Bút pháp hiện thực nghiêm ngặt trong
Mùa hè giá buốt của Văn Lê
Văn Lê tên thật là Lê Chí Thụy, sinh ngày
2/3/1949, quê ở Gia Thanh, Gia Viễn, Ninh Bình. Ông nhập ngũ năm 1966, vào
chiến trường B2 năm 1967, về tạp chí Văn Nghệ Quân Giải Phóng năm 1974. Sau
1975, công tác ở tuần báo Văn Nghệ Giải Phóng rồi tuần báo Văn Nghệ, Hội
Nhà văn Việt Nam. Năm 1977, ông tái ngũ chiến đấu ở Mặt trận 479,
Campuchia, đến năm 1982 về công tác tại Hãng phim Giải Phóng cho tới năm
2010 nghỉ hưu. Ông đã được phong Nghệ sĩ ưu tú của ngành điện ảnh. Cho đến
nay, Văn Lê đã có 12 tiểu thuyết, 5 tập truyện, hai trường ca, 3 tập thơ.
Ông từng nhận tặng thưởng Văn học Bộ Quốc phòng với tiểu thuyết “Nếu anh
còn được sống” (được dịch sang tiếng Hàn Quốc), tập trường ca “Những cánh đồng
dưới lửa” (tập này nhận thêm giải Văn học quốc tế MeKong). Đặc biệt, tiểu
thuyết “Mùa hè giá buốt” nhận giải B Văn học chiến tranh, cùng giải nhất Giải
thưởng văn học nghệ thuật Tp.Hồ Chí Minh 5 năm. Nói về cuốn tiểu thuyết
này, nhà phê bình Ngô Thảo nhận xét: “Nếu viết về sự sòng phẳng trong chiến
tranh thì chưa có cuốn nào vượt qua “Mùa hè giá buốt” cả”.
Khi lên nhận giải, Văn Lê đã phát biểu, rằng:
Cho đến bây giờ, cho dù chiến tranh đã trôi qua hơn 40 năm, nhưng nhiều đêm
nằm nhớ lại những gì đã xảy ra, tôi vẫn còn nghe văng vẳng ở đâu đó tiếng
pháo bầy, tiếng bom rơi và tiếng rú của máy bay trực thăng xả đạn… khiến
tôi giật mình không sao ngủ được. Dường như đối với tôi, chiến tranh vẫn
chưa chấm dứt. Nó cứ lởn vởn ở đâu đó qua những câu chuyện, những bản tin
thời sự, qua những di ảnh, những tiếng chuông điện thoại ré lên vào đêm
khuya, như điềm báo tai ương, rồi giật mình, hoảng hốt. Nhiều khi tôi mơ thấy
bạn bè về. Họ đói khát, tả tơi, nhìn tôi với ánh mắt thật buồn, rồi lặng lẽ
bỏ đi, không nói. Không bao giờ nói. Thế rồi tôi lại viết. Viết để tự giải
tỏa những uẩn khúc ở ngay trong lòng mình. Viết để được nhớ quá khứ, nhớ về
họ, nhắc về họ. Viết cũng giúp cho tôi nhớ lại, chiêm nghiệm lại những gì
đã trải qua, để rồi tự điều chỉnh cuộc sống của mình sao cho lương thiện.
Có lẽ là người lính tham gia trực tiếp ở
chiến trường, ở những trận đánh dữ dội nhất, tàn khốc nhất, nên Văn Lê cũng
có phần nào giống Chu Lai, Bảo Ninh, tức là có “hội chứng hậu chiến”. Nếu Bảo
Ninh thể hiện chiến tranh là nỗi buồn, Chu Lai cũng lật lại chiến tranh bằng
cái nhìn quá khứ mất mát, đau đớn (Ăn mày dĩ vãng), thì Văn Lê nhớ lại mùa
hè tàn khốc ấy. Mùa hè của năm 1968. Không phải là mùa hè kỳ lạ, mùa hè đỏ
lửa mà là mùa hè giá buốt. Nó ám ảnh người đọc bởi cái tên có vẻ như một
nghịch lý này.
Tác phẩm viết về sự bạo tàn của chiến
tranh. Như Văn Lê từng nói: “Tôi viết về chiến tranh chứ không chỉ đơn thuần
viết về chiến thắng”. Chính ý thức về điều này, nên tác phẩm Mùa hè giá buốt
hấp dẫn bạn đọc hơn và nó đã thoát khỏi mô típ viết về chiến tranh đã quen
thuộc lâu nay. Tức là nó được viết bởi một bút pháp hiện thực nghiêm ngặt
nhất. Có gì tả nấy, không né tránh, không tô hồng. Bút pháp này ta từng thấy
ở Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Với Bảo Ninh, hiện thực nghiêm ngặt được
tái hiện gián tiếp qua kết cấu phân mảnh của quá khứ. Từng phân cảnh rùng rợn
của chiến trường được tái hiện qua dòng suy tưởng của nhà văn. Còn Mùa hè
giá buốt, Văn Lê đưa người đọc như tham dự trực tiếp từng trận đánh theo trật
tự thời gian tuyến tính.
Cốt truyện của Mùa hè giá buốt dường như
không mấy phức tạp, bởi cách viết của Văn Lê đi theo lộ trình của tiểu thuyết
truyền thống. Mùa hè giá buốt lấy chất liệu từ cuộc tổng tấn công và
nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 mà tác giả là người tham dự. Có thể tóm tắt
như sau: Tiểu đoàn Bến Nghé được dựng trên nguyên mẫu là tiểu đoàn 505.
Nhân vật chính là tiểu đoàn trưởng Nguyễn Sĩ Việt. Anh là người mưu trí, quả
cảm, có nhiều cách đánh sáng tạo. Anh được đề bạt lên chức Tham mưu phó
Phân khu. Trong chiến dịch Mậu Thân, vào mùa hè, tiểu đoàn Việt được lệnh
đánh vào thành Gia Định. Trong những ngày chiến đấu vô cùng ác liệt,
Việt đã yêu Bích Vân - chiến sĩ giao liên của đơn vị mình. Thế nhưng họ đã
không sống được đến ngày hòa bình. Việt và Vân hy sinh cùng với hơn bốn
trăm đồng chí của họ. Cốt truyện không có gì đặc biệt, nhưng hấp dẫn người
đọc vì nhiều chi tiết chiến trường nóng hổi mà Văn Lê đã đưa vào tác phẩm của
mình. “Người đọc dường như nhập hồn vào các nhân vật trong truyện, cùng cảm
nhận về sự hy sinh và thương xót đến tận cùng số phận con người” [3].
Bút pháp hiện thực nghiêm ngặt trước hết
thể hiện ở không gian chiến trường. Đó là không gian của một mùa hè bốn
mươi tám năm trước. Mùa hè của năm Mậu Thân 1968. “Đã gần nửa đêm, nhưng trời
vẫn còn nóng hầm hập; đến mức lá cây rừng cũng trở nên xác xơ, héo mềm…
Liên quân Mỹ – Sài Gòn, sau những đòn choáng váng, đã bắt đầu hồi tỉnh, tiến
hành phản kích khắp các mặt trận… Hàng đàn máy bay phóng pháo và máy bay trực
thăng lồng lộn trút bom đạn vào những dòng kênh, những đồng bưng hoang sơ…
lúc nào cũng rầm rầm bom đạn” [2,tr.18]. “Cây cỏ dường như biến khỏi mặt đất”
[2,tr.23]. “Vầng trăng héo hắt , ảm đạm và quái gở”. Trong không gian bom đạn,
thỉnh thoảng lại “có tới hàng ngàn con quạ từ trong đám lá tăm tối hoảng loạn
bay túa lên bầu trời” ; “bầy kỳ đà bỏ chạy rào rào, làm cho mùi hôi thối
bay lên đến ngạt thở” [2,tr.27]. Đã thế, bộ đội lại hành quân vào đúng mùa
mưa. “Mưa ở đây phóng túng và dai dẳng. Mưa đến thối đất, thối trời. Mưa
làm cho những con đường rừng trở nên lầy lội” [2,tr.29]. Dường như không
gian chiến trường luôn căng thẳng, sôi sục, đầy máu lửa và đầy chết chóc.
Hơn năm trăm trang sách, trang nào không gian cũng gợi sự dữ dội, đau đớn,
buồn thương. Vẫn là tiếng rít lọng óc của phi cơ oanh tạc, tiếng đạn bắn thẳng
đanh nhọn, rát bỏng, tiếng bộc phá khối đục trầm, tiếng rên la của thương
binh chen lẫn với tiếng hô xung trận đầy sát khí, với những bãi chiến trường
ngổn ngang tử thi và sạm đen khói súng. Cho đến những trang gần cuối
cùng của cuốn tiểu thuyết, người đọc vẫn thấy dường như chỉ có một kiểu
không gian ấy. “Sau khi chôn cất Bích Vân xong, tất cả ăn vội vàng mỗi
người một lưng cơm rồi túc tắc đưa thương binh lên đường. Trời đầy sao.
Nhưng gió thì vắng ngắt…Giữa những vì sao dày đặc trông giống như những lỗ
thủng bị đạn bắn, một bầy ngỗng trời chấp chới bay qua. Vừa bay, chúng vừa
cất tiếng gọi nhau. Tiếng kêu của loài ngỗng về đêm nghe buồn rười rượi”
[2,tr.564].
Tuy nhiên, bút pháp hiện thực nghiêm ngặt
chủ yếu nhất của cuốn tiểu thuyết thể hiện ở lối mô tả các trận đánh và
thương vong của bộ đội. Đó là một hiện thực luôn tồn tại cả mặt phải- trái,
tốt - xấu, ánh sáng - bóng tối và cả những điều bất ngờ. Nhà văn không che
giấu mặt khuất của hiện thực mà phơi bày trong một cái nhìn trân trọng và tỉnh
táo. Trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh viết: “Chiến tranh là cõi không
nhà, không cửa, lang thang khố khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn
ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất
của dòng giống con người” [2,tr.60]. Còn Chu Lai trong Ăn mày dĩ vãng thì
cho rằng: “Chiến tranh… Nó là cái gì nếu không phải là ngày nào cũng nhìn
thấy người chết, ngày nào cũng chôn người chết mà vẫn chưa đến lượt mình”
[2,tr.36]. Còn Văn Lê, ở chương cuối của Mùa hè giá buốt : “Hơn chín phần
mười quân số của tiểu đoàn đã ra đi. Toàn thể cán bộ Ban chỉ huy tiểu đoàn
không một ai sống sót” [2,tr.551]. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Sĩ Việt, một cán
bộ đầy triển vọng, một hình mẫu người lính lý tưởng, cùng cô người yêu Bích
Vân, vốn là một sinh viên Sài Gòn, đều lần lượt hy sinh.
Điều quan trọng trong cuốn tiểu thuyết là
Văn Lê không chỉ mô tả trực diện thương vong của bộ đội, mà tư duy viết về
chiến tranh của ông không bị sa vào lô gic chủ quan: Ta – Địch (ta cường
- địch nhược; ta dũng – địch hèn; ta thắng – địch thua) như cách nhìn
của một số tác phẩm viết về chiến tranh trước 1975. Bởi thế , Mùa hè giá buốt
đã chỉ ra nguyên nhân gây tổn thất, hy sinh cho bộ đội là những quyết định
duy ý chí của cấp trên. Đó là hợp đồng giữa tiểu đoàn chủ lực với lực lượng
nổi dậy tại chỗ không thực hiện được. Lực lượng của địch quá đông. Hỏa lực
của chúng quá mạnh. Công tác chuẩn bị xuồng cho bộ đội vượt sông của ta quá
sơ sài. Kẻ thù đã chủ động tấn công trước. Chúng sử dụng các loại phương tiện
hiện đại nhất, từ máy bay trực thăng, xe tăng, xe bọc thép, pháo hạng nặng,
và chúng sẵn sàng dùng bom xăng đốt trụi để thí quân… Cho nên sau những
ngày chiến đấu quyết liệt, hết sức quả cảm, liên tục tổ chức nhiều đợt tấn
công nhưng ta không chọc thủng được các tuyến phòng thủ của địch [2,tr.
168]. Số thương vong của tiểu đoàn nhiều gấp bội số thương vong của đối
phương. Nếu không kịp bổ sung quân số kịp thời, thương binh, tử sĩ không được
chuyển đi, tiểu đoàn sẽ không có khả năng tiếp tục đánh vào nội đô theo kế
hoạch [2,tr.169]. Tiểu đoàn được phép rút lui. Tư lệnh Mặt trận cay đắng
nói: đáng ra, tôi phải chúc các cậu chiến đấu thành công, nhưng bây
giờ, đành phải chúc các cậu rút lui thành công [2,tr. 170]. Đợt một của chiến
dịch kết thúc, tuy phá được căn cứ Phù Đổng, kẻ thù có lúc chết như ngã rạ,
chạy như vịt, nhưng Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Sĩ Việt vẫn vô cùng buồn bã…
anh đã mất hàng trăm cán bộ, chiến sĩ, rồi cuối cùng lại quay trở lại nơi
xuất phát ban đầu…
Đợt hai của cuộc Tổng tấn công Mậu Thân vẫn
với mục tiêu đánh vào Sài Gòn-Gia Định, nhằm thẳng vào lực lượng Mỹ, làm
chúng càng sa lầy hơn nữa về chính trị, ta sẽ giành thế thắng trong đàm
phán. Tiểu đoàn Bến Nghé được phân công cùng đánh chiếm Gia Định. Nhưng mọi
việc không suôn sẻ. Tân binh bổ sung không đến kịp, hướng hành quân bị cấp
trên thay đổi không biết lý do gì. Tiểu đoàn trưởng Việt cảm thấy một
điều gì đó bất ổn đã xảy ra từ phía cơ quan chỉ huy [2,tr. 369]. Hướng cơ động
bắt buộc mà bộ đội sẽ chuyển qua tiềm ẩn những rủi ro, nguy hiểm.
Trong khi
một cảm giác không an toàn đang xâm chiếm làm Việt chưa định thần
thì hàng trăm trái hỏa châu lớn nhỏ vun vút túa lên không trung rồi nở bung
giữa bầu trời hấp hối. Cả vùng ven sáng rực như ban ngày… Quân địch đã chốt
kín các cửa ngõ vào thành phố… hàng trăm khẩu pháo các loại của địch từ các
căn cứ dã chiến trải dài trên tuyến vòng cung phía bắc và tây bắc đồng loạt
trút đạn, tiếp theo là những tiếng nổ đùng đùng như sấm sét…Bầy trực thăng
chia làm nhiều tốp, nhiều hướng lao thẳng đến những mục tiêu đã được ấn định
trước, dồn dập trút đạn [2, tr. 373-374]. Tiểu đoàn bị bao vây tứ phía,
đành phải rút lui. Quân số, đạn dược còn lại ít. Phân khu cho phép tiểu
đoàn tự quyết định các vấn đề thuộc về tác chiến tùy theo hoàn cảnh. Thêm nữa,cơn
bão lửa của pháo binh, tiếp đến là bom xăng, bom hóa học… của đối phương
liên tục trút xuống đầu các chiến sĩ tiểu đoàn Bến Nghé. Sau mấy tháng chiến
đấu, tiểu đoàn Bến Nghé, từ khi xuất quân với bốn trăm tám chục cán bộ, chiến
sĩ, hiện chỉ còn gần tám chục tay súng [2, tr. 512]. Tuy vậy, bộ đội vẫn nhận
lệnh tấn công vào nội đô đợt hai. Và thế là một cuộc chiến không hề cân sức.
Tiểu đoàn Bến Nghé đánh một trận cuối cùng cực kỳ thảm khốc, Nguyễn Sĩ Việt
đã anh dũng hy sinh cùng hầu hết các cán bộ, chiến sĩ dũng cảm và rất có
kinh nghiệm chiến đấu của tiểu đoàn.
Như vậy, cuộc Tổng tấn công Mậu Thân là một
bản Đại hợp xướng bi tráng của những người lính mang khát vọng Độc lập, Tự
do cao cả của dân tộc. Mấy chục tiểu đoàn chính quy cùng với nhiều lực lượng
vũ trang phối hợp khác đã bước vào một trận đánh lớn chưa từng có trong lịch
sử đấu tranh cách mạng miền Nam, đã góp phần làm thay đổi cục diện chiến
tranh, buộc chính quyền Johnson phải hạn chế ném bom miền Bắc. Nhưng để đến
được điều đó, cái giá xương máu phải trả là hết sức to lớn, và không phải mặt
trận nào, hướng tiến công nào, thời điểm nào cũng trong ánh hào quang của
chiến thắng. Gần sáu trăm trang tiểu thuyết, với bản hợp xướng buồn là chủ
âm, Văn Lê đã thể hiện một cách cảm động sự bi hùng của những chiến
sĩ tiểu đoàn Bến Nghé. Trong đó âm thanh chết chóc của chiến tranh đã lan tỏa,
làm xáo trộn tâm hồn người đọc, buộc họ, những ai đã đọc, không thể còn được
yên ổn trước một thực tại đã trôi qua gần nửa thế kỷ.
Với bút pháp hiện thực nghiêm ngặt và tỉnh
táo, Mùa hè giá buốt đã làm cho người đọc xúc động sâu sắc về sự cao cả của
người lính trong một thế đối đầu không cân sức. Dù biết là hy sinh nhưng họ
đâu có quản ngại. Lương tâm và phẩm giá làm người đã hun đúc ở bộ đội ta phẩm
chất ngoan cường khi đối mặt với kẻ thù, với cái chết. Nhưng họ không phải
là công cụ vô ý thức của chiến tranh. Với vị trí của mình, những người lính
biết rõ trách nhiệm của họ: chấp hành triệt để mệnh lệnh, thực thi đầy đủ
nhiệm vụ, hoàn thành ở mức cao nhất trong hoàn cảnh của mình. Nhưng người
lính cũng hiểu những gì là ảo tưởng, là duy ý chí ở chính họ hoặc ở một cấp
nào đó một khi xuất hiện những niềm lạc quan không có cơ sở.
Chiến tranh đã qua rồi, nhưng nỗi đau còn
đọng lại. Những biến cố, những sự kiện được khảo sát lại với cái nhìn của
người trong cuộc. Điều đó luôn luôn có giá trị. Vì lịch sử là không thể
thay đổi, song bài học lịch sử lại rất có ích cho tương lai.
Lê Văn Định
Theo http://vannghedanang.org.vn/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét