bóng trung
tâm, người suy nghĩ, ý muốn của ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’; và
do đó một phân chia giữa ‘cái tôi’ và môi trường hay xã hội. Sự phân
chia này là sự khởi đầu của xung đột, phía bên trong và phía bên
ngoài.
Sự nhận biết toàn quy trình này, cả tầng ý
thức nhận biết được lẫn tầng ý thức giấu diếm, là thiền
định; và qua thiền định này cái tôi, cùng những ham muốn và
những xung đột của nó, được thay đổi. Sự hiểu rõ về chính
mình này là cần thiết nếu người ta muốn được tự do khỏi những ảnh
hưởng và những giá trị mà giúp đỡ sự trú ẩn của cái tôi; và
trong sự tự do này, một mình nó, có sáng tạo, sự
thật, Thượng đế, hay bất kỳ điều gì bạn muốn.
Quan điểm và truyền thống đúc khuôn những suy
nghĩ và những cảm thấy của chúng ta từ cái tuổi mỏng
manh nhất. Những ảnh hưởng và những ấn tượng tức khắc sinh
ra một hậu quả rất mãnh liệt và lâu dài, và định hình toàn
bộ cái nguồn của sống thuộc ý thức bên ngoài lẫn ý thức bên
trong. Sự tuân phục bắt đầu từ niên thiếu qua sự giáo dục và tác
động của xã hội.
Sự ham muốn để bắt chước là một nhân tố rất mạnh
mẽ trong sống của chúng ta, không chỉ tại những mức độ bên ngoài, nhưng
còn sâu thẳm. Hầu như chúng ta đều không có bất kỳ những suy
nghĩ và những cảm thấy độc lập nào. Khi chúng có xảy ra,
chúng chỉ là những phản ứng, và vì vậy không được tự do khỏi
khuôn mẫu đã thiết lập; bởi vì không có tự do trong phản ứng.
Triết học và tôn giáo đặt ra những phương
pháp nào đó mà dựa vào nó chúng ta có thể đến được sự nhận
ra về sự thật hay Thượng đế; tuy nhiên chỉ tuân
theo một phương pháp là vẫn còn không chín chắn và
không tổng thể, dù phương pháp đó có lẽ gây lợi lộc như thế
nào trong sống xã hội hàng ngày của chúng ta. Sự thôi thúc để
tuân phục, mà là sự ham muốn cho an toàn, nuôi dưỡng sự sợ
hãi và sẵn có những uy quyền chính trị và tôn giáo, những
người lãnh đạo và những người anh hùng mà khuyến khích sự
tuân phục và chúng ta bị thống trị bởi những người đó một
cách tinh tế hay thô thiển; nhưng không tuân phục chỉ
là một phản ứng đối với uy quyền, và không cách nào giúp đỡ chúng
ta trở thành những con người tổng thể. Phản ứng là vô
tận, nó chỉ dẫn đến phản ứng thêm nữa.
Sự tuân phục, cùng dòng chảy ngầm của sự sợ hãi của
nó, là một cản trở; nhưng chỉ công nhận thuộc trí năng về sự
kiện này sẽ không giải quyết được sự cản trở. Chỉ khi
nào chúng ta nhận biết được những cản trở bằng toàn
thân tâm của chúng ta thì chúng ta mới có thể được tự
do khỏi chúng mà không tạo ra những cản trở thêm nữa và sâu thẳm
thêm nữa.
Khi chúng ta phụ thuộc phía bên
trong, vậy thì truyền thống có sự ảnh hưởng vô cùng đối
với chúng ta; và một cái trí suy nghĩ trong những giới hạn truyền
thống không thể khám phá cái mới mẻ. Bằng tuân phục chúng
ta trở thành những người bắt chước tầm thường, những răng cưa trong một
cái máy xã hội tàn nhẫn. Chính là điều gì chúng ta suy nghĩ mới
đặt thành vấn đề, không phải điều gì những người khác muốn chúng
ta suy nghĩ. Khi chúng ta tuân phục truyền thống, chẳng mấy
chốc chúng ta trở thành những bản sao thuần túy của điều
gì chúng ta nên là.
Sự bắt chước của điều gì chúng ta nên là
này, nuôi dưỡng sự sợ hãi; và sợ hãi giết chết sự suy
nghĩ sáng tạo. Sợ hãi làm tê liệt cái trí và quả tim đến độ chúng
ta không còn tỉnh táo đối với ý nghĩa tổng thể của sự
sống; chúng ta trở thành vô cảm đến những đau khổ riêng
của chúng ta, đến sự chuyển động của những con chim, đến những nụ cười và
những phiền muộn của những người khác.
Sự sợ hãi nhận biết hay không nhận
biết được có nhiều nguyên nhân khác nhau, và nó cần đến sự canh
chừng tỉnh táo để xóa sạch tất cả chúng. Sự sợ hãi không thể
được loại bỏ qua kỷ luật, lý tưởng, hay qua bất kỳ hành động nào
của ý muốn: những nguyên nhân của nó phải được tìm ra và
được hiểu rõ. Điều này cần sự kiên nhẫn và một nhận biết trong
đó không có sự đánh giá thuộc bất kỳ loại nào.
Tương đối khá dễ dàng để hiểu rõ và xóa
sạch những sợ hãi nhận biết được của chúng ta. Nhưng vẫn
còn những sợ hãi không nhận biết không được khám phá bởi
mỗi người chúng ta, bởi vì chúng ta không cho phép chúng
nổi lên trên bề mặt; và vào những dịp hiếm hoi khi nó có nổi lên trên bề mặt, chúng
ta vội vã che đậy chúng, chạy trốn chúng. Những sợ
hãi giấu giếm thường tiết lộ sự hiện diện của nó qua
những giấc mộng và những hình thức khác của gợi ý, và chúng
gây ra sự thoái hóa và xung đột nghiêm trọng hơn những sợ
hãi bề mặt.
Những sống của chúng ta không chỉ trên bề mặt,
bộ phận quan trọng hơn của chúng được che giấu khỏi sự quan sát ngẫu
nhiên. Nếu chúng ta muốn những sợ hãi giấu giếm của chúng
ta hiển lộ và tan biến, trong chừng mực nào đó cái trí tầng ý
thức bên ngoài phải yên lặng, không liên tục bị bận rộn; vậy
thì, khi những sợ hãi này nổi lên trên bề mặt, chúng phải được quan
sát mà không buông bỏ hay cản trở, bởi vì bất kỳ hình
thức nào của chỉ trích hay bênh vực chỉ củng cố sự sợ
hãi. Muốn được tự do khỏi tất cả sợ hãi, chúng ta phải nhận
biết sự ảnh hưởng lén lút của nó, và chỉ có sự cảnh
giác liên tục mới có thể phơi bày nhiều nguyên nhân của nó.
Một trong những kết quả của sợ hãi là sự chấp
nhận uy quyền trong những vấn đề của con người. Uy
quyền được tạo ra bởi sự ham muốn của chúng ta để đúng
đắn, để an toàn, để thanh thản, để không có những xung đột hay
những quấy rầy lộ liễu; nhưng không thứ gì được sinh ra từ sợ
hãi có thể giúp đỡ chúng ta hiểu rõ những vấn đề của chúng
ta, mặc dù sợ hãi có thể mang hình thức của kính trọng hay
phục tùng vào những người tạm gọi là thông minh. Những người thông
minh không sử dụng uy quyền, và những người sử dụng uy
quyền không là những người thông minh. Trong bất kỳ hình thức nào, sợ
hãi ngăn cản sự hiểu rõ về chính chúng ta và về sự liên
hệ của chúng ta với tất cả những sự việc sự vật.
Tuân phục uy quyền là phủ nhận sự thông
minh. Chấp nhận uy quyền là quy phục sự thống trị, nô
lệ một cá thể, một nhóm người, hay một học thuyết, dù tôn
giáo hay chính trị; và sự nô lệ của một người vào uy quyền là
khước từ, không chỉ sự thông minh, nhưng còn cả sự tự do cá thể. Thỏa
hiệp cùng một tín điều hay một hệ thống của những ý
tưởng là một phản ứng tự phòng vệ. Sự chấp nhận uy quyền có
lẽ tạm thời giúp đỡ chúng ta che đậy những vấn đề và
những khó khăn của chúng ta; nhưng lẩn tránh một vấn đề chỉ củng
cố nó, và trong qui trình đó, sự hiểu rõ về chính mình và sự tự
do bị lãng quên.
Làm thế nào có thể có sự thỏa hiệp giữa sự tự
do và sự chấp nhận uy quyền? Nếu có sự thỏa hiệp, vậy
thì những người mà nói họ đang tìm kiếm sự hiểu rõ về
chính mình và sự tự do đều không nghiêm túc trong nỗ lực của
họ. Dường như chúng ta suy nghĩ rằng sự tự do là một kết
thúc cuối cùng, một mục tiêu, và rằng với mục đích để được tự
do trước hết chúng ta phải qui phục vào những hình thức khác
nhau của sự kiềm chế và sự hăm dọa. Chúng ta hy vọng kiếm
được sự tự do nhờ vào tuân phục; nhưng phương tiện không
quan trọng bằng một kết quả, hay sao?
Muốn có hòa bình, người ta phải sử dụng những phương
tiện hòa bình, bởi vì nếu những phương tiện là bạo lực, làm thế
nào sự kết thúc có thể là hòa bình? Nếu sự kết thúc là sự tự
do, khởi đầu phải là tự do, bởi vì kết thúc và khởi đầu là một.
Có thể có sự hiểu rõ về chính mình và sự thông minh chỉ khi
nào có tự do tại ngay khởi đầu; và tự do bị khước từ bởi sự chấp
nhận uy quyền.
Chúng ta tôn thờ uy quyền trong vô
vàn hình thức: hiểu biết, thành công, quyền hành, và vân
vân. Chúng ta áp đặt uy quyền vào đứa trẻ, và cùng lúc chúng
ta lại sợ hãi uy quyền cao hơn. Khi chính con người không
có tầm nhìn bên trong, quyền hành và vị trí bên ngoài đảm đương sự
quan trọng to tát, và sau đó cá thể mỗi lúc một quy phục vào uy
quyền và sự ép buộc, anh ấy trở thành công cụ của những người
khác. Chúng ta có thể thấy quy trình này đang xảy ra quanh chúng
ta: trong những khoảnh khắc của sự khủng hoảng, những quốc gia dân chủ hành
động như chính thể độc tài, quên bẵng sự dân chủ của họ và ép
buộc con người phải tuân phục.
Nếu chúng ta có thể hiểu rõ sự ép
buộc đằng sau ham muốn để thống trị hay được thống
trị của chúng ta, vậy thì có lẽ chúng ta có thể
được tự do khỏi những ảnh hưởng thoái hóa của uy
quyền. Chúng ta khao khát được vĩnh cửu, được đúng đắn, được thành
công, được hiểu biết; và sự khao khát này cho vĩnh cửu, cho bất
tử, dựng lên trong chính chúng ta uy quyền của sự trải nghiệm cá
nhân, trong khi phía bên ngoài nó tạo ra uy quyền của xã hội, của gia
đình, của tôn giáo, và vân vân. Nhưng chỉ lơ là uy quyền, loại
bỏ những biểu tượng bên ngoài của nó, chẳng có ý nghĩa bao
nhiêu.
Phá vỡ một truyền thống và tuân phục một truyền
thống khác, chia tay người lãnh đạo này và bám theo người lãnh
đạo khác, không là gì cả ngoại trừ một cử chỉ hời hợt. Nếu chúng
ta muốn nhận biết toàn quy trình của uy quyền, nếu chúng
ta muốn thấy trạng thái bên trong của nó, nếu chúng ta muốn hiểu
rõ và thay đổi sự khao khát cho vĩnh cửu, vậy thì chúng ta phải
có sự thấu triệt và nhận biết tổng thể, chúng ta phải tự
do, không phải tại khúc cuối, nhưng tại khởi đầu.
Khao khát cho vĩnh cửu, cho an toàn là một
trong những hoạt động chính của cái tôi; và chính sự thôi thúc ức
chế này mới cần được quan sát liên tục, chứ không phải bị biến
dạng hay bị ép buộc trong một phương hướng khác, hay
khiến cho tuân phục vào một khuôn mẫu ham muốn. Cái ngã, ‘cái tôi’ và ‘cái
của tôi’, rất mạnh mẽ trong hầu hết chúng ta; đang ngủ hay đang thức, nó
luôn luôn năng động, luôn luôn đang tự củng cố chính nó. Nhưng
khi có một nhận biết về cái tôi và một nhận ra rằng tất cả
những hoạt động của nó, dù tinh tế đến chừng nào, chắc
chắn phải dẫn đến xung đột và đau khổ, vậy thì khao
khát cho vĩnh cửu, cho tự tiếp tục kết thúc. Người ta phải liên
tục canh chừng về cái tôi khi bộc lộ những phương cách và
những ranh mãnh của nó; nhưng khi chúng ta bắt đầu hiểu
rõ chúng, và hiểu rõ những hàm ý của uy quyền và tất cả mọi
việc được bao hàm trong sự chấp nhận và sự phủ nhận nó của chúng
ta, vậy thì chúng ta đang tháo gỡ chính chúng ta khỏi uy
quyền.
Chừng nào cái trí còn cho phép chính nó
bị thống trị và bị kiểm soát bởi sự ham muốn cho an
toàn riêng của nó, không thể có sự giải thoát khỏi cái tôi và những vấn
đề của nó; và đó là lý do tại sao không có sự giải thoát khỏi
cái tôi nhờ vào giáo điều và niềm tin có tổ chức, mà chúng
ta gọi là tôn giáo. Giáo điều và những niềm tin chỉ
là những chiếu rọi của những cái trí riêng của chúng ta. Những nghi lễ,
những nghi thức, những hình thức được chấp nhận của thiền
định, những từ ngữ và những cụm từ được lặp lại liên tục, mặc dù
chúng có lẽ sản sinh những phản ứng thỏa mãn nào đó, không
làm tự do cái trí khỏi cái tôi và những hoạt động của nó; bởi
vì tại cốt lõi cái tôi là kết quả của sự cảm xúc.
Trong những khoảnh khắc của đau khổ, chúng ta hướng
về điều gì chúng ta gọi là Thượng đế; mà không là gì cả ngoại trừ
một hình ảnh của những cái trí riêng của chúng ta; hay chúng
ta tìm ra những giải thích thỏa mãn, và việc này trao tặng chúng
ta sự thanh thản nhất thời. Những tôn giáo mà chúng
ta theo sau được tạo ra bởi những hy vọng và những sợ
hãi của chúng ta, bởi sự ham muốn cho an toàn và bảo
đảm bên trong; và cùng sự tôn sùng của uy quyền, dù nó
là uy quyền của một đấng cứu rỗi, một người thầy hay một giáo sĩ,
liền xuất hiện sự qui phục, chấp nhận và bắt chước. Thế
là, chúng ta bị trục lợi nhân danh Thượng đế,
như chúng ta bị trục lợi nhân danh những đảng phái và những học
thuyết – và chúng ta tiếp tục chịu đựng đau khổ.
Tất cả chúng ta là những con người, dù bằng
bất kỳ cái tên nào chúng ta có lẽ được gọi, và đau khổ là số
mạng của chúng ta. Đau khổ đều chung cho tất cả chúng ta,
cho những người lý tưởng và cho những người vật chất. Chủ
nghĩa lý tưởng là một tẩu thoát khỏi cái gì là, và chủ
nghĩa vật chất là một cách khác của phủ nhận những chiều sâu vô hạn của hiện
tại. Cả những người lý tưởng lẫn những người vật chất đều
có những phương cách riêng của họ để lẩn tránh vấn đề phức
tạp của đau khổ; cả hai đều bị nuốt trọn bởi những ham muốn, những tham
vọng và những xung đột riêng của họ, và những phương cách sống
của họ không dẫn đến hòa bình. Cả hai đều phải chịu trách nhiệm cho sự hỗn
loạn và đau khổ của thế giới.
Lúc này, khi chúng ta ở trong một trạng
thái của xung đột, của đau khổ, không có sự hiểu rõ:
trong trạng thái đó, dù hành động của chúng ta có lẽ được suy
nghĩ cẩn thận và khôn ngoan đến chừng nào, nó chỉ có thể dẫn đến
sự hỗn loạn và đau khổ thêm nữa. Muốn hiểu rõ xung
đột và thế là được tự do khỏi nó, phải có một nhận biết về
những phương cách của cả cái trí tầng ý thức bên ngoài lẫn
tầng ý thức bên trong.
Không lý tưởng, không hệ thống hay khuôn
mẫu của bất kỳ loại nào, có thể giúp đỡ chúng ta cởi bỏ những vận
hành sâu thẳm của cái trí; ngược lại, bất kỳ công thức hay kết
luận nào sẽ cản trở sự khám phá của chúng ta. Sự theo
đuổi của cái gì nên là, sự quyến luyến những nguyên tắc, những lý
tưởng, sự thiết lập một mục tiêu – tất cả việc này đều dẫn
đến nhiều ảo tưởng. Nếu chúng ta muốn hiểu rõ về
chính chúng ta, phải có một tự phát nào đó, một tự do để quan
sát, và điều này không thể xảy ra được khi cái trí bị vây bủa trong những hời hợt,
trong những giá trị thuộc vật chất hay lý tưởng.
Tồn tại là liên hệ; và dù chúng ta phụ
thuộc vào một tổ chức tôn giáo hay không, dù chúng ta bị trói
buộc trong những lý tưởng hay sống trần tục ra sao, sự chịu
đựng đau khổ của chúng ta có thể giải quyết được
chỉ qua sự hiểu rõ về chính chúng ta trong sự liên hệ.
Sự hiểu rõ về chính chúng ta, một mình nó, có thể mang
lại hòa bình và hạnh phúc cho con người, bởi vì sự hiểu rõ về
chính mình là sự khởi đầu của thông minh và tổng thể. Thông minh không
là sự điều chỉnh thuần túy trên bề mặt; nó không là sự vun
đắp của cái trí, sự thâu lượm của hiểu biết. Thông minh là
khả năng hiểu rõ những phương cách của sống, nó là sự nhận
biết những giá trị đúng đắn.
Giáo dục hiện đại, trong phát triển mảnh trí
năng, cống hiến mỗi lúc một nhiều những lý thuyết và những sự
kiện, mà không sáng tạo sự hiểu rõ về toàn tiến hành của sự tồn
tại của con người. Chúng ta có trí năng cao độ; chúng
ta đã phát triển những cái trí ranh mãnh, và bị trói buộc trong
những giải thích. Mảnh trí năng được thỏa mãn bởi những lý
thuyết và những giải thích, nhưng thông minh lại không; và
muốn có sự hiểu rõ về toàn tiến hành của sự tồn tại của con
người, phải có một hòa hợp của cái trí và quả tim trong hành động. Thông
minh không tách rời tình yêu.
Đối với hầu hết chúng ta, muốn thành tựu sự cách
mạng bên trong này là điều cực kỳ gian nan. Chúng ta biết
làm thế nào để thiền định, làm thế nào để chơi đàn dương cầm, làm thế nào
để viết, nhưng chúng ta không có sự hiểu biết về người thiền
định, người chơi đàn, người viết văn. Chúng ta không là những con
người sáng tạo, bởi vì chúng ta đã nhét đầy những quả tim và những
cái trí của chúng ta bằng sự hiểu biết, thông tin và hung
hăng; chúng ta chật cứng những trích dẫn từ điều gì những người khác
đã suy nghĩ hay giải thích. Nhưng trải nghiệm hiện diện trước
tiên, không phải phương cách của trải nghiệm. Phải có tình yêu trước
khi có sự diễn tả của tình yêu.
Vậy thì rõ ràng rằng chỉ vun đắp mảnh trí
năng, mà là phát triển khả năng hay hiểu biết, không tạo ra thông
minh. Có một khác biệt rõ ràng giữa trí năng và thông
minh. Trí năng là sự suy nghĩ đang vận hành một
cách độc lập khỏi cảm xúc, trái lại, thông minh là
khả năng để cảm thấy cùng lý luận; và nếu chúng ta không
tiếp cận sống bằng thông minh, thay vì bằng một mình trí năng,
hay bằng một mình cảm xúc, không hệ thống giáo dục hay
chính trị nào trong thế giới có thể cứu thoát chúng ta khỏi
những cạm bẫy của sự hỗn loạn và hủy diệt.
Sự hiểu biết không thể so sánh với thông
minh, sự hiểu biết không là thông minh. Thông minh không
thể mua bán được, nó không là một món hàng có thể được mua bằng giá cả
của học hành hay kỷ luật. Thông minh không thể tìm được
trong những quyển sách; nó không thể được tích lũy, được ghi nhớ hay được lưu
trữ. Thông minh hiện diện cùng sự phủ nhận cái tôi. Có một cái
trí khoáng đạt còn quan trọng hơn học hành; và chúng ta có thể
có một cái trí khoáng đạt, không phải bằng cách nhồi nhét thông tin vào nó,
nhưng bằng cách nhận biết những suy nghĩ và những cảm
thấy riêng của chúng ta, bằng cách cẩn thận quan sát về
chính chúng ta và những ảnh hưởng quanh chúng ta, bằng
cách lắng nghe những người khác, bằng cách nhìn ngắm những người giàu có và
những người nghèo khổ, những người thống trị và những người bị thống
trị. Thông minh không hiện diện qua sợ hãi và đàn
áp, nhưng qua sự quan sát và hiểu rõ những biến cố hàng
ngày trong sự liên hệ của con người.
Trong sự tìm kiếm hiểu biết của chúng
ta, trong những ham muốn tham lợi của chúng ta, chúng
ta đang mất đi tình yêu, chúng ta đang làm tê liệt sự cảm
thấy cho vẻ đẹp, sự nhạy cảm đối với hành động tàn ác; chúng
ta đang trở nên mỗi lúc một chuyên môn hóa và mỗi lúc một giảm bớt hòa
hợp. Thông minh không thể được thay thế bởi sự hiểu biết, và
không một lượng nào của giải thích, không tích lũy nào
của những dữ kiện, sẽ làm tự do con người khỏi đau khổ.
Sự hiểu biết là cần thiết, khoa học có vị trí của nó;
nhưng nếu cái trí và quả tim bị chết ngạt bởi sự hiểu biết, và nếu nguyên
nhân của đau khổ được giải thích cho qua, sống trở
thành hão huyền và vô nghĩa. Và đây không là điều gì đang xảy ra
cho hầu hết chúng ta, hay sao? Giáo dục của chúng ta đang
khiến cho chúng ta mỗi lúc một nông cạn hơn; nó không đang giúp đỡ chúng
ta cởi bỏ những tầng sâu thẳm hơn của sự hiện diện của chúng
ta, và những sống của chúng ta mỗi lúc một trống rỗng và không hòa
hợp thêm.
Thông tin, sự hiểu biết về những sự kiện,
mặc dù luôn luôn gia tăng, chính bản chất của nó lại rất giới
hạn. Thông minh là vô hạn, nó gồm có sự hiểu biết và phương
cách của hành động; nhưng chúng ta bám chặt vào một nhánh cây và
lại nghĩ rằng nó là toàn cái cây. Qua sự hiểu biết của bộ phận, chúng
ta không bao giờ có thể nhận ra sự hân hoan của tổng
thể. Trí năng không bao giờ có thể dẫn đến tổng thể, bởi vì nó chỉ là
một mảnh vỡ, một bộ phận.
Chúng ta đã tách rời trí năng khỏi cảm
thấy, và đã phát triển trí năng bằng cách loại bỏ cảm thấy. Chúng
ta giống như một vật thể ba chân có một chân dài hơn hai chân kia,
và chúng ta mất đi sự cân bằng. Chúng ta được đào tạo để
có trí năng; giáo dục của chúng ta vun đắp mảnh trí
năng cho sắc bén, khôn lanh, tham lợi, và thế là nó đảm trách một vai
trò quan trọng nhất trong sống của chúng ta. Thông minh còn
vĩ đại hơn trí năng nhiều, bởi vì nó là sự hợp nhất của lý trí và
tình yêu, nhưng có thể có thông minh chỉ khi nào có sự hiểu rõ về
chính mình, sự hiểu rõ sâu thẳm về toàn tiến hành của chính người ta.
Điều gì là cốt lõi cho con người,
dù già nua hay còn trẻ, là sống một cách nguyên vẹn, hợp nhất, tổng
thể và đó là lý do tại sao sự quan tâm cơ bản của chúng
ta là sự vun đắp của thông minh đó mà sáng tạo sự
hợp nhất. Sự nhấn mạnh quá mức vào bất kỳ bộ phận nào của toàn
bộ sự giả tạo của chúng ta, tạo ra một quan điểm sống thiên
lệch và thế là bị biến dạng, và chính là sự biến dạng này mới
đang gây ra hầu hết mọi khó khăn của chúng ta. Bất kỳ sự phát triển bộ phận
riêng nào của toàn tính khí của chúng ta chắc chắn đều
gây thảm họa cho cả chính chúng ta lẫn cho xã hội, và vì vậy rất
quan trọng cho chúng ta phải tiếp cận những vấn đề con người của chúng
ta bằng một quan điểm tổng thể.
Là một con người tổng thể là hiểu rõ toàn
quy trình của ý thức riêng của chúng ta, cả tầng ý thức bên
ngoài lẫn tầng ý thức giấu giếm. Điều này không thể xảy ra được nếu chúng
ta cho sự nhấn mạnh quá đáng vào mảnh trí năng. Chúng
ta nghĩ rằng sự vun đắp của cái trí là quan trọng vô cùng,
nhưng phía bên trong chúng ta nghèo khó, thiếu thốn và
hoang mang. Đang sống trong mảnh trí năng này là phương cách của
không hợp nhất; bởi vì những lý tưởng, giống như những niềm tin,
không bao giờ có thể mang con người lại gần nhau ngoại trừ trong những
nhóm gây xung đột.
Chừng nào chúng ta còn phụ thuộc vào
sự suy nghĩ như một phương tiện của sự hợp nhất, phải có sự
tách rời; và hiểu rõ về hành động tách rời của sự suy nghĩ là nhận
biết được những phương cách của cái tôi, những phương cách của
sự ham muốn riêng của người ta. Chúng ta phải nhận biết tình
trạng bị quy định của chúng ta và những phản ứng của
nó, cả thuộc tập thể lẫn thuộc cá thể. Chỉ khi nào người ta nhận biết tổng
thể những hoạt động của cái tôi cùng những ham muốn và những theo
đuổi mâu thuẫn của nó, những hy vọng và những sợ hãi của
nó, thì mới có thể thoát khỏi cái tôi.
Chỉ có tình yêu và sự suy nghĩ đúng đắn sẽ sáng
tạo sự cách mạng thực sự, sự cách mạng bên trong
chính chúng ta. Nhưng làm thế nào chúng ta sẽ có tình yêu? Không
phải qua sự theo đuổi lý tưởng của tình yêu, nhưng chỉ khi nào
không có hận thù, khi nào không có tham lam, khi nào ý thức của
cái tôi, mà là nguyên nhân của sự đối nghịch, kết thúc. Một người
bị trói buộc trong những theo đuổi của trục lợi, của tham
lam, của ganh tị, không bao giờ có thể thương yêu.
Nếu không có tình yêu và sự suy nghĩ đúng
đắn, sự đàn áp và độc ác mãi mãi sẽ gia tăng gấp
bội. Vấn đề của sự đối nghịch của con người với con
người có thể được giải quyết, không phải bằng cách theo đuổi lý
tưởng của hòa bình, nhưng bằng cách hiểu rõ những nguyên
nhân của chiến tranh mà nằm trong thái độ của chúng ta đối
với sống, đối với những người bạn của chúng ta; và sự hiểu rõ này
có thể hiện diện chỉ qua loại giáo dục đúng đắn. Nếu
không có một thay đổi của quả tim, nếu không có ý muốn tốt
lành, nếu không có sự thay đổi bên trong mà được sinh ra từ sự hiểu
rõ về chính mình, không thể có hòa bình, không thể có hạnh phúc cho con
người.
CHƯƠNG IV
GIÁO DỤC VÀ HÒA BÌNH THẾ GIỚI
Muốn khám phá giáo dục có thể đảm trách vai
trò gì trong sự khủng hoảng hiện nay của thế giới, chúng ta phải hiểu
rõ làm thế nào sự khủng hoảng đó đã xảy ra. Chắc chắn nó là kết
quả của những giá trị sai lầm trong sự liên hệ của chúng
ta với con người, với tài sản và với những ý tưởng. Nếu
sự liên hệ của chúng ta với những người khác được đặt nền tảng
trên sự phóng đại của chính chúng ta, và sự liên hệ của chúng
ta với tài sản là tham lợi, chắc chắn cấu trúc của xã
hội là ganh đua và tự cô lập. Nếu trong sự liên hệ của chúng
ta với những ý tưởng, chúng ta bênh vực một học thuyết đối
nghịch với một học thuyết khác, ý muốn xấu xa và
không tin cậy lẫn nhau là những kết quả không tránh khỏi.
Một nguyên nhân khác của sự hỗn loạn hiện
nay là sự phụ thuộc vào uy quyền, vào những người lãnh đạo,
dù trong sống hàng ngày, trong trường học nhỏ bé hay trong trường đại học rộng
lớn. Những người lãnh đạo và uy quyền của họ là những nhân
tố thoái hóa trong bất kỳ tôn giáo nào. Khi chúng ta theo
sau một người khác, không có sự hiểu rõ nhưng chỉ có sự sợ
hãi và tuân phục, cuối cùng dẫn đến sự tàn nhẫn của chính thể độc
tài và những tín điều của tôn giáo có tổ chức.
Phụ thuộc vào những chính phủ, hướng về những tổ
chức và những uy quyền cho hòa bình đó mà phải bắt đầu bằng sự hiểu
rõ về chính chúng ta, là tạo ra xung đột nhiều thêm và vẫn
còn nghiêm trọng hơn nữa; và không thể có hạnh phúc vĩnh cửu chừng
nào chúng ta còn chấp nhận một trật tự xã hội trong
đó có đấu tranh và đối lập vô tận giữa con người và con
người. Nếu chúng ta muốn thay đổi những điều kiện đang tồn
tại, trước hết chúng ta phải tự thay đổi chính chúng ta, mà có
nghĩa chúng ta phải nhận biết được những hành động, những suy
nghĩ và những cảm thấy trong sống hàng ngày của chúng ta.
Nhưng chúng ta thực sự không muốn hòa
bình, chúng ta không muốn kết thúc sự trục lợi. Chúng
ta sẽ không cho phép sự tham lam của chúng ta bị can
thiệp, hay những nền tảng của cấu trúc xã hội hiện nay bị thay đổi; chúng
ta muốn những sự việc tiếp tục như chúng là với chỉ những bổ
sung trên bề mặt, và thế là chắc chắn những người quyền hành, những
người ranh mãnh cai trị những sống của chúng ta.
Hòa bình không thành tựu qua bất kỳ học
thuyết nào, nó không phụ thuộc vào lập pháp; nó hiện
diện chỉ khi nào chúng ta, như những cá thể, bắt đầu hiểu
rõ quy trình tâm lý riêng của chúng ta. Nếu chúng ta lẩn
tránh trách nhiệm của hành động một cách cá thể và chờ đợi hệ
thống mới nào đó để thiết lập hòa bình, chúng ta sẽ chỉ trở
thành những nô lệ của hệ thống đó.
Khi những chính phủ, những người độc tài, những
công ty lớn và những giáo sĩ quyền hành bắt đầu thấy rằng sự đối nghịch gia
tăng này giữa con người chỉ dẫn đến sự phá hoại bừa
bãi và vì vậy không còn gây lợi lộc nữa, họ có lẽ ép
buộc chúng ta, qua lập pháp và những phương tiện khác
của sự ép buộc, để kiềm chế những khao khát và những tham vọng cá
nhân của chúng ta và để đồng hợp tác cho hạnh
phúc của nhân loại. Giống như lúc này chúng ta được giáo
dục và được khuyến khích để ganh đua và tàn nhẫn, vì vậy lúc
đó chúng ta sẽ bị thúc ép để tôn trọng lẫn nhau và để làm
việc cho thế giới như một tổng thể.
Và mặc dù tất cả chúng ta có lẽ được ăn
mặc đầy đủ và có nơi trú ngụ ấm cúng, chúng ta sẽ không được tự
do khỏi những xung đột và những đối nghịch của chúng ta, mà
sẽ chỉ chuyển hướng đến một mức độ khác, nơi chúng sẽ vẫn còn quỷ quyệt
và tàn ác hơn. Hành động chân thật và đạo đức duy nhất là
tự nguyện, và sự hiểu rõ, một mình nó, có thể sáng tạo hòa
bình và hạnh phúc cho con người.
Những niềm tin, những học thuyết và những tôn
giáo có tổ chức đang xếp đặt chúng ta chống đối những người
hàng xóm của chúng ta; có xung đột, không chỉ giữa những xã hội khác
nhau, nhưng còn cả nơi những nhóm người trong cùng xã hội. Chúng ta phải nhận
ra rằng chừng nào chúng ta còn đồng hóa chính chúng
ta cùng một quốc gia, chừng nào chúng ta còn bám vào sự an
toàn, chừng nào chúng ta còn bị quy định bởi những giáo
điều, sẽ còn có đấu tranh và đau khổ cả trong chính chúng ta và
trong thế giới.
Vậy thì, có toàn nghi vấn của ái quốc.
Khi nào chúng ta cảm thấy thương yêu tổ quốc? Chắc chắn nó
không là một cảm xúc hàng ngày. Nhưng chúng ta được kiên
trì khuyến khích để thương yêu tổ quốc qua những quyển sách giáo
khoa, qua báo chí và những phương tiện tuyên truyền khác,
mà khích động cái tôi chủng tộc bằng cách ca tụng những anh
hùng quốc gia và bảo cho chúng ta rằng quốc gia và cách
sống riêng của chúng ta là tốt đẹp hơn những quốc
gia khác. Tinh thần ái quốc này nuôi dưỡng sự kiêu
ngạo của chúng ta từ niên thiếu đến tuổi già.
Sự khẳng định được lặp lại liên tục rằng chúng
ta phụ thuộc vào một nhóm tôn giáo hay chính trị nào đó, rằng chúng
ta thuộc quốc gia này hay quốc gia kia, nịnh nọt những
cái tôi nhỏ xíu của chúng ta, thổi phồng chúng ra giống như những cánh buồm, cho
đến khi chúng ta sẵn sàng giết chết hay bị giết chết
vì quốc gia, chủng tộc hay học thuyết của chúng
ta. Tất cả đều quá dốt nát và không tự nhiên. Chắc chắn, những con
người còn quan trọng hơn những biên giới của quốc gia và học
thuyết.
Tinh thần tách rời của chủ nghĩa quốc
gia đang lan tràn giống như lửa khắp thế giới. Ái quốc được nuôi
dưỡng và trục lợi đầy khôn ngoan bởi những người đang tìm kiếm sự
bành trướng thêm nữa, những quyền hành to tát hơn, sự giàu có nhiều
thêm; và mỗi người chúng ta tham gia vào quy trình này, bởi
vì chúng ta cũng ham muốn những việc này. Chinh phục những
đất đai khác và những con người khác cung cấp những thị trường
mới cho hàng hóa cũng như cho những học thuyết tôn giáo và chính
trị.
Người ta phải quan sát tất cả những diễn
tả này của bạo lực và đối nghịch bằng một cái trí không thành kiến,
đó là, bằng một cái trí không đồng hóa chính nó cùng bất kỳ quốc
gia, chủng tộc hay học thuyết nào, nhưng cố gắng tìm
ra điều gì là sự thật. Có sự hân hoan vô cùng khi thấy
một vấn đề rõ ràng mà không đang bị ảnh hưởng bởi những nhận
thức và những hướng dẫn của những người khác, dù họ là chính phủ, những
người chuyên môn hay những người rất có học thức. Một lần chúng
ta thực sự nhận ra rằng tinh thần ái quốc là một cản
trở đối với hạnh phúc của con người, chúng ta không
phải đấu tranh chống lại cảm xúc giả tạo này trong chính chúng
ta, nó đã vĩnh viễn biến mất khỏi chúng ta.
Chủ nghĩa quốc gia, tinh thần ái quốc, ý
thức giai cấp và chủng tộc, luôn luôn của cái tôi, và thế là gây
tách rời. Rốt cuộc, một quốc gia là gì ngoại trừ một nhóm của những cá
thể đang sống cùng nhau vì những lý do tự phòng vệ và kinh tế? Từ
sự sợ hãi và tự phòng vệ tham lợi sinh ra ý tưởng của
‘quốc gia của tôi’, cùng những biên giới và hàng rào thuế quan của
nó, đang khiến cho tình huynh đệ và sự thống nhất của con người không
thể xảy ra được.
Sự ham muốn để kiếm được và giữ được, sự khao
khát để được đồng hóa cùng cái gì đó to tát hơn chúng ta, tạo
ra tinh thần của chủ nghĩa quốc gia; và chủ nghĩa quốc
gia nuôi dưỡng chiến tranh. Trong mọi quốc gia, chính phủ, được
khuyến khích bởi tôn giáo có tổ chức, đang ủng hộ chủ nghĩa quốc
gia và tinh thần tách rời. Chủ nghĩa quốc gia là
một căn bệnh và nó không bao giờ có thể tạo ra sự thống nhất của nhân loại. Chúng
ta không thể có được sức khỏe nhờ vào bệnh tật, trước hết chúng
ta phải giải thoát chúng ta khỏi bệnh tật.
Do bởi chúng ta là những người ái quốc,
sẵn sàng bảo vệ những Chính thể cai trị của chúng ta, những niềm
tin và những tham lợi của chúng ta, nên chúng ta mới
phải liên tục trang bị vũ khí. Đối với chúng ta, tài sản và
những ý tưởng đã trở thành quan trọng hơn sống của con
người, thế là có bạo lực và đối nghịch liên tục giữa chúng ta và
những người khác. Bằng cách duy trì chủ quyền của quốc gia chúng
ta, chúng ta đang hủy diệt con cái của chúng ta; bằng cách tôn
sùng Chính thể, mà không là gì cả ngoại trừ một chiếu rọi của chính chúng
ta, chúng ta đang hy sinh con cái của chúng ta cho
sự thỏa mãn riêng của chúng ta. Chủ nghĩa quốc gia và
những chính phủ cầm quyền là những nguyên nhân và những dụng cụ của
chiến tranh.
Những học viện xã hội hiện nay của chúng
ta không thể phát triển thành một hợp nhất thế giới, bởi vì
chính những nền tảng của nó là tách rời. Những nghị viện và những hệ thống giáo
dục mà bảo vệ chủ quyền quốc gia và nhấn mạnh vào
sự quan trọng của nhóm người sẽ không bao giờ kết thúc chiến tranh. Mỗi
nhóm tách rời của con người, cùng những người cai trị của nó và những người
bị cai trị của nó, là một nguồn của chiến tranh. Chừng nào tại cơ bản chúng
ta còn không thay đổi sự liên hệ hiện nay giữa con người và con
người, chắc chắn công nghiệp sẽ dẫn đến sự hỗn loạn và trở
thành một dụng cụ của hủy diệt và đau khổ; chừng nào còn có
bạo lực và chuyên chế, dối gạt và tuyên truyền, tình huynh đệ của con
người không thể được thực hiện.
Chỉ giáo dục con người để là những kỹ sư
xuất sắc, những người khoa học sáng chói, những người điều hành hiệu
quả, những công nhân khéo léo, sẽ không bao giờ hợp nhất những người đàn
áp và những người bị đàn áp lại cùng nhau; và chúng ta có
thể thấy rằng hệ thống giáo dục hiện nay của chúng ta,
mà duy trì nhiều nguyên nhân nuôi dưỡng đối nghịch
và hận thù giữa những con người, đã không ngăn cản sự
giết người tập thể nhân danh quốc gia của người ta hay nhân
danh Thượng đế.
Những tôn giáo có tổ chức, cùng uy quyền tinh
thần và thế tục của chúng, cũng không thể mang lại hòa bình
cho con người, bởi vì chúng cũng là kết quả của sự dốt nát và sợ hãi của chúng
ta, của sự ích kỷ và giả tạo của chúng ta.
Bởi vì khao khát sự an toàn ở đây hay trong
đời sau, chúng ta tạo ra những học viện và những học thuyết mà bảo
đảm sự an toàn đó; nhưng chúng ta càng đấu tranh cho sự an
toàn nhiều bao nhiêu, chúng ta càng sẽ nhận được ít ỏi về chúng
bấy nhiêu. Sự khao khát an toàn chỉ nuôi dưỡng phân chia và gia
tăng đối nghịch. Nếu chúng ta cảm thấy sâu thẳm và hiểu
rõ sự thật của điều này, không chỉ bằng từ ngữ hay trí
năng, nhưng bằng toàn thân tâm của chúng ta, vậy thì chúng
ta sẽ bắt đầu thay đổi một cách cơ bản sự liên hệ của chúng
ta với những người bạn của chúng ta trong thế giới tức
khắc quanh chúng ta; và chỉ lúc đó mới có một khả năng của thành tựu sự
thống nhất và tình huynh đệ.
Hầu hết chúng ta đều bị nuốt trọn bởi tất cả
mọi loại sợ hãi, và đều quan tâm đến sự an toàn riêng
của chúng ta. Chúng ta hy vọng rằng, bởi điều kỳ diệu nào
đó, những chiến tranh sẽ kết thúc, luôn luôn buộc tội những
nhóm quốc gia khác là những nhóm khích động chiến tranh, khi luân
phiên họ chỉ trích chúng ta về thảm họa đó. Mặc dù chiến
tranh chắc chắn gây thiệt hại cho xã hội, chúng
ta chuẩn bị cho chiến tranh và phát triển tinh thần quân đội
trong những người trẻ.
Nhưng liệu sự đào tạo quân đội có bất kỳ vị
trí nào trong giáo dục? Tất cả nó phụ thuộc chúng ta muốn
con cái của chúng ta là loại người nào. Nếu chúng ta muốn chúng
là những kẻ giết người hiệu quả, vậy thì sự đào tạo quân
đội là cần thiết. Nếu chúng ta muốn kỷ luật chúng và định hình
những cái trí của chúng, nếu mục đích của chúng ta là khiến
cho chúng thành những người ái quốc và thế là vô trách nhiệm với xã
hội như một tổng thể, vậy thì sự đào tạo quân đội là một
cách hay ho để thực hiện nó. Nếu chúng ta thích
chết chóc và hủy diệt, chắc chắn sự đào tạo quân đội
là cần thiết. Chính chức năng của những vị tướng là phải
lên kế hoạch và tiếp tục chiến tranh; và nếu ý định của chúng
ta là có sự đấu tranh liên tục giữa chúng ta và những
người láng giềng của chúng ta, vậy thì tất nhiên chắc chắn chúng
ta hãy cho phép có thêm nhiều vị tướng.
Nếu chúng ta đang sống chỉ để có sự đấu
tranh liên tục trong chúng ta và với những người khác, nếu
sự ham muốn của chúng ta là tiếp tục đổ máu
và đau khổ, vậy thì phải có nhiều lính tráng hơn, nhiều người
chính trị hơn, nhiều kẻ thù hơn – mà thực sự là việc gì đang xảy
ra. Văn minh hiện đại được đặt nền tảng trên bạo lực, và vì
vậy đang chuốc lấy chết chóc. Chừng nào chúng ta còn tôn
sùng uy quyền, bạo lực sẽ là phương cách sống của chúng ta.
Nhưng nếu chúng ta muốn hòa bình, nếu chúng ta muốn sự liên
hệ đúng đắn giữa những con người, dù là người Thiên chúa
giáo hay người Ấn giáo, người Nga hay người Mỹ, nếu chúng ta muốn
con cái của chúng ta là những con người tổng thể, vậy
thì sự đào tạo quân đội là một cản trở tuyệt đối, đó
là phương cách sai lầm khi tiến hành nó.
Một trong những nguyên nhân chính của hận
thù và đấu tranh là niềm tin rằng một giai cấp hay chủng
tộc đặc biệt là cao cấp hơn một giai cấp hay chủng tộc khác.
Đứa trẻ không có ý thức giai cấp cũng như chủng tộc; do
bởi môi trường sống ở nhà hay ở trường, hay cả hai, mới khiến cho em cảm
thấy tách rời. Trong chính đứa trẻ, em không lưu tâm liệu người
bạn chơi đùa của em là một người da đen hay một người Do thái, một người Ba
la môn hay không Ba la môn; nhưng sự ảnh hưởng của toàn cấu
trúc xã hội liên tục đang khắc sâu vào cái trí của em,
đang ảnh hưởng và đang định hình nó.
Ở đây lại nữa, vấn đề không phải với đứa trẻ
nhưng với những người lớn tuổi, mà đã tạo ra một môi trường sống vô nghĩa của chủ
nghĩa tách rời và những giá trị giả tạo.
Liệu có nền tảng thực sự nào để chỉ rõ sự khác biệt giữa
những con người? Những thân thể của chúng ta có lẽ khác biệt
trong cấu trúc và màu sắc, những khuôn mặt của chúng ta có lẽ không
giống nhau, nhưng phía bên trong làn da chúng ta đều giống hệt nhau: kiêu
ngạo, tham vọng, ganh tị, bạo lực, tình dục, tìm kiếm quyền
hành và vân vân. Lột bỏ cái nhãn hiệu và chúng ta rất trơ trụi;
nhưng chúng ta không muốn đối diện sự trơ trụi của chúng
ta, và thế là chúng ta cố chấp vào cái nhãn hiệu – mà thể
hiện rằng chúng ta không chín chắn biết chừng nào, chúng
ta thực sự ấu trĩ ra sao.
Muốn khiến cho đứa trẻ lớn lên được tự do khỏi thành
kiến, trước hết người ta phải phá vỡ tất cả những thành kiến bên
trong chính người ta, và kế tiếp trong môi trường sống của chúng
ta – mà có nghĩa phá vỡ cấu trúc của xã hội vô nghĩa này
mà chúng ta đã tạo ra. Ở nhà, chúng ta có lẽ dạy bảo đứa
trẻ của chúng ta rằng, rất vô lý khi ý thức về giai
cấp và chủng tộc của người ta, và em ấy có thể sẽ đồng ý với chúng
ta; nhưng khi em ấy đi đến trường và chơi đùa cùng những đứa trẻ khác, em ấy bị
vấy bẩn bởi tinh thần phân chia. Hoặc nó có lẽ là cách ngược lại: ở
nhà có lẽ là truyền thống, chật hẹp, và sự ảnh hưởng của trường
học có lẽ phóng khoáng hơn. Trong cả hai trường hợp đều có
một đấu tranh liên tục giữa tổ ấm và trường học, và đứa trẻ bị kẹt cứng
giữa hai nơi.
Muốn nuôi nấng đứa trẻ một cách thông minh,
muốn giúp đỡ em ấy nhận biết để cho em ấy thấy những thành kiến xuẩn
ngốc này, chúng ta phải liên hệ mật thiết cùng
em. Chúng ta phải nói chuyện về những sự việc và cho phép em
lắng nghe nói chuyện thông minh này; chúng ta phải khuyến
khích tinh thần của tìm hiểu và bất mãn mà sẵn có
trong em, nhờ vậy giúp đỡ em khám phá cho chính em điều gì là thực sự
và điều gì là giả dối.
Chính là sự thâm nhập liên tục, sự bất
mãn thực sự, mới mang lại sự thông minh sáng tạo; nhưng để duy
trì sự thâm nhập và sự bất mãn luôn luôn thức giấc là
điều gian nan vô cùng, và hầu hết mọi người đều không muốn
con cái của họ có loại thông minh này, bởi vì quả là rất khó chịu khi
sống cùng một người luôn luôn nghi ngờ những giá trị đã được chấp
nhận.
Tất cả chúng ta đều bất mãn khi chúng
ta còn trẻ, nhưng bất hạnh thay chẳng mấy chốc sự bất mãn của chúng
ta tan dần đi, bị bóp nghẹt bởi những khuynh hướng bắt chước của chúng
ta và sự tôn sùng uy quyền của chúng ta. Khi chúng
ta lớn lên, chúng ta bắt đầu cố định, thỏa mãn và sợ
hãi. Chúng ta trở thành những người điều hành, những giáo
sĩ, những thư ký ngân hàng, những giám đốc nhà máy, những kỹ thuật
viên, và dần dần cố định. Bởi vì chúng ta ham muốn duy
trì những vị trí của chúng ta, chúng ta ủng hộ xã
hội thoái hóa mà đã xếp đặt chúng ta ở đó và đã
cho chúng ta tiêu chuẩn nào đó của sự an toàn.
Sự kiểm soát giáo dục của chính phủ là một tai
họa. Không có hy vọng của hòa bình và trật tự trong thế
giới chừng nào giáo dục còn là nô bộc của Chính thể
hay của tôn giáo có tổ chức. Tuy nhiên càng ngày càng nhiều
chính phủ đang đảm đương trẻ em và tương lai của chúng; và nếu nó
không là chính phủ, vậy thì nó là những tổ chức tôn giáo mà tìm
kiếm để kiểm soát sự giáo dục.
Tình trạng bị quy định này của cái trí đứa
trẻ để phù hợp vào một học thuyết, dù là chính trị hay tôn
giáo, nuôi dưỡng sự thù địch giữa con người và con
người. Trong một xã hội ganh đua, chúng ta không thể có
tình huynh đệ, và không sự đổi mới nào, không độc tài nào,
không phương pháp giáo dục nào có thể tạo ra nó.
Chừng nào bạn vẫn còn là người New Zealand và tôi
là một người Ấn độ, quả là vô lý khi nói về sự thống nhất của con
người. Làm thế nào chúng ta có thể hòa hợp cùng nhau như những con
người nếu bạn trong quốc gia của bạn, và tôi trong quốc gia của
tôi, còn duy trì những thành kiến tôn giáo và những hệ
thống kinh tế riêng biệt của chúng ta? Làm thế nào có thể có tình huynh
đệ chừng nào chủ nghĩa ái quốc còn đang tách rời con
người và con người, và hàng triệu người còn bị giới hạn bởi
những điều kiện kinh tế giới hạn trong khi những người khác
lại sung túc? Làm thế nào có thể có sự thống nhất của con người khi
những niềm tin còn phân chia chúng ta, khi có sự thống
trị của một nhóm người bởi một nhóm người khác, khi những người giàu
có đầy quyền hành và những người nghèo khổ đang tìm kiếm cùng
quyền hành đó, khi có sự phân phối sai lầm của đất đai, khi những người
nào đó được nuôi ăn dư thừa và vô số người lại đang thiếu
thốn?
Một trong những khó khăn của chúng ta là chúng
ta thực sự không khẩn thiết về những vấn đề này, bởi vì chúng
ta không muốn bị xáo trộn nhiều. Chúng ta ưa thích thay
đổi những sự việc chỉ trong một cách gây lợi lộc cho chính chúng
ta, và thế là chúng ta không quan tâm đến sự trống rỗng
và độc ác riêng của chúng ta.
Liệu có khi nào chúng ta có thể đạt được
hòa bình qua bạo lực? Liệu hòa bình sẽ đạt được dần dần, qua một qui
trình từ từ của thời gian? Chắc chắn, tình yêu không là một vấn đề của
sự đào tạo hay của thời gian. Hai cuộc chiến tranh vừa qua được
chiến đấu vì dân chủ, tôi tin tưởng như thế; và lúc này, chúng
ta đang chuẩn bị cho một chiến tranh còn to lớn hơn và hủy diệt hơn,
và con người ít được tự do hơn. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chúng
ta xóa sạch những cản trở rõ ràng như thế đối với sự hiểu
rõ như uy quyền, niềm tin, chủ nghĩa quốc gia và
toàn tinh thần của thứ bậc? Chúng ta sẽ là những con
người không có uy quyền, những con người hiệp thông lẫn
nhau – và vậy thì, có lẽ, sẽ có tình yêu và từ bi.
Điều gì cần thiết trong giáo dục, như
trong mọi lãnh vực khác, là phải có những con người hiểu rõ và thương
yêu, mà những quả tim của họ không chất đầy những cụm từ sáo rỗng, cùng những vấn
đề của cái trí.
Nếu sống được giành cho sống hạnh phúc, cùng tế
nhị, cùng ân cần, cùng tình yêu, vậy thì hiểu rõ về
chính chúng ta là điều rất quan trọng; và nếu chúng ta ao ước sáng
tạo một xã hội khai sáng thực sự, chúng ta phải có những
người giáo dục mà hiểu rõ những phương cách của sự
hợp nhất và thế là có thể chuyển tải sự hiểu rõ đó sang đứa trẻ.
Những người giáo dục như thế sẽ là một hiểm họa
cho cấu trúc xã hội hiện nay. Nhưng chúng ta thực sự không
muốn sáng tạo một xã hội khai sáng; và bất kỳ người giáo
dục nào mà, bởi vì nhận biết được những hàm ý đầy đủ của hòa
bình, bắt đầu vạch ra ý nghĩa thực sự của chủ nghĩa quốc
gia và sự ngu xuẩn của chiến tranh, chẳng mấy chốc sẽ mất luôn
chức vụ của họ. Vì biết rõ điều này, hầu hết những giáo viên đều đồng lõa, và
thế là giúp đỡ duy trì hệ thống hiện nay của sự trục lợi và bạo
lực.
Chắc chắn, muốn khám phá sự thật, phải có sự tự
do khỏi đấu tranh, cả trong chúng ta và người láng giềng của chúng
ta. Khi chúng ta không xung đột bên trong, chúng ta không xung
đột bên ngoài. Do bởi sự đấu tranh bên trong mà, được chiếu rọi
ra bên ngoài, trở thành xung đột của thế giới.
Chiến tranh là sự chiếu rọi đổ máu và quy mô của sống
hàng ngày của chúng ta. Chúng ta tiếp tục chiến tranh từ những
sống hàng ngày của chúng ta; và nếu không có một thay đổi trong
chính chúng ta, chắc chắn phải có những hận thù thuộc chủng
tộc và quốc gia, những cãi cọ ngô nghê về những học thuyết, gấp
bội những lính tráng, chào mừng những lá cờ, và tất cả những tàn bạo mà sẽ tiến
tới để tạo ra những giết chóc có tổ chức.
Sự giáo dục khắp thế giới đã thất bại, nó đã sản
sinh sự hủy diệt và đau khổ chất chồng. Những chính phủ đang đào
tạo những người trẻ để trở thành những lính tráng và những
chuyên viên kỹ thuật hiệu quả mà họ cần; tổ chức thành đội ngũ
và thành kiến đang được vun đắp và ép buộc. Bởi vì
đang suy nghĩ về những sự kiện này, chúng ta phải thâm
nhập ý nghĩa của sự tồn tại và sự quan trọng và mục
đích của những sống của chúng ta. Chúng ta phải khám
phá những phương cách từ bi của sáng tạo một môi
trường sống mới mẻ; bởi vì môi trường sống có thể khiến cho đứa trẻ thành một
người tàn ác, một người chuyên môn vô cảm, hay giúp đỡ em trở thành một
người thông minh, nhạy cảm. Chúng ta phải sáng tạo một
chính phủ thế giới mà khác hẳn tại cơ bản, mà không bị đặt nền tảng
trên chủ nghĩa quốc gia, trên những học thuyết, trên vũ lực.
Tất cả điều này hàm ý sự hiểu rõ về trách nhiệm của chúng
ta với lẫn nhau trong sự liên hệ; nhưng muốn hiểu rõ trách
nhiệm của chúng ta, phải có tình yêu trong những quả tim của chúng
ta, không chỉ học hành hay hiểu biết. Nhưng tất cả chúng ta là
những bộ não và không có những quả tim; chúng ta vun quén mảnh trí
năng và khinh miệt sự khiêm tốn. nếu chúng ta thực sự thương
yêu con cái của chúng ta, chúng ta sẽ muốn cứu thoát và bảo
vệ chúng, chúng ta sẽ không cho phép chúng bị hy
sinh trong những chiến tranh.
Tôi nghĩ chúng ta thực sự đều muốn vũ khí; chúng
ta thích sự biểu diễn của uy quyền quân đội, những bộ đồng phục,
những nghi thức, nhậu nhẹt, náo động, bạo lực. Sống hàng ngày của chúng
ta là một phản ảnh trong sự thu nhỏ lại của cùng bề mặt
tàn ác này, và chúng ta đang hủy diệt lẫn nhau qua ganh tị và
không chín chắn.
Chúng ta muốn giàu có; và chúng ta càng giàu
có bao nhiêu, chúng ta càng trở nên tàn nhẫn bấy nhiêu, mặc
dù chúng ta có lẽ đóng góp những số tiền to lớn cho từ thiện và giáo
dục. Vì đã cướp bóc của nạn nhân, chúng ta đền bù cho
người ấy một chút ít hàng ăn cướp, và điều này chúng ta gọi là
công việc nhân đức. Tôi không nghĩ chúng ta nhận ra những
thảm họa nào mà chúng ta đang chuẩn bị. Hầu hết chúng ta đều
sống mỗi ngày càng vội vã và càng không suy nghĩ bao nhiêu càng tốt,
và cho phép những chính phủ, những người chính trị ranh mãnh, xếp
đặt phương hướng của những sống của chúng ta.
Tất cả những chính phủ cầm quyền phải chuẩn bị cho chiến
tranh, và chính phủ riêng của người ta không là một ngoại lệ. Muốn khiến cho những
công dân của nó có hiệu quả cho chiến tranh, muốn chuẩn bị họ thi
hành những bổn phận có hiệu quả, chắc chắn chính phủ phải kiểm
soát và điều phối họ. Họ phải được giáo dục và hành động như những
cái máy, để có hiệu quả một cách tàn nhẫn. Nếu mục đích và cứu
cánh của sống là hủy diệt và bị hủy diệt, vậy thì giáo dục phải khuyến
khích sự tàn ác; và tôi không chắc rằng đó không là điều gì mà chúng ta mong
muốn phía bên trong, bởi vì sự tàn ác gắn liền cùng thành công.
Chính phủ cầm quyền không muốn những công dân của nó được tự
do, được suy nghĩ cho riêng họ, và nó kiểm soát họ qua sự
tuyên truyền, qua những diễn giải lịch sử biến dạng và vân
vân. Đó là lý do tại sao giáo dục đang trở nên càng ngày
càng trở thành một phương tiện của suy nghĩ cái
gì chứ không phải suy nghĩ thế nào. Nếu chúng ta muốn suy
nghĩ một cách độc lập khỏi hệ thống chính trị đang
bành trướng, chúng ta sẽ là những người nguy hiểm; những học viện tự
do có lẽ sản sinh những người hòa bình hay những người suy nghĩ trái
ngược với chế độ đang tồn tại.
Chắc chắn, giáo dục đúng đắn là một hiểm họa
cho những chính phủ cầm quyền – và thế là nó bị ngăn cản bởi những phương
tiện tinh vi và độc ác. Giáo dục và lương thực trong
bàn tay của một ít người đã trở thành phương tiện của kiểm
soát con người; và những chính phủ, dù của phe tả hay phe hữu, không quan
tâm chừng nào chúng ta còn là những cái máy hiệu quả dành
cho sự sản xuất hàng hóa và những viên đạn.
Lúc này, sự kiện rằng việc này đang xảy ra khắp thế
giới có nghĩa là chúng ta, những công dân và những người giáo dục,
đang chịu trách nhiệm cho những chính phủ đang tồn tại, tại
cơ bản không quan tâm liệu có tự do hay nô lệ,
hòa bình hay chiến tranh, hạnh phúc hay đau khổ cho con
người. Chúng ta muốn một chút xíu đổi mới đó đây, nhưng hầu hết chúng
ta đều sợ hãi đập nát xã hội hiện tại và sáng
tạo một cấu trúc hoàn toàn mới mẻ, bởi vì điều này sẽ đòi hỏi một
thay đổi cơ bản của chính chúng ta.
Ngược lại, có những người mà tìm kiếm để tạo ra một cách
mạng bạo lực. Bởi vì đã giúp đỡ xây dựng trật tự xã hội đang
tồn tại cùng tất cả những xung đột, hỗn loạn và đau khổ của
nó, bây giờ họ ham muốn tổ chức một xã hội hoàn hảo. Nhưng
liệu bất kỳ người nào trong chúng ta có thể tổ chức một xã hội hoàn
hảo khi chính chúng ta đã tạo ra xã hội hiện
nay? Tin tưởng rằng hòa bình có thể đạt được qua sự bạo lực
là hy sinh hiện tại cho một lý tưởng tương lai; và sự tìm
kiếm của một kết thúc đúng đắn qua một phương tiện sai
lầm này là một trong những nguyên nhân của sự thảm họa hiện nay.
Sự bành trướng và ưu thế của những giá trị thuộc giác
quan tất yếu phải tạo ra thuốc độc của chủ nghĩa quốc gia, của
những biên giới kinh tế, những chính phủ cầm quyền và tinh thần ái
quốc, tất cả điều đó ngăn cản sự đồng hợp tác của con
người với con người và gây thoái hóa sự liên hệ của con
người, mà là xã hội. Xã hội là sự liên hệ giữa bạn và
một người khác; và nếu không hiểu rõ sâu thẳm sự liên hệ này,
không phải tại bất kỳ một mức độ nào, nhưng hợp nhất, như một tiến hành tổng thể, chắc
chắn chúng ta lại tạo ra cùng loại của cấu trúc xã hội, dù được
bổ sung trên bề mặt như thế nào.
Nếu chúng ta muốn thay đổi một cách cơ bản sự liên
hệ hiện nay của con người chúng ta, mà đã tạo ra sự đau khổ không
kể xiết của thế giới, nhiệm vụ duy nhất và tức khắc của chúng
ta là tự thay đổi chính chúng ta qua sự hiểu rõ về
chính mình. Vì vậy, chúng ta quay lại mấu chốt chính, mà là
chính chúng ta; nhưng chúng ta lẩn tránh mấu chốt đó và đẩy trách
nhiệm sang những chính phủ, những tôn giáo và những học thuyết.
Những chính phủ là cái gì chúng ta là, những tôn giáo và những học
thuyết không là gì cả ngoại trừ một chiếu rọi của chính chúng ta; và
nếu chúng ta không thay đổi tại cơ bản, không thể có giáo dục đúng
đắn và một thế giới hòa bình.
Sự an toàn bên ngoài cho tất cả chỉ có thể hiện diện
khi có tình yêu và thông minh, và bởi vì chúng ta đã tạo
ra một thế giới của xung đột và đau khổ mà trong
đó sự an toàn bên ngoài mau chóng trở thành không thể xảy
ra được cho bất kỳ người nào, liệu nó không thể hiện sự vô ích hoàn
toàn của sự giáo dục quá khứ và hiện nay, hay sao? Như
những phụ huynh và những giáo viên, chính là trách nhiệm trực tiếp của chúng
ta phải phá vỡ sự suy nghĩ truyền thống, và không chỉ phụ
thuộc vào những chuyên gia và những tìm ra của họ. Sự hiệu
quả trong kỹ thuật đã trao tặng chúng ta một khả năng nào đó để
kiếm tiền, và đó là lý do tại sao hầu hết chúng ta đều thỏa
mãn với cấu trúc xã hội hiện nay; nhưng người giáo dục thực
sự chỉ quan tâm đến đang sống đúng đắn, giáo dục đúng
đắn, và phương tiện kiếm sống đúng đắn.
Một thảm họa khác và còn to tát hơn đang đến gần rất
nguy hiểm, và hầu hết chúng ta đều không làm bất kỳ việc gì về
nó. Chúng ta lê lết ngày này sang ngày khác chính xác như
trước kia, chúng ta không muốn phủi bỏ tất cả những giá trị giả
dối của chúng ta và bắt đầu mới mẻ lại. Chúng ta muốn thực
hiện sự đổi mới chắp vá, mà chỉ dẫn đến những vấn đề của
đổi mới thêm nữa. Nhưng ngôi nhà đang sụp đổ, những bức tường đang rạn nứt,
và lửa đang hủy diệt nó. Chúng ta phải rời khỏi ngôi nhà này và bắt đầu
mới mẻ lại, cùng những nền tảng khác hẳn, những giá trị khác hẳn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét