Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024
Chuyện tàu Titanic
Chúng ta, từ bao đời luôn đối mặt với những thảm họa. Chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh. Điều căn cốt của tinh thần Việt Nam là sự đồng cảm, chia sẻ lẫn nhau, theo cách của từng người.
Lá thư thắm tình yêu thương của cô giáo Phan Hồng Cẩm
Lá thư thắm tình yêu thương của
cô giáo Phan Hồng Cẩm
Hà Tĩnh ngày 23.8.2021
Thương yêu nhắn gửi các em học sinh của cô!
Nắng vẫn dịu dàng trong mắt thu! Thoảng trong gió, ta nghe rõ
tiếng gọi tha thiết: Hãy thiết lập một đường truyền!. Cụm từ “đường
truyền” cứ ngân lên trong tim cô suốt cả những ngày thu nồng nàn dằng dặc.
Và cô đã biết mình cần phải làm ngay một điều gì đó cho những ngày Covid đừng
qua đi trong chậm chạp và mệt mỏi.
Chào các em yêu quý! Chào những nụ cười trong trẻo của mùa
thu! Các em hãy cùng cô cất lên giai điệu của sự kết nối nhé! Học trực
tuyến không còn xa lạ với các em nữa. Nhưng tựu trường và khai giảng online thì
hẳn là có nhiều hụt hẫng!… Đặc biệt, với những chiến binh đầu cấp nén lòng cả
mùa ve ngân, háo hức đến tiết thu mát dịu để bước vào cánh cửa mới. Những ánh
nhìn trong veo, những bước chân vừa bỡ ngỡ vừa tự tin đã hiển hiện trong trái
tim cô…
Hôm nay, thầy cô lại được tập huấn lại về kĩ năng dạy học trực
tuyến, rồi miệt mài thiết kế lại bài học để linh hoạt thích nghi với mọi hoàn cảnh.
Mỗi bài học có thể đặt ở các trạng huống khác nhau: offline – online 75% –
online 50% – online 25%… Điện thoại của các thầy cô lâu lâu lại sáng lên vì những
thông báo cập nhật mới của trường thay đổi từng ngày, từng buổi.
Ngay bây giờ, điều kì diệu nhất mà ai ai cũng mong muốn là được
dạy học offline. Có cậu lớp 12 dí dỏm nhắn cho cô rằng: Cô ơi! Em muốn bị
cô búng tai thử một lần! Em muốn đượ cô gọi lên bảng trả bài ! Em thèm cảm giác
bị cô nhắc nhở: “Anh kia! Ngồi ngay ngắn lại nào”…Ngay bây giờ, kể cả tiếng bước
chân chạy bình bịch và tiếng thở hổn hển cùng một “rổ” lí do muộn giờ của các
anh “cá biệt” cũng là mơ ước đến cháy lòng!
Đó là hôm qua! Đó là ngày mai! Hôm nay, thì vẫn chưa được các
em ạ!
Dịch vẫn đang rất căng thẳng. Chúng ta vẫn đang cảm nhận rất
rõ về ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Nhưng triệu triệu con
tim và khối óc đang gồng mình chống dịch với niềm tin mãnh liệt. Khi Sài
Gòn bước vào ngày đầu tiên thực hiện lệnh giới nghiêm để xiết chặt giãn cách
thành phố. Khi màn đêm đang lặng yên, khi chúng ta đang chìm vào giấc ngủ thì lễ
xuất quân âm thầm để kịp “thời khắc lịch sử” của thành phố Hồ Chí Minh diễn ra
vào đêm 22/8. Khi mà hàng nghìn quân nhân, y bác sỹ, chiến sỹ của Học viện Quân
y đã đặt chân vào mảnh đất miền Nam ruột thịt… Chúng ta hãy học cách biết ơn và
đây là lúc cô trò chúng ta phải tiếp tục hành động.
Khi mà các anh chị vừa tốt nghiêp THPT với những điểm số đáng
tự hào đang chờ đợi cho chặng đua tiếp theo thì các em hãy chuẩn bị hành trang
bước vào ngưỡng cửa mới nhé! Dù có thể không gặp nhau trực tiếp trên giảng đường
thì cô tin rằng chúng ta vẫn luôn cùng chung một chí hướng, chung một bầu trời
ước mơ và nhiệt huyết cháy bỏng. Chúng ta sẽ gặp nhau trên Zoom, Team, Google
meet, Zalo, facebook… Ngay từ bây giờ, hãy xác lập thói quen thích nghi với những
thay đổi bất ngờ trong cuộc sống. Đừng ngại ngần với công nghệ! Hãy chịu khó tự
học những thứ chúng ta chưa biết, các em nhé!
Ngoài sách vở, dụng cụ học tập đầy đủ; quần áo giản dị, sạch
sẽ; nước uống thường xuyên; khẩu hiệu 5k…, các em hãy thiết lập giúp cô một đường
truyền. Đường truyền của niềm tin, của đam mê, của bản lĩnh và trí tuệ. Mỗi
chúng ta sẽ là một sợi truyền để giữ giữ lửa. Hãy nhìn sang bên cạnh
các em, những bạn chưa có máy tính, không có smartphone, nếu vẫn chưa đến trường
được, hãy hỗ trợ các bạn ấy. Bên cạnh chúng ta, nếu có bạn nào từ vùng dịch trở
về, hãy tìm cách kết nối an toàn, để bạn không bị lỡ nhịp… Vốn dĩ, cô biết các
em là những đứa trẻ biết nhường cơm sẻ áo, biết yêu thương những ai khốn khổ
hơn mình… Đó là cách để các em, các thầy cô thiết lập những đường truyền đấy
các em ạ!
Khi chúng ta đã thiết lập đường truyền rồi, cô tin
rằng chẳng có một con virut nào có thể hạ gục nổi chúng ta. Hãy là những chiến
sĩ yêu nước trên mặt trận văn hóa. Hãy không ngừng học tập và sáng tạo. Hãy học
từ những điều nhỏ nhoi, bình dị nhất. Hãy biết yêu từ những thứ nhỏ bé nhất!
Hãy học cách thử sức chịu đựng của mình nhiều hơn. Hãy biết yêu thương, trân trọng
bản thân và những người bên cạnh mình nhiều hơn… Cứ thế! Cứ thế… chúng ta nhất
định sẽ có một đường truyền bất tận.
Yêu thương và mong chờ các em nhiều lắm!.
1/9/2021
Phan Hồng Cẩm
Theo https://vanhocsaigon.com/
Ly trà phảng phất mùi hương quế
Ly trà phảng phất mùi hương quế
Chuyến về Qui Nhơn của tôi lần này có nhiều điều mới lạ.
Khác với những lần về trước để tham dự đám cưới của các cháu
hay gặp các em chồng từ xa về thăm quê, mà chuyến về lần này chúng tôi muốn được
dừng lại và suy ngẫm, sau những tháng ngày căng thẳng trong thành phố lớn.
Vì trong mùa Vu Lan nên chúng tôi cũng được tham dự cùng hai
em Nga, Tự, Châu và Kim Đức vào chuyến đi làm từ thiện mà từ nhiều năm gia đình
chồng thực hiện vào tháng 7 hằng năm. Tiền được các anh em con cháu trong nhà
chồng đóng góp và có sự đóng góp của các bạn hữu hay đồng hương từ phương xa
như Mỹ, Úc, Na Uy… gửi về.
Lần đầu tiên tôi đến thành phố QN là vào năm 1990, và từ đó đến
nay thành phố này đã có nhiều thay đổi lớn, nhất là những năm về sau. Những
khách sạn mới, những bãi biển dài, sạch sẽ, xinh đẹp và mời gọi, trên đường
phố có nhiều quán ăn đặc sản và nhiều nơi vui chơi… tất cả đều có
thể làm thõa mãn những du khách đến từ xa.
Nhưng tôi chưa bao giờ xem mình là du khách vì trong hầu hết
những chuyến đi ở VN hay qua các nước khác, đều là những chuyến đi thăm bạn bè,
để gặp gỡ và trao đổi tâm tình và kinh nghiệm sống cùng họ.
Với một du khách, chỉ cần một bức hình chụp selfie đứng cạnh
một ngôi chùa hay giữa hai hàng cây trước biển, cầm một chiếc nón lên máy
bay rồi sau đó bỏ vào kho hay treo lên vách để làm kỷ niệm về một chuyến du lịch
sang một nước Đông nam Á xa xôi.
Nhưng với tôi, sống ở VN có nghĩa là xúc cảm, là tìm trong sự
khác biệt những điều mà chúng ta giống nhau và xem đó như một kho tàng quý báu,
nhận được từ sự tương tác và cảm thông.
Sau khi tắm biển, chúng tôi thường ăn một tô bánh canh nóng rồi
cùng chạy xe máy đến sân nhà Châu và Kim Đức. Thật bất ngờ, lần này tôi nhận ra
ngay điều mới lạ: Từ chiều đến tối mọi người có thể thoải mái ngồi bên chiếc
bàn con để nhấm nháp những ly trà thơm mát, ai có thời gian và muốn thì dừng
chân còn nếu vội cũng có thể mua để mang về nhà.
Trên mọi ngả đường ở QN có rất nhiều hàng quán bán thức uống,
coca cola hay nước dừa, nước mía, nhưng quan trà thảo mộc của Kim Đức là một điều
cá biệt. Chỉ cần nhìn thấy tên bảng hiệu, OM, viết uốn khúc bằng sợi dây dừa và
trên một chiếc mâm gỗ nhỏ, trên đó được bày cây lá rễ, những nguyên liệu
thiên nhiên cần dùng để chế biến một loại nước uống bí ẩn mà phía sau nó chắc
có nhiều suy tưởng và ngẫm nghĩ.
Tất cả những chi tiết chọn lọc và hài hòa này đã biến chiếc
quán nhỏ ven đường thành một nơi gặp gỡ của một nhóm người, vì chữ OM là điểm
qui chiếu trong thiền định Phật giáo. Chữ OM viết bằng sợi dây dừa, một nguyên
liệu thiên nhiên, cũng chính là một thông điệp gửi đến mọi người rằng đây là
quán trà đơn giản, không ô nhiễm và thân thiện với môi trường sống của
loài người.
Nhưng điều bất ngờ chính là thứ nước uống dịu mát được làm chế
biến hoàn toàn từ cây, trái, lá, trà xanh, và hạt sen. Mùi thơm của các thứ trộn
vào nhau, phảng phất hương sả, gừng và quế. Châu nói, chanh, lá và các thứ hạt
được phối hợp theo một công thức hài hòa giúp người uống thư giãn, thanh lọc cơ
thể và còn có một giấc ngủ ngon.
Tôi ngồi, chú ý quan sát Kim Đức bằng cử chỉ dịu dàng
lúc chuẩn bị chiếc ly với ít đá lạnh, múc từng muổng nước đã chế biến đổ
vào và sau đó gắp thêm hạt sen, táo tàu bỏ lên trên cùng với một chiếc lá
chanh. Động tác của Kim Đức nhẹ nhàng mà chắc nịch, và bằng nụ cười tươi như của
một người mẹ, cô mang đến cho mọi người ly nước mát để thanh lọc tinh thần và
thể xác.
Một người bạn còn kể với tôi rằng ở thành phố Hội An cũng có
một quán nước tương tự, nhiều thanh niên, kể cả người nước ngoài đã phải sắp
hàng trước một quán nhỏ để có thể mua nước sả. Nhưng bạn nói là ở nơi
đây, nới quán trà thảo mộc OM này thì nước còn độc đáo và thơm ngon hơn nhiều.
Tôi tin điều đó vì trong thứ nước uống thần diệu của Kim Đức
luôn có một thành phần không thể định giá, đó là tất cả tấm lòng của cô ấy, một
yếu tố quan trọng mà không có gì có thể thay thế.
Những đêm sau tôi nhìn thấy rất nhiều bạn trẻ dừng lại để hỏi
Kim Đức về những lời khuyên, nói về mình hay về cuộc sống xung quanh. Tôi hiểu
là ly nước ấy không chỉ là ly nước giải khát, thõa mãn nhu cầu cơ thể mà còn
mang theo một ý nghĩa cho sự cần thiết của tinh thần.
Trong cái vị ngọt thơm mát còn có sự chuyển tải những giá trị
quá khứ, của truyền thống VN từ cổ xưa.
Tôi còn nhớ là hai năm trước khi tôi về QN đón Tết. Cũng ở
trên vỉa hè này tôi đã cùng vợ chồng Kim Đức, Ngọc Châu và các bạn trẻ khác ngồi
nấu bánh chưng và bánh tét trong một chiếc nồi lớn.
Trong khi Châu ngồi chụm củi và giữ lửa, Kim Đức nói với
tôi là nhiều bạn trẻ hôm nay không biết về truyền thống này và vợ chồng
anh thường giúp họ hiểu đó một điều quan trọng về văn hóa.
Ngồi ở quán trà OM người ta không thể nào nhàm chán và tôi
cũng đã học được rất nhiều điều từ nơi này. Bằng một giọng trầm trầm, Châu, người
thông thạo lịch sử và có những phân tích sắc bén, nhiều lần kể những chuyện ngoại
sử về vua Quang Trung, nữ tướng Bùi Thị Xuân và đoàn tượng binh dũng mãnh của
bà.
Từ bé tôi đã rất thích nghe kể chuyện, lịch sử luôn hấp
dẫn vì nó thường cho tôi quay về một thế giới khác, có những chiến binh
và công chúa, những cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa những thế lực quan
quyền và những mưu mô chiến trận.
Thức uống của một nàng tiên có đôi mắt to và giọng kể của những
người vừa hát vừa kể chuyện trong một thời quá khứ. Với tất cả niềm hy vọng tôi
nhìn thấy những chiếc ly trà thảo mộc cạn dần trên tay các bạn trẻ, họ là
những con người của thế giới mai sau và tất nhiên họ có thể xem và tiếp thu những
lời khuyên vàng ngọc của cô chủ cùng với ly nước tinh khiết và mát mẻ, đậm
đà hương vị quế.
1/9/2019
Elena Pucillo Truong
TRƯƠNG VĂN DÂN dịch
Theo https://vanhocsaigon.com/
Ký ức học trò
Ký ức học trò!
Tôi trở về quê hương sau một khoảng thời gian dài xa
cách: 38 năm, với bao cảm xúc bồi hồi, xao xuyến, bâng khuâng!
Trong ánh hoàng hôn của một ngày mùa hạ, tôi nhận ra
cuộc sống trên quê hương đã “thay da đổi thịt” rất nhiều. Con đường
đến trường đầy cát bụi, gồ ghề, lồi lõm, vắng bóng người qua lại,
thưa thớt nhà cửa, chỉ có những rặng phi lao rì rào trong gió ngày
nào – giờ đây là con đường nhựa phẳng lì rộng rãi. Hai bên đường,
nhà cửa san sát, nhộn nhịp người qua lại. Phố Chuối xưa im lìm, heo
hút thường xuyên bị ngập lụt trong mùa mưa lũ thế mà nay sầm uất,
đông vui. Đường nhựa rộng rãi, phẳng lì, nhộn nhịp người qua lại.
Những ngôi nhà cao tầng khang trang và các cửa hiệu rực rỡ ánh đèn nhấp
nháy khi màn đêm buông xuống mọc lên như nấm.
Lần theo con đường chính của phố huyện, tôi dạo bước
đến ngôi trường PTTH Nông Cống I, nơi đã gắn bó với tôi nhiều kỉ niệm
đẹp của tuổi học trò. Trường xưa ngói cũ rêu phong, thường bị ngập
lụt trong mùa mưa lũ đã nhường chỗ cho những dãy nhà tầng cao ráo, đẹp
đẽ. Sân trường lát gạch trống trơn với những bồn hoa, cây cảnh xanh
tốt bốn mùa. Dưới gốc cây cổ thụ là những chiếc ghế đá xinh xắn
tiện lợi cho học sinh truy bài, thư giãn vào giờ ra chơi. Trong các
phòng học, bàn ghế Xuân Hòa hai chỗ ngồi được kê từng dãy ngay ngắn.
Mỗi phòng học đều gắn ti vi màn hình lớn, rất thuận lợi cho việc
dạy và học. Đó đây, trên sân trường, rực rỡ một sắc đỏ của hoa
phượng. Nghe âm thanh rộn rã của các nghệ sĩ ve sầu tấu lên bài ca muôn thưở
chào mùa hè, làm con tim tôi như đập rộn ràng hơn. Bao kỉ niệm chợt ùa về,
sống dậy trong tôi: mùa phượng nở với tiếng ve kêu và sân trường đầy
nắng mỗi độ hè về! Những bữa cơm trưa khoai sắn ngọt bùi cùng bạn
bè của một thời để nhớ! Những buổi lao động đào mương, lội ruộng,
bùn ngập ngang ống chân! Nhớ những ngày tháng 5 đi gặt lúa dưới cánh đồng Vạn
Thiện (ngày ấy mỗi lớp có một đám ruộng của thầy và trò cấy lúa hàng năm để xây
dựng quỹ lớp), bùn ngập ngang bắp chân thế mà cái C lớp tôi bố mẹ đều làm công
nhân chưa bao giờ phải lội ruộng vẫn hăng hái cắt lúa. C bị đỉa đói bám chân, bạn
ấy càng nhắm mắt kéo con đỉa ra thì nó càng cố bám. Nhìn bạn nước mắt rơi lã
chã chúng tôi đang cắt lúa cũng phải chạy lại để bắt đỉa giúp bạn. Và từ khi
con đỉa được lôi ra, bạn ấy không dám xuống ruộng nữa. Rồi những buổi dọn vệ
sinh sau trường có bạn gái sợ sâu bị mấy bạn trai nghịch ngợm bỏ vào cổ áo vừa
chạy, vừa thét… Những trò đùa tinh nghịch của lũ học trò nhất quỷ
nhì ma ngày nào lần lượt hiện lên trước mắt tôi, khiến tôi cảm thấy tất cả
dường như mới diễn ra hôm qua!
Trong dòng kí ức miên man ấy, tôi nhớ về dòng sông quê
hương – con sông Chuối chảy qua trường tôi. Dòng sông gắn liền với
bao kỉ niệm tuổi học trò hồn nhiên vô tư và tinh nghịch. Nhớ đêm trăng
mùa hạ sáng tỏ, lớp tôi được phân công trực trường. Sau khi ăn cơm
xong, tụi con gái chúng tôi rủ nhau ra sông tắm. Hòa mình trong làn
nước mát rượi, chúng tôi đùa nghịch, vùng vẫy thỏa thích. Vào buổi
tối, thủy triều lên làm nước sông dâng cao nên chúng tôi cũng chỉ dám
tắm ở bậc xi măng trên bến không dám ra xa. Bỗng chị T.N – lớn tuổi
nhất lớp tôi – trượt chân nên chị bị dòng nước triều dâng cuốn ra xa.
Chị kéo theo cả một cô bạn nữa. Nhìn hai người chơi vơi “giã gạo”
giữa dòng sông mênh mang mà không biết bơi, chúng tôi hoảng hốt kêu cứu
thất thanh, may có các anh lớp lớn cùng trực nghe thấy vội bơi ra
cứu. Sau một hồi lặn ngụp dưới nước, các anh đã đưa được một chị
vào bờ nhưng còn chị T.N mãi vẫn chưa tìm thấy. Ở trên bờ, lũ con
gái chúng tôi vừa lo hô hấp cho chị bạn mới được cứu, vừa lo lắng
cho chị T.N không biết ra sao. Có nhiều tiếng khóc thút thít vang lên
gọi tên chị: “T.N ơi! chị ở đâu?…”cùng những ánh đèn pin rọi lia lịa
trên mặt sông. Rồi niềm vui chợt đến với chúng tôi – chị T.N đã được
đưa vào bờ. Người chị trắng bệch, lạnh toát, môi tái nhợt, mắt nhắm
nghiền. Chị nằm im, hai tay buông thõng không cử động khiến ai cũng lo
lắng. Các thầy cô giáo hớt hải xúm lại thay nhau hô hấp nhân tạo và
dốc ngược chị lên cho nước chảy ra. Một lúc lâu sau, chị ợ ra bao
nhiêu là nước và từ từ tỉnh lại khiến chúng tôi òa lên khóc nức nở
vì vui mừng chị đã qua cơn nguy kịch. Sau đó, chị được đưa vào bệnh
viện huyện để cấp cứu. Cả đêm hôm ấy, chúng tôi thay nhau chăm sóc cho
chị. Và cũng từ lần ấy, không bạn nào dám ra sông tắm nữa nhưng
dòng sông đã trở thành một kỉ niệm không thể quên được trong nỗi nhớ
của chúng tôi những năm tháng xa quê.
Đang xuôi theo dòng cảm xúc bâng khuâng, tôi giật mình
vì tiếng cười khúc khích của các bạn học sinh ôn bài trên ghế đá
dưới gốc phượng. Nhìn gốc cây cổ thụ đầy những vết khắc tên của bao
thế hệ học trò, khiến tôi bồi hồi nhớ lại ánh mắt trìu mến yêu thương
của bạn bè cuối cấp. Cũng dưới gốc cây này, chúng tôi đã trao cho
nhau chùm phượng nở khi hè về. Sắc đỏ của hoa như thắp sáng trong tim
mỗi người bao mơ ước của bầu trời phía trước. Và không ai bảo ai,
chúng tôi vùi đầu vào trang vở cho kì thi đại học năm ấy, để lời yêu
thương còn ngập ngừng chưa nói nên lời. Rồi chúng tôi chia tay nhau,
mỗi người một lựa chọn, một đường đi cho riêng mình. Khoảng cách địa
lí và thời gian, cùng bao trở ngại của cuộc sống gian truân làm cho
chúng tôi mãi mãi biệt ly!
Vậy là đã 38 năm trôi qua! Bạn bè tôi, những chàng
trai, cô gái tuổi 18 đôi mươi ngày nào, nay đã lên ông, lên bà. Mái tóc
điểm bạc. Những “ngoặc đơn”, “ngoặc kép” xuất hiện trên khuôn
mặt cùng chấm đồi mồi ghi dấu sự tàn phai theo năm tháng cuộc đời.
Thời gian và tuổi tác không làm giảm đi niềm vui của ngày hội ngộ.
Những vòng tay dang rộng ấm áp, những tiếng cười giòn tan vang vọng
trong chiều buông. Người nào, người nấy tay bắt, mặt mừng, hồ hởi ôn
lại kỉ niệm của tuổi học trò. Bao cái tên bạn bè lại được mọi
người tranh nhau nhắc tới cùng những giọt nước mắt ngập ngừng rơi khi
biết tin người còn, người mất…
Vâng! Tất cả đã đổi thay, tất cả đã thuộc về quá
khứ của một thời xa vắng nhưng vẫn còn đây nguyên vẹn tình cảm ấm
áp, vui tươi của bạn bè. Những nụ cười và vòng tay yêu thương của
bạn gái, những câu đùa tinh nghịch, dí dỏm của bạn trai đã đưa tôi
trở lại kí ức tuổi thơ êm đềm của tuổi 18 vô tư, hồn nhiên, trong
sáng ấp ủ bao hoài niệm ước mơ! Niềm vui ngày hội ngộ xua tan đi bao
vất vả, lo toan, bộn bề của cuộc sống mưu sinh. Bên nhau trong bữa cơm
chiều đạm bạc nhưng thấm đượm tình quê, ấm áp tình bạn chân thành
và nồng hậu làm tâm hồn mỗi người như trẻ lại. Nghe lời hát: “Quá
nửa đời phiêu dạt, con lại về úp mặt vào sông quê. Ơi! Con sông dạt
dào như lòng mẹ, chở con đi qua chớp bể mưa nguồn…” của một nam
ca sĩ “nghiệp dư” bạn cất lên trầm ấm khiến lòng tôi bồi
hồi xúc động! Cùng bên nhau ngắm nhìn vẻ đẹp rực rỡ, lung linh của
cầu Chuối về đêm, ngắm nhìn dòng sông quê hương trào dâng nước thủy
triều lên khiến lòng thanh thản, nhẹ nhõm đến kì lạ. Và cứ thế…cứ thế, các
“chàng trai, cô gái U50” tâm hồn như trẻ lại: hồn nhiên, vô tư, tranh nhau ôn
lại kỉ niệm xưa…Thế mới biết dẫu có “vật đổi sao dời” nhưng tình
cảm bạn bè chân thành, ấm áp thì không bao giờ đổi thay mà ngày càng
trở nên gắn bó hơn xưa vì nó đã được tôi luyện qua biết bao thăng
trầm trong cuộc đời của mỗi con người.
Ba mươi tám năm, kể từ mùa hạ năm ấy, chúng tôi giã
từ mái trường yêu dấu để mỗi người tự bước đi trên hành trình dài,
rộng của cuộc đời – nơi có niềm vui và những giọt nước mắt thầm
lặng rơi! Lòng như thầm hỏi, như tự trách mình sao không dành một
chút thời gian cho một lần gặp gỡ? Sao ta lại vô tình lãng quên kí
ức học trò ngọt ngào, đầy ắp kỉ niệm yêu thương của một thời để nhớ
– Thời áo trắng mộng mơ!.
2/9/2021
Trịnh Thị Hường
Theo https://vanhocsaigon.com/
Bút ký của Huỳnh Thục Oanh: Theo chân Fo
Bút ký của Huỳnh
Thục Oanh: Theo chân Fo
Tỉnh Bình Thuận trong đó có thị xã La Gi cũng như nhiều địa
phương trong cả nước tìm mọi cách chặn đứng nguồn lây lan từ nơi khác đến, cũng
như dồn lực cho việc bóc tách F0, cho việc tiêm đủ liều vaccine cho người
trong diện ưu tiên, có chú ý đến nơi tập trung đông lao động như bến cảng, nhà
máy…
Nỗi sợ
Ngoài ba mươi tuổi, hơn 10 năm làm nghề y, Huyền Trân (đổi
tên), đang tòng sự tại Trạm y tế phường Phước Hội, thị xã La Gi (Bình Thuận), vốn
là người hay cười trước đây, cho hay: chưa bao giờ cô trải qua cảm giác nặng nề,
căng thẳng liên tục như khi đối phó trận dịch Covid 19 lần thứ tư này ở thị xã
La Gi.
Hơn một tháng Huyền Trân mới được phép về thăm con trong hai
tiếng. Huyền Trân thiếu điều muốn phóng xe như bay, nhưng rồi lý trí dặn cô phải
cẩn thận. Vừa tới đầu xóm, những người đầu tiên trông thấy cô liền la lên:
“Đóng cửa… coi chừng lây lan dịch bây giờ”. Họ vừa la vừa nhìn Huyền Trân với
ánh mắt đầy lo ngại. Huyền Trân sực hiểu ra chuyện gì đang xảy ra. Niềm vui được
về nhà trước đó vài phút xẹp xuống như quả bóng xì hơi. “Đến nỗi nào như vậy hở
trời?”, Huyền Trân lắc đầu, không kiềm được tiếng thở dài….
Lây dịch
Bình Thuận trong nhiều tháng qua chưa phải là điểm nóng về dịch
Covid-19 của toàn quốc, nhưng số người nhiễm dịch Covid-19 vẫn thường xuất hiện.
Từ kinh nghiệm đợt chống dịch của năm 2020, Bình Thuận áp dụng Chỉ thị 15 rồi
16 của Chính phủ ở một vài nơi, trong đó có La Gi, thị xã phía Nam, trên 137
ngàn dân của tỉnh.
La Gi là xứ biển, đời sống, sinh hoạt của dân hiền hòa, dễ chịu.
Cảnh sắc thiên nhiên nên thơ, kết hợp cả 3 yếu tố: núi, đồi, biển. Địa hình đồng
bằng có, bán sơn địa có; nằm trên con đường ven biển phía Nam; lại nối với
thành phố Bà Rịa- Vũng Tàu, nên thuận lợi trong phát triển du lịch biển, du lịch
nghỉ dưỡng, sinh thái… Gần như La Gi không ngủ về đêm, liên tục có tiếng rì rà
rì rầm ở mọi ngóc ngách. Đó là tiếng sóng, tiếng gió, tiếng rừng dương xào xạc,
tiếng người đi biển gọi nhau, tiếng vọng ầm ì của những con tàu xuất bến… để
sáng và cả ngày hôm sau, hải sản La Gi chuyển đi khắp nơi, có đến trên 30 ngàn
tấn mỗi năm ; làm nên đặc điểm của đô thị biển gắn với dịch vụ và du lịch.
Nhiều năm qua đi, La Gi bình yên trước thiên nhiên, vì vậy
trong sâu thẳm của người đất này: La Gi – đất lành, chốn bình yên. Nơi mà chỉ cần
gắn bó với nó một thời gian bạn sẽ thấy yêu, thích, tìm thấy trong nó vẻ đẹp của
vùng quê giàu tiềm năng, thân thiện hết mực, đặc biệt là với những người tuổi dần
cao.
Nhưng rồi nửa đầu tháng 7 năm nay, sét đánh ngang tai, nhiều
người La Gi choáng váng khi biết một anh lái xe mang virus SARS-COV2 biến thể
Delta từ Bình Dương về, làm lây nhiễm người cộng đồng trong một số ngày
và đến ngày 10/ 7, quả bom nổ chậm ấy phát nổ, với một lô người gồm cả em
bé 1 tháng tuổi, qua test nhanh (kháng nguyên) đều cho kết quả dương
tính, buộc phải cách ly.
Tiếp theo, là những ngày chỉ trong mỗi một khu phố II, phường
Phước Hội thuộc thị xã, người nghi nhiễm luôn ở hai con số… Không có chiến
tranh mà sự xơ xác, rầu rỉ, âu lo… hiện lên trên từng gương mặt, những
người trước đó còn vui vẻ đi biển, chạy chợ… Đây là lúc, La Gi phong tỏa
khu phố II với 412 hộ dân của Phước Hội… Đây là lúc Huyền Trân thu xếp đồ
đạc, dặn chồng chăm con trong vòng tuần lễ, nhưng rồi đi một lèo từ
12 tháng 7 đến giữa tháng 8, dù nhà cách nơi làm việc vài cây số.
Hàng ngày Huyền Trân và 7 đồng nghiệp trong Trạm y tế Phường
cùng người của đoàn CDC (Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh của tỉnh)
xuống các điểm nóng, các khu phố khác làm test nhanh, tìm người
nghi nhiễm Virus. Rồi từ kết quả mang tính sàng lọc đó, tiếp tục
xét nghiệm PC- PRT tìm các F0 (những người có kết quả xét nghiệm
dương tính với kháng nguyên SARS-COV2 và dĩ nhiên không loại trừ trường hợp
dương tính giả). Một người được coi là F0 xuất hiện đồng nghĩa có
các F1, F2… theo sau như đầu tàu kéo theo nhiều toa tàu. “ Có ngày test 300-600
trường hợp. Công việc lăp đi lăp lại mang tính định kỳ không chỉ ở
một khu phố, vì vậy tính ra nhân viên Trạm y tế đã phải làm hàng ngàn lượt
test trong hơn một tháng dịch bùng phát mạnh ở La Gi”- Huyền Tân nói..
Những người như Huyền Trân dù có áo quần bảo hộ, mang kính chống
giọt bắn song cảm giác bất an thường xuyên có trong người; chưa kể quần áo bảo
hộ, găng tay mang mặc trong nhiều giờ, làm cho người lúc nào cũng cảm giác có lửa,
dễ bực bội, mệt mỏi… chỉ mong được giấc ngủ. Ấy thế nhưng, cứ phải nhỏ nhẹ, ân
cần với dân vì lỡ dân phản ánh là rầy rà. Có chị đến ngày kinh kỳ mệt mỏi,
nhưng khi trưởng bộ phận phân công nhiệm vụ, vẫn mặc áo quần bảo hộ, đi ngay,
test tiếp.
Huyền Trân kể: “Hiện nay, nỗi gian nan về phòng chống dịch
Covid-19 chuyển sang phường Bình Tân, bên kia sông Dinh. Bình Tân đang là điểm
nóng của thị xã. Số người lây nhiễm, có ngày gấp đôi, gấp ba Phước Hội. Bạn của
Huyền Trân, Phương Dung, làm việc tại Trạm y tế Bình Tân, hôm qua gọi điện cho
nhau giọng khàn đặc, không nói nên lời.
Bệnh viện Đa khoa khu vực La Gi sử dụng 10 đơn nguyên, tiếp
nhận trên 1000 bệnh nhân
Dân cư cận biển
Thị xã La Gi có 9 phường, xã. Bình Tân là một trong phường
đông dân, gần 4900 khẩu, đa số làm biển và nông nghiệp. Có 2 khu phố (10
và 11) bên bờ sông Dinh, giáp biển, gần 1100 dân. Đây là nơi người ta sống chen
chúc, chật chội, đường đi lối lại, có chỗ còn là đường đất. Phương Dung mới ba
mươi, con còn nhỏ. Không lâu sau khi Phước Hội phát hiện dịch, một vài
người ở khu phố 10, 11 có biểu hiện ho sốt nóng. Trạm y tế Bình Tân, điều hẳn một
bộ phận năm cán bộ, nhân viên xuống khu phố 10, 11 làm test nhanh. Phương Dung,
nói: “Ai từng sống vùng biển đều biết: Người vùng biển hay qua lại nhau. Trong
xóm, nhà ai có tiệc lớn, tiệc nhỏ đều mời nhau, ăn uống xong rồi hát hò cả
ngày, sang đêm… Phụ nữ, không ít cô chồng đi biển rồi thì ngồi sòng cho đến khi
chồng về.. Nên khi có vài người bị nhiễm virus SARS-COV2 biến thể
Delta chậm phát hiện, chuyện lây lan và lây rộng trong cộng đồng là điều khó
tránh khỏi.
Trong nhiều ngày ở khu phố 10, 11, Phương Dung có nhiệm
vụ tiếp nhận người có kết quả xét nghiệm nhanh dương tính, lập thành một
danh sách, gởi lên trên. Tiếp theo, test sàng lọc những người còn lại
trong gia đình có người dương tính, không chỉ một lần mà nhiều lần trong một thời
gian nhất định, theo phương châm: Test-test-test…. Bởi xét nghiệm kháng nguyên
một đôi khi cho kết quả âm tính giả, nhất là với người nhiễm virus trong một,
hai ngày đầu. Dung cũng là người đưa người trong diện cách ly đến các cơ sở
cách ly. “Không phải bao giờ công việc ở rốn dịch cũng dễ dàng. Khi anh
chị nói với ai đó về sự nguy hiểm của dịch Covid 19, nếu người đó lắng nghe và
có chút “sợ” không chỉ cho mình mà còn cho người thân, họ dễ dàng chấp hành quy
định giãn cách và nguyên tắc 5 K. Song với một số người, dịch Covid 19 như thứ
bệnh “ trời kêu ai nấy dạ” thì chỉ cần anh chị rời mắt đi, họ lại túm tụm chuyện
trò, hát hò. Ở khu phố 10, 11, không ít người rơi vào trường hợp 2. Buổi chiều,
các chốt phòng dịch còn lại một vài người, tất cả phờ phạc, đen sạm vì cả ngày
dưới nắng,chẳng buồn đi lại nhiều, ấy là lúc ở khu phố 10, 11 như gánh hát vừa
vãn tuồng, người người cười nói, gọi bạn bè gầy độ nhậu, đi lại, như chẳng chuyện
gì xảy ra. Trẻ nhỏ líu xíu chạy nhảy vô tư.. Còn khi test, có
người ngồi giãn cách một lúc, năm mười phút đã sốt ruột, chồm tới trước, quay
ngang, rồi chẳng ngại ngần bước sang chỗ người ngồi liền kề, bá vai, kề cổ,
cười ha há, hi hí, kể cả chuyện đêm hôm qua thằng chả (con vợ) làm tao mất
ngủ… Dường như không làm vậy, họ cảm thấy thiếu thân mật, đơn lẻ, buồn
phiền..; kiểu như không kể cho ai đó nghe chuyện của mình thì chuyện sẽ bay,
quên mất… Chuyện túm tụm, ngồi lê đôi mách, nói hình tượng là bán dưa lê…
là “chuyện thường ngày ở huyện” ở hai khu phố ven biển, thiếu không chịu được!
Có gia đình, mời test sàng lọc, họ liền đóng cửa ở lì trong
nhà. Khi đó, một cô Phương Dung chứ năm cô Phương Dung chẳng làm gì được
họ. Khi đó phải lụy các anh dân phòng, công an giúp sức khuyên bảo, rộng ra là
giải thích” - Dung cười sau câu nói như để khỏa lấp sự mệt mỏi trên gương mặt
hơi bầu có đôi mắt sáng. Cô tiếp: “Sắp tới đây, người của trạm em sẽ vất vả hơn
vì La Gi nằm trong kế hoạch test sàng lọc của tỉnh. Mục đích là
tách những người nhiễm bịnh thật sự (các F0 dương tính) ra khỏi trong cộng đồng,
sau đó tùy theo mức độ năng nhẹ của F0 mà bố trí điều trị, hoăc cách ly để
ngăn lây lan. Các F1, F2, sẽ được theo dõi sát sao. Qua đó, thu hẹp “vùng
đỏ”, “vùng cam”, “vùng vàng”; mở rộng “vùng xanh”... Công việc này ngốn rất
nhiều sức lực và nhiều ngày vì hiện nay F0 trong cộng đồng không hề
nhỏ”. Trong lúc trò chuyện, Huyền Trân, Phương Dung đều giấu biến chuyện
đến nay: Các trạm y tế phường xã, rộng ra là cán bộ, bác sĩ Bệnh viện Đa Khoa
khu vực La Gi đều chỉ ứng tiền để hoạt động, các khoản hỗ trợ nào đều chưa về đến.
Chưa kể, những người như Phương Dung, với tiền lương hơn 4
triệu đồng một tháng, phải trích ra một khoản để mua những thứ thật cần thiết
trong hoạt động của mình, thay vì trông chờ vào nhà nước, cấp trên cấp phát. Điều
này hiện rõ trên gương mặt có phần nở ra của Phương Dung khi cô khoe, bạn
bè học cấp III, góp tiền mua tặng cô một số đồ chống dịch.
Bóc F0 và vaccine
Không thể không nói, những ngày vừa qua, Chính quyền tỉnh và
ngành y Bình Thuận dành hết tâm sức, nhân lực và cả một lượng vaccine tốt cho
La Gi, khi số người nhiễm dịch lên trên 1500 người, tính đến thời điểm 29/8, tỉ
lệ 1% trên tổng số dân. Phường Bình Tân, nơi Phương Dung làm việc, chiếm
vị trí đầu với 700 bệnh nhân.
Bình Thuận như nhiều địa phương trong cả nước tìm mọi cách chặn
đứng nguồn lây lan từ nơi khác đến, cũng như dồn lực cho việc bóc tách
F0, cho việc tiêm đủ liều vaccine cho người trong diện ưu tiên, có chú ý
đến nơi tập trung đông lao động như bến cảng, nhà máy…
Trong hơn một tháng đương đầu với dịch, Bệnh viện Đa khoa khu
vực La Gi sử dụng 10 đơn nguyên, tiếp nhận trên 1000 bệnh nhân. Số được ra viện
991 người đã trở lại cuộc sống bình thường. Bác sĩ Đỗ Văn Anh, Giám đốc Bệnh viện
cho hay: “Cùng với toàn ngành, có sự hỗ trợ của chính quyền, của nhiều đoàn thể
chính trị, các tổ chức, cá nhân có lòng hảo tâm, bệnh viện cung cấp đủ oxy, máy
thở, xây dựng được 3 hệ thống oxy lỏng; trang bị đầy đủ đồ phòng hộ y tế, miễn
phí gần 9 ngàn test nhanh. Tổng huy động tương đương 5 tỷ đồng. Thế mới biết sức
dân quan trọng thế nào”.
Tôi nhủ lòng, hết dịch rồi sẽ đi thăm Phương Dung, Huyền Trân
xem tình trạng hai cô ra sao. Chắc là gầy xộc và đen đũi?!.
2/9/2021
Huỳnh Thục Oanh
Theo https://vanhocsaigon.com/
Bữa cơm sáng trong mùa dịch
Bữa cơm sáng trong mùa dịch
Đã lâu lắm rồi gia đình tôi không nấu cơm ăn sáng. Bữa sáng
lúc nào cũng vội vàng, tất bật. Nhà ở gần chợ, vợ thường dậy sớm tranh thủ mua
luôn thức ăn bán sẵn cho cả nhà. Cũng có khi vừa đi làm vừa ghé tạt mua ổ bánh
mì hoặc hộp xôi cho qua bữa. Riêng tôi, chỉ cần li cà phê với bình trà là đủ,
dù biết như thế là không tốt cho sức khỏe.
Thế rồi, dịch Covid-19 bùng phát lây lan, đặc biệt là kể từ
ngày lệnh giãn cách toàn tỉnh để ngăn ngừa, phòng chống dịch, cuộc sống của gia
đình tôi có nhiều thay đổi mà bắt đầu từ chính bữa ăn sáng.
Tôi thường dậy sớm uống trà và cà phê, không quên vo gạo cắm
nồi cơm điện. Khoảng thời gian này rất thú vị bỡi không gian yên vắng, tĩnh lặng,
hương hoa bưởi hoa cau ngan ngát trong sương sớm buổi chớm thu, nghe cả tiếng cựa
mình của cỏ cây hoa lá, tiếng rì rầm của loài giun dế trong đất xa xăm. Nghe hết
mấy bản độc tấu ghi ta về mùa thu cũng là lúc trời vừa tản sáng. Tiếng gà nhà
bên đang gáy, tiếng chim sắt, chim sâu ríu rít trong vườn nhà, tiếng gió Nam buổi
cuối mùa còn giận hờn vô cớ cứ rít lên từng hồi và rồi là tiếng loa phát thanh
thường ngày mỗi buổi sớm mai!
Ký ức về những bữa ăn sáng khi còn nhỏ lại ùa về trong tâm
trí tôi. Hồi đó, ở miền quê nông thôn còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, xa chợ,
có khi cả tuần hoặc mươi ngày mới đi được bữa chợ. Thức ăn là bầu bí rau dưa
quanh vườn nhà, bọn trẻ chúng tôi rủ nhau đi bắt cua đồng về nấu canh với măng
tre hoặc đu đủ. Riêng bữa ăn sáng là nấu cơm chứ không bao giờ mua đồ ăn bán sẵn
như bây giờ, phần vì phải tiết kiệm, phần nữa là chẳng ai bán, ai mua như ở phố.
Nhà nào cũng dậy sớm để nấu cơm cho kịp đi làm đồng, trẻ con thì đi học. Cha mẹ
tôi thường dậy sớm, bà nấu cơm, ông uống trà vừa tranh thủ mài lại cái rựa cho
bén, cột lại đôi chàng, đôi gióng cho chắc chắn hơn, chờ sáng! Cơm sáng thường
độn ghé sắn, khoai lang hoặc bắp. Thức ăn là cái trứng gà hấp cơm đem dằm mắm,
có khi ăn với đường đen hoặc chuối chín chan nước mắm… Rồi năm tháng cứ thế
trôi qua, những đứa trẻ chúng tôi khôn lớn, xa nhà, lập nghiệp mưu sinh nhưng ở
nơi quê nhà ấy, cha mẹ già vẫn giữ bữa cơm sáng không hề thay đổi! Con cái biếu
được ít tiền, ông bà vẫn chắt chiu dành dụm, chẳng dám mua ăn. Âu đó cũng là bản
tính của những người nông dân chân lấm tay bùn, tảo tần vất vả, cả đời mưa nắng
thầm lặng vì con.
Trong những ngày dịch giã lúc này, mọi người đều thực hiện
nghiêm những yêu cầu về phòng chống dịch, ngay cả đi chợ cũng phải có phiếu. Điều
này không mấy xa lạ với thế hệ 7X như tôi khi đã từng cầm Sổ mua hàng ra Cửa
hàng mua bán của Xã trước đây, nhưng rất ngạc nhiên với bọn trẻ như con tôi bây
giờ. Đây cũng là cơ hội để các con hiểu thêm về cuộc sống của cha ông ngày trước
và học cách thích ứng trong điều kiện khó khăn tạm thời.
Cả nhà quây quần bên mâm cơm đạm bạc, thời gian như dài ra vì
đang giãn cách, lại được nghỉ hè nên chẳng có việc gì vội vàng. Cuộc sống như
chậm lại để chúng ta nhận ra nhiều điều quý giá ở xung quanh. Lúc này, dù có
rau dưa cũng đã là quý rồi! Tự động viên mình trong mùa dịch, nếu không giúp được
tiền được gạo, cũng chẳng thể xung phong ra nơi tuyến đầu như bao lực lượng
khác thì thôi hãy ở yên tại nhà, chấp hành tốt những yêu cầu khuyến cáo cũng là
góp sức để nhẹ vơi cho bao người đang nặng nề trách nhiệm vì dân vì nước vậy! Với
riêng tôi, bữa cơm sáng lúc này thật quý giá, nó như nhắc nhớ mình một thời xưa
cũ đã qua, khơi gợi cho con tôi hiểu thêm về những tháng ngày cơ cực để biết
yêu hơn cuộc sống này. Tôi luôn biết ơn những khó khăn vất vả của tuổi thơ đã
nâng đỡ mình đi qua năm dài tháng rộng!
Suốt cả tháng nay, gia đình tôi đều nấu cơm ăn sáng. Bữa cơm
sáng tự nấu tại nhà đã phả vào hồn tôi làn hơi ấm thơm nồng của mùi cơm mới,
mùi của rau dưa muối mắm quê nhà và kể cả mùi vị của gia đình trong những ngày
giãn cách…
Tôi chợt nhớ đến hình ảnh người bà và bếp lửa trong thơ của Bằng
Việt:
“Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa”
Những hình ảnh gần gũi, bình dị, thân thương và thiêng liêng ấy
cứ chợt ùa về trong tâm trí tôi và đôi lúc cũng chạnh lòng thông cảm khi nhiều
em học sinh bảo rằng chưa biết đến bếp lửa nấu bằng củi, bằng rơm đầy khói!
Cũng chính trong lúc này, tôi cảm nhận được hơi ấm đang tỏa
lan từ những “Nhóm bếp yêu thương” ở Đồng Xuân và khắp nơi trong tỉnh Phú Yên
đang sớm chiều đỏ lửa, đang thắp lên niềm tin tưởng đầy yêu thương, nhân ái
trong những lúc khó khăn rất cần đến sự sẻ chia này. Dù cho dịch bệnh đang
hoành hành, nguy hiểm nhưng chúng ta đang rất quyết tâm, những nỗ lực không ngừng
của các cấp, các ngành, của đồng bào cả nước cùng chung sức, chung lòng, chung
tay chống dịch, chắc chắn dịch bệnh Covid-19 sẽ bị đẩy lùi, cuộc sống sẽ an
vui, rộn ràng trở lại.
4/9/2021
Phan Huy Thùy
Theo https://vanhocsaigon.com/
Hương lúa và nét đẹp cao quý
Hương lúa và nét đẹp cao quý
Cánh đồng đã ngả hẳn vàng ươm nhờ sự hòa quyện của màu hoàng
hôn và màu lúa chín. Chiều trên đồng quê biết bao âm thanh nhưng ngỡ như bình
yên đến lạ.
Những ngày này là thời điểm đang vào mùa gặt lúa. Mặt trời sắp
sửa gác lưng núi nhưng cái nóng vẫn cứ hiện hữu, lũ chuồn chuồn từng đám bay lượn
khắp nơi, chiếc xe bò đã đầy lúa trên thửa ruộng mới gặt, đang chuẩn bị kéo về
nhà để tiếp tục công đoạn tuốt lúa. Rồi những ụn khói là là bốc lên từ một nhà
nào đó đang đốt mấy cọng rơm rơi vãi sau khi chiếc máy tuốt lúa đã làm xong nhiệm
vụ và đi khỏi… Cảnh vật, con người cứ thế thực hiện những công việc của mình,
chẳng biết đằng sau đó hiện hữu một ánh mắt khẽ nhìn.
Nào ai biết, để có được bát cơm trắng tinh, thơm mùi lúa mới,
những người trồng lúa đã phải trải qua bao nhiêu giai đoạn kì công. “Nhất nước,
nhì phân, tam cần, tứ giống”. Từ khâu chọn giống, ngâm giống, cày, bừa…, đến
ngày gặt hái, mỗi khâu đều đòi hỏi kĩ thuật riêng và hơn hết là tấm lòng cùng với
những niềm hy vọng lớn lao về năng suất mà người dân đã gửi trọn vào đó. Nhà
thơ Trần Đăng Khoa từng viết:
“… Lúa trĩu hạt bao nhiêu công sức
Của mẹ cha thao thức bao ngày
Cấy cày vất vả mê say
Thức khuya, dậy sớm lòng đầy niềm vui…”
Mặc khó khăn vất vả, mặc dãi nắng dầm sương, chỉ cần những
mong mỏi cây lúa nặng bông, trĩu hạt được đền đáp là bao nhọc nhằn dường như
tan biến. Tôi có thể nhìn rõ từng giọt mồ hôi rơi trên má của những người mẹ
đang bó lúa, có thể thấm nổi cái nóng chuyển mùa đè trên vai những người cha
đánh từng chiếc xe bò kéo lúa về nhà… Dẫu mệt nhưng tất cả đều nở những nụ cười,
đều trao cho nhau những lời hỏi han về “sản phẩm mới”: “Lúa vụ này đạt hông?”,
“Hơn vụ trước chứ?” hay đơn giản là những câu nói đùa: “Lúa về rồi, tối nay yên
giấc!”. Yên giấc là bởi, mỗi khi lúa được cắt xong, trong thời gian phơi khô –
có thể là nửa hoặc một ngày, người ta phải trông trời, sợ mưa xuống sẽ làm rụng
những hạt lúa, ảnh hưởng đến năng suất vụ mùa hoặc lúa bị ướt dễ khiến rạ sau
khi tuốt sẽ chẳng được khô, mất thêm mấy ngày nữa để “hong” trong nắng…
Ngày trước khi máy móc còn thiếu thốn, người ta phải gặt tay
rồi dùng chân để tuốt lúa tốn thời gian và công sức hơn nhiều. Nhưng nay, khi
mà công nghiệp đang từng ngày phát triển, bao nhiêu máy móc ra đời, trong đó có
máy cắt lúa và máy tuốt lúa, những nơi có điều kiện hơn người ta còn mua cả máy
gặt đập liên hợp thì sức lực của những “Nhà” làm lúa đã được đỡ đần phần nào.
Lúa gặt xong, phơi khô sẽ được đổ vào phi, nhiều nhà còn sử dụng
bồ đựng lúa làm từ những thanh lạc mò o chẻ vuốt tỉ mỉ. Những hạt lúa căng mọng,
mang vị quê hương, mang nắng sương dãi dầu sẽ được “xay, giã, dần, sàng” để trở
thành hạt gạo tinh khôi, đưa mùi hương gạo mới phảng phất, làm ấm bao bữa cơm
gia đình.
Giữa khung cảnh đang hiện ra lòng tôi như chần chừ, chẳng muốn
rời xa ánh hoàng hôn mang màu bình yên này một giây một phút. Nhìn những cây
lúa trĩu hạt, căng mọng trên mấy thửa ruộng sắp sửa đến ngày ngã lúa, tự dưng
tôi chợt nhớ đến mấy lời trong ca khúc Hát về cây lúa hôm nay của cố
nhạc sĩ Hoàng Vân:“Tôi hát bài ca ngợi ca cây lúa/ Và người trồng lúa cho quê
hương/ Quê hương ơi, có gì đẹp hơn thế/ Đồng lúa hẹn hò những mùa gặt/ Tình yêu
bắt đầu từ đôi mắt/ Ngày mai bắt đầu từ hôm nay”.
Cây lúa là người bạn trung thành cùng người nông dân đi qua
bao thời kì, nuôi lớn bao lớp thế hệ, từ lâu đã mang trên mình nền văn minh
không chỉ của dân tộc Việt Nam mà rộng khắp các dân tộc Đông Nam Á và hơn hết
loài cây ấy như ẩn chứa bao nét đẹp cao quý của những con người lao động chân
chính.
4/9/2021
Lê Trương Thúy Diễm
Theo https://vanhocsaigon.com/
Tản văn của Bích Hòa: Dì tôi
Tản văn của Bích Hòa: Dì tôi
Dì đến như một mối duyên không dễ gì lìa dứt, chợt nghĩ thầm
chân lí để trấn an: Đời người chẳng mấy ai hoàn hảo, mất đi cái nọ ta lại được
bù đắp bởi cái kia! Tôi thấy nhẹ lòng khi chính mình đã xua tan định kiến xã hội
khắc nghiệt trong câu ca dân gian bao đời ám ảnh: “Mấy đời bánh đúc có xương –
Mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng”…
Ngậm những vui buồn cuộc sống, Dì như khách lữ hành khao khát
tìm chốn dừng chân sau bao bôn ba mệt mỏi. Nhân quả tiền kiếp hay duyên nợ bình
sinh đẩy đưa Dì đến với gia đình tôi vào một ngày đầu thu se lạnh? Chúng tôi
trao nhau những ánh nhìn thân thiện, thấu hiểu phận đời cùng sánh bước đến
tương lai.
Tháng Mười năm ấy, gió vẫn thổi, tiết Đông không ngừng thả những
cơn rét rú từng hồi trên con đường miền Tây xứ Nghệ quê tôi. Cây xoan đào trong
khí trời buốt giá trơ những cành khẳng khiu khô trụi gồng mình chống chọi với
cái rét căm căm, mầm non trú mình đợi xuân sang đâm chồi, thức giấc. Vậy mà,
lòng tôi tưởng như hồi sinh sau hơn ba năm ủ ê thay bố. Cứ mỗi chiều thứ bảy cuối
tuần, chặng đường về ngoại của tôi trở nên ngắn lại… Có nhiều đêm bố vẫn làm
thơ, viết những dòng tâm sự vào cuốn sổ mà bố giữ gìn từ thời xa cũ nhưng thay
vì bao nỗi niềm nhớ nhung khắc khoải là những hạnh phúc nhỏ nhoi mà đong đầy lấp
lánh. Manh áo mỏng cũng đủ sưởi nóng trái tim băng giá bởi tình người ấm áp
thân thương. Thật lâu rồi tôi mới nhìn thấy nụ cười mãn nguyện của bố kể từ
ngày Mẹ xa.
Những ngày cuối tháng chạp, ai nấy xúng xính trong bộ cánh
tinh tươm còn thơm mùi mới. Những gốc đào trước ngõ như đậm sắc phất phơ nở niềm
vui lên từng cánh mỏng, trong làn gió khẽ đung đưa chúng được dịp khoe sáu cánh
mừng gia đình đón tin vui. Những hàng mít, nhãn sau hồi rợp tán xum xuê, hương
hoa bưởi ngạt ngào trước sân tỏa một vùng quyến rũ. Bố bảo: có vài trái lứa trước
sót lại còn đẹp lắm, để dành bày mâm ngũ quả cúng tổ tiên và Mẹ. Sân vườn ngày
trước rộng thênh thang giờ cảm như thu hẹp tầm mắt, chim chóc dạo khúc hoan ca
hòa chung niềm vui đón Xuân về trên những lô cà phê bạt ngàn tầm ngắm.
Thời gian thấm thoắt thoi đưa, bao chứng tích thuở hàn vi ở
ngôi nhà cũ cũng dần ngủ yên trong dĩ vãng theo những cuộc bể dâu đời người. Mặc
cho hơi ấm thâm tình giữa Mẹ và chị em tôi không thể nào so sánh được nhưng khoảng
cách con chồng Mẹ kế giữa Dì đối với chúng tôi dường như không ai người ngoài dễ
thể nhận ra. Cuộc sống gia đình tôi cũng như bao gia đình khác không thiếu những
cung bậc thăng trầm khi bố ngày càng có tuổi. Người ta thường bảo “Một lần già
là hai lần con nít” điều đó phần nào đúng với bản tính vốn đã bị hậu quả của
chiến tranh làm tổn thương bố từ trước khi Dì về. Cũng như mẹ ngày xưa, khi nỗi
đau của chiến tranh trở về hành hạ tâm tư bố khiến nhiều lúc Dì phải cắn răng
ngậm bồ hòn làm ngọt. Có hôm, quá sức chịu đựng Dì cầu cứu đến tôi. Tôi thương
bố bao nhiêu lại xót xa cho Dì bấy nhiêu! Là đứa con có cơ hội gần bố nhiều,
hơn ai hết tôi hiểu lắm những điểm tốt hay tồn tại trong con người bố. Tôi nhỏ
to non nỉ với bố đủ điều chỉ mong bố bớt suy tư không cần thiết mà vui với tuổi
già để giữ gìn sức khỏe bản thân. Tôi cố lấy tình thương, sự cảm thông sâu sắc
của thân phận người phụ nữ để giãi bày níu kéo, để Dì buông bỏ ý nghĩ rời đi
ngôi nhà dù gì cũng gắn bó buồn vui một thuở.
Nể tình tôi, Dì cố nén những tủi hờn, oan ức tiếp tục cuộc
mưu sinh bên những buồn vui héo hắt. Tôi thường tranh thủ những khi rảnh rỗi
lui tới nhiều hơn để nhỏ to cùng Dì, chăm sóc Dì bằng cái tâm chân tình nhất.
Ngược lại, khi chị em tôi cần, Dì cũng không nề hà, toan tính để thay mẹ đỡ đần
chúng tôi. Thực tâm tôi hiểu, hơn 10 năm chung sống cùng bố Dì cũng thấm đủ
sương gió cuộc đời. Tôi thương những thiệt thòi thân phận mà Dì phải gánh,
trong bóng dáng của Dì có bóng dáng Mẹ xưa nên mỗi lần có thức ngon tôi không
quên để dành cho những chuyến về ngoại.
Đời người lắm nỗi truân chuyên, niềm hạnh phúc ngắn ngủi chẳng
tày gang. Một ngày đầu tháng Ba năm ấy, đột ngột bố thấy trong người khó ở, và
chúng tôi bất ngờ nghe tin bố mắc bệnh hiểm nghèo giai đoạn cuối. Bỏ hết những
ruộng vườn, ao cá, Dì cùng chị em tôi thay nhau chăm bố được hơn hai tháng thì
bố đi.
Những chiều hoàng hôn mây bảng lảng buồn, ánh mắt hốt hoảng của
một kiếp phù du chợt trào lên nghẹn ngào trong câu nói. Dì than thở: rồi đây cuộc
sống sẽ ra sao? Còn ai mà bấu víu, đứa trẻ dại khờ biết dựa dẫm vào đâu? Ngôi
nhà trở nên lạnh lẽo đến tê lòng, đồng không mông quạnh chỉ có hai cái bóng lẻ
loi ra vào hôm tối. Dì buồn não nuột, tôi biết Dì nén đau thương tủi phận đời
mình. Tôi cảm nỗi niềm trăn trở của Dì khi nghĩ đến tương lai. Tôi thủ thỉ: Dì ạ,
Dì mát tay thả gà, nuôi cá, rau trong vườn tứ mùa tốt xanh, không ăn lương nhà
nước mình cũng có cớ sinh nhai. Còn cậu em, học hành khó khăn vợ chồng con sẽ sẻ
chia trách nhiệm. Dì hãy thanh thản tâm tình, sống vui sống khỏe con cái đỡ sầu
lo. Thực lòng tôi chỉ mong có vậy. Họ hàng Dì đều xa xứ cả, chỉ mỗi đứa con
chung – thằng em 10 tuổi và tôi là người thân cận nhất. Không thương mẹ con Dì
thì còn ai trên mảnh đất lớn lên từ thời thơ ấu? Mỗi bận thấy Dì đau mà lòng đầy
lo lắng, tôi sợ Dì vì cô đơn quá mà bỏ chị em tôi. Hằng tuần, tôi thu xếp thời
gian cho các cháu được về ngoại nhiều hơn, tiếng nói cười con trẻ xua đi bao trống
vắng, nỗi niềm. Có những đêm mùa đông, cả mấy mẹ con, bà cháu xếp chung một giường
nằm trong ấm cúng, chúng tôi hàn huyên chuyện trên trời dưới biển hòng mong Dì
quên nỗi đau thương. Có không ít những ánh mắt ngạc nhiên khi thấy cảnh mẹ ghẻ
con chồng diễn ra trong gia đình nhỏ. Dần dà, Dì quen hơn với sinh hoạt vắng bố,
hòa nhập với bạn bè, nhặt tìm niềm vui trong tình làng nghĩa xóm…
Kể từ đó, Dì trở nên khác, nghĩ lành mạnh, sống giản đơn và nụ
cười lan trên ánh mắt. Cảm ơn đời, cảm ơn Mẹ kế của chúng tôi! Mong gửi đến Dì
lời cầu an trong mọi hoàn cảnh. Hạnh phúc của chúng con là được nhìn thấy Dì
vui, khỏe hằng chiều mỗi bước con lên. Hai bên bờ ngõ nhỏ, những bông hoa cúc
cánh bướm đua nhau khoe sắc, những nụ mười giờ tim tím hé cười trong nắng đón
thu sang. Đàn ong của bố trước đây sợ chủ đi xa mà rời tổ ấm, nay có người chăm
chỉ ngắm trông đã gây đàn trở lại, tôi vui trào nước mắt. Buổi nhá nhem tôi
tranh thủ đưa cho em ít quà như thường lệ, Dì lại nhanh nhảu dúi vào tay tôi
chai mật ong vàng ruộm còn thơm mùi nhụy ngọt vấn vương…
Tự đáy lòng tôi thầm biết ơn cuộc đời đã không đối xử bất
công với chị em tôi. Nỗi thương cha nhớ mẹ không bao giờ vơi cạn nhưng niềm hạnh
phúc vô bờ còn nguyên nỗi rưng rưng mà không phải ai trong hoàn cảnh chúng tôi
cũng đều may mắn. Dì đến như một mối duyên không dễ gì lìa dứt, chợt nghĩ thầm
chân lí để trấn an: Đời người chẳng mấy ai hoàn hảo, mất đi cái nọ ta lại được
bù đắp bởi cái kia! Tôi thấy nhẹ lòng khi chính mình đã xua tan định kiến xã hội
khắc nghiệt trong câu ca dân gian bao đời ám ảnh: “Mấy đời bánh đúc có xương –
Mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng” (Ca dao). Cuộc sống đã đi vào trang văn một
cách ngẫu nhiên nhưng đôi khi những trang thơ không phải lúc nào cũng hoàn toàn
là thực tế. Những mong xã hội này ai cũng lấy yêu thương để đối xử với cuộc đời,
với mọi kiếp người và hạnh phúc sẽ mỉm cười sau bất cứ một nỗi đau.
12/8/2021
Bích Hòa
Theo https://vanhocsaigon.com/
Sài Gòn vẫn cuộn chảy
Sài Gòn vẫn cuộn chảy
Sài Gòn - TP.HCM đang trải qua thời đoạn đặc biệt trong lịch
sử: cơn đại dịch COVID-19 tràn qua từng khu phố, con hẻm, phủ nỗi lo âu lên mỗi
mái nhà…
Nhưng cũng trong tình cảnh chẳng đặng đừng ấy, Sài Gòn đang gửi
ra thông điệp về cái đẹp của nhân văn nơi tuyến đầu chống dịch với cộng đồng gần
xa.
Trong khi các cơ quan chức năng đang tính toán các kịch bản gần
xa và nhiều giải pháp ứng phó, người Sài Gòn cảm nhận một không khí đặc biệt
đang ập xuống, ngấm vào mọi góc cạnh của đời sống chính mình.
Và không ai bảo ai, người dân nơi đây có cách ứng xử của nơi
tuyến đầu dịch bệnh, ngoạn mục nhất trong lĩnh vực truyền thông.
Hàng loạt trang (page) trên mạng xã hội được mở ra theo cấu
trúc tên gọi: “Tôi là dân”… mỗi quận/ huyện, để cập nhật nhanh nhất tình hình dịch
bệnh ngay tại địa phương. Tôi là dân quận 3, Tôi là dân quận 5, Tôi là dân quận
10, rồi Thủ Đức, quận 11, Gò Vấp, Phú Nhuận…
Không cần biết ai làm admin của những trang này, nhưng đều cảm
nhận được tấm lòng của những người tham gia cập nhật thông tin trên từng khoảng
trống của mạng xã hội như vậy.
Có thể xem đây như một hệ thống thông tin bán chuyên nghiệp tồn
tại song song với các báo chính thức, rất hiệu quả trong việc giúp người dân cập
nhật thông tin về diễn biến dịch bệnh tại mỗi quận, huyện chi tiết đến từng khu
phố, địa chỉ cụ thể nào “bị giăng dây”.
Sài Gòn không thiếu những đại gia, nhưng cũng nhiều nhất nước
số lượng những người bình dân tay làm hàm nhai, kiếm sống từng ngày.
Đại dịch COVID đến với từng người buôn thúng bán bưng, ngấn
nước mắt nơi người bán cá ở rìa chợ Phước Kiển (Nhà Bè) kèm câu nói “ngày mai
chị phải nghỉ bán rồi, nghỉ vậy là nhà chị đói” làm nhói lòng không ít người
dân. Chính vì vậy mà như một sự đáp lời trong lặng lẽ, nhiều người đã tìm cách
góp chút sức mình giúp đỡ cộng đồng.
Chính tinh thần ấy trong thời đoạn lịch sử này, cộng hưởng
thành chất men độc đáo gắn kết người Sài Gòn lại với nhau. Người ta thấy những
chiếc “tủ lạnh Thạch Sanh” đặt tại 10 quận đang là trọng điểm dịch.
Thành phố liên tục xuất hiện những “phiên chợ 0 đồng”, rồi
đây từ điển tiếng Việt sẽ cập nhật loại hình chợ này cho kịp với thực tế đời sống.
Nhưng rõ ràng từ Hội chữ thập đỏ, từ cơ quan hỗ trợ người
nghèo, cho đến các đơn vị cấp phường, khu phố cũng chung tay mở “phiên chợ 0 đồng”
như một cách giúp người dân trong các khu phong tỏa để không bị thiếu thức ăn,
là một việc làm có sức cộng hưởng kép: cộng hưởng giữa những người chung tay
hình thành “ban tổ chức”, và cộng hưởng mô hình này lan ra khắp thành phố.
Một sớm mở mắt ra thấy khu phố bên cạnh bị giăng dây, ngôi chợ
quen thuộc thường ngày đóng cửa với vòng trong vòng ngoài dây giăng lớp lớp, một
cán bộ về hưu “tức cảnh”: “từ bên em dây giăng sang bên anh…”…
Đó cũng là một phần của phương diện lạc quan đặc chất Sài
Gòn. Có sống trong tình cảnh khắp nơi giãn cách, ngã tư góc đường không còn
quán cóc, mới thấy Sài Gòn có những chiều kích độc đáo.
Một ông cán bộ khu phố thường ngày có thể mặt nặng mày nhẹ,
nay bỗng trở nên nhiệt tình đi vận động các chủ nhà trọ giảm bớt tiền thuê
phòng cho công nhân bởi hầu hết đang ngưng việc.
Những người sống trong chung cư EHome 3 ở Bình Tân có thể lâu
nay chẳng đoái hoài gì đến các căn hộ láng giềng, nhưng trong những ngày cao điểm
chung cư bị phong tỏa toàn bộ, đã tự nguyện hình thành những đội vận chuyển tiếp
nhận hàng hóa giúp bà con ở cùng mỗi block nhà.
Rồi mới đây, cô bạn ở quận 3 nghĩ ra sáng kiến mua rau ủng hộ
người bán lẻ bằng cách từ nhà soạn sẵn một “toa” các loại rau cần mua, cầm tờ
giấy đến ném vào nhà người bán rau, người kia soạn rau xong đem ra treo trước cửa
để khách cầm về.
“Làm vậy vẫn sợ bị phạt mười mấy triệu vì đang có lệnh cấm
không cho buôn bán tụ tập”, cô khách hàng tốt bụng phân trần.
Anh bạn bác sĩ lập gia đình muộn, vừa mới có em bé đầu lòng
thì bước vào “năm COVID thứ nhất”, rồi từ đó đến nay anh liên tục vắng nhà bởi
anh thuộc đội ngũ nằm trong tâm điểm của cộng đồng y bác sĩ chống dịch. Việc
nhà đành gác lại, lâu lâu “trồi lên” mạng xã hội báo tin cho bạn bè hay mình vẫn
còn đây…
Những chuyển động lặng thầm mà mạnh mẽ, không khoa trương
nhưng thuyết phục lòng người, đang cuộn chảy trong đời sống thành phố này.
7/9/2021
Lam Điền
Nguồn: Báo Tuổi Trẻ
Theo https://vanhocsaigon.com/
Dưới bóng xà nu
Dưới bóng xà nu
Nhiều người đã nghe về làng Xô Man, về cụ Mết trong truyện ngắn Rừng
xà nu của Nguyễn Trung Thành (bút danh khác của nhà văn Nguyên Ngọc). Về
Đakgley thuộc Kon Tum mới biết Xô Man – một ngôi làng nằm dưới những tán rừng
xà nu bạt ngàn – vẫn còn cất giữ vô số kỷ vật và huyền thoại về cụ Mết.
Theo ông Đinh Như Rươn (A Rươn), con trai cả của cụ Mết, từ
thị trấn Đakgley chúng tôi tìm về Xô Man trên con đường đèo khúc khuỷu dài hơn
30km. Nghe có người tìm về Xô Man, dòng cảm xúc trong nhà văn Nguyên Ngọc lại
dâng tràn. Chốc chốc ông lại gọi điện cho A Rươn dặn dò: “Phải dẫn nhà báo vào
được thung lũng Mường Hoong, ôm cho được những gốc xà nu (thông ba lá) hai ba
vòng tay rồi mới nghe lũ làng kể chuyện về cụ Mết, về làng Xô Man ngày nào”.
Dòng máu anh hùng
Những người con làng Xô Man ngày nào, bây giờ có tên hành
chính là làng Xốp Nghét và Xốp Dùi thuộc xã Xốp, huyện Đakgley, vẫn quây quần
trong những mái nhà bao bọc bởi con suối Nước Dùi, dưới những triền núi mờ
sương cao vút xà nu. A Rươn nói người Giẻ Triêng ngày trước vốn du canh du cư
nên dời làng liên tục. Trong ngôi nhà sàn trên triền núi cao nhất làng, già A Cố
năm nay đã gần 90 tuổi, là người bạn chiến đấu với cụ Mết cuối cùng còn sống.
Già A Cố nói ông rất chịu cái ông Nguyên Ngọc vì đã tả rất đúng về Xô Man khi
nói “làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc”, bởi Xô Man nằm giữa các đồn Đăk
Glei, Tô Năng Mô Bành và Kon Riêng. Đất cũ của Xô Man giờ đã lẩn khuất đâu đó
trên triền núi Ngọc Linh, không ai tìm được. Nhưng ký ức, kỷ vật và cả những
huyền thoại về Xô Man, về cụ Mết thì con cháu vẫn mang theo.
Già A Cố kể người Giẻ Triêng là một trong những tộc người
ngoan cường nhất Tây Nguyên, giờ con cháu vẫn còn thói quen cất nhà trên triền
núi dựng, như khi xưa cha ông vẫn chọn để tránh thú dữ và giặc giã.
Với cụ Mết, năm 1943 đã chỉ huy 100 thanh niên khỏe mạnh lên
núi cao lập làng chiến đấu. Lịch sử Đảng bộ Kon Tum vẫn còn ghi tháng 4-1949
khi nghe tin A Mết rào làng kháng chiến, Pháp đưa quân bố ráp. Nhưng vừa đến đầu
làng đã dính bẫy chông, mười lính Pháp chết, bốn lính bị thương phải tháo chạy.
Cùng năm này, A Mết được ông Trần Kiên (khi ấy là tiểu đoàn
trưởng tiểu đoàn độc lập thuộc Bộ tư lệnh Quân khu V) kết nạp vào Đảng và giao
làm huyện đội trưởng Đakgley. Trong những năm 1953-1954, thực dân Pháp đã hơn
20 lần đưa quân bố ráp Xốp Nghét, Xốp Dùi và các làng lân cận, nhưng A Mết cùng
các đảng viên người Giẻ Triêng đã chỉ huy dân làng đánh trả ngoan cường. Khiếp
sợ trước sự dũng mãnh và mưu trí của A Mết, quân Pháp đã tìm cách mua chuộc ông
bằng cấp hàm thiếu tướng nếu ông ra hàng. Nhưng A Mết chỉ đáp trả bằng những trận
đánh chống càn chí mạng.
Đời binh nghiệp của A Mết tưởng ngưng lại năm 1954 khi ông được
Đảng và Bác Hồ đưa ra Bắc, dẫn theo vợ và con trai A Rươn. Nhưng nỗi nhớ Xô
Man, nhớ cánh rừng xà nu và dòng máu của một chiến binh Giẻ Triêng đã thôi thúc
ông trở về. Tạm gửi lại đứa con trai và mộ phần người vợ ở miền Bắc, A Mết trở
lại Đakgley năm 1959 và được giao làm bí thư huyện ủy H30 (tức Đakgley), trực
tiếp chỉ huy đánh Mỹ cho đến ngày đất nước thống nhất.
Giữ lại cho đời sau
Chuyện cụ Mết đánh Pháp, đánh Mỹ đã lâu lắm, chỉ còn những
người già nhất ở Đakgley nhớ. Nhưng một cụ Mết rắn rỏi, đời thường, hòa mình với
buôn làng những năm sau giải phóng thì rất nhiều người vẫn nhắc đến.
Nhà thơ Văn Công Hùng – người từng dẫn nhà văn Nguyên Ngọc
băng rừng đi tìm lại làng Xô Man hơn 30 năm trước – kể: “Nghề của cụ Mết những
năm sau giải phóng là xách xắc-cốt đi uống rượu khắp các buôn làng”. Nhận xét tếu
táo ấy được A Rươn nói không có gì là thất lễ. A Rươn kể từ sau ngày giải phóng
cho đến năm 1980, cụ Mết làm chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Đakgley.
Không biết chữ nên cụ chỉ vẽ được chữ Mết nguệch ngoạc hoặc lăn tay vào các giấy
tờ thật quan trọng. Thời gian còn lại cụ Mết cứ băng rừng đi từ thị trấn về khắp
các buôn làng ở Đakgley kể chuyện đánh Pháp, đánh Mỹ ngày xưa và căn dặn đồng
bào làm ăn, xây dựng nếp sống mới. Và dù đã trở thành một huyền thoại, một con
người của lịch sử, khí chất hào hoa rất riêng của một chiến binh Giẻ Triêng vẫn
vẹn nguyên trong cụ Mết. Năm 1985 ở tuổi 72, cụ Mết vẫn còn được một phụ nữ Giẻ
Triêng yêu mến, bắt làm chồng và sinh cho cụ người con trai út A Rơn.
Ngoài con trai cả A Rươn nguyên là phó giám đốc Trung tâm Y tế
huyện Đakgley đã về hưu và sống tại thị trấn, ở làng vẫn còn bốn người con của
cụ Mết là các anh A Phin, A Rơn, A Mét và chị Y Léo sinh sống, với một bầy cháu
chắt. Dù vẫn còn lam lũ nhưng những người con cụ Mết luôn tự hào và cất giữ những
kỷ vật của cha như những vật báu cho đời sau. Ở nhà anh A Phin vẫn còn giữ một
cây xà gạc, một chiếc rựa, một cây rìu và một cái cà lek (gùi đan bằng mây), đó
là những dụng cụ ngày xưa cụ Mết từng dùng để đi rừng. Nhưng quý giá nhất là
cây kiếm cán bọc đồng, có vỏ bọc bằng da rắn và da của nhiều loài thú rừng, do
chính cụ Mết mài nên đang được A Rươn cất giữ. Đây chính là cây kiếm cụ Mết từng
trực tiếp dùng làm vũ khí chống càn những năm đầu rào làng chống Pháp.
Những ngày này, ở làng cũ A Rươn vừa xây xong ngôi nhà mới
cho người em A Phin, năm trước nữa đã xây xong nhà cho cậu út A Rơn. Trong những
nhà mới ấy, A Rươn nói sẽ dành một góc nhà đẹp nhất để trưng bày những kỷ vật
quý báu mà cha mình để lại. “Đó là những gốc xà nu to nhất, quý giá nhất ở cánh
rừng Xô Man này mà bọn con cháu lớn lên phải ráng giữ lấy” – A Rươn nói về sự ấp
ủ của mình một cách tự hào.
Chuyện một đời, viết trong một đêm
Nhà văn Nguyên Ngọc nói ông biết cụ Mết cùng thời gian quen
biết anh Núp từ hồi chống Pháp. “Ở Đất nước đứng lên, trong hình tượng anh
Núp, kỳ thực đã có một phần ông Mết của tôi trong đó. Và tôi yên trí như thế là
tôi đã “dùng” hết ông Mết của tôi rồi. Tôi không hề ngờ rằng còn có một ngày
nào đó tôi còn trở lại với “cái vốn” ông Mết của tôi nữa” – nhà văn Nguyên Ngọc
kể về sự bất ngờ khi ông viết Rừng xà nu.
Rừng xà nu ra đời năm 1965 khi nhà văn Nguyên Ngọc cùng
nhiều cây bút khác được giao thực hiện tạp chí Văn Nghệ Quân Giải Phóng miền
Trung Trung bộ. Số tạp chí thứ hai Nguyên Ngọc được yêu cầu viết một truyện ngắn
nhưng ngồi suốt ba đêm liền mà ngòi bút vẫn tắc tị, cho đến khi bắt được mạch
văn về những cánh rừng xà nu, với câu khởi đầu “Làng ở trong tầm đại bác của đồn
giặc” thì mạch văn cứ thế theo ký ức tuôn chảy. “Tất cả, tôi không phải bịa
thêm gì cả, tôi thấy rõ hết. Với tôi, nó hoàn toàn có thật. Và ông cụ Mết của
tôi cũng tất yếu phải đến. Ông là cội nguồn, như lịch sử bao trùm. Nhưng không
che lấp sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự
giác hơn của các thế hệ sau” – nhà văn Nguyên Ngọc nói.
Cái đêm trong rừng khu V viết nên Rừng xà nu, nhà văn Nguyên
Ngọc kể đó là đêm dài như cả một đời: “Và Rừng xà nu là truyện của một đời được
kể trong một đêm”.
A Mết có tên thường gọi là A Mét hay Đinh Môn, sinh năm 1913.
Theo nhà văn Nguyên Ngọc, năm 1955 cùng với anh Núp, A Mết từng được xét tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhưng rồi việc phong tặng danh
hiệu cho A Mết đã phải ngưng lại khi có ý kiến ông là “già làng”, mà “già làng”
hồi ấy được coi là đồng nghĩa với “tầng lớp trên”, là giai cấp bóc lột…
A Mết mất năm 2000. 12 năm sau ngày ông mất, ngày 27-4-2012,
Chủ tịch nước đã ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân cho ông.
7/9/2021
Nguyễn Viễn Sự
Theo https://vanhocsaigon.com/
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyện tàu Titanic
Chuyện tàu Titanic Chúng ta, từ bao đời luôn đối mặt với những thảm họa. Chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh. Điều căn cốt của tinh thần Việ...
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgyMnOFYrPITy4B46JtkfJQ7zeKY58qgVM_elwZTavkepIFS6ihnWIOqaX7uBlURHai0UYP8VCHgohQ2bwU6dGHav7skH_cZWpoIqEcSFbZtUPr_-XrAuteh3AKV7s4qM_vGfPu4yaakfZ2SrQsy8XHeMPdU5sKDfC7FpeOsPShOJl_Hnta6-AZFA4AcDNY/w200-h107/Tuy-Hoa-Phu-Yen-.jpg)
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...