Phạm Đức Nhì: Lại bàn về Tống biệt hành
Là người làm thơ và bình thơ
nên tôi thường để ý đến những cây bút phê bình văn học và những bài viết của
Châu Thạch đã chiếm được cảm tình của tôi với cung cách đứng đắn lịch sự, lời
văn hòa nhã. Hôm nay đọc được bài Đọc Tống Biệt Hành Thơ Thâm Tâm của anh trên Văn Nghệ Quảng Trị (và
Văn Đàn Việt) trong đó anh có nhắc đến mấy đoạn trong một bài viết – cũng về Tống
Biệt Hành – của tôi nên xin phép được trao đổi với anh về những đoạn mà cả hai
đều quan tâm
Sau đây là những đoạn trong
bài viết của tôi được anh đề cập:
1/ Anh nhắc đến hai đoạn
thơ:
Ta biết người buồn chiều hôm
trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm
nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
rồi anh viết: Đoạn này có
tác giả bình thơ nhận xét rằng “không những tầm thường mà lạ còn hơi ‘sến’ nữa.” Theo
anh thì: “Lời thơ kể lể ở đây không phải ‘tầm thường’, không phải ‘sến’ mà nó
là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc gầm thét diễn tả nỗi đau trong
lòng nhân vật.”
Theo tôi, hai đoạn thơ đã có
những khuyết điểm sau đây:
– Nói chuyện “chiều hôm trước”
mà dùng trạng từ chỉ thời gian “Bây giờ” là không chính xác. Muốn chính
xác, muốn hay, phải dùng từ khác.
– So sánh “sen nở nốt” với
“dòng lệ sót” rất khập khiễng. Những bông sen nở cuối mùa và dòng lệ còn sót lại
của mấy người chị vừa khóc vừa khuyên em, hai hình ảnh đó quá xa cách, không
tương hợp. Phép “ẩn dụ” không hay.
– Chữ “dòng” trong cụm từ
“dòng lệ sót” giảm giá trị của chữ “sót”.
– “Giời chưa mùa thu tươi lắm
thay” là một câu thơ “vô tích sự” bởi nó lạc lõng, thừa thãi, không ăn nhập gì
với cả đoạn thơ.
– Đọc hai câu:
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
tôi tưởng tượng trước mắt
mình một em nhỏ, đôi mắt ngây thơ tròn xoe nhìn người anh sắp đi xa, tay cầm
chiếc khăn tay như muốn gói trọn thương tiếc trong lòng mình vào đấy. Ôi! Hình ảnh
ấy vừa khô cứng, vừa “cải lương”, lại vừa không thật; ngây thơ đôi mắt biếc như
em nhỏ thì biết gì mà thương với tiếc; chữ “tiếc” ở đây hoàn toàn sai.
Trên đây là một vài chi tiết
khiến tôi đưa ra nhận xét là hai đoạn thơ “không những tầm thường mà lại còn ‘sến’
nữa.” Anh Châu Thạch cho đó “là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc gầm
thét diễn tả nỗi đau trong lòng nhân vật” là quyền của anh. Tôi dành sự phán
xét sau cùng cho độc giả.
2/ Vế chót của bài thơ như
sau:
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
Có người cho rằng vế thơ này
“quá cứng cỏi, lạnh lùng và vô tình.” Theo anh thì: “Thật ra đây là một vế thơ
rất hay, nó cho thấy bút pháp tài hoa của tác giả.”
Tôi không nghĩ như vậy. Trên
bề mặt chữ nghĩa 3 câu cuối rõ ràng là cứng cỏi, lạnh lùng và vô tình. Hơn nữa,
đó không phải là tâm trạng, cách suy nghĩ của chính người ra đi nói ra mà chỉ
là sự võ đoán của người đưa tiễn. Cho nên nếu nói đến giá trị nghệ thuật thì mấy
câu thơ ấy chỉ như là rượu giả, khó làm vừa lòng những tay sành rượu.
3/ Hoài Thanh không ưu ái với
nhà thơ Thâm Tâm mà Hoài Thanh chọn Tống Biệt Hành để đưa vào Thi Nhân Việt Nam
với sự công tâm đánh giá nghệ thuật như bao bài thơ của các tác giả khác thời bấy
giờ. Uy tín của Hoài Thanh đủ khẳng định cho Tống Biệt hành có giá trị nghệ thuật
cao.
Tôi đồng ý với anh Châu Thạch
là TBH phải hay, phải có giá trị nghệ thuật ở mức độ nào đó, phải hợp “gu” với
Hoài Thanh thì mới được ông tuyển chọn đưa vào Thi Nhân Việt Nam. Nhưng được
Hoài Thanh tuyển chọn lại là con dao hai lưỡi. Thời gian qua đi, cách nhìn nhận
và đánh giá thơ ca thay đổi, uy tín của Hoài Thanh – đặc biệt lúc ông còn sống
– khiến người yêu thơ e ngại khi phải đưa ra những ý kiến trái ngược hoặc khác
với nhận định của ông. “Sợ” uy quyền của ông cũng có nhưng cái sợ lớn nhất là sợ
bước vào một trận chiến không cân sức với một đối thủ quá mạnh. Anh Châu Thạch
còn viết rằng: “Truyện Kiều của Nguyễn Du mà còn có người dám chỉnh sửa lại
thì Tống Biệt Hành là cái gì mà 75 năm qua mọi người nhắm mắt tán tụng nó theo
Hoài Thanh.” Theo tôi, chỉnh sửa một điểm nào đó trong truyện Kiều không khó vì
không bị đè nặng bởi một sức ép chính trị tâm lý nào. Miễn là anh có kiến thức
rộng về văn học, thơ ca và đủ tự tin để viết. “Đụng” vào TBH là “đụng” vào cả một
chính sách lớn của nhà nước trong hoàn cảnh chiến tranh, lúc người chống lưng
cho nó vừa có văn tài, vừa có quyền uy ngất ngưởng trong lãnh vực bình phẩm văn
chương.
4/ Chính quyền miền Bắc
và miền Nam trước 1975 có hàng vạn bài thơ phục vụ cho chế độ mình trực tiếp và
cụ thể, đâu cần chi một bài thơ Tống Biệt Hành nói về một sự ra đi vu vơ không
mục đích rõ ràng.
Những bài thơ viết để trực
tiếp phục vụ chế độ (ở miền nam có một số bản nhạc như vậy nhưng thơ thì không
nhiều), đọc lên đã sặc mùi tuyên truyền. Tác giả loại thơ này thường là người nằm
trong bộ máy chính quyền, chức vụ không cao, viết vì công việc, vì “cái ghế”,
vì miếng cơm manh áo. Cả tác giả lẫn tác phẩm đều bị coi thường, khinh rẻ. Thậm
chí đọc phải những bài thơ này có người còn bực bội chửi thề ngay cả trước mặt
công chúng. (Con số hàng vạn của anh Châu Thạch tôi e rằng quá lố).
Chỉ có những bài thơ tác giả
có tay nghề cao, viết bằng trái tim mình, bày tỏ cảm xúc thật của mình nhưng ý
tứ của bài thơ lại tình cờ phù hợp với đường lối, chính sách của chính phủ nên
được phổ biến trong quảng đại quần chúng. Vâng! Chính những bài thơ ấy mới hấp
dẫn người đọc, mới thôi thúc người đọc đi theo, làm theo tiếng gọi của tứ thơ
(hoặc ý thơ). TBH nằm trong số những bài thơ ấy.
5/ Bài thơ được đưa vào nhà
trường tức là được chọn lọc. Thêm một lần nữa khẳng định giá trị nghệ thuật cao
của bài thơ. (Điều này không phải lúc nào cũng đúng.) Nhiều năm qua kể
từ khi bài thơ được giảng dạy đến nay, không có dư luận nào chê trách việc giảng
dạy Tống Biệt Hành. Điều đó chứng tỏ giá trị nghệ thuật của Tống Biệt Hành được
đánh giá đúng nên không có sự phản hồi, phản bác, đối nghịch trong công luận.
Vào trường học là có giáo
án, thi cử. Thử hỏi có học sinh nào dám đem tương lai của mình để đánh đổi lấy
một cơ hội được phản bác điều mình được dạy trong trường lớp? Có thầy, cô giáo
nào dám dạy sai giáo án để phí công bao năm đèn sách ở các trường cao đẳng hay
đại học sư phạm? Vả lại, nếu người phản bác không có thực tài, không chọn đúng
thời điểm có phong trào, có cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca mới, không có sự hỗ
trợ của một vài nhân vật có chức quyền trong ngành, những ý kiến phản bác sẽ
như muối bỏ bể, rơi vào quên lãng.
Giá trị nghệ thuật của Tống biệt hành
1/ Khuyết điểm
Ngoài những khuyết điểm ở
hai đoạn thơ nói về chị và em TBH còn có những yếu kém sau đây:
– Câu “Đưa người ta chỉ đưa
người ấy” có vẻ ngây ngô và đóng góp rất ít cho bài thơ.
– Cái dở nhất của TBH, theo
tôi, là có nhiều đoạn người ra đi không được bày tỏ trực tiếp mà cảm xúc, tâm
trạng của anh ta lại do người tống biệt võ đoán và nói hộ. Độc giả có cảm giác
như được Thâm Tâm mời đến thưởng thức món thuốc lá gia truyền rất ngon, nhưng
khi gặp nhau thì chỉ được hút một, hai hơi; sau đó là ngồi ngửi khói (hút gián
tiếp). Lời khuyên “Làm thơ nên viết ở ngôi thứ nhất” đã bị vi phạm mà không có
lý do chính đáng.
2/ Ưu điểm
Dù vậy TBH cũng vẫn là một
bài thơ hay. Chỉ với 4 câu đầu tác giả đã khắc họa một cách tài tình tâm trạng
của người đưa tiễn – và với khả năng quan sát tinh tế, đã “bắt” được nỗi buồn của
người ra đi:
Đưa
người ta không đưa qua sông
Sao
có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao
đầy hoàng hôn trong mắt trong
Để tả cảnh chia ly 4 câu thơ
này có thể hiên ngang đọ sức với bất cứ câu thơ hay nào của bất cứ tác giả nào
trong Phong Trào Thơ Mới.
Cái độc đáo nữa của TBH là Điệu
thơ gấp, lời thơ gắt, câu thơ rắn rỏi, gân guốc, không mềm mại uyển chuyển như
phần nhiều thơ bây giờ. (*)
Đứng bên cạnh những bài thơ
có âm điệu du dương như hầu hết thơ mới thời ấy TBH có dáng dấp độc đáo, gây được
sự chú ý ngay từ hình thức bề ngoài của bài thơ.
Cái hay nhất của TBH là – mặc
dù nhân vật và khung cảnh khác xa nhau – đã gợi được không khí hào hùng, bi
tráng của cuộc chia ly nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa: Thái Tử Đan tiễn Kinh
Kha sang sông Dịch để ám sát Tần Thủy Hoàng. Người đọc, đặc biệt là nam nhân, cảm
thấy hào khí bốc lên cao ngất, thân này kể bỏ, gia đình (mẹ, chị và em) cũng
coi như không có, vì lý tưởng, vì nước quyết ra đi để thỏa mãn chí lớn của người
trai.
Chí lớn không về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Tôi hoàn toàn đồng ý với
Châu Thạch khi anh viết:
Đoạn nầy ý nói người ra đi sẽ
không quay về khi chí lớn chưa thành, dầu mẹ có chết ba năm sau ngày giáp cử
cũng không về để tang mẹ được. Những câu thơ ở vế thơ nầy thật rắn rỏi nêu lên
sự quyết tâm của người ra đi vì chí lớn. Lời thơ như hịch xuất quân, như lời thề
non nước.
Tóm lại, nếu đặt ưu và khuyết
điểm lên bàn cân thì TBH vẫn là một bài thơ hay. Ưu điểm rất độc đáo và gây được
ấn tượng sâu sắc nơi người đọc. Có những đoạn thơ thường được ngâm nga trong những
buổi họp mặt của thanh niên trước lúc lên đường. Nhưng khuyết điểm cũng không
ít trong đó có cả khuyết điểm căn bản trong việc sáng tác thơ ca.
Riêng về tứ thơ thì tôi cho
rằng tứ thơ của TBH là một thứ dây leo chùm gởi, phải nhờ vào cái bóng của một
“khung cảnh lịch sử” ở tận bên Trung Quốc để có được sức hấp dẫn người đọc như
nó đã có. Hơn nữa, như đã phân tích ở trên, rượu trong bữa tiệc thơ TBH là rượu
giả; cảm xúc (ngoài hai câu đầu) không phải là thứ “tông” phát xuất từ
chính trái tim người tống biệt mà chỉ là cảm xúc của người ra đi được người tống
biệt đoán ra. Khách mời của bữa tiệc TBH tưởng như mình sắp sửa qua sông Dịch để
cứu muôn triệu dân lành. Rót rượu đầy ly, nâng cao và hô một tiếng “dzô” thật lớn
rồi uống cạn để thấy hào khí trong người mình dâng lên cao ngất. Đến khi tỉnh dậy
sau cơn say khướt, thấy nhức đầu một cách khó hiểu nhưng cũng không biết là
mình uống phải rượu giả, toàn nước lã pha cồn.
Hồ Trường (Nguyễn Bá Trác)
thì hoàn toàn khác. Khung cảnh thật, rượu thật, tâm sự được chính tác giả thốt
ra trong lúc ngà ngà say, không có bàn tay “gạn đục khơi trong” của lý trí nên
cũng rất thật. Và hào khí, thì dù người đọc có say hay tỉnh, cũng thấy bốc cao
ngất trời và nóng bỏng.
Trong trò chơi bình thơ, với
tôi, chê lầm một câu (bài) thơ hay hoặc khen lầm một câu (bài) thơ dở là một lỗi
nặng, ảnh hưởng đến uy tín của người bình thơ. Tuy nhiên, ở đời ai chẳng có lúc
lỗi lầm? Miễn là sau đó mình cố gắng học hỏi và sửa chữa. Nhưng bình một bài
thơ mà – vì một lý do nào đó ngoài thơ – thấy một điểm hay mà không dám khen,
thấy một điểm dở mà không dám chê thì theo tôi, là một cái tội, tội với lương
tâm mình và tội với thơ. Cho nên khi bình thơ, tôi khen chê thẳng thắn đúng với
sự hiểu biết và cảm nhận của mình lúc đó. Vì thế bài viết của anh Châu Thạch đã
cho tôi cơ hội đọc kỹ lại Tống Biệt Hành và giải thích thêm một số chi tiết mà
tôi - vì muốn hướng sự chú ý của độc giả vào những điểm chính - đã bỏ qua. Và
chuyện đúng sai xin nhường cho độc giả phán xét.
Với bài thơ TBH anh Châu Thạch
và tôi có vài chỗ ý kiến khác nhau. Đó cũng là chuyện thường tình trong bình phẩm
thơ ca. Trong Văn Nghệ Quảng Trị anh Châu Thạch có số bài gấp nhiều lần số bài
của tôi. Anh là cựu binh, còn tôi là lính mới. Cũng may là trên chốn văn chương
nên tôi mới dám mạnh dạn trao đổi với anh. Qua hai bài viết, một của anh và một
của tôi, xin được nói riêng với anh Châu Thạch, cả hai chúng ta đều có lợi. Và
biết đâu những độc giả đọc bài của chúng ta cũng đang rung đùi, gật gù khoái
chí.
Chú thích:
* Chữ của Hoài Thanh.
PHẠM ĐỨC NHÌ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét