Đêm trôi cùng sông Hương
Không biết phải chèo thuyền lên tận thượng
nguồn, hay là xuôi xuống vùng hạ lưu, hoặc là neo thuyền vào cái bến bờ nào đó
trên dòng sông Hương, để tôi nhìn ra, ngắm ra thế nào là “sông dài như kiếm…”
như người xưa từng khảm khắc thơ mình vào sông nước này! Tôi chẳng còn nhớ nỗi
mình đã từng bao lần xuôi ngược thuyền trên sông Hương, cái dòng sông mà dường
như khai sinh ra trên đất đai này là để thể hiện rõ niềm ưu tư của Huế qua thời
gian bằng chính sự trôi chảy của mình. Chỉ có điều, thường là lần nào tôi cũng
bị cám dỗ bởi những lối quen mòn nhẵn êm ru trên những chiếc thuyền máy, kiểu sức
dáng rồng dáng phượng, lấp lánh hoa đèn bềnh bồng trên sông, thi thoảng còn có
những đêm được no say bao làn điệu ca Huế. Nhưng lần này thì anh bạn văn nghệ
cùng tham gia cổ ngoạn Huế với tôi đưa ra cái sáng kiến khá liều lĩnh: “- Thuê
một con đò nhỏ rồi bọn mình tự chèo lấy ông ạ, cái cảm giác vừa đẩy nhịp mái
chèo vừa hò trên sông Hương ông đà trải qua lần nào chưa?” Quả là tôi chưa từng
như thế bao giờ. Chẳng hiểu được bao lần kinh nghiệm mà anh bạn tôi lại tiếp tục
rao giảng cái thú chèo thuyền trên sông đêm. “Nhất là giữa mùa trăng, chèo thuyền
trên sông Hương có khi còn như được lạc vào cả… cổ tích!”. Những“Trường Giang
như kiếm lập thanh thiên”, những “ Hương Giang nhất phiến nguyệt” (*).
Còn bao nhiêu bài thơ của các thi sĩ thiên tài đã từng qua đây, khắc trên dòng
nước huyền nhiệm này vĩnh hằng tiếng thơ vang hưởng giữa lòng Huế như một tuyên
ngôn của cái đẹp vẹn toàn!
Mặc dù đã thoả thuận với người chủ con đò xin
được tự lái con thuyền, nhưng đến khi tôi đứng vào phía lái, ông vẫn chưa yên
lòng “- Này, anh có chắc lái thuyền được không đấy hỉ?”. “-Bác cứ yên tâm,chúng
cháu đã từng lái thuyền máy cưỡi sóng biển Cửa Đại rồi vòng về Hội An, so với
biển bao la thì con sông cỏn con này có là gì ”. Cho dù có nghe tôi ba hoa ngất
trời về cái tài chèo lái con thuyền,nhưng để đảm bảo an toàn phòng những lúc bất
trắc, người chủ con đò vẫn một mực canh cánh ngồi cạnh bên tay lái. Từ đằng
mũi, bạn tôi ra vẻ vững chãi tay bơi, đã chống cây sào đẩy mạnh con thuyền rời
khỏi bến. Thú thật là tôi cũng chẳng giỏi giang gì cho lắm chuyện sông nước,
nhưng đã nhiều chuyến đi như thế này, kể ra thì sông có biển có, tập tành riết
rồi cũng đâm ra dạn dĩ. Thuyền chúng tôi đã ra giữa dòng. Trăng trên sông Hương
đúng là danh bất hư truyền, một thứ ánh sáng có khả năng cám dỗ mọi tâm hồn
thăng hoa bay bổng. Thi thoảng, vài chiếc thuyền máy chở khách du lịch lướt qua
thuyền chúng tôi, thả lại mênh mang tiếng đàn tranh và tiếng ca Huế mơ hồ tan
vào xa vắng. Nếu như bảo rằng, có một thế giới mà ở đó cả hiện thực và hoang đường
tưởng chừng như cứ xoắn vào nhau cám dỗ bước chân con người bước đi hoan lạc
qua những mê lộ, thì chèo thuyền rong chơi trên sông Hương dưới ánh trăng vằng
vặc như thế này, ta có thể tận hưởng những khoảnh khắc kỳ diêu từ thế giới ấy
ban phát.
Thuyền đã qua khỏi cầu Bạch Hổ, và chúng tôi
tiếp tục hướng về phía Kim Long. Ở vị trí bơi mũi, người bạn tôi có lẽ đang say
sưa cùng nhịp dầm một cách khoan thai và cũng rất điệu nghệ. Anh là một nhà
giáo mà tôi thường bảo :“đâu tự thời xưa còn sót lại”! Thời xưa không phải là
thời lãng mạn theo kiểu “Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá”. Được
thế thì chẳng có gì để nói, mà là thời xưa hết sức khuôn thước mẩu mực của một
vị thầy đứng trên bục giảng rất chi là nghiêm khắc. Vậy mà sông Hương Huế,
trăng Huế đã biến cái nhà giáo nghiêm khắc ấy thành một nghệ sĩ tự lúc nào. ”Hơ…ơ!
Chợ Đông Ba đem ra ngoài Vại. Cầu Tràng Tiền đúc lại xi moong. Hỡi người lỡ hội
chồng con. Vô đây gá nghĩa cho tròn ...bạn ơi!”. Vừa đưa từng nhịp dầm
bơi, cái con người “thời xưa” của tôi vừa cất giọng hò mấy câu ca Huế cũng rất
chi là…ngày xưa! Đúng sai nhường nào tôi không nhớ rõ, nhưng có lẽ những câu hò
ấy giờ đây cũng đã thưa thớt trên những đôi môi mọng đỏ của thời hiện đại bây
giờ. Dăm ba cuộc trình diễn thì kể mà gì. Bỗng dưng không hiểu nguồn cảm hứng từ
anh bạn của tôi truyền sang hay từ ánh sáng của trăng ban phát đã khiến tôi,
cho dù…dốt ca Huế cũng cố gân cổ lên mà “hò…ơ…sông Hương sóng dậy khuynh
thành. Nửa đêm một chiếc thuyền tình ngửa nghiêng”. Mà nào phải gì tôi và anh bạn
của mình không đâu, dưới thứ ánh sáng huyền hoặc vung vãi đầy sông kia, tưởng
chạm vào đâu nơi đấy cũng đều có khả năng trở thành mầu nhiệm! Chạm vào sông
trôi, mặt nước đầy ngọc khoáng nhấp nhô. Cham vào cây cỏ, cây cỏ xôn xao những
vọng ảnh. Chạm vào thành quách lặng im, một lặng im mà có sức lan tỏa vào con
người ngàn ngàn tiếng gọi câm. Đi thuyền trên sông Hương giữa một đêm trăng đẹp
mê hồn mà mọi cảm xúc chai lì không lên tiếng, họa chỉ có những hình nhân…rô bốt.
Ai nhìn sự vật vô hồn thì cứ ngụp lặn cùng sông này để kiểm chứng lại cái nhãn
quan xương thịt của mình. Cuộc đời đang từng ngày từng giờ tốc độ đến mức cái
gì cũng thành siêu: siêu nhảy nhót, siêu tốc, siêu nhanh, siêu…mì ăn liền. Còn
con sông thì cứ mặc, chảy lượn lờ đủng đa đủng đỉnh phớt lờ mọi thứ vội vã ấy.
Lúc còn sinh thời, không biết anh Thu Bồn đã bao lần “Bởi vì anh dắt em
lên ngôi đền cổ”, để rồi trái tim thi sĩ vạm vỡ và đa tình ấy, ngộ ra một
điều mà không phải “con mắt trần gian” nào cũng nhìn ra, thấy ra “Con sông
dùng dằng con sông không chảy. Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Thì
ra, con sông Hương ngày ngày chảy ra cửa biển Thuận An là con sông của địa lý,
còn con sông Hương “dùng dằng, không chảy”, hay nói cách khác hơn, là con
sông biết chảy vào tâm hồn con người, chảy vào và lưu lại ở đấy miên viễn một
tình yêu với Huế, dù cho thời gian dâu bể cũng khó lòng bồi lấp hoặc là tước đoạt
lấy đi mất. Cố nhiên là mỗi một tâm hồn sẽ nhận về cho mình một dòng chảy
riêng, một ký ức riêng.
Tôi lại chợt nhớ có một đêm đắm đuối cùng Huế
cách nay cũng đã gần hai mươi năm. Lần ấy, Huế chiêu đãi anh em đoàn chúng tôi
một bữa tiệc ca Huế đáng nhớ thủa nhớ đời! Giả dụ như đêm ấy, chúng tôi được
nghe ca Huế tại một hội trường hay một sân khấu nào đó, chứ không phải đi trên
thuyền rồng khơi vơi trôi cùng sông Hương thì nỗi nhớ buổi chia tay lần ấy có
thể đã vơi đi ít nhiều. Nhưng dòng sông mộng mơ của Huế luôn dự phần những đêm
như thế. Và đấy mới là vang hưởng, là “sóng dậy khuynh thành” chuyển
tải mọi lời ca tiếng hát kia sâu lắng giữa lòng người. Đã bao lần Festival Huế,
hội hè Huế mở ra, là bấy nhiêu lần nhan sắc dòng sông bất chấp cái quy luật khắc
nghiệt già cỗi sông cạn đá mòn của thời gian để mỗi ngày đẹp thêm ra, trẻ thêm
ra trong con mắt thưởng ngoạn của người muôn phương hội tụ về Huế. Lần ấy chúng
tôi đến Huế là ăn nhờ vào cái Giải thi truyện ngắn của tạp chí sông Hương, nhân
ngày Tổng kết giải. Sau buổi chiều dự tiệc chiêu đãi do Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa
Thiên Huế mời, nhà văn Nguyễn Quang Hà (lúc đó là Tổng biên tập Tạp chí Sông
Hương) thông báo với đoàn chúng tôi: “19giờ30 tối nay mời tất cả các anh chị
nghe ca Huế trên sông Hương”. Thú thật là, hình như vào lúc đó tất cả chúng tôi
đều có chút men nên chỉ nghe loáng thoáng cái địa điểm lên thuyền ở bến số 5
hay 15 gì đấy. Đến chiều tối chúng tôi kéo nhau ra bến sông ngồi chờ. Không thấy
thuyền rồng nào hết. 19giờ30 rồi 20giờ30, bến vẫn vắng hoe. Đến lúc đó nhà
nghiên cứu Đào Thái Tôn mới phấp phỏng hỏi như là hỏi…gió: “-Hay là chúng mình
đã đón sai điểm hẹn”. Nghe vậy ai cũng nhìn nhau và lầm thầm: “Có thể lắm, chứ
ai đời Huế sai hẹn, nhất là anh em văn nghệ ở khắp nơi kéo về Huế như thế này”.
Dò hỏi ra mới biết, cách chỗ bến chúng tôi đang đợi độ 500 mét còn một bến
khác. Vậy là tất cả quay lại đường Lê Lợi đi dọc lên, hân hoan như những người
yêu đi tìm…người yêu! Nhưng khi vừa đến nơi thì hay tin: vì đợi chúng tôi quá
lâu nên thuyền đã chạy rồi. Thì ra đêm ấy chương trình ca Huể trên thuyền rồng
phục vụ khách, ngoài chúng tôi ra còn có cả đoàn của Quốc hội đang công tác tại
Huế. Vẫn anh Đào Thái Tôn là người ứng xử nhanh nhẹn nhất, anh hỏi thuê ngay một
chiếc đò chở chúng tôi đuổi theo chiếc thuyền rồng. Ra giữa dòng rồi chúng tôi
gọi “Võ Quê ơi, Võ Quê hỡi” (vì biết nhà thơ Võ Quê là người dẫn chương trình).
Gần đến cầu Trường Tiền thì bắt gặp thuyền rồng. Tất cả chúng tôi chuyển thuyền
bước qua. Đoàn của Quốc hội có hơn mươi người đã yên vị chỗ ngồi phía trước,
chúng tôi ngồi vào phía sau. Đêm ca Huế lại tiếp tục mê say đến khuya khoắt.
Đêm không dễ lập lại. Một đêm và có thể một đời. Từ đó về sau, tôi chỉ có dịp gặp
lại mỗi nhà văn Nguyễn Anh Đào (Phú Thọ), còn các anh chị khác ở Hà Nội hay tít
tận miền Tây-Nam bộ thì cứ như…nghìn trùng. Mà nghìn trùng thật. như các nhà
văn Đào Thái Tôn, Nguyễn Anh Đào bây giờ đã là người…muôn năm cũ! Chỉ có một điều,
những ngọn nến hồng hào cháy đỏ trong từng chiếc hoa đăng trôi bồng bềnh lung
linh trên dòng sông đêm ấy đã tràn vào ký ức tôi một thứ ánh sáng lung linh
không bao giờ chịu tắt! Hễ mỗi khi ánh sáng ấy bất chợt ngời lên là tôi nghe
như nỗi nhớ Huế réo gọi tên quay về. Mỗi lần như thế, dù xa xôi ở tận đâu, tôi
lại ngâm tràn bài thơ ngẫu hứng đã viết cho Huế vào cái lúc hoa đăng thắp lên lời
tiễn biệt: Hoa đăng trên tay em, chút ánh sáng cuối cùng. Ngực tôi phập phồng,
gió lùa câu hát. Về thôi! Sông Hương khuya rồi, phiến nguyệt đã đầu non!
Bây giờ cũng là thời gian trăng hướng chênh
chếch về phía núi. Người chủ con đò ngồi kề cận bên tay lái có lẽ không còn
nghi ngờ cái khả năng chèo thuyền một cách tài tử của tôi, ông đã nằm xuống
khoang thuyền đánh một giấc ngon lành, mặc cho chúng tôi tùy hứng ngược xuôi
trên sông. Không thuộc nhiều những câu hò Huế, chẳng lẽ cứ lui tới “chợ
Đông Ba đem ra ngoài Vại”, hoặc là “cầu Trường Tiền sáu vài mười hai
nhịp”, thế cho nên, tôi và bạn mình lại đọc thơ vang vang cho…sông Hương nghe,
hết của Thu Bồn lại đến Nam Trân. “…Đăm đăm mắt mỏi vì chèo. Chèo cô quấy
nước trong veo giữa dòng. Biết không, cô hỡi, biết không? Chèo cô còn quấy,
sóng lòng còn xao”.Không hiểu vì thấm tháp thơ hay vì mê con sông đẹp lấp lánh
hư ảo một vùng ngoại ô Kim Long mà anh bạn tôi hào hứng bốc trời: “Nếu như có một
cuộc thi hoa hậu của tất cả mọi dòng sông trên non nước này thì vương miện dứt
khoát phải thuộc về sông Hương”. Dẫu là câu nói vui của anh bạn tôi nhưng không
phải là không có lý. Bằng chứng là từ xưa cho đến bây giờ, cứ lấy thước đo tầm
cao tác phẩm của tất cả các loại hình nghệ thuật làm thẩm giá cho cái đẹp của
dòng sông mà thiên nhiên vĩ đại đã sinh nở ra chảy giữa lòng Huế. Nó cùng với
lăng tẩm đền đài núi đồi cây cỏ vun đắp cho diện mạo Huế chói ngời trên vầng
trán cái chứng chỉ di sản văn hóa nhân loại!
Bạn tôi đã gác dầm bơi lên mũi thuyền rồi. Dường
như lúc thuyền quay mũi rời Kim Long, cái quãng vắng mơ hồ của một miền quê xa
xăm tự thời nào đó đã giục anh ngẫu hứng véo von hết lòng bài thơ “Cô gái
Kim Luông” của Nam Trân. “Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng. Cô
gái Kim Luông yểu điệu chèo. Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết. Rằng Thơ thấy
Đẹp phải tìm theo…”. Ai đó những người chèo đò trên sông nước này từng nói
với tôi rằng: mỗi chiếc hoa đăng trôi lờ lững trên dòng sông kia là một linh hồn.
Nếu thế, người muôn năm cũ ơi, các bậc tài hoa ơi! Những ai đang về trên cái
dòng sông ngập tràn ánh sáng như những hồi quang vĩnh cửu của người xưa ký thác
vào sông nước này. Từ những chiếc thuyền du lịch thả xuôi theo dòng, hàng hàng
hoa đăng được thả trôi tấp vào nhau từng chùm, từng mảng trước khi thuyền cập bến.
Bạn tôi dùng dằng chưa chịu bước lên bờ, anh bảo: “cứ trôi cho đến chân trời”.
Rồi giống như kẻ lên đồng, anh vỗ tay vào mạn thuyền hào sảng khúc Đường thi: “Nương
trăng về đó bao người. Trăng tà xao xuyền tình cây đôi bờ”. Đấy là bài thơ “Xuân
giang hoa nguyệt dạ” của Trương Nhược Hư-một thi sĩ thời Đường. Nguyên văn
câu thơ đó là: “Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy. Lạc nguyệt dao tình mãn
giang thụ”. Hóa ra Huế, hóa ra sông Hương đêm này lại sinh nở thêm một giống
loài thi sĩ, cho dù muộn mằn lúc bạn tôi đến hồi tóc bạc! Người lái đò cũng vừa
thức dậy, ông giục tôi cho thuyền cập vào bến, rồi hỏi như nhẩm tính thời gian:
“- Cũng khuya rồi anh hỉ“. “- Vâng, sông Hương khuya rồi, phiến nguyệt đã đầu
non”. Cũng chẳng hiểu khoảnh khắc ấy tôi trả lời ông lái đò hay trò chuyện với
sông!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét