Quyển thứ tư: Nước hồ xanh
biếc
Chống một cây sào dài, một mình leo lên chiếc thuyền lan, chèo đến cao nguyên đầy tuyết nơi xa tít tắp, đi tìm hồ nước tinh khiết. Một hồ nước trong vắt như tấm gương, chiếu rõ vạn vật phồn tạp nơi nhân gian, soi thấu bản thân chân thực nơi nội tâm. Bộ lạc Vân Gian trong bức họa đó phải chăng là một vùng tịnh thổ cuối cùng trên cõi đời? Công chúa Đại Đường bị gả tới nơi xa xôi, trải qua ngàn năm mây nước, nàng vẫn khỏe chứ? Lão ni đến hồ thiêng lấy nước kia, trong ánh mắt ngoái nhìn rốt cuộc chất chứa bí ẩn gì? Đám rong rêu dập dềnh trong nước hồ ấy, mỗi ngày đều nói lời ly biệt với khách qua đường, đã từng hỏi họ có thực sự muốn ra đi hay không? Nếu luôn gặp nhau ở non nước bên ngoài, chẳng thà, hãy bình thản đợi chờ nơi bến đỗ nhân sinh. Nhìn nước hồ xanh biếc đó, làm thế nào để lần nữa sắp xếp duyên phận của chúng ta?
Bốn mùa Tây Hồ
Là ai cầm một chiếc ô giấy dầu, đi xuyên qua mùa mưa đa tình, tìm mộng cũ phồn hoa chốn Giang Nam?
Là ai nhấp một ly trà trong, tựa lan can lặng lẽ dõi chốn xa, đợi một đóa sen nở trong cô đơn?
Là ai cưỡi một chiếc thuyền con, dưới trời sương trăng sáng như nước, chống chèo qua tháng năm vội vã?
Lại là ai ngắt một nhành hàn mai, viết nên bài thơ tài hoa phong lưu?
Tây Hồ, Tây Hồ trong vắt như ngọc, trên đê hoa bờ liễu đó, phải chăng là bóng dáng cố nhân trầm ngâm đang quấn quanh? Trong nhà thủy tạ bên hồ đó, phải chăng còn lưu giữ phong cảnh đã bỏ sót của ngày hôm qua?
(1) Mưa xuân đê Tô
Thủy quang liễm liễm tình phương hảo, sơn sắc không mông vũ diệc kỳ.
Dục bả Tây Hồ bỉ Tây Tử, đạm trang nùng mạt tổng tương nghi.
(Dưới nắng long lanh màu nước biếc. Trong mưa huyền ảo vẻ non tươi.
Tây hồ khá sánh cùng Tây tử. Nhạt phấn nồng son thảy tuyệt vời [1])
[1] Tô Đông Pha, “Ẩm hồ thượng sơ tình hậu vũ”, dịch thơ Nam Trân.
Tây Hồ khói mưa lãng đãng, tựa như một bức tranh thủy mặc thanh tân trang nhã, tông màu ẩm ướt, hương thơm nhàn nhạt, cổ kim hòa quyện, mê hoặc cõi lòng của biết bao khách đi đường đi tìm giấc mộng?
Bên bờ dòng người huyên náo tụ hội, lòng hồ lại là bóng lặng sóng trong. Khói mưa mờ mịt đổ trên những cành liễu rủ thướt tha, ánh sóng lay động, sóng gợn lăn tăn mê đắm hồn người. Khi ánh mắt mơ màng, mộng cảnh cũng trở nên yên bình… Đoạn Kiều [2] phía xa vắt ngang qua hồ nối liền đôi bờ, ngọn gió xoáy vòng trôi đi dường như xuyên qua thời gian ngàn năm, những năm tháng xưa cũ gột sách truyền thuyết ngàn năm, trải dài trong non nước tú lệ của Tây Hồ, mới mẻ và lung linh. Cây cầu kỳ thực không hề đứt đoạn, đứt đoạn là tình duyên một kiếp của Bạch Nương Tử và chàng Hứa Tiên. Chiếc ô giấy dầu đa tình đó, có thể níu lại giấc mộng xưa đã vội vã trôi qua của họ hay chăng?
[2] Đoạn Kiều: Tên của cây cầu, Đoạn có nghĩa là đứt, gãy.
Tình tiết ngàn năm sớm đã định sẵn, cái còn lại là truyền thuyết vĩnh hằng. Những người tay cầm ô che mưa, đứng trên cầu ngắm phong cảnh đó sẽ rơi vào giấc mộng của ai?
Khói mây nhuốm màu lên vẻ thanh tú mỹ lệ của dương liễu Tây Hồ, ráng trời sớm mở ra quang cảnh tươi đẹp của hoa đào trên đê Tô. Những khách đi đường ngang qua, bước xuyên con đường lát đá, họ rũ hết khói bụi trên người, gửi gắm ngày tháng mênh mang vào mùa mưa ngắn ngủi.
Bóng dáng áo xanh, nho nhã ung dung đó là Tô Tử chăng? Còn nhớ năm xưa, ông cùng Triêu Vân[3] chèo thuyền trên Tây Hồ, chén suông đối nguyệt, thi từ bay bổng, bất tận triền miên. Cớ sao năm tháng phiêu dạt, giai nhân mờ mịt, không chừa tung tích, để đau thương níu mộng.
[3] Triêu Vân là người thiếp của Tô Thức, vốn là kỹ nữ ở Tiền Đường, khi Tô Thức đến Tiền Đường làm quan đã thu nhận nàng làm thị nữ, khi đến Hoàng Châu thì nạp làm thiếp. Ban đầu nàng không biết chữ, sau theo Tô Thức học hành, cũng hiểu Phật lý. Khi Tô Thức làm quan ở Huệ Châu, các thiếp đều rời bỏ ông, duy có nàng Triêu Vân đi theo.
Chuyện thiên cổ ưu sầu, duy chỉ còn lại chữ Tình. Tô Đông Pha khoáng đạt hào phóng, cho dù tài cao có thể cười nhạo vương hầu, nếu như không gặp Triêu Vân, không người tri âm, sao có thể phong lưu tài mạo nhường ấy? “Thương tâm nhất niệm thường tiền trái, đàn chỉ tam sinh đoạn hậu duyên.”[4] (Tạm dịch: Đau lòng nghĩ đền nợ kiếp trước, chớp mắt ba kiếp đứt hậu duyên) Cái Tô Đông Pha hoài niệm là trăng sáng ngày xưa, còn vầng trăng sáng mới cong cong như móc câu hôm nay, một nửa là ly, một nửa là hợp. Đa tình, trước sau vẫn là người ngắm trăng.
[4] Thơ của Triêu Vân.
Bước đi trên đê Tô dài thăm thẳm là ai, suốt trên dọc đường nhặt mãi ánh trăng khi mờ khi tỏ? Thế nhưng, người đó tìm được những gì? Cho dù lặn xuống Tây Hồ, thì có thể vớt được những gì?
(2) Sen hạ Tây Lãnh
Thiếp thừa du bích xa, lang kỵ thanh thông mã.
Hà xứ kết đồng tâm, Tây Lăng tùng bách hạ.
(Thiếp đi xe du bích, chàng cưỡi ngựa đốm xanh. Đồng tâm nơi nào kết? Dưới tùng bách Tây Lăng).
(Nam triều, Tô Tiểu Tiểu [5], “Tô Tiểu Tiểu ca”, dịch thơ Điệp Luyến Hoa [6])
[5] Nàng Tô Tiểu Tiểu, danh kỹ hàng đầu ở Tiền Đường thời Nam Tề, năm mười chín tuổi, Tô Tiểu Tiểu vì tương tư mà nhiễm bệnh phong hàn, lại thêm nàng từ nhỏ đã có bệnh ho ra máu, không bao lâu sau thì ngọc nát hương chìm. Sau khi Tô Tiểu Tiểu tạ thế, một cao thủ võ lâm chung tình chiều theo nguyện vọng bình sinh của nàng mà chôn nàng dưới gốc liễu bên cầu Tây Lãnh.
[6] Bản dịch thơ trên thivien.net.
Chống một cây sào dài, một mình leo lên chiếc thuyền lan, chèo đến cao nguyên đầy tuyết nơi xa tít tắp, đi tìm hồ nước tinh khiết. Một hồ nước trong vắt như tấm gương, chiếu rõ vạn vật phồn tạp nơi nhân gian, soi thấu bản thân chân thực nơi nội tâm. Bộ lạc Vân Gian trong bức họa đó phải chăng là một vùng tịnh thổ cuối cùng trên cõi đời? Công chúa Đại Đường bị gả tới nơi xa xôi, trải qua ngàn năm mây nước, nàng vẫn khỏe chứ? Lão ni đến hồ thiêng lấy nước kia, trong ánh mắt ngoái nhìn rốt cuộc chất chứa bí ẩn gì? Đám rong rêu dập dềnh trong nước hồ ấy, mỗi ngày đều nói lời ly biệt với khách qua đường, đã từng hỏi họ có thực sự muốn ra đi hay không? Nếu luôn gặp nhau ở non nước bên ngoài, chẳng thà, hãy bình thản đợi chờ nơi bến đỗ nhân sinh. Nhìn nước hồ xanh biếc đó, làm thế nào để lần nữa sắp xếp duyên phận của chúng ta?
Bốn mùa Tây Hồ
Là ai cầm một chiếc ô giấy dầu, đi xuyên qua mùa mưa đa tình, tìm mộng cũ phồn hoa chốn Giang Nam?
Là ai nhấp một ly trà trong, tựa lan can lặng lẽ dõi chốn xa, đợi một đóa sen nở trong cô đơn?
Là ai cưỡi một chiếc thuyền con, dưới trời sương trăng sáng như nước, chống chèo qua tháng năm vội vã?
Lại là ai ngắt một nhành hàn mai, viết nên bài thơ tài hoa phong lưu?
Tây Hồ, Tây Hồ trong vắt như ngọc, trên đê hoa bờ liễu đó, phải chăng là bóng dáng cố nhân trầm ngâm đang quấn quanh? Trong nhà thủy tạ bên hồ đó, phải chăng còn lưu giữ phong cảnh đã bỏ sót của ngày hôm qua?
(1) Mưa xuân đê Tô
Thủy quang liễm liễm tình phương hảo, sơn sắc không mông vũ diệc kỳ.
Dục bả Tây Hồ bỉ Tây Tử, đạm trang nùng mạt tổng tương nghi.
(Dưới nắng long lanh màu nước biếc. Trong mưa huyền ảo vẻ non tươi.
Tây hồ khá sánh cùng Tây tử. Nhạt phấn nồng son thảy tuyệt vời [1])
[1] Tô Đông Pha, “Ẩm hồ thượng sơ tình hậu vũ”, dịch thơ Nam Trân.
Tây Hồ khói mưa lãng đãng, tựa như một bức tranh thủy mặc thanh tân trang nhã, tông màu ẩm ướt, hương thơm nhàn nhạt, cổ kim hòa quyện, mê hoặc cõi lòng của biết bao khách đi đường đi tìm giấc mộng?
Bên bờ dòng người huyên náo tụ hội, lòng hồ lại là bóng lặng sóng trong. Khói mưa mờ mịt đổ trên những cành liễu rủ thướt tha, ánh sóng lay động, sóng gợn lăn tăn mê đắm hồn người. Khi ánh mắt mơ màng, mộng cảnh cũng trở nên yên bình… Đoạn Kiều [2] phía xa vắt ngang qua hồ nối liền đôi bờ, ngọn gió xoáy vòng trôi đi dường như xuyên qua thời gian ngàn năm, những năm tháng xưa cũ gột sách truyền thuyết ngàn năm, trải dài trong non nước tú lệ của Tây Hồ, mới mẻ và lung linh. Cây cầu kỳ thực không hề đứt đoạn, đứt đoạn là tình duyên một kiếp của Bạch Nương Tử và chàng Hứa Tiên. Chiếc ô giấy dầu đa tình đó, có thể níu lại giấc mộng xưa đã vội vã trôi qua của họ hay chăng?
[2] Đoạn Kiều: Tên của cây cầu, Đoạn có nghĩa là đứt, gãy.
Tình tiết ngàn năm sớm đã định sẵn, cái còn lại là truyền thuyết vĩnh hằng. Những người tay cầm ô che mưa, đứng trên cầu ngắm phong cảnh đó sẽ rơi vào giấc mộng của ai?
Khói mây nhuốm màu lên vẻ thanh tú mỹ lệ của dương liễu Tây Hồ, ráng trời sớm mở ra quang cảnh tươi đẹp của hoa đào trên đê Tô. Những khách đi đường ngang qua, bước xuyên con đường lát đá, họ rũ hết khói bụi trên người, gửi gắm ngày tháng mênh mang vào mùa mưa ngắn ngủi.
Bóng dáng áo xanh, nho nhã ung dung đó là Tô Tử chăng? Còn nhớ năm xưa, ông cùng Triêu Vân[3] chèo thuyền trên Tây Hồ, chén suông đối nguyệt, thi từ bay bổng, bất tận triền miên. Cớ sao năm tháng phiêu dạt, giai nhân mờ mịt, không chừa tung tích, để đau thương níu mộng.
[3] Triêu Vân là người thiếp của Tô Thức, vốn là kỹ nữ ở Tiền Đường, khi Tô Thức đến Tiền Đường làm quan đã thu nhận nàng làm thị nữ, khi đến Hoàng Châu thì nạp làm thiếp. Ban đầu nàng không biết chữ, sau theo Tô Thức học hành, cũng hiểu Phật lý. Khi Tô Thức làm quan ở Huệ Châu, các thiếp đều rời bỏ ông, duy có nàng Triêu Vân đi theo.
Chuyện thiên cổ ưu sầu, duy chỉ còn lại chữ Tình. Tô Đông Pha khoáng đạt hào phóng, cho dù tài cao có thể cười nhạo vương hầu, nếu như không gặp Triêu Vân, không người tri âm, sao có thể phong lưu tài mạo nhường ấy? “Thương tâm nhất niệm thường tiền trái, đàn chỉ tam sinh đoạn hậu duyên.”[4] (Tạm dịch: Đau lòng nghĩ đền nợ kiếp trước, chớp mắt ba kiếp đứt hậu duyên) Cái Tô Đông Pha hoài niệm là trăng sáng ngày xưa, còn vầng trăng sáng mới cong cong như móc câu hôm nay, một nửa là ly, một nửa là hợp. Đa tình, trước sau vẫn là người ngắm trăng.
[4] Thơ của Triêu Vân.
Bước đi trên đê Tô dài thăm thẳm là ai, suốt trên dọc đường nhặt mãi ánh trăng khi mờ khi tỏ? Thế nhưng, người đó tìm được những gì? Cho dù lặn xuống Tây Hồ, thì có thể vớt được những gì?
(2) Sen hạ Tây Lãnh
Thiếp thừa du bích xa, lang kỵ thanh thông mã.
Hà xứ kết đồng tâm, Tây Lăng tùng bách hạ.
(Thiếp đi xe du bích, chàng cưỡi ngựa đốm xanh. Đồng tâm nơi nào kết? Dưới tùng bách Tây Lăng).
(Nam triều, Tô Tiểu Tiểu [5], “Tô Tiểu Tiểu ca”, dịch thơ Điệp Luyến Hoa [6])
[5] Nàng Tô Tiểu Tiểu, danh kỹ hàng đầu ở Tiền Đường thời Nam Tề, năm mười chín tuổi, Tô Tiểu Tiểu vì tương tư mà nhiễm bệnh phong hàn, lại thêm nàng từ nhỏ đã có bệnh ho ra máu, không bao lâu sau thì ngọc nát hương chìm. Sau khi Tô Tiểu Tiểu tạ thế, một cao thủ võ lâm chung tình chiều theo nguyện vọng bình sinh của nàng mà chôn nàng dưới gốc liễu bên cầu Tây Lãnh.
[6] Bản dịch thơ trên thivien.net.
Mộng tựa sen xanh, chầm chậm
xòe cánh giữa sóng biếc Tây Hồ. Bên bờ có người đang chầm chậm thả bước, giữa
đình có người đang lặng lẽ thưởng trà. Họ đều mượn cảnh trí thanh tĩnh mát mẻ của
Tây Hồ, tiêu phí những năm tháng nhàn nhã. Những gợn sóng biếc xanh trải dài
đó, phản chiếu bóng hắt của lầu cao thành thị, Hàng Châu – tòa cổ thành ngàn
năm thấm đẫm mưa gió nảy sinh những thi ý và nhàn nhã vô tận.
Ánh mặt trời trong trẻo dịu dàng hắt xiên lên mặt Tây Hồ, những sóng nước lăn tăn đang trêu ghẹo tâm sự của ai? Một chiếc thuyền con neo giữa hoa sen, lặng ngắm trăng tròn hoa nở, biển thế nổi chìm. Lúc này, mắc kẹt là năm tháng của ai; cô đơn, là cuộc đời của ai?
Những viên ngọc long lanh như sương mai đó phải chăng là những giọt lệ đa tình của Tô Tiểu Tiểu? “Thiếp thừa du bích xa, lang kỵ thanh thông mã. Hà xứ kết đồng tâm, Tây Lăng tùng bách hạ?” Nhớ lại cảnh tượng tình mềm tựa nước năm đó, mối tình “nhất kiến khuynh tâm[7]” của Tô Tiểu Tiểu và Nguyễn Uất, Tây Hồ dường như lại thêm sắc màu ấm cúng.
[7] Nhất kiến khuynh tâm: Vừa gặp đã say mê.
Phồn hoa như mộng, năm tháng dễ tan. Biết bao lần chong đèn mà vẫn không ngủ được, biết bao lần từ trên lầu cao ngóng người mà chẳng thấy. Cuối cùng nàng vẫn nếm hết nỗi tương tư, bỏ lỡ vẻ đẹp của hoa thắm trăng tròn.
“Sinh vu Tây Lãnh, tử vu Tây Lãnh, mai cốt vu Tây Lãnh, thứ bất phụ ngã Tô Tiểu Tiểu sơn thủy chi tích.” (Sinh ở Tây Lãnh, chết ở Tây Lãnh, vùi xương nơi Tây Lãnh, ngõ hầu chẳng phụ tính mê non nước của Tô Tiểu Tiểu ta) Non nước Tây Hồ, đã nuôi dưỡng linh tính của Tô Tiểu Tiểu. Người con gái này đã viết quá nhiều những câu thơ đa tình, đã từng ngắt những nhành dương liễu biệt ly, đã từng rơi giọt lệ tương tư. Ở Giang Nam đình viện sâu hun hút, ánh trắng là chiếc giường ấm áp cho nàng nằm, hồn phách chẳng nơi ký thác đó đã hoàn toàn dung hòa với non xanh nước biếc Tây Hồ, có lẽ chỉ có như Thế Âmới có thể an ủi tâm tình “nhập thể” của nàng, không phụ mối tình một đời của nàng.
(3) Trăng thu hồ biếc
Giang Nam ức, tối ức thị Hàng Châu
Sơn tự nguyệt trung tầm quế tử, quận đình chẩm thượng khán hồ đầu.
Hà nhật cánh trùng du?
(Giang Nam nhớ, nhớ nhất chính là Hàng Châu. Chùa núi dưới trăng tìm quế tử, quận đình trên gối ngắm trào đầu. Nào dịp lại trùng du?[8])
[8] Bạch Cư Dị, tác phẩm “Ức Giang Nam” (Nhớ Giang Nam), dịch thơ Nguyễn Chí Viễn.
Gió mát kinh động ánh trăng, lá đỏ nhuộm rực non xanh. Tiếng chuông bay bổng chốn xa đang chầm chậm vọng lại sơn tự, hoa quế bóng hương lững lờ đậu trên con đường đá xanh rêu. Những hành lang vẽ tranh sơn thủy màu sắc ngập ánh hoàng hôn, để lại một khung nên thơ khó tả thành lời cho Tây Hồ.
Những cụ già đang thưởng ngoạn phong cảnh trước gió dưới ánh chiều tà hắt xiên, cạnh mình đeo một bầu rượu hoa quế hoa thơm nồng, nhàn tản, điềm tĩnh, cái họ theo đuổi là một cảnh ý không sơn không thủy. Những du khách đang chèo thuyền trên mặt hồ trong đêm trăng soi sương giăng đó, trong tay nâng một ly trà Long Tỉnh Tây Hồ, tao nhã tự tại, cái họ đang thưởng thức chính là một chén nhân sinh ý vị sâu xa.
Trên mặt hồ in bóng những ngọn đèn lung linh của thành thị, khoảng trời đầy sắc màu lấp lánh đó tô điểm cho suy nghĩ của người đời nay. Trên Tây Hồ trăng sáng treo cao, sóng nước lấp loáng, những nhân vật trong những câu chuyện đang chảy qua vẫn rõ rệt như xưa.
“Dục tương thử ý bằng hồi trác, báo dữ Tây Hồ phong nguyệt tri.” (Muốn mang tình ý quay về, để cho trăng gió Tây Hồ cùng hay) Bóng dáng thanh tú gầy guộc ấy, là Bạch Cư Dị chán nản tha phương chăng? Từ khi nào ông đã coi thường danh lợi, gửi tình vào sắc nước non sông, lưu tình vào họa cảnh khói sóng, làm một nhã khách tìm gió câu trăng, tung tích tựa mây trắng? Có lẽ chỉ có non nước Tây Hồ mới có thể hiểu được phong sương nửa đời của ông.
Tiết trời lạnh lẽo, ngôn ngữ cũng mất đi màu sắc. Năm tháng tịch liêu, núi sông cũng quên mất hẹn thề. Còn trăng thu Tây Hồ, lại chọn lựa lặng im.
(4) Tuyết lạnh vườn mai
Chúng phương dao lạc độc huyên nghiên, chiếm tận phong tình hướng tiểu viên. Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển, ám hương phù động nguyệt hoàng hôn.
(Chúng hoa rụng hết chỉ mai còn, độc chiếm khu vườn một mảnh con. Thưa bóng đâm nghiêng lan mặt nước, thoảng hương tỏa xuống động hoàng hôn)
(Tống, Lâm Bô, “Sơn viên tiểu mai”, dịch thơ Điệp Luyến Hoa[9])
[9] Bản dịch thơ trích từ thivien.net.
Những đóa hoa tuyết dày, nhẹ rơi khắp trên mặt hồ phẳng như gương chớp mắt đã tan đi trong nước, tan thành nước lạnh trong suốt của hồ Tây Tử, thấm đẫm tâm tư nhạy cảm của thi nhân, trở thành cảnh thơ hồn hoa “sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển, á hương phù động nguyệt hoàng hôn.” Tuyết trắng trong veo bên hồ, lấp lóa như in bóng bầu trời điểm xuyết những vì sao nhấp nháy. Nơi ánh sáng, nước hồ và bầu trời giao nhau, nhụy hoa trắng tinh từng bung nở trên tuyết, dùng hương thơm mát lành tấu lên một khúc từ phong nhã thiên cổ.
Gió cũng có hình bóng, nó đi qua xuân thu Tây Hồ, trong hoàng hôn vắng lặng, với ráng chiều rực rỡ mà rõ nét. Hoa mai mỏng mảnh mà lạnh lẽo, cô độc gối đầu lên ánh trăng. Điệu sáo dặt dìu say đắm lòng người tách ra khỏi sự vắng lặng của đêm đông, cuốn theo hương thơm thoang thoảng, tinh tế của hoa mai. Trong đình Phóng Hạc còn có một thi nhân hao gầy, trong những tháng ngày nhàn nhã coi mai là vợ, coi hạc là con, lặng lẽ giữ chút yên tĩnh của tâm hồn này[10]. Giống như ánh trăng chờ đợi ở Tây Hồ, ngàn năm trôi qua, trầm lặng tựa nước, nhưng lại lưu chuyển cả sóng biếc âm trong chẳng đổi thay.
[10] Lâm Bô thích mai và hạc, lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con.
Bên đê tuyết bờ liễu đó, là ai say mê thi phong từ vận, giãi bày cảm hứng hiện thời, tìm tìm kiếm kiếm ở Tây Hồ cổ kính, lại đi đi dừng dừng giữa đô thị phồn hoa tựa gấm.
Thư văn hết mà lòng chưa dứt, đàn băng đứt mà âm còn vương. Hôm qua, đã cùng với sóng hồ in bóng ráng chiều, say ngủ thành một đóa sen rẽ ánh trăng loang loáng như nhảy múa. Tây Hồ sóng biếc lăn tăn của ngày hôm nay, tựa như điệu sáo xưa đã chìm đắm cả ngàn năm. Rất nhiều ký ức xưa cũ nào giữ lại được, chiếc thuyền con buông trôi dưới gốc liễu rủ đã chèo qua cả đời người sáng rõ, trong vắt, nhàn nhạt.
Đi xa rồi vẫn sẽ về gần, đợi chờ không còn kéo dài. Quẩn quanh trong giấc mộng bốn mùa uyển chuyển của Tây Hồ, trong mộng, vẫn còn Giang Nam xóa chẳng tan, chẳng hết.
Thái Hồ mây khói
(1)
Vội vàng đến với mưa khói Thái Hồ như thể vội vàng đến với một cuộc hẹn đã có từ kiếp trước. Hẹn ước này, ngàn cánh buồm trôi qua, khiến tôi đã dạo đủ ba kiếp ba đời trong nhân gian mênh mông, mới đến được góc nhỏ chứa đầy mây khói đó. Chỉ đến lúc mưa rơi, tại điểm dừng của sinh mệnh mới xuất hiện sự khởi đầu của nỗi cô đơn tịch mịch.
Người nói, non nước luôn ở trong tim ta, chỉ cần chảy qua dòng sông thời gian là có thể tìm đến nơi mơ ước. Tôi từ nơi xa xôi cách biệt thế gian, giẫm lên những đường hoa văn đậm nhạt của vận mệnh, nhưng vẫn không đi thoát khỏi một đoạn tháng năm trưởng thành.
Tất cả con đường đều bị trùng trùng sương khói che phủ, đi xuyên qua, là sẽ đến con đường về với hồng trần hỗn độn. Nhưng tôi nên tiếp tục đi, hay là nên dừng chân nhìn ra xa? Có thể khi vứt bỏ được những chi tiết thăng trầm nhỏ nhoi, giữa vùng núi non bị lá nhuộm đỏ ối tôi sẽ thong thả chậm bước qua về.
Thực ra, tất cả mọi con đường trên thế gian đều giống nhau, bờ bên này và bờ bên kia chỉ cách có một màn mưa mù mịt. Nhưng tôi có thể viết sự hoang lạnh thê lương thành tươi đẹp sáng lạn, viết sự cô đơn tịch mịch thành xuân thu hoa lệ.
(2)
Hơi ẩm ướt đẫm trong không khí, những làn khói nhẹ màu trắng sữa biến hóa kỳ ảo trên tầng mây cao cao, những hạt mưa trong suốt như khảm vào khung cảnh non xanh nước biếc. Thi thoảng có cánh chim cô lẻ lướt qua những cành cây xanh thẫm, trong mưa khói mịt mờ, chúng đi tìm khung trời thuộc về riêng mình. Còn tôi vẫn không hề dừng lại, mà cứ đi thẳng về phía trước.
Dạo bộ trong mưa là một hứng thú nhàn tản tuyệt diệu không thể nói thành lời. Nước lan tràn khắp nơi, tựa như những bi thương chảy ào ào vô tận. Lá cây giữa núi bay lả tả trong im lặng, những cây thạch lựu trong bụi cỏ hoa vẫn còn đỏ rực, hoa sen trong hồ vẫn im lìm cô đơn say ngủ. Có lẽ, chỉ có khoảnh khắc này đây, tôi mới có thể dừng bước tạm nghỉ, để cho tâm hồn lãng đãng trôi xa.
Ngồi trên tảng đá ngắm những hoa súng đủ màu, bông trắng, bông vàng, bông đỏ, bông tím, khoác những chiếc áo màu của tự nhiên, xòe những cánh hoa nhỏ nhắn xinh đẹp, thì thầm như nói mơ. Hoa sen lay động như múa, mang một vẻ nên thơ tao nhã, cánh hoa trắng muốt lặng lẽ rơi giữa ngàn vạn chiếc lá, tư thế tựa hoa tuyết, gợi nên nỗi nhớ nhung đằng đẵng. Những bông hoa cánh hồng phơn phớt, nhụy vàng, đài xanh nghiêng đầu soi bóng xuống mặt hồ lăn tăn gợn sóng. Những hạt sương trong vắt như ngọc còn đọng trên cánh sen ấy ánh lên sắc long lanh, lăn qua lăn lại trên lá sen, như những giọt lệ đa tình của thiếu nữ Giang Nam, thấm đẫm cái lạnh lẽo đến tận xương cốt.
Hoa súng và hoa sen dường như đã gắn với rất nhiều gút mắc tình cảm trong suốt cuộc đời tôi. Linh hồn tôi ký thác vào mỗi khi hoa nở hoa tàn, mỗi buổi hoàng hôn buông xuống, tâm sự trùng trùng cũng theo đó dần dần tiêu tán bớt đi. Ngẫm lại, hoa sen hay hoa súng rốt cuộc đều phải tàn úa, đời người vẫn phải hạ màn. Những đau thương của thế sự, quá nhẹ nhàng thì khó tránh khỏi không chân thật, quá nặng nề thì khó trách khỏi gánh vác nặng trên vai. Đến khi già đi, tất cả đều chỉ còn là vết tích.
Bốn mùa trầm lặng, ngôn ngữ mất đi sắc màu; tháng năm tịch mịch, non nước lãng quên thề hẹn.
(3)
Thái Hồ sương khói mờ mịt, mênh mang nhìn chẳng thấy bờ, núi xanh lặng lẽ ẩn mình. Gió mát khẽ thổi, mặt hồ gợn lên từng vòng sóng hình tròn ốc, mưa rơi trên mặt hồ tạo thành từng bông hoa nước nho nhỏ, xinh xinh. Tảo xanh trôi dạt xô bờ, xanh tĩnh lặng hiền hòa, xanh trấn tĩnh bình thản, xanh rờn rợn chảy trôi, trong không khí ngập tràn mùi hương ngai ngái của màu xanh ấy.
Một hòn tiên đảo nổi giữa hồ, lên thuyền qua cầu là đến nơi Thái Hư ảo ảnh. Tìm một chiếc thuyền gỗ chèo ra đảo, cụ già chèo thuyền mặc áo tơi nón lá, những nếp nhăn trên gương mặt như làn sóng lan chằng chịt trên mặt hồ. Ngồi trên thuyền, bỗng cảm thấy thân mình nhẹ bỗng, cúi đầu xuống nước, những xốc nổi do hồng trần tiêm nhiễm đã trở nên trầm lắng.
Trong mây mù xuất hiện chiếc thuyền cổ có bảy cột buồm, lướt qua bên cạnh, hướng về phương xa, dần dần chỉ còn là một chiếc bóng nhỏ bé mờ nhạt, khiến bạn ngậm ngùi mãi lâu. Suốt chặng đường mưa dập gió vùi, chẳng biết đến bao giờ mới đến được bến cảng để dừng thuyền cập bến?
Bờ bên này dẫn xa, bờ bên kia dần gần. Lầu gác và tháp cổ trên đảo càng lúc càng hiện ra rõ ràng, mây khói bao phủ, tựa như lạc vào chốn Bồng Lai tiên cảnh. Xuống thuyền lên bờ không quay lại nhìn về hướng ta vừa tới nữa. Mấy chiếc thuyền bắt cá con con buộc neo bên chiếc đình bên bờ, ngư dân trên thuyền mời mọc du khách mua ít đặc sản của hồ vừa mới đánh bắt được. Mặc áo tơi lá đi qua mưa gió, chứng kiến cuộc đời không oán không hận của họ. Cảm xúc ấy khiến khóe mắt bỗng ẩm ướt như thủy triều trào dâng.
Cây cầu cổ vắt ngang mặt hồ, gió nhè nhẹ thổi, luồn lách trong hành lang ven hồ. Nhìn ra phía xa, chỉ tuyền một màu, ấy là màu mênh mênh mang mang. Đi qua cây cầu này, có lẽ có thể tìm được nơi chốn để một đời hướng về.
(4)
Bên bờ hồ có vài cụ già đang buông cần câu trong mưa khói, bên hông còn đeo một bình rượu lâu năm hoặc một bình trà đặc, trông vô cùng nhàn tản, thú vị. Khi con người ta già đi, ân oán tình thù đều tiêu tan hết thảy, có lẽ chỉ có khung cảnh đầy cổ kính sáng câu cá kiếm củi, chiều nhóm bếp nấu cơm là khiến ta tu tâm dưỡng tính nhiều hơn.
Mấy thân liễu phất phơ như múa lượn trong gió, dáng liễu thướt tha buông rủ xuống tháng năm xanh biêng biếc. Chim bay trong màn mưa, trên những lầu gác im lìm, cối xay nước bằng gỗ chuyển động không biết mệt mỏi, phát ra những âm thanh kẽo cà kẽo kẹt, như lặp lại những bản dân ca từ thời viễn cổ.
Trong núi, lá thông rụng đầy mặt đất, trúc biếc từng bụi um tùm, rất nhiều loài hoa dại không biết tên rụng rải rác trên mặt đất ẩm ướt, khi giẫm chân lên chúng, trái tim ta bỗng trở nên yếu mềm trong khoảnh khắc. Lá sáng bóng, quả hấp dẫn, tiếng chim kêu lảnh lót, tiếng ve kêu râm ran, tất cả hòa trộn trong màn mưa khói giăng giăng kín trời, như thể đang cử hành một buổi yến tiệc vui vẻ rực rỡ sắc màu giữa trời đất, khiến cho nỗi cô đơn cũng phải nở hoa.
Dừng chân trên con đường đá xanh rêu, ngắm mây màu biến ảo lúc tụ, nhìn những vệt sóng sáng loang loáng trong hồ, ngắm mưa phùn rây rắc như tơ bay bay. Ngọn núi phía xa xa chìm trong tầng mây đỉnh cao gần đó xanh đến nhức mắt, còn có hồ nước bồng bềnh khói sóng, tùng bách cheo leo trên vách đá, suối trong réo rắt trong sơn cốc, đạo quán giữa gió mát núi xanh. Đứng giữa nơi núi non sương khói trong mộng ấy, sao có thể không kinh ngạc cảm thán trước sự thần kỳ của tạo hóa? Phải có khí vị phong độ đến nhường nào mới có thể tạo nên vạn vật linh thiêng thuần túy đến nhường ấy?
Con người bước đi giữa thiên nhiên, giống như chú chim mỏi mệt muốn tìm chiếc tổ của riêng mình. Chỉ là, núi trống nước xa, không bờ không bến, rời khỏi tự nhiên, biết tìm đâu sự chân thực vĩnh hằng? (5)
Tiếng chuông lãng đãng trong không trung đang đánh thức người chìm trong giấc mộng, đạo quán tọa lạc trên đỉnh của tiên đảo, giữa sâu thẳm mây mù. Tôi cứ đi về phía chân trời, mới có thể đến được nơi Thái Hư ảo cảnh. Dòng thác trắng xóa từ trên núi đổ xuống suối rồi linh hoạt chuyển dòng. Nhặt một viên đá ném xuống nước, nhìn sóng nước lăn tăn hồi lâu, cho đến khi làn sóng ấy biến mất không còn dấu vết.
Bước vào đạo quán, khói nhẹ chờn vờn, vài người khách hành hương đang thắp hương khấn vái ở những nơi khác nhau. Mấy cây cổ thụ trước cửa, bị tháng năm ăn mòn nên đã để lại những vệt loang lổ in dấu thời gian. Những vết tích ấy mang lại một màu sắc tang thương, buồn bã cho tòa đạo quán này.
Bước qua ngưỡng cửa bằng gỗ, mấy đạo sĩ trẻ tuổi tay cầm phất trần, ngồi xem bói cho du khách bên trong. Ngày thường tôi chỉ biết sự cô đơn của chữ nghĩa, mà không đọc ra được sự cô đơn của nhân sinh? Tuổi trẻ của họ đã bị phong bế trong tường cao viện sâu này, cuộc đời trở nên cô đơn, kinh văn cũng trở nên cô đơn.
Trên bức tường có khắc hình mấy nhân vật Đạo gia, toàn thân toát lên vẻ tiên phong đạo cốt, gột sạch những trần ai của tục thế. Lên lầu nhìn ra xa, trong mưa khói, trời đất mờ mịt, núi non im lìm. Những vết thương từng ăn mòn xương cốt và những niềm vui đã quên mất dáng hình đều đã lãng quên, không biết đây là một sự mất mát hay là một sự hồi sinh?
Gặp gỡ ngắn ngủi có thể chỉ trong khoảnh khắc, nhưng cũng có thể là cả một đời.
(6)
Con đường về là con đường khi tới, mà cũng không phải là con đường khi tới, dường như đã không còn nhớ nổi nữa.
Mưa và sương xỏ thành bức rèm châu nhỏ tí tách từ trên những cành cây, giống như từng hạt trái tim trong vắt, đang ước ao được như một tinh linh biết nói chuyện. Sắc chiều dần buông, ánh sóng trong hồ tản mát hết, chim bay tìm chốn trú ngụ, người đánh cá quay về, chỉ có ông lão buông cần vẫn đang nhàn nhã đối mặt với non nước, uống rượu vui thú một mình.
Một chiếc thuyền gỗ buông lơi bên bờ, cụ già chèo thuyền hút điếu cày chờ đợt dòng người thưa thớt. Cũng có cả chiếc thuyền lớn đậu bên bến, chuyên chở những du khách muốn quay lại bờ bên kia. Mặc dầu không có tâm trạng nhàn nhã như khi đến, nhưng vẫn ngồi lên thuyền gỗ để qua hồ. Mặc dầu không có ánh chiều tà làm bạn, nhưng vẫn khua mái chèo gạt mưa khói để quay về.
Không thể dựng nhà tranh để ở, không thể nương náu nơi cảnh Thiền non nước. Đi men theo bờ hồ ẩm ướt, hái một cành hoa sen, trên con đường núi chìm trong sương khói, không biết đường về nơi nao, không biết ngày về bao giờ.
Tôi chỉ là một trong vô số người lữ hành trong Thái Hồ, không cần ai nhớ tôi đã tới đây hay chưa, đã đi hay chưa. Chỉ là, mưa khói Thái Hồ khiến tôi nhớ đến giấc mộng kiếp trước đã đánh mất, mà đời này, lại vẫn đi xuyên qua giấc mộng.
Vậy hãy để tôi thu nhặt những hạt sương trong lành đọng trên lá sen, ủ một ly rượu hoa sen, chôn xuống nơi sâu kín của năm tháng. Giữa non nước nâng chén sinh mệnh yếu mềm, mặc cho tuổi xuân già đi, mặc cho vẻ đẹp hoang tàn, cũng phải uống thỏa thuê cõi đời này!.
Ánh mặt trời trong trẻo dịu dàng hắt xiên lên mặt Tây Hồ, những sóng nước lăn tăn đang trêu ghẹo tâm sự của ai? Một chiếc thuyền con neo giữa hoa sen, lặng ngắm trăng tròn hoa nở, biển thế nổi chìm. Lúc này, mắc kẹt là năm tháng của ai; cô đơn, là cuộc đời của ai?
Những viên ngọc long lanh như sương mai đó phải chăng là những giọt lệ đa tình của Tô Tiểu Tiểu? “Thiếp thừa du bích xa, lang kỵ thanh thông mã. Hà xứ kết đồng tâm, Tây Lăng tùng bách hạ?” Nhớ lại cảnh tượng tình mềm tựa nước năm đó, mối tình “nhất kiến khuynh tâm[7]” của Tô Tiểu Tiểu và Nguyễn Uất, Tây Hồ dường như lại thêm sắc màu ấm cúng.
[7] Nhất kiến khuynh tâm: Vừa gặp đã say mê.
Phồn hoa như mộng, năm tháng dễ tan. Biết bao lần chong đèn mà vẫn không ngủ được, biết bao lần từ trên lầu cao ngóng người mà chẳng thấy. Cuối cùng nàng vẫn nếm hết nỗi tương tư, bỏ lỡ vẻ đẹp của hoa thắm trăng tròn.
“Sinh vu Tây Lãnh, tử vu Tây Lãnh, mai cốt vu Tây Lãnh, thứ bất phụ ngã Tô Tiểu Tiểu sơn thủy chi tích.” (Sinh ở Tây Lãnh, chết ở Tây Lãnh, vùi xương nơi Tây Lãnh, ngõ hầu chẳng phụ tính mê non nước của Tô Tiểu Tiểu ta) Non nước Tây Hồ, đã nuôi dưỡng linh tính của Tô Tiểu Tiểu. Người con gái này đã viết quá nhiều những câu thơ đa tình, đã từng ngắt những nhành dương liễu biệt ly, đã từng rơi giọt lệ tương tư. Ở Giang Nam đình viện sâu hun hút, ánh trắng là chiếc giường ấm áp cho nàng nằm, hồn phách chẳng nơi ký thác đó đã hoàn toàn dung hòa với non xanh nước biếc Tây Hồ, có lẽ chỉ có như Thế Âmới có thể an ủi tâm tình “nhập thể” của nàng, không phụ mối tình một đời của nàng.
(3) Trăng thu hồ biếc
Giang Nam ức, tối ức thị Hàng Châu
Sơn tự nguyệt trung tầm quế tử, quận đình chẩm thượng khán hồ đầu.
Hà nhật cánh trùng du?
(Giang Nam nhớ, nhớ nhất chính là Hàng Châu. Chùa núi dưới trăng tìm quế tử, quận đình trên gối ngắm trào đầu. Nào dịp lại trùng du?[8])
[8] Bạch Cư Dị, tác phẩm “Ức Giang Nam” (Nhớ Giang Nam), dịch thơ Nguyễn Chí Viễn.
Gió mát kinh động ánh trăng, lá đỏ nhuộm rực non xanh. Tiếng chuông bay bổng chốn xa đang chầm chậm vọng lại sơn tự, hoa quế bóng hương lững lờ đậu trên con đường đá xanh rêu. Những hành lang vẽ tranh sơn thủy màu sắc ngập ánh hoàng hôn, để lại một khung nên thơ khó tả thành lời cho Tây Hồ.
Những cụ già đang thưởng ngoạn phong cảnh trước gió dưới ánh chiều tà hắt xiên, cạnh mình đeo một bầu rượu hoa quế hoa thơm nồng, nhàn tản, điềm tĩnh, cái họ theo đuổi là một cảnh ý không sơn không thủy. Những du khách đang chèo thuyền trên mặt hồ trong đêm trăng soi sương giăng đó, trong tay nâng một ly trà Long Tỉnh Tây Hồ, tao nhã tự tại, cái họ đang thưởng thức chính là một chén nhân sinh ý vị sâu xa.
Trên mặt hồ in bóng những ngọn đèn lung linh của thành thị, khoảng trời đầy sắc màu lấp lánh đó tô điểm cho suy nghĩ của người đời nay. Trên Tây Hồ trăng sáng treo cao, sóng nước lấp loáng, những nhân vật trong những câu chuyện đang chảy qua vẫn rõ rệt như xưa.
“Dục tương thử ý bằng hồi trác, báo dữ Tây Hồ phong nguyệt tri.” (Muốn mang tình ý quay về, để cho trăng gió Tây Hồ cùng hay) Bóng dáng thanh tú gầy guộc ấy, là Bạch Cư Dị chán nản tha phương chăng? Từ khi nào ông đã coi thường danh lợi, gửi tình vào sắc nước non sông, lưu tình vào họa cảnh khói sóng, làm một nhã khách tìm gió câu trăng, tung tích tựa mây trắng? Có lẽ chỉ có non nước Tây Hồ mới có thể hiểu được phong sương nửa đời của ông.
Tiết trời lạnh lẽo, ngôn ngữ cũng mất đi màu sắc. Năm tháng tịch liêu, núi sông cũng quên mất hẹn thề. Còn trăng thu Tây Hồ, lại chọn lựa lặng im.
(4) Tuyết lạnh vườn mai
Chúng phương dao lạc độc huyên nghiên, chiếm tận phong tình hướng tiểu viên. Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển, ám hương phù động nguyệt hoàng hôn.
(Chúng hoa rụng hết chỉ mai còn, độc chiếm khu vườn một mảnh con. Thưa bóng đâm nghiêng lan mặt nước, thoảng hương tỏa xuống động hoàng hôn)
(Tống, Lâm Bô, “Sơn viên tiểu mai”, dịch thơ Điệp Luyến Hoa[9])
[9] Bản dịch thơ trích từ thivien.net.
Những đóa hoa tuyết dày, nhẹ rơi khắp trên mặt hồ phẳng như gương chớp mắt đã tan đi trong nước, tan thành nước lạnh trong suốt của hồ Tây Tử, thấm đẫm tâm tư nhạy cảm của thi nhân, trở thành cảnh thơ hồn hoa “sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển, á hương phù động nguyệt hoàng hôn.” Tuyết trắng trong veo bên hồ, lấp lóa như in bóng bầu trời điểm xuyết những vì sao nhấp nháy. Nơi ánh sáng, nước hồ và bầu trời giao nhau, nhụy hoa trắng tinh từng bung nở trên tuyết, dùng hương thơm mát lành tấu lên một khúc từ phong nhã thiên cổ.
Gió cũng có hình bóng, nó đi qua xuân thu Tây Hồ, trong hoàng hôn vắng lặng, với ráng chiều rực rỡ mà rõ nét. Hoa mai mỏng mảnh mà lạnh lẽo, cô độc gối đầu lên ánh trăng. Điệu sáo dặt dìu say đắm lòng người tách ra khỏi sự vắng lặng của đêm đông, cuốn theo hương thơm thoang thoảng, tinh tế của hoa mai. Trong đình Phóng Hạc còn có một thi nhân hao gầy, trong những tháng ngày nhàn nhã coi mai là vợ, coi hạc là con, lặng lẽ giữ chút yên tĩnh của tâm hồn này[10]. Giống như ánh trăng chờ đợi ở Tây Hồ, ngàn năm trôi qua, trầm lặng tựa nước, nhưng lại lưu chuyển cả sóng biếc âm trong chẳng đổi thay.
[10] Lâm Bô thích mai và hạc, lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con.
Bên đê tuyết bờ liễu đó, là ai say mê thi phong từ vận, giãi bày cảm hứng hiện thời, tìm tìm kiếm kiếm ở Tây Hồ cổ kính, lại đi đi dừng dừng giữa đô thị phồn hoa tựa gấm.
Thư văn hết mà lòng chưa dứt, đàn băng đứt mà âm còn vương. Hôm qua, đã cùng với sóng hồ in bóng ráng chiều, say ngủ thành một đóa sen rẽ ánh trăng loang loáng như nhảy múa. Tây Hồ sóng biếc lăn tăn của ngày hôm nay, tựa như điệu sáo xưa đã chìm đắm cả ngàn năm. Rất nhiều ký ức xưa cũ nào giữ lại được, chiếc thuyền con buông trôi dưới gốc liễu rủ đã chèo qua cả đời người sáng rõ, trong vắt, nhàn nhạt.
Đi xa rồi vẫn sẽ về gần, đợi chờ không còn kéo dài. Quẩn quanh trong giấc mộng bốn mùa uyển chuyển của Tây Hồ, trong mộng, vẫn còn Giang Nam xóa chẳng tan, chẳng hết.
Thái Hồ mây khói
(1)
Vội vàng đến với mưa khói Thái Hồ như thể vội vàng đến với một cuộc hẹn đã có từ kiếp trước. Hẹn ước này, ngàn cánh buồm trôi qua, khiến tôi đã dạo đủ ba kiếp ba đời trong nhân gian mênh mông, mới đến được góc nhỏ chứa đầy mây khói đó. Chỉ đến lúc mưa rơi, tại điểm dừng của sinh mệnh mới xuất hiện sự khởi đầu của nỗi cô đơn tịch mịch.
Người nói, non nước luôn ở trong tim ta, chỉ cần chảy qua dòng sông thời gian là có thể tìm đến nơi mơ ước. Tôi từ nơi xa xôi cách biệt thế gian, giẫm lên những đường hoa văn đậm nhạt của vận mệnh, nhưng vẫn không đi thoát khỏi một đoạn tháng năm trưởng thành.
Tất cả con đường đều bị trùng trùng sương khói che phủ, đi xuyên qua, là sẽ đến con đường về với hồng trần hỗn độn. Nhưng tôi nên tiếp tục đi, hay là nên dừng chân nhìn ra xa? Có thể khi vứt bỏ được những chi tiết thăng trầm nhỏ nhoi, giữa vùng núi non bị lá nhuộm đỏ ối tôi sẽ thong thả chậm bước qua về.
Thực ra, tất cả mọi con đường trên thế gian đều giống nhau, bờ bên này và bờ bên kia chỉ cách có một màn mưa mù mịt. Nhưng tôi có thể viết sự hoang lạnh thê lương thành tươi đẹp sáng lạn, viết sự cô đơn tịch mịch thành xuân thu hoa lệ.
(2)
Hơi ẩm ướt đẫm trong không khí, những làn khói nhẹ màu trắng sữa biến hóa kỳ ảo trên tầng mây cao cao, những hạt mưa trong suốt như khảm vào khung cảnh non xanh nước biếc. Thi thoảng có cánh chim cô lẻ lướt qua những cành cây xanh thẫm, trong mưa khói mịt mờ, chúng đi tìm khung trời thuộc về riêng mình. Còn tôi vẫn không hề dừng lại, mà cứ đi thẳng về phía trước.
Dạo bộ trong mưa là một hứng thú nhàn tản tuyệt diệu không thể nói thành lời. Nước lan tràn khắp nơi, tựa như những bi thương chảy ào ào vô tận. Lá cây giữa núi bay lả tả trong im lặng, những cây thạch lựu trong bụi cỏ hoa vẫn còn đỏ rực, hoa sen trong hồ vẫn im lìm cô đơn say ngủ. Có lẽ, chỉ có khoảnh khắc này đây, tôi mới có thể dừng bước tạm nghỉ, để cho tâm hồn lãng đãng trôi xa.
Ngồi trên tảng đá ngắm những hoa súng đủ màu, bông trắng, bông vàng, bông đỏ, bông tím, khoác những chiếc áo màu của tự nhiên, xòe những cánh hoa nhỏ nhắn xinh đẹp, thì thầm như nói mơ. Hoa sen lay động như múa, mang một vẻ nên thơ tao nhã, cánh hoa trắng muốt lặng lẽ rơi giữa ngàn vạn chiếc lá, tư thế tựa hoa tuyết, gợi nên nỗi nhớ nhung đằng đẵng. Những bông hoa cánh hồng phơn phớt, nhụy vàng, đài xanh nghiêng đầu soi bóng xuống mặt hồ lăn tăn gợn sóng. Những hạt sương trong vắt như ngọc còn đọng trên cánh sen ấy ánh lên sắc long lanh, lăn qua lăn lại trên lá sen, như những giọt lệ đa tình của thiếu nữ Giang Nam, thấm đẫm cái lạnh lẽo đến tận xương cốt.
Hoa súng và hoa sen dường như đã gắn với rất nhiều gút mắc tình cảm trong suốt cuộc đời tôi. Linh hồn tôi ký thác vào mỗi khi hoa nở hoa tàn, mỗi buổi hoàng hôn buông xuống, tâm sự trùng trùng cũng theo đó dần dần tiêu tán bớt đi. Ngẫm lại, hoa sen hay hoa súng rốt cuộc đều phải tàn úa, đời người vẫn phải hạ màn. Những đau thương của thế sự, quá nhẹ nhàng thì khó tránh khỏi không chân thật, quá nặng nề thì khó trách khỏi gánh vác nặng trên vai. Đến khi già đi, tất cả đều chỉ còn là vết tích.
Bốn mùa trầm lặng, ngôn ngữ mất đi sắc màu; tháng năm tịch mịch, non nước lãng quên thề hẹn.
(3)
Thái Hồ sương khói mờ mịt, mênh mang nhìn chẳng thấy bờ, núi xanh lặng lẽ ẩn mình. Gió mát khẽ thổi, mặt hồ gợn lên từng vòng sóng hình tròn ốc, mưa rơi trên mặt hồ tạo thành từng bông hoa nước nho nhỏ, xinh xinh. Tảo xanh trôi dạt xô bờ, xanh tĩnh lặng hiền hòa, xanh trấn tĩnh bình thản, xanh rờn rợn chảy trôi, trong không khí ngập tràn mùi hương ngai ngái của màu xanh ấy.
Một hòn tiên đảo nổi giữa hồ, lên thuyền qua cầu là đến nơi Thái Hư ảo ảnh. Tìm một chiếc thuyền gỗ chèo ra đảo, cụ già chèo thuyền mặc áo tơi nón lá, những nếp nhăn trên gương mặt như làn sóng lan chằng chịt trên mặt hồ. Ngồi trên thuyền, bỗng cảm thấy thân mình nhẹ bỗng, cúi đầu xuống nước, những xốc nổi do hồng trần tiêm nhiễm đã trở nên trầm lắng.
Trong mây mù xuất hiện chiếc thuyền cổ có bảy cột buồm, lướt qua bên cạnh, hướng về phương xa, dần dần chỉ còn là một chiếc bóng nhỏ bé mờ nhạt, khiến bạn ngậm ngùi mãi lâu. Suốt chặng đường mưa dập gió vùi, chẳng biết đến bao giờ mới đến được bến cảng để dừng thuyền cập bến?
Bờ bên này dẫn xa, bờ bên kia dần gần. Lầu gác và tháp cổ trên đảo càng lúc càng hiện ra rõ ràng, mây khói bao phủ, tựa như lạc vào chốn Bồng Lai tiên cảnh. Xuống thuyền lên bờ không quay lại nhìn về hướng ta vừa tới nữa. Mấy chiếc thuyền bắt cá con con buộc neo bên chiếc đình bên bờ, ngư dân trên thuyền mời mọc du khách mua ít đặc sản của hồ vừa mới đánh bắt được. Mặc áo tơi lá đi qua mưa gió, chứng kiến cuộc đời không oán không hận của họ. Cảm xúc ấy khiến khóe mắt bỗng ẩm ướt như thủy triều trào dâng.
Cây cầu cổ vắt ngang mặt hồ, gió nhè nhẹ thổi, luồn lách trong hành lang ven hồ. Nhìn ra phía xa, chỉ tuyền một màu, ấy là màu mênh mênh mang mang. Đi qua cây cầu này, có lẽ có thể tìm được nơi chốn để một đời hướng về.
(4)
Bên bờ hồ có vài cụ già đang buông cần câu trong mưa khói, bên hông còn đeo một bình rượu lâu năm hoặc một bình trà đặc, trông vô cùng nhàn tản, thú vị. Khi con người ta già đi, ân oán tình thù đều tiêu tan hết thảy, có lẽ chỉ có khung cảnh đầy cổ kính sáng câu cá kiếm củi, chiều nhóm bếp nấu cơm là khiến ta tu tâm dưỡng tính nhiều hơn.
Mấy thân liễu phất phơ như múa lượn trong gió, dáng liễu thướt tha buông rủ xuống tháng năm xanh biêng biếc. Chim bay trong màn mưa, trên những lầu gác im lìm, cối xay nước bằng gỗ chuyển động không biết mệt mỏi, phát ra những âm thanh kẽo cà kẽo kẹt, như lặp lại những bản dân ca từ thời viễn cổ.
Trong núi, lá thông rụng đầy mặt đất, trúc biếc từng bụi um tùm, rất nhiều loài hoa dại không biết tên rụng rải rác trên mặt đất ẩm ướt, khi giẫm chân lên chúng, trái tim ta bỗng trở nên yếu mềm trong khoảnh khắc. Lá sáng bóng, quả hấp dẫn, tiếng chim kêu lảnh lót, tiếng ve kêu râm ran, tất cả hòa trộn trong màn mưa khói giăng giăng kín trời, như thể đang cử hành một buổi yến tiệc vui vẻ rực rỡ sắc màu giữa trời đất, khiến cho nỗi cô đơn cũng phải nở hoa.
Dừng chân trên con đường đá xanh rêu, ngắm mây màu biến ảo lúc tụ, nhìn những vệt sóng sáng loang loáng trong hồ, ngắm mưa phùn rây rắc như tơ bay bay. Ngọn núi phía xa xa chìm trong tầng mây đỉnh cao gần đó xanh đến nhức mắt, còn có hồ nước bồng bềnh khói sóng, tùng bách cheo leo trên vách đá, suối trong réo rắt trong sơn cốc, đạo quán giữa gió mát núi xanh. Đứng giữa nơi núi non sương khói trong mộng ấy, sao có thể không kinh ngạc cảm thán trước sự thần kỳ của tạo hóa? Phải có khí vị phong độ đến nhường nào mới có thể tạo nên vạn vật linh thiêng thuần túy đến nhường ấy?
Con người bước đi giữa thiên nhiên, giống như chú chim mỏi mệt muốn tìm chiếc tổ của riêng mình. Chỉ là, núi trống nước xa, không bờ không bến, rời khỏi tự nhiên, biết tìm đâu sự chân thực vĩnh hằng? (5)
Tiếng chuông lãng đãng trong không trung đang đánh thức người chìm trong giấc mộng, đạo quán tọa lạc trên đỉnh của tiên đảo, giữa sâu thẳm mây mù. Tôi cứ đi về phía chân trời, mới có thể đến được nơi Thái Hư ảo cảnh. Dòng thác trắng xóa từ trên núi đổ xuống suối rồi linh hoạt chuyển dòng. Nhặt một viên đá ném xuống nước, nhìn sóng nước lăn tăn hồi lâu, cho đến khi làn sóng ấy biến mất không còn dấu vết.
Bước vào đạo quán, khói nhẹ chờn vờn, vài người khách hành hương đang thắp hương khấn vái ở những nơi khác nhau. Mấy cây cổ thụ trước cửa, bị tháng năm ăn mòn nên đã để lại những vệt loang lổ in dấu thời gian. Những vết tích ấy mang lại một màu sắc tang thương, buồn bã cho tòa đạo quán này.
Bước qua ngưỡng cửa bằng gỗ, mấy đạo sĩ trẻ tuổi tay cầm phất trần, ngồi xem bói cho du khách bên trong. Ngày thường tôi chỉ biết sự cô đơn của chữ nghĩa, mà không đọc ra được sự cô đơn của nhân sinh? Tuổi trẻ của họ đã bị phong bế trong tường cao viện sâu này, cuộc đời trở nên cô đơn, kinh văn cũng trở nên cô đơn.
Trên bức tường có khắc hình mấy nhân vật Đạo gia, toàn thân toát lên vẻ tiên phong đạo cốt, gột sạch những trần ai của tục thế. Lên lầu nhìn ra xa, trong mưa khói, trời đất mờ mịt, núi non im lìm. Những vết thương từng ăn mòn xương cốt và những niềm vui đã quên mất dáng hình đều đã lãng quên, không biết đây là một sự mất mát hay là một sự hồi sinh?
Gặp gỡ ngắn ngủi có thể chỉ trong khoảnh khắc, nhưng cũng có thể là cả một đời.
(6)
Con đường về là con đường khi tới, mà cũng không phải là con đường khi tới, dường như đã không còn nhớ nổi nữa.
Mưa và sương xỏ thành bức rèm châu nhỏ tí tách từ trên những cành cây, giống như từng hạt trái tim trong vắt, đang ước ao được như một tinh linh biết nói chuyện. Sắc chiều dần buông, ánh sóng trong hồ tản mát hết, chim bay tìm chốn trú ngụ, người đánh cá quay về, chỉ có ông lão buông cần vẫn đang nhàn nhã đối mặt với non nước, uống rượu vui thú một mình.
Một chiếc thuyền gỗ buông lơi bên bờ, cụ già chèo thuyền hút điếu cày chờ đợt dòng người thưa thớt. Cũng có cả chiếc thuyền lớn đậu bên bến, chuyên chở những du khách muốn quay lại bờ bên kia. Mặc dầu không có tâm trạng nhàn nhã như khi đến, nhưng vẫn ngồi lên thuyền gỗ để qua hồ. Mặc dầu không có ánh chiều tà làm bạn, nhưng vẫn khua mái chèo gạt mưa khói để quay về.
Không thể dựng nhà tranh để ở, không thể nương náu nơi cảnh Thiền non nước. Đi men theo bờ hồ ẩm ướt, hái một cành hoa sen, trên con đường núi chìm trong sương khói, không biết đường về nơi nao, không biết ngày về bao giờ.
Tôi chỉ là một trong vô số người lữ hành trong Thái Hồ, không cần ai nhớ tôi đã tới đây hay chưa, đã đi hay chưa. Chỉ là, mưa khói Thái Hồ khiến tôi nhớ đến giấc mộng kiếp trước đã đánh mất, mà đời này, lại vẫn đi xuyên qua giấc mộng.
Vậy hãy để tôi thu nhặt những hạt sương trong lành đọng trên lá sen, ủ một ly rượu hoa sen, chôn xuống nơi sâu kín của năm tháng. Giữa non nước nâng chén sinh mệnh yếu mềm, mặc cho tuổi xuân già đi, mặc cho vẻ đẹp hoang tàn, cũng phải uống thỏa thuê cõi đời này!.
Hồ Kanas bốn mùa
Nếu như cho bạn một khoảng thời gian trống vắng, bạn sẽ lựa chọn đồng hành cùng Kanas, dùng nước hồ Kanas để lấp đầy sự trống trải trong tim. Bước vào Kanas, là tìm đến một thánh địa thanh tịnh của bộ lạc cổ xưa, là lần giở một bức tranh thần kỳ đã bị đóng kín ngàn năm, cũng là mở ra một con đường tâm linh thấu suốt của nhân sinh.
Luân chuyển trong sự lãng mạn nên thơ muôn vàn hình thái, trầm lắng trong nước hồ tinh khiết bốn mùa của hồ Kanas. Bạn không thể tin rằng, sinh mệnh sẽ được sinh ra một lần nữa vì một mặt hồ này, đời người sẽ trở nên trong vắt vì một cõi tịnh thổ, linh hồn sẽ cảm động vì một nền văn minh.
Mùa xuân – Hồ nước trong vắt
Lắng nghe tiếng nước suối chảy róc rách giòn giã, cứ thể là bước vào mùa xuân của hồ Kanas. Vạn vật bừng tỉnh dưới sông băng nhảy nhót phát ra những âm điệu linh động, tấu vang khúc nhạc mùa xuân của Kanas, cùng vén bức rèm thần kỳ bí của vùng đất này. Ở nơi đây, mây trắng là nhà của linh hồn bạn; ở nơi đây, nước hồ là câu chuyện cổ tích vĩnh viễn; ở nơi đây, sẽ không có tuổi xuân bị già đi.
Tháng năm đã lưu giữ lại một khoảng yên tĩnh tự nhiên ở hồ Kanas, sau đó, chẳng còn bụi trần nào có thể rơi xuống nữa. Mùa xuân Kanas mang một vẻ thanh tân như đã qua nước xanh leo lẻo lọc rửa, bạn đến nơi đây là có thể tìm thấy một quãng thời gian đẹp đẽ nhất cuộc đời.
Đây là một mùa đẫm sắc xanh, từng đàn bò, cừu nhởn nhơ gặm cỏ, những người chăn bò, chăn cừu uống say ráng mây màu mùa xuân, nước hồ như ngọc bích khảm vào dãy núi, từ trong rừng xanh thăm thẳm lờ mờ vẳng đến tiếng chim hót líu lo. Ngày xuân oanh chao én liệng, hoa cỏ tốt tươi, khiến cho cuộc kiếm tìm lưu giữ được vẻ tươi đẹp, cuộc tương phùng tràn đầy vui sướng, câu chuyện thấm đẫm tình cảm dịu dàng.
Đi lang thang trong biển hoa muôn hồng ngàn tía, bằng sự thần kỳ của mình, hồ Kanas đã nhìn thấu tâm hồn chúng ta. Bạn ngửi thấy một mùi vị quen thuộc trong cơn gió thoảng trong lành, dường như bạn đã từng gặp gỡ cỏ cây, hồ nước của nơi này từ rất nhiều năm về trước, nhưng rõ ràng cũng xa cách biết bao. Cho dù bạn mang đến đây bao nhiêu tâm sự thế tục, cho dù nơi đây ẩn chứa bao nhiêu bí mật thầm kín, thì chính giờ khắc này, bạn đã hoàn toàn hòa mình vào phong cảnh thanh khiết của Kanas. Chính vào giờ khắc này, bạn và người của dân tộc Đồ Ngõa đã cùng sống dưới một bầu trời xanh, cùng có một mặt hồ trong suốt, cùng chung một mộng tưởng điềm nhiên vui vẻ.
Ánh nắng mùa xuân nơi đây sáng bừng như lưỡi dao, tháng năm đến trong im lặng, con người sống ở nơi đây đời này qua đời khác, đã chung sống cùng thiên nhiên từ rất lâu đời. Thế sự trôi chảy theo nước hồ, không lưu lại bất kỳ dấu vết nào. Bạn đứng bên bờ hồ Kanas sáng như gương, trong chiếc bóng rõ ràng phản chiếu dưới hồ, dường như chưa từng có ngày hôm qua, mà tương lai cũng chắc chắn sẽ tinh khiết như ngày hôm nay. Thời gian nơi đây sẽ nói cho bạn biết, chỉ cần còn là một chiếc lá xanh, còn một giọt nước hồ, còn một làn mây trắng, hồ Kanas sẽ vĩnh viễn tươi đẹp, vĩnh viễn thiêng liêng và trong sạch.
Trong những ngày gió xuân say đắm, không hẹn mà gặp rất nhiều mục dân đang di chuyển, họ đang lùa bầy dê, đi lên mục trường trên núi cao, dựng lều dạ, xây nhà mới. Quá trình ấy như lạnh chuyển sang ấm, là phong tục lưu truyền đã ngàn đời nay. Mà sau mùa xuân là mùa hạ, dường như sẽ tới vào ngày mai.
Hồ nước trong veo, phản chiếu bóng dáng những người dân ấy đang vung roi tiến bước, cũng phản chiếu cuộc đời êm đềm và giản dị của họ. Phút giây này, bạn sẽ hiểu rằng, núi có vẻ trong sáng của núi, nước có sự thoát tục của nước, bạn có sự ung dung của bạn, họ có sự điềm tĩnh của họ.
Mùa hạ – Hồ nước tươi mát
Đều nói hồ Kanas trong những ngày hè đẹp như một giấc mộng, chỉ khi bạn tiến lại gần, đi qua làn sương mù bàng bạc tươi mát của thời gian, bạn mới biết rằng, giấc mộng nơi này vốn đều được khoác lên một chiếc áo màu rực rỡ của tự nhiên. Có lẽ, hồ nước Kanas có thể thực sự xây dựng nên mộng ước. Cho dù bạn là khách qua đường, hay là người trở về, đều có thể ấp ủ một giấc mộng của riêng mình và ký gửi giấc mộng ấy ở nơi đây. Đợi đến năm sau, lại đến mở ra, hoặc là, mượn tình cảnh non nước Kanas để đóng kín một đời.
Hồ Kanas vào mùa hạ thường tràn ngập sương mù mờ mịt mông lung, sương mù mờ ảo khiến người ta như đang dạo chơi chốn tiên cảnh Dao Trì. Những người đến đây đều muốn đi qua màn sương ấy, tìm kiếm bí mật thất lạc nơi sâu thẳm của núi hồ, tìm hiểu văn hóa xa xôi lâu đời của bộ lạc cổ xưa. Nơi đây còn lưu giữ totem của văn minh thượng cổ, ngưng tụ những biến đổi lịch sử, và cũng chuyển tải biết bao câu chuyện nhân sinh. Năm đó, khi vị anh hùng Thành Cát Tư Hãn giương cung bắn đại điêu khởi quân chinh Tây, thúc ngựa vung roi, vượt sông băng núi, vùng đất rộng lớn bị cờ quạt phần phật phất qua này, đến nay vẫn siêu trần thoát tục như thế. Nghe nói, trong núi hồ Kanas còn có thể tìm thấy dấu tích của Thành Cát Tư Hãn. Một câu chuyện cũ từ ngàn thu đã lấp đầy nước hồ tinh khiết Kanas như thế đó.
Như cảnh vật giữa làn sương mù dày đặc, ban đầu bạn có thể nhìn thấy mây bay vạn trạng, đến phút cuối cùng, cảnh vật đó lại quay trở về trạng thái trong suốt ban đầu. Hái một đóa hoa thơm, để nhuốm đẫm vẻ đẹp của hồng trần; vốc một chút nước hồ mát mẻ, để rửa sách gió sương của nhân thế. Linh hồn trở nên sống động trong cảnh tượng xanh biêng biếc của mùa hạ, cuộc sống trở nên yên lặng trong thế giới thiên nhiên mới mẻ. Hồ nước thanh tịnh này có thể khiến bạn thực sự nắm giữ được hiện tại, cũng có thể triệt để tìm về quá khứ, càng có thể nhìn thấu rõ ngày mai.
Những căn lều dạ nhà gỗ trải dài dưới bầu trời xanh, mỗi một căn đều có thể ký gửi hành lý nặng trĩu, đều là cố hương của linh hồn. Mục dân nơi đây cho dù trải qua bao nhiêu vận mệnh chuyển dời, cho dù chịu bao nhiêu luân hồi tụ tan, Kanas vẫn là mái ấm suốt đời của họ. Dấu chân họ không bưng qua dlãnh thổ này, tình cảm của họ không vượt ngoài non nước nơi đây, họ chăn thả mây trắng của Kanas, mà nước hồ Kanas đã bảo vệ che chắn cho những giấc mộng thuần phác của họ.
Ánh trăng rớt xuống mặt hồ, phản chiếu chiếc bóng mát rượi, giống như một lời hẹn ước của mùa hạ. Nơi khói bếp bốc lên, chính là mái nhà đơn sơ của dân du mục. Rượu sữa thơm lừng, trà nóng hôi hổi, ăn phó mát sữa, dù bạn đến từ chân trời cũng biết rằng, có một vùng tịnh thổ là nỗi nhớ của cuộc đời bạn. Không có sóng to gió lơn, không có phong nhã vô biên, hết thảy đều bình dị mộc mạc như thế. Trước khi bạn đến, hồ Kanas là một câu chuyện thần thoại xa vời; sau khi bạn đi, hồ Kanas đã là mái nhà vĩnh viễn của linh hồn bạn.
Mùa thu – Hồ nước trầm tĩnh
Dưới ánh sáng mùa thu, hồ nước trở nên trầm tĩnh, giống như một viên mỹ ngọc tự nhiên không tỳ vết, bị năm tháng mài mòn đến mức trơn bóng vô cùng chứa đựng đầy linh tính. Bạn bước vào hồ thu Kanas, cuộc đời cũng dần dần viên mãn, con người dần trở nên trưởng thành trong khoảng ánh sáng, sóng nước màu vàng kim này.
Kanas vào thu như một bức tranh hoa lệ rực rỡ, mây trắng là bối cảnh, hồ nước là phông nền, sinh mệnh là tình cảm. Núi cao rừng rậm, sóng nước cây thưa, dân du mục đuổi theo bóng dáng của bầy dê, bầy cừu, đều được đặt trong bức tranh ấy. Những cây bu-lô thẳng tắp, những cây thông rụng lá (Larix) cao chót vót, thông trắng Nhật Bản xanh mướt mát, còn cả vân sam ngay ngắn và lãnh sam xinh đẹp, đều trải dài thành một bức tranh hùng vĩ. Cảm xúc dạt dào tuôn trào trong thủy mặc, những tâm tình được buông xả, nay trở nên trầm tĩnh trong cảnh hồ nước. Hồ Kanas mùa thu tựa như một bàn cờ bày trước thiên nhiên, phong cảnh tươi đẹp như những quân cờ đặt nhầm chỗ nhưng không hỗn loạn, dày đặc nhưng không ồn ào. Cho dù bạn là một người khách mưu cầu danh lợi thế gian, nhưng đối diện với trời mây cao tít tắt, nước hồ mênh mang của mùa thu này, bạn sẽ cam tâm tình nguyện trầm luân một đời nơi đây. Bởi vì, chỉ có dùng một trái tim, một linh hồn thuần khiết, mới có thể giải được thế cờ thần bí này của Kanas.
Bước đi vội vã hối hả để rồi cúi đầu trầm tư trước nước hồ mênh mang. Nước hồ của tiết trời thu muộn đã chuyển sang màu trắng sữa, tựa hồ những đám mây trắng xóa như tuyết đều rót hết vào lòng hồ. Những người Đồ Ngõa cần cù chân chất, buông lưới bắt cá trong Bạch Hồ rộng lớn, cảm nhận được niềm hân hoan của sự thu hoạch. Đối diện với sự tự nhiên và hài hòa này, bạn chỉ muốn hạ chiếc cần câu sinh mệnh, buông câu tìm lấy sự thanh bạch của mặt hồ. Là ẩn sĩ của hồng trần, vứt bỏ muôn vàn ham muốn, giữ lấy trái tim đạm bạc, câu về cảnh tượng nhàn nhã nước thu leo lẻo, trời rộng thênh thang. Một mặt hồ thăm thẳm, một mặt hồ đầy khí vị riêng, buông câu nơi đó, sẽ không câu được thiên tử vương hầu, cũng không câu được phú quý nhân gian. Chỉ là nhàn nhã ngồi lặng yên giữa tầng mây, không cần chờ đợi thời cơ, không cần giữ bỏ có không, chỉ nghe âm thanh dìu dặt của thiên nhiên, hòa xướng với tiếng lòng tĩnh lặng của tự nhiên.
Bạn trầm ngâm suy tưởng trên hồ thu, vớt lấy chiếc lá đỏ, ngâm một bài thơ ý điệu sâu xa. Còn người Đồ Ngõa, lại gìn giữ vùng đất giàu có này, mãi mãi sinh sống hòa bình nơi đây. Chính mùa thu đã biến ảo thành biết bao màu sắc khác nhau trên mặt hồ Kanas. Dân du mục đã gửi gắm những tình cảm thuần khiết thiêng liêng vào đây, để mỗi lần quay người, đều lưu lại cái ngoái nhìn đầy cảm động.
Trước khi mùa đông ập đến, hồ thu Kanas đã dùng nét bút phác họa, tình cảm sâu nặng để ghi lại những gì bạn có vào giây phút này. Giữa phong cảnh nhân sinh tuyệt diệu tự nhiên, lặng lẽ chờ đợi, sẽ có cuộc gặp gỡ với một hồ nước, một linh hồn đầy ý vị khác.
Mùa đông – Hồ nước đóng băng
Có lẽ, trước khi bạn nhìn thấy hồ Kanas vào mùa đông, bạn đã từng ấp ủ ảo tưởng về cảnh tượng băng tuyết vô cùng vô tận. Khi bạn thực sự bước gần đến nó, nhìn rõ ràng dáng vẻ hồ nước mùa đông, linh hồn chấn động sẽ nói với bạn rằng, hồ nước mang trong mình vẻ băng thanh ngọc khiết của chốn nhân gian đến nhường nào. Đây là hồ nước nguyên thủy của năm tháng, là hồ nước chân thật nhất của nhân sinh, cũng là hồ nước vĩnh hằng của người Đồ Ngõa.
Không cần hỏi, đây là lần đâu bạn đến, hay là lần trùng phùng. Cũng không cần hỏi, đây là một chuyến ra đi, hay là lần trở về. Cho dù là cảnh tượng trong mộng, cũng phải cảm ơn cơ duyên của giấc mộng này. Cho dù là đi lướt qua, cũng phải trân trọng thời khắc gặp gỡ ngắn ngủi này.
Những đỉnh núi sáng trắng như nước, những mặt hồ băng tuyết đóng kín, toàn bộ hồ Kanas đều bị lớp châu ngọc bao bọc, trong không gian bao la, lộ vẻ trầm tư khôn xiết. Không có vẻ quyến rũ của nước chảy, không thấy vẻ đung đưa của hoa núi, trước mắt là băng tuyết ngợp trời giá buốt, sắc điệu thanh tịnh không tranh cầu. Dưới hồ băng dày cộp, ẩn chứa một truyền thuyết liên quan đến thủy quái của hồ. Giống như ký ức xa xưa, cùng những câu chuyện cổ của người Đồ Ngõa, hết thảy đã chìm sâu xuống đáy hồ. Tựa như phá vỡ tầng băng này là có thể lấy được nguồn nước sinh mệnh bất tận. Thời gian này chỉ tạm thời phong kín nó, đợi đến khi xuân ấm hoa nở, vạn vật sinh sôi, bạn sẽ phát hiện ra, hạnh phúc hóa ra giản đơn đến thế.
Trong thế giới bị tuyết trắng bao phủ còn có một sự ấm áp không bị đóng băng, đó là cuộc sống nhiệt thành, tình cảm nồng cháy của người Đồ Ngõa. Họ vung những chiếc roi thần của dân tộc, thúc nhanh vó ngựa lao qua sự tĩnh lặng của đất trời, một bầu rượu sữa là có thể ủ ấm linh hồn lạnh giá. Tổ tiên của họ là những anh hùng rong ruổi biên cương, về sau chuyển đến vùng tịnh thổ nhân gian này, trở thành những ẩn sĩ chốn núi sâu vực tuyết. Họ đem sinh mệnh giao phó cho bầu trời Kanas, từ đây về sau, hiền hòa phẳng lặng chính là tư thế của cuộc sống, ung dung chính là tâm tình vĩnh hằng.
Tuyết rơi không một tiếng động, hồ Kanas hết thảy long lanh trong vắt. Vì mặt hồ thuần túy này, vì trái tim băng khiết trong bình ngọc này, biết bao người đã đi đêm về hôm, lặn lội tìm kiếm trong mưa gió bão bùng. Bạn đi theo những dấu chân của người đi trước, suốt chặng đường rưng rưng cảm động, rồi lại truyền sự xúc động cho những người đến sau. Mà người Đồ Ngõa chất phác, nhìn những khách đến rồi lại đi, trước sau vẫn bình tĩnh như lúc ban đầu, không vì một ai mà thay đổi câu chuyện về Kanas.
Trong hồ nước ngưng đọng ấy, bạn có thể nhìn thấy mặt hồ nơi đáy trái tim mình đang hối hả chảy trôi. Có một con suối nguồn đang chảy về phía mùa xuân. Có một ngôi nhà, đang tồn tại ở vùng đất hạnh phúc.
Đi qua hồ Kanas bốn mùa, cùng trải nghiệm tình cảm suốt bốn mùa với hồ nước, đời người cũng vì một lần giao hòa tươi đẹp mà chân thực này, mà trở nên tràn đầy sắc màu kỳ ảo mê ly. Hãy tin chắc rằng, chỉ cần có một hồ nước, thì chốn tịnh thổ nhân gian Kanas này sẽ không bao giờ biến mất, người Đồ Ngõa cũng vĩnh viễn giữ được quê nhà tự nhiên của mình. Vậy thì, hãy lựa chọn rời đi một cách ung dung thanh thản. Nhiều năm về sau, nếu như lại đến nơi này, thứ hồ Kanas trao cho bạn, vẫn là phong thái tinh khiết của ngày hôm qua.
Hồ Thanh Hải xanh thăm thẳm Vì nghe thấy gió mát mời gọi, hay vì nhìn thấy mây trắng vẫy tay, mà tôi đã gặp gỡ hồ Thanh Hải như thế. Lúc này, không chỉ là rung động sững sờ, mà hơn nữa còn là cảm giác quen thuộc đến điếng lòng. Đắm chìm trong màu xanh thăm thẳm, hun hút, thực sự cảm nhận được vẻ đẹp của nhân sinh, sự quyến rũ của tự nhiên.
Hồ Thanh Hải nằm trong lòng bồn địa Thanh Hải, phía đông bắc tỉnh Thanh Hải, hình thành do sự đứt gãy địa tầng giữa núi Đại Thông, núi Nhật Nguyệt và phía nam núi Thanh Hải. Diện tích hồ vào khoảng 29661 kilômét vuông, hồ nằm ở độ cao 3196 mét cách mặt nước biển, là hồ nước mặn lớn nhất đại lục Trung Quốc.
Hồ Thanh Hải sâu thẳm mà tinh khiết, nó cam tâm tình nguyện rũ bỏ phồn hoa, âm thầm gìn giữ vùng đất xa xôi này. Tránh xa huyên náo ồn ào, không phải để ẩn đi vẻ đẹp của mình, cũng không phải sợ thế nhân quấy nhiễu, mà chỉ là yên tĩnh ở trên cao nguyên, lấy núi tuyết làm khung cốt, mượn trời xanh làm xiêm y, giữ lại cho thiên nhiên mái nhà nguyên thủy và thuần túy nhất.
Năm xưa, khi Văn Thành công chúa xa xôi ngàn dặm đến Tây Tạng, lúc tới núi Nhật Nguyệt, quay đầu chẳng nhìn thấy Trường An, nhìn sang phía Tây bốn bề hoang vu lạnh lẽo. Những giọt nước mắt nhớ quê nhà của nàng, rơi xuống lòng sông, mà điểm cuối của dòng sông ấy, chảy thẳng vào lòng hồ Thanh Hải. Đến đây cùng với một truyền thuyết đẹp, trong trái tim tôi chất chứa thêm một nỗi xúc động dịu dàng, rất muốn biết, nàng công chúa Đại Đường bị gả chồng đến nơi tha hương ấy, đi qua mây nước ngàn năm, nàng có hạnh phúc không?.
Bước giữa làn sóng như lụa gấm sắc vàng của hoa cải dầu, hương thơm lãng đãng vương vấn khắp trời. Những cơn gió mát đã dùng bút mực linh hoạt, phác nên một bức tranh hoành tráng giữa non nước tú lệ của hồ Thanh Hải. Hân hoan dạo bước trong khung cảnh ấy, tắm dưới cơn mưa cánh hoa màu vàng rực, và thả hồn bồng bềnh giữa vạn khoảnh sóng nước hồ xanh. Bầu trời xanh thăm thẳm ấy, khiến người ta nguyện đem trái tim nhuốm đầy phong trần của mình dìm sâu trong đó, rồi lại với lên, để nó trong vắt vô trần.
Đến hồ Thanh Hải, cái bạn theo đuổi tìm kiếm không phải là tình thơ ý họa, mà là những phong tục tập quán hết sức chất phác hồn nhiên. Những người mục dân hồn hậu đuổi bầy dê bầy cừu, những bóng dáng trôi dạt như mây, nhởn nhơ giữa thảo nguyên mênh mông vời vợi. Lều trướng chi chít như bàn cờ là mái nhà che mưa che gió cho người dân du mục. Khi nhìn núi tuyết, từ lâu nó đã biến giấc mơ tươi đẹp trở thành băng giá. Bầu trời như sa xuống sát mặt đất, dường như chỉ cần tùy ý giơ tay, là có thể nắm giữ được mảnh gấm lụa xanh biếc ấy.
Đây là quê hương của tâm linh, xuyên qua hành lang của thành phố, đi qua non nước xa vời, là để kiếm tìm sự thanh tịnh của hồ nước. Ngay đến hơn mười loài chim quý như ngỗng đầu sọc, chim mòng biển, mòng biển đầu nâu, cốc đế… cũng tụ lại thành đàn, làm tổ trên đảo chim. Chúng tuân theo quy luật của tự nhiên, di trú từ phương Nam sang phương Bắc, nhưng vẫn không quên an cư lạc nghiệp ở hồ Thanh Hải, đời đời nối tiếp. Hễ nhìn mặt hồ mênh mông như vô tận, núi tuyết trắng xóa soi bóng, ngắm bầy cá tung tăng bơi lội, muôn chim tung cánh vút bay, mặc cho ngày tháng trôi qua, vùng tịnh thổ này mãi mãi thuộc về chúng ta. Nơi đây cất giữ những giấc mơ và những giấc mơ ấy lại truyền hạnh phúc đến cho từng người đi đường ngang qua.
Bất cứ ai đặt chân lên mảnh đất hồ Thanh Hải này đều đã coi nơi đây là nhà của mình. Thong thả cưỡi ngựa, cưỡi bò Yak, chầm chậm dạo chơi trên thảo nguyên thênh thang, thả trôi những suy nghĩ thanh tịnh. Nghe nói, ngựa sinh ra ở vùng hồ Thanh Hải đã sớm nổi tiếng từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, còn có tên là “Tần mã” (ngựa Tần). Thời Tùy Đường, nơi đây còn sản sinh ra rất nhiều loài ngựa quý. Chúng được Bá Nhạc là người có con mắt tinh đời tuyển chọn, đưa đi, từ đó về sau, rong ruổi biên cương, vạn dặm tung vó, ngạo nghễ nhìn gió mây. Những chú ngựa dạo chơi trên thảo nguyên ngày nay đã bớt tính nóng nảy của ngày trước, lại thêm phần thuần hóa và hiền lành. Chúng hứng chí dạt dào, dừng vó chậm bước, im lặng ngắm vẻ đẹp thâm trầm của hồ Thanh Hải, lắng nghe tiếng vọng của thời gian.
Bước vào lều vải của mục dân, cảm nhận nhân tình tập tục của vùng đất này. Người dân nhiệt tình mang trà sữa, phô mai, rượu đại mạch ra mời du khách nếm thử. Từng đôi mắt trìu mến, thuần khiết dường như thấu hiểu tâm ý của bạn. Ở nơi này, bạn sẽ quên mất mình là khách qua đường, mà chỉ chìm đắm trong sự ấm áp chân thực, cùng chia sớt niềm vui với mục dân. Và một câu chuyện đã vô tình được ấp ủ trong thời gian chung sống, rồi lại bị tuế nguyệt cất giấu trong cuốn sách giản dị của hồ Thanh Hải, để cho bạn lật giở đọc một cách bình thản.
Bắt đầu từ năm 2002, từ tháng 7 đến tháng 8 hằng năm, tỉnh Thanh Hải đã tổ chức giải đua xe đạp quanh hồ Thanh Hải. Đây là giải đấu hàng đầu châu Á, cũng là giải đua xe có tính quốc tế, diễn ra ở độ cao nhất so với mực nước biển. Người ta đã lấy hồ Thanh Hải sóng biếc vô tận, hàng đàn chim mòng biển tung cánh làm trung tâm. Suốt đường đua, những tay đua tư thế ngông nghênh cuồng ngạo, tựa như đang đấu một trận thư hùng với dũng sĩ cao nguyên. Phong cảnh tráng lệ, hào hùng ấy đã mang đến cho thảo nguyên vốn chỉ dành chăn thả gia súc này một phong thái quyến rũ khác biệt. Đi men theo bờ hồ, chúng ta còn có thể thu nhặt được biết bao tiếng cười vui hớn hở còn vương vãi của mọi người chứng kiến.
Dừng bước chân tìm kiếm, đau đáu ngắm nhìn mặt hồ nước dưới trời xanh vực tuyết. Hồ Thanh Hải, ngươi trong vắt như thế, lại giàu có biết bao. Hành lý giản đơn trên vai này, làm sao để nhét vừa được ngươi trong đó? Có lẽ, chỉ có một trái tim trong sáng, khoáng đạt vô cùng mới có thể cất giấu và chứa đựng được ngươi. Vậy thì, hãy cất đi sự thuần tịnh xanh biêng biếc này của hồ, cất đi sự hạnh phúc chất phác này của cao nguyên. Để nhiều năm về sau, ta mãi mãi không thể nào quên được vẻ đẹp của hồ Thanh Hải.
Nếu như cho bạn một khoảng thời gian trống vắng, bạn sẽ lựa chọn đồng hành cùng Kanas, dùng nước hồ Kanas để lấp đầy sự trống trải trong tim. Bước vào Kanas, là tìm đến một thánh địa thanh tịnh của bộ lạc cổ xưa, là lần giở một bức tranh thần kỳ đã bị đóng kín ngàn năm, cũng là mở ra một con đường tâm linh thấu suốt của nhân sinh.
Luân chuyển trong sự lãng mạn nên thơ muôn vàn hình thái, trầm lắng trong nước hồ tinh khiết bốn mùa của hồ Kanas. Bạn không thể tin rằng, sinh mệnh sẽ được sinh ra một lần nữa vì một mặt hồ này, đời người sẽ trở nên trong vắt vì một cõi tịnh thổ, linh hồn sẽ cảm động vì một nền văn minh.
Mùa xuân – Hồ nước trong vắt
Lắng nghe tiếng nước suối chảy róc rách giòn giã, cứ thể là bước vào mùa xuân của hồ Kanas. Vạn vật bừng tỉnh dưới sông băng nhảy nhót phát ra những âm điệu linh động, tấu vang khúc nhạc mùa xuân của Kanas, cùng vén bức rèm thần kỳ bí của vùng đất này. Ở nơi đây, mây trắng là nhà của linh hồn bạn; ở nơi đây, nước hồ là câu chuyện cổ tích vĩnh viễn; ở nơi đây, sẽ không có tuổi xuân bị già đi.
Tháng năm đã lưu giữ lại một khoảng yên tĩnh tự nhiên ở hồ Kanas, sau đó, chẳng còn bụi trần nào có thể rơi xuống nữa. Mùa xuân Kanas mang một vẻ thanh tân như đã qua nước xanh leo lẻo lọc rửa, bạn đến nơi đây là có thể tìm thấy một quãng thời gian đẹp đẽ nhất cuộc đời.
Đây là một mùa đẫm sắc xanh, từng đàn bò, cừu nhởn nhơ gặm cỏ, những người chăn bò, chăn cừu uống say ráng mây màu mùa xuân, nước hồ như ngọc bích khảm vào dãy núi, từ trong rừng xanh thăm thẳm lờ mờ vẳng đến tiếng chim hót líu lo. Ngày xuân oanh chao én liệng, hoa cỏ tốt tươi, khiến cho cuộc kiếm tìm lưu giữ được vẻ tươi đẹp, cuộc tương phùng tràn đầy vui sướng, câu chuyện thấm đẫm tình cảm dịu dàng.
Đi lang thang trong biển hoa muôn hồng ngàn tía, bằng sự thần kỳ của mình, hồ Kanas đã nhìn thấu tâm hồn chúng ta. Bạn ngửi thấy một mùi vị quen thuộc trong cơn gió thoảng trong lành, dường như bạn đã từng gặp gỡ cỏ cây, hồ nước của nơi này từ rất nhiều năm về trước, nhưng rõ ràng cũng xa cách biết bao. Cho dù bạn mang đến đây bao nhiêu tâm sự thế tục, cho dù nơi đây ẩn chứa bao nhiêu bí mật thầm kín, thì chính giờ khắc này, bạn đã hoàn toàn hòa mình vào phong cảnh thanh khiết của Kanas. Chính vào giờ khắc này, bạn và người của dân tộc Đồ Ngõa đã cùng sống dưới một bầu trời xanh, cùng có một mặt hồ trong suốt, cùng chung một mộng tưởng điềm nhiên vui vẻ.
Ánh nắng mùa xuân nơi đây sáng bừng như lưỡi dao, tháng năm đến trong im lặng, con người sống ở nơi đây đời này qua đời khác, đã chung sống cùng thiên nhiên từ rất lâu đời. Thế sự trôi chảy theo nước hồ, không lưu lại bất kỳ dấu vết nào. Bạn đứng bên bờ hồ Kanas sáng như gương, trong chiếc bóng rõ ràng phản chiếu dưới hồ, dường như chưa từng có ngày hôm qua, mà tương lai cũng chắc chắn sẽ tinh khiết như ngày hôm nay. Thời gian nơi đây sẽ nói cho bạn biết, chỉ cần còn là một chiếc lá xanh, còn một giọt nước hồ, còn một làn mây trắng, hồ Kanas sẽ vĩnh viễn tươi đẹp, vĩnh viễn thiêng liêng và trong sạch.
Trong những ngày gió xuân say đắm, không hẹn mà gặp rất nhiều mục dân đang di chuyển, họ đang lùa bầy dê, đi lên mục trường trên núi cao, dựng lều dạ, xây nhà mới. Quá trình ấy như lạnh chuyển sang ấm, là phong tục lưu truyền đã ngàn đời nay. Mà sau mùa xuân là mùa hạ, dường như sẽ tới vào ngày mai.
Hồ nước trong veo, phản chiếu bóng dáng những người dân ấy đang vung roi tiến bước, cũng phản chiếu cuộc đời êm đềm và giản dị của họ. Phút giây này, bạn sẽ hiểu rằng, núi có vẻ trong sáng của núi, nước có sự thoát tục của nước, bạn có sự ung dung của bạn, họ có sự điềm tĩnh của họ.
Mùa hạ – Hồ nước tươi mát
Đều nói hồ Kanas trong những ngày hè đẹp như một giấc mộng, chỉ khi bạn tiến lại gần, đi qua làn sương mù bàng bạc tươi mát của thời gian, bạn mới biết rằng, giấc mộng nơi này vốn đều được khoác lên một chiếc áo màu rực rỡ của tự nhiên. Có lẽ, hồ nước Kanas có thể thực sự xây dựng nên mộng ước. Cho dù bạn là khách qua đường, hay là người trở về, đều có thể ấp ủ một giấc mộng của riêng mình và ký gửi giấc mộng ấy ở nơi đây. Đợi đến năm sau, lại đến mở ra, hoặc là, mượn tình cảnh non nước Kanas để đóng kín một đời.
Hồ Kanas vào mùa hạ thường tràn ngập sương mù mờ mịt mông lung, sương mù mờ ảo khiến người ta như đang dạo chơi chốn tiên cảnh Dao Trì. Những người đến đây đều muốn đi qua màn sương ấy, tìm kiếm bí mật thất lạc nơi sâu thẳm của núi hồ, tìm hiểu văn hóa xa xôi lâu đời của bộ lạc cổ xưa. Nơi đây còn lưu giữ totem của văn minh thượng cổ, ngưng tụ những biến đổi lịch sử, và cũng chuyển tải biết bao câu chuyện nhân sinh. Năm đó, khi vị anh hùng Thành Cát Tư Hãn giương cung bắn đại điêu khởi quân chinh Tây, thúc ngựa vung roi, vượt sông băng núi, vùng đất rộng lớn bị cờ quạt phần phật phất qua này, đến nay vẫn siêu trần thoát tục như thế. Nghe nói, trong núi hồ Kanas còn có thể tìm thấy dấu tích của Thành Cát Tư Hãn. Một câu chuyện cũ từ ngàn thu đã lấp đầy nước hồ tinh khiết Kanas như thế đó.
Như cảnh vật giữa làn sương mù dày đặc, ban đầu bạn có thể nhìn thấy mây bay vạn trạng, đến phút cuối cùng, cảnh vật đó lại quay trở về trạng thái trong suốt ban đầu. Hái một đóa hoa thơm, để nhuốm đẫm vẻ đẹp của hồng trần; vốc một chút nước hồ mát mẻ, để rửa sách gió sương của nhân thế. Linh hồn trở nên sống động trong cảnh tượng xanh biêng biếc của mùa hạ, cuộc sống trở nên yên lặng trong thế giới thiên nhiên mới mẻ. Hồ nước thanh tịnh này có thể khiến bạn thực sự nắm giữ được hiện tại, cũng có thể triệt để tìm về quá khứ, càng có thể nhìn thấu rõ ngày mai.
Những căn lều dạ nhà gỗ trải dài dưới bầu trời xanh, mỗi một căn đều có thể ký gửi hành lý nặng trĩu, đều là cố hương của linh hồn. Mục dân nơi đây cho dù trải qua bao nhiêu vận mệnh chuyển dời, cho dù chịu bao nhiêu luân hồi tụ tan, Kanas vẫn là mái ấm suốt đời của họ. Dấu chân họ không bưng qua dlãnh thổ này, tình cảm của họ không vượt ngoài non nước nơi đây, họ chăn thả mây trắng của Kanas, mà nước hồ Kanas đã bảo vệ che chắn cho những giấc mộng thuần phác của họ.
Ánh trăng rớt xuống mặt hồ, phản chiếu chiếc bóng mát rượi, giống như một lời hẹn ước của mùa hạ. Nơi khói bếp bốc lên, chính là mái nhà đơn sơ của dân du mục. Rượu sữa thơm lừng, trà nóng hôi hổi, ăn phó mát sữa, dù bạn đến từ chân trời cũng biết rằng, có một vùng tịnh thổ là nỗi nhớ của cuộc đời bạn. Không có sóng to gió lơn, không có phong nhã vô biên, hết thảy đều bình dị mộc mạc như thế. Trước khi bạn đến, hồ Kanas là một câu chuyện thần thoại xa vời; sau khi bạn đi, hồ Kanas đã là mái nhà vĩnh viễn của linh hồn bạn.
Mùa thu – Hồ nước trầm tĩnh
Dưới ánh sáng mùa thu, hồ nước trở nên trầm tĩnh, giống như một viên mỹ ngọc tự nhiên không tỳ vết, bị năm tháng mài mòn đến mức trơn bóng vô cùng chứa đựng đầy linh tính. Bạn bước vào hồ thu Kanas, cuộc đời cũng dần dần viên mãn, con người dần trở nên trưởng thành trong khoảng ánh sáng, sóng nước màu vàng kim này.
Kanas vào thu như một bức tranh hoa lệ rực rỡ, mây trắng là bối cảnh, hồ nước là phông nền, sinh mệnh là tình cảm. Núi cao rừng rậm, sóng nước cây thưa, dân du mục đuổi theo bóng dáng của bầy dê, bầy cừu, đều được đặt trong bức tranh ấy. Những cây bu-lô thẳng tắp, những cây thông rụng lá (Larix) cao chót vót, thông trắng Nhật Bản xanh mướt mát, còn cả vân sam ngay ngắn và lãnh sam xinh đẹp, đều trải dài thành một bức tranh hùng vĩ. Cảm xúc dạt dào tuôn trào trong thủy mặc, những tâm tình được buông xả, nay trở nên trầm tĩnh trong cảnh hồ nước. Hồ Kanas mùa thu tựa như một bàn cờ bày trước thiên nhiên, phong cảnh tươi đẹp như những quân cờ đặt nhầm chỗ nhưng không hỗn loạn, dày đặc nhưng không ồn ào. Cho dù bạn là một người khách mưu cầu danh lợi thế gian, nhưng đối diện với trời mây cao tít tắt, nước hồ mênh mang của mùa thu này, bạn sẽ cam tâm tình nguyện trầm luân một đời nơi đây. Bởi vì, chỉ có dùng một trái tim, một linh hồn thuần khiết, mới có thể giải được thế cờ thần bí này của Kanas.
Bước đi vội vã hối hả để rồi cúi đầu trầm tư trước nước hồ mênh mang. Nước hồ của tiết trời thu muộn đã chuyển sang màu trắng sữa, tựa hồ những đám mây trắng xóa như tuyết đều rót hết vào lòng hồ. Những người Đồ Ngõa cần cù chân chất, buông lưới bắt cá trong Bạch Hồ rộng lớn, cảm nhận được niềm hân hoan của sự thu hoạch. Đối diện với sự tự nhiên và hài hòa này, bạn chỉ muốn hạ chiếc cần câu sinh mệnh, buông câu tìm lấy sự thanh bạch của mặt hồ. Là ẩn sĩ của hồng trần, vứt bỏ muôn vàn ham muốn, giữ lấy trái tim đạm bạc, câu về cảnh tượng nhàn nhã nước thu leo lẻo, trời rộng thênh thang. Một mặt hồ thăm thẳm, một mặt hồ đầy khí vị riêng, buông câu nơi đó, sẽ không câu được thiên tử vương hầu, cũng không câu được phú quý nhân gian. Chỉ là nhàn nhã ngồi lặng yên giữa tầng mây, không cần chờ đợi thời cơ, không cần giữ bỏ có không, chỉ nghe âm thanh dìu dặt của thiên nhiên, hòa xướng với tiếng lòng tĩnh lặng của tự nhiên.
Bạn trầm ngâm suy tưởng trên hồ thu, vớt lấy chiếc lá đỏ, ngâm một bài thơ ý điệu sâu xa. Còn người Đồ Ngõa, lại gìn giữ vùng đất giàu có này, mãi mãi sinh sống hòa bình nơi đây. Chính mùa thu đã biến ảo thành biết bao màu sắc khác nhau trên mặt hồ Kanas. Dân du mục đã gửi gắm những tình cảm thuần khiết thiêng liêng vào đây, để mỗi lần quay người, đều lưu lại cái ngoái nhìn đầy cảm động.
Trước khi mùa đông ập đến, hồ thu Kanas đã dùng nét bút phác họa, tình cảm sâu nặng để ghi lại những gì bạn có vào giây phút này. Giữa phong cảnh nhân sinh tuyệt diệu tự nhiên, lặng lẽ chờ đợi, sẽ có cuộc gặp gỡ với một hồ nước, một linh hồn đầy ý vị khác.
Mùa đông – Hồ nước đóng băng
Có lẽ, trước khi bạn nhìn thấy hồ Kanas vào mùa đông, bạn đã từng ấp ủ ảo tưởng về cảnh tượng băng tuyết vô cùng vô tận. Khi bạn thực sự bước gần đến nó, nhìn rõ ràng dáng vẻ hồ nước mùa đông, linh hồn chấn động sẽ nói với bạn rằng, hồ nước mang trong mình vẻ băng thanh ngọc khiết của chốn nhân gian đến nhường nào. Đây là hồ nước nguyên thủy của năm tháng, là hồ nước chân thật nhất của nhân sinh, cũng là hồ nước vĩnh hằng của người Đồ Ngõa.
Không cần hỏi, đây là lần đâu bạn đến, hay là lần trùng phùng. Cũng không cần hỏi, đây là một chuyến ra đi, hay là lần trở về. Cho dù là cảnh tượng trong mộng, cũng phải cảm ơn cơ duyên của giấc mộng này. Cho dù là đi lướt qua, cũng phải trân trọng thời khắc gặp gỡ ngắn ngủi này.
Những đỉnh núi sáng trắng như nước, những mặt hồ băng tuyết đóng kín, toàn bộ hồ Kanas đều bị lớp châu ngọc bao bọc, trong không gian bao la, lộ vẻ trầm tư khôn xiết. Không có vẻ quyến rũ của nước chảy, không thấy vẻ đung đưa của hoa núi, trước mắt là băng tuyết ngợp trời giá buốt, sắc điệu thanh tịnh không tranh cầu. Dưới hồ băng dày cộp, ẩn chứa một truyền thuyết liên quan đến thủy quái của hồ. Giống như ký ức xa xưa, cùng những câu chuyện cổ của người Đồ Ngõa, hết thảy đã chìm sâu xuống đáy hồ. Tựa như phá vỡ tầng băng này là có thể lấy được nguồn nước sinh mệnh bất tận. Thời gian này chỉ tạm thời phong kín nó, đợi đến khi xuân ấm hoa nở, vạn vật sinh sôi, bạn sẽ phát hiện ra, hạnh phúc hóa ra giản đơn đến thế.
Trong thế giới bị tuyết trắng bao phủ còn có một sự ấm áp không bị đóng băng, đó là cuộc sống nhiệt thành, tình cảm nồng cháy của người Đồ Ngõa. Họ vung những chiếc roi thần của dân tộc, thúc nhanh vó ngựa lao qua sự tĩnh lặng của đất trời, một bầu rượu sữa là có thể ủ ấm linh hồn lạnh giá. Tổ tiên của họ là những anh hùng rong ruổi biên cương, về sau chuyển đến vùng tịnh thổ nhân gian này, trở thành những ẩn sĩ chốn núi sâu vực tuyết. Họ đem sinh mệnh giao phó cho bầu trời Kanas, từ đây về sau, hiền hòa phẳng lặng chính là tư thế của cuộc sống, ung dung chính là tâm tình vĩnh hằng.
Tuyết rơi không một tiếng động, hồ Kanas hết thảy long lanh trong vắt. Vì mặt hồ thuần túy này, vì trái tim băng khiết trong bình ngọc này, biết bao người đã đi đêm về hôm, lặn lội tìm kiếm trong mưa gió bão bùng. Bạn đi theo những dấu chân của người đi trước, suốt chặng đường rưng rưng cảm động, rồi lại truyền sự xúc động cho những người đến sau. Mà người Đồ Ngõa chất phác, nhìn những khách đến rồi lại đi, trước sau vẫn bình tĩnh như lúc ban đầu, không vì một ai mà thay đổi câu chuyện về Kanas.
Trong hồ nước ngưng đọng ấy, bạn có thể nhìn thấy mặt hồ nơi đáy trái tim mình đang hối hả chảy trôi. Có một con suối nguồn đang chảy về phía mùa xuân. Có một ngôi nhà, đang tồn tại ở vùng đất hạnh phúc.
Đi qua hồ Kanas bốn mùa, cùng trải nghiệm tình cảm suốt bốn mùa với hồ nước, đời người cũng vì một lần giao hòa tươi đẹp mà chân thực này, mà trở nên tràn đầy sắc màu kỳ ảo mê ly. Hãy tin chắc rằng, chỉ cần có một hồ nước, thì chốn tịnh thổ nhân gian Kanas này sẽ không bao giờ biến mất, người Đồ Ngõa cũng vĩnh viễn giữ được quê nhà tự nhiên của mình. Vậy thì, hãy lựa chọn rời đi một cách ung dung thanh thản. Nhiều năm về sau, nếu như lại đến nơi này, thứ hồ Kanas trao cho bạn, vẫn là phong thái tinh khiết của ngày hôm qua.
Hồ Thanh Hải xanh thăm thẳm Vì nghe thấy gió mát mời gọi, hay vì nhìn thấy mây trắng vẫy tay, mà tôi đã gặp gỡ hồ Thanh Hải như thế. Lúc này, không chỉ là rung động sững sờ, mà hơn nữa còn là cảm giác quen thuộc đến điếng lòng. Đắm chìm trong màu xanh thăm thẳm, hun hút, thực sự cảm nhận được vẻ đẹp của nhân sinh, sự quyến rũ của tự nhiên.
Hồ Thanh Hải nằm trong lòng bồn địa Thanh Hải, phía đông bắc tỉnh Thanh Hải, hình thành do sự đứt gãy địa tầng giữa núi Đại Thông, núi Nhật Nguyệt và phía nam núi Thanh Hải. Diện tích hồ vào khoảng 29661 kilômét vuông, hồ nằm ở độ cao 3196 mét cách mặt nước biển, là hồ nước mặn lớn nhất đại lục Trung Quốc.
Hồ Thanh Hải sâu thẳm mà tinh khiết, nó cam tâm tình nguyện rũ bỏ phồn hoa, âm thầm gìn giữ vùng đất xa xôi này. Tránh xa huyên náo ồn ào, không phải để ẩn đi vẻ đẹp của mình, cũng không phải sợ thế nhân quấy nhiễu, mà chỉ là yên tĩnh ở trên cao nguyên, lấy núi tuyết làm khung cốt, mượn trời xanh làm xiêm y, giữ lại cho thiên nhiên mái nhà nguyên thủy và thuần túy nhất.
Năm xưa, khi Văn Thành công chúa xa xôi ngàn dặm đến Tây Tạng, lúc tới núi Nhật Nguyệt, quay đầu chẳng nhìn thấy Trường An, nhìn sang phía Tây bốn bề hoang vu lạnh lẽo. Những giọt nước mắt nhớ quê nhà của nàng, rơi xuống lòng sông, mà điểm cuối của dòng sông ấy, chảy thẳng vào lòng hồ Thanh Hải. Đến đây cùng với một truyền thuyết đẹp, trong trái tim tôi chất chứa thêm một nỗi xúc động dịu dàng, rất muốn biết, nàng công chúa Đại Đường bị gả chồng đến nơi tha hương ấy, đi qua mây nước ngàn năm, nàng có hạnh phúc không?.
Bước giữa làn sóng như lụa gấm sắc vàng của hoa cải dầu, hương thơm lãng đãng vương vấn khắp trời. Những cơn gió mát đã dùng bút mực linh hoạt, phác nên một bức tranh hoành tráng giữa non nước tú lệ của hồ Thanh Hải. Hân hoan dạo bước trong khung cảnh ấy, tắm dưới cơn mưa cánh hoa màu vàng rực, và thả hồn bồng bềnh giữa vạn khoảnh sóng nước hồ xanh. Bầu trời xanh thăm thẳm ấy, khiến người ta nguyện đem trái tim nhuốm đầy phong trần của mình dìm sâu trong đó, rồi lại với lên, để nó trong vắt vô trần.
Đến hồ Thanh Hải, cái bạn theo đuổi tìm kiếm không phải là tình thơ ý họa, mà là những phong tục tập quán hết sức chất phác hồn nhiên. Những người mục dân hồn hậu đuổi bầy dê bầy cừu, những bóng dáng trôi dạt như mây, nhởn nhơ giữa thảo nguyên mênh mông vời vợi. Lều trướng chi chít như bàn cờ là mái nhà che mưa che gió cho người dân du mục. Khi nhìn núi tuyết, từ lâu nó đã biến giấc mơ tươi đẹp trở thành băng giá. Bầu trời như sa xuống sát mặt đất, dường như chỉ cần tùy ý giơ tay, là có thể nắm giữ được mảnh gấm lụa xanh biếc ấy.
Đây là quê hương của tâm linh, xuyên qua hành lang của thành phố, đi qua non nước xa vời, là để kiếm tìm sự thanh tịnh của hồ nước. Ngay đến hơn mười loài chim quý như ngỗng đầu sọc, chim mòng biển, mòng biển đầu nâu, cốc đế… cũng tụ lại thành đàn, làm tổ trên đảo chim. Chúng tuân theo quy luật của tự nhiên, di trú từ phương Nam sang phương Bắc, nhưng vẫn không quên an cư lạc nghiệp ở hồ Thanh Hải, đời đời nối tiếp. Hễ nhìn mặt hồ mênh mông như vô tận, núi tuyết trắng xóa soi bóng, ngắm bầy cá tung tăng bơi lội, muôn chim tung cánh vút bay, mặc cho ngày tháng trôi qua, vùng tịnh thổ này mãi mãi thuộc về chúng ta. Nơi đây cất giữ những giấc mơ và những giấc mơ ấy lại truyền hạnh phúc đến cho từng người đi đường ngang qua.
Bất cứ ai đặt chân lên mảnh đất hồ Thanh Hải này đều đã coi nơi đây là nhà của mình. Thong thả cưỡi ngựa, cưỡi bò Yak, chầm chậm dạo chơi trên thảo nguyên thênh thang, thả trôi những suy nghĩ thanh tịnh. Nghe nói, ngựa sinh ra ở vùng hồ Thanh Hải đã sớm nổi tiếng từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, còn có tên là “Tần mã” (ngựa Tần). Thời Tùy Đường, nơi đây còn sản sinh ra rất nhiều loài ngựa quý. Chúng được Bá Nhạc là người có con mắt tinh đời tuyển chọn, đưa đi, từ đó về sau, rong ruổi biên cương, vạn dặm tung vó, ngạo nghễ nhìn gió mây. Những chú ngựa dạo chơi trên thảo nguyên ngày nay đã bớt tính nóng nảy của ngày trước, lại thêm phần thuần hóa và hiền lành. Chúng hứng chí dạt dào, dừng vó chậm bước, im lặng ngắm vẻ đẹp thâm trầm của hồ Thanh Hải, lắng nghe tiếng vọng của thời gian.
Bước vào lều vải của mục dân, cảm nhận nhân tình tập tục của vùng đất này. Người dân nhiệt tình mang trà sữa, phô mai, rượu đại mạch ra mời du khách nếm thử. Từng đôi mắt trìu mến, thuần khiết dường như thấu hiểu tâm ý của bạn. Ở nơi này, bạn sẽ quên mất mình là khách qua đường, mà chỉ chìm đắm trong sự ấm áp chân thực, cùng chia sớt niềm vui với mục dân. Và một câu chuyện đã vô tình được ấp ủ trong thời gian chung sống, rồi lại bị tuế nguyệt cất giấu trong cuốn sách giản dị của hồ Thanh Hải, để cho bạn lật giở đọc một cách bình thản.
Bắt đầu từ năm 2002, từ tháng 7 đến tháng 8 hằng năm, tỉnh Thanh Hải đã tổ chức giải đua xe đạp quanh hồ Thanh Hải. Đây là giải đấu hàng đầu châu Á, cũng là giải đua xe có tính quốc tế, diễn ra ở độ cao nhất so với mực nước biển. Người ta đã lấy hồ Thanh Hải sóng biếc vô tận, hàng đàn chim mòng biển tung cánh làm trung tâm. Suốt đường đua, những tay đua tư thế ngông nghênh cuồng ngạo, tựa như đang đấu một trận thư hùng với dũng sĩ cao nguyên. Phong cảnh tráng lệ, hào hùng ấy đã mang đến cho thảo nguyên vốn chỉ dành chăn thả gia súc này một phong thái quyến rũ khác biệt. Đi men theo bờ hồ, chúng ta còn có thể thu nhặt được biết bao tiếng cười vui hớn hở còn vương vãi của mọi người chứng kiến.
Dừng bước chân tìm kiếm, đau đáu ngắm nhìn mặt hồ nước dưới trời xanh vực tuyết. Hồ Thanh Hải, ngươi trong vắt như thế, lại giàu có biết bao. Hành lý giản đơn trên vai này, làm sao để nhét vừa được ngươi trong đó? Có lẽ, chỉ có một trái tim trong sáng, khoáng đạt vô cùng mới có thể cất giấu và chứa đựng được ngươi. Vậy thì, hãy cất đi sự thuần tịnh xanh biêng biếc này của hồ, cất đi sự hạnh phúc chất phác này của cao nguyên. Để nhiều năm về sau, ta mãi mãi không thể nào quên được vẻ đẹp của hồ Thanh Hải.
Namtso thiêng liêng, thuần
khiết
Từ biệt hồ Thanh Hải thanh tịnh, tôi đi tìm một hồ đẹp khác trên cao nguyên. Ánh dương thật là linh diệu, chỉ cần cưỡi một làn gió mát bay bổng là có thể xuyên qua tầng mây vạn dặm, bay khắp tuyết chiều ngàn non. Đến với Namtso thiêng liêng và thuần khiết. Hồ nước này là ký ức trong vắt mà năm tháng đã để lại cho Thiên Sơn.
Namtso nằm giữa huyện Bàng Ngạch và huyện Đương Hùng, phía bắc Lhasa (Lạp Tát), đích xác ở phía bắc ngọn núi chính của cao nguyên Thanh Tạng – núi Niệm Thanh Đường Cổ La, cách Lhasa 240 kilômét, là hồ thiên nhiên cao nhất thế giới so với mực nước biển. Hồ Namtso thần kỳ xiết bao, mới đây vẫn còn đang thưởng ngoạn phong cảnh hiện thực, chỉ một sát na, đã chìm vào trong giấc mộng xanh thẳm của hồ. Nhấn chìm sinh mệnh trong đó, cảm nhận được màu xanh thẫm thanh tịnh, màu xanh sa-phia cao quý, màu xanh ngắt buồn bã của nước hồ. Người ta e dè chỉ cần vô ý xông vào, là sẽ khuấy động giấc mộng u tĩnh của hồ Namtso, mà không hay biết rằng, giấc mộng ấy đã sớm nâng niu chúng ta.
Những ngọn núi tuyết trắng nhấp nhô nối tiếp như mộng như ảo, trong mỗi một khoảnh khắc sinh động, chúng đều biến thành những phong cảnh khác nhau. Dùng ánh mắt để nắm bắt vẻ đẹp muôn vàn hình thái, trong tích tắc chớp mắt, phong cảnh đã có thể tràn ngập tâm hồn ta, khiến những người đến nơi này đều không muốn bỏ lỡ bất cứ điều nhỏ nhặt gì. Từng chiếc lều vải giăng giăng dưới bầu trời xanh bao la, những làn khói xanh vẩn vơ bay lên từ đỉnh lều đều kể với chúng ta rằng mảnh đất thanh tịnh này thực ra đang dấy lên và tỏa ra thứ khói lửa giản dị nhất của chốn nhân gian.
Vào mùa đông, tầng băng dày nặng nề kết lại chắc chắn bên bờ hồ, nhưng nước hồ vẫn chảy dào dạt như trước. Thiên hồ[11] thần thánh, trong sạch tựa như đang nhắc nhở, ở nơi này đã cất giữ biết bao câu chuyện thần thoại ly kỳ mà tươi đẹp. Ngọn gió thổi lướt qua, bị những truyền thuyết mà nước hồ lưu lại làm cho run rẩy, lặng lẽ kể câu chuyện bãi biển nương dâu của chúng. Mà hết thảy những gì những câu chuyện này gửi gắm, đều là chủ đề tốt lành, bình an và hạnh phúc.
[11] Trong tiếng Tạng, Namtso có nghĩa là hồ thần, hồ thiên đường (thiên hồ) hoặc là hồ thiêng.
Nhờ vẻ đẹp tao nhã của truyền thuyết, sự thiêng liêng của nước trời đã khiến cho hồ Namtso có sinh mệnh, có tình cảm. Mỗi dịp đến năm con Dê, chư Phật, Bồ Tát, thần hộ pháp đều tụ hội ở hồ Namtso, lập đàn pháp hội Đại Hưng. Lúc này, đi quanh hồ đọc kinh một lần, còn hơn cúng bái hàng ngàn hàng vạn lần lúc bình thường. Các tín đồ hành hương không quản gian khổ, từ những miền đất khác nhau, trèo đèo lội suối vượt thác vượt đèo đến đây, chỉ vì muốn mượn nước từ bi của hồ thiêng để rửa trôi những bệnh tật và khổ nạn, cầu được viên mãn phúc huệ. Lá cờ phướn ngũ sắc phấp phới trong gió khắc ghi sự hiện hữu chân thật của khoảnh khắc này. Gò Mã Ni bên hồ Namtso như thể lĩnh pháp chỉ của Phật tổ, dùng linh hồn để bảo vệ sự thiêng liêng này. Tín ngưỡng của các tín đồ cũng giống như những tảng đá bên hồ, đều rót vào hồ thiêng, làm cảm động chính bản thân, cũng làm cảm động người khác.
Sóng biếc xao động chậm rãi kể một câu chuyện tình lãng mạn. Chuyện kể rằng, Namtso là con gái của Đế Thích Thiên, là vợ của Niệm Thanh Đường Cổ La. Họ sống bên nhau tại Thiên Sơn, từng có một khoảng thời gian sống chết có nhau giữa nhân gian. Non và nước giao hòa, nước và non trùng điệp, tựa như đôi đá vợ chồng đứng sừng sững bên hồ đó, đôi bên nặng tình với nhau. Có lẽ, họ không nhớ nổi rốt cuộc đã ở bên nhau bao lâu, cùng nhau ngắm bao lần mặt trời mọc rồi lại lặn, biết bao người đến rồi lại đi. Không thể non hẹn biển, nhưng lại có thiên đường địa cửu. Bên hồ còn có một tảng đá hình hai bàn tay chắp vào nhau, là để cầu phúc cho vạn vật, cầu phúc cho người dân đời đời sống bên hồ Namtso, cũng như cầu phúc cho mỗi khác qua đường đến với Namtso.
Mặt hồ dưới ánh hoàng hôn, lúc này sóng biếc xanh lam đã nhạt nhòa, ánh sáng vàng lấp lánh phản chiếu, như ánh sáng từ bi, ánh sáng cát tường phát ra từ giữa khoảng mày mi của Phật tổ, vô tư chiếu rọi khắp non sông trời bể. Những người tắm trong thứ ánh sáng đó đang tận hưởng sự bình đẳng và nhân hậu mà tự nhiên ban cho.
Namtso tựa như một chiếc bình ngọc rơi xuống Tuyết Sơn xa xôi, khí chất lóng lánh mà nó tỏa ra làm khuấy động nội tam, khiến con người ta không kiềm được ham muốn cất giữ sự thiêng liêng, thuần khiết này cho riêng mình. Xưa có một ni cô đến lấy nước đã cúi xuống, dùng chiếc vò trong tay múc đầy linh tính của nước hồ, chứa hết sự thanh tĩnh của sinh mệnh, và đón nhận thời gian của ý Thiền. Đây là một quá trình hướng Thiện, giống như thuyết nhân quả của Phật gia. Lão ni lấy nước xong, lưng đeo vò nước, mỗi bước lại ngoái đầu nhìn lại, ánh mắt ẩn chứa Thiền cơ đó bộc lộ sự xót thương đối với chúng sinh, lại vừa chứa đựng sự ung dung ta và vật cùng quên lãng lẫn nhau. Cái để lại cho chúng ta, chỉ là một bóng dáng đã rời xa, một vệt ánh sáng bồ đề.
Vậy thì, trước lúc từ biệt hồ Namtso, bạn hãy múc đầy một bình nước hồ đi! Tương lai, cho dù là để uống hay là giấu kín, đều biết rằng, hồ nước tuyệt đẹp này chảy giữa trái tim, có thể tưới tắm cho linh hồn, thanh lọc nhân sinh.
Cửu Trại Câu thần kỳ
Hãy đi đến Cửu Trại Câu theo cách này: đi từ chốn hồng trần sâu nhất, đến giữa hồ nước xanh thẳm, diễn lại một câu chuyện thần thoại tươi đẹp. Bước lên bậc thang của thời gian, ánh mắt sẽ đậu xuống hồ Thiên Nga. Mặt hồ trong vắt như gương sáng, mỗi người đều có thể soi thấy bản thân chân thực trong đáy tim mình. Ở nơi đây, chúng ta quên đi nhân gian đầy khói lửa cùng hết thảy tôn quý lẫn vinh hoa của hồng trần. Chúng ta giống như những chú chim, ấm áp quần tụ bên nhau khi dừng bay, và mỉm cười tạm biệt khi khởi hành một chuyến đi xa.
Tất cả mọi kiếm tìm, đều là để đến được một nơi trong sạch của cuộc sống. Những mặt hồ tụ tan ẩn kín sau chốn rừng xanh sâu thẳm, tựa như những ngôi sao ban sớm sáng bừng giữa dải Ngân Hà. Mà những hồ nước này hoặc long lanh, hoặc kỳ ảo, hoặc trầm tĩnh, hoặc mỹ lệ, chính là những ngôi sao rơi lạc trên Cửu Trại Câu. Bố cục ấy phảng phất như tuân thủ theo tinh tướng[12] và cũng đóng khung trong tâm can con người. Những hồ nước ấy gìn giữ lãnh địa của riêng mình, rõ ràng và minh bạch, không để cho bất cứ người nào bước vào mà bị mất phương hướng.
[12] Tinh tướng: Số tử vi.
Cho dù là Hùng Miêu Hải (hồ Gấu Trúc) ở giữa biển cát xanh lục, hay Ngưu Tê Hải (hồ Ngưu Tê) đa sắc thần kỳ, hoặc sông Khổng Tước hoa lệ chảy qua sạn đạo[13], đều là những kỳ quan thần kỳ mà năm tháng ban tặng cho Cửu Trại Câu. Những ngôi sao sâu thẳm mênh mang này, không hề ẩn chứa bí mật, mà là phong cảnh của tạo hóa thiên nhiên.
[13] Sạn đạo: Là đường xây bằng cầu treo hoặc ván gỗ xếp hai bên sườn núi đá, dùng để đi qua các khu vực núi non hiểm trở.
Chúng ta đem linh hồn giao cho hồ nước của Cửu Trại Câu, không cần lời hẹn thề như non xanh, cũng không cần sự chứng giám của mây trắng. Thực ra, sinh mệnh vốn là một câu đố, mà chúng ta lại không nhất thiết phải dò đoán lời giải cuối cùng ngay từ khởi đầu của chuyến đi. Chỉ cần thuận theo những vết hằn của năm tháng, lấp đầy quá trình dài lâu, để hoàn thành sứ mệnh mà cuộc sống đã giao cho. Vậy thì, cho dù nhỏ nhoi như một cây cỏ, một con kiến, một hạt bụi trần, đều có thể hiểu thấu chủ đề của cuộc đời.
Phải có cõi lòng bao la như thế nào mới có thể chứa hết được quần thể hồ bày bố như bàn cờ của Cửu Trại Câu. Nếu nói những hồ đặt tên bằng tên động vật là những vì sao rải rác trong sông Ngân Hà, thì những hồ đặt tên bằng tên thực vật lại chính là những bức tranh sắc màu sặc sỡ. Chúng dùng tâm tình đượm sắc tô điểm cho ký ức của tháng năm. Chúng nạm vào nước hồ những câu chuyện hoa nở hoa tàn, những gặp gỡ bèo tụ bèo tan nơi trần thế.
Dưới ánh nắng vàng ruộm, hồ Hoa Hỏa (hồ Đốm Lửa) lấp lánh sóng bạc, những ngọn sóng xô đẩy xao động thời gian, lá phong rực màu rụng lả tả trên mặt hồ, thắp sáng ngọn đèn mùa thu. Nơi đây như một mộng cảnh lung linh, lại có thể bất chợt nghe thấy tiếng thở khe khẽ của bên trong tĩnh lặng. Những thân lau sậy đung đưa trong gió, tựa như những cụ già đã trải qua biết bao sương gió, khiến cho những dòng sông nước chảy trong vắt quanh co cũng đượm biết mấy mùi vị thâm trầm của thế gian. Núi xanh biêng biếc, một vùng trúc xanh mơn mởn, soi bóng xuống hồ, tạo thành hồ trúc tĩnh lặng tự nhiên. Lúc bấy giờ, chỉ muốn chặt trúc làm sáo, dùng âm điệu du dương thổi nên một khúc tâm tình trống trải như sơn cốc, và cũng thổi nên âm điệu trong vắt trăm chuyển ngàn hồi.
Ánh mắt dừng lại trên những trại ấp giữa sơn cốc, dừng lại trong những nhà xay bột bên dòng nước, những kinh đồng[14] chuyển động, những lá phướn phất phơ, khiến bạn quên mất những ngày tháng tiên cảnh nhân gian. Nuôi dưỡng tuổi xuân trong nước, đợi đến khi rời đi, lại vớt lên, tuổi xuân ấy vẫn biếc xanh như khi ta mới đến.
[14] Còn gọi là chuyển kinh đồng, chuyển kinh luân, là pháp khí của tín đồ Phật giáo.
Lựa chọn trôi chảy như nước, cũng như thời gian đã đi qua thì sẽ không quay đầu lại. Thể nghiệm và lĩnh ngộ nhân sinh trong nước, còn sinh mệnh đã được nước thanh lọc, trở nên trong sạch. Những thác nước như những chiếc rèm ngọc buông lơi của Cửu Trại Câu cuộn tung sóng trào trong dòng chảy nhân sinh, biến ảo thành những gió mây hào sảng khẳng khái của tự nhiên.
Cho dù là thác nước từ trên trời đổ xuống Nặc Nhật Lãng, hay là dải lụa trắng như châu như ngọc Trân Châu Than, đều tự chìm đắm trong cách tuôn trào của mình, dường như chúng phải chìm đắm trong cách tuôn trào của mình, và dường như chúng phải dốc hết nhiệt tình vốn có để chinh phục năm tháng thời gian. Tư thế vút bay của những thác nước ấy, tựa như lãng tử áo trắng múa kiếm, hoa kiếm lay động, có thể chém vụn hết thảy hoa lệ của thế gian; lại tựa như nhã khách gẩy đàn, dây đàn rung lên, có thể xuyên thấu ngàn vạn mê lầm của thế sự.
Bạn hãy mượn hồ nước Kính Hải để trấn tĩnh lại mọi tâm tình xáo động. Hồ nước này hội tụ tất cả vẻ đẹp vô cùng vô tận của Cửu Trại Câu. Nó dung nạp tất cả núi tuyết, rừng xanh, trời biếc, mây trắng, chim bay, cá lượn vào trong, và lưu giữ hết thảy tốt tươi khô héo của tự nhiên, chìm nổi vinh nhục của nhân thế nơi này. Há chẳng phải nuóc hồ này mềm dịu và trong vắt, cũng có thể chảy xuyên lòng ngực của chúng ta, soi chiếu tâm linh của ta, và đủ cho chúng ta uống thỏa thuê hết cả một đời này hay sao? Rất nhiều phong cảnh đẹp lại luôn ở bờ bên kia. Khi ấy, bạn đứng giữa khung cảnh này, nắm bắt được sự chân thực linh diệu mà huyền bí. Nước hồ của Cửu Trại Câu trong vắt như thế, không phải mưa cũng chẳng phải sương; nước hồ của Cửu Trại Câu cũng mông lung như thế, lúc xa xôi lúc lại thật gần. Khi vạn vật tụ hội, chúng ta vẫn chọn lựa tiếp tục bước đi như trước. Non nước khi đó đã trải qua một cuộc kiếm tìm trong cuộc đời, hàm chứa ý nghĩa sâu xa của việc xuân cấy thu gặt[15].
[15] Xuân cấy thu gặt: Thành ngữ, nghĩa chỉ việc làm bây giờ sẽ cho báo đáp, kết quả sau này.
Đường đến cũng là nẻo về. Trong hồ, một khóm rong rêu đung đưa dưới nước, nó đang kể chuyện trong ánh nắng ấm áp, và nó không dễ dàng nói lời ly biệt với bất cứ khách qua đường nào.
Từ biệt hồ Thanh Hải thanh tịnh, tôi đi tìm một hồ đẹp khác trên cao nguyên. Ánh dương thật là linh diệu, chỉ cần cưỡi một làn gió mát bay bổng là có thể xuyên qua tầng mây vạn dặm, bay khắp tuyết chiều ngàn non. Đến với Namtso thiêng liêng và thuần khiết. Hồ nước này là ký ức trong vắt mà năm tháng đã để lại cho Thiên Sơn.
Namtso nằm giữa huyện Bàng Ngạch và huyện Đương Hùng, phía bắc Lhasa (Lạp Tát), đích xác ở phía bắc ngọn núi chính của cao nguyên Thanh Tạng – núi Niệm Thanh Đường Cổ La, cách Lhasa 240 kilômét, là hồ thiên nhiên cao nhất thế giới so với mực nước biển. Hồ Namtso thần kỳ xiết bao, mới đây vẫn còn đang thưởng ngoạn phong cảnh hiện thực, chỉ một sát na, đã chìm vào trong giấc mộng xanh thẳm của hồ. Nhấn chìm sinh mệnh trong đó, cảm nhận được màu xanh thẫm thanh tịnh, màu xanh sa-phia cao quý, màu xanh ngắt buồn bã của nước hồ. Người ta e dè chỉ cần vô ý xông vào, là sẽ khuấy động giấc mộng u tĩnh của hồ Namtso, mà không hay biết rằng, giấc mộng ấy đã sớm nâng niu chúng ta.
Những ngọn núi tuyết trắng nhấp nhô nối tiếp như mộng như ảo, trong mỗi một khoảnh khắc sinh động, chúng đều biến thành những phong cảnh khác nhau. Dùng ánh mắt để nắm bắt vẻ đẹp muôn vàn hình thái, trong tích tắc chớp mắt, phong cảnh đã có thể tràn ngập tâm hồn ta, khiến những người đến nơi này đều không muốn bỏ lỡ bất cứ điều nhỏ nhặt gì. Từng chiếc lều vải giăng giăng dưới bầu trời xanh bao la, những làn khói xanh vẩn vơ bay lên từ đỉnh lều đều kể với chúng ta rằng mảnh đất thanh tịnh này thực ra đang dấy lên và tỏa ra thứ khói lửa giản dị nhất của chốn nhân gian.
Vào mùa đông, tầng băng dày nặng nề kết lại chắc chắn bên bờ hồ, nhưng nước hồ vẫn chảy dào dạt như trước. Thiên hồ[11] thần thánh, trong sạch tựa như đang nhắc nhở, ở nơi này đã cất giữ biết bao câu chuyện thần thoại ly kỳ mà tươi đẹp. Ngọn gió thổi lướt qua, bị những truyền thuyết mà nước hồ lưu lại làm cho run rẩy, lặng lẽ kể câu chuyện bãi biển nương dâu của chúng. Mà hết thảy những gì những câu chuyện này gửi gắm, đều là chủ đề tốt lành, bình an và hạnh phúc.
[11] Trong tiếng Tạng, Namtso có nghĩa là hồ thần, hồ thiên đường (thiên hồ) hoặc là hồ thiêng.
Nhờ vẻ đẹp tao nhã của truyền thuyết, sự thiêng liêng của nước trời đã khiến cho hồ Namtso có sinh mệnh, có tình cảm. Mỗi dịp đến năm con Dê, chư Phật, Bồ Tát, thần hộ pháp đều tụ hội ở hồ Namtso, lập đàn pháp hội Đại Hưng. Lúc này, đi quanh hồ đọc kinh một lần, còn hơn cúng bái hàng ngàn hàng vạn lần lúc bình thường. Các tín đồ hành hương không quản gian khổ, từ những miền đất khác nhau, trèo đèo lội suối vượt thác vượt đèo đến đây, chỉ vì muốn mượn nước từ bi của hồ thiêng để rửa trôi những bệnh tật và khổ nạn, cầu được viên mãn phúc huệ. Lá cờ phướn ngũ sắc phấp phới trong gió khắc ghi sự hiện hữu chân thật của khoảnh khắc này. Gò Mã Ni bên hồ Namtso như thể lĩnh pháp chỉ của Phật tổ, dùng linh hồn để bảo vệ sự thiêng liêng này. Tín ngưỡng của các tín đồ cũng giống như những tảng đá bên hồ, đều rót vào hồ thiêng, làm cảm động chính bản thân, cũng làm cảm động người khác.
Sóng biếc xao động chậm rãi kể một câu chuyện tình lãng mạn. Chuyện kể rằng, Namtso là con gái của Đế Thích Thiên, là vợ của Niệm Thanh Đường Cổ La. Họ sống bên nhau tại Thiên Sơn, từng có một khoảng thời gian sống chết có nhau giữa nhân gian. Non và nước giao hòa, nước và non trùng điệp, tựa như đôi đá vợ chồng đứng sừng sững bên hồ đó, đôi bên nặng tình với nhau. Có lẽ, họ không nhớ nổi rốt cuộc đã ở bên nhau bao lâu, cùng nhau ngắm bao lần mặt trời mọc rồi lại lặn, biết bao người đến rồi lại đi. Không thể non hẹn biển, nhưng lại có thiên đường địa cửu. Bên hồ còn có một tảng đá hình hai bàn tay chắp vào nhau, là để cầu phúc cho vạn vật, cầu phúc cho người dân đời đời sống bên hồ Namtso, cũng như cầu phúc cho mỗi khác qua đường đến với Namtso.
Mặt hồ dưới ánh hoàng hôn, lúc này sóng biếc xanh lam đã nhạt nhòa, ánh sáng vàng lấp lánh phản chiếu, như ánh sáng từ bi, ánh sáng cát tường phát ra từ giữa khoảng mày mi của Phật tổ, vô tư chiếu rọi khắp non sông trời bể. Những người tắm trong thứ ánh sáng đó đang tận hưởng sự bình đẳng và nhân hậu mà tự nhiên ban cho.
Namtso tựa như một chiếc bình ngọc rơi xuống Tuyết Sơn xa xôi, khí chất lóng lánh mà nó tỏa ra làm khuấy động nội tam, khiến con người ta không kiềm được ham muốn cất giữ sự thiêng liêng, thuần khiết này cho riêng mình. Xưa có một ni cô đến lấy nước đã cúi xuống, dùng chiếc vò trong tay múc đầy linh tính của nước hồ, chứa hết sự thanh tĩnh của sinh mệnh, và đón nhận thời gian của ý Thiền. Đây là một quá trình hướng Thiện, giống như thuyết nhân quả của Phật gia. Lão ni lấy nước xong, lưng đeo vò nước, mỗi bước lại ngoái đầu nhìn lại, ánh mắt ẩn chứa Thiền cơ đó bộc lộ sự xót thương đối với chúng sinh, lại vừa chứa đựng sự ung dung ta và vật cùng quên lãng lẫn nhau. Cái để lại cho chúng ta, chỉ là một bóng dáng đã rời xa, một vệt ánh sáng bồ đề.
Vậy thì, trước lúc từ biệt hồ Namtso, bạn hãy múc đầy một bình nước hồ đi! Tương lai, cho dù là để uống hay là giấu kín, đều biết rằng, hồ nước tuyệt đẹp này chảy giữa trái tim, có thể tưới tắm cho linh hồn, thanh lọc nhân sinh.
Cửu Trại Câu thần kỳ
Hãy đi đến Cửu Trại Câu theo cách này: đi từ chốn hồng trần sâu nhất, đến giữa hồ nước xanh thẳm, diễn lại một câu chuyện thần thoại tươi đẹp. Bước lên bậc thang của thời gian, ánh mắt sẽ đậu xuống hồ Thiên Nga. Mặt hồ trong vắt như gương sáng, mỗi người đều có thể soi thấy bản thân chân thực trong đáy tim mình. Ở nơi đây, chúng ta quên đi nhân gian đầy khói lửa cùng hết thảy tôn quý lẫn vinh hoa của hồng trần. Chúng ta giống như những chú chim, ấm áp quần tụ bên nhau khi dừng bay, và mỉm cười tạm biệt khi khởi hành một chuyến đi xa.
Tất cả mọi kiếm tìm, đều là để đến được một nơi trong sạch của cuộc sống. Những mặt hồ tụ tan ẩn kín sau chốn rừng xanh sâu thẳm, tựa như những ngôi sao ban sớm sáng bừng giữa dải Ngân Hà. Mà những hồ nước này hoặc long lanh, hoặc kỳ ảo, hoặc trầm tĩnh, hoặc mỹ lệ, chính là những ngôi sao rơi lạc trên Cửu Trại Câu. Bố cục ấy phảng phất như tuân thủ theo tinh tướng[12] và cũng đóng khung trong tâm can con người. Những hồ nước ấy gìn giữ lãnh địa của riêng mình, rõ ràng và minh bạch, không để cho bất cứ người nào bước vào mà bị mất phương hướng.
[12] Tinh tướng: Số tử vi.
Cho dù là Hùng Miêu Hải (hồ Gấu Trúc) ở giữa biển cát xanh lục, hay Ngưu Tê Hải (hồ Ngưu Tê) đa sắc thần kỳ, hoặc sông Khổng Tước hoa lệ chảy qua sạn đạo[13], đều là những kỳ quan thần kỳ mà năm tháng ban tặng cho Cửu Trại Câu. Những ngôi sao sâu thẳm mênh mang này, không hề ẩn chứa bí mật, mà là phong cảnh của tạo hóa thiên nhiên.
[13] Sạn đạo: Là đường xây bằng cầu treo hoặc ván gỗ xếp hai bên sườn núi đá, dùng để đi qua các khu vực núi non hiểm trở.
Chúng ta đem linh hồn giao cho hồ nước của Cửu Trại Câu, không cần lời hẹn thề như non xanh, cũng không cần sự chứng giám của mây trắng. Thực ra, sinh mệnh vốn là một câu đố, mà chúng ta lại không nhất thiết phải dò đoán lời giải cuối cùng ngay từ khởi đầu của chuyến đi. Chỉ cần thuận theo những vết hằn của năm tháng, lấp đầy quá trình dài lâu, để hoàn thành sứ mệnh mà cuộc sống đã giao cho. Vậy thì, cho dù nhỏ nhoi như một cây cỏ, một con kiến, một hạt bụi trần, đều có thể hiểu thấu chủ đề của cuộc đời.
Phải có cõi lòng bao la như thế nào mới có thể chứa hết được quần thể hồ bày bố như bàn cờ của Cửu Trại Câu. Nếu nói những hồ đặt tên bằng tên động vật là những vì sao rải rác trong sông Ngân Hà, thì những hồ đặt tên bằng tên thực vật lại chính là những bức tranh sắc màu sặc sỡ. Chúng dùng tâm tình đượm sắc tô điểm cho ký ức của tháng năm. Chúng nạm vào nước hồ những câu chuyện hoa nở hoa tàn, những gặp gỡ bèo tụ bèo tan nơi trần thế.
Dưới ánh nắng vàng ruộm, hồ Hoa Hỏa (hồ Đốm Lửa) lấp lánh sóng bạc, những ngọn sóng xô đẩy xao động thời gian, lá phong rực màu rụng lả tả trên mặt hồ, thắp sáng ngọn đèn mùa thu. Nơi đây như một mộng cảnh lung linh, lại có thể bất chợt nghe thấy tiếng thở khe khẽ của bên trong tĩnh lặng. Những thân lau sậy đung đưa trong gió, tựa như những cụ già đã trải qua biết bao sương gió, khiến cho những dòng sông nước chảy trong vắt quanh co cũng đượm biết mấy mùi vị thâm trầm của thế gian. Núi xanh biêng biếc, một vùng trúc xanh mơn mởn, soi bóng xuống hồ, tạo thành hồ trúc tĩnh lặng tự nhiên. Lúc bấy giờ, chỉ muốn chặt trúc làm sáo, dùng âm điệu du dương thổi nên một khúc tâm tình trống trải như sơn cốc, và cũng thổi nên âm điệu trong vắt trăm chuyển ngàn hồi.
Ánh mắt dừng lại trên những trại ấp giữa sơn cốc, dừng lại trong những nhà xay bột bên dòng nước, những kinh đồng[14] chuyển động, những lá phướn phất phơ, khiến bạn quên mất những ngày tháng tiên cảnh nhân gian. Nuôi dưỡng tuổi xuân trong nước, đợi đến khi rời đi, lại vớt lên, tuổi xuân ấy vẫn biếc xanh như khi ta mới đến.
[14] Còn gọi là chuyển kinh đồng, chuyển kinh luân, là pháp khí của tín đồ Phật giáo.
Lựa chọn trôi chảy như nước, cũng như thời gian đã đi qua thì sẽ không quay đầu lại. Thể nghiệm và lĩnh ngộ nhân sinh trong nước, còn sinh mệnh đã được nước thanh lọc, trở nên trong sạch. Những thác nước như những chiếc rèm ngọc buông lơi của Cửu Trại Câu cuộn tung sóng trào trong dòng chảy nhân sinh, biến ảo thành những gió mây hào sảng khẳng khái của tự nhiên.
Cho dù là thác nước từ trên trời đổ xuống Nặc Nhật Lãng, hay là dải lụa trắng như châu như ngọc Trân Châu Than, đều tự chìm đắm trong cách tuôn trào của mình, dường như chúng phải chìm đắm trong cách tuôn trào của mình, và dường như chúng phải dốc hết nhiệt tình vốn có để chinh phục năm tháng thời gian. Tư thế vút bay của những thác nước ấy, tựa như lãng tử áo trắng múa kiếm, hoa kiếm lay động, có thể chém vụn hết thảy hoa lệ của thế gian; lại tựa như nhã khách gẩy đàn, dây đàn rung lên, có thể xuyên thấu ngàn vạn mê lầm của thế sự.
Bạn hãy mượn hồ nước Kính Hải để trấn tĩnh lại mọi tâm tình xáo động. Hồ nước này hội tụ tất cả vẻ đẹp vô cùng vô tận của Cửu Trại Câu. Nó dung nạp tất cả núi tuyết, rừng xanh, trời biếc, mây trắng, chim bay, cá lượn vào trong, và lưu giữ hết thảy tốt tươi khô héo của tự nhiên, chìm nổi vinh nhục của nhân thế nơi này. Há chẳng phải nuóc hồ này mềm dịu và trong vắt, cũng có thể chảy xuyên lòng ngực của chúng ta, soi chiếu tâm linh của ta, và đủ cho chúng ta uống thỏa thuê hết cả một đời này hay sao? Rất nhiều phong cảnh đẹp lại luôn ở bờ bên kia. Khi ấy, bạn đứng giữa khung cảnh này, nắm bắt được sự chân thực linh diệu mà huyền bí. Nước hồ của Cửu Trại Câu trong vắt như thế, không phải mưa cũng chẳng phải sương; nước hồ của Cửu Trại Câu cũng mông lung như thế, lúc xa xôi lúc lại thật gần. Khi vạn vật tụ hội, chúng ta vẫn chọn lựa tiếp tục bước đi như trước. Non nước khi đó đã trải qua một cuộc kiếm tìm trong cuộc đời, hàm chứa ý nghĩa sâu xa của việc xuân cấy thu gặt[15].
[15] Xuân cấy thu gặt: Thành ngữ, nghĩa chỉ việc làm bây giờ sẽ cho báo đáp, kết quả sau này.
Đường đến cũng là nẻo về. Trong hồ, một khóm rong rêu đung đưa dưới nước, nó đang kể chuyện trong ánh nắng ấm áp, và nó không dễ dàng nói lời ly biệt với bất cứ khách qua đường nào.
Quyển thứ năm: Sóng nước
trong mộng
Mỗi người đều có một vùng sông nước trong mộng, vùng sông nước này chính là Giang Nam. Có lẽ Giang Nam níu giữ bạn chỉ bằng một ngọn sóng, một mảnh hồi ức, một gốc cây cảnh. Nhưng sự hiện diện của bạn, đều là vì mốt duyên tình không dứt từ kiếp trước. Không quên nổi con thuyền nhỏ mui đen đó, không quên nổi ngày hôm qua xuân sắc khắp thành vào thời Tống đó. Đây là nơi hễ bạn đã bước vào thì không gì chia cắt nổi, khiến bạn từ một người khách qua đường biến thành một người quay trở về. Đã nói, nhất định phải gom góp một quãng thời gian của vùng sông, nước trong một quán trà cũ kỹ, lặng lẽ chờ đợi, không gặp không về.
Ký ức sông nước
Người ta nói sông nước Thiệu Hưng là một dòng sông, bạn đứng ở bên bờ đá xanh, muốn qua sông, chỉ có cách ngồi lên thuyền nhỏ mui đen mới có thể đi qua. Bất cứ phương thức nào khác đều không thể thực sự đưa bạn vào giấc mộng sông nước. Dòng sông mang đậm phong cách cổ xưa của Giang Nam, sẽ thanh lọc sạch sẽ cõi lòng đầy mây khói phù hoa của bạn, gạt bỏ mọi bối rối của khách qua đường là bạn, mang đến cho bạn hơi ấm của người trở về. Lội nước mà đi, trong sương khói mờ mịt bao trùm sông nước, phong cảnh hai bên bờ sẽ làm ướt đẫm áo khăn của bạn, mà sau đó, lại từ từ thẩm thấu vào tận sâu thẳm linh hồn bạn.
Mái chèo khua qua ký ức cổ xưa của Thiệu Hưng, những sóng nước nhẹ nhàng lan tỏa sẽ trùng phùng gợi mở những sự tình mà bạn đã quên lãng hay đóng kín. Những khoảnh khắc từng khắc sâu tâm khảm vốn đã nhạt nhòa, mà giờ đây, từng chi tiết mơ hồ lại trở nên sống động, sắc nét. Phong cảnh cổ kính khóa kín mọi nét hoa lệ của thế gian, khiến bạn có thể thưởng ngoạn mây trôi gió vờn ngay từ những dấu tích đã xanh rêu. Ở vùng sông nước không có điêu khắc, không thấy trang hoàng, và đâu đâu cũng là nên thơ tự nhiên này, rất nhiều cuộc đời tối tăm, trong một sát na, đã trở thành linh hồn sống động.
Men theo những cảnh trí thơ mộng, thanh tân, linh khí từ xa đến gần tựa như một cơn gió nhẹ ùa đến, lịch sử từ cổ đến kim cũng như một cuốn cổ thư từ từ mở ra. Vô vàn nhân vật, sự tình của vùng sông nước chưa từng được thống kê một cách tỉ mỉ, đã lọt vào giữa năm tháng cuồn cuộn như nước trào, bởi vì chỉ có đi xuyên qua thời gian mưa khói hàng ngàn năm, mới có thể thực sự nắm bắt được những câu chuyện chìm sâu trong dòng nước Thiệu Hưng.
Những thứ đã xa nay quay trở lại, lịch sử như một tấm gương đồng han gỉ, treo trước song cửa sổ vùng sông nước, trong những ngày tháng sắc nhọn, để lộ ra chiếc bóng tang thương của mình. Vua Đại Vũ đã từng trị thủy cứu dân đen nơi đây, Việt Vương Câu Tiễn đã từng nếm mật nằm gai trên mảnh đất này để giành lại thiên hạ. Ai đã có mối tình bi thương không lời ở vườn Thẩm đó, còn có chuyến du hành hoài niệm chuyện cũ người xưa như văn hào Lỗ Tấn? Thậm chí, khi bạn hít thở, mùi thơm của mực trong bức “Lan đình tập sự” của Vương Hy Chi còn làm bạn nghẹt thở đến mức không dám thả trôi dòng suy tưởng, thứ mực nước nghìn năm ấy đã tẩy nhãn tịnh tâm cho bạn, lọc tẩy hết thảy những nóng vội của con người, chỉ giữ lại một khoảng trời trong vắt.
Là một người có tâm trí trong sáng, bạn có thể du ngoạn trong không gian đơn sơ phóng khoáng của lịch sử, mơ mộng trong phong cảnh tú lệ của sông nước, không cần lo lắng bị thế sự phồn tạp ngăn cản, không cần tính toán những tình cảm chua xót vây cuốn. Bạn nhắm mắt lại, cảm nhận vẻ đẹp đắm say của sông nước, bạn mở mắt ra, ngọn gió xuân dịu dàng ấy đã lặn sâu trong linh hồn bạn, nói với bạn rằng, phút giây này, cuộc sống thật mới mẻ và chân thực xiết bao.
Chiếc thuyền mui đen nho nhỏ chảy xuôi theo dòng, ngước mắt lên rồi dựa cửa sổ để ngắm nhìn Giang Nam tươi đẹp, gặp gỡ trong phút giây đã đủ níu kéo tuổi xuân và mộng tưởng mà gió bụi từng che lấp. Thời gian tựa như một lưỡi dao sắc lẹm, cắt đứt tuổi hoa xanh biêng biếc, và cũng có thể cắt đứt ký ức sâu thẳm, giải phóng những suy nghĩ bị giam cầm. Những câu chuyện cũ từng bị tuế nguyệt hong khô đã bắt đầu ướt đẫm, dưới ánh dương rực rỡ sáng lòa, chúng lại mang hơi ấm của tháng ngày.
Khi bạn tán thưởng phong tư dịu dàng yểu điệu của các giai nhân Giang Nam, sao không nhớ tới người hồng nhan cân quắc chẳng kém đấng mày râu ấy? Trong thời đại mây đen ngập lối đó, một câu “Thu phong thu vũ sầu sát nhân” (Gió thu mưa thu buồn đến giết người) của Thu Cẩn [1] đã vạch thẳng sự đen tối của thời đại, đến nay vẫn còn được hậu nhân truyền tụng không quên. Thân là nữ nhi, bà hành tẩu trên đoạn đường đầu của cách mạng, rong ruổi giang hồ, cưỡi sóng đạp gió. Cuối cùng máu nhuộm Hiên đình, xương vùi Tây lãnh, sự tích lẫy lừng đó đã làm xúc động tâm can con người mọi thời đại.
[1] Thu Cẩn (1875-1907), chí sĩ cách mạng dân chủ cận đại của Trung Quốc, tên gốc là Thu Khuê Cán, tự Toàn Khanh, hiệu Nhật Ngô, nhũ danh là Ngọc Cô, sau khi sang Nhật đổi tên là Thu Cẩn, tự xưng là Giám Hồ nữ hiệp, bút danh Thiên Thu. Thu Cẩn quê Sơn âm Chiết Giang (nay là Thiệu Hưng), sinh ở huyện Mân, tỉnh Phúc Kiến (nay là Phúc Châu), coi thường lễ giáo phong kiến, đề xướng nam nữ bình đẳng, tính tình hào sảng, văn ôn võ luyện, từng du học tự túc ở Nhật Bản, về sau tham gia các tổ chức cách mạng như Tam Hợp hội, Quang Phục hội, Đồng Minh hội… Năm 1907, bà cùng bọn Từ Tích Lân tổ chức Quang Phục quân, đồng khởi nghĩa ở Chiết Giang, An Huy ngày mùng 7 tháng 6. Sự việc bại lộ, bà bị bắt. Ngày 15/7, bà bị xử tử ở Hiên Đình Khẩu, Chiết Giang. Thu Cẩn là hình mẫu của nữ chiến sĩ cách mạng trong tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn.
Hồn phách trầm tĩnh như nước thu đó liệu có nhìn thấy vầng trăng sáng đầu tiên của đất nước Trung Quốc mới hay không? Hiệp khách chân chính, kiếm còn chưa rút, thì sự sắc bén đã làm kinh hãi thế gian, người nữ nhi nổi danh Giang Nam này quả thực có khí phách cưỡi gió vạn dặm, xông thẳng tầng mây. Khi bạn đang say đắm trong sự nên thơ của khung cảnh cầu con nước chảy, thì vẫn có một mặt hồ trong tâm hồn, sóng vỗ xô bờ, xao động mãi không thôi.
Di chuyển trên sông nước khó tránh khỏi bị ướt, hơi lạnh thấm buốt cõi lòng. Chọn một bờ bên để lên, đi trên con đường lát đá, những phiến đá bị thời gian mài mòn thành trơn bóng, bạn xóa đi những bụi phấn mà người đi trước còn lưu lại, còn những trần ai mà bạn để lại, sẽ lại có người khác xóa mờ giúp bạn. Trong lúc vô tình, những giọt nước từ những giò lan u tĩnh treo lên ban công tí tách nhỏ xuống, làm ướt tóc bạn, nhưng lại thoang thoảng mùi hương xao động tâm hồn.
Một giọt sương lan thanh nhã tuyệt trần, tựa như một giọt mực vỡ nhỏ trên giấy Tuyên Thành, thấm nhòe hồi ức sặc sỡ. Là thư thánh Vương Hy Chi đã đem thủy mặc hội tụ thành suối lan, dùng ngòi bút như nước chảy mây trôi viết thành “Lan đình tập sự”, để tiếng thơm truyền đến ngàn đời. Lan đình của ngày xưa từng có một cuộc tụ họp mây trắng gió xuân, các danh sĩ Ngụy Tấn đã ký gửi tâm tình vào non nước nơi này, uống rượu ngâm thơ, khi cảm thán chuyện không hợp thời cuộc, khó tránh khỏi bị vạn vật đa tình nơi đây chuốc cho say túy lúy.
Sinh mệnh vốn có rất nhiều cách kiếm tìm, nếu như khi tìm kiếm mà ta có một cõi lòng bình thản ung dung thì ủ dột cũng có thể sáng láng, khốn đốn cũng có thể tỉnh táo. Còn dùng tài cao để cầu danh lợi, chưa chắc đã là hành động của bậc minh trí; dùng sự độ lượng để chứa đựng tự nhiên, lại há chẳng phải là một cuộc đời khoáng đạt hay sao? Khi bạn nhìn lại quá khứ, không biết là ai đã tặng một chén sương trong vắt trên cành u lan, quay người nhìn lại, nàng đã biến mất trong ngõ đá mưa khói mất rồi.
Ánh dương mềm dịu cháy tan theo từng lớp ngói đen, trong khoảnh khắc bạn chớp mắt, những lá tửu kỳ [2] phất phơ đón gió có thể thấy ở bất cứ nơi đâu, gấp gáp muốn chỉ cho bạn thấy bình rượu ngon đã bị thời gian Thiệu Hưng ủ kín. Cho dù bạn có kìm nén được trước sự mê hoặc của mùi rượu thơm hay không, bạn đều không thể tự chủ mà chọn một quán rượu, bước qua bậu cửa gỗ cũ mèm, say tỉnh mặc sức thỏa ý.
[2] Tửu kỳ: Lá cờ bằng gấm, trên thêu chữ “Tửu” (rượu) thường được treo trước quán rượu, nhà hàng thời cổ để đánh dấu và mời mọc khách quan.
Trong phòng tràn ngập mùi rượu thơm nồng, bạn chưa nếm rượu thì đã ngà ngà say. Bộ bàn ghế gỗ cổ, những khách uống rượu đến từ trời nam đất bắc ngồi vây quanh, không ai hỏi ai từ đâu đến, đi về đâu, một bình Hoa Điêu đã chuốc say mọi cuộc đời buồn vui sướng khổ của mỗi người. Câu chuyện của mỗi người đều là một vò rượu cũ chôn sâu, bạn mượn cây kéo thời gian nhàn tản của Thiệu Hưng để mở nó ra, trong ánh nắng nhàn nhạt, đôi mắt ngây ngây, nhớ lại ngày hôm qua đầy biến động của chính mình.
Chỉ như thời gian được thưởng thức một ly rượu, chuyện cũ chớp mắt đã mười năm. Tuế nguyệt trong ly rượu không còn sắc nhọn, nó sẽ không truy đuổi bạn, bạn có thể uống đến say mèm, từ sáng sớm bình minh, đến khi đêm về trăng lên, cũng chỉ có một ngọn đèn thắp sáng vì bạn. Khi bạn nhìn thấy một chiếc áo dài cũ rách, và lầm tưởng đó là Khổng Ất Kỷ [3], mới hay rằng, mình đã say thật rồi. Khi tỉnh lại, câu chuyện của bạn đã kết thúc, khi say mèm, câu chuyện của người khác lại mới bắt đầu.
[3] Khổng Ất Kỷ: Một nhân vật trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Lỗ Tấn.
Giả như bạn là một khách từ phương xa tới, không kiềm lòng được trước sự cổ kính của sông nước, nói không chừng sẽ lạc lối trong một ngõ nhỏ man mác khói xanh nào đó, không nhớ nổi đường đến. Hoặc là bị cơn gió thoảng lãng quên trên một cây cầu không biết tên nào đó, không biết được đường về. Lúc ấy, bạn chỉ cần tìm nơi có nước chảy, tại bất cứ một bến đậu nào, những phu thuyền trên những con thuyền mui đen ấy, sẽ đưa bạn đến mọi nơi có liên quan đến Thiệu Hưng.
Mỗi một cây cầu cổ là một điểm dừng chân của nhân sinh, mỗi một bến đò là một khởi đầu của vận mệnh, bạn đặt người khách qua đường đi lướt qua nhau trước một song cửa sổ sát dòng nước, rồi lại gửi gắm phong cảnh mà bạn du ngoạn vào chân trời phù vân. Bạn cho rằng cách xa sông nước là có thể đặt chân lên đất liền, mặc cho gió dập mưa vùi, ai có hay rằng, quanh đi quẩn lại sẽ lại quay về trên chiếc thuyền mui đen. Ở nơi đây, sông nước là dòng chảy, bạn muốn đến bờ bên kia, thì buộc phải di chuyển trên dòng nước. Người có trí tuệ sẽ hiểu được chân lý “tòng thiện như nước chảy”, “nhu có thể khắc cương”, và tấm lòng dù rộng lớn đến đâu, cũng chẳng vượt nổi sự mênh mông của nước. Chảy xuôi theo dòng, không cần đo đếm độ dài của dòng chảy, để lịch sử đã hé mở chìm sâu dưới đáy nước, để câu chuyện chưa từng được đọc trôi nổi trên mặt nước. Trong kết cục đi tìm khởi đầu mới, nói cho cơn gió nhẹ hay rằng, bạn sẽ đến vườn Thẩm, sẽ tìm kiếm một giấc mộng cũ bi thương thời Tống. Nói với mây trắng rằng, bạn sẽ đến vùng thôn quê, yên lặng ngắm sân khấu đã già nua của tuổi xuân.
Ly biệt ngắn ngủi là để có niềm vui lúc trùng phùng, ly biệt vĩnh viễn lại là một vẻ đẹp không thể tả bằng lời của nhân sinh. Bạn từng hồi tưởng sâu sắc về sông nước, có một ngày, sông nước cũng sẽ lờ mờ nhớ lại bạn của ngày hôm qua.
Gặp gỡ vườn Thẩm
Hồng tô thủ, hoàng đằng tửu, mãn thành xuân sắc cung tường liễu. Đông phong ác, hoan tình bạc, nhất hoài sầu tự, kỷ niên ly sách, thác, thác, thác!
Xuân như cựu, nhân không sấu. Lệ ngân hồng ấp giao tiêu thấu. Đào hoa lạc, nhàn trì các, sơn mình tuy tịa, cẩm thư nan thác, mạc, mạc, mạc!
(Tống, Lục Du, “Thoa đầu phượng”)
(Dịch thơ Nguyễn Xuân Tảo:
Tay trắng muốt, rượu vàng rót, cây liễu cung sân xuân cách bức. Gió đông dữ, tình thắm lỡ, một mối tơ sầu, bao năm tan vỡ. Dở, dở, dở!
Xuân như trước, người gầy rạc, ngấn lệ đỏ ngầu khăn lụa ướt. Hoa đào rữa, lầu gác trở. Non thề còn kia. Chớ, chớ, chớ!)
Thế tình bạc, nhân tình ác, vũ tống hoàng hôn hoa dịch lạc. Hiểu phong can, lệ ngân tàn, dục tiên tâm sự, độc ngữ tà lan. Nan, nan, nan!
Nhân thành các, kim phi tạc, bệnh hồn thường tự thu thiên tác. Giốc thanh hàn, dạ lan san, phạ nhân tầm vấn, yên lệ trang hoan. Man, man, man!
(Tống, Đường Uyển, “Thao đầu phượng”)
(Dịch thơ Đông A:
Tình đời bạc, tình người ác, mưa tiễn hoàng hôn hoa tan tác. Gió mai lan, lệ hoen tàn, muốn thư tâm sự, rặt ý lan man. Nan, nan, nan!
Người đơn bạc, nay mai khác, bệnh lòng như thể ngàn thu tạc. Tiếng tù vang, bóng đêm tan, sợ người tra hỏi, nuốt lệ tân trang. Gian, gian, gian!)
Chưa một ai bước vào vườn Thẩm [4] mà cảm giác như gió mưa quay về, cho dù cảnh trí và sự tích nơi đây đã sớm lặp lại hàng trăm ngàn lần trong giấc mơ của bạn. Nhưng rốt cuộc bạn chỉ là một áng mây màu phiêu lãng, có lẽ bạn có thể nhận ra mối tình quá khứ năm xưa của vườn Thẩm, nhưng lại không có một cành cây ngọn cỏ nào nơi đây đợi chờ bạn. Nếu như nói là đến đây để hồi tưởng, thì cái bạn hồi tưởng là ký ức của Lục Du; nếu như bạn nói là đến đây để tìm mộng, thì cái bạn tìm kiếm là mộng cảnh của Đường Uyển. Vườn Thẩm như một hồ nước xuân sáng như gương, có thể soi bóng chuyện cũ ngày xưa một cách rõ ràng, nhưng bạn vĩnh viễn chỉ là một kẻ bên ngoài nhìn vào, mà không thể là người bước vào trong tấm gương.
[4] Vườn Thẩm (Thẩm viên): là khu vườn cảnh nổi tiếng đời Tống ở Thiệu Hưng, gắn liền với câu chuyện tình bi thảm của nhà thơ Lục Du và người vợ Đường Uyển. Năm 20 tuổi, Lục Du kết duyên cùng người em họ Đường Uyển, hai người là thanh mai trúc mã, vừa tâm đầu ý hợp, thi thư xướng họa, nhưng Đường Uyển lại bị mẹ chồng ghét bỏ, bà buộc Lục Du phải bỏ Đường Uyển, Lục Du đành phải chia tay Đường Uyển, nhưng vẫn lén thuê nhà riêng để hai vợ chồng có thể gặp gỡ. Sau này mẹ Lục Du phát hiện, đến tận nơi mắng nhiếc, khiến Lục Du và Đường Uyển phải chia tay thật sự. Lục Du cưới vợ khác, còn Đường Uyển lấy Triệu Sĩ Trinh. Hơn mười năm sau, Lục Du dạo chơi vườn Thẩm, tình cờ gặp Đường Uyển và chồng, Đường Uyển kể hết cho Triệu Sĩ Trinh, Triệu Sĩ Trinh là người cao thượng, không những cảm thông mà còn cho phép vợ làm tiệc rượu đãi Lục Du. Lục Du đã đề một bài từ trên tường để bày tỏ nỗi lòng mình, chính là bài “Thoa đầu phượng”. Đường Uyển đọc xong cũng cảm động, đề một bài từ đáp lại. Sau buổi hôm ấy, Đường Uyển buồn rầu nghĩ ngợi, rồi ốm mà mất. Cái chết của nàng khiến Lục Du đau khổ, ân hận suốt đời, không thể nguôi ngoai.
Mặc dầu chỉ là một hạt bụi trần lơ lửng giữa thời gian của vườn Thẩm, nhưng vì khúc thiên cổ tuyệt xướng đó, mà du khách như nước lũ đến dạo quẩn quanh trong vườn như xưa. Đương nhiên, cánh cửa dày nặng đã từng đóng im ỉm đó của vườn Thẩm đã ung dung mở ra chào đón tất cả mọi người. Vườn Thẩm vốn là một khu vườn của họ Thẩm ở Giang Nam, cho dù thấm đẫm trăng sáng thời Tống, lại trôi qua mây nước Minh, Thanh, còn nhuốm màu mưa khói thời nay, nhưng năm tháng ở nơi này trước sau vẫn dừng lại trong một bài từ tên là “Thoa đầu phượng”.
Là “Thoa đầu phượng” của Lục Du và Đường Uyển, cũng là vườn Thẩm của Lục Du và Đường Uyển. Họ bị hiện thực tàn khốc chia cắt vận mệnh, trở thành tù nhân của lễ giáo phong kiến, mà vườn Thẩm lại tạo cho họ một vận mệnh khác, khiến ly biệt có thể trùng phùng đầy thương cảm, khiến tan vỡ có thể viên mãn một cách tàn khuyết. Dù cho suốt đời chẳng được bên nhau, nhưng họ lại trở thành một phong cảnh chẳng thể chia lìa trong vườn Thẩm, vườn Thẩm cũng nhờ câu chuyện của họ, mà trở thành một địa điểm khiến người ta phải nhẫn nại nghiền ngẫm nghĩ suy.
Thảng như bạn không muốn làm một người cổ hủ, khi đến vườn Thẩm, không nhất thiết phải mang theo sắc thái bi thương, không cần phải thở than đau đáu, cũng không cần phải cảm thấy trống trải chua xót. Bởi vì, nơi đây đã từng có cuộc ly biệt rõ ràng sáng tỏ, cũng đã từng có những hồi ức tươi đẹp khôn xiết. Bất cứ vương vấn vô cớ nào, đều là sự hốt hoảng không tên. Phong cảnh nơi này, câu chuyện nơi này, sẽ không khiến ai vô tình bỏ lỡ, và cũng không vì ai cố ý dừng lại. Đi theo những dấu tích thưa thớt còn sót lại của câu chuyện xưa, bước đi trong giấc mộng cũ của mưa gió vườn Thẩm, bạn có thể cảm động, nhưng không nên bi thương; bạn có thể say đắm, nhưng không nên mơ hồ. Vườn Thẩm năm đó kỳ thực đã bị chôn vùi trong gió bụi thời gian, chính những người đời sau vì đi tìm giấc mộng, nên đã trùng tu lại di tích lịch sử còn sót lại này, để người đời có thể nhìn thấy được tình cảnh năm xưa từ những cảnh vật hiện thời mà mình có thể chạm tay vào được. Không người nào so đo xem vườn Thẩm trước mắt có chân thực như xưa không, bởi vì bạn nhắm mắt lại là có thể ngửi thấy mùi hoa thơm, nghe thấy tiếng mưa rơi, còn có cơn gió thoảng nhè nhẹ bước đi trong vườn, hết thảy đều đang nói với bạn, là thật, chân thực như mộng cảnh, và mộng cảnh cũng là chân thực.
Bước vào khu vườn vốn là bối cảnh sáng tác đó, chỉ mấy chữ “bối cảnh sáng tác” đã khiến bạn quên mất dòng tư duy ban nãy vẫn còn thật giả lẫn lộn kia. Đá Thái Hồ sừng sững đứng riêng, bị tuế nguyệt mài sáng, khắc lên trên đó sắc màu của tháng năm, nó dùng tư thế thơ mộng, kể với bạn rằng có một thi nhân tên là Lục Du, đã từng ở nơi đây cô độc đợi chờ Đường Uyển. Đá Thái Hồ tang thương chép lại quá vãng đã trôi qua, cho dù bị tháng năm đẽo gọt thành trăm ngàn lỗ hổng, nhưng vẫn vì một câu chuyện cảm động, dõi nhìn từng đôi mắt mịt mờ một cách đầy tình thơ ý họa như xưa.
Một làn hương mai thanh nhã bay qua non nước xa vời vợi của lịch sử, chậm rãi ùa tới. Vấn Mai Hạm là một tòa lâu đài thủy tạ mô phỏng phong cách Tống, vì thi nhân yêu hoa mai ấy mà hành lang phong cảnh của vườn Thẩm cũng tràn đầy dấu hương của loài hàn mai. Nếu như bạn đi theo hương hoa lúc mai đương nở, thì những đóa hoa chúm chím môi cười ấy sẽ trang nhã giao hòa với bạn. Cho dù bạn đến vườn Thẩm vào những mùa khác, thì lòng bạn vẫn hướng về phong thái lạnh lùng cao ngạo dứt khoát của nàng. Một tiếng hỏi mai dẫn dắt trăm ngàn tình ý, một giai nhân yểu điệu như hoa mai đã từng nhàn tản dưới khung cửa sổ lạnh lẽo của bạn, đến nay, lại bị ai chia cắt nơi chân trời?
Lục Du nói: “Ngõ nhỏ thành nam lại vào xuân, chỉ thấy hoa mai chẳng thấy người.” Tháng ngày xanh ngăn ngắt, sắc xuân tràn ngập trên đường, Lục Du một mình dựa vào lan can ngắm hết hoa thơm, nhưng chẳng thấy dấu thơm bóng lẻ của Đường Uyển. Chỉ có hàn mai ngập lối vườn xuân ấy, dùng phong cốt đoan trang tao nhã của nàng, mấy độ hương thơm cách tuyệt tục thế, trên bờ xanh um của hồng trần, một mình nhàn nhã thanh tịnh. Hồi tưởng chỉ là sự bối rối trống trải hiện thời, dù cho có tài cao kinh thế, tấm lòng độ lượng, cũng chỉ có thể ở giữa vườn Thẩm sắc xuân giăng mắc, âm thầm hỏi thăm quá vãng thơm hương của một cây mai.
Đi trên cây cầu đá cổ kính mộc mạc trong vườn Thẩm mới hay, tên cầu là “Thương Tâm”. Hoa hạnh mưa khói, dương liễu cầu đá, vốn là những cảnh tượng dịu dàng nhất của Giang Nam, giờ đây, giữa cảnh trí tự nhiên mới mẻ này, lại có thêm ít nhiều ký ức ẩm ướt. Khi tóc trắng phơ phơ, Lục Du mới trở lại vườn Thẩm, đứng bên cạnh cầu, những tình cảm đã đè nén nhiều năm không dám chạm vào nay lần nữa tuôn trào như thác lũ, xối xả thành dòng, xoay qua chuyển lại trong sâu thẳm trái tim. Ông thảm thiết ngâm rằng: “Thương Tâm kiều hạ xuân ba lục, tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai.” (Dưới cầu sóng biếc trông đứt ruột, Đây bóng hồng soi thoảng lúc nào [5]) Chính là lúc Lục Du quay đầu nhìn lại chuyện cũ tình xưa, để lại mối thương lòng ngàn lời khó tả dưới cây cầu đá vườn Thẩm. Trong mộng, chim hồng kinh sợ soi bóng, hồng nhan như xưa, tỉnh lại vườn Thẩm đã mài sáng đôi mắt mờ đục, nàng đã biến mất trong vầng sáng của trần thế.
[5] Trích trong bài Thẩm viên, kỳ nhất. Dịch thơ Khương Hữu Dụng.
Mỗi người đều có một vùng sông nước trong mộng, vùng sông nước này chính là Giang Nam. Có lẽ Giang Nam níu giữ bạn chỉ bằng một ngọn sóng, một mảnh hồi ức, một gốc cây cảnh. Nhưng sự hiện diện của bạn, đều là vì mốt duyên tình không dứt từ kiếp trước. Không quên nổi con thuyền nhỏ mui đen đó, không quên nổi ngày hôm qua xuân sắc khắp thành vào thời Tống đó. Đây là nơi hễ bạn đã bước vào thì không gì chia cắt nổi, khiến bạn từ một người khách qua đường biến thành một người quay trở về. Đã nói, nhất định phải gom góp một quãng thời gian của vùng sông, nước trong một quán trà cũ kỹ, lặng lẽ chờ đợi, không gặp không về.
Ký ức sông nước
Người ta nói sông nước Thiệu Hưng là một dòng sông, bạn đứng ở bên bờ đá xanh, muốn qua sông, chỉ có cách ngồi lên thuyền nhỏ mui đen mới có thể đi qua. Bất cứ phương thức nào khác đều không thể thực sự đưa bạn vào giấc mộng sông nước. Dòng sông mang đậm phong cách cổ xưa của Giang Nam, sẽ thanh lọc sạch sẽ cõi lòng đầy mây khói phù hoa của bạn, gạt bỏ mọi bối rối của khách qua đường là bạn, mang đến cho bạn hơi ấm của người trở về. Lội nước mà đi, trong sương khói mờ mịt bao trùm sông nước, phong cảnh hai bên bờ sẽ làm ướt đẫm áo khăn của bạn, mà sau đó, lại từ từ thẩm thấu vào tận sâu thẳm linh hồn bạn.
Mái chèo khua qua ký ức cổ xưa của Thiệu Hưng, những sóng nước nhẹ nhàng lan tỏa sẽ trùng phùng gợi mở những sự tình mà bạn đã quên lãng hay đóng kín. Những khoảnh khắc từng khắc sâu tâm khảm vốn đã nhạt nhòa, mà giờ đây, từng chi tiết mơ hồ lại trở nên sống động, sắc nét. Phong cảnh cổ kính khóa kín mọi nét hoa lệ của thế gian, khiến bạn có thể thưởng ngoạn mây trôi gió vờn ngay từ những dấu tích đã xanh rêu. Ở vùng sông nước không có điêu khắc, không thấy trang hoàng, và đâu đâu cũng là nên thơ tự nhiên này, rất nhiều cuộc đời tối tăm, trong một sát na, đã trở thành linh hồn sống động.
Men theo những cảnh trí thơ mộng, thanh tân, linh khí từ xa đến gần tựa như một cơn gió nhẹ ùa đến, lịch sử từ cổ đến kim cũng như một cuốn cổ thư từ từ mở ra. Vô vàn nhân vật, sự tình của vùng sông nước chưa từng được thống kê một cách tỉ mỉ, đã lọt vào giữa năm tháng cuồn cuộn như nước trào, bởi vì chỉ có đi xuyên qua thời gian mưa khói hàng ngàn năm, mới có thể thực sự nắm bắt được những câu chuyện chìm sâu trong dòng nước Thiệu Hưng.
Những thứ đã xa nay quay trở lại, lịch sử như một tấm gương đồng han gỉ, treo trước song cửa sổ vùng sông nước, trong những ngày tháng sắc nhọn, để lộ ra chiếc bóng tang thương của mình. Vua Đại Vũ đã từng trị thủy cứu dân đen nơi đây, Việt Vương Câu Tiễn đã từng nếm mật nằm gai trên mảnh đất này để giành lại thiên hạ. Ai đã có mối tình bi thương không lời ở vườn Thẩm đó, còn có chuyến du hành hoài niệm chuyện cũ người xưa như văn hào Lỗ Tấn? Thậm chí, khi bạn hít thở, mùi thơm của mực trong bức “Lan đình tập sự” của Vương Hy Chi còn làm bạn nghẹt thở đến mức không dám thả trôi dòng suy tưởng, thứ mực nước nghìn năm ấy đã tẩy nhãn tịnh tâm cho bạn, lọc tẩy hết thảy những nóng vội của con người, chỉ giữ lại một khoảng trời trong vắt.
Là một người có tâm trí trong sáng, bạn có thể du ngoạn trong không gian đơn sơ phóng khoáng của lịch sử, mơ mộng trong phong cảnh tú lệ của sông nước, không cần lo lắng bị thế sự phồn tạp ngăn cản, không cần tính toán những tình cảm chua xót vây cuốn. Bạn nhắm mắt lại, cảm nhận vẻ đẹp đắm say của sông nước, bạn mở mắt ra, ngọn gió xuân dịu dàng ấy đã lặn sâu trong linh hồn bạn, nói với bạn rằng, phút giây này, cuộc sống thật mới mẻ và chân thực xiết bao.
Chiếc thuyền mui đen nho nhỏ chảy xuôi theo dòng, ngước mắt lên rồi dựa cửa sổ để ngắm nhìn Giang Nam tươi đẹp, gặp gỡ trong phút giây đã đủ níu kéo tuổi xuân và mộng tưởng mà gió bụi từng che lấp. Thời gian tựa như một lưỡi dao sắc lẹm, cắt đứt tuổi hoa xanh biêng biếc, và cũng có thể cắt đứt ký ức sâu thẳm, giải phóng những suy nghĩ bị giam cầm. Những câu chuyện cũ từng bị tuế nguyệt hong khô đã bắt đầu ướt đẫm, dưới ánh dương rực rỡ sáng lòa, chúng lại mang hơi ấm của tháng ngày.
Khi bạn tán thưởng phong tư dịu dàng yểu điệu của các giai nhân Giang Nam, sao không nhớ tới người hồng nhan cân quắc chẳng kém đấng mày râu ấy? Trong thời đại mây đen ngập lối đó, một câu “Thu phong thu vũ sầu sát nhân” (Gió thu mưa thu buồn đến giết người) của Thu Cẩn [1] đã vạch thẳng sự đen tối của thời đại, đến nay vẫn còn được hậu nhân truyền tụng không quên. Thân là nữ nhi, bà hành tẩu trên đoạn đường đầu của cách mạng, rong ruổi giang hồ, cưỡi sóng đạp gió. Cuối cùng máu nhuộm Hiên đình, xương vùi Tây lãnh, sự tích lẫy lừng đó đã làm xúc động tâm can con người mọi thời đại.
[1] Thu Cẩn (1875-1907), chí sĩ cách mạng dân chủ cận đại của Trung Quốc, tên gốc là Thu Khuê Cán, tự Toàn Khanh, hiệu Nhật Ngô, nhũ danh là Ngọc Cô, sau khi sang Nhật đổi tên là Thu Cẩn, tự xưng là Giám Hồ nữ hiệp, bút danh Thiên Thu. Thu Cẩn quê Sơn âm Chiết Giang (nay là Thiệu Hưng), sinh ở huyện Mân, tỉnh Phúc Kiến (nay là Phúc Châu), coi thường lễ giáo phong kiến, đề xướng nam nữ bình đẳng, tính tình hào sảng, văn ôn võ luyện, từng du học tự túc ở Nhật Bản, về sau tham gia các tổ chức cách mạng như Tam Hợp hội, Quang Phục hội, Đồng Minh hội… Năm 1907, bà cùng bọn Từ Tích Lân tổ chức Quang Phục quân, đồng khởi nghĩa ở Chiết Giang, An Huy ngày mùng 7 tháng 6. Sự việc bại lộ, bà bị bắt. Ngày 15/7, bà bị xử tử ở Hiên Đình Khẩu, Chiết Giang. Thu Cẩn là hình mẫu của nữ chiến sĩ cách mạng trong tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn.
Hồn phách trầm tĩnh như nước thu đó liệu có nhìn thấy vầng trăng sáng đầu tiên của đất nước Trung Quốc mới hay không? Hiệp khách chân chính, kiếm còn chưa rút, thì sự sắc bén đã làm kinh hãi thế gian, người nữ nhi nổi danh Giang Nam này quả thực có khí phách cưỡi gió vạn dặm, xông thẳng tầng mây. Khi bạn đang say đắm trong sự nên thơ của khung cảnh cầu con nước chảy, thì vẫn có một mặt hồ trong tâm hồn, sóng vỗ xô bờ, xao động mãi không thôi.
Di chuyển trên sông nước khó tránh khỏi bị ướt, hơi lạnh thấm buốt cõi lòng. Chọn một bờ bên để lên, đi trên con đường lát đá, những phiến đá bị thời gian mài mòn thành trơn bóng, bạn xóa đi những bụi phấn mà người đi trước còn lưu lại, còn những trần ai mà bạn để lại, sẽ lại có người khác xóa mờ giúp bạn. Trong lúc vô tình, những giọt nước từ những giò lan u tĩnh treo lên ban công tí tách nhỏ xuống, làm ướt tóc bạn, nhưng lại thoang thoảng mùi hương xao động tâm hồn.
Một giọt sương lan thanh nhã tuyệt trần, tựa như một giọt mực vỡ nhỏ trên giấy Tuyên Thành, thấm nhòe hồi ức sặc sỡ. Là thư thánh Vương Hy Chi đã đem thủy mặc hội tụ thành suối lan, dùng ngòi bút như nước chảy mây trôi viết thành “Lan đình tập sự”, để tiếng thơm truyền đến ngàn đời. Lan đình của ngày xưa từng có một cuộc tụ họp mây trắng gió xuân, các danh sĩ Ngụy Tấn đã ký gửi tâm tình vào non nước nơi này, uống rượu ngâm thơ, khi cảm thán chuyện không hợp thời cuộc, khó tránh khỏi bị vạn vật đa tình nơi đây chuốc cho say túy lúy.
Sinh mệnh vốn có rất nhiều cách kiếm tìm, nếu như khi tìm kiếm mà ta có một cõi lòng bình thản ung dung thì ủ dột cũng có thể sáng láng, khốn đốn cũng có thể tỉnh táo. Còn dùng tài cao để cầu danh lợi, chưa chắc đã là hành động của bậc minh trí; dùng sự độ lượng để chứa đựng tự nhiên, lại há chẳng phải là một cuộc đời khoáng đạt hay sao? Khi bạn nhìn lại quá khứ, không biết là ai đã tặng một chén sương trong vắt trên cành u lan, quay người nhìn lại, nàng đã biến mất trong ngõ đá mưa khói mất rồi.
Ánh dương mềm dịu cháy tan theo từng lớp ngói đen, trong khoảnh khắc bạn chớp mắt, những lá tửu kỳ [2] phất phơ đón gió có thể thấy ở bất cứ nơi đâu, gấp gáp muốn chỉ cho bạn thấy bình rượu ngon đã bị thời gian Thiệu Hưng ủ kín. Cho dù bạn có kìm nén được trước sự mê hoặc của mùi rượu thơm hay không, bạn đều không thể tự chủ mà chọn một quán rượu, bước qua bậu cửa gỗ cũ mèm, say tỉnh mặc sức thỏa ý.
[2] Tửu kỳ: Lá cờ bằng gấm, trên thêu chữ “Tửu” (rượu) thường được treo trước quán rượu, nhà hàng thời cổ để đánh dấu và mời mọc khách quan.
Trong phòng tràn ngập mùi rượu thơm nồng, bạn chưa nếm rượu thì đã ngà ngà say. Bộ bàn ghế gỗ cổ, những khách uống rượu đến từ trời nam đất bắc ngồi vây quanh, không ai hỏi ai từ đâu đến, đi về đâu, một bình Hoa Điêu đã chuốc say mọi cuộc đời buồn vui sướng khổ của mỗi người. Câu chuyện của mỗi người đều là một vò rượu cũ chôn sâu, bạn mượn cây kéo thời gian nhàn tản của Thiệu Hưng để mở nó ra, trong ánh nắng nhàn nhạt, đôi mắt ngây ngây, nhớ lại ngày hôm qua đầy biến động của chính mình.
Chỉ như thời gian được thưởng thức một ly rượu, chuyện cũ chớp mắt đã mười năm. Tuế nguyệt trong ly rượu không còn sắc nhọn, nó sẽ không truy đuổi bạn, bạn có thể uống đến say mèm, từ sáng sớm bình minh, đến khi đêm về trăng lên, cũng chỉ có một ngọn đèn thắp sáng vì bạn. Khi bạn nhìn thấy một chiếc áo dài cũ rách, và lầm tưởng đó là Khổng Ất Kỷ [3], mới hay rằng, mình đã say thật rồi. Khi tỉnh lại, câu chuyện của bạn đã kết thúc, khi say mèm, câu chuyện của người khác lại mới bắt đầu.
[3] Khổng Ất Kỷ: Một nhân vật trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Lỗ Tấn.
Giả như bạn là một khách từ phương xa tới, không kiềm lòng được trước sự cổ kính của sông nước, nói không chừng sẽ lạc lối trong một ngõ nhỏ man mác khói xanh nào đó, không nhớ nổi đường đến. Hoặc là bị cơn gió thoảng lãng quên trên một cây cầu không biết tên nào đó, không biết được đường về. Lúc ấy, bạn chỉ cần tìm nơi có nước chảy, tại bất cứ một bến đậu nào, những phu thuyền trên những con thuyền mui đen ấy, sẽ đưa bạn đến mọi nơi có liên quan đến Thiệu Hưng.
Mỗi một cây cầu cổ là một điểm dừng chân của nhân sinh, mỗi một bến đò là một khởi đầu của vận mệnh, bạn đặt người khách qua đường đi lướt qua nhau trước một song cửa sổ sát dòng nước, rồi lại gửi gắm phong cảnh mà bạn du ngoạn vào chân trời phù vân. Bạn cho rằng cách xa sông nước là có thể đặt chân lên đất liền, mặc cho gió dập mưa vùi, ai có hay rằng, quanh đi quẩn lại sẽ lại quay về trên chiếc thuyền mui đen. Ở nơi đây, sông nước là dòng chảy, bạn muốn đến bờ bên kia, thì buộc phải di chuyển trên dòng nước. Người có trí tuệ sẽ hiểu được chân lý “tòng thiện như nước chảy”, “nhu có thể khắc cương”, và tấm lòng dù rộng lớn đến đâu, cũng chẳng vượt nổi sự mênh mông của nước. Chảy xuôi theo dòng, không cần đo đếm độ dài của dòng chảy, để lịch sử đã hé mở chìm sâu dưới đáy nước, để câu chuyện chưa từng được đọc trôi nổi trên mặt nước. Trong kết cục đi tìm khởi đầu mới, nói cho cơn gió nhẹ hay rằng, bạn sẽ đến vườn Thẩm, sẽ tìm kiếm một giấc mộng cũ bi thương thời Tống. Nói với mây trắng rằng, bạn sẽ đến vùng thôn quê, yên lặng ngắm sân khấu đã già nua của tuổi xuân.
Ly biệt ngắn ngủi là để có niềm vui lúc trùng phùng, ly biệt vĩnh viễn lại là một vẻ đẹp không thể tả bằng lời của nhân sinh. Bạn từng hồi tưởng sâu sắc về sông nước, có một ngày, sông nước cũng sẽ lờ mờ nhớ lại bạn của ngày hôm qua.
Gặp gỡ vườn Thẩm
Hồng tô thủ, hoàng đằng tửu, mãn thành xuân sắc cung tường liễu. Đông phong ác, hoan tình bạc, nhất hoài sầu tự, kỷ niên ly sách, thác, thác, thác!
Xuân như cựu, nhân không sấu. Lệ ngân hồng ấp giao tiêu thấu. Đào hoa lạc, nhàn trì các, sơn mình tuy tịa, cẩm thư nan thác, mạc, mạc, mạc!
(Tống, Lục Du, “Thoa đầu phượng”)
(Dịch thơ Nguyễn Xuân Tảo:
Tay trắng muốt, rượu vàng rót, cây liễu cung sân xuân cách bức. Gió đông dữ, tình thắm lỡ, một mối tơ sầu, bao năm tan vỡ. Dở, dở, dở!
Xuân như trước, người gầy rạc, ngấn lệ đỏ ngầu khăn lụa ướt. Hoa đào rữa, lầu gác trở. Non thề còn kia. Chớ, chớ, chớ!)
Thế tình bạc, nhân tình ác, vũ tống hoàng hôn hoa dịch lạc. Hiểu phong can, lệ ngân tàn, dục tiên tâm sự, độc ngữ tà lan. Nan, nan, nan!
Nhân thành các, kim phi tạc, bệnh hồn thường tự thu thiên tác. Giốc thanh hàn, dạ lan san, phạ nhân tầm vấn, yên lệ trang hoan. Man, man, man!
(Tống, Đường Uyển, “Thao đầu phượng”)
(Dịch thơ Đông A:
Tình đời bạc, tình người ác, mưa tiễn hoàng hôn hoa tan tác. Gió mai lan, lệ hoen tàn, muốn thư tâm sự, rặt ý lan man. Nan, nan, nan!
Người đơn bạc, nay mai khác, bệnh lòng như thể ngàn thu tạc. Tiếng tù vang, bóng đêm tan, sợ người tra hỏi, nuốt lệ tân trang. Gian, gian, gian!)
Chưa một ai bước vào vườn Thẩm [4] mà cảm giác như gió mưa quay về, cho dù cảnh trí và sự tích nơi đây đã sớm lặp lại hàng trăm ngàn lần trong giấc mơ của bạn. Nhưng rốt cuộc bạn chỉ là một áng mây màu phiêu lãng, có lẽ bạn có thể nhận ra mối tình quá khứ năm xưa của vườn Thẩm, nhưng lại không có một cành cây ngọn cỏ nào nơi đây đợi chờ bạn. Nếu như nói là đến đây để hồi tưởng, thì cái bạn hồi tưởng là ký ức của Lục Du; nếu như bạn nói là đến đây để tìm mộng, thì cái bạn tìm kiếm là mộng cảnh của Đường Uyển. Vườn Thẩm như một hồ nước xuân sáng như gương, có thể soi bóng chuyện cũ ngày xưa một cách rõ ràng, nhưng bạn vĩnh viễn chỉ là một kẻ bên ngoài nhìn vào, mà không thể là người bước vào trong tấm gương.
[4] Vườn Thẩm (Thẩm viên): là khu vườn cảnh nổi tiếng đời Tống ở Thiệu Hưng, gắn liền với câu chuyện tình bi thảm của nhà thơ Lục Du và người vợ Đường Uyển. Năm 20 tuổi, Lục Du kết duyên cùng người em họ Đường Uyển, hai người là thanh mai trúc mã, vừa tâm đầu ý hợp, thi thư xướng họa, nhưng Đường Uyển lại bị mẹ chồng ghét bỏ, bà buộc Lục Du phải bỏ Đường Uyển, Lục Du đành phải chia tay Đường Uyển, nhưng vẫn lén thuê nhà riêng để hai vợ chồng có thể gặp gỡ. Sau này mẹ Lục Du phát hiện, đến tận nơi mắng nhiếc, khiến Lục Du và Đường Uyển phải chia tay thật sự. Lục Du cưới vợ khác, còn Đường Uyển lấy Triệu Sĩ Trinh. Hơn mười năm sau, Lục Du dạo chơi vườn Thẩm, tình cờ gặp Đường Uyển và chồng, Đường Uyển kể hết cho Triệu Sĩ Trinh, Triệu Sĩ Trinh là người cao thượng, không những cảm thông mà còn cho phép vợ làm tiệc rượu đãi Lục Du. Lục Du đã đề một bài từ trên tường để bày tỏ nỗi lòng mình, chính là bài “Thoa đầu phượng”. Đường Uyển đọc xong cũng cảm động, đề một bài từ đáp lại. Sau buổi hôm ấy, Đường Uyển buồn rầu nghĩ ngợi, rồi ốm mà mất. Cái chết của nàng khiến Lục Du đau khổ, ân hận suốt đời, không thể nguôi ngoai.
Mặc dầu chỉ là một hạt bụi trần lơ lửng giữa thời gian của vườn Thẩm, nhưng vì khúc thiên cổ tuyệt xướng đó, mà du khách như nước lũ đến dạo quẩn quanh trong vườn như xưa. Đương nhiên, cánh cửa dày nặng đã từng đóng im ỉm đó của vườn Thẩm đã ung dung mở ra chào đón tất cả mọi người. Vườn Thẩm vốn là một khu vườn của họ Thẩm ở Giang Nam, cho dù thấm đẫm trăng sáng thời Tống, lại trôi qua mây nước Minh, Thanh, còn nhuốm màu mưa khói thời nay, nhưng năm tháng ở nơi này trước sau vẫn dừng lại trong một bài từ tên là “Thoa đầu phượng”.
Là “Thoa đầu phượng” của Lục Du và Đường Uyển, cũng là vườn Thẩm của Lục Du và Đường Uyển. Họ bị hiện thực tàn khốc chia cắt vận mệnh, trở thành tù nhân của lễ giáo phong kiến, mà vườn Thẩm lại tạo cho họ một vận mệnh khác, khiến ly biệt có thể trùng phùng đầy thương cảm, khiến tan vỡ có thể viên mãn một cách tàn khuyết. Dù cho suốt đời chẳng được bên nhau, nhưng họ lại trở thành một phong cảnh chẳng thể chia lìa trong vườn Thẩm, vườn Thẩm cũng nhờ câu chuyện của họ, mà trở thành một địa điểm khiến người ta phải nhẫn nại nghiền ngẫm nghĩ suy.
Thảng như bạn không muốn làm một người cổ hủ, khi đến vườn Thẩm, không nhất thiết phải mang theo sắc thái bi thương, không cần phải thở than đau đáu, cũng không cần phải cảm thấy trống trải chua xót. Bởi vì, nơi đây đã từng có cuộc ly biệt rõ ràng sáng tỏ, cũng đã từng có những hồi ức tươi đẹp khôn xiết. Bất cứ vương vấn vô cớ nào, đều là sự hốt hoảng không tên. Phong cảnh nơi này, câu chuyện nơi này, sẽ không khiến ai vô tình bỏ lỡ, và cũng không vì ai cố ý dừng lại. Đi theo những dấu tích thưa thớt còn sót lại của câu chuyện xưa, bước đi trong giấc mộng cũ của mưa gió vườn Thẩm, bạn có thể cảm động, nhưng không nên bi thương; bạn có thể say đắm, nhưng không nên mơ hồ. Vườn Thẩm năm đó kỳ thực đã bị chôn vùi trong gió bụi thời gian, chính những người đời sau vì đi tìm giấc mộng, nên đã trùng tu lại di tích lịch sử còn sót lại này, để người đời có thể nhìn thấy được tình cảnh năm xưa từ những cảnh vật hiện thời mà mình có thể chạm tay vào được. Không người nào so đo xem vườn Thẩm trước mắt có chân thực như xưa không, bởi vì bạn nhắm mắt lại là có thể ngửi thấy mùi hoa thơm, nghe thấy tiếng mưa rơi, còn có cơn gió thoảng nhè nhẹ bước đi trong vườn, hết thảy đều đang nói với bạn, là thật, chân thực như mộng cảnh, và mộng cảnh cũng là chân thực.
Bước vào khu vườn vốn là bối cảnh sáng tác đó, chỉ mấy chữ “bối cảnh sáng tác” đã khiến bạn quên mất dòng tư duy ban nãy vẫn còn thật giả lẫn lộn kia. Đá Thái Hồ sừng sững đứng riêng, bị tuế nguyệt mài sáng, khắc lên trên đó sắc màu của tháng năm, nó dùng tư thế thơ mộng, kể với bạn rằng có một thi nhân tên là Lục Du, đã từng ở nơi đây cô độc đợi chờ Đường Uyển. Đá Thái Hồ tang thương chép lại quá vãng đã trôi qua, cho dù bị tháng năm đẽo gọt thành trăm ngàn lỗ hổng, nhưng vẫn vì một câu chuyện cảm động, dõi nhìn từng đôi mắt mịt mờ một cách đầy tình thơ ý họa như xưa.
Một làn hương mai thanh nhã bay qua non nước xa vời vợi của lịch sử, chậm rãi ùa tới. Vấn Mai Hạm là một tòa lâu đài thủy tạ mô phỏng phong cách Tống, vì thi nhân yêu hoa mai ấy mà hành lang phong cảnh của vườn Thẩm cũng tràn đầy dấu hương của loài hàn mai. Nếu như bạn đi theo hương hoa lúc mai đương nở, thì những đóa hoa chúm chím môi cười ấy sẽ trang nhã giao hòa với bạn. Cho dù bạn đến vườn Thẩm vào những mùa khác, thì lòng bạn vẫn hướng về phong thái lạnh lùng cao ngạo dứt khoát của nàng. Một tiếng hỏi mai dẫn dắt trăm ngàn tình ý, một giai nhân yểu điệu như hoa mai đã từng nhàn tản dưới khung cửa sổ lạnh lẽo của bạn, đến nay, lại bị ai chia cắt nơi chân trời?
Lục Du nói: “Ngõ nhỏ thành nam lại vào xuân, chỉ thấy hoa mai chẳng thấy người.” Tháng ngày xanh ngăn ngắt, sắc xuân tràn ngập trên đường, Lục Du một mình dựa vào lan can ngắm hết hoa thơm, nhưng chẳng thấy dấu thơm bóng lẻ của Đường Uyển. Chỉ có hàn mai ngập lối vườn xuân ấy, dùng phong cốt đoan trang tao nhã của nàng, mấy độ hương thơm cách tuyệt tục thế, trên bờ xanh um của hồng trần, một mình nhàn nhã thanh tịnh. Hồi tưởng chỉ là sự bối rối trống trải hiện thời, dù cho có tài cao kinh thế, tấm lòng độ lượng, cũng chỉ có thể ở giữa vườn Thẩm sắc xuân giăng mắc, âm thầm hỏi thăm quá vãng thơm hương của một cây mai.
Đi trên cây cầu đá cổ kính mộc mạc trong vườn Thẩm mới hay, tên cầu là “Thương Tâm”. Hoa hạnh mưa khói, dương liễu cầu đá, vốn là những cảnh tượng dịu dàng nhất của Giang Nam, giờ đây, giữa cảnh trí tự nhiên mới mẻ này, lại có thêm ít nhiều ký ức ẩm ướt. Khi tóc trắng phơ phơ, Lục Du mới trở lại vườn Thẩm, đứng bên cạnh cầu, những tình cảm đã đè nén nhiều năm không dám chạm vào nay lần nữa tuôn trào như thác lũ, xối xả thành dòng, xoay qua chuyển lại trong sâu thẳm trái tim. Ông thảm thiết ngâm rằng: “Thương Tâm kiều hạ xuân ba lục, tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai.” (Dưới cầu sóng biếc trông đứt ruột, Đây bóng hồng soi thoảng lúc nào [5]) Chính là lúc Lục Du quay đầu nhìn lại chuyện cũ tình xưa, để lại mối thương lòng ngàn lời khó tả dưới cây cầu đá vườn Thẩm. Trong mộng, chim hồng kinh sợ soi bóng, hồng nhan như xưa, tỉnh lại vườn Thẩm đã mài sáng đôi mắt mờ đục, nàng đã biến mất trong vầng sáng của trần thế.
[5] Trích trong bài Thẩm viên, kỳ nhất. Dịch thơ Khương Hữu Dụng.
Kỳ thực, kẻ thương tâm không
phải cây cầu đá, cũng chẳng phải sóng xuân chảy dưới chân cầu, mà là danh sĩ cô
độc đó. Bầu không sáng tỏ, vườn Thẩm thơ mộng, gió xuân xanh mát, cầu đá mát lạnh
đều không mang đến bất cứ sự vấn vương ấm áp nào cho ông. Bạn chỉ cần đứng trên
cầu một lát là có thể cảm nhận được cảm giác tịch liêu đến rợn người mà ông đã
từng thấy. Trên cây cầu đá của vườn Thẩm, vị thi nhân đầu bạc đó làm thế nào để
khắc cốt ghi tâm hồi tưởng lại giai nhân trong gương năm đó, làm thế nào để đợi
chờ một cách cô quạnh hồn thơm đã đi xa đó?
Chính là như một chú hạc cô lẻ, đợi chờ bốn mùa nóng lạnh luân hồi, đợi chờ thời gian đổi thay ngày tháng, không chịu rời đi. Khi bạn đến Cô Hạc Hiên, bạn sẽ hiểu, phải có tòa hiên đình u nhã thanh cảnh như thế, mới có thể là chốn nghỉ ngơi cho linh hồn cô độc, cao ngạo của người cao sĩ ấy. Gió mây nhân gian biến ảo, nơi đây hoa soi bóng nước, người thi sĩ yêu nước phóng khoáng mà bi ai đó, thân ở giang hồ, lòng hướng giang sơn, tình thuộc vườn Thẩm.
Ông là chú hạc cô lẻ, bị khói súng lịch sử thiêu cháy, bị vận mệnh tàn khốc bỏ rơi, chỉ có quay về vườn Thẩm, mới có thể tẩy rửa sạch sẽ tấm thân mệt mỏi phong trần, ngắm bóng dáng cô độc gẩy đàn, ngâm vịnh tuyệt xướng thiên cổ. Bạn là du khách ghé qua Cô Hạc Hiên, trong tiếng đàn dìu dặt, giữa vần thơ sinh động, có lẽ có thể hiểu rõ hơn tâm sự của ông, nhưng vĩnh viễn không thể thấu tỏ được nỗi thê lương lạnh giá cõi lòng ông.
Khi bạn đến trước tấm bia đá khắc ba chữ “Thoa đầu phượng”, bất giác bạn sẽ không tránh khỏi buồn bã. Những dòng thơ gầy guộc che giấu quá nhiều chuyện cũ đằng đẵng; nỗi tiếc nuối ngàn đời đó đã chảy qua biết bao xuân thu mưa gió. Họ đã dùng khoảng thời gian ly biệt hơn mười năm ròng để đổi lấy cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, để đổi lấy ly biệt suốt cả cuộc đời.
Bao năm nay, những người nghe câu chuyện của họ đều cho rằng đánh đổi như thế là xứng đáng, còn nhân vật trong câu chuyện, họ không hề hối hận vì sự đánh đổi ấy. Đến nay, chỉ còn lại hai bài từ khắc trên bia đá cô liêu, đứng đối diện nhìn nhau, tình sâu tựa biển, một người là giai nhân “hồng tụ thiêm hương”, một người là khách thơ “hô mưa gọi gió”, họ lau lệ gượng cười trong trần thế, và dốc hết nỗi lòng than thở trong thơ từ. Những người đã qua đây đều cảm thấy trong tim mỗi người đều có một khu vườn Thẩm, đều khắc một bài “Thoa đầu phượng”, mối tình chất chứa trong bài từ khiến bạn chìm đắm mãi lâu, nhưng lại chẳng hề liên quan đến bản thân mình.
Rời khỏi khung cảnh không liên quan đến mình, nhưng chẳng còn phong cảnh nào có thể níu chân bạn lại. Mà người rời đi đó, có thực sự nhẹ nhõm thanh thản, nhàn nhã tiêu sái hay không? Trước khi đến, có lẽ bạn lo lắng mình sẽ chìm sâu vào câu chuyện vườn Thẩm, không biết có thể ra khỏi hay không.
Nhưng hễ bước qua cánh cửa ấy bạn sẽ hiểu rõ rằng, mình chỉ là bụi trần của vườn Thẩm, dù bạn có ngắm hết phong cảnh nơi đây, đến phút chót, rốt cuộc cũng chẳng qua là quẩn quanh bên ngoài cánh cửa. Bởi vì, vườn Thẩm là của Lục Du, vườn Thẩm là của Đường Uyển, bắt đầu từ một ngày xuân sắc ngập thành thời Tống đó, bắt đầu từ bài “Thoa đầu phượng” đó, cho đến ngày nay, cho đến mãi mãi sau này, đều là của họ.
Cho dù bạn có dùng phương thức gì để rời khỏi đó, đều không quan trọng nữa, bạn mang đi phong thái ngày xuân của vườn Thẩm, nhưng không thể mang đi mối tình mưa bụi của khu vườn. Vậy thì, hãy nhẹ nhàng rời đi trong cơn gió xuân ẩm ướt ở vườn Thẩm, không cần cáo từ, không cần nhìn lại, để ai ngủ say hãy tiếp tục ngủ say, để ai tỉnh táo vẫn tiếp tục tỉnh táo.
Đi về cố thổ
Có một nơi như thế, vốn là lần đầu gặp gỡ, nhưng lại khiến cho bạn cảm thấy giống như quê cũ cách biệt nhiều năm, một lần gặp gỡ ngắn ngủi, mà không sao quên nổi nhau. Đây chính là sông nước Thiệu Hưng, nó giống như một bức tranh cổ treo trên bức tường Giang Nam, miêu tả giấc mơ của những du khách qua đường lai vãng, mặc cho năm tháng để lại biết bao dấu vết cũng không làm thay đổi dáng vẻ ban đầu. Sông nước là tranh vẽ, bạn chính là từng nét chấm, nét phẩy trong đó, trong phong cảnh im lìm, bước những bước chân đầy vần điệu thơ từ, dùng sự phong tình của bản thân để nhuộm màu khắp vùng sông nước, và làm chính bản thân mình trở nên sống động hơn giữa cảnh trí sông nước này.
Tường cổ ngói xanh cũ mèm, dây leo chằng chịt, khói bếp la đà trên mái ngói đen của những tòa nhà cổ, trong không khí phảng phất mùi hương cũ kỹ của dưa muối khô, cảnh trí trước mắt là một tấm ảnh cũ đã bị bụi mờ phủ kín trong chốn sâu thẳm của thời gian, bỗng nhiên rớt xuống trước mặt, khiến bạn chìm sâu vào cảm xúc hoài niệm xưa cũ, không thể tự mình thoát ra khỏi. Cho dù bạn đến từ nơi nào, bạn có duyên phận định mệnh với nơi này hay không, bạn đều cho rằng chính mình là ẩn sĩ từ phương xa quay về, có một cây cầu nhỏ cổ xưa kiên trì cố chấp đợi chờ bạn, có một dòng nước chảy trong vắt nguyện tẩy rửa bụi trần cho bạn, có một con thuyền mui đen đơn sơ sẽ chở bạn đi đến nơi mà cuộc đời bạn hướng đến. Buông hành lý nặng trĩu khỏi vai, sẽ có một giọng nói thì thầm bên tai bạn, đây không chỉ là cố hương của Lỗ Tấn, không chỉ là cố hương của rất nhiều nhân vật phong lưu trong lịch sử, mà cũng là cố hương của bạn, từ đây về sau, linh hồn bạn sẽ tá túc ở nơi này, sẽ không còn nảy sinh cảm giác nghi hoặc mình là người lữ khách qua đường nữa.
Con đường lát đá nơi đây cũng mang một luồng linh khí đến cho Giang Nam, bạn không cần nói gì cả, mà tự nó sẽ hiểu bạn muốn đi đâu. Mỗi người bước chân trên đó, đều tưởng rằng đây là đường về nhà. Thế nhưng, tại sao lại có một cảm giác quen thuộc đến dường vậy, còn có một cảm giác mát lạnh lâu ngày không gặp khẽ lách qua tim? Người thiếu niên từ đối diện đi tới, đội một chiếc mũ dạ nhỏ, trên cổ đeo một chiếc kiềng bạc sáng lóa, dáng vẻ ngại ngùng khi gặp người lạ, rõ ràng thiếu niên đó tên gọi là Nhuận Thổ [6].
[6] Nhân vật trong truyện ngắn “Cố hương” của Lỗ Tấn.
Nghe nói về sau anh cũng già đi, về sau nữa lại vì cuộc sống quẫn bách, nên đã ốm mà chết. Nhưng tại sao anh vẫn hiện ra trước mắt rõ nét như thế? Đôi mắt đen lay láy vẫn trong trẻo và sáng ngời như xưa. Xuyên qua ánh mắt lấp lánh, tựa như nhìn thấy cảnh tượng dưới trăng sáng, một tay anh cầm cây đinh ba, và một con tra luồn qua háng anh bỏ trốn.
Thời gian thật có tình có nghĩa, nó biến chàng thiếu niên cơ trí dũng cảm này “chết cứng” dưới ngòi bút của Lỗ Tấn, để mỗi một du khách đến Thiệu Hưng đều có thể lần nữa lật giở trang cổ thư bị tuế nguyệt cất giấu ấy. Nó mang đến cho bạn một khoảng hồi ức, thời gian vừa đủ, mà sau đó lại âm thầm đưa bạn đi, bạn còn chưa kịp đau buồn, thì đã có cảnh tượng tươi mới khác lấp đầy suy tư của bạn.
Ánh nắng mặt trời lúc này rất nhạt, rất thanh, nó mở to đôi mắt nhìn tất cả mọi người như bụi trần. Bạn có thể đi qua khe hở của ánh sáng và bóng nắng, tìm kiếm vẻ đẹp mà những chuyện cũ mây nước để lại nơi này. Tìm Bách Thảo Viên để nạm một khoảng xanh ngắt vào hoang mạc linh hồn, để cỏ xanh đẫm sương phẩy qua bụi bặm, kết lắng sâu tận đáy tim.
Bước vào nhà cũ của Lỗ Tấn, một mùi hương cũ kỹ của năm tháng và hơi hướm của sách vở xộc tới, bàn ghế cổ, bình hoa xưa, sàn lạnh lẽo, khung cửa sổ khắc hoa, in rõ dấu vết của thời gian, nhưng lại sạch sẽ không vương chút bụi. Đến cả không khí cũng bao phủ thời đại phồn hoa, nhớ chuyện cũ người xưa dường như đã trở thành một khuynh hướng mới mẻ, nếu không phải là thời gian truy đuổi, ai lại nỡ từ bỏ giấc mộng đầy những tình cảm ấm áp dịu dàng, lại đầy hoài niệm này mà tỉnh lại?
Đi xuyên qua hành lang là đến Bách Thảo Viên, màu xanh ngăn ngắt đến bức người ấy đã gột rửa sạch trơn tâm tình cổ xưa ban nãy, trong sinh mệnh tràn ngập hương thơm của cỏ cây, tiếng chim hót trùng kêu. Trong đầu xuất hiện mấy cảnh tượng như đám trẻ đang chơi đùa nơi đây, những ký ức mờ nhạt bắt đầu từ xa đến gần, từ mơ hồ đến rõ nét. Tuổi thơ mỗi người đều có một khu vườn Bách Thảo, trước khi rời khỏi quê hương, chúng ta đã đem tuổi ấu thơ vụng dại ấy gửi lại nơi đây, đợi nhiều năm sau khi quay trở lại, nơi này vẫn tỏa ra một mùi vị ngây thơ non nớt của thuở đó.
Từ Bách Thảo Viên đến Tam Vị Thư Ốc chỉ cách nhau một cây cầu đá, hành trình ngắn ngủi ấy đã khiến thời gian quay ngược trở lại, chuyện cũ tái hiện. Ánh dương có thể lọc tẩy vẻ đẹp, nhưng không thể khiến nó bay hơi; gió mát có thể lay tỉnh giấc mộng xưa, nhưng không thể chôn vùi nó. Nhân sinh có trăm vị, yêu hận tình thù, buồn vui sướng khổ đều nằm trong trăm vị ấy, nếm qua hết mới hiểu được thế nào là chân lý. Trong sách có ba vị [7], từng là kinh, sử, chư tử trăm nhà, đọc qua hết mới hiểu thế nào sâu sắc. [7] Tam vị: Có hai thuyết nói về ba loại cảm nhận của người xưa đối với việc đọc sách, thứ nhất là “đọc kinh vị như lúa gạo, đọc sử vị như sơn hào hải vị. Đọc bách gia chư tử như gia vị”, thứ hai Lý Thục đời Tống nói rằng: “thi thư như canh ngọt, sử là đồ ăn ngon, tử là gia vị, gọi là ba vị.” Tam vị là sự ví von sách vở là thức ăn tinh thần cho con người.
Bước qua ngưỡng cửa, ngước mắt nhìn tấm biển treo phía trước “Tam Vị Thư Ốc”, mùi vị cổ kính thanh mát đó giống như gặp lại bạn cũ, chỉ trong sát na đã khóa lấy tâm hồn mềm yếu của bạn, muốn thoát khỏi cũng đã quá muộn rồi. Để bạn hiểu rằng, rất nhiều duyên phận trong cuộc đời đều cảm nhận thấy trong lúc vô tình, đôi khi tưởng như một cái nhìn bình thường, nhưng ý vị lại vô cùng sâu xa.
Đây là Tam Vị thư ốc của Lỗ Tấn, còn nhớ âm thanh cổ của các trường tư thục thời xưa đã đem lại những ảo tưởng vô tận cho lớp nhi đồng thời đại mới, còn nhớ một chữ “Tảo” (sáng, sớm) trên bàn học đã khiến lớp học trò nối nhau học theo, thịnh hành một thời. Đến nay có thể thực sự nhìn ngắm cảnh tượng trong mơ, nhìn dấu cũ như còn đó, lại thêm phần hoài niệm đối với người xưa. Thời gian tựa như một tấm gương sáng, quá khứ là bóng hình trong gương, thực sự tồn tại, nhưng lại không thể chạm vào, nó vĩnh viễn nhốt lại những người hoài cổ trong hồi ức.
Đều nói quá khứ hữu tình, nhưng thứ hữu tình rốt cuộc là quá khứ, hay là người truy tìm quá khứ? Trên đường đi qua quán rượu Hàm Hanh, Khổng Ất Kỷ mặc chiếc áo dài rách nát, đối diện với một dĩa đậu hồi hương [8], trên gương mặt dường như đã nở thêm một nụ cười nhàn nhạt. Ánh nắng ấm áp xua tan ngày hôm qua lạnh giá, những người đến đây đều đã đi cả rồi, chỉ còn ông vẫn kiên trì giữ gìn vẻ đẹp cũ kỹ trong quán hàng cổ kính, là do đợi chờ người khách qua đường của quá vãng đến đau lòng hay sao? Đau lòng vì ông đã lạc mất hồn phách trong vận mệnh quanh co, đau lòng vì ông say tỉnh suốt cuộc đời mơ hồ? Hay là vì ông đã nợ mười chín đồng tiền nên chẳng thể rời đi?
[8] Đậu hồi hương: Một loại đậu to như hạt cô ve, hương vị rất nồng, là một món ăn vặt ưa thích của người Thiệu Hưng.
Thực sự không biết, những người vào quán đó khi nhìn thấy tấm biển treo trên đó có viết, “Khổng Ất Kỷ, nợ mười chín đồng, ngày mùng sáu tháng ba” bằng chữ lớn, trong lòng cảm giác sẽ ra sao? Từ bao giờ, món nợ của Khổng Ất Kỷ đã trở thành đạo cụ để người đời hồi tưởng quá khứ? Thế nhưng, tại sao lại phải trưng món nợ mà một người cùng quẫn cả đời không thể trả nổi ra cho những người qua đường chỉ trỏ, bàn tán? Rõ ràng là đang nhắc nhở điều gì, hay đang ám chỉ điều gì. Có khi cũng chẳng vì điều gì, một phong cảnh như thế, những người đã từng thấy nó đều sẽ quên đi. Thế gian này có cuộc đời nào mà không nợ nhau? Chính vì nợ nhau, nên mới có duyên phận không thể tách rời. Không cần nếm ly rượu nồng của tuế nguyệt lần nữa, giữa tháng ngày ngồi im lặng trong giây lát, bạn đã say ngất ngây rồi.
Có từng say mới biết mùi vị thực sự, khi tỉnh lại mới hay ý tứ đượm nồng. Trong hoàng hôn say đắm gió xuân, chèo một chiếc thuyền mui đen đi đến một sân khấu kịch là một hành trình không thể thiếu của mỗi người khi đến vùng sông nước. Cứ xuôi dòng mà đi như thế, vứt bỏ vầng mặt trời đang lặn sau lưng, để mau mau đến kịp buổi diễn kịch dưới ánh trăng vằng vặc. Cho dù là mở màn, hay là kết thúc, thậm chí chỉ có thể đứng trong lúc chiều tàn nhìn sân khấu trống trơn, vẫn phải âm thầm đến trong sự ngưỡng mộ nhung nhớ.
Phủi đi lớp bụi thời gian, dưới ánh trăng, sân khấu sát mép nước tỏa sáng lấp lánh soi rọi bóng thời gian của khúc nhạc kịch, một chiếc thuyền mui đen neo trên dòng nước, có phải đang nghiền ngẫm ý vị buồn vui ly hợp trong vở kịch hay không? Còn đào kép trên sân khấu, đã nhìn quen cảnh khách đến khách đi, nên chẳng đợi chờ một ai. Chỉ có người xem kịch, không cẩn thận đã bị rơi vào trong muôn ngàn cảnh tượng, cố chấp không chịu rời đi. Nước đã tạo nên một cảnh tượng huyền ảo cho bạn, bạn muốn thoát khỏi cảnh tượng ấy thì buộc phải xé tan mặt nước phẳng lặng, ra đi trong sóng vỡ nát tan, để lại những mảnh trăng vỡ vụn, để những người đến sau sẽ lại lần nữa hợp thành trong mộng cảnh khác.
Dũng cảm truy tìm sự khoáng đạt trong cơn khiếp nhược, tỉnh táo truy cầu sự lĩnh ngộ trong lúc trầm mê, đời người ấy có được coi là hoàn mỹ trong khiếm khuyết? Theo đuổi ánh sáng chân chính trong bóng tối, buộc phải thắp lên ngọn lửa của tâm hồn, hành trình trở về một cách chói lọi sẽ không còn bao xa. Chiếc thuyền mui đen trên mặt nước đã bị sương sớm thấm ướt, lại được ráng chiều tô điểm, nay đội trăng đội sao, tạm dừng một khoảng thời gian ngắn ngủi trên mỗi bến đò, sau đó lại tiếp tục trôi đi trong dòng sông số phận. Khi bạn từ điểm kết thúc quay trở lại điểm khởi đầu, sinh mệnh đã không còn trẻ trung như thuở ban đầu. Tỉnh lại sau cơn hồi ức, đối diện với sự buồn bã, bạn còn có đợi chờ điều gì trong vô vọng nữa không?
Nếu như cuộc gặp gỡ rực rỡ, đã định trước chuyến ly tan quay người ra đi, bạn có hối hận vì đã từng có một lần như thế hay không? Nếu như sự quạnh quẽ của linh hồn, bạn có thể bình tĩnh hưởng thụ nỗi lạnh lẽo này chăng? Nếu như có thể, bạn hãy tìm một lý do để đeo đuổi. Ở Giang Nam sông nước như thủy mặc này, bạn thấu hiểu được sâu sắc từ trong giản đơn, nhìn thấy được ánh sáng từ trong bóng tối, thì đó chính là hy vọng của đời người.
Con ngõ viết nên kết cục ấy, có một con đường thông tới điểm khởi đầu. Khi đến, bạn ngỡ rằng đã tìm thấy cố hương, nhưng lưng đeo tay nải, bạn vẫn trở về làm một người khách qua đường như cũ.
Chính là như một chú hạc cô lẻ, đợi chờ bốn mùa nóng lạnh luân hồi, đợi chờ thời gian đổi thay ngày tháng, không chịu rời đi. Khi bạn đến Cô Hạc Hiên, bạn sẽ hiểu, phải có tòa hiên đình u nhã thanh cảnh như thế, mới có thể là chốn nghỉ ngơi cho linh hồn cô độc, cao ngạo của người cao sĩ ấy. Gió mây nhân gian biến ảo, nơi đây hoa soi bóng nước, người thi sĩ yêu nước phóng khoáng mà bi ai đó, thân ở giang hồ, lòng hướng giang sơn, tình thuộc vườn Thẩm.
Ông là chú hạc cô lẻ, bị khói súng lịch sử thiêu cháy, bị vận mệnh tàn khốc bỏ rơi, chỉ có quay về vườn Thẩm, mới có thể tẩy rửa sạch sẽ tấm thân mệt mỏi phong trần, ngắm bóng dáng cô độc gẩy đàn, ngâm vịnh tuyệt xướng thiên cổ. Bạn là du khách ghé qua Cô Hạc Hiên, trong tiếng đàn dìu dặt, giữa vần thơ sinh động, có lẽ có thể hiểu rõ hơn tâm sự của ông, nhưng vĩnh viễn không thể thấu tỏ được nỗi thê lương lạnh giá cõi lòng ông.
Khi bạn đến trước tấm bia đá khắc ba chữ “Thoa đầu phượng”, bất giác bạn sẽ không tránh khỏi buồn bã. Những dòng thơ gầy guộc che giấu quá nhiều chuyện cũ đằng đẵng; nỗi tiếc nuối ngàn đời đó đã chảy qua biết bao xuân thu mưa gió. Họ đã dùng khoảng thời gian ly biệt hơn mười năm ròng để đổi lấy cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, để đổi lấy ly biệt suốt cả cuộc đời.
Bao năm nay, những người nghe câu chuyện của họ đều cho rằng đánh đổi như thế là xứng đáng, còn nhân vật trong câu chuyện, họ không hề hối hận vì sự đánh đổi ấy. Đến nay, chỉ còn lại hai bài từ khắc trên bia đá cô liêu, đứng đối diện nhìn nhau, tình sâu tựa biển, một người là giai nhân “hồng tụ thiêm hương”, một người là khách thơ “hô mưa gọi gió”, họ lau lệ gượng cười trong trần thế, và dốc hết nỗi lòng than thở trong thơ từ. Những người đã qua đây đều cảm thấy trong tim mỗi người đều có một khu vườn Thẩm, đều khắc một bài “Thoa đầu phượng”, mối tình chất chứa trong bài từ khiến bạn chìm đắm mãi lâu, nhưng lại chẳng hề liên quan đến bản thân mình.
Rời khỏi khung cảnh không liên quan đến mình, nhưng chẳng còn phong cảnh nào có thể níu chân bạn lại. Mà người rời đi đó, có thực sự nhẹ nhõm thanh thản, nhàn nhã tiêu sái hay không? Trước khi đến, có lẽ bạn lo lắng mình sẽ chìm sâu vào câu chuyện vườn Thẩm, không biết có thể ra khỏi hay không.
Nhưng hễ bước qua cánh cửa ấy bạn sẽ hiểu rõ rằng, mình chỉ là bụi trần của vườn Thẩm, dù bạn có ngắm hết phong cảnh nơi đây, đến phút chót, rốt cuộc cũng chẳng qua là quẩn quanh bên ngoài cánh cửa. Bởi vì, vườn Thẩm là của Lục Du, vườn Thẩm là của Đường Uyển, bắt đầu từ một ngày xuân sắc ngập thành thời Tống đó, bắt đầu từ bài “Thoa đầu phượng” đó, cho đến ngày nay, cho đến mãi mãi sau này, đều là của họ.
Cho dù bạn có dùng phương thức gì để rời khỏi đó, đều không quan trọng nữa, bạn mang đi phong thái ngày xuân của vườn Thẩm, nhưng không thể mang đi mối tình mưa bụi của khu vườn. Vậy thì, hãy nhẹ nhàng rời đi trong cơn gió xuân ẩm ướt ở vườn Thẩm, không cần cáo từ, không cần nhìn lại, để ai ngủ say hãy tiếp tục ngủ say, để ai tỉnh táo vẫn tiếp tục tỉnh táo.
Đi về cố thổ
Có một nơi như thế, vốn là lần đầu gặp gỡ, nhưng lại khiến cho bạn cảm thấy giống như quê cũ cách biệt nhiều năm, một lần gặp gỡ ngắn ngủi, mà không sao quên nổi nhau. Đây chính là sông nước Thiệu Hưng, nó giống như một bức tranh cổ treo trên bức tường Giang Nam, miêu tả giấc mơ của những du khách qua đường lai vãng, mặc cho năm tháng để lại biết bao dấu vết cũng không làm thay đổi dáng vẻ ban đầu. Sông nước là tranh vẽ, bạn chính là từng nét chấm, nét phẩy trong đó, trong phong cảnh im lìm, bước những bước chân đầy vần điệu thơ từ, dùng sự phong tình của bản thân để nhuộm màu khắp vùng sông nước, và làm chính bản thân mình trở nên sống động hơn giữa cảnh trí sông nước này.
Tường cổ ngói xanh cũ mèm, dây leo chằng chịt, khói bếp la đà trên mái ngói đen của những tòa nhà cổ, trong không khí phảng phất mùi hương cũ kỹ của dưa muối khô, cảnh trí trước mắt là một tấm ảnh cũ đã bị bụi mờ phủ kín trong chốn sâu thẳm của thời gian, bỗng nhiên rớt xuống trước mặt, khiến bạn chìm sâu vào cảm xúc hoài niệm xưa cũ, không thể tự mình thoát ra khỏi. Cho dù bạn đến từ nơi nào, bạn có duyên phận định mệnh với nơi này hay không, bạn đều cho rằng chính mình là ẩn sĩ từ phương xa quay về, có một cây cầu nhỏ cổ xưa kiên trì cố chấp đợi chờ bạn, có một dòng nước chảy trong vắt nguyện tẩy rửa bụi trần cho bạn, có một con thuyền mui đen đơn sơ sẽ chở bạn đi đến nơi mà cuộc đời bạn hướng đến. Buông hành lý nặng trĩu khỏi vai, sẽ có một giọng nói thì thầm bên tai bạn, đây không chỉ là cố hương của Lỗ Tấn, không chỉ là cố hương của rất nhiều nhân vật phong lưu trong lịch sử, mà cũng là cố hương của bạn, từ đây về sau, linh hồn bạn sẽ tá túc ở nơi này, sẽ không còn nảy sinh cảm giác nghi hoặc mình là người lữ khách qua đường nữa.
Con đường lát đá nơi đây cũng mang một luồng linh khí đến cho Giang Nam, bạn không cần nói gì cả, mà tự nó sẽ hiểu bạn muốn đi đâu. Mỗi người bước chân trên đó, đều tưởng rằng đây là đường về nhà. Thế nhưng, tại sao lại có một cảm giác quen thuộc đến dường vậy, còn có một cảm giác mát lạnh lâu ngày không gặp khẽ lách qua tim? Người thiếu niên từ đối diện đi tới, đội một chiếc mũ dạ nhỏ, trên cổ đeo một chiếc kiềng bạc sáng lóa, dáng vẻ ngại ngùng khi gặp người lạ, rõ ràng thiếu niên đó tên gọi là Nhuận Thổ [6].
[6] Nhân vật trong truyện ngắn “Cố hương” của Lỗ Tấn.
Nghe nói về sau anh cũng già đi, về sau nữa lại vì cuộc sống quẫn bách, nên đã ốm mà chết. Nhưng tại sao anh vẫn hiện ra trước mắt rõ nét như thế? Đôi mắt đen lay láy vẫn trong trẻo và sáng ngời như xưa. Xuyên qua ánh mắt lấp lánh, tựa như nhìn thấy cảnh tượng dưới trăng sáng, một tay anh cầm cây đinh ba, và một con tra luồn qua háng anh bỏ trốn.
Thời gian thật có tình có nghĩa, nó biến chàng thiếu niên cơ trí dũng cảm này “chết cứng” dưới ngòi bút của Lỗ Tấn, để mỗi một du khách đến Thiệu Hưng đều có thể lần nữa lật giở trang cổ thư bị tuế nguyệt cất giấu ấy. Nó mang đến cho bạn một khoảng hồi ức, thời gian vừa đủ, mà sau đó lại âm thầm đưa bạn đi, bạn còn chưa kịp đau buồn, thì đã có cảnh tượng tươi mới khác lấp đầy suy tư của bạn.
Ánh nắng mặt trời lúc này rất nhạt, rất thanh, nó mở to đôi mắt nhìn tất cả mọi người như bụi trần. Bạn có thể đi qua khe hở của ánh sáng và bóng nắng, tìm kiếm vẻ đẹp mà những chuyện cũ mây nước để lại nơi này. Tìm Bách Thảo Viên để nạm một khoảng xanh ngắt vào hoang mạc linh hồn, để cỏ xanh đẫm sương phẩy qua bụi bặm, kết lắng sâu tận đáy tim.
Bước vào nhà cũ của Lỗ Tấn, một mùi hương cũ kỹ của năm tháng và hơi hướm của sách vở xộc tới, bàn ghế cổ, bình hoa xưa, sàn lạnh lẽo, khung cửa sổ khắc hoa, in rõ dấu vết của thời gian, nhưng lại sạch sẽ không vương chút bụi. Đến cả không khí cũng bao phủ thời đại phồn hoa, nhớ chuyện cũ người xưa dường như đã trở thành một khuynh hướng mới mẻ, nếu không phải là thời gian truy đuổi, ai lại nỡ từ bỏ giấc mộng đầy những tình cảm ấm áp dịu dàng, lại đầy hoài niệm này mà tỉnh lại?
Đi xuyên qua hành lang là đến Bách Thảo Viên, màu xanh ngăn ngắt đến bức người ấy đã gột rửa sạch trơn tâm tình cổ xưa ban nãy, trong sinh mệnh tràn ngập hương thơm của cỏ cây, tiếng chim hót trùng kêu. Trong đầu xuất hiện mấy cảnh tượng như đám trẻ đang chơi đùa nơi đây, những ký ức mờ nhạt bắt đầu từ xa đến gần, từ mơ hồ đến rõ nét. Tuổi thơ mỗi người đều có một khu vườn Bách Thảo, trước khi rời khỏi quê hương, chúng ta đã đem tuổi ấu thơ vụng dại ấy gửi lại nơi đây, đợi nhiều năm sau khi quay trở lại, nơi này vẫn tỏa ra một mùi vị ngây thơ non nớt của thuở đó.
Từ Bách Thảo Viên đến Tam Vị Thư Ốc chỉ cách nhau một cây cầu đá, hành trình ngắn ngủi ấy đã khiến thời gian quay ngược trở lại, chuyện cũ tái hiện. Ánh dương có thể lọc tẩy vẻ đẹp, nhưng không thể khiến nó bay hơi; gió mát có thể lay tỉnh giấc mộng xưa, nhưng không thể chôn vùi nó. Nhân sinh có trăm vị, yêu hận tình thù, buồn vui sướng khổ đều nằm trong trăm vị ấy, nếm qua hết mới hiểu được thế nào là chân lý. Trong sách có ba vị [7], từng là kinh, sử, chư tử trăm nhà, đọc qua hết mới hiểu thế nào sâu sắc. [7] Tam vị: Có hai thuyết nói về ba loại cảm nhận của người xưa đối với việc đọc sách, thứ nhất là “đọc kinh vị như lúa gạo, đọc sử vị như sơn hào hải vị. Đọc bách gia chư tử như gia vị”, thứ hai Lý Thục đời Tống nói rằng: “thi thư như canh ngọt, sử là đồ ăn ngon, tử là gia vị, gọi là ba vị.” Tam vị là sự ví von sách vở là thức ăn tinh thần cho con người.
Bước qua ngưỡng cửa, ngước mắt nhìn tấm biển treo phía trước “Tam Vị Thư Ốc”, mùi vị cổ kính thanh mát đó giống như gặp lại bạn cũ, chỉ trong sát na đã khóa lấy tâm hồn mềm yếu của bạn, muốn thoát khỏi cũng đã quá muộn rồi. Để bạn hiểu rằng, rất nhiều duyên phận trong cuộc đời đều cảm nhận thấy trong lúc vô tình, đôi khi tưởng như một cái nhìn bình thường, nhưng ý vị lại vô cùng sâu xa.
Đây là Tam Vị thư ốc của Lỗ Tấn, còn nhớ âm thanh cổ của các trường tư thục thời xưa đã đem lại những ảo tưởng vô tận cho lớp nhi đồng thời đại mới, còn nhớ một chữ “Tảo” (sáng, sớm) trên bàn học đã khiến lớp học trò nối nhau học theo, thịnh hành một thời. Đến nay có thể thực sự nhìn ngắm cảnh tượng trong mơ, nhìn dấu cũ như còn đó, lại thêm phần hoài niệm đối với người xưa. Thời gian tựa như một tấm gương sáng, quá khứ là bóng hình trong gương, thực sự tồn tại, nhưng lại không thể chạm vào, nó vĩnh viễn nhốt lại những người hoài cổ trong hồi ức.
Đều nói quá khứ hữu tình, nhưng thứ hữu tình rốt cuộc là quá khứ, hay là người truy tìm quá khứ? Trên đường đi qua quán rượu Hàm Hanh, Khổng Ất Kỷ mặc chiếc áo dài rách nát, đối diện với một dĩa đậu hồi hương [8], trên gương mặt dường như đã nở thêm một nụ cười nhàn nhạt. Ánh nắng ấm áp xua tan ngày hôm qua lạnh giá, những người đến đây đều đã đi cả rồi, chỉ còn ông vẫn kiên trì giữ gìn vẻ đẹp cũ kỹ trong quán hàng cổ kính, là do đợi chờ người khách qua đường của quá vãng đến đau lòng hay sao? Đau lòng vì ông đã lạc mất hồn phách trong vận mệnh quanh co, đau lòng vì ông say tỉnh suốt cuộc đời mơ hồ? Hay là vì ông đã nợ mười chín đồng tiền nên chẳng thể rời đi?
[8] Đậu hồi hương: Một loại đậu to như hạt cô ve, hương vị rất nồng, là một món ăn vặt ưa thích của người Thiệu Hưng.
Thực sự không biết, những người vào quán đó khi nhìn thấy tấm biển treo trên đó có viết, “Khổng Ất Kỷ, nợ mười chín đồng, ngày mùng sáu tháng ba” bằng chữ lớn, trong lòng cảm giác sẽ ra sao? Từ bao giờ, món nợ của Khổng Ất Kỷ đã trở thành đạo cụ để người đời hồi tưởng quá khứ? Thế nhưng, tại sao lại phải trưng món nợ mà một người cùng quẫn cả đời không thể trả nổi ra cho những người qua đường chỉ trỏ, bàn tán? Rõ ràng là đang nhắc nhở điều gì, hay đang ám chỉ điều gì. Có khi cũng chẳng vì điều gì, một phong cảnh như thế, những người đã từng thấy nó đều sẽ quên đi. Thế gian này có cuộc đời nào mà không nợ nhau? Chính vì nợ nhau, nên mới có duyên phận không thể tách rời. Không cần nếm ly rượu nồng của tuế nguyệt lần nữa, giữa tháng ngày ngồi im lặng trong giây lát, bạn đã say ngất ngây rồi.
Có từng say mới biết mùi vị thực sự, khi tỉnh lại mới hay ý tứ đượm nồng. Trong hoàng hôn say đắm gió xuân, chèo một chiếc thuyền mui đen đi đến một sân khấu kịch là một hành trình không thể thiếu của mỗi người khi đến vùng sông nước. Cứ xuôi dòng mà đi như thế, vứt bỏ vầng mặt trời đang lặn sau lưng, để mau mau đến kịp buổi diễn kịch dưới ánh trăng vằng vặc. Cho dù là mở màn, hay là kết thúc, thậm chí chỉ có thể đứng trong lúc chiều tàn nhìn sân khấu trống trơn, vẫn phải âm thầm đến trong sự ngưỡng mộ nhung nhớ.
Phủi đi lớp bụi thời gian, dưới ánh trăng, sân khấu sát mép nước tỏa sáng lấp lánh soi rọi bóng thời gian của khúc nhạc kịch, một chiếc thuyền mui đen neo trên dòng nước, có phải đang nghiền ngẫm ý vị buồn vui ly hợp trong vở kịch hay không? Còn đào kép trên sân khấu, đã nhìn quen cảnh khách đến khách đi, nên chẳng đợi chờ một ai. Chỉ có người xem kịch, không cẩn thận đã bị rơi vào trong muôn ngàn cảnh tượng, cố chấp không chịu rời đi. Nước đã tạo nên một cảnh tượng huyền ảo cho bạn, bạn muốn thoát khỏi cảnh tượng ấy thì buộc phải xé tan mặt nước phẳng lặng, ra đi trong sóng vỡ nát tan, để lại những mảnh trăng vỡ vụn, để những người đến sau sẽ lại lần nữa hợp thành trong mộng cảnh khác.
Dũng cảm truy tìm sự khoáng đạt trong cơn khiếp nhược, tỉnh táo truy cầu sự lĩnh ngộ trong lúc trầm mê, đời người ấy có được coi là hoàn mỹ trong khiếm khuyết? Theo đuổi ánh sáng chân chính trong bóng tối, buộc phải thắp lên ngọn lửa của tâm hồn, hành trình trở về một cách chói lọi sẽ không còn bao xa. Chiếc thuyền mui đen trên mặt nước đã bị sương sớm thấm ướt, lại được ráng chiều tô điểm, nay đội trăng đội sao, tạm dừng một khoảng thời gian ngắn ngủi trên mỗi bến đò, sau đó lại tiếp tục trôi đi trong dòng sông số phận. Khi bạn từ điểm kết thúc quay trở lại điểm khởi đầu, sinh mệnh đã không còn trẻ trung như thuở ban đầu. Tỉnh lại sau cơn hồi ức, đối diện với sự buồn bã, bạn còn có đợi chờ điều gì trong vô vọng nữa không?
Nếu như cuộc gặp gỡ rực rỡ, đã định trước chuyến ly tan quay người ra đi, bạn có hối hận vì đã từng có một lần như thế hay không? Nếu như sự quạnh quẽ của linh hồn, bạn có thể bình tĩnh hưởng thụ nỗi lạnh lẽo này chăng? Nếu như có thể, bạn hãy tìm một lý do để đeo đuổi. Ở Giang Nam sông nước như thủy mặc này, bạn thấu hiểu được sâu sắc từ trong giản đơn, nhìn thấy được ánh sáng từ trong bóng tối, thì đó chính là hy vọng của đời người.
Con ngõ viết nên kết cục ấy, có một con đường thông tới điểm khởi đầu. Khi đến, bạn ngỡ rằng đã tìm thấy cố hương, nhưng lưng đeo tay nải, bạn vẫn trở về làm một người khách qua đường như cũ.
Quyển thứ sáu: Tháng năm
Dung Thành
Luôn ngỡ rằng, đô thị được gọi là “Thiên phủ chi thành” (thành phố thiên đường) - Thành Đô rất xa xôi. Khi tôi đến đây, mới hay rằng, kỳ thực khoảng cách đó chẳng qua chỉ là một chặng non xanh nước biếc. Nơi đây còn được gọi là Dung Thành, đó không phải mỹ nhân như hoa, xa tít tận tầng mây mù; cũng chẳng phải là trăng sáng mênh mang, rơi tận sâu đáy nước trong vắt. Mà là một vùng khói lửa dịu mềm, lãng đãng trong những đường ngõ thơ mộng, chảy trôi trên đường Đàn Đài cổ kính, bao trùm trên những cầu mái xây mộng. Thời gian của Thành Đô sẽ không quay cuồng ca múa, mà nó lặng lẽ đậu trên từng cành cây, ngâm trong từng ly trà. Tôi là cô gái giản dị đó, nhàn tản dạo bước ở Thành Đô, cùng Thành Đô đi một đoạn tháng năm thơm nồng.
Đời người ngõ phố
Cắt một khoảng thời gian nhàn nhã, một mình, áo trắng phong trần, bước trong ngõ rộng, ngõ hẹp và ngõ giếng [1] của Thành Đô, tựa như bước đi trong một hành lang dài thông thẳng tới quá khứ. Trong ngõ không có sự nồng nhiệt như áo màu cưỡi ngựa, mà có sự vui vẻ như hoa nở trên đường. Tháng năm đã chiếu những chiếc bóng tối sáng khác nhau ở nơi này, đi dạo trong những con ngõ sâu dài hun hút, tôi ngửi thấy mùi vị của thời gian, lắng nghe hơi thở của ngày tháng. Ba con ngõ lát đá chứa đựng biết bao phong tục tập quán này đã kết nối với muôn vàn linh hồn người Thành Đô. Trong đường đời như mây nước, sự tồn tại của nó là xiết bao tình sâu nghĩa nặng.
[1] Ngõ rộng, ngõ hẹp, ngõ giếng nằm trong Khu bảo tồn văn hóa lịch sử của thành phố Thành Đô.
(1) Ngõ rộng hẹp
Người ta nói thứ mà ngõ rộng hẹp chứng kiến chính là cuộc sống “nhàn tản” của Thành Đô xưa, cái mà nó tái hiện chính là ký ức của người hiện đại đối với một thành thị. Mà ngõ rộng hẹp kể về cuộc sống “chậm rãi” của Thành Đô xưa, cái nó phô bày chính là văn hóa sân nhà của Thành Đô. Khi tôi giẫm chân lên ánh nắng mềm mại đi vào ngõ nhỏ, không khí nhàn tản và nhịp điệu thong thả nơi này khiến tôi tưởng rằng năm tháng đã quên thay đổi, câu chuyện vẫn còn dừng lại ở ngày hôm qua. Bất cứ cái quay người hoặc ngoái nhìn nào đều khiến tôi lạc vào một hồi ức xa xôi nào đó của Thành Đô xưa cũ. Tôi tin rằng, ngõ rộng hẹp chắc chắn là một áng thơ dân gian mà năm tháng cố tình để lại, khiến cho những người đã từng bỏ lỡ và những người chưa từng gặp gỡ đều có thể có được sự thân thiết và tươi đẹp thanh thản này.
Trong ngõ không có đàn sáo huyên náo của thế giới phù hoa, mà là một khoảng khói bếp phố chợ bình dị. Tôi gần như có thể ngửi thấy hơi thở quen thuộc của phong tục dân tình đất Ba Thục từ trong kẽ hở của con đường lát đá xanh này. Ngõ rộng, hẹp của Thành Đô, tuy ở giữa chốn đô thị phồn hoa, nhưng vẫn giữa nguyên được kiến trúc thời cuối Minh đầu Thanh. Ngói đen gạch xanh sạch sẽ, những cánh cửa, ô cửa sổ kiểu cổ bằng gỗ, những hòn đá buộc ngựa bên mép tường cổ, những quán trà già nua bên hè phố, cây ngô đồng rậm rì, những cảnh vật rõ ràng cổ kính ấy, cách sự ồn ào của thành thị một bức tường âm thanh, mà đã thanh lọc hết thảy bụi bặm của trần thế thành trong sạch thanh tịnh. Mà mộng xưa Ba Thục của nghìn năm trước, chỉ mất một sát na, là đã gặp gỡ ở thời nay.
Đi vào khách sạn Long Đường, đặt hành trang gọn nhẹ của mình xuống, tôi liền cảm nhận được cảm giác vui sướng mà “thành phố hạnh phúc nhất” này đem lại. Ở Thành Đô, có rất nhiều khách sạn đặc biệt nên thơ như thế này, níu chân biết bao giai khách gần xa đên từ khắp trời nam đất bắc. Họ cũng giống như tôi, vội vã hối hả để đến với niềm hạnh phúc thư thái của nơi đây. Đi trong ngõ rộng hẹp, ánh dương sáng ngời lướt qua áo tôi, tựa như sẽ đem sức sống thanh xuân trên người tôi truyền sang cho mỗi người. Còn tôi lại ngất ngây say đắm không khí phố chợ nồng đậm nơi đây, từng quán trà gợi lại hết thảy hồi ức của các cụ già, từng gương mặt cười thu hút tôi, khiến tôi muốn lập tức được chia sẻ niềm vui của họ. Tôi tận tình “lượn lờ” qua hết mọi khung cảnh thảnh thơi của ngõ nhỏ, cao đàm khoát luận với đủ mọi loại người, không cho phép bản thân bỏ lỡ bất cứ cảm giác hạnh phúc nào.
Chọn một quán trà ven đường để ngồi nghỉ, uống một ly trà ướp hoa phù dung. Nơi đây hội tụ những người Thành Đô xưa và những người qua đường nhàn tản, hai bên gặp gỡ chẳng hỏi nhau từ đâu đến, cũng chẳng hỏi bao giờ quay về. Tôi mang theo tuổi trẻ và sự phồn hoa của thành thị, vô cớ xông vào con ngõ cổ bình yên này, cùng họ tận hưởng sự yên tĩnh mà tháng ngày đem lại, kể về những gió mây biến đổi ngày hôm qua của Thành Đô. Trên người họ phảng phất một sự yên ả bẩm sinh, giữa chốn phố thị sương khói bao trùm này, họ vẫn sống những ngày “tri túc thường lạc [2]”. Mùi vị của trà, ngôn ngữ của nước, tôi hiểu được tâm ý của chúng. Có những duyên phận chỉ cần một ly trà là đủ.
[2] Tri túc thường lạc: Biết đủ thì luôn vui, chỉ thái độ sống biết hài lòng với hiện tại và những gì đang có.
Tháng ngày trong ngõ nhỏ có thể tùy ý lãng phí, bất cứ một cách sống nào cũng không phải là sống hoài sống phí. Ngắm phong cảnh trong ngõ, bị lối kiến trúc cô đọng, mộc mạc mà cổ kính dẫn vào câu chuyện của người khác. Nhàn nhã uống một ly trà là đã hết một buổi chiều. Trong thời gian chầm chậm trôi, cảm nhận được sự gấp gáp của đời người, nhưng vẫn yên tĩnh một cách trầm lặng, nhàn rỗi. Dọc đường đi, có thể nhìn thấy những người già uống trà, túm tụm tán gẫu với nhau, những chú mèo lười biếng ngồi dưới chân họ gật gù ngủ, thấy những cành lá xanh mướt mát bò lan trên những bức tường có cánh cửa nửa đóng nửa mở, còn một đôi chim họa mi treo trên cây ngô đồng. Khói lửa phố thị nguyên chất nguyên vị ấy khiến người ta bước theo tiết tấu của người Thành Đô xưa, bị họ làm cho rung động một cách sâu sắc. Khoảng sân xanh rêu, vài khóm tre già đang tu thân dưỡng tính, mấy bụi hoa giấy đã thò ra khỏi đầu tường. Tư thế chậm chạp thong thả của chúng khiến bạn cảm thấy mùa xuân nơi đây vẫn còn đang chần chừ, hỏi xem đã đến thời khắc giao mùa hay chưa. Người đến người đi dừng chân trước khoảng sân có điêu khắc mấy bức tranh cổ dân gian này, không chỉ vì muốn ngắm nghía khung cảnh bên trong bức tường, mà là muốn có một chốn quay về trong cuộc đời. Đây là mái nhà của người Thành Đô, họ bảo vệ những ngày tháng xanh rờn trong sân, không còn ước cầu gì hơn. Mặc cho những cánh én bay xa ngàn dặm, cũng sẽ quay trở về mái hiên quen thuộc, nghỉ ngơi trong những chiếc tổ đơn sơ của chúng, và người chủ nhân già đi, kể lại những câu chuyện cũ ngày ngày bồi đắp xây mộng năm xưa.
Nếu có thể giữ lại được tuổi thanh xuân, tôi sẽ đặt cược tất cả vốn liếng để bản thân đắm chìm trong ngõ rộng, hẹp và dưới ánh mặt trời chói lọi. Không cần thề hẹn, quên đi tháng năm, chỉ dùng sinh mệnh trẻ trung đón nhận quãng thời gian hạnh phúc này. Không để mỗi chặng đường đi qua lưu lại dấu tích, không để bất kỳ ký ức nào tan tác thành tàn tro.
(2) Ngõ giếng
Nếu nói ngõ rộng, hẹp là một cuốn sách giản đơn hoài niệm chuyện cũ người xưa, viết về cuộc sống phố thị phồn hoa nhất của Thành Đô xưa, vậy thì ngõ giếng chính là một nét bút thanh tân hiện đại trong trang sách. Trùng tu tô điểm lại kiến trúc cổ xưa, vừa bảo tồn được phong cách mộc mạc năm nào, lại gia tăng thêm nét thơ mộng của thời đại mới. Có nghĩa là, dùng tình cảm để trang hoàng lại một quãng thời gian đã qua, thì quãng thời gian ấy sẽ không bị mất đi hương vị nguyên sơ thuở đầu, mà lại đượm thêm phẩm chất “ôn cố tri tân.”
Đi trong ngõ giếng cổ kính, tôi lại nảy sinh một cảm giác lần đầu gặp gỡ dưới bóng hoa đào. Bức tường văn hóa dài 400 mét đó cô đặc diện mạo lịch sử như ban đầu của Thành Đô xưa, giống như một người già đã kinh qua mọi dâu bể, thì thầm kể lại chuyện kiếp trước của Thành Đô. Mà dọc con đường này đầy rẫy những quán bar, nhà hàng mang đậm hơi thở thời đại, thu thập đủ mọi phương thức tự do sinh sống, giống như một thiếu nữ tươi cười tựa hoa phù dung, diễn lại một kiếp hoa lệ của Thành Đô. Có lẽ, chỉ có người Thành Đô mới có thể dung hòa lịch sử và hiện đại một cách hoàn mỹ và nhuần nhị đến thế, thanh sắc rực rỡ đến thế.
Trước khi đến với ngõ giếng Thành Đô, trong ba lô của tôi nhét đầy mộng ước tuổi xuân và những khát vọng hạnh phúc đối với thành phố này. Ngỡ rằng, có mơ ước thì sẽ có hạnh phúc. Khi tôi nhìn thấy những con người Thành Đô yêu cuộc sống trong ngõ giếng đó, có người đang lười biếng phơi nắng, có người đang túm tụm tán gẫu, có người đang ôm một bình trà ngủ gà ngủ gật. Những cảnh tượng thanh bình an lạc đó chính là hạnh phúc trong mơ của tôi. Trời cao xanh ngắt, mây trôi bồng bềnh, dưới ánh nắng vàng như mật ngọt, tôi dường như sắp thiếp đi. Nhưng lại cảm thấy niềm vui dấy lên trong trái tim, khiến tôi không dám bỏ lỡ bất cứ điều gì, chỉ muốn cùng họ sống qua quãng thời gian này ở Thành Đô.
Một đám đông thanh niên đang cùng chơi và nghe nhạc, tôi lập tức bị hút qua đó, hòa mình với họ để ủ những giai điệu thành một bình mỹ tửu, để tuổi thanh xuân được say khướt một trận. Cuộc gặp gỡ vô tình này không liên quan đến tan tụ, chỉ vui vẻ trong khoảnh khắc rồi sẽ cùng quên nhau. Còn tôi, đến đi đều vội vã, lòng không hề vướng bận, dù cho hoa nở hoa tàn, vẫn thoải mái vô tư. Bởi vì, duyên phận nơi này vốn không có trong số mệnh, chỉ là vĩnh viễn lưu lại nụ cười mỉm trên gương mặt của người khách lữ hành. Đây chính là thời gian trong ngõ giếng, vĩnh viễn mang một phong thái huyền ảo yên ổn, mặc cho tôi và bạn dùng bất cứ phương thức nào để tận hưởng đời người.
Không cần nhiều lời thêm nữa, tôi sẽ dùng ngòi bút của tuổi trẻ viết nên sự tươi đẹp của tuổi xuân đầy thơ và rượu. Để mỗi người đến với ngõ giếng này, trong những tháng ngày hạnh phúc, họ đều có thể nhàn tản thưởng ngoạn sự nên thơ của Thành Đô, nhận lấy thiên hạ đất Dung Thành.
Đều nói, đây là thành phố mà đâu đâu cũng đầy ắp sự dịu dàng, cho nên khi rời khỏi ngõ phố, trong lòng vẫn tràn ngập cảm giác dịu dàng ấy. Kỳ thực, ly biệt cũng như tương phùng, đều là những điều hết sức bình thường. Khe khẽ quay người, tôi đã biết rằng, ở ngõ rộng, hẹp của Thành Đô, thứ nó quan tâm là ký ức xưa nay của một thành thị, cái nó mở ra lại là đời người rối rắm dao động của ngàn vạn khách qua đường.
Ngõ rộng ngõ hẹp
Dưới ánh nắng nhàn nhạt
Những con ngõ rộng hẹp dài hun hút
Ánh sáng rụng rơi đầy mặt đất
Chuyện xưa lướt qua tay áo người lữ khách
Đây chính là Thành Đô
Biết bao hạnh phúc nhàn tản
Chạm tay là với tới.
Đường phố ngập tràn khói lửa
Tỏa ra mùi vị của Thành Đô xưa
Cửa gỗ ngả màu
Mở ra ký ức của ngày hôm qua
Quán trà thời xưa
Kể lại cuộc sống phố thị Dung Thành
Còn có những mảng tường xanh rêu
Năm này qua năm khác
Giữ chân những người khách bình thường
Không để thời gian thay đổi dung nhan của thành phố
Một con ngõ nhỏ tuổi đời trăm năm
Trải qua hết thảy tươi héo phàm trần
Ngắm hết vô số chúng sinh
Có người đem tuổi thanh xuân
Treo trên những khung cửa chạm trổ
Có người đem tâm tình nhàn rỗi
Rải trên con đường lát đá tinh khôi
Còn có người đem câu chuyện
Vội vã gói ghém vào hành trang của mình
Đời người thật quá chậm, quá chậm
Ngắm hết phong cảnh trong ngõ Cuộc sống Thành Đô xưa vẫn còn nguyên dáng vẻ ban đầu
Đời người cũng thật quá nhanh, quá nhanh
Tựa như một chén nhàn trà
Từ ấm sang lạnh, từ đặc sang nhạt
Chỉ trong khoảnh khắc mà thôi
Mở toang cánh cửa khóa im lìm trong hồi ức
Ngõ rộng ngõ hẹp của Thành Đô
Mỗi ngày đều đợi chờ khách qua đường với sự nên thơ cố hữu
Chẳng bao giờ là sớm nhất
Cũng chẳng bao giờ là quá muộn.
Thiên phủ Cẩm Lý
Nhắc đến Tứ Xuyên, điều khiến người ta nhớ đến là phong tục tập quán của vùng Xuyên Tây, nhớ đến những sự kiện lịch sử thời Tam quốc, nhớ đến văn hóa nồng hậu của đất Ba Thục. Nơi đây đất đai rộng lớn, sản vật dồi dào, lịch sử lâu đời, tự cổ đến nay đã có tiếng khen là “đất nước thiên đường”. Thành Đô chính là thủ phủ của Tứ Xuyên - được gọi là “thành phố thiên đường”, vẻ nhàn nhã, phong thái và cả sự dịu dàng của nó khiến những người tới đây rồi đều không muốn rời đi. Cảm Lý được tôn xưng là “Thanh Minh thượng hà đồ bản Thành Đô [3]”, đây là tòa kiến trúc tinh túy của thành cổ. Những người bước vào bên trong chỉ khi lật giở bức tranh phong tục dân gian truyền thống này, mới có thể thực sự lĩnh hội được vẻ đẹp rực rỡ của Thành Đô, thưởng thức được sự phong lưu hào hoa của đất Thục.
[3] “Thanh Minh thượng hà đồ” (tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh Minh): là tên tác phẩm hội họa khổ rộng của Trung Quốc, bản đầu tiên và nổi tiếng nhất là của họa sĩ Trương Trạch Đoan đời Tống. Tác phẩm mô tả cảnh sống của người dân Trung Quốc đời Tống tại kinh đô Biện Kinh (tức Khai Phong ngày nay) với đầy đủ những sinh hoạt thường nhật, trang phục, ngành nghề, các chi tiết kiến trúc, đường xá cũng được mô tả kỹ lưỡng với nhiều màu sắc trên một diện tích rộng. “Thanh minh thượng hà đồ” được vẽ trên một trường quyển có kích thước 24,8×528,7 cm.
Danh tiếng của “Thanh minh thượng hà đồ” tại Trung Quốc rất lớn, chính vì vậy đôi khi nó được gọi là “Mona Lisa của Trung Quốc”. Nó là báu vật của nhiều triều đại phong kiến Trung Quốc và hiện được trưng bày tại bảo tàng Cố Cung, Bắc Kinh.
Cẩm Lý, tức là Cẩm Quan Thành. Thường Trác đời Tấn viết trong “Hoa Dương quốc chí”, phần “Thục chí” rằng: “Châu chiếm học phủ của quận để làm học phủ của châu, học phủ của quận liền chuyển từ phía nam cầu Di Lý đến phía đông cầu, bắt đầu gây dựng nền học, học phủ của quận có bờ tường thấp bao quanh, dẫn thẳng đến phía tây thành, do đó gọi là Cẩm Cung. Thợ dệt dệt gấm, giặt nước sông ở đây thì gấm rực rỡ tươi đẹp hơn hẳn, các sông khác không bằng, vì Thế Âmà được gọi tên là Cẩm Lý vậy.” Cẩm Lý do bảo tàng Văn Hầu tự khôi phục trùng tu, hiện là phố thương mại đi bộ nổi tiếng nhất thành phố Thành Đô, được xây dựng phỏng theo phong cách kiến trúc cuối thời Thanh đầu thời Dân Quốc. Con phố này lắng kết tinh hoa cuộc sống Thành Đô, có khu ăn vặt điểm tâm nổi tiếng Tứ Xuyên, khu trưng bày và bán hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống Tứ Xuyên, khu khách sạn phủ đệ, khu giải trí thời trang… và được gọi là “Đệ nhất phố Tây Thục”.
Bước vào bên trong Cẩm Lý, mới biết đây là nơi khói lửa mịt mùng. Nhưng ngày tháng nơi đây sẽ không bị rối ren loạn động, trong hỗn tạp lại đan xen một cảm giác yên tĩnh cổ xưa. Từng cửa tiệm trên phố đều lay tỉnh hết thảy ký ức của Thành Đô, cho dù bạn là con đi xa trở về, hay là khách qua đường, đều không thể đặt mình nằm ngoài nó. Mà những người cam tâm tình nguyện trọn vẹn hòa vào trong dòng người, cùng họ ngắm nghía khói lửa nhân gian, nếm trải trăm vị thế tình. Cẩm Lý như một bức tranh cổ quá nhiều ý vị, hội tụ đầy đủ cuộc sống thuần phác của dân chúng phố chợ, lại như một bình trà xanh, được pha bằng những câu chuyện, đợi chờ người có duyên dùng tâm thưởng thức.
Khi đến Cẩm Ly, lưng đeo tay nải rỗng không, bởi vì tôi biết, sẽ có quá nhiều điều kinh ngạc và câu chuyện hiện hữu ở nơi đây lấp đầy hành lý của tôi. Dạo bước trên ngõ phố đầy hành lý của tôi. Dạo bước trên ngõ phố của Cẩm Lý, nếp sống của người dân Xuyên Tây từ lâu đời ùa tới, chỉ trong tích tắc, tôi đã bị sự náo nhiệt quen thuộc của nơi này chuốc say. Tựa như tôi có tính cách của người Thành Đô, có tâm tình nhàn rỗi của người Thành Đô, hơn nữa có thể cùng với họ hưởng thụ niềm hạnh phúc và sự ấm áp mà thành phố này mang lại.
Một con phố cổ dẫn ra nguyên vị của cuộc sống phố thị, đi xuyên qua nó, không cần suy nghĩ điều gì, chỉ cần hết lòng chìm đắm trong giấc mộng đất Thục này, để tuổi xuân một lần nữa được buông thả vui vẻ. Tôi của lúc này có thể tìm thấy câu chuyện của ngày hôm qua trong phong cảnh sự vật của ngày hôm nay, lại có thể diễn lại truyền kỳ của ngày hôm nay trong đáy sâu của ngày hôm qua.
Những đồ trang sức thủ công muôn màu muôn vẻ trong các cửa tiệm không ngừng vẫy gọi tôi dừng chân, như một thứ ngôn ngữ không lời đang kể cho tôi nghe về văn hóa phong tục của Xuyên Tây, vì bản thân chúng vốn là văn minh của Thục Trung, là chuyện cũ của Thành Đô. Khiến tôi tình nguyện trả trước những ngày tháng quý báu, giao phó tuổi hoa của mình, vì chúng mà ở lại. Trút bỏ hành trang, quên mất mình là lữ khách, bước vào một quán trà phường rượu nào đó, gọi một bình trà, ăn một bát mì thịt bò, ngồi mãi không muốn đi. Không rời xa được tháng ngày tươi đẹp cổ kim đổi dời, không rời được cuộc đời nhàn nhã say tỉnh đan xen này. Mỗi một món đồ thủ công ở đây đều khiến tôi lưu luyến, mỗi một món ăn đều khiến tôi nhớ mãi, mỗi một gương mặt người, đều khiến tôi cảm động. Cẩm Lý là một con phố cổ thích hợp với việc hoài cổ, cũng là một địa điểm mà người nhã kẻ tục có thể cùng thường ngoạn. Rất nhiều người đến đây có thể tìm lại ký ức tươi đẹp, cũng có thể hưởng thụ cuộc sống chậm rãi, an nhàn giữa phố thị sôi động xô bồ. Ánh dương luôn hiểu lòng người, nhìn thấu hết thảy sự náo nhiệt của Cẩm Lý. Đứng trên phố nhìn những người thợ thủ công quẩy gánh nặn tò he, mua súc vải gấm của đất Thục trong những cửa tiệm sặc sỡ sắc màu, dưới khán đài xem một đoạn kịch có kỹ thuật đổi nét đặc sắc. Tựa như mượn một súc vải thêu, vải gấm đất Thục là có thể dệt nên sơn hà tráng lệ, nghe một đoạn kịch Xuyên là có thể diễn hết buồn vui ly hợp, uống một bát rượu cay là có thể gia nhập buổi kết nghĩa vườn đào. Cẩm Lý chính là một con phố cổ đầy rẫy huyền thoại, rõ ràng đứng giữa hồng trần phồn hoa, mà lại thản nhiên như nằm ngoài hồng trần.
Có người nói, đi loanh quanh ở Cẩm Lý của Thành Đô cũng giống như đi dạo ở Lệ Giang của Vân Nam, nhưng tôi lại cảm nhận được tục lệ thói quen giữa hai nơi này khác nhau hoàn toàn. Ở Cẩm Lý, điều khiến tôi kinh ngạc nhất là kịch rối bóng. Tạo hình rối bóng sinh động, linh hoạt, những hình vẽ tinh tế tỉ mỉ, động tác linh động, khéo léo, âm điệu tròn trịa uyển chuyển, sức lôi cuốn của loại hình nghệ thuật cổ điển mộc mạc mà tao nhã này tạo ra có thể khiến những mây gió đã chìm khuất lại nổi lên, khiến quá vãng đã lùi xa được tái hiện trở lại. Nó có thể khiến người ta ôn lại những phong tục thuần phác của Xuyên Tây, tìm lại những niềm vui giản đơn của tuổi thơ ấu. Tôi nhìn thấy người Thành Đô sống một cuộc đời vui vẻ sung sướng ở Cẩm Lý, đem những tâm nguyện tốt đẹp nhất hong dưới ánh nắng ấp áp, đem những câu chuyện bình thường phản chiếu lại trong một vở kịch rối bóng.
Kịch chưa kết thúc, ánh đèn vẫn sáng. Đứng trong phố cổ Cẩm Lý tràn ngập hơi thở của ngành kinh doanh, nhìn ra xa chỉ có Vũ Hầu tự (miếu Vũ Hầu) sát ngay gần đó, lúc này đang im lìm trầm mặc. Sự trầm mặc của nó, có phải là đang chờ đợi một câu chuyện ngàn thu ba lần đến nhà tranh khác hay không? Lưu Bị và Gia Cát Lượng của năm đó, có phải vẫn còn đang ở thánh địa Tam Quốc, ngồi đối diện nhau, gẩy đàn nâng chén hay không?
Cẩm Lý, bạn hãy nhìn hành trang rỗng không này xem, nó đã bị lấp đầy bằng cuộc sống chân thực và văn hóa lịch sử nơi đây. Mang theo những ký ức sinh động đầy ắp này, đủ để nuôi dưỡng tâm tình một đời, và truyền cho một người khác. Hãy để họ biết rằng, ở Cẩm Lý có một bức tranh “Thanh Minh thượng hà đồ” phiên bản Thành Đô hết sức thú vị.
Luôn ngỡ rằng, đô thị được gọi là “Thiên phủ chi thành” (thành phố thiên đường) - Thành Đô rất xa xôi. Khi tôi đến đây, mới hay rằng, kỳ thực khoảng cách đó chẳng qua chỉ là một chặng non xanh nước biếc. Nơi đây còn được gọi là Dung Thành, đó không phải mỹ nhân như hoa, xa tít tận tầng mây mù; cũng chẳng phải là trăng sáng mênh mang, rơi tận sâu đáy nước trong vắt. Mà là một vùng khói lửa dịu mềm, lãng đãng trong những đường ngõ thơ mộng, chảy trôi trên đường Đàn Đài cổ kính, bao trùm trên những cầu mái xây mộng. Thời gian của Thành Đô sẽ không quay cuồng ca múa, mà nó lặng lẽ đậu trên từng cành cây, ngâm trong từng ly trà. Tôi là cô gái giản dị đó, nhàn tản dạo bước ở Thành Đô, cùng Thành Đô đi một đoạn tháng năm thơm nồng.
Đời người ngõ phố
Cắt một khoảng thời gian nhàn nhã, một mình, áo trắng phong trần, bước trong ngõ rộng, ngõ hẹp và ngõ giếng [1] của Thành Đô, tựa như bước đi trong một hành lang dài thông thẳng tới quá khứ. Trong ngõ không có sự nồng nhiệt như áo màu cưỡi ngựa, mà có sự vui vẻ như hoa nở trên đường. Tháng năm đã chiếu những chiếc bóng tối sáng khác nhau ở nơi này, đi dạo trong những con ngõ sâu dài hun hút, tôi ngửi thấy mùi vị của thời gian, lắng nghe hơi thở của ngày tháng. Ba con ngõ lát đá chứa đựng biết bao phong tục tập quán này đã kết nối với muôn vàn linh hồn người Thành Đô. Trong đường đời như mây nước, sự tồn tại của nó là xiết bao tình sâu nghĩa nặng.
[1] Ngõ rộng, ngõ hẹp, ngõ giếng nằm trong Khu bảo tồn văn hóa lịch sử của thành phố Thành Đô.
(1) Ngõ rộng hẹp
Người ta nói thứ mà ngõ rộng hẹp chứng kiến chính là cuộc sống “nhàn tản” của Thành Đô xưa, cái mà nó tái hiện chính là ký ức của người hiện đại đối với một thành thị. Mà ngõ rộng hẹp kể về cuộc sống “chậm rãi” của Thành Đô xưa, cái nó phô bày chính là văn hóa sân nhà của Thành Đô. Khi tôi giẫm chân lên ánh nắng mềm mại đi vào ngõ nhỏ, không khí nhàn tản và nhịp điệu thong thả nơi này khiến tôi tưởng rằng năm tháng đã quên thay đổi, câu chuyện vẫn còn dừng lại ở ngày hôm qua. Bất cứ cái quay người hoặc ngoái nhìn nào đều khiến tôi lạc vào một hồi ức xa xôi nào đó của Thành Đô xưa cũ. Tôi tin rằng, ngõ rộng hẹp chắc chắn là một áng thơ dân gian mà năm tháng cố tình để lại, khiến cho những người đã từng bỏ lỡ và những người chưa từng gặp gỡ đều có thể có được sự thân thiết và tươi đẹp thanh thản này.
Trong ngõ không có đàn sáo huyên náo của thế giới phù hoa, mà là một khoảng khói bếp phố chợ bình dị. Tôi gần như có thể ngửi thấy hơi thở quen thuộc của phong tục dân tình đất Ba Thục từ trong kẽ hở của con đường lát đá xanh này. Ngõ rộng, hẹp của Thành Đô, tuy ở giữa chốn đô thị phồn hoa, nhưng vẫn giữa nguyên được kiến trúc thời cuối Minh đầu Thanh. Ngói đen gạch xanh sạch sẽ, những cánh cửa, ô cửa sổ kiểu cổ bằng gỗ, những hòn đá buộc ngựa bên mép tường cổ, những quán trà già nua bên hè phố, cây ngô đồng rậm rì, những cảnh vật rõ ràng cổ kính ấy, cách sự ồn ào của thành thị một bức tường âm thanh, mà đã thanh lọc hết thảy bụi bặm của trần thế thành trong sạch thanh tịnh. Mà mộng xưa Ba Thục của nghìn năm trước, chỉ mất một sát na, là đã gặp gỡ ở thời nay.
Đi vào khách sạn Long Đường, đặt hành trang gọn nhẹ của mình xuống, tôi liền cảm nhận được cảm giác vui sướng mà “thành phố hạnh phúc nhất” này đem lại. Ở Thành Đô, có rất nhiều khách sạn đặc biệt nên thơ như thế này, níu chân biết bao giai khách gần xa đên từ khắp trời nam đất bắc. Họ cũng giống như tôi, vội vã hối hả để đến với niềm hạnh phúc thư thái của nơi đây. Đi trong ngõ rộng hẹp, ánh dương sáng ngời lướt qua áo tôi, tựa như sẽ đem sức sống thanh xuân trên người tôi truyền sang cho mỗi người. Còn tôi lại ngất ngây say đắm không khí phố chợ nồng đậm nơi đây, từng quán trà gợi lại hết thảy hồi ức của các cụ già, từng gương mặt cười thu hút tôi, khiến tôi muốn lập tức được chia sẻ niềm vui của họ. Tôi tận tình “lượn lờ” qua hết mọi khung cảnh thảnh thơi của ngõ nhỏ, cao đàm khoát luận với đủ mọi loại người, không cho phép bản thân bỏ lỡ bất cứ cảm giác hạnh phúc nào.
Chọn một quán trà ven đường để ngồi nghỉ, uống một ly trà ướp hoa phù dung. Nơi đây hội tụ những người Thành Đô xưa và những người qua đường nhàn tản, hai bên gặp gỡ chẳng hỏi nhau từ đâu đến, cũng chẳng hỏi bao giờ quay về. Tôi mang theo tuổi trẻ và sự phồn hoa của thành thị, vô cớ xông vào con ngõ cổ bình yên này, cùng họ tận hưởng sự yên tĩnh mà tháng ngày đem lại, kể về những gió mây biến đổi ngày hôm qua của Thành Đô. Trên người họ phảng phất một sự yên ả bẩm sinh, giữa chốn phố thị sương khói bao trùm này, họ vẫn sống những ngày “tri túc thường lạc [2]”. Mùi vị của trà, ngôn ngữ của nước, tôi hiểu được tâm ý của chúng. Có những duyên phận chỉ cần một ly trà là đủ.
[2] Tri túc thường lạc: Biết đủ thì luôn vui, chỉ thái độ sống biết hài lòng với hiện tại và những gì đang có.
Tháng ngày trong ngõ nhỏ có thể tùy ý lãng phí, bất cứ một cách sống nào cũng không phải là sống hoài sống phí. Ngắm phong cảnh trong ngõ, bị lối kiến trúc cô đọng, mộc mạc mà cổ kính dẫn vào câu chuyện của người khác. Nhàn nhã uống một ly trà là đã hết một buổi chiều. Trong thời gian chầm chậm trôi, cảm nhận được sự gấp gáp của đời người, nhưng vẫn yên tĩnh một cách trầm lặng, nhàn rỗi. Dọc đường đi, có thể nhìn thấy những người già uống trà, túm tụm tán gẫu với nhau, những chú mèo lười biếng ngồi dưới chân họ gật gù ngủ, thấy những cành lá xanh mướt mát bò lan trên những bức tường có cánh cửa nửa đóng nửa mở, còn một đôi chim họa mi treo trên cây ngô đồng. Khói lửa phố thị nguyên chất nguyên vị ấy khiến người ta bước theo tiết tấu của người Thành Đô xưa, bị họ làm cho rung động một cách sâu sắc. Khoảng sân xanh rêu, vài khóm tre già đang tu thân dưỡng tính, mấy bụi hoa giấy đã thò ra khỏi đầu tường. Tư thế chậm chạp thong thả của chúng khiến bạn cảm thấy mùa xuân nơi đây vẫn còn đang chần chừ, hỏi xem đã đến thời khắc giao mùa hay chưa. Người đến người đi dừng chân trước khoảng sân có điêu khắc mấy bức tranh cổ dân gian này, không chỉ vì muốn ngắm nghía khung cảnh bên trong bức tường, mà là muốn có một chốn quay về trong cuộc đời. Đây là mái nhà của người Thành Đô, họ bảo vệ những ngày tháng xanh rờn trong sân, không còn ước cầu gì hơn. Mặc cho những cánh én bay xa ngàn dặm, cũng sẽ quay trở về mái hiên quen thuộc, nghỉ ngơi trong những chiếc tổ đơn sơ của chúng, và người chủ nhân già đi, kể lại những câu chuyện cũ ngày ngày bồi đắp xây mộng năm xưa.
Nếu có thể giữ lại được tuổi thanh xuân, tôi sẽ đặt cược tất cả vốn liếng để bản thân đắm chìm trong ngõ rộng, hẹp và dưới ánh mặt trời chói lọi. Không cần thề hẹn, quên đi tháng năm, chỉ dùng sinh mệnh trẻ trung đón nhận quãng thời gian hạnh phúc này. Không để mỗi chặng đường đi qua lưu lại dấu tích, không để bất kỳ ký ức nào tan tác thành tàn tro.
(2) Ngõ giếng
Nếu nói ngõ rộng, hẹp là một cuốn sách giản đơn hoài niệm chuyện cũ người xưa, viết về cuộc sống phố thị phồn hoa nhất của Thành Đô xưa, vậy thì ngõ giếng chính là một nét bút thanh tân hiện đại trong trang sách. Trùng tu tô điểm lại kiến trúc cổ xưa, vừa bảo tồn được phong cách mộc mạc năm nào, lại gia tăng thêm nét thơ mộng của thời đại mới. Có nghĩa là, dùng tình cảm để trang hoàng lại một quãng thời gian đã qua, thì quãng thời gian ấy sẽ không bị mất đi hương vị nguyên sơ thuở đầu, mà lại đượm thêm phẩm chất “ôn cố tri tân.”
Đi trong ngõ giếng cổ kính, tôi lại nảy sinh một cảm giác lần đầu gặp gỡ dưới bóng hoa đào. Bức tường văn hóa dài 400 mét đó cô đặc diện mạo lịch sử như ban đầu của Thành Đô xưa, giống như một người già đã kinh qua mọi dâu bể, thì thầm kể lại chuyện kiếp trước của Thành Đô. Mà dọc con đường này đầy rẫy những quán bar, nhà hàng mang đậm hơi thở thời đại, thu thập đủ mọi phương thức tự do sinh sống, giống như một thiếu nữ tươi cười tựa hoa phù dung, diễn lại một kiếp hoa lệ của Thành Đô. Có lẽ, chỉ có người Thành Đô mới có thể dung hòa lịch sử và hiện đại một cách hoàn mỹ và nhuần nhị đến thế, thanh sắc rực rỡ đến thế.
Trước khi đến với ngõ giếng Thành Đô, trong ba lô của tôi nhét đầy mộng ước tuổi xuân và những khát vọng hạnh phúc đối với thành phố này. Ngỡ rằng, có mơ ước thì sẽ có hạnh phúc. Khi tôi nhìn thấy những con người Thành Đô yêu cuộc sống trong ngõ giếng đó, có người đang lười biếng phơi nắng, có người đang túm tụm tán gẫu, có người đang ôm một bình trà ngủ gà ngủ gật. Những cảnh tượng thanh bình an lạc đó chính là hạnh phúc trong mơ của tôi. Trời cao xanh ngắt, mây trôi bồng bềnh, dưới ánh nắng vàng như mật ngọt, tôi dường như sắp thiếp đi. Nhưng lại cảm thấy niềm vui dấy lên trong trái tim, khiến tôi không dám bỏ lỡ bất cứ điều gì, chỉ muốn cùng họ sống qua quãng thời gian này ở Thành Đô.
Một đám đông thanh niên đang cùng chơi và nghe nhạc, tôi lập tức bị hút qua đó, hòa mình với họ để ủ những giai điệu thành một bình mỹ tửu, để tuổi thanh xuân được say khướt một trận. Cuộc gặp gỡ vô tình này không liên quan đến tan tụ, chỉ vui vẻ trong khoảnh khắc rồi sẽ cùng quên nhau. Còn tôi, đến đi đều vội vã, lòng không hề vướng bận, dù cho hoa nở hoa tàn, vẫn thoải mái vô tư. Bởi vì, duyên phận nơi này vốn không có trong số mệnh, chỉ là vĩnh viễn lưu lại nụ cười mỉm trên gương mặt của người khách lữ hành. Đây chính là thời gian trong ngõ giếng, vĩnh viễn mang một phong thái huyền ảo yên ổn, mặc cho tôi và bạn dùng bất cứ phương thức nào để tận hưởng đời người.
Không cần nhiều lời thêm nữa, tôi sẽ dùng ngòi bút của tuổi trẻ viết nên sự tươi đẹp của tuổi xuân đầy thơ và rượu. Để mỗi người đến với ngõ giếng này, trong những tháng ngày hạnh phúc, họ đều có thể nhàn tản thưởng ngoạn sự nên thơ của Thành Đô, nhận lấy thiên hạ đất Dung Thành.
Đều nói, đây là thành phố mà đâu đâu cũng đầy ắp sự dịu dàng, cho nên khi rời khỏi ngõ phố, trong lòng vẫn tràn ngập cảm giác dịu dàng ấy. Kỳ thực, ly biệt cũng như tương phùng, đều là những điều hết sức bình thường. Khe khẽ quay người, tôi đã biết rằng, ở ngõ rộng, hẹp của Thành Đô, thứ nó quan tâm là ký ức xưa nay của một thành thị, cái nó mở ra lại là đời người rối rắm dao động của ngàn vạn khách qua đường.
Ngõ rộng ngõ hẹp
Dưới ánh nắng nhàn nhạt
Những con ngõ rộng hẹp dài hun hút
Ánh sáng rụng rơi đầy mặt đất
Chuyện xưa lướt qua tay áo người lữ khách
Đây chính là Thành Đô
Biết bao hạnh phúc nhàn tản
Chạm tay là với tới.
Đường phố ngập tràn khói lửa
Tỏa ra mùi vị của Thành Đô xưa
Cửa gỗ ngả màu
Mở ra ký ức của ngày hôm qua
Quán trà thời xưa
Kể lại cuộc sống phố thị Dung Thành
Còn có những mảng tường xanh rêu
Năm này qua năm khác
Giữ chân những người khách bình thường
Không để thời gian thay đổi dung nhan của thành phố
Một con ngõ nhỏ tuổi đời trăm năm
Trải qua hết thảy tươi héo phàm trần
Ngắm hết vô số chúng sinh
Có người đem tuổi thanh xuân
Treo trên những khung cửa chạm trổ
Có người đem tâm tình nhàn rỗi
Rải trên con đường lát đá tinh khôi
Còn có người đem câu chuyện
Vội vã gói ghém vào hành trang của mình
Đời người thật quá chậm, quá chậm
Ngắm hết phong cảnh trong ngõ Cuộc sống Thành Đô xưa vẫn còn nguyên dáng vẻ ban đầu
Đời người cũng thật quá nhanh, quá nhanh
Tựa như một chén nhàn trà
Từ ấm sang lạnh, từ đặc sang nhạt
Chỉ trong khoảnh khắc mà thôi
Mở toang cánh cửa khóa im lìm trong hồi ức
Ngõ rộng ngõ hẹp của Thành Đô
Mỗi ngày đều đợi chờ khách qua đường với sự nên thơ cố hữu
Chẳng bao giờ là sớm nhất
Cũng chẳng bao giờ là quá muộn.
Thiên phủ Cẩm Lý
Nhắc đến Tứ Xuyên, điều khiến người ta nhớ đến là phong tục tập quán của vùng Xuyên Tây, nhớ đến những sự kiện lịch sử thời Tam quốc, nhớ đến văn hóa nồng hậu của đất Ba Thục. Nơi đây đất đai rộng lớn, sản vật dồi dào, lịch sử lâu đời, tự cổ đến nay đã có tiếng khen là “đất nước thiên đường”. Thành Đô chính là thủ phủ của Tứ Xuyên - được gọi là “thành phố thiên đường”, vẻ nhàn nhã, phong thái và cả sự dịu dàng của nó khiến những người tới đây rồi đều không muốn rời đi. Cảm Lý được tôn xưng là “Thanh Minh thượng hà đồ bản Thành Đô [3]”, đây là tòa kiến trúc tinh túy của thành cổ. Những người bước vào bên trong chỉ khi lật giở bức tranh phong tục dân gian truyền thống này, mới có thể thực sự lĩnh hội được vẻ đẹp rực rỡ của Thành Đô, thưởng thức được sự phong lưu hào hoa của đất Thục.
[3] “Thanh Minh thượng hà đồ” (tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh Minh): là tên tác phẩm hội họa khổ rộng của Trung Quốc, bản đầu tiên và nổi tiếng nhất là của họa sĩ Trương Trạch Đoan đời Tống. Tác phẩm mô tả cảnh sống của người dân Trung Quốc đời Tống tại kinh đô Biện Kinh (tức Khai Phong ngày nay) với đầy đủ những sinh hoạt thường nhật, trang phục, ngành nghề, các chi tiết kiến trúc, đường xá cũng được mô tả kỹ lưỡng với nhiều màu sắc trên một diện tích rộng. “Thanh minh thượng hà đồ” được vẽ trên một trường quyển có kích thước 24,8×528,7 cm.
Danh tiếng của “Thanh minh thượng hà đồ” tại Trung Quốc rất lớn, chính vì vậy đôi khi nó được gọi là “Mona Lisa của Trung Quốc”. Nó là báu vật của nhiều triều đại phong kiến Trung Quốc và hiện được trưng bày tại bảo tàng Cố Cung, Bắc Kinh.
Cẩm Lý, tức là Cẩm Quan Thành. Thường Trác đời Tấn viết trong “Hoa Dương quốc chí”, phần “Thục chí” rằng: “Châu chiếm học phủ của quận để làm học phủ của châu, học phủ của quận liền chuyển từ phía nam cầu Di Lý đến phía đông cầu, bắt đầu gây dựng nền học, học phủ của quận có bờ tường thấp bao quanh, dẫn thẳng đến phía tây thành, do đó gọi là Cẩm Cung. Thợ dệt dệt gấm, giặt nước sông ở đây thì gấm rực rỡ tươi đẹp hơn hẳn, các sông khác không bằng, vì Thế Âmà được gọi tên là Cẩm Lý vậy.” Cẩm Lý do bảo tàng Văn Hầu tự khôi phục trùng tu, hiện là phố thương mại đi bộ nổi tiếng nhất thành phố Thành Đô, được xây dựng phỏng theo phong cách kiến trúc cuối thời Thanh đầu thời Dân Quốc. Con phố này lắng kết tinh hoa cuộc sống Thành Đô, có khu ăn vặt điểm tâm nổi tiếng Tứ Xuyên, khu trưng bày và bán hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống Tứ Xuyên, khu khách sạn phủ đệ, khu giải trí thời trang… và được gọi là “Đệ nhất phố Tây Thục”.
Bước vào bên trong Cẩm Lý, mới biết đây là nơi khói lửa mịt mùng. Nhưng ngày tháng nơi đây sẽ không bị rối ren loạn động, trong hỗn tạp lại đan xen một cảm giác yên tĩnh cổ xưa. Từng cửa tiệm trên phố đều lay tỉnh hết thảy ký ức của Thành Đô, cho dù bạn là con đi xa trở về, hay là khách qua đường, đều không thể đặt mình nằm ngoài nó. Mà những người cam tâm tình nguyện trọn vẹn hòa vào trong dòng người, cùng họ ngắm nghía khói lửa nhân gian, nếm trải trăm vị thế tình. Cẩm Lý như một bức tranh cổ quá nhiều ý vị, hội tụ đầy đủ cuộc sống thuần phác của dân chúng phố chợ, lại như một bình trà xanh, được pha bằng những câu chuyện, đợi chờ người có duyên dùng tâm thưởng thức.
Khi đến Cẩm Ly, lưng đeo tay nải rỗng không, bởi vì tôi biết, sẽ có quá nhiều điều kinh ngạc và câu chuyện hiện hữu ở nơi đây lấp đầy hành lý của tôi. Dạo bước trên ngõ phố đầy hành lý của tôi. Dạo bước trên ngõ phố của Cẩm Lý, nếp sống của người dân Xuyên Tây từ lâu đời ùa tới, chỉ trong tích tắc, tôi đã bị sự náo nhiệt quen thuộc của nơi này chuốc say. Tựa như tôi có tính cách của người Thành Đô, có tâm tình nhàn rỗi của người Thành Đô, hơn nữa có thể cùng với họ hưởng thụ niềm hạnh phúc và sự ấm áp mà thành phố này mang lại.
Một con phố cổ dẫn ra nguyên vị của cuộc sống phố thị, đi xuyên qua nó, không cần suy nghĩ điều gì, chỉ cần hết lòng chìm đắm trong giấc mộng đất Thục này, để tuổi xuân một lần nữa được buông thả vui vẻ. Tôi của lúc này có thể tìm thấy câu chuyện của ngày hôm qua trong phong cảnh sự vật của ngày hôm nay, lại có thể diễn lại truyền kỳ của ngày hôm nay trong đáy sâu của ngày hôm qua.
Những đồ trang sức thủ công muôn màu muôn vẻ trong các cửa tiệm không ngừng vẫy gọi tôi dừng chân, như một thứ ngôn ngữ không lời đang kể cho tôi nghe về văn hóa phong tục của Xuyên Tây, vì bản thân chúng vốn là văn minh của Thục Trung, là chuyện cũ của Thành Đô. Khiến tôi tình nguyện trả trước những ngày tháng quý báu, giao phó tuổi hoa của mình, vì chúng mà ở lại. Trút bỏ hành trang, quên mất mình là lữ khách, bước vào một quán trà phường rượu nào đó, gọi một bình trà, ăn một bát mì thịt bò, ngồi mãi không muốn đi. Không rời xa được tháng ngày tươi đẹp cổ kim đổi dời, không rời được cuộc đời nhàn nhã say tỉnh đan xen này. Mỗi một món đồ thủ công ở đây đều khiến tôi lưu luyến, mỗi một món ăn đều khiến tôi nhớ mãi, mỗi một gương mặt người, đều khiến tôi cảm động. Cẩm Lý là một con phố cổ thích hợp với việc hoài cổ, cũng là một địa điểm mà người nhã kẻ tục có thể cùng thường ngoạn. Rất nhiều người đến đây có thể tìm lại ký ức tươi đẹp, cũng có thể hưởng thụ cuộc sống chậm rãi, an nhàn giữa phố thị sôi động xô bồ. Ánh dương luôn hiểu lòng người, nhìn thấu hết thảy sự náo nhiệt của Cẩm Lý. Đứng trên phố nhìn những người thợ thủ công quẩy gánh nặn tò he, mua súc vải gấm của đất Thục trong những cửa tiệm sặc sỡ sắc màu, dưới khán đài xem một đoạn kịch có kỹ thuật đổi nét đặc sắc. Tựa như mượn một súc vải thêu, vải gấm đất Thục là có thể dệt nên sơn hà tráng lệ, nghe một đoạn kịch Xuyên là có thể diễn hết buồn vui ly hợp, uống một bát rượu cay là có thể gia nhập buổi kết nghĩa vườn đào. Cẩm Lý chính là một con phố cổ đầy rẫy huyền thoại, rõ ràng đứng giữa hồng trần phồn hoa, mà lại thản nhiên như nằm ngoài hồng trần.
Có người nói, đi loanh quanh ở Cẩm Lý của Thành Đô cũng giống như đi dạo ở Lệ Giang của Vân Nam, nhưng tôi lại cảm nhận được tục lệ thói quen giữa hai nơi này khác nhau hoàn toàn. Ở Cẩm Lý, điều khiến tôi kinh ngạc nhất là kịch rối bóng. Tạo hình rối bóng sinh động, linh hoạt, những hình vẽ tinh tế tỉ mỉ, động tác linh động, khéo léo, âm điệu tròn trịa uyển chuyển, sức lôi cuốn của loại hình nghệ thuật cổ điển mộc mạc mà tao nhã này tạo ra có thể khiến những mây gió đã chìm khuất lại nổi lên, khiến quá vãng đã lùi xa được tái hiện trở lại. Nó có thể khiến người ta ôn lại những phong tục thuần phác của Xuyên Tây, tìm lại những niềm vui giản đơn của tuổi thơ ấu. Tôi nhìn thấy người Thành Đô sống một cuộc đời vui vẻ sung sướng ở Cẩm Lý, đem những tâm nguyện tốt đẹp nhất hong dưới ánh nắng ấp áp, đem những câu chuyện bình thường phản chiếu lại trong một vở kịch rối bóng.
Kịch chưa kết thúc, ánh đèn vẫn sáng. Đứng trong phố cổ Cẩm Lý tràn ngập hơi thở của ngành kinh doanh, nhìn ra xa chỉ có Vũ Hầu tự (miếu Vũ Hầu) sát ngay gần đó, lúc này đang im lìm trầm mặc. Sự trầm mặc của nó, có phải là đang chờ đợi một câu chuyện ngàn thu ba lần đến nhà tranh khác hay không? Lưu Bị và Gia Cát Lượng của năm đó, có phải vẫn còn đang ở thánh địa Tam Quốc, ngồi đối diện nhau, gẩy đàn nâng chén hay không?
Cẩm Lý, bạn hãy nhìn hành trang rỗng không này xem, nó đã bị lấp đầy bằng cuộc sống chân thực và văn hóa lịch sử nơi đây. Mang theo những ký ức sinh động đầy ắp này, đủ để nuôi dưỡng tâm tình một đời, và truyền cho một người khác. Hãy để họ biết rằng, ở Cẩm Lý có một bức tranh “Thanh Minh thượng hà đồ” phiên bản Thành Đô hết sức thú vị.
Tháng năm Dung Thành
Luôn ngỡ rằng, đô thị được gọi là “Thiên phủ chi thành” (thành phố thiên đường) - Thành Đô rất xa xôi. Khi tôi đến đây, mới hay rằng, kỳ thực khoảng cách đó chẳng qua chỉ là một chặng non xanh nước biếc. Nơi đây còn được gọi là Dung Thành, đó không phải mỹ nhân như hoa, xa tít tận tầng mây mịt mù; cũng chẳng phải là trăng sáng mênh mang, rơi tận sâu đáy nước trong vắt. Mà là một vùng khói lửa dịu mềm, lãng đãng trong những đường ngõ thơ mộng, chảy trôi trên đường Đàn Đài cổ kính, bao trùm trên những cầu mái xây mộng. Thời gian của Thành Đô sẽ không quay cuồng ca múa, mà nó lặng lẽ đậu trên từng cành cây, ngâm trong từng ly trà. Tôi là cô gái giản dị đó, nhàn tản dạo bước ở Thành Đô, cùng Thành Đô đi một đoạn tháng năm thơm nồng.
Khúc thứ nhất: Nếp cổ Cầm Đài
Ngồi trên một chiếc xe ngựa thời Hán, lần theo một làn điệu sinh động, hoặc đi theo một làn gió mát trong lành, là có thể đến được Cầm Đài của Thục Trung. Đứng trên đường Cầm Đài mới phát hiện ra, tôi giống như một người lữ khách hiện đại nhớ nhà, mà quên mất mặc bộ Hán phục phấp phới. Mà đường cũ Cầm Đài không phải là đường phố thời Hán, chỉ là thời đại Đại Hán đã đánh rớt một phong cảnh, treo một bức cổ họa nơi đây.
Tôi nghĩ, mưa khói của hơn hai nghìn năm trước trôi đi, cái còn lưu lại hẳn là tinh túy nhân văn như thế nào? Thời gian hơn hai nghìn năm mài mòn, cái bị cất giấu hẳn là báu vật bút mực ra sao? Không có năm tháng xa xôi, chẳng có đao quang kiếm ảnh, nhưng vẫn có thể tái hiện một cuộc vinh hoa Đại Hán, lễ nhạc yến tiệc, ca vũ thênh thang trong những bức tranh trên gạch nung thời Hán.
Quất ngựa tung vó bụi mù, bánh xe của lịch sử lăn qua mọi thời đại gió thét mây gào, lăn đến thời thái bình thịnh thế ngày nay. Đường Cầm Đài - một cảnh quan tráng lệ nguy nga, lẽ nào lại không đẹp đẽ hơn, to lớn hơn triều đại trước? Nếu luận về phong cốt, thì hán phong cổ vận choáng ngợp trời cao này đủ khiến người ta si mê. Nếu nói về lãng mạn thì đôi tình nhân mười ngón tay đan vào nhau cùng dạo bước trên con đường lát đá đó nghiễm nhiên chính là Trác Văn Quân và Tư Mã Tương Như năm nào.
Là Cầm Đài của Đại Hán, là Cầm Đài của Trác Văn Quân, cũng là Cầm Đài của Tư Mã Tương Như. Năm xưa, một khúc “Phượng cầu hoàng” đã hé mở tiếng đàn lòng đầy tình cảm, từ đây những người liên quan và cả những người không liên quan nghe thấy đều không bao giờ quên nó. Sự nên thơ đến say đắm lòng người ấy đung đưa qua tuế nguyệt hơn hai nghìn năm, khiến một con đường Cầm Đài dài đằng đẵng vẫn văng vẳng tiếng đàn tao nhã tính tang.
Khi âm luật vang lên miên man, đèn đuốc dưới hiên nhà bên hè phố nhảy hót theo nhịp âm thanh, dường như chúng đang cảm động, cảm động vì sự kiên trinh tâm như trăng sáng, cảm động vì một lời hẹn ước bên nhau đến bạc đầu. Thời gian rất có nghĩa tình, nó bồi đắp những nuối tiếc, giữ lại những hoàn mỹ chân thật, và tiếng sóng vẫn rì rào như xưa trong dòng sông lịch sử.
Nghìn năm đã qua, tại sao tân khách vẫn nườm nượp trên lầu Văn Quân? Vì người ta không quên được tuyệt đại hồng nhan bán rượu trong quán năm xưa, hay không quên được giai thoại phong lưu phượng cầu hoàng thời Hán? Chuyện cũ phong tư tha thướt ấy, giữa những người đã già nua giữa tháng ngày hôm qua. Đều nói đời người như một cái phẩy tay, mà sát na thôi đã có thể biến thành vĩnh hằng. Phong tình Đại Hán còn tiếp diễn đến tận ngày nay, vậy phồn hoa của ngày hôm nay há chẳng phải sẽ tiếp diễn đến ngày sau sao?
Khi tôi đứng trên đường xưa Cầm Đài, ngắm một vùng phong cảnh cẩm tú hoa lệ, ngắm mọi người sinh sống dưới ánh mặt trời. Bỗng nhiên tôi hiểu rằng, khói mây lưu chuyển suốt hai nghìn năm, chúng ta không hề bỏ lỡ thời gian, mà là thời gian bỏ lỡ bản thân nó.
Khúc thứ hai: Tìm chân lý ở phường Văn Thù
Có lẽ, non nước đất Thục thực sự có thể nuôi dưỡng tâm tình nhàn tản. Nếu không tại sao ở Thành Đô, cho dù ngày tháng có vội vã hối hả rối ren đến mấy, cũng vẫn có thể sống rất an nhàn tự tại? Ví như ở phường Văn Thù lúc này, tôi hái một đám mây trắng, có thể nhàn nhã nằm mộng, ngắt một cành lá xanh, có thể tĩnh tâm tham thiền.
Đứng ở đầu phố của phường Văn Thù của Thành Đô, chợt nhìn lên trên, là khói lửa hỗn loạn nhân gian, đến khi lòng lắng xuống, thì rõ ràng đó là sự thanh mát trong sạch của rừng Thiền. Nhân sinh có trăm vị, bước vào phường Văn Thù, là thấy tôi và bạn đã dung hòa hơi thở của phong tục dân gian với cổ vận Thiền Phật như thế nào, hết thảy đều ngâm thành một bình trà trong, nhấp lên mùi vị tuyệt vời.
Ánh nắng mặt trời ở đây mềm mại như tơ, và dệt nên thi ý như mưa bụi, khẽ khàng đậu xuống cõi lòng tôi. Quá trình ấy tựa như hoa nở rồi hoa tàn, trăng khuyết rồi trăng tròn, tình ý lay động lòng người, vĩnh viễn dài lâu như thế.
Vạt áo bay phần phật trong gió, những ngọn đèn ven đường, những thân cây rậm rì xanh ngắt, dòng người đông như mắc cửi, đều cảm thấy hơi ấm của gió - một loại hơi ấm thấm thía, một loại hơi ấm say đắm. Nơi đây hội tụ những tòa kiến trúc phòng cổ, cổ ngoạn châu báu, văn hóa ẩm thực, thủ công dân gian… hết thảy phong tình của Thành Đô xưa. Phương Văn Thù chính là nơi gặp gỡ một cách hài hòa của hiện đại và truyền thống, dân tộc và Thiền cảnh, khiến mỗi người khách qua đường đều bước vào vòng xoáy dịu dàng này, khi bước ra tâm trí đã sáng tỏ trong sạch. Thời gian nơi đây tràn ngập sự ngưỡng mộ ngọt ngào, khi tôi ngưỡng mộ người khác, có lẽ đã có người nào đó cũng đang ngưỡng mộ tôi.
Dọc đường, phong tục nồng đượm và Thiền ý nhàn nhạt tuy lướt qua tôi, nhưng lại hoàn toàn chảy sâu vào lòng người. Đây là cơ duyên khiến mỗi giai khách trời nam bể bắc gặp nhau trên đất Thục, hai bên trao cho nhau nụ cười thân mật, để lại cho nhau những câu chuyện mới mẻ sinh động của chính mình. Ở giữa một nơi dịu dàng thế này, tôi cho rằng, đời người chỉ cần một tia sáng mặt trời là đủ rồi.
Một phong cảnh chân thực, dù là ai cũng muốn lưu giữ lại khoảnh khắc dịu dàng này. Nếu tôi là họa sĩ, nhất định sẽ vẽ lại, nếu tôi là nhà thơ, nhất định sẽ viết lên trang giấy trắng, nếu tôi là nhạc sĩ, nhất định sẽ gửi vào cung đàn, dù là người bình thường, cũng phải cố chấp chụp lại một tấm hình. Đến khi ngày tháng trôi qua, quay lại tưởng nhớ, cảnh trí đã từng gặp gỡ của nơi này vẫn còn trẻ trung như ngày hôm qua, chẳng thay đổi một mảy may nào.
Thật chẳng nỡ rời xa, may mắn là, lòng không cần cách biệt. Nếu vẫn còn có khoảnh khắc bỏ lỡ, thì hãy để cho lòng tôi chìm đắm ở nơi đây, vĩnh viễn trẻ trung, vĩnh viễn tình thơ ý họa.
Đã là kiếm tìm chân lý, thì sẽ không quên được ngôi chùa cổ nghìn năm chỉ cách có một bức tường - Văn Thù Viện. Bây giờ nó tọa lạc ở bờ sông chốn nhân gian phồn hoa, tựa như một khối ngọc cổ bồ đề, chiếu soi cho linh hồn trong vắt của chúng sinh, và cũng chiếu soi cho bức tranh Thanh Minh trời đất và con người hòa hợp.
Khúc thứ ba: Mộng cũ cầu mái
Liệu có người nào vì hoài niệm, mà viết một câu chuyện chưa từng xảy ra thành quá khứ? Như thể đến cầu mái An Thuận của Thành Đô, tôi và nó chưa từng gặp gỡ, nhưng lại muốn tìm một giấc mộng đã lạc mất ở nơi này. Không biết rằng khi tôi khe khẽ bước vào, rốt cuộc là lần đầu gặp gỡ hay là khoảnh khắc trùng phùng?
Cầu mái An Thuận, một cây cầu theo lối cổ điển, tường bao màu xanh, cột màu đỏ, ngói đen hiên cong vút, bình thản cùng với Hợp Giang Đình chiếu rọi lẫn nhau. Dòng sông Phủ Giang dưới chân cầu mải miêt trôi không ngừng nghỉ, lặng lẽ chảy xuyên qua những giỏ mây lịch sử, mưa khói nhân tình của Thành Đô. Rất nhiều người đi qua cầu mái, nhưng những người nhớ đến nó thì thật hiếm hoi. Nơi đây cất giữ vô số những lần quay mình hoa lệ, và còn có cả những cái ngoái nhìn trong veo.
Thân cầu tựa như một dải cầu vồng, nhìn tưởng rất xa, nhưng kỳ thực lại ở rất gần, nó cúi nhìn dòng nước biếc chầm chậm trôi, lại độ lượng trông trời mây thăm thẳm. Cầu mái, cho dù đã được người đời sau chuyên tâm tu sửa, đổi lấy một dung nhan mỹ lệ, nhưng vẫn không giấu được biết bao chuyện cũ tang thương. Không biết Lý Bạch có từng vớt trăng sáng ở đây, Đỗ Phủ có chống chèo nhìn xa dưới chân cầu, Lý Thương Ẩn có ngâm vịnh mưa đêm Ba Sơn nơi này, và dòng sông này có tương thông với linh hồn suối Hoán Hoa của Tiết Đào hay không?
Cầu mái là nơi xây mộng, chúng ta có thể gửi mơ ước của mình vào nơi đây, chuyển qua mấy năm xuân thu, lại đên đây để tìm về giấc mộng. Mà trong mộng đã ủ một loại hương thơm ngàn năm. Người đi qua cầu mái đã tìm thấy giấc mộng của mình ở nơi này, đến phút cuối, vẫn là lựa chọn ly biệt trong nụ cười mỉm, bởi vì ra đi, là để lại có thêm một lần tụ hội trong nước mắt đong đầy. Như thuyền bè trôi nổi dưới chân cầu, có lẽ chúng ta đã từng đậu lại, nhưng vẫn phải chèo thuyền rẽ sóng nước mênh mang, để đối diện với mây sớm mưa chiều.
Chính vận mệnh đã in những dấu ấn đậm nhạt khác nhau trên cầu mái, lại truyền sự ấm lạnh cho mỗi người đi đường. Ở nơi này, họ đã từng yêu sâu sắc, khắc cốt ghi tâm những gì đã từng có. Khi ấy, họ vẫn trên cầu, ngắm én chao như dao cắt, nhìn ánh xuân tựa năm xưa, ngắm vịnh hoa nơi nhân thế dần lùi xa.
Thời gian quả thật trôi qua vội vã, chính trong khoảnh khắc chúng ta trầm tư, chớp mắt thôi mà đã đèn đuốc sáng trưng. Lúc này, cầu mái trong màn đêm đã nhạt dần vẻ thanh nhã tự nhiên, mà trở thành một tòa cung khuyết lung linh sắc màu trên mặt nước. Còn tôi đứng dưới bầu trời sao lấp lánh, cảm nhận một sự tĩnh mịch lặng yên đến xa vời. Có lẽ sẽ có một ngày, cầu mái cũng già đi, nhưng dòng Phủ Nam chảy dưới chân cầu vẫn lặng lẽ đợi chờ một giấc mộng xưa về cầu mái quay về, trong ký ức già nua của nó.
Ngắm qua ngàn vạn phong cảnh, Thành Đô giờ đây vẫn chỉ là gió thoảng mây trôi. Dưới ánh chiều bàng bạc, nó không một chút mỏi mệt, mà vẫn tỏa ra mây khói nhàn nhạt lững lờ. Không cần vì một chút xúc động mà cố chấp đợi chờ, bởi vì, thời gian của Thành Đô vĩnh viễn thanh đạm nhàn tản. Ly biệt của ngày hôm nay, hà tất phải để lại sự bồi hồi lưu luyến? Sát na mà tôi quay người đi, một đóa phù dung tao nhã đã từ từ hé nở trong tim.
Luôn ngỡ rằng, đô thị được gọi là “Thiên phủ chi thành” (thành phố thiên đường) - Thành Đô rất xa xôi. Khi tôi đến đây, mới hay rằng, kỳ thực khoảng cách đó chẳng qua chỉ là một chặng non xanh nước biếc. Nơi đây còn được gọi là Dung Thành, đó không phải mỹ nhân như hoa, xa tít tận tầng mây mịt mù; cũng chẳng phải là trăng sáng mênh mang, rơi tận sâu đáy nước trong vắt. Mà là một vùng khói lửa dịu mềm, lãng đãng trong những đường ngõ thơ mộng, chảy trôi trên đường Đàn Đài cổ kính, bao trùm trên những cầu mái xây mộng. Thời gian của Thành Đô sẽ không quay cuồng ca múa, mà nó lặng lẽ đậu trên từng cành cây, ngâm trong từng ly trà. Tôi là cô gái giản dị đó, nhàn tản dạo bước ở Thành Đô, cùng Thành Đô đi một đoạn tháng năm thơm nồng.
Khúc thứ nhất: Nếp cổ Cầm Đài
Ngồi trên một chiếc xe ngựa thời Hán, lần theo một làn điệu sinh động, hoặc đi theo một làn gió mát trong lành, là có thể đến được Cầm Đài của Thục Trung. Đứng trên đường Cầm Đài mới phát hiện ra, tôi giống như một người lữ khách hiện đại nhớ nhà, mà quên mất mặc bộ Hán phục phấp phới. Mà đường cũ Cầm Đài không phải là đường phố thời Hán, chỉ là thời đại Đại Hán đã đánh rớt một phong cảnh, treo một bức cổ họa nơi đây.
Tôi nghĩ, mưa khói của hơn hai nghìn năm trước trôi đi, cái còn lưu lại hẳn là tinh túy nhân văn như thế nào? Thời gian hơn hai nghìn năm mài mòn, cái bị cất giấu hẳn là báu vật bút mực ra sao? Không có năm tháng xa xôi, chẳng có đao quang kiếm ảnh, nhưng vẫn có thể tái hiện một cuộc vinh hoa Đại Hán, lễ nhạc yến tiệc, ca vũ thênh thang trong những bức tranh trên gạch nung thời Hán.
Quất ngựa tung vó bụi mù, bánh xe của lịch sử lăn qua mọi thời đại gió thét mây gào, lăn đến thời thái bình thịnh thế ngày nay. Đường Cầm Đài - một cảnh quan tráng lệ nguy nga, lẽ nào lại không đẹp đẽ hơn, to lớn hơn triều đại trước? Nếu luận về phong cốt, thì hán phong cổ vận choáng ngợp trời cao này đủ khiến người ta si mê. Nếu nói về lãng mạn thì đôi tình nhân mười ngón tay đan vào nhau cùng dạo bước trên con đường lát đá đó nghiễm nhiên chính là Trác Văn Quân và Tư Mã Tương Như năm nào.
Là Cầm Đài của Đại Hán, là Cầm Đài của Trác Văn Quân, cũng là Cầm Đài của Tư Mã Tương Như. Năm xưa, một khúc “Phượng cầu hoàng” đã hé mở tiếng đàn lòng đầy tình cảm, từ đây những người liên quan và cả những người không liên quan nghe thấy đều không bao giờ quên nó. Sự nên thơ đến say đắm lòng người ấy đung đưa qua tuế nguyệt hơn hai nghìn năm, khiến một con đường Cầm Đài dài đằng đẵng vẫn văng vẳng tiếng đàn tao nhã tính tang.
Khi âm luật vang lên miên man, đèn đuốc dưới hiên nhà bên hè phố nhảy hót theo nhịp âm thanh, dường như chúng đang cảm động, cảm động vì sự kiên trinh tâm như trăng sáng, cảm động vì một lời hẹn ước bên nhau đến bạc đầu. Thời gian rất có nghĩa tình, nó bồi đắp những nuối tiếc, giữ lại những hoàn mỹ chân thật, và tiếng sóng vẫn rì rào như xưa trong dòng sông lịch sử.
Nghìn năm đã qua, tại sao tân khách vẫn nườm nượp trên lầu Văn Quân? Vì người ta không quên được tuyệt đại hồng nhan bán rượu trong quán năm xưa, hay không quên được giai thoại phong lưu phượng cầu hoàng thời Hán? Chuyện cũ phong tư tha thướt ấy, giữa những người đã già nua giữa tháng ngày hôm qua. Đều nói đời người như một cái phẩy tay, mà sát na thôi đã có thể biến thành vĩnh hằng. Phong tình Đại Hán còn tiếp diễn đến tận ngày nay, vậy phồn hoa của ngày hôm nay há chẳng phải sẽ tiếp diễn đến ngày sau sao?
Khi tôi đứng trên đường xưa Cầm Đài, ngắm một vùng phong cảnh cẩm tú hoa lệ, ngắm mọi người sinh sống dưới ánh mặt trời. Bỗng nhiên tôi hiểu rằng, khói mây lưu chuyển suốt hai nghìn năm, chúng ta không hề bỏ lỡ thời gian, mà là thời gian bỏ lỡ bản thân nó.
Khúc thứ hai: Tìm chân lý ở phường Văn Thù
Có lẽ, non nước đất Thục thực sự có thể nuôi dưỡng tâm tình nhàn tản. Nếu không tại sao ở Thành Đô, cho dù ngày tháng có vội vã hối hả rối ren đến mấy, cũng vẫn có thể sống rất an nhàn tự tại? Ví như ở phường Văn Thù lúc này, tôi hái một đám mây trắng, có thể nhàn nhã nằm mộng, ngắt một cành lá xanh, có thể tĩnh tâm tham thiền.
Đứng ở đầu phố của phường Văn Thù của Thành Đô, chợt nhìn lên trên, là khói lửa hỗn loạn nhân gian, đến khi lòng lắng xuống, thì rõ ràng đó là sự thanh mát trong sạch của rừng Thiền. Nhân sinh có trăm vị, bước vào phường Văn Thù, là thấy tôi và bạn đã dung hòa hơi thở của phong tục dân gian với cổ vận Thiền Phật như thế nào, hết thảy đều ngâm thành một bình trà trong, nhấp lên mùi vị tuyệt vời.
Ánh nắng mặt trời ở đây mềm mại như tơ, và dệt nên thi ý như mưa bụi, khẽ khàng đậu xuống cõi lòng tôi. Quá trình ấy tựa như hoa nở rồi hoa tàn, trăng khuyết rồi trăng tròn, tình ý lay động lòng người, vĩnh viễn dài lâu như thế.
Vạt áo bay phần phật trong gió, những ngọn đèn ven đường, những thân cây rậm rì xanh ngắt, dòng người đông như mắc cửi, đều cảm thấy hơi ấm của gió - một loại hơi ấm thấm thía, một loại hơi ấm say đắm. Nơi đây hội tụ những tòa kiến trúc phòng cổ, cổ ngoạn châu báu, văn hóa ẩm thực, thủ công dân gian… hết thảy phong tình của Thành Đô xưa. Phương Văn Thù chính là nơi gặp gỡ một cách hài hòa của hiện đại và truyền thống, dân tộc và Thiền cảnh, khiến mỗi người khách qua đường đều bước vào vòng xoáy dịu dàng này, khi bước ra tâm trí đã sáng tỏ trong sạch. Thời gian nơi đây tràn ngập sự ngưỡng mộ ngọt ngào, khi tôi ngưỡng mộ người khác, có lẽ đã có người nào đó cũng đang ngưỡng mộ tôi.
Dọc đường, phong tục nồng đượm và Thiền ý nhàn nhạt tuy lướt qua tôi, nhưng lại hoàn toàn chảy sâu vào lòng người. Đây là cơ duyên khiến mỗi giai khách trời nam bể bắc gặp nhau trên đất Thục, hai bên trao cho nhau nụ cười thân mật, để lại cho nhau những câu chuyện mới mẻ sinh động của chính mình. Ở giữa một nơi dịu dàng thế này, tôi cho rằng, đời người chỉ cần một tia sáng mặt trời là đủ rồi.
Một phong cảnh chân thực, dù là ai cũng muốn lưu giữ lại khoảnh khắc dịu dàng này. Nếu tôi là họa sĩ, nhất định sẽ vẽ lại, nếu tôi là nhà thơ, nhất định sẽ viết lên trang giấy trắng, nếu tôi là nhạc sĩ, nhất định sẽ gửi vào cung đàn, dù là người bình thường, cũng phải cố chấp chụp lại một tấm hình. Đến khi ngày tháng trôi qua, quay lại tưởng nhớ, cảnh trí đã từng gặp gỡ của nơi này vẫn còn trẻ trung như ngày hôm qua, chẳng thay đổi một mảy may nào.
Thật chẳng nỡ rời xa, may mắn là, lòng không cần cách biệt. Nếu vẫn còn có khoảnh khắc bỏ lỡ, thì hãy để cho lòng tôi chìm đắm ở nơi đây, vĩnh viễn trẻ trung, vĩnh viễn tình thơ ý họa.
Đã là kiếm tìm chân lý, thì sẽ không quên được ngôi chùa cổ nghìn năm chỉ cách có một bức tường - Văn Thù Viện. Bây giờ nó tọa lạc ở bờ sông chốn nhân gian phồn hoa, tựa như một khối ngọc cổ bồ đề, chiếu soi cho linh hồn trong vắt của chúng sinh, và cũng chiếu soi cho bức tranh Thanh Minh trời đất và con người hòa hợp.
Khúc thứ ba: Mộng cũ cầu mái
Liệu có người nào vì hoài niệm, mà viết một câu chuyện chưa từng xảy ra thành quá khứ? Như thể đến cầu mái An Thuận của Thành Đô, tôi và nó chưa từng gặp gỡ, nhưng lại muốn tìm một giấc mộng đã lạc mất ở nơi này. Không biết rằng khi tôi khe khẽ bước vào, rốt cuộc là lần đầu gặp gỡ hay là khoảnh khắc trùng phùng?
Cầu mái An Thuận, một cây cầu theo lối cổ điển, tường bao màu xanh, cột màu đỏ, ngói đen hiên cong vút, bình thản cùng với Hợp Giang Đình chiếu rọi lẫn nhau. Dòng sông Phủ Giang dưới chân cầu mải miêt trôi không ngừng nghỉ, lặng lẽ chảy xuyên qua những giỏ mây lịch sử, mưa khói nhân tình của Thành Đô. Rất nhiều người đi qua cầu mái, nhưng những người nhớ đến nó thì thật hiếm hoi. Nơi đây cất giữ vô số những lần quay mình hoa lệ, và còn có cả những cái ngoái nhìn trong veo.
Thân cầu tựa như một dải cầu vồng, nhìn tưởng rất xa, nhưng kỳ thực lại ở rất gần, nó cúi nhìn dòng nước biếc chầm chậm trôi, lại độ lượng trông trời mây thăm thẳm. Cầu mái, cho dù đã được người đời sau chuyên tâm tu sửa, đổi lấy một dung nhan mỹ lệ, nhưng vẫn không giấu được biết bao chuyện cũ tang thương. Không biết Lý Bạch có từng vớt trăng sáng ở đây, Đỗ Phủ có chống chèo nhìn xa dưới chân cầu, Lý Thương Ẩn có ngâm vịnh mưa đêm Ba Sơn nơi này, và dòng sông này có tương thông với linh hồn suối Hoán Hoa của Tiết Đào hay không?
Cầu mái là nơi xây mộng, chúng ta có thể gửi mơ ước của mình vào nơi đây, chuyển qua mấy năm xuân thu, lại đên đây để tìm về giấc mộng. Mà trong mộng đã ủ một loại hương thơm ngàn năm. Người đi qua cầu mái đã tìm thấy giấc mộng của mình ở nơi này, đến phút cuối, vẫn là lựa chọn ly biệt trong nụ cười mỉm, bởi vì ra đi, là để lại có thêm một lần tụ hội trong nước mắt đong đầy. Như thuyền bè trôi nổi dưới chân cầu, có lẽ chúng ta đã từng đậu lại, nhưng vẫn phải chèo thuyền rẽ sóng nước mênh mang, để đối diện với mây sớm mưa chiều.
Chính vận mệnh đã in những dấu ấn đậm nhạt khác nhau trên cầu mái, lại truyền sự ấm lạnh cho mỗi người đi đường. Ở nơi này, họ đã từng yêu sâu sắc, khắc cốt ghi tâm những gì đã từng có. Khi ấy, họ vẫn trên cầu, ngắm én chao như dao cắt, nhìn ánh xuân tựa năm xưa, ngắm vịnh hoa nơi nhân thế dần lùi xa.
Thời gian quả thật trôi qua vội vã, chính trong khoảnh khắc chúng ta trầm tư, chớp mắt thôi mà đã đèn đuốc sáng trưng. Lúc này, cầu mái trong màn đêm đã nhạt dần vẻ thanh nhã tự nhiên, mà trở thành một tòa cung khuyết lung linh sắc màu trên mặt nước. Còn tôi đứng dưới bầu trời sao lấp lánh, cảm nhận một sự tĩnh mịch lặng yên đến xa vời. Có lẽ sẽ có một ngày, cầu mái cũng già đi, nhưng dòng Phủ Nam chảy dưới chân cầu vẫn lặng lẽ đợi chờ một giấc mộng xưa về cầu mái quay về, trong ký ức già nua của nó.
Ngắm qua ngàn vạn phong cảnh, Thành Đô giờ đây vẫn chỉ là gió thoảng mây trôi. Dưới ánh chiều bàng bạc, nó không một chút mỏi mệt, mà vẫn tỏa ra mây khói nhàn nhạt lững lờ. Không cần vì một chút xúc động mà cố chấp đợi chờ, bởi vì, thời gian của Thành Đô vĩnh viễn thanh đạm nhàn tản. Ly biệt của ngày hôm nay, hà tất phải để lại sự bồi hồi lưu luyến? Sát na mà tôi quay người đi, một đóa phù dung tao nhã đã từ từ hé nở trong tim.
Mây khói thảo đường
Vốn cho rằng chỉ có sinh ra vào triều Đường, phải đầy bụng thơ văn, hơn nữa phải có cơ duyên mới có thể đến được thảo đường[4] của Đỗ Phủ. Nhưng nghìn năm sau, tôi không hề gõ cửa, mà cánh cửa của thảo đường tự mở đón chào tôi. Mang theo lòng thành kính là có thể thoải mái bước qua ngưỡng cửa đó, cùng thảo đường trải qua thời gian một ngày, cùng chung một nỗi tâm sự.
[4] Nhà đọc sách, trai phòng của các thi nhân, văn nhân được gọi là thảo đường.
Thả bước giữa một vùng phong cảnh u tĩnh, thảo đường mộc mạc cổ kính này tựa như chất chứa ký ức lịch sử sâu xa, nhưng cũng cơ hồ như chẳng có điều gì, chỉ là ngày tháng mênh mang như nước. Giờ đây, tôi nhìn thấy một đám mây trắng đang mỉm cười, trong bụi cỏ còn có một chú dê đang rỉ rả kêu.
Mây trôi qua nghìn năm, câu chuyện cũ đất Thục Trung đã sạch trơn mây khói. Trúc biếc rợp bóng con đường lát đá, tôi đi ngang qua, chỉ nhìn thấy chiếc bóng của thời gian. Sự yên lặng xa thẳm của nơi đây, tuy ở bên ngoài nhân thế, nhưng thanh nhã thoát tục, nghiễm nhiên là chốn cố hương của những linh hồn đau khổ. Năm đó, Đỗ Công Bộ [5] vì tránh loạn An Sử, dời nhà đến đất Thục, dựng thảo đường ở Thành Đô. Ông tỉnh dậy sau một giấc mộng tan nát, mặc dầu hơi ấm trên giường vẫn còn đó, nhưng câu chuyện trong mộng đã nguội lạnh. Ông mang theo tráng chí ngút trời “Hội đương lăng tuyệt đỉnh, nhất lãm chúng sơn tiều” (Lên chóp đỉnh mà trông, lè tè muôn núi dưới [6]) lặn lội đến Trường An, nhưng không biết rằng thời cơ đã muộn, màn kịch lớn xuân thu đinh thịnh của triều Đường đã gần đi đến hồi kết.
[5] Đỗ Công Bộ: Một tên gọi khác của Thi thánh Đỗ Phủ.
[6] Trích bài “Vọng nhạc” kỳ nhất của Đỗ Phủ, Khương Hữu Dụng dịch.
Dù cho người đẹp như mây tụ hội bên dòng Khúc Giang, khách thơ chật chỗ trong các quán rượu Trường An, vòng hoa trước trán quý phi vẫn lóng lánh chói mắt, nhưng thiên tử Đại Đường đã không còn chói lọi vạn trượng như năm nào. Một thân ngựa gầy cõng lý tưởng và gánh nặng nặng trĩu, đến bụi trần cũng không thể phủi đi được. Cửa nhà quan đóng kín im im, khiến bạn thấm thía cái lạnh lẽo “Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy.” (Nào lọng che nào mũ đội đầy rẫy khắp kinh đô, sao người ấy bơ phờ riêng một kiếp [7]) Trường An liễu biếc oanh kêu, Trường An vàng son rực rỡ, ngươi thỏa mãn tâm nguyện hùng vĩ của biết bao nam nhi tan nát như tro tàn.
[7] Trích bài “Mộng Lý Bạch”, kỳ nhị của Đỗ Phủ, Trần Tuấn Khải dịch.
Cho dù không cam tâm biết mấy, nhưng đối diện với sự chìm đắm của vận mệnh, sự thất thủ của Trường An, ông chỉ có thể vứt bỏ danh vọng cao chạy xa bay, say mèm quay về đất Thục, lạc phách trở về đồng hoang. Ông không thể như Trích tiên khách (Lý Bạch), tuy giấc mộng Trường An tan vỡ, vẫn có thể du hiệp giang hồ, tự do bay nhảy; có thể cưỡi mây cưỡi gió, cúi nhìn trận chiến tranh này. Cũng chẳng thể như Đào Tiềm, kinh qua chìm nổi quan trường, rốt cuộc quay về quy ẩn Nam Sơn, chỉ làm mấy mẫu ruộng vườn. Thảo đường năm đó - há chẳng phải ngươi đã như vậy hay sao?
Rừng trúc sâu thẳm, cửa gỗ khép hờ, ngòi bút gầy guộc của ông vẫn từng nét từng đường khắc lên những áng thơ trang trọng của lịch sử. Căn nhà tranh thô lậu đơn sơ này, sao có thể gánh được đại sự thiên hạ, oán hận quốc gia mênh mông đó? Ông hy vọng thảo đường này có thể trở thành lâu đài thênh thang, có thể che chở cho hàn sĩ thiên hạ, muôn vàn bách tính. Thế nhưng phong hoa thịnh thế của Đại Đường, đã như nước chảy về đông, đường xưa dấu cũ của Trường An, đã càng ngày càng lùi xa.
Ông ngâm rằng “Bạch nhật phóng ca tu túng tửu, thanh xuân tác bạn hảo hoàn hương” (Ngày đẹp hát ngao thì chuốc rượu, trời xuân theo bước thẳng về làng [8]) thì cớ sao không từ bỏ được giang sơn cô tịch, ngao du trời mây vạn dặm? Đã biết “Văn chương tăng mệnh đạt” (Văn chương ghét mệnh đạt [9]), lại cớ sao không từ bỏ được công danh bút mực, vẫn lưu luyến nhiệt huyết anh hùng? Vị thánh thi tài rạng thiên cổ, tâm xót muôn dân này ắt hẳn không quên nổi ngày hôm qua phồn hoa của Trường An, không sống nổi những năm tháng bình dị tầm thường.
[8] Trích bài “Văn quan quân thu Hà Nam, Hà Bắc” của Đỗ Phủ, Doãn Kế Thiện dịch.
[9] Trích bài “Thu nhật hoài Lý Bạch” của Đỗ Phủ, Nam Trân dịch.
Đã sống ở thảo đường nhưng hào tình chẳng dứt, không chịu cầu an trong hơi men, say ngủ trước sân. Dưới ánh đèn xanh lờ mờ, ông khoác áo ngồi trông, chống tay ngắm sóng mây, bút đưa ngang ý thu dào dạt, văn thơ thành vạn quyển. Cửa sài [10] lúc chiều bảng lảng, có thể nhìn hết những gì tuyệt diễm chốn nhân gian, vầng mặt trời sắp lặn đó, còn có thể thắp sáng cuộc đời gió táp mưa vùi của ông không?
[10] Cửa sài: Cửa làm bằng tre, nứa, ám chỉ nhà nghèo.
Hải âu bị chặt cánh, không thể tự do bay vút tầng không; tướng sĩ cởi bỏ chiến bào, không thể rong ruổi cưỡi ngựa biên cương. Chỉ đưa cho ông một chiến thuyền, là tìm đến chốn về sâu thẳm ở chân trời góc bể. Thảo đường nhà tranh, tuy đơn sơ, nhưng cũng có phong cốt riêng của nó. Đỗ Công Bộ lúc này không còn ngựa khỏe vút phi, khí ngạo tâm cuồng, ý chí xung thiên như thời niên thiếu, mà chỉ là một ông già tóc đã điểm sương, thân hình gầy yếu.
Có lẽ là thời gian mềm dịu của Thành Đô, cảnh xuân tươi sáng của thảo đường dần dần đã xoa dịu những nếp nhăn tang thương trong đáy lòng ông, nếu không, sao ông có thể đứng bên bờ suối Hoán Hoa ngâm vịnh những dòng thơ thanh tân “Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu, nhất hàng bạch lộ hướng thanh thiên” (Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc, một hàng cò trắng vút trời xanh [11]) đến vậy? Thả bước lên bờ suối xanh trong của thảo đường, dường như còn nhìn thấy bóng dáng dựa lan can buông cần mà say ngủ năm xưa của Đỗ Phủ. Cây cầu đá mưa khói đó, có ai đã bẻ cành mai bước qua, bỏ lỡ mây trắng tựa tuyết, lại phụ trăng sáng tùng thấp, chỉ vì lưu lại chút hương lạnh cách tuyệt thế gian này.
[11] Trích bài “Tuyệt cú” của Đỗ Phủ, Tản Đà dịch.
Suối lượn quanh co như số phận chìm nổi lênh đênh của thi nhân. Đôi tay buông cần câu được nước biếc, câu được mây nhàn, nhưng vẫn không bỏ được cây bút lớn, tấm lòng kinh bang tế thế không hề suy giảm so với năm nào. Chính ở thảo đường thanh u này, chính trong thời gian ẩn dật này, sáng tác thơ ca của Đỗ Phủ lại ào ạt như sông lớn, cuốn rôi gió mây lịch sử, rúng động lòng dân xã hội. Bút mực dạt dào, thấu triệt như đầm sâu, soi chiếu vạn vật sơn hà, muôn cảnh sinh linh, nhưng khó có thể nghịch chuyển càn khôn trong một vùng đất đai cằn cỗi, khó có thể níu giữ sóng cả bên vách núi hiểm trở cheo leo.
Biết bao lần khi màn đêm ập xuống, mỗi lần khêu đèn thắp sáng, chỉ vì đợi chờ một bình minh không còn xa xôi. Trong những tháng ngày mờ mờ tỏ tỏ ở thảo đường, ông không quên được hào tình mở miệng ra là ngâm vịnh phượng hoàng năm xưa, không quên được chí hướng “Trí quân Nghiêu Thuấn thượng.” (Giúp vua vượt Nghiêu Thuấn [12]) Cho dù cả đời không thể quay về Trường An lần nữa, ông cũng không chịu bỏ lỡ ngày tháng, trễ tràng xuân thu. Chỉ có ở nhà tranh thảo đường này, đem sinh mệnh đơn sơ, nghiên mài thành hương thơm của mực, để cho dân chúng thiên hạ cùng nếm thưởng nhân sinh trăm vị.
[12] Trích bài “Phụng tặng Vi tả thừa thập nhị trượng vận” của Đỗ Phủ, Nhượng Tống dịch.
Dưới bóng cây cổ thụ xanh tốt, nhà tranh giậu trúc trước mắt, suối chảy bao quanh, thật mát mẻ, đơn sơ không gì sánh được. Tuy biết rằng đây không phải là mấy gian nhà tranh trong bài “Mao ốc vị thu phong sở phá ca” (Bài ca về ngôi nhà tranh bị gió thu tốc) nổi tiếng của Đỗ Phủ, nhưng lại quá đỗi thân quen. Ví như ngôi nhà tranh này xây ở nơi khác, cùng là ngọn cỏ cành cây ấy, nhưng không thể ấp ủ ra mùi vị như ở nơi đây. Bởi vì nơi này toát lên một phong vận rơi rớt lại từ thời Đường, chỉ có ở thảo đường của Đỗ Phủ, nhà tranh của Thi thánh, mới có thể lĩnh ngộ được cảnh giới cao thượng “Anh đắc quảng hạ thiên vạn gian, Đại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan” (Ước được nhà rộng muôn ngàn gian, khắp thiên hạ, kẻ sĩ nghèo đều hân hoan[13]), thấu hiểu được nỗi lòng rộng lớn thương xót thế gian của Đỗ Phủ. Sau cơn kinh tâm động phách, là một vùng yên tĩnh trúc biếc gió trong. Cảnh tượng điền viên thư thái: sân rào, vườn rau, giếng cổ, bàn đá… tuy chưa từng thấy, nhưng tựa như đã quen biết từ ngàn năm.
[13] Trích bài “Mao ốc vị thu phong sở phá ca” của Đỗ Phủ, Khương Hữu Dụng dịch.
“Hoa kinh bất tằng duyên khách tảo, bồng mông kim thủy vị quân khai.” (Chưa vì khách quét lối hoa, cửa bồng nay mới mở ra vì người[14]) Nhìn xuyên qua cánh cửa sổ bằng gỗ giản dị, bên trong hết sức thô mộc, tĩnh mịch. Ở thảo đường cách xa phiền lo sầu muộn này, nghìn năm trước chắc chắn đã từng có một bức tranh an nhàn tĩnh lặng như thế. Đỗ Phủ và người bạn cũ Nghiêm Vũ ngồi uống rượu trước bàn, người vợ già của ông đang hâm rượu bên lò, đứa con gái nhỏ đang dựa lan can buông cần câu cá.
[14] Trích bài “Khách chi” của Đỗ Phủ, Trần Trọng San dịch.
Lá chuối cuộn tròn, bóng trúc đung đưa, còn có một chú ve thu quên cả ca hát, chỉ mải ngắm họ đối ẩm vui cười. Mà tôi lúc bấy giờ, chỉ nguyện làm ông cụ hàng xóm của thảo đường, lụ khụ chống gậy tre, đeo một bình rượu cũ, khẽ gõ cửa sài, nói rằng: Lão hủ mang theo bình rượu lâu năm, cùng uống mấy chén, có được không? Thảo đường lúc này ngừng hết lại mọi lời than thở. Còn giấc mộng xưa Trường An của Thi thánh, cũng ngả nghiêng trong ly rượu, say mãi không tỉnh.
Rốt cuộc thảo đường vẫn không thể là mái ấm của cuộc đời Đỗ Công Bộ, ông trước sau vẫn thuộc về nhân gian khói lửa chiến tranh liên miên, đã định sẵn kết cục như cỏ bồng phiêu bạt. Ông đi rồi, mang theo trái tim lo lắng cho bách tính lê dân, rời xa khói thảo đường thô lậu này. Không biết, chuyến đi đó có phải là con đường nhỏ tường đỏ ngõ hẹp, trúc rợp lối đi này không? Không biết, dòng nước bèo trôi lãng đãng năm đó, đã già đi biết mấy tháng năm?
Chỉ là chuyến đi này sẽ không thể nào quay lại, còn thảo đường sẽ trở thành cố hương vĩnh viễn cho linh hồn ông. Cho dù là nghìn năm sau, hoặc trải qua nghìn năm nữa, những người đến đây, hoặc là những người chưa từng đến, đều biết rằng, ở thảo đương của Thành Đô đã từng có một vị Thi thánh ở đây, tên người ấy là Đỗ Phủ.
Tạm biệt một ngày vội vã trong thảo đường. Hãy nhớ rằng, cửa sài cùng uống rượu hoa mai, chân trời góc bể hỏi anh đường về.
Thảo đường Hoán Hoa Là máy cành lau chim én ngậm mang về thời Đường.
Là một đoạn ký ức thời gian từ nghìn năm lướt qua
Thảo đường bên suối Hoán Hoa
Đã sớm được Thi thánh Đỗ Phủ
Viết thành một tập thơ giản dị
Đường hoa, cửa gỗ, đập nước, cầu đá
Phong cảnh mộc mạc biết bao
Đủ để an ủi trái tim sinh chẳng gặp thời
Giậu trúc nhà tranh
Mở toang nỗi lòng mênh mông
Chở che cho muôn ngàn hàn sĩ
Non nước nhàn tản của Thành Đô khi ấy
Đẹp hơn mộng tưởng huy hoàng của Trường An
Có thế dạy mây trắng buông cần câu cá
Có Thế Âmời hoa mai nâng chén đối ẩm
Trên chiếc bàn sạch sẽ
Bày một ly rượu nồng người vợ già đã hâm
Bên lan can cũ kỹ
Thả chiếc cần câu của người và con nhỏ
Trên bàn cờ
Còn một ván cờ dang dở
Của người và bạn hữu năm nào
Nghìn năm trước
Thảo đường Thành Đô là thế
Nghìn năm sau
Thảo đường Thành Đô vẫn thế
Cho dù thi nhân đến đây
Hay là đã đi
Thảo đường vẫn mãi là cố hương của linh hồn người
Cho dù là người tha phương quay về
Hay là lữ khách
Cánh cửa ấy
Trước sau vẫn mở rộng đón người
Vốn cho rằng chỉ có sinh ra vào triều Đường, phải đầy bụng thơ văn, hơn nữa phải có cơ duyên mới có thể đến được thảo đường[4] của Đỗ Phủ. Nhưng nghìn năm sau, tôi không hề gõ cửa, mà cánh cửa của thảo đường tự mở đón chào tôi. Mang theo lòng thành kính là có thể thoải mái bước qua ngưỡng cửa đó, cùng thảo đường trải qua thời gian một ngày, cùng chung một nỗi tâm sự.
[4] Nhà đọc sách, trai phòng của các thi nhân, văn nhân được gọi là thảo đường.
Thả bước giữa một vùng phong cảnh u tĩnh, thảo đường mộc mạc cổ kính này tựa như chất chứa ký ức lịch sử sâu xa, nhưng cũng cơ hồ như chẳng có điều gì, chỉ là ngày tháng mênh mang như nước. Giờ đây, tôi nhìn thấy một đám mây trắng đang mỉm cười, trong bụi cỏ còn có một chú dê đang rỉ rả kêu.
Mây trôi qua nghìn năm, câu chuyện cũ đất Thục Trung đã sạch trơn mây khói. Trúc biếc rợp bóng con đường lát đá, tôi đi ngang qua, chỉ nhìn thấy chiếc bóng của thời gian. Sự yên lặng xa thẳm của nơi đây, tuy ở bên ngoài nhân thế, nhưng thanh nhã thoát tục, nghiễm nhiên là chốn cố hương của những linh hồn đau khổ. Năm đó, Đỗ Công Bộ [5] vì tránh loạn An Sử, dời nhà đến đất Thục, dựng thảo đường ở Thành Đô. Ông tỉnh dậy sau một giấc mộng tan nát, mặc dầu hơi ấm trên giường vẫn còn đó, nhưng câu chuyện trong mộng đã nguội lạnh. Ông mang theo tráng chí ngút trời “Hội đương lăng tuyệt đỉnh, nhất lãm chúng sơn tiều” (Lên chóp đỉnh mà trông, lè tè muôn núi dưới [6]) lặn lội đến Trường An, nhưng không biết rằng thời cơ đã muộn, màn kịch lớn xuân thu đinh thịnh của triều Đường đã gần đi đến hồi kết.
[5] Đỗ Công Bộ: Một tên gọi khác của Thi thánh Đỗ Phủ.
[6] Trích bài “Vọng nhạc” kỳ nhất của Đỗ Phủ, Khương Hữu Dụng dịch.
Dù cho người đẹp như mây tụ hội bên dòng Khúc Giang, khách thơ chật chỗ trong các quán rượu Trường An, vòng hoa trước trán quý phi vẫn lóng lánh chói mắt, nhưng thiên tử Đại Đường đã không còn chói lọi vạn trượng như năm nào. Một thân ngựa gầy cõng lý tưởng và gánh nặng nặng trĩu, đến bụi trần cũng không thể phủi đi được. Cửa nhà quan đóng kín im im, khiến bạn thấm thía cái lạnh lẽo “Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy.” (Nào lọng che nào mũ đội đầy rẫy khắp kinh đô, sao người ấy bơ phờ riêng một kiếp [7]) Trường An liễu biếc oanh kêu, Trường An vàng son rực rỡ, ngươi thỏa mãn tâm nguyện hùng vĩ của biết bao nam nhi tan nát như tro tàn.
[7] Trích bài “Mộng Lý Bạch”, kỳ nhị của Đỗ Phủ, Trần Tuấn Khải dịch.
Cho dù không cam tâm biết mấy, nhưng đối diện với sự chìm đắm của vận mệnh, sự thất thủ của Trường An, ông chỉ có thể vứt bỏ danh vọng cao chạy xa bay, say mèm quay về đất Thục, lạc phách trở về đồng hoang. Ông không thể như Trích tiên khách (Lý Bạch), tuy giấc mộng Trường An tan vỡ, vẫn có thể du hiệp giang hồ, tự do bay nhảy; có thể cưỡi mây cưỡi gió, cúi nhìn trận chiến tranh này. Cũng chẳng thể như Đào Tiềm, kinh qua chìm nổi quan trường, rốt cuộc quay về quy ẩn Nam Sơn, chỉ làm mấy mẫu ruộng vườn. Thảo đường năm đó - há chẳng phải ngươi đã như vậy hay sao?
Rừng trúc sâu thẳm, cửa gỗ khép hờ, ngòi bút gầy guộc của ông vẫn từng nét từng đường khắc lên những áng thơ trang trọng của lịch sử. Căn nhà tranh thô lậu đơn sơ này, sao có thể gánh được đại sự thiên hạ, oán hận quốc gia mênh mông đó? Ông hy vọng thảo đường này có thể trở thành lâu đài thênh thang, có thể che chở cho hàn sĩ thiên hạ, muôn vàn bách tính. Thế nhưng phong hoa thịnh thế của Đại Đường, đã như nước chảy về đông, đường xưa dấu cũ của Trường An, đã càng ngày càng lùi xa.
Ông ngâm rằng “Bạch nhật phóng ca tu túng tửu, thanh xuân tác bạn hảo hoàn hương” (Ngày đẹp hát ngao thì chuốc rượu, trời xuân theo bước thẳng về làng [8]) thì cớ sao không từ bỏ được giang sơn cô tịch, ngao du trời mây vạn dặm? Đã biết “Văn chương tăng mệnh đạt” (Văn chương ghét mệnh đạt [9]), lại cớ sao không từ bỏ được công danh bút mực, vẫn lưu luyến nhiệt huyết anh hùng? Vị thánh thi tài rạng thiên cổ, tâm xót muôn dân này ắt hẳn không quên nổi ngày hôm qua phồn hoa của Trường An, không sống nổi những năm tháng bình dị tầm thường.
[8] Trích bài “Văn quan quân thu Hà Nam, Hà Bắc” của Đỗ Phủ, Doãn Kế Thiện dịch.
[9] Trích bài “Thu nhật hoài Lý Bạch” của Đỗ Phủ, Nam Trân dịch.
Đã sống ở thảo đường nhưng hào tình chẳng dứt, không chịu cầu an trong hơi men, say ngủ trước sân. Dưới ánh đèn xanh lờ mờ, ông khoác áo ngồi trông, chống tay ngắm sóng mây, bút đưa ngang ý thu dào dạt, văn thơ thành vạn quyển. Cửa sài [10] lúc chiều bảng lảng, có thể nhìn hết những gì tuyệt diễm chốn nhân gian, vầng mặt trời sắp lặn đó, còn có thể thắp sáng cuộc đời gió táp mưa vùi của ông không?
[10] Cửa sài: Cửa làm bằng tre, nứa, ám chỉ nhà nghèo.
Hải âu bị chặt cánh, không thể tự do bay vút tầng không; tướng sĩ cởi bỏ chiến bào, không thể rong ruổi cưỡi ngựa biên cương. Chỉ đưa cho ông một chiến thuyền, là tìm đến chốn về sâu thẳm ở chân trời góc bể. Thảo đường nhà tranh, tuy đơn sơ, nhưng cũng có phong cốt riêng của nó. Đỗ Công Bộ lúc này không còn ngựa khỏe vút phi, khí ngạo tâm cuồng, ý chí xung thiên như thời niên thiếu, mà chỉ là một ông già tóc đã điểm sương, thân hình gầy yếu.
Có lẽ là thời gian mềm dịu của Thành Đô, cảnh xuân tươi sáng của thảo đường dần dần đã xoa dịu những nếp nhăn tang thương trong đáy lòng ông, nếu không, sao ông có thể đứng bên bờ suối Hoán Hoa ngâm vịnh những dòng thơ thanh tân “Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu, nhất hàng bạch lộ hướng thanh thiên” (Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc, một hàng cò trắng vút trời xanh [11]) đến vậy? Thả bước lên bờ suối xanh trong của thảo đường, dường như còn nhìn thấy bóng dáng dựa lan can buông cần mà say ngủ năm xưa của Đỗ Phủ. Cây cầu đá mưa khói đó, có ai đã bẻ cành mai bước qua, bỏ lỡ mây trắng tựa tuyết, lại phụ trăng sáng tùng thấp, chỉ vì lưu lại chút hương lạnh cách tuyệt thế gian này.
[11] Trích bài “Tuyệt cú” của Đỗ Phủ, Tản Đà dịch.
Suối lượn quanh co như số phận chìm nổi lênh đênh của thi nhân. Đôi tay buông cần câu được nước biếc, câu được mây nhàn, nhưng vẫn không bỏ được cây bút lớn, tấm lòng kinh bang tế thế không hề suy giảm so với năm nào. Chính ở thảo đường thanh u này, chính trong thời gian ẩn dật này, sáng tác thơ ca của Đỗ Phủ lại ào ạt như sông lớn, cuốn rôi gió mây lịch sử, rúng động lòng dân xã hội. Bút mực dạt dào, thấu triệt như đầm sâu, soi chiếu vạn vật sơn hà, muôn cảnh sinh linh, nhưng khó có thể nghịch chuyển càn khôn trong một vùng đất đai cằn cỗi, khó có thể níu giữ sóng cả bên vách núi hiểm trở cheo leo.
Biết bao lần khi màn đêm ập xuống, mỗi lần khêu đèn thắp sáng, chỉ vì đợi chờ một bình minh không còn xa xôi. Trong những tháng ngày mờ mờ tỏ tỏ ở thảo đường, ông không quên được hào tình mở miệng ra là ngâm vịnh phượng hoàng năm xưa, không quên được chí hướng “Trí quân Nghiêu Thuấn thượng.” (Giúp vua vượt Nghiêu Thuấn [12]) Cho dù cả đời không thể quay về Trường An lần nữa, ông cũng không chịu bỏ lỡ ngày tháng, trễ tràng xuân thu. Chỉ có ở nhà tranh thảo đường này, đem sinh mệnh đơn sơ, nghiên mài thành hương thơm của mực, để cho dân chúng thiên hạ cùng nếm thưởng nhân sinh trăm vị.
[12] Trích bài “Phụng tặng Vi tả thừa thập nhị trượng vận” của Đỗ Phủ, Nhượng Tống dịch.
Dưới bóng cây cổ thụ xanh tốt, nhà tranh giậu trúc trước mắt, suối chảy bao quanh, thật mát mẻ, đơn sơ không gì sánh được. Tuy biết rằng đây không phải là mấy gian nhà tranh trong bài “Mao ốc vị thu phong sở phá ca” (Bài ca về ngôi nhà tranh bị gió thu tốc) nổi tiếng của Đỗ Phủ, nhưng lại quá đỗi thân quen. Ví như ngôi nhà tranh này xây ở nơi khác, cùng là ngọn cỏ cành cây ấy, nhưng không thể ấp ủ ra mùi vị như ở nơi đây. Bởi vì nơi này toát lên một phong vận rơi rớt lại từ thời Đường, chỉ có ở thảo đường của Đỗ Phủ, nhà tranh của Thi thánh, mới có thể lĩnh ngộ được cảnh giới cao thượng “Anh đắc quảng hạ thiên vạn gian, Đại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan” (Ước được nhà rộng muôn ngàn gian, khắp thiên hạ, kẻ sĩ nghèo đều hân hoan[13]), thấu hiểu được nỗi lòng rộng lớn thương xót thế gian của Đỗ Phủ. Sau cơn kinh tâm động phách, là một vùng yên tĩnh trúc biếc gió trong. Cảnh tượng điền viên thư thái: sân rào, vườn rau, giếng cổ, bàn đá… tuy chưa từng thấy, nhưng tựa như đã quen biết từ ngàn năm.
[13] Trích bài “Mao ốc vị thu phong sở phá ca” của Đỗ Phủ, Khương Hữu Dụng dịch.
“Hoa kinh bất tằng duyên khách tảo, bồng mông kim thủy vị quân khai.” (Chưa vì khách quét lối hoa, cửa bồng nay mới mở ra vì người[14]) Nhìn xuyên qua cánh cửa sổ bằng gỗ giản dị, bên trong hết sức thô mộc, tĩnh mịch. Ở thảo đường cách xa phiền lo sầu muộn này, nghìn năm trước chắc chắn đã từng có một bức tranh an nhàn tĩnh lặng như thế. Đỗ Phủ và người bạn cũ Nghiêm Vũ ngồi uống rượu trước bàn, người vợ già của ông đang hâm rượu bên lò, đứa con gái nhỏ đang dựa lan can buông cần câu cá.
[14] Trích bài “Khách chi” của Đỗ Phủ, Trần Trọng San dịch.
Lá chuối cuộn tròn, bóng trúc đung đưa, còn có một chú ve thu quên cả ca hát, chỉ mải ngắm họ đối ẩm vui cười. Mà tôi lúc bấy giờ, chỉ nguyện làm ông cụ hàng xóm của thảo đường, lụ khụ chống gậy tre, đeo một bình rượu cũ, khẽ gõ cửa sài, nói rằng: Lão hủ mang theo bình rượu lâu năm, cùng uống mấy chén, có được không? Thảo đường lúc này ngừng hết lại mọi lời than thở. Còn giấc mộng xưa Trường An của Thi thánh, cũng ngả nghiêng trong ly rượu, say mãi không tỉnh.
Rốt cuộc thảo đường vẫn không thể là mái ấm của cuộc đời Đỗ Công Bộ, ông trước sau vẫn thuộc về nhân gian khói lửa chiến tranh liên miên, đã định sẵn kết cục như cỏ bồng phiêu bạt. Ông đi rồi, mang theo trái tim lo lắng cho bách tính lê dân, rời xa khói thảo đường thô lậu này. Không biết, chuyến đi đó có phải là con đường nhỏ tường đỏ ngõ hẹp, trúc rợp lối đi này không? Không biết, dòng nước bèo trôi lãng đãng năm đó, đã già đi biết mấy tháng năm?
Chỉ là chuyến đi này sẽ không thể nào quay lại, còn thảo đường sẽ trở thành cố hương vĩnh viễn cho linh hồn ông. Cho dù là nghìn năm sau, hoặc trải qua nghìn năm nữa, những người đến đây, hoặc là những người chưa từng đến, đều biết rằng, ở thảo đương của Thành Đô đã từng có một vị Thi thánh ở đây, tên người ấy là Đỗ Phủ.
Tạm biệt một ngày vội vã trong thảo đường. Hãy nhớ rằng, cửa sài cùng uống rượu hoa mai, chân trời góc bể hỏi anh đường về.
Thảo đường Hoán Hoa Là máy cành lau chim én ngậm mang về thời Đường.
Là một đoạn ký ức thời gian từ nghìn năm lướt qua
Thảo đường bên suối Hoán Hoa
Đã sớm được Thi thánh Đỗ Phủ
Viết thành một tập thơ giản dị
Đường hoa, cửa gỗ, đập nước, cầu đá
Phong cảnh mộc mạc biết bao
Đủ để an ủi trái tim sinh chẳng gặp thời
Giậu trúc nhà tranh
Mở toang nỗi lòng mênh mông
Chở che cho muôn ngàn hàn sĩ
Non nước nhàn tản của Thành Đô khi ấy
Đẹp hơn mộng tưởng huy hoàng của Trường An
Có thế dạy mây trắng buông cần câu cá
Có Thế Âmời hoa mai nâng chén đối ẩm
Trên chiếc bàn sạch sẽ
Bày một ly rượu nồng người vợ già đã hâm
Bên lan can cũ kỹ
Thả chiếc cần câu của người và con nhỏ
Trên bàn cờ
Còn một ván cờ dang dở
Của người và bạn hữu năm nào
Nghìn năm trước
Thảo đường Thành Đô là thế
Nghìn năm sau
Thảo đường Thành Đô vẫn thế
Cho dù thi nhân đến đây
Hay là đã đi
Thảo đường vẫn mãi là cố hương của linh hồn người
Cho dù là người tha phương quay về
Hay là lữ khách
Cánh cửa ấy
Trước sau vẫn mở rộng đón người
Quyển thứ bảy: Hoàng thành Bắc
Bình
Tử Cấm Thành được cả thế gian ngưỡng mộ, đã từng ngạo nghễ cúi nhìn thiên hạ, hô mưa gọi gió. Đến nay nó chỉ còn là một thành trì trống rỗng, cô đơn lặng lẽ soi bóng chính mình. Nhìn vào tòa hoàng thành này mới phát hiện, những thứ rút ra được chẳng qua chỉ là một vài mảnh vỡ rơi rớt của thời gian, thứ lấp đầy lại chính là những hồi ức dạt dào như nước. Hết thảy thành bại, đều có số kiếp, đế vương có số mệnh của đế vương, hoàng thành có nhân quả của hoàng thành. Lịch sử như một bộ kinh thư không chữ, đặt trên chiếc bàn rộng lớn của năm tháng, cần phải đọc nó bằng cả trái tim. Giữa vòng luân hồi định mệnh, chúng ta nhìn khách đến khách đi, duyên khởi duyên diệt. Ngắm vũ đài chiêng trống rộn rã, làm thế nào để diễn lại một đoạn phong vận kinh thành đã dần dần già cỗi…
Vào trong Tử Cấm Thành
Đây là một tòa thành mà bạn phải đi vào với sự nhiệt tình, xúc động, đây là hoàng thành mà bạn phải đi vào với dũng khí mạnh mẽ. Bạn vứt bỏ sự huyên náo lại sau lưng, giữ lại những suy nghĩ thuần khiết, Tử Cấm Thành sẽ mở rộng tấm lòng với bạn. Trong lịch sử thời gian và không gian biến đổi xáo động, tòa hoàng thành này đã dùng đại khí huy hoàng để đúc nên sự hiển hách và uy danh. Tựa như một hạt bụi lướt qua, sẽ hóa thành vạn tượng; một giọt mực lăn xuống, sẽ mặc ý mênh mông.
Cánh cửa cao dày của Cố Cung đã đóng chặt lại sau lưng đế vương, nhưng lại mở rộng trong đời sống của bách tính. Tử Cấm Thành bị hoàng quyền khóa chặt của ngày xưa, ngày nay, bình dân bách tính chỉ cần một tấm phiếu có in hình vật tượng trưng của Cố Cung là đã có thể sải bước đường hoàng tiến vào cung điện của hoàng đế, tùy ý thưởng ngoạn những phong cảnh đằng sau tường cao nhà sâu. Chính trong lúc bạn bước qua cánh cửa cung tráng lệ nguy nga đó của hoàng thành, bước vào ngưỡng cửa cao vời khôn tả của thâm cung, ký ức của Cố Cung giống như sông băng vỡ nứt, trong sát na, ào ạt cuồn cuộn chảy xô, băng qua ngàn dặm trên dòng sông lịch sử.
Tử Cấm Thành đã từng huy hoàng hiển hách, dẫu cho nay vẫn còn rực rỡ vàng son như cũ, nhưng đã trở thành một thành trì hư không. Ban ngày du khách huyên náo dạo chơi, ban đêm lại chỉ có những chiếc bóng của vong hồn quẩn quanh. Hai mươi tư vị hoàng đế trong sử sách, đã từng hô mưa gọi gió, ngông nghênh càn rỡ trên bầu trời chỉ thuộc về riêng mình. Còn văn võ bá quan, phi tần hậu cung và cung nữ thái giám trong cung hết đời này đến đời khác, chẳng qua chỉ là những hạt bụi phiêu lãng trong Cố Cung, một trận gió nhẹ cũng đủ quét sạch hết thảy, người đời sau còn có thể tìm thấy dấu tích gì trong ảo cảnh trong suốt đó? Chỉ có thể lờ mờ thấy bóng dáng hoa lệ năm nào trong những ngói lưu ly, những đá cẩm thạch và ngàn vạn con rồng sơn son thiếp vàng cùng vô số đồ trang trí biểu thị cho cát tường may mắn ở nơi này.
Hơi ấm trên long sàng của hoàng đế Sùng Trinh thời Minh vẫn còn đó, Sấm vương Lý Tự Thành phá thành xông vào, trong cơn máu nóng bốc đồng đã ngồi xuống ngai vàng. Giặc cỏ đánh bại đế vương, áo thô đổi lấy long bào, nhưng ông chẳng qua chỉ là một ngôi sao băng vụt qua bầu trời Tử Cấm Thành, dùng máu nóng để vạch nên một dấu ấn đỏ tươi, cuối cùng vẫn tan thành tro bụi. Trần Viên Viên thậm chí còn chưa kịp đến múa một khúc Nghê thường vũ y cho Lý Sấm vương thì tướng sĩ Bát Kỳ đã tràn đến như thác lũ, xóa sạch giấc mộng đế vương của Lý Tự Thành.
Vạn loại cuồng phong ập đến, đất vàng chôn lấp cổ đạo, khói súng bao phủ chiến trường, đao kiếm uống máu, chém giết thành sông, chia cắt núi non xã tắc. Những sợi dây thừng xiết chặt dục vọng, những lá cờ quạt giương cao quyền thế, dùng sự dã man tàn nhẫn để chiến thắng các bậc chí tôn vương giả, từ đây giã từ biên tái nghèo đói cằn cỗi, nắm chắc sơn hà, xưng đế thiên hạ ở lãnh thổ văn minh. Đại địa cuồng phong thét gào, đến khiếp nhược cũng trở thành kiên quyết; bầu trời không lửa cháy ngút trời, đến cái chết cũng thành bi tráng.
Cơn động loạn trôi qua là đến hòa bình tĩnh lặng, ngự liễn long bàn [1] của hoàng đế Đại Thanh chở đầy phú quý và vinh hoa, lăn bánh suốt mấy trăm năm trong Tử Cấm Thành. Sau thời kỳ đỉnh thịnh là u ám và im ắng, bắt đầu từ bao giờ, con em Bát Kỳ [2] vứt bỏ chiến mã, buông đao buông kiếm, đắm chìm trong các thú vui nuôi chim hát kịch, đua ngựa chọi dế trong hương ấp giàu có ấm êm. Trước tình hình thuyền chiến pháo lớn áp sát biên cương, những chiến mã mất hết ý chí chiến đấu vẫn còn có thể tung vó oai hùng như trên thảo nguyên năm nào sao? Những con em Bát Kỳ tiêu tan hùng tâm tráng chí vẫn còn có thể hùng dũng như ngoài biên ải hay sao?
[1] Ngự liễn long bàn: Xe của nhà vua
[2] Con em Bát Kỳ: Chỉ người Mãn Châu, những người đã lập lên triều đình nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
Giang sơn không phải là sắt thép đúc nên, hoàng thành không phải là sắt thép đúc nên, quốc thổ Đại Thanh cũng không thể không khuất phục dưới gót sắt của các cường quốc, khi hoàng đế cuối cùng của Đại Thanh - Phổ Nghi bị đuổi ra khỏi Tử Cấm Thành, Cố Cung thực sự trở thành một tòa thành trì chết chóc. Những cung điện rộng lớn nguy nga chỉ còn lại ký ức vỡ nát, mỗi một ngày đều nhìn thấy khói mây lịch sử bao trùm bầu trời Tử Cấm Thành, không dấu không vết, nhưng lại chẳng xua tan đi được.
Tử Cấm Thành đã trút bỏ long bào che lấp đi sự ngang tàng và trang nghiêm ngày nào, bạn có thể đường hoàng bước vào kim loan điện, ngạo mạn du lãm nơi đế vương thiết triều và cử hành đại lễ năm xưa. Thái Hòa điện, Trung Hòa điện, Bảo Hòa điện là trung tâm ngoại triều, cũng là ba tòa điện chính của Cố Cung. Trong đại điện trang sức lộng lẫy vàng son, trang nghiêm rực rỡ, những cánh cửa son chạm khỏa nạm vàng, hình rồng cuộn trên cột trụ tựa như đang tung người bay lên. Đế vương các đời ngồi trên bảo tọa khắc hình rồng, cả bá nghiệp của họ đã sớm rút khỏi vũ đài lịch sử, chỉ còn lưu lại một bóng dáng hoa lệ ấm áp và mấy tiếng thở dài đầy tiếc nuối mà thôi.
Xuân thu mấy độ, mây loạn bay qua, biết bao anh hùng vì tranh chiếc ngai vàng này mà máu chảy thành sông, xương trắng thành gò. Chớ nói ngồi trên chiếc long ỷ để thống trị thiên hạ, mà đến bức tường đỏ của Cố Cung còn chưa thể vượt qua đã cùng với cán cờ gẫy gập, chết nơi sa trường. Hùng đồ đại chí của họ rốt cuộc không cao hơn trời mây Tử Cấm Thành, trong lịch sử không có trận tranh đoạt nào không động phách kinh tâm, sau cơn cuồng loạn, cái lưu lại há chẳng phải là một sự thức tỉnh hay sao?
Lịch sử thực sự không dễ dàng chấp nhận những lời nói dối, cũng như cung Càn Thanh của Tử Cấm Thành, sáng rõ bằng phẳng, nhìn rõ ràng rành mạch những hiện tượng thế gian vẩn đục. Trên điện đường còn treo bức đại tự khảm vàng “Chính đại quang minh”, nó không có đôi mắt nuốt hận trời xanh, mà chỉ trong như gương sáng, soi rõ quá khứ khoáng đạt, bây giờ lại bị ánh sáng sắc lạnh của lưu ly rạch nát, bờ sông đế vương đã từng cuồn cuộn trôi không ngừng, nay đã nứt toác. Những vẫn còn một người khai hoang trác tuyệt, san bằng gò hoang hoa mỹ, tưới tắm máu nóng, trả lại con sóng trong vắt cho dòng sông. Đằng sau triều đường uy nghiêm tráng lệ, lại có cung điện hoa gấm như mây, cất giấu biết bao tuyệt đại hồng nhan của thiên tử.
Tử Cấm Thành được tô điểm bằng một bức tường cao hào nhoáng phú quý, giam cầm biết bao cám dỗ tuyệt diễm xinh tươi, lại khóa kín những linh hồn cô độc lạnh lẽo. Cung Khôn Ninh đã từng diễm lệ muôn vàn, đến nay lại yên tĩnh lạnh lẽo, chủ nhân hậu cung - bậc mẫu nghi thiên hạ uy nghiêm trong cuộc đời dài đằng đẵng từng được hoàng đế thương xót mấy lần? Ai cũng nói, sự dịu dàng làm hùng tâm mềm yếu, phú quý hủy hoại ước mơ, khi đế vương mệt mỏi với những cuộc chém giết thanh trừng, thì sao không quyến luyến với sự mềm dịu của phấn son lục cung? Một nụ cười của hồng nhan đã hơn cả thiên quân vạn mã, có biết bao quân vương siêu việt phi phàm, làm chìm đắm cơ đồ giang sơn huy hoàng rộng lớn chỉ trong một ly rượu nồng mỏng manh?
Ngự hoa viên là một vườn địa đàng chốn nhân gian, những đỉnh đài lầu gác, nhà thủy tạ mái hiên vàng son lộng lẫy dường như đã chiếm hết thảy mọi cảnh trí tươi đẹp trong thiên hạ. Ngự hoa viên là mê cung, cả Tử Cấm Thành đều là mê cung, người bước vào trong không chú ý sẽ lạc lối trong khung cảnh hư ảo đầy rẫy rồng bay phượng múa, oanh ca yến liệng. Nghe nói, toàn bộ bố cục kiến trúc Tử Cấm Thành đều được thiết kế, sắp đặt theo bố cục của tinh tướng, gồm chín nghìn chín trăm chín mươi căn phòng, giống như chín nghìn chín trăm chín mươi chín vì sao, giăng mắc chi chít trên bầu trời Tử Cấm Thành, kẻ ngoại lai như bạn vô tình bước vào, sao có thể không lầm đường lạc lối?
Trong quần tinh sáng chói, người khoác long bào, hào quang lóe ra muôn trượng đó chính là đế vương, Cố Cung của ngài chỉ có một vầng thái dương duy nhất. Chỉ có vầng thái dương này, tuy đã có quần tinh bao trùm, nhưng không thể nào mang lại hơi ấm cho từng người, giữa vạn vì sao, ngài trở nên cô độc khôn xiết. Những vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ này được các họa sĩ cung đình đưa vào trong những đường nét hội họa, được văn nhân đưa vào trong thơ từ ca phú, được những nghệ nhân đưa vào đồ gốm. Đã từ khi nào, linh hồn của Tử Cấm Thành bị rút đi mất, chỉ còn trơ lại cái vỏ ngoài lưu ly lóng lánh, màu sắc sặc sỡ, chống đỡ cho toàn bộ tòa hoàng thành to lớn này.
Mặt trời lặn ngang lầu cao, ai là người vỗ vào lan can [3], trên khoen đồng của cánh cửa màu đỏ son đó, nay còn lưu lại hơi ấm bàn tay vị đế vương nào? Suy nghĩ như một chú ngựa cô độc, bạn hồi tưởng lại quá vãng, nhưng bỏ qua hiện tại, bạn đi tới hiện tại, nhưng lại đánh mất quá khứ. Đi qua lãnh cung im lìm, sẽ không vì hồng nhan mà buông những lời oán thán, dạo quanh những bậc thang bằng đá cẩm thạch trắng, sẽ không vì đế vương mà lưu lại những tình cảm hào hùng. [3] Vỗ vào lan can: Có câu thơ rằng “Độc thư ngộ ngã tử thập niên, kỷ hồi túy bả lan can phách” (Đọc sách mà ta mê lầm mất bốn mươi năm, mấy phen say rượu gõ nhịp lan can), cho nên “vỗ vào lan can”, “gõ nhịp lan can” dùng để chỉ hành động vỗ vào, gõ vào lan can để phát tiết những ấm ức, phiền muộn không thể nói trong lòng.
Giữa đất trời là một vùng nghiêm túc vĩnh hằng cổ xưa, máu tươi xối xả cũng dần dần chậm rãi bình hòa trong tĩnh lặng. Dòng thủy mặc ý tuôn chảy nay đã nguội lạnh và ngưng đọng, đến hồng trần phiêu tán cũng tìm được chốn nghỉ ngơi. Tử Cấm Thành lúc này thâm sâu khôn tả, thâm sâu đến mức có thể dung nạp ngàn vạn thế giới; đồng thời cũng cô đơn vô cùng, cô đơn đến mức chỉ còn lại chiếc bóng của thời gian.
Ngẩng đầu ngắm trời sao, vầng trăng sáng treo trên bầu trời Tử Cấm Thành đã bị ai đó tước đi vòng hào quang, nhưng vẻ tĩnh mịch, thuần khiết, thiêng liêng vẫn còn đó. Dũng cảm bước vào tòa thành trống không, dùng một trái tim trong sáng để tạo nên kỳ tích, đón nhận thái bình thịnh thế. Khi quá khứ đã trôi qua trên bầu trời sao, khi vẻ đẹp như nước triều lên xuống, khi bước chân của bình minh đã tới gần, một vầng mặt trời sáng lạn đang lấp ló nhô ra, chiếu sáng cho khắp thảy non sông tuyệt mỹ.
Tử Cấm Thành được cả thế gian ngưỡng mộ, đã từng ngạo nghễ cúi nhìn thiên hạ, hô mưa gọi gió. Đến nay nó chỉ còn là một thành trì trống rỗng, cô đơn lặng lẽ soi bóng chính mình. Nhìn vào tòa hoàng thành này mới phát hiện, những thứ rút ra được chẳng qua chỉ là một vài mảnh vỡ rơi rớt của thời gian, thứ lấp đầy lại chính là những hồi ức dạt dào như nước. Hết thảy thành bại, đều có số kiếp, đế vương có số mệnh của đế vương, hoàng thành có nhân quả của hoàng thành. Lịch sử như một bộ kinh thư không chữ, đặt trên chiếc bàn rộng lớn của năm tháng, cần phải đọc nó bằng cả trái tim. Giữa vòng luân hồi định mệnh, chúng ta nhìn khách đến khách đi, duyên khởi duyên diệt. Ngắm vũ đài chiêng trống rộn rã, làm thế nào để diễn lại một đoạn phong vận kinh thành đã dần dần già cỗi…
Vào trong Tử Cấm Thành
Đây là một tòa thành mà bạn phải đi vào với sự nhiệt tình, xúc động, đây là hoàng thành mà bạn phải đi vào với dũng khí mạnh mẽ. Bạn vứt bỏ sự huyên náo lại sau lưng, giữ lại những suy nghĩ thuần khiết, Tử Cấm Thành sẽ mở rộng tấm lòng với bạn. Trong lịch sử thời gian và không gian biến đổi xáo động, tòa hoàng thành này đã dùng đại khí huy hoàng để đúc nên sự hiển hách và uy danh. Tựa như một hạt bụi lướt qua, sẽ hóa thành vạn tượng; một giọt mực lăn xuống, sẽ mặc ý mênh mông.
Cánh cửa cao dày của Cố Cung đã đóng chặt lại sau lưng đế vương, nhưng lại mở rộng trong đời sống của bách tính. Tử Cấm Thành bị hoàng quyền khóa chặt của ngày xưa, ngày nay, bình dân bách tính chỉ cần một tấm phiếu có in hình vật tượng trưng của Cố Cung là đã có thể sải bước đường hoàng tiến vào cung điện của hoàng đế, tùy ý thưởng ngoạn những phong cảnh đằng sau tường cao nhà sâu. Chính trong lúc bạn bước qua cánh cửa cung tráng lệ nguy nga đó của hoàng thành, bước vào ngưỡng cửa cao vời khôn tả của thâm cung, ký ức của Cố Cung giống như sông băng vỡ nứt, trong sát na, ào ạt cuồn cuộn chảy xô, băng qua ngàn dặm trên dòng sông lịch sử.
Tử Cấm Thành đã từng huy hoàng hiển hách, dẫu cho nay vẫn còn rực rỡ vàng son như cũ, nhưng đã trở thành một thành trì hư không. Ban ngày du khách huyên náo dạo chơi, ban đêm lại chỉ có những chiếc bóng của vong hồn quẩn quanh. Hai mươi tư vị hoàng đế trong sử sách, đã từng hô mưa gọi gió, ngông nghênh càn rỡ trên bầu trời chỉ thuộc về riêng mình. Còn văn võ bá quan, phi tần hậu cung và cung nữ thái giám trong cung hết đời này đến đời khác, chẳng qua chỉ là những hạt bụi phiêu lãng trong Cố Cung, một trận gió nhẹ cũng đủ quét sạch hết thảy, người đời sau còn có thể tìm thấy dấu tích gì trong ảo cảnh trong suốt đó? Chỉ có thể lờ mờ thấy bóng dáng hoa lệ năm nào trong những ngói lưu ly, những đá cẩm thạch và ngàn vạn con rồng sơn son thiếp vàng cùng vô số đồ trang trí biểu thị cho cát tường may mắn ở nơi này.
Hơi ấm trên long sàng của hoàng đế Sùng Trinh thời Minh vẫn còn đó, Sấm vương Lý Tự Thành phá thành xông vào, trong cơn máu nóng bốc đồng đã ngồi xuống ngai vàng. Giặc cỏ đánh bại đế vương, áo thô đổi lấy long bào, nhưng ông chẳng qua chỉ là một ngôi sao băng vụt qua bầu trời Tử Cấm Thành, dùng máu nóng để vạch nên một dấu ấn đỏ tươi, cuối cùng vẫn tan thành tro bụi. Trần Viên Viên thậm chí còn chưa kịp đến múa một khúc Nghê thường vũ y cho Lý Sấm vương thì tướng sĩ Bát Kỳ đã tràn đến như thác lũ, xóa sạch giấc mộng đế vương của Lý Tự Thành.
Vạn loại cuồng phong ập đến, đất vàng chôn lấp cổ đạo, khói súng bao phủ chiến trường, đao kiếm uống máu, chém giết thành sông, chia cắt núi non xã tắc. Những sợi dây thừng xiết chặt dục vọng, những lá cờ quạt giương cao quyền thế, dùng sự dã man tàn nhẫn để chiến thắng các bậc chí tôn vương giả, từ đây giã từ biên tái nghèo đói cằn cỗi, nắm chắc sơn hà, xưng đế thiên hạ ở lãnh thổ văn minh. Đại địa cuồng phong thét gào, đến khiếp nhược cũng trở thành kiên quyết; bầu trời không lửa cháy ngút trời, đến cái chết cũng thành bi tráng.
Cơn động loạn trôi qua là đến hòa bình tĩnh lặng, ngự liễn long bàn [1] của hoàng đế Đại Thanh chở đầy phú quý và vinh hoa, lăn bánh suốt mấy trăm năm trong Tử Cấm Thành. Sau thời kỳ đỉnh thịnh là u ám và im ắng, bắt đầu từ bao giờ, con em Bát Kỳ [2] vứt bỏ chiến mã, buông đao buông kiếm, đắm chìm trong các thú vui nuôi chim hát kịch, đua ngựa chọi dế trong hương ấp giàu có ấm êm. Trước tình hình thuyền chiến pháo lớn áp sát biên cương, những chiến mã mất hết ý chí chiến đấu vẫn còn có thể tung vó oai hùng như trên thảo nguyên năm nào sao? Những con em Bát Kỳ tiêu tan hùng tâm tráng chí vẫn còn có thể hùng dũng như ngoài biên ải hay sao?
[1] Ngự liễn long bàn: Xe của nhà vua
[2] Con em Bát Kỳ: Chỉ người Mãn Châu, những người đã lập lên triều đình nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
Giang sơn không phải là sắt thép đúc nên, hoàng thành không phải là sắt thép đúc nên, quốc thổ Đại Thanh cũng không thể không khuất phục dưới gót sắt của các cường quốc, khi hoàng đế cuối cùng của Đại Thanh - Phổ Nghi bị đuổi ra khỏi Tử Cấm Thành, Cố Cung thực sự trở thành một tòa thành trì chết chóc. Những cung điện rộng lớn nguy nga chỉ còn lại ký ức vỡ nát, mỗi một ngày đều nhìn thấy khói mây lịch sử bao trùm bầu trời Tử Cấm Thành, không dấu không vết, nhưng lại chẳng xua tan đi được.
Tử Cấm Thành đã trút bỏ long bào che lấp đi sự ngang tàng và trang nghiêm ngày nào, bạn có thể đường hoàng bước vào kim loan điện, ngạo mạn du lãm nơi đế vương thiết triều và cử hành đại lễ năm xưa. Thái Hòa điện, Trung Hòa điện, Bảo Hòa điện là trung tâm ngoại triều, cũng là ba tòa điện chính của Cố Cung. Trong đại điện trang sức lộng lẫy vàng son, trang nghiêm rực rỡ, những cánh cửa son chạm khỏa nạm vàng, hình rồng cuộn trên cột trụ tựa như đang tung người bay lên. Đế vương các đời ngồi trên bảo tọa khắc hình rồng, cả bá nghiệp của họ đã sớm rút khỏi vũ đài lịch sử, chỉ còn lưu lại một bóng dáng hoa lệ ấm áp và mấy tiếng thở dài đầy tiếc nuối mà thôi.
Xuân thu mấy độ, mây loạn bay qua, biết bao anh hùng vì tranh chiếc ngai vàng này mà máu chảy thành sông, xương trắng thành gò. Chớ nói ngồi trên chiếc long ỷ để thống trị thiên hạ, mà đến bức tường đỏ của Cố Cung còn chưa thể vượt qua đã cùng với cán cờ gẫy gập, chết nơi sa trường. Hùng đồ đại chí của họ rốt cuộc không cao hơn trời mây Tử Cấm Thành, trong lịch sử không có trận tranh đoạt nào không động phách kinh tâm, sau cơn cuồng loạn, cái lưu lại há chẳng phải là một sự thức tỉnh hay sao?
Lịch sử thực sự không dễ dàng chấp nhận những lời nói dối, cũng như cung Càn Thanh của Tử Cấm Thành, sáng rõ bằng phẳng, nhìn rõ ràng rành mạch những hiện tượng thế gian vẩn đục. Trên điện đường còn treo bức đại tự khảm vàng “Chính đại quang minh”, nó không có đôi mắt nuốt hận trời xanh, mà chỉ trong như gương sáng, soi rõ quá khứ khoáng đạt, bây giờ lại bị ánh sáng sắc lạnh của lưu ly rạch nát, bờ sông đế vương đã từng cuồn cuộn trôi không ngừng, nay đã nứt toác. Những vẫn còn một người khai hoang trác tuyệt, san bằng gò hoang hoa mỹ, tưới tắm máu nóng, trả lại con sóng trong vắt cho dòng sông. Đằng sau triều đường uy nghiêm tráng lệ, lại có cung điện hoa gấm như mây, cất giấu biết bao tuyệt đại hồng nhan của thiên tử.
Tử Cấm Thành được tô điểm bằng một bức tường cao hào nhoáng phú quý, giam cầm biết bao cám dỗ tuyệt diễm xinh tươi, lại khóa kín những linh hồn cô độc lạnh lẽo. Cung Khôn Ninh đã từng diễm lệ muôn vàn, đến nay lại yên tĩnh lạnh lẽo, chủ nhân hậu cung - bậc mẫu nghi thiên hạ uy nghiêm trong cuộc đời dài đằng đẵng từng được hoàng đế thương xót mấy lần? Ai cũng nói, sự dịu dàng làm hùng tâm mềm yếu, phú quý hủy hoại ước mơ, khi đế vương mệt mỏi với những cuộc chém giết thanh trừng, thì sao không quyến luyến với sự mềm dịu của phấn son lục cung? Một nụ cười của hồng nhan đã hơn cả thiên quân vạn mã, có biết bao quân vương siêu việt phi phàm, làm chìm đắm cơ đồ giang sơn huy hoàng rộng lớn chỉ trong một ly rượu nồng mỏng manh?
Ngự hoa viên là một vườn địa đàng chốn nhân gian, những đỉnh đài lầu gác, nhà thủy tạ mái hiên vàng son lộng lẫy dường như đã chiếm hết thảy mọi cảnh trí tươi đẹp trong thiên hạ. Ngự hoa viên là mê cung, cả Tử Cấm Thành đều là mê cung, người bước vào trong không chú ý sẽ lạc lối trong khung cảnh hư ảo đầy rẫy rồng bay phượng múa, oanh ca yến liệng. Nghe nói, toàn bộ bố cục kiến trúc Tử Cấm Thành đều được thiết kế, sắp đặt theo bố cục của tinh tướng, gồm chín nghìn chín trăm chín mươi căn phòng, giống như chín nghìn chín trăm chín mươi chín vì sao, giăng mắc chi chít trên bầu trời Tử Cấm Thành, kẻ ngoại lai như bạn vô tình bước vào, sao có thể không lầm đường lạc lối?
Trong quần tinh sáng chói, người khoác long bào, hào quang lóe ra muôn trượng đó chính là đế vương, Cố Cung của ngài chỉ có một vầng thái dương duy nhất. Chỉ có vầng thái dương này, tuy đã có quần tinh bao trùm, nhưng không thể nào mang lại hơi ấm cho từng người, giữa vạn vì sao, ngài trở nên cô độc khôn xiết. Những vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ này được các họa sĩ cung đình đưa vào trong những đường nét hội họa, được văn nhân đưa vào trong thơ từ ca phú, được những nghệ nhân đưa vào đồ gốm. Đã từ khi nào, linh hồn của Tử Cấm Thành bị rút đi mất, chỉ còn trơ lại cái vỏ ngoài lưu ly lóng lánh, màu sắc sặc sỡ, chống đỡ cho toàn bộ tòa hoàng thành to lớn này.
Mặt trời lặn ngang lầu cao, ai là người vỗ vào lan can [3], trên khoen đồng của cánh cửa màu đỏ son đó, nay còn lưu lại hơi ấm bàn tay vị đế vương nào? Suy nghĩ như một chú ngựa cô độc, bạn hồi tưởng lại quá vãng, nhưng bỏ qua hiện tại, bạn đi tới hiện tại, nhưng lại đánh mất quá khứ. Đi qua lãnh cung im lìm, sẽ không vì hồng nhan mà buông những lời oán thán, dạo quanh những bậc thang bằng đá cẩm thạch trắng, sẽ không vì đế vương mà lưu lại những tình cảm hào hùng. [3] Vỗ vào lan can: Có câu thơ rằng “Độc thư ngộ ngã tử thập niên, kỷ hồi túy bả lan can phách” (Đọc sách mà ta mê lầm mất bốn mươi năm, mấy phen say rượu gõ nhịp lan can), cho nên “vỗ vào lan can”, “gõ nhịp lan can” dùng để chỉ hành động vỗ vào, gõ vào lan can để phát tiết những ấm ức, phiền muộn không thể nói trong lòng.
Giữa đất trời là một vùng nghiêm túc vĩnh hằng cổ xưa, máu tươi xối xả cũng dần dần chậm rãi bình hòa trong tĩnh lặng. Dòng thủy mặc ý tuôn chảy nay đã nguội lạnh và ngưng đọng, đến hồng trần phiêu tán cũng tìm được chốn nghỉ ngơi. Tử Cấm Thành lúc này thâm sâu khôn tả, thâm sâu đến mức có thể dung nạp ngàn vạn thế giới; đồng thời cũng cô đơn vô cùng, cô đơn đến mức chỉ còn lại chiếc bóng của thời gian.
Ngẩng đầu ngắm trời sao, vầng trăng sáng treo trên bầu trời Tử Cấm Thành đã bị ai đó tước đi vòng hào quang, nhưng vẻ tĩnh mịch, thuần khiết, thiêng liêng vẫn còn đó. Dũng cảm bước vào tòa thành trống không, dùng một trái tim trong sáng để tạo nên kỳ tích, đón nhận thái bình thịnh thế. Khi quá khứ đã trôi qua trên bầu trời sao, khi vẻ đẹp như nước triều lên xuống, khi bước chân của bình minh đã tới gần, một vầng mặt trời sáng lạn đang lấp ló nhô ra, chiếu sáng cho khắp thảy non sông tuyệt mỹ.
Di Hòa Viên - Non nước như
tranh
Những người đến với Bắc Kinh luôn để mình rơi sâu vào biến đổi lịch sử hùng hồn, tận tâm thưởng thức hết sự uy nghiêm và hùng tráng của cảnh trí hoàng thành. Nhưng lại không để ý rằng Bắc Kinh cũng là một nơi nuôi dưỡng nhàn tình và phong nhã, chứa đựng sự nên thơ và lãng mạn. Có một vùng non nước như tranh, vừa mang sự phú quý hiển hách của cung điện hoàng gia, lại vừa có vẻ phong tình yểu điệu của bờ hồ Tây Tử, còn có những đặc trưng thiên nhiên trang nhã của vườn cảnh vùng Tô Châu. Đó chính là Di Hòa Viên, một vườn cảnh hoàng thành hội tụ đầy đủ phong cách vương giả, lại vừa dung nạp phong thái sông nước vùng Giang Nam.
Nó giống như một vị quân vương trác tuyệt phi phàm, nhận ân sủng mà kiêu căng, một mình cao quý giữa cung đình áo mũ như mây. Nó tựa như một bậc giai nhân phong tư yểu điệu, lạc xuống trần gian mà không nhuốm thói tục, một mình tao nhã giữa bụi hoa muôn hồng ngàn tía. Nó lại như một danh sĩ thanh cao phóng khoáng, giữa hồng trần mà không mất lòng ai, một mình an định giữa loạn thế gió cuốn mây trôi. Cứ như thế ngạo nghễ đứng giữa đất trời, trang nghiêm trên nước, ẩn mình giữa thành đô, bình thản nhìn ngàn vạn khách qua đường đến đây du ngoạn, mà sau đó lại khắc sâu ghi nhớ, cả đời chẳng quên.
Những linh hồn bị vương triều phong kiến cầm tù hàng nghìn năm, dưới sự chiếu rọi của ánh sáng đất nước Trung Quốc mới đã được giải phóng, giống như làn gió xuân ấm áp, thổi qua hết lượt non sông rộng lớn đang say ngủ, nền văn minh cổ xưa đã bừng tỉnh trong buổi bình minh, như một cụ già héo hắt, nay chỉ trong một đêm đã ngời ngời sức sống. Vầng mặt trời màu vàng kim ngưng tụ sức mạnh to lớn, ngang tàng nhìn gió mây với tư thế nước lớn nổi trội, sừng sững phương Đông. Kinh thành bấy giờ, vạn vật hớn hở, phong lưu nhất phái, có hào khí của vùng Yên Triệu[4], tráng ca của Dịch Thủy [5], lại thêm sự trang nhã và véo von của phong tình nước Nam.
[4] Yên, Triệu: Hai nước lớn thời Tiên Tần, bao gồm khu vực Bắc Kinh, Thiên Tân và phía bắc Hà Nam, phía nam Nội Mông Cổ ngày nay.
[5] Dịch Thủy: sông Dịch Thủy, phía tây tỉnh Hà Bắc. Tương truyền là nơi năm xưa thái tử Đan nước Yên tiễn Kinh Kha lên đường hành thích vua Tần.
Khi bạn bước vào Di Hòa Viên, mặc ý dạo chơi trong non nước của bức tranh cung đình, sao không thể cảm thán các họa gia hoàng cung năm xưa khéo léo cầu kỳ đến nhường nào mới có thể dùng những đường nét tinh xảo sống động vẽ ra bức tranh sơn dầu đậm nhạt đan xen này? Triều Thanh đã biến mất, đế vương nay không còn, những người thợ vẽ cũng mất dấu, chỉ còn lại mỹ nhân tuổi đã về chiều, tuy kinh qua hết hưng suy vinh nhục, nhưng vẻ đẹp vẫn còn, phong tình vạn chủng.
Đi vào cánh cửa Đông Cung cao xa vòi vọi năm nào, dạo quanh Nhân Thọ Điện và Lạc Thọ Đường như thể vừa bước vào trong giấc mộng vinh hoa của một đế vương nào đó triều Thanh, ngài vừa mới thức giấc mà bạn đã bắt đầu mơ rồi. Mi cửa thềm phòng màu đỏ son, những hình vẽ hoa văn như gấm thêu vẽ bằng màu sáp đều làm nổi bật sự phú quý và hào hoa. Đây là vương quốc của rồng, chúng được khắc, vẽ một cách tinh xảo trên khắp mọi vị trí trong các cung điện, hình thái sinh động như thật, tựa như chỉ cần bạn không chú ý, chúng sẽ bay vọt lên, xóa bỏ cảnh tượng hư ảo trong bức tranh này, nói cho bạn biêt, chúng là bậc vương giả có khí huyết, cưỡi mây vượt gió với tinh thần của rồng.
Vị hoàng đế mình mặc long bào, đầu đội vương miện ấy là Càn Long hay là Quang Tự? Họ đều là bậc cửu ngũ chí tôn, nhưng lại mang vận mệnh chẳng giống nhau, cho dù là ngang tàng ngạo nghễ hay khiếp nhược đớn hèn, đến nay đều chỉ còn lại bóng dáng như gió như mây, là thành hay bại đều mặc đời sau bình luận. Há chẳng biết quân vương nhất thống thiên hạ, trị lý sơn hà, cần phải có khí phách của đế vương, chí khí lỗi lạc, còn phải có tu dưỡng tâm tính, hết sức dịu dàng, thậm chí còn phải tìm hiểu vũ trụ, thấu hiểu thiên lý. Sau cơn gió mưa vô hạn, là bình tĩnh đến thâm sâu, mà trong khu vườn cảnh của đế vương này, người đời sau có thể không kiêng kỵ gì thăm hỏi lịch sử, nhàn nhã tự tại tìm hiểu chuyện xưa.
Con người sống trong hồng trần mênh mang, nhìn vạn vật thịnh suy, luôn muốn tìm một linh hồn trong sạch thuộc về chính mình. Lên núi Vạn Thọ, chính là mượn khí vận tươi mát của thiên nhiên để thanh lọc tâm trí, mặc cho tư duy bay bổng trong không gian tịch liêu, ngắm trông non sông tráng lệ, nhìn hết gió mây vạn dặm. Đây là một tổ hợp kiến trúc hoàng gia bậc nhất của phương Đông, vắt ngang núi Vạn Thọ, khí thế hùng vĩ, nguy nga hoành tráng. Tựa như một cơn gió mát lướt qua là có thể lay động lòng người, một đám mây trắng bồng bềnh trôi là có thể dạt dào vô cùng.
Dừng lại ở Phật Hương Các, cảm nhận đế vương tự nghìn xưa đang truy tìm sự thức tỉnh trong Thiền giới vô trần, chứng đắc được minh tâm kiến tính ở Phật cảnh linh đài thanh tịnh, sáng rõ, đó là phúc tuệ viên mãn đến nhường nào? Đứng trên đỉnh núi, vạn tượng mây khói hội tụ, chỉ có dùng sự nhỏ nhoi của bản thân để chiêm bái sự rộng lớn của tự nhiên, mới có thể lĩnh ngộ được sự mênh mông như biển cả, khí thế dào dạt như sóng lớn của trí tuệ. Thành Bắc Kinh nhìn từ xa là một bức tranh cuộn phồn hoa diễm lệ, bách tính thiên hạ cùng tắm trong sự thịnh vượng và yên bình. Cúi xuống nhìn hồ Côn Minh, đây là một khối mỹ ngọc được khảm bên cạnh, lặng lẽ nằm trong Di Hòa Viên, cất giữ khối tình ý mềm dịu tận đáy tim của bậc đế vương đó.
Lên cao không khỏi bị lạnh, sát nước sẽ được tịnh tâm. Muốn thưởng lãm hết phong cảnh hùng vĩ rộng lớn của núi Vạn Thọ, thì phải nén chặt những cảm xúc bất định, chìm lắng trong một hồ nước trong vắt phẳng lặng. Chìm nổi trắc trở mới bộc lộ khí khái, trong sáng như gương mới có thể thấy tâm tính. Vứt bỏ bụi cuốn đầy trời, quên lãng lịch sử nặng nề, dấn thân trong nước hồ trong vắt, dùng sự phong tình để quét sạch sự hùng hồn, dùng sự nên thơ để tẩy trừ hoang lạnh. Hồ Côn Minh là hồ lớn nhất trong khu vườn cảnh hoàng gia, nước hồ đầy ứ để thanh tẩy linh hồn, khơi thông kinh mạch cho đế vương và các phi tần.
Liễu rủ bờ đê khiến bạn cảm thấy mình như đang đứng bên hồ Tây Tử, ánh nước loang loáng diễm lệ vẽ nên một giấc mộng đẹp Giang Nam, ở nơi phương Bắc mà có thể thưởng thức sự lãng mạn và dịu dàng của hồ núi, hỏi sao chẳng khiến người ta quyến luyến không rời? Sức mạnh trong cương có nhu, trong nhu có cương này còn hơn cả đao kiếm lạnh lẽo, không cần chém giết, mà đã có thể tiêu tan hồn cốt. Đế hậu năm nào chèo thuyền trên hồ Côn Minh, trên dòng nước uốn lượn, đi qua muôn trùng non nước, trải hết mọi nỗi khổ đau đến vui sướng, mượn nước hồ để nuôi dưỡng tâm sự, tẩy rửa nhân sinh. Nếu như có duyên, còn có thể nhìn thấy bóng dáng xinh đẹp của họ trên hồ Côn Minh trong xanh như ngọc bích, dù cho cách biệt thời đại, nhưng phong thái vẫn như xưa.
Từ trong giấc mộng tinh khiết, trong veo lên trên bờ, lại say đắm bởi Trường Lang [6] khúc khuỷu quanh co trước mắt. Trái tim của một người hóa ra lại là nơi mềm yếu nhất trên thế gian, một chiếc lá rụng, một giọt mưa thu đều ấp ủ những giả tưởng vô tận, nuôi dưỡng những cảm xúc ướt át. Kiến trúc cổ kính, đoan trang và thanh nhã này là một con đường cổ thông với văn minh lịch sử, bạn chỉ cần đi dọc hành lang là có thể thỏa thích xuyên qua phong cảnh nghìn năm, từ thời Minh, Thanh cho tới Đường, Tống, lại đến Ngụy, Tấn, thậm chí còn có thể đến những niên đại xa hơn nữa.
[6] Hành lang dài 728m nổi tiếng của Di Hòa Viên, trên phần vòm mái và cột kèo có nhiều hình vẽ tinh xảo.
Bởi vì trên nóc hành lang và cột trụ là những hình vẽ và hoa văn rực rỡ mỹ lệ, ngoài hoa điểu muông thú, non nước nhân vật ra, còn chất chứa vô vàn câu chuyện lịch sử, truyền thuyết thần thoại. Hành lang đầy tranh vẽ như một bộ sách lịch sử, bạn đắm mình vào những điền cổ, hoàn toàn quên mất mình đang ở triều đại nào, có thể bước chân ra ngoài được hay không? Nét vẽ phác họa tình tiết, màu sắc điểm tô tang thương, các họa sư cung đình đã rót vào đó biết bao tình cảm mới có thể đem lại sức sống hừng hực cho những bức tranh này. Chúng có thể sống lại trong bất cứ ảo giác nào, diễn lại những ngày tháng đa sắc màu của quá vãng. Những câu chuyện đã từng xảy ra chìm trong mực nước, rồi sinh sôi theo năm tháng, để người đời sau có thể thấu hiểu tinh thần, bản tính và phong cốt của người Trung Quốc.
Ký ức là một vầng trăng sáng treo lơ lửng trên tầng không, là nước hồ lặng chìm sâu dưới lòng hồ, nó sẽ ẩn mình, nhưng lại không bỏ trôn. Dạo chơi trong khu hồ cảnh phía sau Di Hòa Viên, dõi mắt trông xa con đường Tô Châu mô phỏng các thị trấn sông nước Giang Nam ở hai bên bờ, tưởng tượng ra sự ngưỡng mộ đối với sông nước Giang Nam, sự khát khao đời sống phố thị của đế vương năm xưa. Cái thú chơi nhàn dật giàu có hoa lệ này khiến người ta không khỏi tiếc nuối trong lòng.
Một hoàng đế nắm giữ thiên hạ, nhưng lại chưa từng được nếm trải đời sống an nhàn tự tại của bình dân bách tính, há chẳng phải sự giàu có của cuộc sống không thể lấp đầy những nghèo nàn của tâm hồn hay sao? Ngài đã tu sửa khí thế huy hoàng của vườn cảnh hoàng gia thành sự thanh nhã, tú mỹ của vườn cảnh Giang Nam, là vì muốn vứt bỏ vương quyền nặng nề, đổi lấy hạnh phúc bình dị. Nhưng vận mệnh có thể sáng tạo, chứ thực sự khó có thể sửa đổi, dùng sự giàu sang để đổi lấy sự giàu sang, thì chỉ là sự giàu sang thêm gấp bội; dùng sự trống rỗng để thay thế sự trống rỗng, lại càng là trống rỗng gấp bội. Một khi đã rơi vào vòng luân hồi của sinh mệnh, cho dù là bậc trí giả cũng thật khó mà tỉnh táo bước ra.
Trên con đường nhân sinh, có người thấu hiểu từ rất sớm, có người lại giác ngộ quá muộn, đến phút chót, tất cả đều sẽ quay về điểm cuối cùng. Người cảm tính sẽ nói, có bắt đầu rồi mới có kết thúc; người phóng khoáng sẽ nói, có kết cục rồi mới có bắt đầu. Cho dù bạn thuộc về kiểu người nào, đều có thể coi là đã hiểu rõ cuộc hành trình của mình, mỗi một con đường đều tràn ngập hy vọng, chỉ đợi bạn đến theo đuổi nó, để bạn đi xa hơn. Bạn mượn ngọn gió của núi Vạn Thọ để chuyển tải khí độ tiêu sái, mượn nước hồ Côn Minh để thấm đẫm nhu tình, mượn những hình vẽ của Trường Lang để tư tưởng thêm phong phú. Bước ra khỏi Di Hòa Viên, là một khởi đầu thực sự, hay chỉ là một kết thúc tạm thời? Bạn hãy nhìn xem, thời gian vẫn còn đó, thứ trôi qua chỉ là những nhân vật xoay chuyển trong thời gian mà thôi.
Đi xuyên Trường Thành
Trường Thành là một con rồng khổng lồ ngủ say trên đại địa Hoa Hạ, là một đấng vương giả sừng sững trên núi xanh vạn cổ, là một dòng sông chảy ngang thời gian và không gian lịch sử. Nó kéo dài và vắt ngang thiên hạ từ xưa đến nay, rong ruổi trời mây vạn dặm, tạo thành bá chủ một thời, gánh đỡ cho vô số anh hùng nhiệt huyết. Con rồng khổng lồ khí thế nuốt non sông năm xưa nay chỉ còn là một cụ già lụ khụ chứa đựng ký ức dân tộc, trở nên sâu lắng mà trầm ngâm.
Một tòa Trường Thành đã mất đi sự sắc sảo của mình, tòa Trường Thành đã dập tắt chiến tranh, tòa Trường Thành đã ngừng gào thét, chúng ta còn có thể tìm kiếm ý chí chiến đấu dâng cao, thuốc súng phun trào, và cả nền văn minh giàu có trên những nếp nhăn tang thương của nó không?
Đương nhiên có thể. Bạn nhìn nó giống như một con rồng lớn vút bay, ở trên cao vòi vọi cúi nhìn chúng sinh, ngạo nghễ nhìn hoàng thành. Bạn thấy nó tựa con chim ưng sải cánh, dùng khí lượng tuyệt thế rẽ đôi tầng mây, hít nhả mây khói. Đây là Trường Thành mà con cháu của Viêm Hoàng [7] đã dùng máu nóng để dựng nên, đây là Trường Thành mà trai gái Trung Hoa dùng xương thịt đắp nên, nó có thể ngủ say, nhưng tuyệt đối không chết; nó có thể nín thinh, nhưng tuyệt đối không tê liệt.
[7] Người Trung Quốc coi mình là con cháu của Viêm đế và Hoàng đế.
Bạn là một người lữ hành tìm mộng hiện đại, từng bước lại gần nó, không cần ngựa quý gươm báu, không cần dây dài cung cong, chỉ đẩy bức tường thành kiên cố này ra là có thể đến được phong cảnh của bờ bên kia. Nó sẽ kể tường tận cho bạn nghe những chuyện ẩn giấu sau bức màn của năm tháng, vô số câu chuyện vương giả phong lưu, giáo vàng ngựa sắt, đuổi hươu giữa đồng; vô số câu chuyện chém lưng anh hùng, ngang dọc biên cương, máu biếc cát vàng; thậm chí còn ẩn chứa xiết bao câu chuyện nhi nữ tình trường, đoạn trường tâm can, xui người rơi lệ…
Chỉ có bước ra khỏi mảnh trời đáy giếng cỏn con nhỏ hẹp của đời người, mới có thể nhìn thấy phong cảnh tận cùng mênh mông. Trèo lên trên Trường Thành là để có được một phần hoài bão nhìn xa trông rộng; chân giẫm lên đại địa là để giữ gìn một phần vững chắc bình yên. Khi bạn đi trên những bậc thang lát bằng đá, sờ vào bức tường thành còn hơi ấm, xa trông thấy Phong Hỏa Đài [8] mịt mùng sương khói, suy tư như sóng biển dạt dào, cuồn cuộn không dứt.
[8] Thời xưa, người ta đốt lửa trên những đài cao để truyền những tin tức quan trọng, trên các công trình quân sự quan trọng, người ta xây ụ đài cao, mỗi khi có kẻ địch xâm lấn thì ban ngày bắn pháo hoa, ban đêm đốt lửa để báo động.
Tần Thủy Hoàng là người khai thiên lập địa, xây dựng Trường Thành trên lãnh thổ đại quốc mênh mông, dùng một bức tường thành để vạch ra giới hạn giữa hai vùng văn minh lễ nghi và man di, dùng bức tường thành dầy nặng để củng cố giấc mộng đế vương của ngài. Và truyền thuyết rung động lòng người về nàng Mạnh Khương khóc đổ Trường Thành được viết nên để nhấn mạnh rằng, muốn tạo ra một tòa Trường Thành kéo dài vạn dặm, tất yếu phải cần chịu tổn thất và hy sinh trong suốt quá trình, đúng sai công tội đã tự có lịch sử chứng giám. Xưa nay, kẻ muốn làm đại sự ắt không câu nệ tiểu tiết, khi đeo roi chịu tội, quất ngựa vung roi, mới có thể thu phục lãnh thổ rộng lớn hơn nữa. Tần Thủy Hoàng dựa vào tài trí và mưu lược hơn người, sự sắc bén và bạo ngược của mình để thống nhất đất nước, còn Trường Thành vạn cổ đã dựng nên một tấm bia bất hủ trên mảnh đất màu mỡ Đại Tần.
Một tòa Trường Thành vượt qua trùng trùng núi cao, từ đây vô vàn quân vương lỗi lạc ra đời, anh hùng các lộ đua nhau nổi dậy, tranh giành giang sơn. Tần Hoàng Hán Vũ, Đường Tông Tống Tổ[9], cho đến Thành Cát Tư Hãn bắn rơi chim điêu, có ai là không phải giành lấy giang sơn trên lưng ngựa? Sau này giang sơn của Đại Minh lại bị Đại Thanh cướp mất, Trường Thành khi đó đã không địch nổi gót ngựa của quân đội Bát Kỳ do Nô Nhĩ Cáp Xích thống lĩnh. Trường Thành sụp đổ, lại đúc nên biết bao nam nhi nhiệt huyết, những anh hùng đó tựa như vì sao buổi sớm nạm trên bầu trời lịch sử, như ký ức khắc trên vách Trường Thành.
[9] Tần Hoàng tức Tần Thủy Hoàng Doanh Chính, Hán Vũ tức Hán Vũ Đế Lưu Triệt, Đường Tông tức Đường Thái Tông Lý Thế Dân, Tống Tổ tức Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, được coi là các vị vua có công lao và sự nghiệp hiển hách trong lịch sử Trung Quốc.
Năm đó, hoàng đế Sùng Trinh nhà Minh giết Viên Sùng Hoán, thậm chí bị người đời sau nói là tự hủy Trường Thành, sự thực có phải là như thế hay không? Sự thay triều đổi đại cũng giống như ngày đêm giao nhau, khi đó giang sơn của Sùng Trinh chuyển sang buổi đêm, đối mặt với sự sụp đổ trong nay mai, ai là thực sự đang chìm trong giấc ngủ say, cần gió mây của thời đại đánh thức nó. Sau khi ngưng kết vẫn còn tan rã, sau Niết Bàn lại càng cần tuổi trẻ nhiệt huyết hơn, chúng ta hãy dùng những suy nghĩ tỉnh thức, lý tính để nhìn nhận sự huy hoàng, không hề hối hận đời này, kiếp này của nó.
Vẫn nói “Bất đáo Trường Thành phi hảo hán” - chưa đến Trường Thành thì chưa phải là hảo hán, khi bạn đứng trên trường thành, nhìn núi non nhấp nhô, rồng lớn cuộn vòng, lẽ nào bạn thực sự trở thành anh hùng rồi sao? Thời thái bình thịnh trị này, thực sự khiến người ta trân trọng, giữa thời loạn thế, muốn lên Trường Thành, cần phải trải qua biết bao chém giết máu tanh, đao kiếm tàn sát, cũng chưa chắc đã có thể đứng vững nơi đây, nhìn một dải đại địa Thần Châu[10] hào hùng. Bây giờ, bạn không chỉ có thể sải bước leo cao trên Trường Thành, mà còn có thể cao đàm khoát luận về lịch sử, thậm chí có thể hét lớn với non sông bao la, bạn là anh hùng, bởi vì bạn đã lên tới Trường Thành, bạn đã giẫm lên thân của con rồng khổng lồ, cúi trông càn khôn sáng rỡ.
[10] Thần Châu: Một cách gọi khác của Trung Hoa. Đúng thế, bạn đương nhiên cũng là anh hùng, làm anh hùng vị tất đã phải đổ máu hy sinh? Đây là một thời đại có thể cởi bỏ chiến bào, say đắm trong việc du ngoạn lãnh thổ của tổ quốc. Quay đầu nhìn lại quá khứ, năm đó, ba nước Tần, Triệu, Yên tu sửa Trường Thành ở phương Bắc là để chống lại sự xâm lược của Hung Nô, rợ Hồ. Còn Trường Thành ngày nay là địa điểm bảo tồn ký ức của dân tộc có từ lâu đời, là sợi dây nối liền văn minh tiến bộ, nó đo lường lịch sử bằng độ dài của rồng, sừng sững ở phương Đông bằng tinh thần của rồng. Cho nên, bạn có thể thoải mái hát vang, tiếng vọng của núi rừng là tiếng vỗ tay, tiếng sóng ì oạp của Hoàng Hà chính là tiếng hoan hô vang dội.
Một tòa Vạn Lý Trường Thành chính là một bộ sử văn hóa, bạn đến với hai bàn tay không, nhưng có thể nặng trĩu tay khi ra về. Thế nhưng Trường Thành lại là một bộ sách không có chữ, đặt trên chiếc bàn rộng lớn miền Đông Trung Quốc, để những người ngắm cảnh phải đọc nó bằng cả tâm hồn. Tường thành, khe ngắm bắn, Phong Hỏa Đài mà bạn chạm vào được chính là văn hóa, những kiến trúc vững chãi, bố cục tinh xảo đó và cả điêu khắc trang trí, tranh vẽ đều là nghệ thuật. Còn có thể phiêu lãng trong gió, ngâm thơ “Tần thời minh nguyệt Hán thời quan” (Trăng sáng thời Tần, quan ải thời Hán), bức tranh thủy mặc treo tít trên tầng mây, đều đang kể cho bạn sự tráng lệ và trang nghiêm của chốn quan ải hiểm yếu cổ xưa này, cùng với sự huy hoàng và hùng vĩ của đại địa Thần Châu này. Lịch sử là một tấm gương sáng, những câu chuyện có mơ hồ phức tạp hơn nữa cũng được soi sáng tỏ, cặn kẽ, và lịch sử đã soi tỏ hết thảy sự biến ảo khôn lường suốt dọc đường Trường Thành.
Nhân sinh là một sự thách thức, mà Vạn Lý Trường Thành sẽ khích lệ khí phách cương trực và khí khái anh hùng trong tim bạn. Con rồng khổng lồ này, vì ngủ say quá lâu nên năm tháng đã đẽo khắc quá nhiều dấu ấn trên cơ thể nó. Khi nhìn từ xa, bạn sẽ thấy nó nguy nga tráng lệ, ngang ngược cheo leo; khi lại gần, bạn sẽ thấy nó vảy bong tróc, tang thương chất chồng. Cho dù Trường Thành vắt qua rất nhiều tỉnh thành, nhưng Bắc Kinh trong tâm thức của người đời mới là thành phố gần với Trường Thành nhất. Đây là thành phố sinh ra các bậc đế vương, đời đời anh hùng nối tiếp, cô đặc những chuyện xưa tinh hoa nhất của lịch sử Trung Quốc.
Đến nay đoạn Trường Thành Bát Đạt Lĩnh còn được người đời sau không ngừng xây mới, tu sửa những dấu tích bị thời gian ăn mòn. Chỉ là sau khi tu bổ, còn có thể phục hồi lại dáng vẻ trước đây không? Trường Thành được xây dựng qua nhiều triều đại khác nhau, muốn khôi phục nguyên dạng, trừ phi thời gian quay ngược mà thôi. Trong lịch sử có những câu chuyện tương tự nhau, nhưng không cuộc chiến nào giống cuộc chiến nào. Hoài cổ là một phẩm chất đẹp của cuộc đời, sáng tạo cái mới lại là sự phi thường của tinh thần. Trường Thành đã không hề chùn bước trong việc bảo vệ trai gái Hoa Hạ, đến nay, nó cũng xứng đáng được hưởng thụ sự tôn vinh tối cao của dân tộc Trung Hoa. Nó là tượng trưng cho vương giả, tượng trưng cho anh hùng, là niềm kiêu hãnh của dân tộc Trung Hoa, cũng là sự tự hào của người Trung Quốc.
Trường Thành như một dòng sông ngưng đọng, sự im lìm của nó không phải là lạc hậu, không phải là bảo thủ, càng không phải là khép kín, mà là một sự kiên nhẫn sâu xa, lặng lẽ bảo vệ nền văn minh cổ xưa. Nên biết rằng vô thanh thắng hữu thanh, chỗ không lưu danh thì sẽ tự lưu danh. Nên biết rằng, chốn im lìm còn rung động hơn cả chốn huyên náo, nơi không vô danh sẽ tự nổi danh. Mà kênh đào Đại Vận Hà Kinh Hàng[11] từ nơi xa xôi nhìn nó, ngươc lại lại bị thời gian lạnh nhạt, đã không còn thấy cảnh tượng phồn hoa trăm thuyền nghìn tàu thuở nào. Cùng là quân vương, khí thế khi Tần Thủy Hoàng ra sức quét sạch thế lực sáu nước vượt xa tội ác hoang dâm vô độ của Tùy Dạng Đế, thế nhưng, công trình to lớn Đại Vận Hà do Tùy Dạng Đế khai thác lại không hề thua kém Tần Thủy Hoàng về độ dài của thời gian tu sửa. Cho dù động cơ khác nhau, nhưng sự phồn vinh đỉnh thịnh mà hai công trình đem lại cho hậu thế là như nhau.
[11] Đại Vận Hà Kinh Hàng: Con sông nhân tạo nối liền Hàng Châu với Bắc Kinh.
Đôi khi, giữa sai và đúng, thịnh và suy là một giới hạn mơ hồ. Thiên hạ mênh mông như một ván cờ, hễ sảy chân là thua thảm hại. Có bao nhiêu tan vỡ trong toàn vẹn, thì sẽ có bấy nhiêu mạnh mẽ trong yếu mềm. Khi Tùy Dạng Đế mơ đến sự thanh tú của bờ nước Giang Nam, hoa mai dưới trăng lạnh, thì Tần Thủy Hoàng lại hoài niệm đến hào tình chốn đại mạc biên cương, vạn dặm trời mây. Cho dù thắng làm vua, thua làm giặc, tất cả rồi cũng đều tan tác thành khói bụi mịt mù, vạch những dấu chấm nông sâu không đều trên bầu trời lịch sử.
Trên bức tường không chữ này bạn có thể sờ thấy những gì? Xuyên qua cái lạnh lẽo của đá tảng để chạm vào sự ấm áp của đế vương? Xuyên qua đường vân của gạch cổ để tái diễn lại lịch sử đã qua? Đại khái có rất nhiều thanh âm đang căn vặn, liệu Trường Thành vĩ đại hùng hồn này cũng có một ngày không thoát khỏi lời nguyền của số phận, oanh liệt đổ ập xuống trong gió mây lịch sử không? Chúng ta hãy bình thản, lý trí đối diện với chìm nổi thăng trầm, thuận theo lẽ tự nhiên. Phải tin rằng, trên thế gian này còn rất nhiều linh hồn bất tử, ví như những anh hùng bị khóa chặt trong tháng năm đó, ví như con rồng khổng lồ uốn khúc trên đỉnh núi xanh này.
Há chẳng biết, sau khi nếm mật nằm gai, lại có thể chỉ kiếm hỏi giang sơn, hâm rượu luận anh hùng hay sao?.
Những người đến với Bắc Kinh luôn để mình rơi sâu vào biến đổi lịch sử hùng hồn, tận tâm thưởng thức hết sự uy nghiêm và hùng tráng của cảnh trí hoàng thành. Nhưng lại không để ý rằng Bắc Kinh cũng là một nơi nuôi dưỡng nhàn tình và phong nhã, chứa đựng sự nên thơ và lãng mạn. Có một vùng non nước như tranh, vừa mang sự phú quý hiển hách của cung điện hoàng gia, lại vừa có vẻ phong tình yểu điệu của bờ hồ Tây Tử, còn có những đặc trưng thiên nhiên trang nhã của vườn cảnh vùng Tô Châu. Đó chính là Di Hòa Viên, một vườn cảnh hoàng thành hội tụ đầy đủ phong cách vương giả, lại vừa dung nạp phong thái sông nước vùng Giang Nam.
Nó giống như một vị quân vương trác tuyệt phi phàm, nhận ân sủng mà kiêu căng, một mình cao quý giữa cung đình áo mũ như mây. Nó tựa như một bậc giai nhân phong tư yểu điệu, lạc xuống trần gian mà không nhuốm thói tục, một mình tao nhã giữa bụi hoa muôn hồng ngàn tía. Nó lại như một danh sĩ thanh cao phóng khoáng, giữa hồng trần mà không mất lòng ai, một mình an định giữa loạn thế gió cuốn mây trôi. Cứ như thế ngạo nghễ đứng giữa đất trời, trang nghiêm trên nước, ẩn mình giữa thành đô, bình thản nhìn ngàn vạn khách qua đường đến đây du ngoạn, mà sau đó lại khắc sâu ghi nhớ, cả đời chẳng quên.
Những linh hồn bị vương triều phong kiến cầm tù hàng nghìn năm, dưới sự chiếu rọi của ánh sáng đất nước Trung Quốc mới đã được giải phóng, giống như làn gió xuân ấm áp, thổi qua hết lượt non sông rộng lớn đang say ngủ, nền văn minh cổ xưa đã bừng tỉnh trong buổi bình minh, như một cụ già héo hắt, nay chỉ trong một đêm đã ngời ngời sức sống. Vầng mặt trời màu vàng kim ngưng tụ sức mạnh to lớn, ngang tàng nhìn gió mây với tư thế nước lớn nổi trội, sừng sững phương Đông. Kinh thành bấy giờ, vạn vật hớn hở, phong lưu nhất phái, có hào khí của vùng Yên Triệu[4], tráng ca của Dịch Thủy [5], lại thêm sự trang nhã và véo von của phong tình nước Nam.
[4] Yên, Triệu: Hai nước lớn thời Tiên Tần, bao gồm khu vực Bắc Kinh, Thiên Tân và phía bắc Hà Nam, phía nam Nội Mông Cổ ngày nay.
[5] Dịch Thủy: sông Dịch Thủy, phía tây tỉnh Hà Bắc. Tương truyền là nơi năm xưa thái tử Đan nước Yên tiễn Kinh Kha lên đường hành thích vua Tần.
Khi bạn bước vào Di Hòa Viên, mặc ý dạo chơi trong non nước của bức tranh cung đình, sao không thể cảm thán các họa gia hoàng cung năm xưa khéo léo cầu kỳ đến nhường nào mới có thể dùng những đường nét tinh xảo sống động vẽ ra bức tranh sơn dầu đậm nhạt đan xen này? Triều Thanh đã biến mất, đế vương nay không còn, những người thợ vẽ cũng mất dấu, chỉ còn lại mỹ nhân tuổi đã về chiều, tuy kinh qua hết hưng suy vinh nhục, nhưng vẻ đẹp vẫn còn, phong tình vạn chủng.
Đi vào cánh cửa Đông Cung cao xa vòi vọi năm nào, dạo quanh Nhân Thọ Điện và Lạc Thọ Đường như thể vừa bước vào trong giấc mộng vinh hoa của một đế vương nào đó triều Thanh, ngài vừa mới thức giấc mà bạn đã bắt đầu mơ rồi. Mi cửa thềm phòng màu đỏ son, những hình vẽ hoa văn như gấm thêu vẽ bằng màu sáp đều làm nổi bật sự phú quý và hào hoa. Đây là vương quốc của rồng, chúng được khắc, vẽ một cách tinh xảo trên khắp mọi vị trí trong các cung điện, hình thái sinh động như thật, tựa như chỉ cần bạn không chú ý, chúng sẽ bay vọt lên, xóa bỏ cảnh tượng hư ảo trong bức tranh này, nói cho bạn biêt, chúng là bậc vương giả có khí huyết, cưỡi mây vượt gió với tinh thần của rồng.
Vị hoàng đế mình mặc long bào, đầu đội vương miện ấy là Càn Long hay là Quang Tự? Họ đều là bậc cửu ngũ chí tôn, nhưng lại mang vận mệnh chẳng giống nhau, cho dù là ngang tàng ngạo nghễ hay khiếp nhược đớn hèn, đến nay đều chỉ còn lại bóng dáng như gió như mây, là thành hay bại đều mặc đời sau bình luận. Há chẳng biết quân vương nhất thống thiên hạ, trị lý sơn hà, cần phải có khí phách của đế vương, chí khí lỗi lạc, còn phải có tu dưỡng tâm tính, hết sức dịu dàng, thậm chí còn phải tìm hiểu vũ trụ, thấu hiểu thiên lý. Sau cơn gió mưa vô hạn, là bình tĩnh đến thâm sâu, mà trong khu vườn cảnh của đế vương này, người đời sau có thể không kiêng kỵ gì thăm hỏi lịch sử, nhàn nhã tự tại tìm hiểu chuyện xưa.
Con người sống trong hồng trần mênh mang, nhìn vạn vật thịnh suy, luôn muốn tìm một linh hồn trong sạch thuộc về chính mình. Lên núi Vạn Thọ, chính là mượn khí vận tươi mát của thiên nhiên để thanh lọc tâm trí, mặc cho tư duy bay bổng trong không gian tịch liêu, ngắm trông non sông tráng lệ, nhìn hết gió mây vạn dặm. Đây là một tổ hợp kiến trúc hoàng gia bậc nhất của phương Đông, vắt ngang núi Vạn Thọ, khí thế hùng vĩ, nguy nga hoành tráng. Tựa như một cơn gió mát lướt qua là có thể lay động lòng người, một đám mây trắng bồng bềnh trôi là có thể dạt dào vô cùng.
Dừng lại ở Phật Hương Các, cảm nhận đế vương tự nghìn xưa đang truy tìm sự thức tỉnh trong Thiền giới vô trần, chứng đắc được minh tâm kiến tính ở Phật cảnh linh đài thanh tịnh, sáng rõ, đó là phúc tuệ viên mãn đến nhường nào? Đứng trên đỉnh núi, vạn tượng mây khói hội tụ, chỉ có dùng sự nhỏ nhoi của bản thân để chiêm bái sự rộng lớn của tự nhiên, mới có thể lĩnh ngộ được sự mênh mông như biển cả, khí thế dào dạt như sóng lớn của trí tuệ. Thành Bắc Kinh nhìn từ xa là một bức tranh cuộn phồn hoa diễm lệ, bách tính thiên hạ cùng tắm trong sự thịnh vượng và yên bình. Cúi xuống nhìn hồ Côn Minh, đây là một khối mỹ ngọc được khảm bên cạnh, lặng lẽ nằm trong Di Hòa Viên, cất giữ khối tình ý mềm dịu tận đáy tim của bậc đế vương đó.
Lên cao không khỏi bị lạnh, sát nước sẽ được tịnh tâm. Muốn thưởng lãm hết phong cảnh hùng vĩ rộng lớn của núi Vạn Thọ, thì phải nén chặt những cảm xúc bất định, chìm lắng trong một hồ nước trong vắt phẳng lặng. Chìm nổi trắc trở mới bộc lộ khí khái, trong sáng như gương mới có thể thấy tâm tính. Vứt bỏ bụi cuốn đầy trời, quên lãng lịch sử nặng nề, dấn thân trong nước hồ trong vắt, dùng sự phong tình để quét sạch sự hùng hồn, dùng sự nên thơ để tẩy trừ hoang lạnh. Hồ Côn Minh là hồ lớn nhất trong khu vườn cảnh hoàng gia, nước hồ đầy ứ để thanh tẩy linh hồn, khơi thông kinh mạch cho đế vương và các phi tần.
Liễu rủ bờ đê khiến bạn cảm thấy mình như đang đứng bên hồ Tây Tử, ánh nước loang loáng diễm lệ vẽ nên một giấc mộng đẹp Giang Nam, ở nơi phương Bắc mà có thể thưởng thức sự lãng mạn và dịu dàng của hồ núi, hỏi sao chẳng khiến người ta quyến luyến không rời? Sức mạnh trong cương có nhu, trong nhu có cương này còn hơn cả đao kiếm lạnh lẽo, không cần chém giết, mà đã có thể tiêu tan hồn cốt. Đế hậu năm nào chèo thuyền trên hồ Côn Minh, trên dòng nước uốn lượn, đi qua muôn trùng non nước, trải hết mọi nỗi khổ đau đến vui sướng, mượn nước hồ để nuôi dưỡng tâm sự, tẩy rửa nhân sinh. Nếu như có duyên, còn có thể nhìn thấy bóng dáng xinh đẹp của họ trên hồ Côn Minh trong xanh như ngọc bích, dù cho cách biệt thời đại, nhưng phong thái vẫn như xưa.
Từ trong giấc mộng tinh khiết, trong veo lên trên bờ, lại say đắm bởi Trường Lang [6] khúc khuỷu quanh co trước mắt. Trái tim của một người hóa ra lại là nơi mềm yếu nhất trên thế gian, một chiếc lá rụng, một giọt mưa thu đều ấp ủ những giả tưởng vô tận, nuôi dưỡng những cảm xúc ướt át. Kiến trúc cổ kính, đoan trang và thanh nhã này là một con đường cổ thông với văn minh lịch sử, bạn chỉ cần đi dọc hành lang là có thể thỏa thích xuyên qua phong cảnh nghìn năm, từ thời Minh, Thanh cho tới Đường, Tống, lại đến Ngụy, Tấn, thậm chí còn có thể đến những niên đại xa hơn nữa.
[6] Hành lang dài 728m nổi tiếng của Di Hòa Viên, trên phần vòm mái và cột kèo có nhiều hình vẽ tinh xảo.
Bởi vì trên nóc hành lang và cột trụ là những hình vẽ và hoa văn rực rỡ mỹ lệ, ngoài hoa điểu muông thú, non nước nhân vật ra, còn chất chứa vô vàn câu chuyện lịch sử, truyền thuyết thần thoại. Hành lang đầy tranh vẽ như một bộ sách lịch sử, bạn đắm mình vào những điền cổ, hoàn toàn quên mất mình đang ở triều đại nào, có thể bước chân ra ngoài được hay không? Nét vẽ phác họa tình tiết, màu sắc điểm tô tang thương, các họa sư cung đình đã rót vào đó biết bao tình cảm mới có thể đem lại sức sống hừng hực cho những bức tranh này. Chúng có thể sống lại trong bất cứ ảo giác nào, diễn lại những ngày tháng đa sắc màu của quá vãng. Những câu chuyện đã từng xảy ra chìm trong mực nước, rồi sinh sôi theo năm tháng, để người đời sau có thể thấu hiểu tinh thần, bản tính và phong cốt của người Trung Quốc.
Ký ức là một vầng trăng sáng treo lơ lửng trên tầng không, là nước hồ lặng chìm sâu dưới lòng hồ, nó sẽ ẩn mình, nhưng lại không bỏ trôn. Dạo chơi trong khu hồ cảnh phía sau Di Hòa Viên, dõi mắt trông xa con đường Tô Châu mô phỏng các thị trấn sông nước Giang Nam ở hai bên bờ, tưởng tượng ra sự ngưỡng mộ đối với sông nước Giang Nam, sự khát khao đời sống phố thị của đế vương năm xưa. Cái thú chơi nhàn dật giàu có hoa lệ này khiến người ta không khỏi tiếc nuối trong lòng.
Một hoàng đế nắm giữ thiên hạ, nhưng lại chưa từng được nếm trải đời sống an nhàn tự tại của bình dân bách tính, há chẳng phải sự giàu có của cuộc sống không thể lấp đầy những nghèo nàn của tâm hồn hay sao? Ngài đã tu sửa khí thế huy hoàng của vườn cảnh hoàng gia thành sự thanh nhã, tú mỹ của vườn cảnh Giang Nam, là vì muốn vứt bỏ vương quyền nặng nề, đổi lấy hạnh phúc bình dị. Nhưng vận mệnh có thể sáng tạo, chứ thực sự khó có thể sửa đổi, dùng sự giàu sang để đổi lấy sự giàu sang, thì chỉ là sự giàu sang thêm gấp bội; dùng sự trống rỗng để thay thế sự trống rỗng, lại càng là trống rỗng gấp bội. Một khi đã rơi vào vòng luân hồi của sinh mệnh, cho dù là bậc trí giả cũng thật khó mà tỉnh táo bước ra.
Trên con đường nhân sinh, có người thấu hiểu từ rất sớm, có người lại giác ngộ quá muộn, đến phút chót, tất cả đều sẽ quay về điểm cuối cùng. Người cảm tính sẽ nói, có bắt đầu rồi mới có kết thúc; người phóng khoáng sẽ nói, có kết cục rồi mới có bắt đầu. Cho dù bạn thuộc về kiểu người nào, đều có thể coi là đã hiểu rõ cuộc hành trình của mình, mỗi một con đường đều tràn ngập hy vọng, chỉ đợi bạn đến theo đuổi nó, để bạn đi xa hơn. Bạn mượn ngọn gió của núi Vạn Thọ để chuyển tải khí độ tiêu sái, mượn nước hồ Côn Minh để thấm đẫm nhu tình, mượn những hình vẽ của Trường Lang để tư tưởng thêm phong phú. Bước ra khỏi Di Hòa Viên, là một khởi đầu thực sự, hay chỉ là một kết thúc tạm thời? Bạn hãy nhìn xem, thời gian vẫn còn đó, thứ trôi qua chỉ là những nhân vật xoay chuyển trong thời gian mà thôi.
Đi xuyên Trường Thành
Trường Thành là một con rồng khổng lồ ngủ say trên đại địa Hoa Hạ, là một đấng vương giả sừng sững trên núi xanh vạn cổ, là một dòng sông chảy ngang thời gian và không gian lịch sử. Nó kéo dài và vắt ngang thiên hạ từ xưa đến nay, rong ruổi trời mây vạn dặm, tạo thành bá chủ một thời, gánh đỡ cho vô số anh hùng nhiệt huyết. Con rồng khổng lồ khí thế nuốt non sông năm xưa nay chỉ còn là một cụ già lụ khụ chứa đựng ký ức dân tộc, trở nên sâu lắng mà trầm ngâm.
Một tòa Trường Thành đã mất đi sự sắc sảo của mình, tòa Trường Thành đã dập tắt chiến tranh, tòa Trường Thành đã ngừng gào thét, chúng ta còn có thể tìm kiếm ý chí chiến đấu dâng cao, thuốc súng phun trào, và cả nền văn minh giàu có trên những nếp nhăn tang thương của nó không?
Đương nhiên có thể. Bạn nhìn nó giống như một con rồng lớn vút bay, ở trên cao vòi vọi cúi nhìn chúng sinh, ngạo nghễ nhìn hoàng thành. Bạn thấy nó tựa con chim ưng sải cánh, dùng khí lượng tuyệt thế rẽ đôi tầng mây, hít nhả mây khói. Đây là Trường Thành mà con cháu của Viêm Hoàng [7] đã dùng máu nóng để dựng nên, đây là Trường Thành mà trai gái Trung Hoa dùng xương thịt đắp nên, nó có thể ngủ say, nhưng tuyệt đối không chết; nó có thể nín thinh, nhưng tuyệt đối không tê liệt.
[7] Người Trung Quốc coi mình là con cháu của Viêm đế và Hoàng đế.
Bạn là một người lữ hành tìm mộng hiện đại, từng bước lại gần nó, không cần ngựa quý gươm báu, không cần dây dài cung cong, chỉ đẩy bức tường thành kiên cố này ra là có thể đến được phong cảnh của bờ bên kia. Nó sẽ kể tường tận cho bạn nghe những chuyện ẩn giấu sau bức màn của năm tháng, vô số câu chuyện vương giả phong lưu, giáo vàng ngựa sắt, đuổi hươu giữa đồng; vô số câu chuyện chém lưng anh hùng, ngang dọc biên cương, máu biếc cát vàng; thậm chí còn ẩn chứa xiết bao câu chuyện nhi nữ tình trường, đoạn trường tâm can, xui người rơi lệ…
Chỉ có bước ra khỏi mảnh trời đáy giếng cỏn con nhỏ hẹp của đời người, mới có thể nhìn thấy phong cảnh tận cùng mênh mông. Trèo lên trên Trường Thành là để có được một phần hoài bão nhìn xa trông rộng; chân giẫm lên đại địa là để giữ gìn một phần vững chắc bình yên. Khi bạn đi trên những bậc thang lát bằng đá, sờ vào bức tường thành còn hơi ấm, xa trông thấy Phong Hỏa Đài [8] mịt mùng sương khói, suy tư như sóng biển dạt dào, cuồn cuộn không dứt.
[8] Thời xưa, người ta đốt lửa trên những đài cao để truyền những tin tức quan trọng, trên các công trình quân sự quan trọng, người ta xây ụ đài cao, mỗi khi có kẻ địch xâm lấn thì ban ngày bắn pháo hoa, ban đêm đốt lửa để báo động.
Tần Thủy Hoàng là người khai thiên lập địa, xây dựng Trường Thành trên lãnh thổ đại quốc mênh mông, dùng một bức tường thành để vạch ra giới hạn giữa hai vùng văn minh lễ nghi và man di, dùng bức tường thành dầy nặng để củng cố giấc mộng đế vương của ngài. Và truyền thuyết rung động lòng người về nàng Mạnh Khương khóc đổ Trường Thành được viết nên để nhấn mạnh rằng, muốn tạo ra một tòa Trường Thành kéo dài vạn dặm, tất yếu phải cần chịu tổn thất và hy sinh trong suốt quá trình, đúng sai công tội đã tự có lịch sử chứng giám. Xưa nay, kẻ muốn làm đại sự ắt không câu nệ tiểu tiết, khi đeo roi chịu tội, quất ngựa vung roi, mới có thể thu phục lãnh thổ rộng lớn hơn nữa. Tần Thủy Hoàng dựa vào tài trí và mưu lược hơn người, sự sắc bén và bạo ngược của mình để thống nhất đất nước, còn Trường Thành vạn cổ đã dựng nên một tấm bia bất hủ trên mảnh đất màu mỡ Đại Tần.
Một tòa Trường Thành vượt qua trùng trùng núi cao, từ đây vô vàn quân vương lỗi lạc ra đời, anh hùng các lộ đua nhau nổi dậy, tranh giành giang sơn. Tần Hoàng Hán Vũ, Đường Tông Tống Tổ[9], cho đến Thành Cát Tư Hãn bắn rơi chim điêu, có ai là không phải giành lấy giang sơn trên lưng ngựa? Sau này giang sơn của Đại Minh lại bị Đại Thanh cướp mất, Trường Thành khi đó đã không địch nổi gót ngựa của quân đội Bát Kỳ do Nô Nhĩ Cáp Xích thống lĩnh. Trường Thành sụp đổ, lại đúc nên biết bao nam nhi nhiệt huyết, những anh hùng đó tựa như vì sao buổi sớm nạm trên bầu trời lịch sử, như ký ức khắc trên vách Trường Thành.
[9] Tần Hoàng tức Tần Thủy Hoàng Doanh Chính, Hán Vũ tức Hán Vũ Đế Lưu Triệt, Đường Tông tức Đường Thái Tông Lý Thế Dân, Tống Tổ tức Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, được coi là các vị vua có công lao và sự nghiệp hiển hách trong lịch sử Trung Quốc.
Năm đó, hoàng đế Sùng Trinh nhà Minh giết Viên Sùng Hoán, thậm chí bị người đời sau nói là tự hủy Trường Thành, sự thực có phải là như thế hay không? Sự thay triều đổi đại cũng giống như ngày đêm giao nhau, khi đó giang sơn của Sùng Trinh chuyển sang buổi đêm, đối mặt với sự sụp đổ trong nay mai, ai là thực sự đang chìm trong giấc ngủ say, cần gió mây của thời đại đánh thức nó. Sau khi ngưng kết vẫn còn tan rã, sau Niết Bàn lại càng cần tuổi trẻ nhiệt huyết hơn, chúng ta hãy dùng những suy nghĩ tỉnh thức, lý tính để nhìn nhận sự huy hoàng, không hề hối hận đời này, kiếp này của nó.
Vẫn nói “Bất đáo Trường Thành phi hảo hán” - chưa đến Trường Thành thì chưa phải là hảo hán, khi bạn đứng trên trường thành, nhìn núi non nhấp nhô, rồng lớn cuộn vòng, lẽ nào bạn thực sự trở thành anh hùng rồi sao? Thời thái bình thịnh trị này, thực sự khiến người ta trân trọng, giữa thời loạn thế, muốn lên Trường Thành, cần phải trải qua biết bao chém giết máu tanh, đao kiếm tàn sát, cũng chưa chắc đã có thể đứng vững nơi đây, nhìn một dải đại địa Thần Châu[10] hào hùng. Bây giờ, bạn không chỉ có thể sải bước leo cao trên Trường Thành, mà còn có thể cao đàm khoát luận về lịch sử, thậm chí có thể hét lớn với non sông bao la, bạn là anh hùng, bởi vì bạn đã lên tới Trường Thành, bạn đã giẫm lên thân của con rồng khổng lồ, cúi trông càn khôn sáng rỡ.
[10] Thần Châu: Một cách gọi khác của Trung Hoa. Đúng thế, bạn đương nhiên cũng là anh hùng, làm anh hùng vị tất đã phải đổ máu hy sinh? Đây là một thời đại có thể cởi bỏ chiến bào, say đắm trong việc du ngoạn lãnh thổ của tổ quốc. Quay đầu nhìn lại quá khứ, năm đó, ba nước Tần, Triệu, Yên tu sửa Trường Thành ở phương Bắc là để chống lại sự xâm lược của Hung Nô, rợ Hồ. Còn Trường Thành ngày nay là địa điểm bảo tồn ký ức của dân tộc có từ lâu đời, là sợi dây nối liền văn minh tiến bộ, nó đo lường lịch sử bằng độ dài của rồng, sừng sững ở phương Đông bằng tinh thần của rồng. Cho nên, bạn có thể thoải mái hát vang, tiếng vọng của núi rừng là tiếng vỗ tay, tiếng sóng ì oạp của Hoàng Hà chính là tiếng hoan hô vang dội.
Một tòa Vạn Lý Trường Thành chính là một bộ sử văn hóa, bạn đến với hai bàn tay không, nhưng có thể nặng trĩu tay khi ra về. Thế nhưng Trường Thành lại là một bộ sách không có chữ, đặt trên chiếc bàn rộng lớn miền Đông Trung Quốc, để những người ngắm cảnh phải đọc nó bằng cả tâm hồn. Tường thành, khe ngắm bắn, Phong Hỏa Đài mà bạn chạm vào được chính là văn hóa, những kiến trúc vững chãi, bố cục tinh xảo đó và cả điêu khắc trang trí, tranh vẽ đều là nghệ thuật. Còn có thể phiêu lãng trong gió, ngâm thơ “Tần thời minh nguyệt Hán thời quan” (Trăng sáng thời Tần, quan ải thời Hán), bức tranh thủy mặc treo tít trên tầng mây, đều đang kể cho bạn sự tráng lệ và trang nghiêm của chốn quan ải hiểm yếu cổ xưa này, cùng với sự huy hoàng và hùng vĩ của đại địa Thần Châu này. Lịch sử là một tấm gương sáng, những câu chuyện có mơ hồ phức tạp hơn nữa cũng được soi sáng tỏ, cặn kẽ, và lịch sử đã soi tỏ hết thảy sự biến ảo khôn lường suốt dọc đường Trường Thành.
Nhân sinh là một sự thách thức, mà Vạn Lý Trường Thành sẽ khích lệ khí phách cương trực và khí khái anh hùng trong tim bạn. Con rồng khổng lồ này, vì ngủ say quá lâu nên năm tháng đã đẽo khắc quá nhiều dấu ấn trên cơ thể nó. Khi nhìn từ xa, bạn sẽ thấy nó nguy nga tráng lệ, ngang ngược cheo leo; khi lại gần, bạn sẽ thấy nó vảy bong tróc, tang thương chất chồng. Cho dù Trường Thành vắt qua rất nhiều tỉnh thành, nhưng Bắc Kinh trong tâm thức của người đời mới là thành phố gần với Trường Thành nhất. Đây là thành phố sinh ra các bậc đế vương, đời đời anh hùng nối tiếp, cô đặc những chuyện xưa tinh hoa nhất của lịch sử Trung Quốc.
Đến nay đoạn Trường Thành Bát Đạt Lĩnh còn được người đời sau không ngừng xây mới, tu sửa những dấu tích bị thời gian ăn mòn. Chỉ là sau khi tu bổ, còn có thể phục hồi lại dáng vẻ trước đây không? Trường Thành được xây dựng qua nhiều triều đại khác nhau, muốn khôi phục nguyên dạng, trừ phi thời gian quay ngược mà thôi. Trong lịch sử có những câu chuyện tương tự nhau, nhưng không cuộc chiến nào giống cuộc chiến nào. Hoài cổ là một phẩm chất đẹp của cuộc đời, sáng tạo cái mới lại là sự phi thường của tinh thần. Trường Thành đã không hề chùn bước trong việc bảo vệ trai gái Hoa Hạ, đến nay, nó cũng xứng đáng được hưởng thụ sự tôn vinh tối cao của dân tộc Trung Hoa. Nó là tượng trưng cho vương giả, tượng trưng cho anh hùng, là niềm kiêu hãnh của dân tộc Trung Hoa, cũng là sự tự hào của người Trung Quốc.
Trường Thành như một dòng sông ngưng đọng, sự im lìm của nó không phải là lạc hậu, không phải là bảo thủ, càng không phải là khép kín, mà là một sự kiên nhẫn sâu xa, lặng lẽ bảo vệ nền văn minh cổ xưa. Nên biết rằng vô thanh thắng hữu thanh, chỗ không lưu danh thì sẽ tự lưu danh. Nên biết rằng, chốn im lìm còn rung động hơn cả chốn huyên náo, nơi không vô danh sẽ tự nổi danh. Mà kênh đào Đại Vận Hà Kinh Hàng[11] từ nơi xa xôi nhìn nó, ngươc lại lại bị thời gian lạnh nhạt, đã không còn thấy cảnh tượng phồn hoa trăm thuyền nghìn tàu thuở nào. Cùng là quân vương, khí thế khi Tần Thủy Hoàng ra sức quét sạch thế lực sáu nước vượt xa tội ác hoang dâm vô độ của Tùy Dạng Đế, thế nhưng, công trình to lớn Đại Vận Hà do Tùy Dạng Đế khai thác lại không hề thua kém Tần Thủy Hoàng về độ dài của thời gian tu sửa. Cho dù động cơ khác nhau, nhưng sự phồn vinh đỉnh thịnh mà hai công trình đem lại cho hậu thế là như nhau.
[11] Đại Vận Hà Kinh Hàng: Con sông nhân tạo nối liền Hàng Châu với Bắc Kinh.
Đôi khi, giữa sai và đúng, thịnh và suy là một giới hạn mơ hồ. Thiên hạ mênh mông như một ván cờ, hễ sảy chân là thua thảm hại. Có bao nhiêu tan vỡ trong toàn vẹn, thì sẽ có bấy nhiêu mạnh mẽ trong yếu mềm. Khi Tùy Dạng Đế mơ đến sự thanh tú của bờ nước Giang Nam, hoa mai dưới trăng lạnh, thì Tần Thủy Hoàng lại hoài niệm đến hào tình chốn đại mạc biên cương, vạn dặm trời mây. Cho dù thắng làm vua, thua làm giặc, tất cả rồi cũng đều tan tác thành khói bụi mịt mù, vạch những dấu chấm nông sâu không đều trên bầu trời lịch sử.
Trên bức tường không chữ này bạn có thể sờ thấy những gì? Xuyên qua cái lạnh lẽo của đá tảng để chạm vào sự ấm áp của đế vương? Xuyên qua đường vân của gạch cổ để tái diễn lại lịch sử đã qua? Đại khái có rất nhiều thanh âm đang căn vặn, liệu Trường Thành vĩ đại hùng hồn này cũng có một ngày không thoát khỏi lời nguyền của số phận, oanh liệt đổ ập xuống trong gió mây lịch sử không? Chúng ta hãy bình thản, lý trí đối diện với chìm nổi thăng trầm, thuận theo lẽ tự nhiên. Phải tin rằng, trên thế gian này còn rất nhiều linh hồn bất tử, ví như những anh hùng bị khóa chặt trong tháng năm đó, ví như con rồng khổng lồ uốn khúc trên đỉnh núi xanh này.
Há chẳng biết, sau khi nếm mật nằm gai, lại có thể chỉ kiếm hỏi giang sơn, hâm rượu luận anh hùng hay sao?.
Sự thất truyền của Viên Minh
Viên
Mỗi người từng đến Viên Minh Viên đều nhìn thấy một phong cảnh giống nhau, đó là một vùng đổ nát hoang tàn sau khi bị chiến tranh thiêu đốt. Đương nhiên, đây là cách nhìn bằng con mắt thiển cận. Nếu như nhìn nhận bằng tâm hồn sâu sắc, thì bạn sẽ thấy đây là một tòa hải thị thần lâu [12]. Thời gian là ảo ảnh, có thể làm ký ức vỡ vụn, cũng có thể ghép lại ký ức.
[12] Hải thị thần lâu: chỉ ảo ảnh.
Viên Minh Viên từng được ca ngợi là “vạn viên chi vương” (vua của vạn khu vườn), bắt đầu từ ngày bị hỏa hoạn đã tạc lại vết sẹo không thể xóa mờ trong lồng ngực của lịch sử, khiến cả thành Bắc Kinh và toàn thể Trung Quốc đều đau đớn trong vết bỏng. Hòn đá dưới chân bạn còn lưu lại hơi ấm tàn dư sót lại sau vụ cháy, chốn đồng ruộng mênh mông lại hàm chứa một sự tỉnh táo như bị rút cạn kiệt. Khói lửa bao trùm bầu trời Viên Minh Viên, khiến bạn không thể suy tưởng một cách vui vẻ thoải mái. Có lúc, làm một người sâu sắc, lại không đạm bạc trầm ổn được như một người nông cạn.
Viên Minh Viên từng là thiên đường chốn nhân gian, giàu có tú lệ và huy hoàng, nhưng thiên đường đã bị cháy trụi. Sau hỏa hoạn, Viên Minh Viên chỉ còn lại tàn cục ngổn ngang, vị đế vương ngày xưa bị trọng thương và phải chạy trốn, còn ai có thể chuyển bại thành thắng? Nó không còn đứng tách biệt với thói tục nữa, không còn quốc sắc thiên hương nữa, bắt đầu từ khoảnh khắc bị hủy hoại dung nhan, nó đã bị định sẵn kết cục không thể tiếp tục khuynh quốc khuynh thành. Một vị đế vương cởi bỏ long bào, gỡ vương miện xuống, đánh rơi quyền trượng, còn có thể thống trị thiên hạ, hô hoán phong vân chăng? Trời cao lấy lại quyền lực hô mưa gọi gió của ngài, từ đây, đến tư cách của một bình dân bách tính cũng chẳng còn nữa. Có lẽ, đã từng có một Viên Minh Viên mang phong cách vương gia, không cam chịu làm một người bình thường, còn sống lúc nào cũng phải huy hoàng đỉnh thịnh, chết đi cũng phải rực rỡ thành tro.
Khi bạn khóc thương cho nó, đau lòng vì nó, bi phẫn thay nó, thì nó lại thức tỉnh một cách ngạo nghễ. Sau khi đá ngọc đều đã tan thành bụi tro, giấc mộng tàn vẫn còn lưu dấu, cho nên nó chẳng hề cô đơn. Trong những tháng ngày sóng yên khói lặng, gìn giữ vùng gò hoang này, gìn giữ lầu gác trống không, mặc người đời cảm thán hồi tưởng, thậm chí nghĩ muôn ngàn cách để gương vỡ lại lành. Đây là kỳ nguyệt thực dài nhất trong lịch sử, chỉ là sau cơn trầm luân, trăng lại càng sáng tỏ hơn xưa.
Vẫn nói, mây khói thoảng qua, thế nhưng rõ ràng có thể tìm thấy bóng dáng rơi rớt của chuyện cũ ngày xưa trên những tảng đá xếp chồng. Trong khoảng không gian rộng lớn này, vẫn thấp thoáng vương khí tàn dư. Những kỳ trân dị bảo đã bị cướp sạch, bị thay thế bằng sự tàn khuyết, vỡ vụn một cách ung dung, hoa lệ, Viên Minh Viên đã chảy cạn máu, chỉ còn lại linh hồn là chưa từng bị rút đi. Đi tìm hình bóng của ngày hôm qua trong linh hồn còn ở lại, Viên Minh Viên khô héo dần dần đầy tràn trong ký ức.
Viên Minh Viên ra đời vào những năm Khang Hy, trưởng thành trong vương triều Ung Chính, rực rỡ trong thời thịnh thế Càn Long. Vua Ung Chính còn giải thích rất cặn kẽ rõ ràng hai chữ “Viên Minh”: Viên mãn mà tinh diệu, ấy là sự hợp thời hợp lẽ của người quân tử vậy; sáng suốt mà chiếu khắp, ấy là trí tuệ của bậc thông đạt vậy. Những người dân tộc Mãn Châu sống trên đại mạc hoang vu, thích ngắm rừng xanh biển biếc, khi mới bước chân vào Tử Cấm Thành, họ bị giam cầm bởi những kiến trúc tường đỏ ngói xanh, trong lòng đã nảy sinh sự chán ghét và mỏi mệt. Thế nên, họ trưng thu rất nhiều ruộng đồng hồ nước để tu sửa và xây dựng vườn cảnh ở ngoại ô thành Bắc Kinh.
Viên Minh Viên nằm ở ngoại ô phía tây thành Bắc Kinh, vùng đất tập trung dầy đặc các vườn cảnh, tựa như ẩn chứa long mạch của hoàng tộc khiến đế vương các đời si mê không dứt. Khi mới cho xây vườn, hoàng đế Khang Hy không hề ngờ rằng Viên Minh Viên sẽ đạt tới tình trạng phồn thịnh như thế, và càng không ngờ, thời đại thịnh vượng của Đại Thanh hơn một trăm năm sau sẽ gặp phải một kiếp nạn thế này. Nước đầy sẽ tràn, trăng tròn sẽ khuyết, khi đến như thủy triều dâng, khi đi như thủy triều rút, cơn sóng ào ạt mạnh mẽ này đã đầy tràn đến mức vô tiền khoáng hậu vào thời thịnh thế Càn Long, và nó cũng dần dần tiêu biến trong vương triều của ngài. Đến nay, chúng ta chỉ có thể ôn lại giấc mộng xuân trong vườn Viên Minh trên những ký hiệu của lịch sử, những gì mà thời gian có thể để lại cho chúng ta thực sự chỉ Thế Âmà thôi.
Lịch sử vẫn như xưa, chèo thuyền mà đi tới, nhất định sẽ vớt được những mảnh vỡ chìm sâu dưới đáy thời gian. Đứng trên những tảng đá bị vứt bỏ, chạm tay vào những dấu vết của Tây Dương Lầu, đi qua luồng gió chống chếnh, kết hợp những ký ức vụn vặt của Viên Minh Viên với nhau. Không còn tồn tại nữa có nghĩa là đã từng tồn tại, chỉ cần bạn đến với một trái tim vui vẻ hiền hòa là có thể khôi phục nguyên trạng những tảng đá chất đống, những vật cũ ngổn ngang, khôi phục nguyên trạng cảnh tượng thịnh vượng của năm nào.
Viên Minh Viên, là một quần thể vườn cảnh hoàng gia kết hợp kiến trúc vườn cảnh cổ điển Trung Quốc và vườn cảnh châu Âu. Có bốn mươi danh thắng nổi tiếng hấp thu tinh hoa của vườn cảnh trong thiên hạ, thu thập sự tuyệt diệu của vạn vật tự nhiên, chứa đựng xúc cảm của gió mây nhân gian, những địa điểm truyền kỳ và thần thánh, hùng vĩ và tráng lệ của nó thì chữ nghĩa và hội họa đều không thể nào tả xiết được. Chỉ có thông qua tư duy sáng suốt cởi mở, xuyên qua lĩnh vực rộng lớn của tinh thần mới có thể ngắm hết vẻ lộng lẫy của Viên Minh Viên.
Bạn nhìn thấy một khu vườn của vạn vườn - nơi trăm sông đổ về một biển, thì sao có thể không kinh ngạc mà cảm thán trước sự bác đại tinh thâm của văn hóa dân tộc Trung Hoa? Người ta đã dùng tài nghệ kỹ năng thần thông tinh diệu đến đâu mới có thể sáng tạo điêu khắc nên khu vườn cảnh tuyệt thế này? Giữa mây khói tàn lụi, sao không thể quên được năm xưa nó đã từng đỉnh thịnh và giàu có đến nhường nào. Có lẽ, chỉ có thời thịnh thế Khang Càn mới có được khí phách vững chãi ấy, mài vàng ròng thành mực nước, rẩy khắc một vùng trời chói lọi.
Rẽ đám cỏ dại, ánh tà dương đang cản tầm mắt, hồn phách Viên Minh Viên đã và đang quay về trước sự nhiệt tình kêu gọi của vô số du khách. Trong Cần Chính Thân Hiền Điện vẫn còn nhìn thấy bóng dáng của hoàng đế Ung Chính đang cắm cúi phê duyệt tấu chương, vị quân vương tin thờ Phật giáo này có thể đã từng tu đạo tham Thiền ở chốn Bồng Lai Dao Đài chăng? Trong cung điện Tây Dương vàng son chói lọi phải chăng chính là tổ ấm tình yêu mà Càn Long xây tặng cho Hương phi? Vị giai nhân lạnh lùng tuyệt sắc ấy bị cầm tù trong giấc mộng hoàng thất phồn hoa, cho đến lúc chết đi, linh hồn còn có thể tỏa ra mùi thơm kỳ lạ hay không? Giữa mê trận Hoàng Hoa [13], từng ngọn đèn hoa sen chiếu sáng cả bầu trời Đại Thanh, khi hoàng đế Càn Long say đắm vui vẻ trong mê cung, sao có thể đoán được sự mơ hồ của thế sự? Trên đỉnh cao rạng rỡ của vương triều, cho dù là hoàng đế cũng không thể tiên tri được, những gì họ có thể làm chỉ là ôm ấp yến oanh, giãi bày hết niềm vui sướng bình sinh. Thế nên, trong đầm hoa sen, ngài nhẹ nhàng vung mái chèo là đến được Giang Nam, nhìn thấy mưa khói hoa lạnh, nhìn thấy đình viện thâm sâu.
[13] Hoàng Hoa trận là một mê trận hình chữ nhật, mô phỏng mê cung kiểu Tây, kiến trúc trung tâm là một ngôi đình kiểu Tây có tám mặt. Mê trận phía Nam Bắc dài 89 mét, phía Tây Đông rộng 59 mét, tường trận tổng cộng kéo dài hơn 1600 mét, xung quanh trồng các bụi cây thấp, cho nên mê trận dễ vào khó ra. Trung tâm của Hoàng Hoa trận xây đình đài cao, khi giải trí, hoàng đế thường ra lệnh cho thái giám bày trò trốn tìm trong Hoàng Hoa trận, còn mình ngồi trên đài cao để xem. Thời kỳ thịnh vượng của Viên Minh Viên, tương truyền vào đêm Trung thu, hoàng đế cử hành lễ hội hoa đăng tại đây, các cung nữ tay cầm đèn hoa sen bằng lụa vàng, đi đi lại lại trong mê trận, người nào đến được viên đình ở trung tâm trước tiên sẽ được ban thưởng. Vì Thế Âmê trận này được gọi là Hoàng Hoa trận.
Rất nhiều vườn cảnh và danh hồ như thủy mặc của Giang Nam đã bị nhuộm màu trong khung cảnh Viên Minh Viên từ lâu, mưa khói làm ẩm ướt long bào của Càn Long, sương sớm thấm đẫm xiêm áo của Hương phi. Khi trăng sáng chìm trong lòng nước, liệu họ có biết giấc mộng Đại Thanh sẽ mau chóng bị những người Tây Dương lặn lội vượt biển lớn đánh thức hay không? Hóa ra, bờ bên này và bờ bên kia chỉ cách nhau một dòng nước mà thôi.
Khi cơn hỏa hoạn tựa như thủy triều dâng trào, cho dù bạn đã trốn vào tận sâu của tiên cảnh Thiền Phật ở chốn Bồng Lai Dao Đài, náu mình trong xuân sắc Võ Lăng chốn suối Đào Hoa thì cũng bị chôn vùi. Viên Minh Viên thứ gì cũng có, được sở hữu những thứ tốt nhất thế gian, vậy mà khi khiếp nhược lại chẳng chống chọi nổi một ngọn lửa. Khi liên quân Anh Pháp phá vườn xông vào, hoàng đế Hàm Phong đang trên đường cuống quýt chạy trốn. Gót sắt Bát Kỳ rốt cuộc đã hiểu rằng giáo mác và cung tên không địch nổi với đạn pháo Tây Dương. Vì kinh sợ mà đào vong, cờ chiến tan nát vì pháo đạn đốt cháy, liên quân Anh Pháp giẫm lên thi thể của tướng sĩ quân Thanh mà tiến lên phía trước.
Viên Minh Viên tựa như một trang giấy mỏng manh, chúng không cần mất công thổi lửa mà vẫn có thể xua quân tiến vào, cướp bóc phá phách bằng sạch muôn ngàn bảo vật hoàng gia lưu giữ, cuối cùng, đốt một ngọn lửa lớn, thắp sáng cả bầu trời đế quốc Đại Thanh. Nếu không phải là nỗi đau cắt da cắt thịt, vương triều Đại Thanh ngủ mê man suốt trăm năm có lẽ vẫn không thể thức tỉnh giấc mộng này. Thế nhưng, tỉnh giấc vào lúc này liệu có phải đã quá muộn rồi chăng? Họ chỉ có thể cử hành lễ chôn cất nỗi bi thương trong ván cờ thảm bại này, sau đó, đen tối vẫn hoàn đen tối, đau đớn vẫn hoàn đớn đau, ngu muội vẫn hoàn ngu muội.
Mối họa này thực sự là do Càn Long gieo rắc sao? Khi Khang Hy ý thức được sự tân tiến phát triển của văn hóa phương Tây rồi sẽ có ngày trở thành mối lo của Trung Quôc, Càn Long vẫn còn cố chấp cho rằng đế quốc Đại Thanh chính là ông vua của thế giới. Trong vườn Viên Minh, ngài mặc ý thỏa sức, đổi giang sơn lấy rượu nồng hoan ca. Khi bạn nhận thấy sự cố chấp nhiệt tình xây dựng Viên Minh Viên của Càn Long, liệu có nhìn thấy Tần Thủy Hoàng dựng cung A Phòng, Tùy Dạng để đào Đại Vận Hà hay không? Nếu không phải vạch một nét mực màu tô đậm trong sử sách, làm sao có thể đổi lấy sự huy hoàng được cả thế gian ngưỡng mộ? Rốt cuộc chẳng ai ngờ rằng, công trình kiến trúc vĩ đại ấy lại bị thiêu cháy thành tro trong một giấc mộng chưa bao giờ tỉnh thức?
Ngọn lửa lớn cháy rừng rực ba ngày ba đêm không ngừng nghỉ, khói mù mịt nghi ngút bao trùm cả thành Bắc Kinh, làm cay xè muôn vạn đôi mắt của con dân Trung Quốc. Sự nhu nhược của vương triều Đại Thanh đã bị ngọn lửa Viên Minh Viên soi tỏ, không chừa lại điều gì. Sau khi toàn thân dập nát, ai sẽ đến trị thương cho nó? Thế nhưng, chẳng ai sẽ lau máu và lệ của Viên Minh Viên, mảnh đất cháy đen đó đã tàn tạ lại càng tàn tạ hơn.
Khi quốc nạn đến nơi, có bao nhiêu người bước vào Viên Minh Viên tro bụi mịt mù, nhặt lại những viên ngói vỡ cháy sém đó, không phải để đánh thức ký ức đau buồn, mà là để che chắn cho khu vườn nhà mình. Họ không đến trị thương, mà ngược lại, nhân cơn hỏa hoạn để hôi của cướp bóc, đó là vì thương đau đã khiến họ tê liệt hay sao? Những người đã bước qua mảnh đất này còn có thể đứng giữa càn khôn sáng láng nói mình thanh bạch hay không? Viên Minh Viên vô tội, nó đã từng bị người khác làm tổn hại, đã từng bị chính mình làm tổn thương. Nước mắt cạn khô, không còn đau buồn nữa; cuối cùng rồi những người đi trước thời đại sẽ đánh thức nó, những trái tim có lòng thương xót sẽ bảo vệ nó.
Cung đàn Đại Thanh đã đứt, lại có người tấu một khúc đã thất truyền trên cây đàn không dây. Viên Minh Viên đúng là chỉ còn lại một vùng hoang vu lạnh lẽo không tinh thần, không tình cảm hay sao? Không, không phải, nó rõ ràng đang giữ gìn một cách có tình có nghĩa khu vườn cảnh bị tàn phá của chính mình. Khu vườn cảnh trống không này vẫn còn đang hít thở, những phiến đá dưới chân vẫn còn hơi ấm, bạn có cảm nhận được chăng? Có lẽ sẽ có một ngày, sự trống rỗng của Viên Minh Viên sẽ được lấp đầy, sẽ tái hiện lại được cảnh tượng huy hoàng của “vua của vạn vườn”. Có lẽ tháng ngày tương lai nó vẫn giữ dáng vẻ hoang vu như trước, không phải để cho bạn đau lòng, không phải để nhắc nhở bạn nhớ đến điều gì đó, chỉ đơn giản là tồn tại trong lịch sử mà thôi.
Sắc chiều vây bủa, trăng treo bầu không, vầng trăng sáng treo lửng lơ trên bầu trời Viên Minh Viên năm ấy, cũng tròn như lúc này.
Điệu cũ Thành Nam Ở Bắc Kinh, thời gian là một đám khói mù, luôn đem đến cho người ta một loại ảo giác: Dường như đến lúc nằm mơ cũng mơ thấy tình cờ gặp gỡ một vị đế vương nào đó, đến nằm mơ cũng phải ngang tàng, cũng phải cao quý. Những gì nhìn thấy đều là phong cảnh phú quý vàng son trong cung đình, những gì lưu lại đều là hồi ức trong hoàng thất. Nhưng không biết vẫn còn có một nơi gọi là Thành Nam, chiếm cứ nửa giang sơn của Bắc Kinh, nơi đó hội tụ phong tục của bách tính, cất giữ tình dân thuần phác đơn sơ.
Thành Nam, là một cách gọi đầy thâm tình ngụ ý, khiến người ta bước vào trong không gian hoài cổ một sát na, tỏa ra một không khí cổ xưa mộc mạc. Trong mơ, đế vương trở thành bình dân, trút bỏ long bào, khoác áo vải lên người, vứt bỏ tôn quý để trở về thuần phác. Bạn phát hiện ra rằng, đời người vốn là trạng thái nóng lạnh đan xen, ngũ vị đầy đủ. Trong khoảng thời gian già đi, sẽ hoài niệm lại một câu chuyện cũ Thành Nam, như thể tìm thấy cố hương ở nơi chân trời góc bể, cả hai đều thân tình giản dị mà cảm động tới tận tâm can.
Thành Nam của Bắc Kinh là một cuốn sách ghi chép những chuyện thế thái nhân tình, là một tấm ảnh cũ thuật lại chuyện xưa, là một quyển tranh vẽ phong tục rơi rớt đầy bụi bặm của tháng năm, cũng là một bộ Hý khúc cổ chuyên diễn xướng các làn điệu Kinh xoang Kinh vận. Câu chuyện của Thành Nam, có chuyện rơi trong chén một quán trà, có chuyện lại vang lên trong tiếng chiêng trống của sân khấu kịch, có chuyện phơi trên sào phơi quần áo trong tứ hợp viện, còn có chuyện lẫn trong mưa khói của những ngõ hẻm.
Nơi đây dường như từng có lữ khách nào ngang qua, bước vào trong Thành Nam, bạn liền như được thêu lên khung cảnh cổ xưa nguyên thủy này, cảm thấy mình cũng là một người Bắc Kinh chính gốc, tổ tiên đời đời sinh sống ở Thành Nam, sống dưới chân hoàng thành, chưa từng rời đi nơi khác. Thế nên, bạn có tính cách của người Thành Nam, bạn kiên trì gìn giữ linh hồn cổ kính này, không muốn bị các trào lưu thời thượng làm kinh hãi sực tỉnh. Dưới bánh xe lịch sử bon bon, Thành Nam cũng có rất nhiều biến đổi, thế nhưng lòng dân, phong tục của dân trong đời sống phố thị thì vẫn y như năm nào.
Đi vào ngõ hẻm, cũng như lần giở những câu chuyện xưa cũ mà vẫn nồng hương, một hơi ấm quen thuộc ùa tới phả vào mặt. Ánh dương soi rõ những hạt bụi bay trong không khí đang run rẩy rớt xuống những viên ngói, bạn ngắm nhìn vẻ cổ kính nhuộm màu thời gian này, thậm chí mê đắm một nhúm rêu xanh mướt mát vừa mới mọc trong góc tường. Con ngõ cổ này tựa như không có điểm kết thúc, những người khách qua đường đến và đi lướt qua bạn, họ bước chân hối hả, thế nhưng cả đời vẫn chẳng thể đi ra khỏi ngõ hẻm phồn tạp này.
Cô gái có đôi mắt linh lợi trong veo ấy có thể chính là Tiểu Anh Tử trong “Chuyện cũ Thành Nam [14]”, ánh mắt sáng rực của nàng lôi kéo những hồi ức ấu thơ ngây ngô, một chút lòng thành đã làm rung động muôn vạn người đi đường. Những người phu kéo xe tay đi đi lại lại trong khung cảnh đó phải chăng chính là Tường lạc đà[15], người Thành Nam ngồi trên xe đang mơ những giấc mơ của mình, còn anh đang mơ được sở hữu một chiếc xe kéo. Cho dù giấc mơ của họ thành hiện thực hay tan vỡ, họ đều là những người không thể nào xa rời khỏi Thành Nam.
[14] “Chuyện cũ Thành Nam” (Thành Nam cựu sự) là tuyển tập truyện ngắn tự xuất bản của nữ nhà văn nổi tiếng Lâm Hải m, lấy cuộc sống từ năm bảy tuổi đến năm mười ba tuổi của mình làm bối cảnh, xuất bản năm 1960. Toàn bộ tập sách thông qua đôi mắt trong sáng thơ ngây của Anh Tử, để quan sát những vui buồn giận dữ, bi hoan ly hợp của thế giới người lớn, nỗi sầu muộn nhàn nhạt và nhớ nhung sâu lắng đã làm xúc động hết thế hệ độc giả này đến thế hệ độc giả khác, trở thành tác phẩm tiêu biểu trong các sáng tác của bà. Sau này, tác phẩm được đạo diễn Ngô Di Cung chuyển thể thành phim và đã đạt nhiều giải thưởng, có sức ảnh hưởng lớn.
[15] Tường lạc đà hay còn gọi là Lạc đà Tường Tử, một nhân vật trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Lão Xá.
Nơi đây hội tụ biết bao bình dân áo vải, trong số đó có những đào kép Lê Viên [16], cũng không thiếu người ở tay sai, thậm chí còn có rất nhiều kỹ nữ cư trú ở đây. Thế nhưng, không thể vì sự hèn mọn tầm thường của đời sống mà bóp méo bôi nhọ cuộc đời họ, xóa bỏ ký ức về họ trong lịch sử. Bởi vì trong sự hỗn loạn của chốn ngõ hẻm cũng ẩn tàng rất nhiều huyết thống quý tộc, linh hồn tao nhã. Nơi đây từng lưu giữ sự ấm áp trong cơn hoạn nạn, tình nghĩa rút đao tương trợ, khi chìm đắm ở nơi đây, cái người ta bị cảm nhiễm hẳn là vô vàn tình người chân thật.
[16] Lê Viên: Nơi Đường Huyền Tông dạy các cung nữ hát múa, sau dùng để chỉ sân khấu hát kịch nói chung.
Khói lửa Thành Nam mịt mù dày đặc, nhưng bạn không thể nào kháng cự được thói đời đã khói lửa hun nhiễm. Đứng giữa dòng người hỗn tạp, còn có thể suy ngẫm một cách trầm tĩnh, phát hiện ra suốt nhiều năm qua, thứ mà ta theo đuổi lại không phải là sự nhàn nhã không tranh cầu với thế gian, mà là một kiểu nhân sinh đơn giản và hài hòa. Thành Nam áo vải là nơi có thể xếp đặt linh hồn mình yên ổn, có thể gửi gắm tuổi xuân của mình ở đó, thoạt nhìn tưởng như khói bụi mờ mịt giăng kín, nhưng thực ra hết thảy lại đứng ở bên ngoài.
Một quán trà cổ kính sẽ lay gọi những tình cảm hoài cổ nào đó trong sâu thẳm nội tâm của bạn thức tỉnh, bước qua ngưỡng cửa tuế nguyệt là nhìn thấy bóng dáng Lão Xá[17]. Những bộ bàn ghế gỗ của quán trà vẫn còn tốt như trước, nhưng lại bị khách dùng thời gian lau đến sáng bóng, sạch sẽ không một hạt bụi. Thưởng thức một bình trà trong pha bằng những câu chuyện kể, như thể đang thưởng thức nhân sinh trăm vị, hương trà thanh đạm ấy càng làm say lòng người hơn là vị rượu nồng cay.
[17] Lão Xá (1899 - 1966): Nhà văn Trung Quốc, đại diện tiêu biểu cho dòng văn học Kinh phái. Ở nơi đây, có thể mặc sức bộc bạch sự cô độc đã tích tụ lâu ngày trong trái tim, cũng có thể một mình tự tận hưởng nỗi tịch liêu giữa đám đông ồn ã. Đây là nơi nghỉ ngơi của linh hồn, bạn có thể sống uổng phí ngày hôm qua, tiêu ma ngày tháng, lần nữa ngày mai mà không một chút lo ngại, những gì đã từng có và mất đi đều không còn quan trọng nữa. Bởi vì, không ai có thể so đo với bạn, khoảnh khắc này, khoảnh khắc chếnh choáng ngất ngây này, đã hoàn toàn thuộc về bạn.
Ở Thành Nam mọc lên rải rác vô số hội quán cũ, lầu kịch cũ to có nhỏ có, chúng đã diễn vô số câu chuyện, đã khép lại biết bao mộng cũ Lê Viên. Trong sân khấu của Thành Nam, nếm trải văn hóa phố thị, đồng thời nhìn qua một bức rèm là có thể thường thức được văn hóa của hoàng thành. Thực ra, khoảng cách giữa Thành Nam và hoàng thành chỉ là một bức tường cổ mỏng manh và dễ vỡ, dưới cùng một bầu trời, chúng thậm chí còn có thể nghe thấy hơi thở của nhau.
Bước vào ngõ hẻm cổ kính của Thành Nam, trong quá khứ đã trôi qua như nước chảy mây trôi, hồi tưởng lại một đoạn nếp cũ nền xưa của chốn kinh kỳ, kiếm tìm những anh hùng trong Kinh kịch. Họ dùng các kỹ thuật biểu diễn như thay đổi khuôn mặt, hát nói, bước đi, phất tay áo, dáng điệu… để chinh phục lòng người, đồng thời cũng là để vượt qua chính mình. Sức hấp dẫn của Hý khúc chính là khiến những anh hùng đã chết, những câu chuyện đã cũ kỹ theo thời gian sống lại trong những vở kịch, lần nữa dốc hết vào sinh mệnh, nuôi dưỡng tâm hồn.
Một đoạn “Bá Vương biệt Cơ [18]” đã tạo nên vai diễn tuyệt thế vô song của Mai Lan Phương, kỹ thuật hát nói lên bổng xuống trầm, thành thục đầy đặn, phong thái uyển chuyển dịu dàng của ông đã từng chấn động cả kinh thành. Họ từng bình phẩm chuyện quốc gia đại sự trên sân khấu, nhìn tân khách nhiệt tình kích động dưới khán đài, linh hồn đôi bên giao thoa gặp gỡ lẫn nhau, phô bày bằng hết thời gian vô hạn trong kịch quán Lê Viên. Tháng năm âm thầm đổi thay, những diễn viên nổi danh đã từng uy vũ hùng tráng rời sân khấu trong bối cảnh bốn mặt Sở ca, tin rằng trải qua sự trầm lắng của lịch sử, phượng hoàng tới Niết Bàn, họ sẽ lại lên sân khấu trong sự náo nhiệt của tiếng trống chiêng rộn rã.
[18] “Bá vương biệt Cơ”: Tên một vở kịch nổi tiếng, kể về giai đoạn Hán Sở tranh hùng, Hán vương nghe theo kế sách của Trương Lương, hội họp với chư hầu đánh Sở. Khi Sở vương đóng quân ở Cai Hạ, quân ít lương thực hết, bị quân Hán bao vây vòng trong vòng ngoài. Bá vương Hạng Vũ không ngủ được, bỗng nghe bốn phía tiếng Sở ca vang lên, hóa ra là mưu kế của Trương Lương. Trương Lương biết quân sĩ của Hạng Vũ đều là người đất Sở, thế nên sai quân Hán cao giọng hát Sở ca, để làm lay động lòng quân. Hạng Vũ nghe xong kinh hoàng, than rằng: “Lẽ nào Hán vương đã lấy được đất Sở? Tại sai người Sở trong quân Hán lại nhiều đến thế?”. Thế nên ông bước xuống giường, uống rượu trong lều. Bá vương có người thiếp yêu là Ngu Cơ và con ngựa quý Ô Chuy, đã khẳng khái sầu thảm hát ca, hát rằng: “Sức nhổ núi chừ, khí trùm đời. Thời vận không may chừ, Chuy không chạy. Ngựa không chạy chừ, làm sao được. Ngu Cơ ơi Ngu Cơ, biết làm sao?”. Ngu Cơ múa theo tiếng ca, Bá vương trông thấy, tự biết mình sẽ bại, nước mắt ròng ròng. Tả hữu nhìn thấy Bá vương biệt Cơ đều khóc lóc thảm thiết theo.
Mộng cũ Lê Viên tự nó có tình cảm, còn chốn đình viện thâm sâu lại im lìm không tiếng động. Những khu tứ hợp viện nằm khuất sâu trong ngõ hẻm phủ đầy gió bụi của lịch sử, như một người già đã trải qua hết những nỗi tang thương, bình thản kể lại câu chuyện mây gió của Thành Nam. Những sân vườn nơi đây có nhiều nét tương tự với sân vườn ở Giang Nam, hoa hạnh mưa khói cũng rải rác khắp nơi, cũng ẩn chứa ánh trăng vằng vặc; nhưng lại khác với Giang Nam ở chỗ, nó thiếu những con đường nhỏ quanh co uốn lượn, mà thay vào đó là khí khái đơn giản mà lớn lao của chốn kinh thành.
Kiến trúc tứ hợp viện áp dụng kết cấu đối xứng theo phương thức truyền thống Trung Quốc, tọa bắc hướng nam, hai bên phía đông tây là nhà ngang. Trên cửa sổ, cột nhà đều vẽ và chạm khắc trang trí một số hình vẽ mang ngụ ý tốt lành, ví dụ như “tùng hạc diên niên”, “hỷ thước đăng mai”, “phúc thọ song toàn”… Bách tính ở Kinh thành sinh sống trồng hoa trồng cỏ trong khuôn viên tứ hợp viện, mấy đời chung sống dưới một mái nhà, sống một đời sống hết sức thanh nhàn thảnh thơi, cùng hưởng chung niềm vui của đạo luân thường. Họ đem những lời cầu nguyện, những mong ước tốt đẹp khắc vào trong những bức bình phong chạm hoa kiểu cũ, đem những câu chuyện bình thường khóa vào trong những ngăn kéo bằng gỗ, tứ hợp viện chính là nơi cư trú của sinh mệnh, là cố hương của tâm hồm.
Ở Bắc Kinh, cho dù Thành Nam hay Thành Bắc đều tập trung vô số toà nhà tứ hợp viện, cho dù vương công quý tộc hay bình dân áo vải, họ đều sống cuộc sống tự kiếm tìm niềm vui trong những khoảng sân hoặc hoa lệ hoặc giản đơn thô lậu này. Lão Xá đã từng sống, Lỗ Tấn đã từng sống, Lương Khải Siêu đã từng sống, Mai Lan Phương đã từng sống, Tề Bạch Thạch đã từng sống, còn có vô sô danh nhân và muôn vàn bách tính không biết tên đã từng sống ở tứ hợp viện tựa như một phong cảnh không thể biến mất khỏi nơi này, ở Kinh thành, vĩnh viễn dõi trông và bảo vệ cho giấc mộng của họ.
Đi giữa phong cảnh và cảnh vật cổ xưa sâu sắc nơi Thành Nam của Bắc Kinh, vẫn còn khu chợ Thiên Kiều mang đậm đặc sắc Bắc Kinh xưa, đều cắm rễ đâm chồi trong Kinh thành. Cho dù trào lưu thời đại đã sớm như gió xuân quét qua toàn bộ thành phố Bắc Kinh, nhưng vẫn không thể cuốn đi sạch sẽ những nền nếp cũ của Thành Nam. Bởi vì sự mới mẻ không thể thay thế được sự cổ xưa thuần phác, cũng như những tòa nhà cao tầng chót vót không thể thay thế được những khuôn viên tứ hợp viện, tương lai không thể thay thế được quá khứ. Dẫu có một ngày, Thành Nam sẽ phải đối diện với vận mệnh bốn mặt Sở ca, nhưng chúng ta hãy tin rằng, nhất định sẽ có một ngõ hẻm, một quán trà, một lầu kịch, một khu tứ hợp viện được lưu lại trong lịch sử, cho dù đơn độc giữa đời, nhưng vẫn tồn tại một cách rõ ràng, mang tới cho người đời những sự vật, hiện tượng chân thực, mà không phải là những hồi ức hư ảo. Trong thời đại tôn sùng sự đơn giản, trở về cái chân thực, bảo vệ và giữ gìn văn vật cổ xưa này, còn có giá trị đến mức khiến người ta lo lắng? Chúng ta đang giữ gìn những kỳ tích mà xưa kia hủy hoại, đang cố gắng trân trọng những gì xưa kia đánh mất, đang lựa chọn dũng cảm trước những gì xưa kia sợ hãi, Thành Nam của Bắc Kinh sẽ vĩnh viễn không để cho cái mới thay thế cái cũ, để những vết thương nuốt chửng niềm vui.
Có người nằm mộng dưới ánh nắng mặt trời của Thành Nam, có người lại đi tìm giấc mộng trong những tháng ngày của Thành Nam. Bạn đang ở Thành Nam kể lại câu chuyện quá khứ, mà tương lai sẽ có người kể lại câu chuyện của bạn. Trong vẻ đẹp cổ xưa này, đến luân hồi cũng đáng được vui vẻ thanh thản, bởi vì những gì biến mất có thể trở lại, những gì ly tan có thể hội tụ. Trong ngõ hẻm sâu thẳm của Thành Nam đó, không biết ai là người đang hát khúc “bên ngoài trường đình, bên con đường cổ, cỏ thơm xanh biếc tận chân trời”, một khúc “Ly biệt” đã lôi kéo biết bao cảm động kết tụ trong đáy tim, bạn đến với trái tim, bạn làm nhòa ướt khung cảnh phía xa bằng đôi mắt mông lung. Khi tiễn biệt, có cuộc tiễn biệt bi tráng hoang lạnh như tiễn Kinh Kha trên sông Dịch Thủy, lại có cuộc tiễn biệt tình nghĩa ấm áp như ngắt cành liễu gửi tặng cố nhân. Nhưng tiễn biệt ở Thành Nam, lại là nỗi buồn chẳng biết bằng hữu đã lưu lạc phương trời nào, lại là sự lạnh lẽo một bình rượu đục uống cho bằng hết.
Là ai đã nạm sắc chiều tà lên những vật cũ của Thành Nam, và lại là ai đã khắc hoàng hôn của Thành Nam lên những dấu tích của thời gian, gió đêm lướt qua bờ dương liễu, tịch dương còn mãi ngoài núi xanh. Đứng trên con đường cổ nhân sinh lưu luyến, giữ mãi khung cảnh không lời của Thành Nam, thời gian đã mài mòn tuổi xuân, nhưng thời gian lại chưa từng già đi. Bạn hãy nhìn xem, Thành Nam vẫn là Thành Nam của năm ấy, chuyện cũ vẫn là chuyện cũ của ngày hôm qua.
Mỗi người từng đến Viên Minh Viên đều nhìn thấy một phong cảnh giống nhau, đó là một vùng đổ nát hoang tàn sau khi bị chiến tranh thiêu đốt. Đương nhiên, đây là cách nhìn bằng con mắt thiển cận. Nếu như nhìn nhận bằng tâm hồn sâu sắc, thì bạn sẽ thấy đây là một tòa hải thị thần lâu [12]. Thời gian là ảo ảnh, có thể làm ký ức vỡ vụn, cũng có thể ghép lại ký ức.
[12] Hải thị thần lâu: chỉ ảo ảnh.
Viên Minh Viên từng được ca ngợi là “vạn viên chi vương” (vua của vạn khu vườn), bắt đầu từ ngày bị hỏa hoạn đã tạc lại vết sẹo không thể xóa mờ trong lồng ngực của lịch sử, khiến cả thành Bắc Kinh và toàn thể Trung Quốc đều đau đớn trong vết bỏng. Hòn đá dưới chân bạn còn lưu lại hơi ấm tàn dư sót lại sau vụ cháy, chốn đồng ruộng mênh mông lại hàm chứa một sự tỉnh táo như bị rút cạn kiệt. Khói lửa bao trùm bầu trời Viên Minh Viên, khiến bạn không thể suy tưởng một cách vui vẻ thoải mái. Có lúc, làm một người sâu sắc, lại không đạm bạc trầm ổn được như một người nông cạn.
Viên Minh Viên từng là thiên đường chốn nhân gian, giàu có tú lệ và huy hoàng, nhưng thiên đường đã bị cháy trụi. Sau hỏa hoạn, Viên Minh Viên chỉ còn lại tàn cục ngổn ngang, vị đế vương ngày xưa bị trọng thương và phải chạy trốn, còn ai có thể chuyển bại thành thắng? Nó không còn đứng tách biệt với thói tục nữa, không còn quốc sắc thiên hương nữa, bắt đầu từ khoảnh khắc bị hủy hoại dung nhan, nó đã bị định sẵn kết cục không thể tiếp tục khuynh quốc khuynh thành. Một vị đế vương cởi bỏ long bào, gỡ vương miện xuống, đánh rơi quyền trượng, còn có thể thống trị thiên hạ, hô hoán phong vân chăng? Trời cao lấy lại quyền lực hô mưa gọi gió của ngài, từ đây, đến tư cách của một bình dân bách tính cũng chẳng còn nữa. Có lẽ, đã từng có một Viên Minh Viên mang phong cách vương gia, không cam chịu làm một người bình thường, còn sống lúc nào cũng phải huy hoàng đỉnh thịnh, chết đi cũng phải rực rỡ thành tro.
Khi bạn khóc thương cho nó, đau lòng vì nó, bi phẫn thay nó, thì nó lại thức tỉnh một cách ngạo nghễ. Sau khi đá ngọc đều đã tan thành bụi tro, giấc mộng tàn vẫn còn lưu dấu, cho nên nó chẳng hề cô đơn. Trong những tháng ngày sóng yên khói lặng, gìn giữ vùng gò hoang này, gìn giữ lầu gác trống không, mặc người đời cảm thán hồi tưởng, thậm chí nghĩ muôn ngàn cách để gương vỡ lại lành. Đây là kỳ nguyệt thực dài nhất trong lịch sử, chỉ là sau cơn trầm luân, trăng lại càng sáng tỏ hơn xưa.
Vẫn nói, mây khói thoảng qua, thế nhưng rõ ràng có thể tìm thấy bóng dáng rơi rớt của chuyện cũ ngày xưa trên những tảng đá xếp chồng. Trong khoảng không gian rộng lớn này, vẫn thấp thoáng vương khí tàn dư. Những kỳ trân dị bảo đã bị cướp sạch, bị thay thế bằng sự tàn khuyết, vỡ vụn một cách ung dung, hoa lệ, Viên Minh Viên đã chảy cạn máu, chỉ còn lại linh hồn là chưa từng bị rút đi. Đi tìm hình bóng của ngày hôm qua trong linh hồn còn ở lại, Viên Minh Viên khô héo dần dần đầy tràn trong ký ức.
Viên Minh Viên ra đời vào những năm Khang Hy, trưởng thành trong vương triều Ung Chính, rực rỡ trong thời thịnh thế Càn Long. Vua Ung Chính còn giải thích rất cặn kẽ rõ ràng hai chữ “Viên Minh”: Viên mãn mà tinh diệu, ấy là sự hợp thời hợp lẽ của người quân tử vậy; sáng suốt mà chiếu khắp, ấy là trí tuệ của bậc thông đạt vậy. Những người dân tộc Mãn Châu sống trên đại mạc hoang vu, thích ngắm rừng xanh biển biếc, khi mới bước chân vào Tử Cấm Thành, họ bị giam cầm bởi những kiến trúc tường đỏ ngói xanh, trong lòng đã nảy sinh sự chán ghét và mỏi mệt. Thế nên, họ trưng thu rất nhiều ruộng đồng hồ nước để tu sửa và xây dựng vườn cảnh ở ngoại ô thành Bắc Kinh.
Viên Minh Viên nằm ở ngoại ô phía tây thành Bắc Kinh, vùng đất tập trung dầy đặc các vườn cảnh, tựa như ẩn chứa long mạch của hoàng tộc khiến đế vương các đời si mê không dứt. Khi mới cho xây vườn, hoàng đế Khang Hy không hề ngờ rằng Viên Minh Viên sẽ đạt tới tình trạng phồn thịnh như thế, và càng không ngờ, thời đại thịnh vượng của Đại Thanh hơn một trăm năm sau sẽ gặp phải một kiếp nạn thế này. Nước đầy sẽ tràn, trăng tròn sẽ khuyết, khi đến như thủy triều dâng, khi đi như thủy triều rút, cơn sóng ào ạt mạnh mẽ này đã đầy tràn đến mức vô tiền khoáng hậu vào thời thịnh thế Càn Long, và nó cũng dần dần tiêu biến trong vương triều của ngài. Đến nay, chúng ta chỉ có thể ôn lại giấc mộng xuân trong vườn Viên Minh trên những ký hiệu của lịch sử, những gì mà thời gian có thể để lại cho chúng ta thực sự chỉ Thế Âmà thôi.
Lịch sử vẫn như xưa, chèo thuyền mà đi tới, nhất định sẽ vớt được những mảnh vỡ chìm sâu dưới đáy thời gian. Đứng trên những tảng đá bị vứt bỏ, chạm tay vào những dấu vết của Tây Dương Lầu, đi qua luồng gió chống chếnh, kết hợp những ký ức vụn vặt của Viên Minh Viên với nhau. Không còn tồn tại nữa có nghĩa là đã từng tồn tại, chỉ cần bạn đến với một trái tim vui vẻ hiền hòa là có thể khôi phục nguyên trạng những tảng đá chất đống, những vật cũ ngổn ngang, khôi phục nguyên trạng cảnh tượng thịnh vượng của năm nào.
Viên Minh Viên, là một quần thể vườn cảnh hoàng gia kết hợp kiến trúc vườn cảnh cổ điển Trung Quốc và vườn cảnh châu Âu. Có bốn mươi danh thắng nổi tiếng hấp thu tinh hoa của vườn cảnh trong thiên hạ, thu thập sự tuyệt diệu của vạn vật tự nhiên, chứa đựng xúc cảm của gió mây nhân gian, những địa điểm truyền kỳ và thần thánh, hùng vĩ và tráng lệ của nó thì chữ nghĩa và hội họa đều không thể nào tả xiết được. Chỉ có thông qua tư duy sáng suốt cởi mở, xuyên qua lĩnh vực rộng lớn của tinh thần mới có thể ngắm hết vẻ lộng lẫy của Viên Minh Viên.
Bạn nhìn thấy một khu vườn của vạn vườn - nơi trăm sông đổ về một biển, thì sao có thể không kinh ngạc mà cảm thán trước sự bác đại tinh thâm của văn hóa dân tộc Trung Hoa? Người ta đã dùng tài nghệ kỹ năng thần thông tinh diệu đến đâu mới có thể sáng tạo điêu khắc nên khu vườn cảnh tuyệt thế này? Giữa mây khói tàn lụi, sao không thể quên được năm xưa nó đã từng đỉnh thịnh và giàu có đến nhường nào. Có lẽ, chỉ có thời thịnh thế Khang Càn mới có được khí phách vững chãi ấy, mài vàng ròng thành mực nước, rẩy khắc một vùng trời chói lọi.
Rẽ đám cỏ dại, ánh tà dương đang cản tầm mắt, hồn phách Viên Minh Viên đã và đang quay về trước sự nhiệt tình kêu gọi của vô số du khách. Trong Cần Chính Thân Hiền Điện vẫn còn nhìn thấy bóng dáng của hoàng đế Ung Chính đang cắm cúi phê duyệt tấu chương, vị quân vương tin thờ Phật giáo này có thể đã từng tu đạo tham Thiền ở chốn Bồng Lai Dao Đài chăng? Trong cung điện Tây Dương vàng son chói lọi phải chăng chính là tổ ấm tình yêu mà Càn Long xây tặng cho Hương phi? Vị giai nhân lạnh lùng tuyệt sắc ấy bị cầm tù trong giấc mộng hoàng thất phồn hoa, cho đến lúc chết đi, linh hồn còn có thể tỏa ra mùi thơm kỳ lạ hay không? Giữa mê trận Hoàng Hoa [13], từng ngọn đèn hoa sen chiếu sáng cả bầu trời Đại Thanh, khi hoàng đế Càn Long say đắm vui vẻ trong mê cung, sao có thể đoán được sự mơ hồ của thế sự? Trên đỉnh cao rạng rỡ của vương triều, cho dù là hoàng đế cũng không thể tiên tri được, những gì họ có thể làm chỉ là ôm ấp yến oanh, giãi bày hết niềm vui sướng bình sinh. Thế nên, trong đầm hoa sen, ngài nhẹ nhàng vung mái chèo là đến được Giang Nam, nhìn thấy mưa khói hoa lạnh, nhìn thấy đình viện thâm sâu.
[13] Hoàng Hoa trận là một mê trận hình chữ nhật, mô phỏng mê cung kiểu Tây, kiến trúc trung tâm là một ngôi đình kiểu Tây có tám mặt. Mê trận phía Nam Bắc dài 89 mét, phía Tây Đông rộng 59 mét, tường trận tổng cộng kéo dài hơn 1600 mét, xung quanh trồng các bụi cây thấp, cho nên mê trận dễ vào khó ra. Trung tâm của Hoàng Hoa trận xây đình đài cao, khi giải trí, hoàng đế thường ra lệnh cho thái giám bày trò trốn tìm trong Hoàng Hoa trận, còn mình ngồi trên đài cao để xem. Thời kỳ thịnh vượng của Viên Minh Viên, tương truyền vào đêm Trung thu, hoàng đế cử hành lễ hội hoa đăng tại đây, các cung nữ tay cầm đèn hoa sen bằng lụa vàng, đi đi lại lại trong mê trận, người nào đến được viên đình ở trung tâm trước tiên sẽ được ban thưởng. Vì Thế Âmê trận này được gọi là Hoàng Hoa trận.
Rất nhiều vườn cảnh và danh hồ như thủy mặc của Giang Nam đã bị nhuộm màu trong khung cảnh Viên Minh Viên từ lâu, mưa khói làm ẩm ướt long bào của Càn Long, sương sớm thấm đẫm xiêm áo của Hương phi. Khi trăng sáng chìm trong lòng nước, liệu họ có biết giấc mộng Đại Thanh sẽ mau chóng bị những người Tây Dương lặn lội vượt biển lớn đánh thức hay không? Hóa ra, bờ bên này và bờ bên kia chỉ cách nhau một dòng nước mà thôi.
Khi cơn hỏa hoạn tựa như thủy triều dâng trào, cho dù bạn đã trốn vào tận sâu của tiên cảnh Thiền Phật ở chốn Bồng Lai Dao Đài, náu mình trong xuân sắc Võ Lăng chốn suối Đào Hoa thì cũng bị chôn vùi. Viên Minh Viên thứ gì cũng có, được sở hữu những thứ tốt nhất thế gian, vậy mà khi khiếp nhược lại chẳng chống chọi nổi một ngọn lửa. Khi liên quân Anh Pháp phá vườn xông vào, hoàng đế Hàm Phong đang trên đường cuống quýt chạy trốn. Gót sắt Bát Kỳ rốt cuộc đã hiểu rằng giáo mác và cung tên không địch nổi với đạn pháo Tây Dương. Vì kinh sợ mà đào vong, cờ chiến tan nát vì pháo đạn đốt cháy, liên quân Anh Pháp giẫm lên thi thể của tướng sĩ quân Thanh mà tiến lên phía trước.
Viên Minh Viên tựa như một trang giấy mỏng manh, chúng không cần mất công thổi lửa mà vẫn có thể xua quân tiến vào, cướp bóc phá phách bằng sạch muôn ngàn bảo vật hoàng gia lưu giữ, cuối cùng, đốt một ngọn lửa lớn, thắp sáng cả bầu trời đế quốc Đại Thanh. Nếu không phải là nỗi đau cắt da cắt thịt, vương triều Đại Thanh ngủ mê man suốt trăm năm có lẽ vẫn không thể thức tỉnh giấc mộng này. Thế nhưng, tỉnh giấc vào lúc này liệu có phải đã quá muộn rồi chăng? Họ chỉ có thể cử hành lễ chôn cất nỗi bi thương trong ván cờ thảm bại này, sau đó, đen tối vẫn hoàn đen tối, đau đớn vẫn hoàn đớn đau, ngu muội vẫn hoàn ngu muội.
Mối họa này thực sự là do Càn Long gieo rắc sao? Khi Khang Hy ý thức được sự tân tiến phát triển của văn hóa phương Tây rồi sẽ có ngày trở thành mối lo của Trung Quôc, Càn Long vẫn còn cố chấp cho rằng đế quốc Đại Thanh chính là ông vua của thế giới. Trong vườn Viên Minh, ngài mặc ý thỏa sức, đổi giang sơn lấy rượu nồng hoan ca. Khi bạn nhận thấy sự cố chấp nhiệt tình xây dựng Viên Minh Viên của Càn Long, liệu có nhìn thấy Tần Thủy Hoàng dựng cung A Phòng, Tùy Dạng để đào Đại Vận Hà hay không? Nếu không phải vạch một nét mực màu tô đậm trong sử sách, làm sao có thể đổi lấy sự huy hoàng được cả thế gian ngưỡng mộ? Rốt cuộc chẳng ai ngờ rằng, công trình kiến trúc vĩ đại ấy lại bị thiêu cháy thành tro trong một giấc mộng chưa bao giờ tỉnh thức?
Ngọn lửa lớn cháy rừng rực ba ngày ba đêm không ngừng nghỉ, khói mù mịt nghi ngút bao trùm cả thành Bắc Kinh, làm cay xè muôn vạn đôi mắt của con dân Trung Quốc. Sự nhu nhược của vương triều Đại Thanh đã bị ngọn lửa Viên Minh Viên soi tỏ, không chừa lại điều gì. Sau khi toàn thân dập nát, ai sẽ đến trị thương cho nó? Thế nhưng, chẳng ai sẽ lau máu và lệ của Viên Minh Viên, mảnh đất cháy đen đó đã tàn tạ lại càng tàn tạ hơn.
Khi quốc nạn đến nơi, có bao nhiêu người bước vào Viên Minh Viên tro bụi mịt mù, nhặt lại những viên ngói vỡ cháy sém đó, không phải để đánh thức ký ức đau buồn, mà là để che chắn cho khu vườn nhà mình. Họ không đến trị thương, mà ngược lại, nhân cơn hỏa hoạn để hôi của cướp bóc, đó là vì thương đau đã khiến họ tê liệt hay sao? Những người đã bước qua mảnh đất này còn có thể đứng giữa càn khôn sáng láng nói mình thanh bạch hay không? Viên Minh Viên vô tội, nó đã từng bị người khác làm tổn hại, đã từng bị chính mình làm tổn thương. Nước mắt cạn khô, không còn đau buồn nữa; cuối cùng rồi những người đi trước thời đại sẽ đánh thức nó, những trái tim có lòng thương xót sẽ bảo vệ nó.
Cung đàn Đại Thanh đã đứt, lại có người tấu một khúc đã thất truyền trên cây đàn không dây. Viên Minh Viên đúng là chỉ còn lại một vùng hoang vu lạnh lẽo không tinh thần, không tình cảm hay sao? Không, không phải, nó rõ ràng đang giữ gìn một cách có tình có nghĩa khu vườn cảnh bị tàn phá của chính mình. Khu vườn cảnh trống không này vẫn còn đang hít thở, những phiến đá dưới chân vẫn còn hơi ấm, bạn có cảm nhận được chăng? Có lẽ sẽ có một ngày, sự trống rỗng của Viên Minh Viên sẽ được lấp đầy, sẽ tái hiện lại được cảnh tượng huy hoàng của “vua của vạn vườn”. Có lẽ tháng ngày tương lai nó vẫn giữ dáng vẻ hoang vu như trước, không phải để cho bạn đau lòng, không phải để nhắc nhở bạn nhớ đến điều gì đó, chỉ đơn giản là tồn tại trong lịch sử mà thôi.
Sắc chiều vây bủa, trăng treo bầu không, vầng trăng sáng treo lửng lơ trên bầu trời Viên Minh Viên năm ấy, cũng tròn như lúc này.
Điệu cũ Thành Nam Ở Bắc Kinh, thời gian là một đám khói mù, luôn đem đến cho người ta một loại ảo giác: Dường như đến lúc nằm mơ cũng mơ thấy tình cờ gặp gỡ một vị đế vương nào đó, đến nằm mơ cũng phải ngang tàng, cũng phải cao quý. Những gì nhìn thấy đều là phong cảnh phú quý vàng son trong cung đình, những gì lưu lại đều là hồi ức trong hoàng thất. Nhưng không biết vẫn còn có một nơi gọi là Thành Nam, chiếm cứ nửa giang sơn của Bắc Kinh, nơi đó hội tụ phong tục của bách tính, cất giữ tình dân thuần phác đơn sơ.
Thành Nam, là một cách gọi đầy thâm tình ngụ ý, khiến người ta bước vào trong không gian hoài cổ một sát na, tỏa ra một không khí cổ xưa mộc mạc. Trong mơ, đế vương trở thành bình dân, trút bỏ long bào, khoác áo vải lên người, vứt bỏ tôn quý để trở về thuần phác. Bạn phát hiện ra rằng, đời người vốn là trạng thái nóng lạnh đan xen, ngũ vị đầy đủ. Trong khoảng thời gian già đi, sẽ hoài niệm lại một câu chuyện cũ Thành Nam, như thể tìm thấy cố hương ở nơi chân trời góc bể, cả hai đều thân tình giản dị mà cảm động tới tận tâm can.
Thành Nam của Bắc Kinh là một cuốn sách ghi chép những chuyện thế thái nhân tình, là một tấm ảnh cũ thuật lại chuyện xưa, là một quyển tranh vẽ phong tục rơi rớt đầy bụi bặm của tháng năm, cũng là một bộ Hý khúc cổ chuyên diễn xướng các làn điệu Kinh xoang Kinh vận. Câu chuyện của Thành Nam, có chuyện rơi trong chén một quán trà, có chuyện lại vang lên trong tiếng chiêng trống của sân khấu kịch, có chuyện phơi trên sào phơi quần áo trong tứ hợp viện, còn có chuyện lẫn trong mưa khói của những ngõ hẻm.
Nơi đây dường như từng có lữ khách nào ngang qua, bước vào trong Thành Nam, bạn liền như được thêu lên khung cảnh cổ xưa nguyên thủy này, cảm thấy mình cũng là một người Bắc Kinh chính gốc, tổ tiên đời đời sinh sống ở Thành Nam, sống dưới chân hoàng thành, chưa từng rời đi nơi khác. Thế nên, bạn có tính cách của người Thành Nam, bạn kiên trì gìn giữ linh hồn cổ kính này, không muốn bị các trào lưu thời thượng làm kinh hãi sực tỉnh. Dưới bánh xe lịch sử bon bon, Thành Nam cũng có rất nhiều biến đổi, thế nhưng lòng dân, phong tục của dân trong đời sống phố thị thì vẫn y như năm nào.
Đi vào ngõ hẻm, cũng như lần giở những câu chuyện xưa cũ mà vẫn nồng hương, một hơi ấm quen thuộc ùa tới phả vào mặt. Ánh dương soi rõ những hạt bụi bay trong không khí đang run rẩy rớt xuống những viên ngói, bạn ngắm nhìn vẻ cổ kính nhuộm màu thời gian này, thậm chí mê đắm một nhúm rêu xanh mướt mát vừa mới mọc trong góc tường. Con ngõ cổ này tựa như không có điểm kết thúc, những người khách qua đường đến và đi lướt qua bạn, họ bước chân hối hả, thế nhưng cả đời vẫn chẳng thể đi ra khỏi ngõ hẻm phồn tạp này.
Cô gái có đôi mắt linh lợi trong veo ấy có thể chính là Tiểu Anh Tử trong “Chuyện cũ Thành Nam [14]”, ánh mắt sáng rực của nàng lôi kéo những hồi ức ấu thơ ngây ngô, một chút lòng thành đã làm rung động muôn vạn người đi đường. Những người phu kéo xe tay đi đi lại lại trong khung cảnh đó phải chăng chính là Tường lạc đà[15], người Thành Nam ngồi trên xe đang mơ những giấc mơ của mình, còn anh đang mơ được sở hữu một chiếc xe kéo. Cho dù giấc mơ của họ thành hiện thực hay tan vỡ, họ đều là những người không thể nào xa rời khỏi Thành Nam.
[14] “Chuyện cũ Thành Nam” (Thành Nam cựu sự) là tuyển tập truyện ngắn tự xuất bản của nữ nhà văn nổi tiếng Lâm Hải m, lấy cuộc sống từ năm bảy tuổi đến năm mười ba tuổi của mình làm bối cảnh, xuất bản năm 1960. Toàn bộ tập sách thông qua đôi mắt trong sáng thơ ngây của Anh Tử, để quan sát những vui buồn giận dữ, bi hoan ly hợp của thế giới người lớn, nỗi sầu muộn nhàn nhạt và nhớ nhung sâu lắng đã làm xúc động hết thế hệ độc giả này đến thế hệ độc giả khác, trở thành tác phẩm tiêu biểu trong các sáng tác của bà. Sau này, tác phẩm được đạo diễn Ngô Di Cung chuyển thể thành phim và đã đạt nhiều giải thưởng, có sức ảnh hưởng lớn.
[15] Tường lạc đà hay còn gọi là Lạc đà Tường Tử, một nhân vật trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Lão Xá.
Nơi đây hội tụ biết bao bình dân áo vải, trong số đó có những đào kép Lê Viên [16], cũng không thiếu người ở tay sai, thậm chí còn có rất nhiều kỹ nữ cư trú ở đây. Thế nhưng, không thể vì sự hèn mọn tầm thường của đời sống mà bóp méo bôi nhọ cuộc đời họ, xóa bỏ ký ức về họ trong lịch sử. Bởi vì trong sự hỗn loạn của chốn ngõ hẻm cũng ẩn tàng rất nhiều huyết thống quý tộc, linh hồn tao nhã. Nơi đây từng lưu giữ sự ấm áp trong cơn hoạn nạn, tình nghĩa rút đao tương trợ, khi chìm đắm ở nơi đây, cái người ta bị cảm nhiễm hẳn là vô vàn tình người chân thật.
[16] Lê Viên: Nơi Đường Huyền Tông dạy các cung nữ hát múa, sau dùng để chỉ sân khấu hát kịch nói chung.
Khói lửa Thành Nam mịt mù dày đặc, nhưng bạn không thể nào kháng cự được thói đời đã khói lửa hun nhiễm. Đứng giữa dòng người hỗn tạp, còn có thể suy ngẫm một cách trầm tĩnh, phát hiện ra suốt nhiều năm qua, thứ mà ta theo đuổi lại không phải là sự nhàn nhã không tranh cầu với thế gian, mà là một kiểu nhân sinh đơn giản và hài hòa. Thành Nam áo vải là nơi có thể xếp đặt linh hồn mình yên ổn, có thể gửi gắm tuổi xuân của mình ở đó, thoạt nhìn tưởng như khói bụi mờ mịt giăng kín, nhưng thực ra hết thảy lại đứng ở bên ngoài.
Một quán trà cổ kính sẽ lay gọi những tình cảm hoài cổ nào đó trong sâu thẳm nội tâm của bạn thức tỉnh, bước qua ngưỡng cửa tuế nguyệt là nhìn thấy bóng dáng Lão Xá[17]. Những bộ bàn ghế gỗ của quán trà vẫn còn tốt như trước, nhưng lại bị khách dùng thời gian lau đến sáng bóng, sạch sẽ không một hạt bụi. Thưởng thức một bình trà trong pha bằng những câu chuyện kể, như thể đang thưởng thức nhân sinh trăm vị, hương trà thanh đạm ấy càng làm say lòng người hơn là vị rượu nồng cay.
[17] Lão Xá (1899 - 1966): Nhà văn Trung Quốc, đại diện tiêu biểu cho dòng văn học Kinh phái. Ở nơi đây, có thể mặc sức bộc bạch sự cô độc đã tích tụ lâu ngày trong trái tim, cũng có thể một mình tự tận hưởng nỗi tịch liêu giữa đám đông ồn ã. Đây là nơi nghỉ ngơi của linh hồn, bạn có thể sống uổng phí ngày hôm qua, tiêu ma ngày tháng, lần nữa ngày mai mà không một chút lo ngại, những gì đã từng có và mất đi đều không còn quan trọng nữa. Bởi vì, không ai có thể so đo với bạn, khoảnh khắc này, khoảnh khắc chếnh choáng ngất ngây này, đã hoàn toàn thuộc về bạn.
Ở Thành Nam mọc lên rải rác vô số hội quán cũ, lầu kịch cũ to có nhỏ có, chúng đã diễn vô số câu chuyện, đã khép lại biết bao mộng cũ Lê Viên. Trong sân khấu của Thành Nam, nếm trải văn hóa phố thị, đồng thời nhìn qua một bức rèm là có thể thường thức được văn hóa của hoàng thành. Thực ra, khoảng cách giữa Thành Nam và hoàng thành chỉ là một bức tường cổ mỏng manh và dễ vỡ, dưới cùng một bầu trời, chúng thậm chí còn có thể nghe thấy hơi thở của nhau.
Bước vào ngõ hẻm cổ kính của Thành Nam, trong quá khứ đã trôi qua như nước chảy mây trôi, hồi tưởng lại một đoạn nếp cũ nền xưa của chốn kinh kỳ, kiếm tìm những anh hùng trong Kinh kịch. Họ dùng các kỹ thuật biểu diễn như thay đổi khuôn mặt, hát nói, bước đi, phất tay áo, dáng điệu… để chinh phục lòng người, đồng thời cũng là để vượt qua chính mình. Sức hấp dẫn của Hý khúc chính là khiến những anh hùng đã chết, những câu chuyện đã cũ kỹ theo thời gian sống lại trong những vở kịch, lần nữa dốc hết vào sinh mệnh, nuôi dưỡng tâm hồn.
Một đoạn “Bá Vương biệt Cơ [18]” đã tạo nên vai diễn tuyệt thế vô song của Mai Lan Phương, kỹ thuật hát nói lên bổng xuống trầm, thành thục đầy đặn, phong thái uyển chuyển dịu dàng của ông đã từng chấn động cả kinh thành. Họ từng bình phẩm chuyện quốc gia đại sự trên sân khấu, nhìn tân khách nhiệt tình kích động dưới khán đài, linh hồn đôi bên giao thoa gặp gỡ lẫn nhau, phô bày bằng hết thời gian vô hạn trong kịch quán Lê Viên. Tháng năm âm thầm đổi thay, những diễn viên nổi danh đã từng uy vũ hùng tráng rời sân khấu trong bối cảnh bốn mặt Sở ca, tin rằng trải qua sự trầm lắng của lịch sử, phượng hoàng tới Niết Bàn, họ sẽ lại lên sân khấu trong sự náo nhiệt của tiếng trống chiêng rộn rã.
[18] “Bá vương biệt Cơ”: Tên một vở kịch nổi tiếng, kể về giai đoạn Hán Sở tranh hùng, Hán vương nghe theo kế sách của Trương Lương, hội họp với chư hầu đánh Sở. Khi Sở vương đóng quân ở Cai Hạ, quân ít lương thực hết, bị quân Hán bao vây vòng trong vòng ngoài. Bá vương Hạng Vũ không ngủ được, bỗng nghe bốn phía tiếng Sở ca vang lên, hóa ra là mưu kế của Trương Lương. Trương Lương biết quân sĩ của Hạng Vũ đều là người đất Sở, thế nên sai quân Hán cao giọng hát Sở ca, để làm lay động lòng quân. Hạng Vũ nghe xong kinh hoàng, than rằng: “Lẽ nào Hán vương đã lấy được đất Sở? Tại sai người Sở trong quân Hán lại nhiều đến thế?”. Thế nên ông bước xuống giường, uống rượu trong lều. Bá vương có người thiếp yêu là Ngu Cơ và con ngựa quý Ô Chuy, đã khẳng khái sầu thảm hát ca, hát rằng: “Sức nhổ núi chừ, khí trùm đời. Thời vận không may chừ, Chuy không chạy. Ngựa không chạy chừ, làm sao được. Ngu Cơ ơi Ngu Cơ, biết làm sao?”. Ngu Cơ múa theo tiếng ca, Bá vương trông thấy, tự biết mình sẽ bại, nước mắt ròng ròng. Tả hữu nhìn thấy Bá vương biệt Cơ đều khóc lóc thảm thiết theo.
Mộng cũ Lê Viên tự nó có tình cảm, còn chốn đình viện thâm sâu lại im lìm không tiếng động. Những khu tứ hợp viện nằm khuất sâu trong ngõ hẻm phủ đầy gió bụi của lịch sử, như một người già đã trải qua hết những nỗi tang thương, bình thản kể lại câu chuyện mây gió của Thành Nam. Những sân vườn nơi đây có nhiều nét tương tự với sân vườn ở Giang Nam, hoa hạnh mưa khói cũng rải rác khắp nơi, cũng ẩn chứa ánh trăng vằng vặc; nhưng lại khác với Giang Nam ở chỗ, nó thiếu những con đường nhỏ quanh co uốn lượn, mà thay vào đó là khí khái đơn giản mà lớn lao của chốn kinh thành.
Kiến trúc tứ hợp viện áp dụng kết cấu đối xứng theo phương thức truyền thống Trung Quốc, tọa bắc hướng nam, hai bên phía đông tây là nhà ngang. Trên cửa sổ, cột nhà đều vẽ và chạm khắc trang trí một số hình vẽ mang ngụ ý tốt lành, ví dụ như “tùng hạc diên niên”, “hỷ thước đăng mai”, “phúc thọ song toàn”… Bách tính ở Kinh thành sinh sống trồng hoa trồng cỏ trong khuôn viên tứ hợp viện, mấy đời chung sống dưới một mái nhà, sống một đời sống hết sức thanh nhàn thảnh thơi, cùng hưởng chung niềm vui của đạo luân thường. Họ đem những lời cầu nguyện, những mong ước tốt đẹp khắc vào trong những bức bình phong chạm hoa kiểu cũ, đem những câu chuyện bình thường khóa vào trong những ngăn kéo bằng gỗ, tứ hợp viện chính là nơi cư trú của sinh mệnh, là cố hương của tâm hồm.
Ở Bắc Kinh, cho dù Thành Nam hay Thành Bắc đều tập trung vô số toà nhà tứ hợp viện, cho dù vương công quý tộc hay bình dân áo vải, họ đều sống cuộc sống tự kiếm tìm niềm vui trong những khoảng sân hoặc hoa lệ hoặc giản đơn thô lậu này. Lão Xá đã từng sống, Lỗ Tấn đã từng sống, Lương Khải Siêu đã từng sống, Mai Lan Phương đã từng sống, Tề Bạch Thạch đã từng sống, còn có vô sô danh nhân và muôn vàn bách tính không biết tên đã từng sống ở tứ hợp viện tựa như một phong cảnh không thể biến mất khỏi nơi này, ở Kinh thành, vĩnh viễn dõi trông và bảo vệ cho giấc mộng của họ.
Đi giữa phong cảnh và cảnh vật cổ xưa sâu sắc nơi Thành Nam của Bắc Kinh, vẫn còn khu chợ Thiên Kiều mang đậm đặc sắc Bắc Kinh xưa, đều cắm rễ đâm chồi trong Kinh thành. Cho dù trào lưu thời đại đã sớm như gió xuân quét qua toàn bộ thành phố Bắc Kinh, nhưng vẫn không thể cuốn đi sạch sẽ những nền nếp cũ của Thành Nam. Bởi vì sự mới mẻ không thể thay thế được sự cổ xưa thuần phác, cũng như những tòa nhà cao tầng chót vót không thể thay thế được những khuôn viên tứ hợp viện, tương lai không thể thay thế được quá khứ. Dẫu có một ngày, Thành Nam sẽ phải đối diện với vận mệnh bốn mặt Sở ca, nhưng chúng ta hãy tin rằng, nhất định sẽ có một ngõ hẻm, một quán trà, một lầu kịch, một khu tứ hợp viện được lưu lại trong lịch sử, cho dù đơn độc giữa đời, nhưng vẫn tồn tại một cách rõ ràng, mang tới cho người đời những sự vật, hiện tượng chân thực, mà không phải là những hồi ức hư ảo. Trong thời đại tôn sùng sự đơn giản, trở về cái chân thực, bảo vệ và giữ gìn văn vật cổ xưa này, còn có giá trị đến mức khiến người ta lo lắng? Chúng ta đang giữ gìn những kỳ tích mà xưa kia hủy hoại, đang cố gắng trân trọng những gì xưa kia đánh mất, đang lựa chọn dũng cảm trước những gì xưa kia sợ hãi, Thành Nam của Bắc Kinh sẽ vĩnh viễn không để cho cái mới thay thế cái cũ, để những vết thương nuốt chửng niềm vui.
Có người nằm mộng dưới ánh nắng mặt trời của Thành Nam, có người lại đi tìm giấc mộng trong những tháng ngày của Thành Nam. Bạn đang ở Thành Nam kể lại câu chuyện quá khứ, mà tương lai sẽ có người kể lại câu chuyện của bạn. Trong vẻ đẹp cổ xưa này, đến luân hồi cũng đáng được vui vẻ thanh thản, bởi vì những gì biến mất có thể trở lại, những gì ly tan có thể hội tụ. Trong ngõ hẻm sâu thẳm của Thành Nam đó, không biết ai là người đang hát khúc “bên ngoài trường đình, bên con đường cổ, cỏ thơm xanh biếc tận chân trời”, một khúc “Ly biệt” đã lôi kéo biết bao cảm động kết tụ trong đáy tim, bạn đến với trái tim, bạn làm nhòa ướt khung cảnh phía xa bằng đôi mắt mông lung. Khi tiễn biệt, có cuộc tiễn biệt bi tráng hoang lạnh như tiễn Kinh Kha trên sông Dịch Thủy, lại có cuộc tiễn biệt tình nghĩa ấm áp như ngắt cành liễu gửi tặng cố nhân. Nhưng tiễn biệt ở Thành Nam, lại là nỗi buồn chẳng biết bằng hữu đã lưu lạc phương trời nào, lại là sự lạnh lẽo một bình rượu đục uống cho bằng hết.
Là ai đã nạm sắc chiều tà lên những vật cũ của Thành Nam, và lại là ai đã khắc hoàng hôn của Thành Nam lên những dấu tích của thời gian, gió đêm lướt qua bờ dương liễu, tịch dương còn mãi ngoài núi xanh. Đứng trên con đường cổ nhân sinh lưu luyến, giữ mãi khung cảnh không lời của Thành Nam, thời gian đã mài mòn tuổi xuân, nhưng thời gian lại chưa từng già đi. Bạn hãy nhìn xem, Thành Nam vẫn là Thành Nam của năm ấy, chuyện cũ vẫn là chuyện cũ của ngày hôm qua.
Quyển thứ tám: Trùng phùng
trên biển
Bước lại gần thành phố này, có lẽ chỉ cần một khoảnh khắc; phân tích một đoạn nhạc, cần thời gian bao lâu? Trong tim mỗi người đều có một bến Thượng Hải thuộc về riêng mình, trong thành phố khí thế hào hùng, phong tình lãng mạn này, chúng ta đều đang kiếm tìm một tình tiết liên quan đến văn hóa âm nhạc. Bởi vì, trong giang hồ sâu không thể dò này, chúng ta đều là những con thuyền xa bến, cần một khúc ca vượt sông, cần một chốn về cho tâm linh…
Ngọc sáng phương Đông
Đây chính là bến Thượng Hải. Một thành phố gió cuộn mây trào, một thành phố trăm sông đổ về một biển, một thành phố hoa lệ tuyệt sắc. Thành phố này, đến không khí cũng tràn đầy sự mê hoặc, từ trong cốt tủy đều toát lên sự cao ngạo, nó thời thượng đi trước trào lưu, khí thế hào hùng mà phong tình lãng mạn. Nó chính là “Thập Lý Dương Trường [1]” của ngày xưa, và là viên ngọc của phương Đông ngày nay. Thành phố này có tấm lòng rộng như biển cả, nó dung nạp muôn vàn câu chuyện, sau cơn sóng to gió lớn, lại bị lung lay trước những tình cảm yếu mềm dịu dàng. Rất nhiều người đến với thành phố này và đã sáng tạo nên những cuộc đời phi thường của họ. Bởi thế, bản thân Thượng Hải chính là một huyền thoại. Nhân dịp triển lãm thế giới tổ chức ở Thượng Hải, chúng tôi đến Thượng Hải, bước vào cuộc sống tươi đẹp của người dân Thượng Hải, thưởng thức một quãng thời gian gió mây trên biển nơi đây.
[1] “Thập Lý Dương Trường”: Là tô giới Thượng Hải xưa hoặc là cảnh tượng phồn hoa ở tô giới, đây là biệt hiệu ô nhục khi giai cấp thống trị cuối thời Mãn Thanh đền đất đền tiền cho các nước phương Tây.
Bến Thượng Hải vào buổi tinh mơ như mới vừa thức giấc. Những tòa nhà cao tầng ẩn trong sương sớm đã làm mờ hết những đèn hoa rực rỡ trong đêm, khoác lên mình màu sắc mông lung kỳ ảo. Bên bờ sông Hoàng Phố, tiếng còi tàu hú vang như phá vỡ mặt nước phẳng lặng, biến cảnh tượng mặt trời ló dạng trên sông thành một phong cảnh lay động lòng người, tất cả ký ức được mở tung trong khoảnh khắc này. Những tấm ảnh đen trắng đó, còn có tháng ngày quá khứ, tất cả đều chưa bị thành thị phồn hoa này lãng quên.
Tiếng chuông Đông Phương Hồng trên tòa nhà Hải Quan vang lên phía xa, cuộc sống mới mẻ mỗi ngày của Thượng Hải đều bắt đầu từ tiếng chuông ngân vang. Tháp truyền hình Đông Phương Minh Châu sừng sững bên bờ sông, đã bắt đầu viết tiếp câu chuyện ngày hôm qua của Thượng Hải. Dòng người như thủy triều dâng, tỏa đi đến những tòa nhà cao tầng khác nhau, họ đã quá quen thuộc với phương thức sinh hoạt gấp gáp, vội vã này. Trong lúc vội vã, họ vung vãi nhiệt tình đến mọi ngóc ngách của thành phố, và để lan truyền cảm xúc đến những người hối hả tới đây từ những địa danh khác nhau.
Hai bên bờ sông Hoàng Phố, tiếng sóng vẫn rì rào như xưa, hàng ngày đều có vô số thuyền bè đến đi trên sông. Mặt nước thênh thang, mở rộng tấm lòng, lặng lẽ lắng nghe mọi người kể lại câu chuyện đời mình. Ở nơi này, họ đang trục vớt những câu chuyện, thu nhặt tâm tình và giải phóng những mơ ước. Những chìm nổi thăng trầm trong ngọn sóng, có biết bao người bên bờ sông Mẹ, vứt bỏ hết buồn vui ly hợp. Nhưng thời gian không lưu lại chút thương tích nào cho con người, cũng không mang đến cho con người bất cứ lý do nào để thất vọng và lười biếng, lười nhác và quẩn quanh.
Thượng Hải có một ưu thế bẩm sinh. Quần thể kiến trúc Vạn Quốc ở bến Thượng Hải mang phong cách khác biệt độc đáo, đã khiến đô thị quốc tế này luôn đi phía trước, dẫn đầu thời đại. Thành thị rực rỡ này tựa như chỉ trong chớp mắt là có thể tao nhã đổi sang một chiếc áo mới. Một khi đã bước vào đô thị muôn hình vạn trạng này, không ai muốn quay đầu trở lại. Lịch sử của Thượng Hải đã hòa tan vào dòng nước của sông Tô Châu, êm đềm chảy xuôi. Cũng đã từng sóng biếc xôn xao, hết lần này đến lần khác thanh tẩy linh hồn con người, mài sáng ký ức cổ xưa, khiến chúng ta càng thấu hiểu một cách tỉnh táo rằng, Thượng Hải - thành phố chịu trách nhiệm lãnh đạo dẫn dắt nặng nề này, đã dùng bộ xương sống dẻo dai, cứng cỏi của nó để gánh đỡ sự trông mong kỳ vọng của biết bao người khác. Sự phồn hoa của thành phố này, đã trở thành phong cách ăn sâu vào gốc rễ, không thể thay đổi được. Văn hóa Hải phái [2] nồng hậu mà độc đáo, đã lây lan đến từng ngóc ngách nhỏ, từng kẽ hở của thành phố. Những sự vật mới mẻ có thể làm phong phú tư tưởng, cũng có thể khiến quá khứ tỏa ra một thứ mùi vị đượm hương hơn nữa. Mỗi ngày của Thượng Hải đều được trân trọng lưu giữ trong hồi ức; mỗi ngày của Thượng Hải, đều tiếp tục truyền kỳ của ngày hôm qua.
[2] Hải phái: Chỉ chung trường phái mang phong cách Thượng Hải.
Nghe một đoạn trong chiếc đĩa hát cũ, tựa hồ giai điệu nhạc Jazz cũ của Thượng Hải đã dẫn chúng ta trở về Thượng Hải năm nào. Đoạn nhạc Jazz mang đầy âm hưởng phương Đông đó đã khiến những ký ức đen trắng bị lãng quên được phủ lên một màu sắc tình cảm tuyệt đẹp. Dưới chiếc máy phát cũ kỹ, chiếc đĩa màu đen kẽo kẹt phát ra âm thanh đều đều như tiếng cửa mở ra đóng vào. Chìm đắm trong tiếng nhạc du dương uyển chuyển, trong sâu thẳm đáy lòng ấp ủ một tình yêu vô hạn đối với thành phố này. Những âm điệu vụn vặt vừa xa xôi vừa mênh mang, lặn sâu vào linh hồn, những âm điệu ấy luôn luôn vô tình làm ướt đẫm đôi mắt.
Kim đọc của máy quay đĩa xoay vòng, tựa như thời gian lưu chuyển, trong tình cảm sâu nặng lại mang theo sự phóng khoáng tự do. Mà cuộc sống sắc màu rực rỡ của Thượng Hải, vẫn tiếp diễn trong dòng chảy này. Thời gian tựa như một lưỡi dao sáng loáng và sắc nhọn, luôn cắt bỏ những chi tiết phức tạp, chỉ giữ lại những khoảnh khắc giản đơn. Miên man suy nghĩ hoài niệm, lại khó tránh khỏi bị thời gian thôi thúc, sợ rằng chỉ trong chớp mắt, sẽ không nắm giữ được bóng dáng thoáng qua của thành phố này.
Thượng Hải đẹp nhất khi vào đêm. Dưới những ánh đèn màu sặc sỡ, đường Nam Kinh hóa thân thành một cô gái ăn vận thời trang trẻ trung, yểu điệu để mời chào khách qua đường. Những ngọn đèn sáng rực bao quanh, chạm vào nhau lóe ra những đốm lửa đẹp tuyệt. Biết bao tối tăm đều trở nên thu hút mọi ánh nhìn chỉ trong khoảnh khắc. Những chiếc xe chở khách tham quan đi qua đi lại, dòng người chuyển động như tuôn trào, những cửa hàng san sát, những bảng hiệu hộp đèn dao động, đã phô bày hết cuộc sống tiểu tư sản ở Thượng Hải và sự lãng mạn thời thượng của đô thị lớn. Trên tòa nhà Công ty Bách hóa Vĩnh An, có người đang biểu diễn kèn saxophone. Những âm điệu tuôn trào như một ly rượu vang thơm nồng, khiến chúng ta phải thưởng thức một cách dịu dàng nhất. Cơn say ngắn ngủi trong chốc lát rồi trở lại hiện thực, Thượng Hải vào đêm vẫn như xưa, vẫn khuynh thành như thế.
Ở Thượng Hải, biển biếc nương dâu có lẽ chỉ là một quá trình ngắn ngủi. Thế nhưng cái mới mẻ chưa bao giờ có thể thay thế hoàn toàn cái cũ, một nền văn hóa sâu đậm sẽ không thể bị trào lưu mới vùi lấp. Thượng Hải là một ly cà phê cần người ta phải chuyên tâm xay mịn, điều chế, tỉ mỉ pha và thưởng thức, hương thơm nồng ấm lan tỏa và bao trùm toàn bộ thành phố này, thời gian đã đi thật xa, nhưng dư hương vẫn còn đọng lại, xua mãi chẳng tan. Khi người ta đang hưởng thụ sự phồn hoa và dẫn đầu của Thượng Hải mới, đồng thời cũng sẽ ôn lại sự xinh đẹp và phong tình của Thượng Hải cũ.
Ngõ nhỏ ở Thạch Khố Môn như một con đường ký ức xa xăm, ngắm nhìn phong cảnh phía xa, kéo theo những rung động, cảm xúc về khói lửa Thượng Hải xưa. Một bầu không khí nên thơ lãng mạn của Thượng Hải xưa bồng bềnh trôi nổi bên trong Thạch Khố Môn, không có những khoảng sân trang hoàng hoa lệ, không có những phong cảnh muôn hồng nghìn tía. Thế nhưng, đàn tế cổ trăm năm ẩn sâu trong ngõ nhỏ, đã chuốc cho cả con ngõ chếnh choáng say. Mấy cụm hoa vàng và rêu xanh đang tô điểm cho cuộc đời. Ngõ hẻm thực ra không sâu, không dài là bao, ánh nắng vụn vỡ lại như đang khắc vào lòng người, mở bung những tình cảm đã bị giấu kín bao lâu nay.
Một đóa hoa bìm bìm leo tường nhìn bao quát hết thảy cảnh xuân trong sân, ngắm đến tận cùng những hồi ức phù hoa. Cánh cửa sổ nửa đóng nửa khép, sào phơi áo trên lan can, cầu thang gỗ cũ mèm đều là những vai diễn chính của khung cảnh nơi đây. Những giọng Ngô mềm mại thỏ thẻ ấy đang hát vang trên chốn lầu gác nhỏ hẹp. Trong ngõ hẻm, một tiếng gọi khẽ Hoa Dành Dành, Hoa Bạch Lan, gợi nhớ quá khứ, mát mẻ nhàn nhạt.
Tường bao bên ngoài Bách Lạc Môn đã bị đổi thành những ô cửa sổ sát đất quây tròn. Trong cảnh đêm rực rỡ sắc màu, nó như chiếc áo sườn xám hoa mỹ, tư thế yểu điệu xinh đẹp đang đánh thức giấc mộng xưa Thượng Hải đã ngủ say suốt nửa thế kỷ. Những ca kỹ phiêu dạt hát bài “Dạ Lai Hương” đó đã mang đến một dấu tích thời gian cho Thượng Hải về đêm ngày nay. Thời thế chuyển dời, biết bao sự vật cùng chìm nổi thăng trầm vì Thượng Hải, và cũng tái sinh vì Thượng Hải. Ở Thượng Hải, sườn xám là một biểu tượng cổ điển trang nhã, vẻ đẹp đậm chất Á Đông mà gợi cảm luôn khiến người ta nảy sinh những tưởng tượng vô cùng vô tận. Cho dù nó có cổ điển đến đâu, thì nó vẫn luôn có năm tháng tươi trẻ nhất. Sự tinh tế của sườn xám đã làm tôn thêm vóc dáng mềm mại, thanh tú, khí chất tao nhã của những cô gái Thượng Hải, đã xinh đẹp lại càng thêm yểu điệu thanh tân. Họ vận lên người những chiếc sườn xám, miệng xinh chúm chím cười, thần thái trên khuôn mặt, giữa nét mày càng khiến người ta nhớ đến những người con gái xinh đẹp khuynh thành của Thượng Hải xưa. Sườn xám tựa như luôn chứa đựng một thứ tình cảm bẩm sinh đối với họ, và cũng mang một duyên phận không thể chia cắt với thành phố này.
Thượng Hải khi trút bỏ chiếc sườn xám, lại mang một vẻ đẹp kinh hãi thế tục. Sự rạng ngời hào hoa của nó, thiên nhiên không thể đẽo gọt nên, xưa nay đều cất giấu trong từng cái chau mày, từng nét cười. Chúng ta đổi những góc độ quan sát khác nhau, thì thành phố này vẫn phong cách và tươi đẹp y như vậy, kèm theo cả niềm hạnh phúc rạng rỡ như hoa phô bày khắp thành phố này.
Sông Hoàng Phố lúc này, vẫn lăn tăn gợn sóng như xưa. Những con sóng dập dềnh xô về phía trước, từ không đến có, từ chậm đến mau. Còn chúng ta, không cần lặn xuống tận đáy sông để vớt những khói bụi của quá khứ. Chúng ta chỉ cần ung dung cất giấu những ký ức về sông Hoàng Phố, những truyền kỳ về Thượng Hải vào trong tay nải hành lý.
Nhớ mãi thành phố này, nó tên là Bến Thượng Hải.
Bước lại gần thành phố này, có lẽ chỉ cần một khoảnh khắc; phân tích một đoạn nhạc, cần thời gian bao lâu? Trong tim mỗi người đều có một bến Thượng Hải thuộc về riêng mình, trong thành phố khí thế hào hùng, phong tình lãng mạn này, chúng ta đều đang kiếm tìm một tình tiết liên quan đến văn hóa âm nhạc. Bởi vì, trong giang hồ sâu không thể dò này, chúng ta đều là những con thuyền xa bến, cần một khúc ca vượt sông, cần một chốn về cho tâm linh…
Ngọc sáng phương Đông
Đây chính là bến Thượng Hải. Một thành phố gió cuộn mây trào, một thành phố trăm sông đổ về một biển, một thành phố hoa lệ tuyệt sắc. Thành phố này, đến không khí cũng tràn đầy sự mê hoặc, từ trong cốt tủy đều toát lên sự cao ngạo, nó thời thượng đi trước trào lưu, khí thế hào hùng mà phong tình lãng mạn. Nó chính là “Thập Lý Dương Trường [1]” của ngày xưa, và là viên ngọc của phương Đông ngày nay. Thành phố này có tấm lòng rộng như biển cả, nó dung nạp muôn vàn câu chuyện, sau cơn sóng to gió lớn, lại bị lung lay trước những tình cảm yếu mềm dịu dàng. Rất nhiều người đến với thành phố này và đã sáng tạo nên những cuộc đời phi thường của họ. Bởi thế, bản thân Thượng Hải chính là một huyền thoại. Nhân dịp triển lãm thế giới tổ chức ở Thượng Hải, chúng tôi đến Thượng Hải, bước vào cuộc sống tươi đẹp của người dân Thượng Hải, thưởng thức một quãng thời gian gió mây trên biển nơi đây.
[1] “Thập Lý Dương Trường”: Là tô giới Thượng Hải xưa hoặc là cảnh tượng phồn hoa ở tô giới, đây là biệt hiệu ô nhục khi giai cấp thống trị cuối thời Mãn Thanh đền đất đền tiền cho các nước phương Tây.
Bến Thượng Hải vào buổi tinh mơ như mới vừa thức giấc. Những tòa nhà cao tầng ẩn trong sương sớm đã làm mờ hết những đèn hoa rực rỡ trong đêm, khoác lên mình màu sắc mông lung kỳ ảo. Bên bờ sông Hoàng Phố, tiếng còi tàu hú vang như phá vỡ mặt nước phẳng lặng, biến cảnh tượng mặt trời ló dạng trên sông thành một phong cảnh lay động lòng người, tất cả ký ức được mở tung trong khoảnh khắc này. Những tấm ảnh đen trắng đó, còn có tháng ngày quá khứ, tất cả đều chưa bị thành thị phồn hoa này lãng quên.
Tiếng chuông Đông Phương Hồng trên tòa nhà Hải Quan vang lên phía xa, cuộc sống mới mẻ mỗi ngày của Thượng Hải đều bắt đầu từ tiếng chuông ngân vang. Tháp truyền hình Đông Phương Minh Châu sừng sững bên bờ sông, đã bắt đầu viết tiếp câu chuyện ngày hôm qua của Thượng Hải. Dòng người như thủy triều dâng, tỏa đi đến những tòa nhà cao tầng khác nhau, họ đã quá quen thuộc với phương thức sinh hoạt gấp gáp, vội vã này. Trong lúc vội vã, họ vung vãi nhiệt tình đến mọi ngóc ngách của thành phố, và để lan truyền cảm xúc đến những người hối hả tới đây từ những địa danh khác nhau.
Hai bên bờ sông Hoàng Phố, tiếng sóng vẫn rì rào như xưa, hàng ngày đều có vô số thuyền bè đến đi trên sông. Mặt nước thênh thang, mở rộng tấm lòng, lặng lẽ lắng nghe mọi người kể lại câu chuyện đời mình. Ở nơi này, họ đang trục vớt những câu chuyện, thu nhặt tâm tình và giải phóng những mơ ước. Những chìm nổi thăng trầm trong ngọn sóng, có biết bao người bên bờ sông Mẹ, vứt bỏ hết buồn vui ly hợp. Nhưng thời gian không lưu lại chút thương tích nào cho con người, cũng không mang đến cho con người bất cứ lý do nào để thất vọng và lười biếng, lười nhác và quẩn quanh.
Thượng Hải có một ưu thế bẩm sinh. Quần thể kiến trúc Vạn Quốc ở bến Thượng Hải mang phong cách khác biệt độc đáo, đã khiến đô thị quốc tế này luôn đi phía trước, dẫn đầu thời đại. Thành thị rực rỡ này tựa như chỉ trong chớp mắt là có thể tao nhã đổi sang một chiếc áo mới. Một khi đã bước vào đô thị muôn hình vạn trạng này, không ai muốn quay đầu trở lại. Lịch sử của Thượng Hải đã hòa tan vào dòng nước của sông Tô Châu, êm đềm chảy xuôi. Cũng đã từng sóng biếc xôn xao, hết lần này đến lần khác thanh tẩy linh hồn con người, mài sáng ký ức cổ xưa, khiến chúng ta càng thấu hiểu một cách tỉnh táo rằng, Thượng Hải - thành phố chịu trách nhiệm lãnh đạo dẫn dắt nặng nề này, đã dùng bộ xương sống dẻo dai, cứng cỏi của nó để gánh đỡ sự trông mong kỳ vọng của biết bao người khác. Sự phồn hoa của thành phố này, đã trở thành phong cách ăn sâu vào gốc rễ, không thể thay đổi được. Văn hóa Hải phái [2] nồng hậu mà độc đáo, đã lây lan đến từng ngóc ngách nhỏ, từng kẽ hở của thành phố. Những sự vật mới mẻ có thể làm phong phú tư tưởng, cũng có thể khiến quá khứ tỏa ra một thứ mùi vị đượm hương hơn nữa. Mỗi ngày của Thượng Hải đều được trân trọng lưu giữ trong hồi ức; mỗi ngày của Thượng Hải, đều tiếp tục truyền kỳ của ngày hôm qua.
[2] Hải phái: Chỉ chung trường phái mang phong cách Thượng Hải.
Nghe một đoạn trong chiếc đĩa hát cũ, tựa hồ giai điệu nhạc Jazz cũ của Thượng Hải đã dẫn chúng ta trở về Thượng Hải năm nào. Đoạn nhạc Jazz mang đầy âm hưởng phương Đông đó đã khiến những ký ức đen trắng bị lãng quên được phủ lên một màu sắc tình cảm tuyệt đẹp. Dưới chiếc máy phát cũ kỹ, chiếc đĩa màu đen kẽo kẹt phát ra âm thanh đều đều như tiếng cửa mở ra đóng vào. Chìm đắm trong tiếng nhạc du dương uyển chuyển, trong sâu thẳm đáy lòng ấp ủ một tình yêu vô hạn đối với thành phố này. Những âm điệu vụn vặt vừa xa xôi vừa mênh mang, lặn sâu vào linh hồn, những âm điệu ấy luôn luôn vô tình làm ướt đẫm đôi mắt.
Kim đọc của máy quay đĩa xoay vòng, tựa như thời gian lưu chuyển, trong tình cảm sâu nặng lại mang theo sự phóng khoáng tự do. Mà cuộc sống sắc màu rực rỡ của Thượng Hải, vẫn tiếp diễn trong dòng chảy này. Thời gian tựa như một lưỡi dao sáng loáng và sắc nhọn, luôn cắt bỏ những chi tiết phức tạp, chỉ giữ lại những khoảnh khắc giản đơn. Miên man suy nghĩ hoài niệm, lại khó tránh khỏi bị thời gian thôi thúc, sợ rằng chỉ trong chớp mắt, sẽ không nắm giữ được bóng dáng thoáng qua của thành phố này.
Thượng Hải đẹp nhất khi vào đêm. Dưới những ánh đèn màu sặc sỡ, đường Nam Kinh hóa thân thành một cô gái ăn vận thời trang trẻ trung, yểu điệu để mời chào khách qua đường. Những ngọn đèn sáng rực bao quanh, chạm vào nhau lóe ra những đốm lửa đẹp tuyệt. Biết bao tối tăm đều trở nên thu hút mọi ánh nhìn chỉ trong khoảnh khắc. Những chiếc xe chở khách tham quan đi qua đi lại, dòng người chuyển động như tuôn trào, những cửa hàng san sát, những bảng hiệu hộp đèn dao động, đã phô bày hết cuộc sống tiểu tư sản ở Thượng Hải và sự lãng mạn thời thượng của đô thị lớn. Trên tòa nhà Công ty Bách hóa Vĩnh An, có người đang biểu diễn kèn saxophone. Những âm điệu tuôn trào như một ly rượu vang thơm nồng, khiến chúng ta phải thưởng thức một cách dịu dàng nhất. Cơn say ngắn ngủi trong chốc lát rồi trở lại hiện thực, Thượng Hải vào đêm vẫn như xưa, vẫn khuynh thành như thế.
Ở Thượng Hải, biển biếc nương dâu có lẽ chỉ là một quá trình ngắn ngủi. Thế nhưng cái mới mẻ chưa bao giờ có thể thay thế hoàn toàn cái cũ, một nền văn hóa sâu đậm sẽ không thể bị trào lưu mới vùi lấp. Thượng Hải là một ly cà phê cần người ta phải chuyên tâm xay mịn, điều chế, tỉ mỉ pha và thưởng thức, hương thơm nồng ấm lan tỏa và bao trùm toàn bộ thành phố này, thời gian đã đi thật xa, nhưng dư hương vẫn còn đọng lại, xua mãi chẳng tan. Khi người ta đang hưởng thụ sự phồn hoa và dẫn đầu của Thượng Hải mới, đồng thời cũng sẽ ôn lại sự xinh đẹp và phong tình của Thượng Hải cũ.
Ngõ nhỏ ở Thạch Khố Môn như một con đường ký ức xa xăm, ngắm nhìn phong cảnh phía xa, kéo theo những rung động, cảm xúc về khói lửa Thượng Hải xưa. Một bầu không khí nên thơ lãng mạn của Thượng Hải xưa bồng bềnh trôi nổi bên trong Thạch Khố Môn, không có những khoảng sân trang hoàng hoa lệ, không có những phong cảnh muôn hồng nghìn tía. Thế nhưng, đàn tế cổ trăm năm ẩn sâu trong ngõ nhỏ, đã chuốc cho cả con ngõ chếnh choáng say. Mấy cụm hoa vàng và rêu xanh đang tô điểm cho cuộc đời. Ngõ hẻm thực ra không sâu, không dài là bao, ánh nắng vụn vỡ lại như đang khắc vào lòng người, mở bung những tình cảm đã bị giấu kín bao lâu nay.
Một đóa hoa bìm bìm leo tường nhìn bao quát hết thảy cảnh xuân trong sân, ngắm đến tận cùng những hồi ức phù hoa. Cánh cửa sổ nửa đóng nửa khép, sào phơi áo trên lan can, cầu thang gỗ cũ mèm đều là những vai diễn chính của khung cảnh nơi đây. Những giọng Ngô mềm mại thỏ thẻ ấy đang hát vang trên chốn lầu gác nhỏ hẹp. Trong ngõ hẻm, một tiếng gọi khẽ Hoa Dành Dành, Hoa Bạch Lan, gợi nhớ quá khứ, mát mẻ nhàn nhạt.
Tường bao bên ngoài Bách Lạc Môn đã bị đổi thành những ô cửa sổ sát đất quây tròn. Trong cảnh đêm rực rỡ sắc màu, nó như chiếc áo sườn xám hoa mỹ, tư thế yểu điệu xinh đẹp đang đánh thức giấc mộng xưa Thượng Hải đã ngủ say suốt nửa thế kỷ. Những ca kỹ phiêu dạt hát bài “Dạ Lai Hương” đó đã mang đến một dấu tích thời gian cho Thượng Hải về đêm ngày nay. Thời thế chuyển dời, biết bao sự vật cùng chìm nổi thăng trầm vì Thượng Hải, và cũng tái sinh vì Thượng Hải. Ở Thượng Hải, sườn xám là một biểu tượng cổ điển trang nhã, vẻ đẹp đậm chất Á Đông mà gợi cảm luôn khiến người ta nảy sinh những tưởng tượng vô cùng vô tận. Cho dù nó có cổ điển đến đâu, thì nó vẫn luôn có năm tháng tươi trẻ nhất. Sự tinh tế của sườn xám đã làm tôn thêm vóc dáng mềm mại, thanh tú, khí chất tao nhã của những cô gái Thượng Hải, đã xinh đẹp lại càng thêm yểu điệu thanh tân. Họ vận lên người những chiếc sườn xám, miệng xinh chúm chím cười, thần thái trên khuôn mặt, giữa nét mày càng khiến người ta nhớ đến những người con gái xinh đẹp khuynh thành của Thượng Hải xưa. Sườn xám tựa như luôn chứa đựng một thứ tình cảm bẩm sinh đối với họ, và cũng mang một duyên phận không thể chia cắt với thành phố này.
Thượng Hải khi trút bỏ chiếc sườn xám, lại mang một vẻ đẹp kinh hãi thế tục. Sự rạng ngời hào hoa của nó, thiên nhiên không thể đẽo gọt nên, xưa nay đều cất giấu trong từng cái chau mày, từng nét cười. Chúng ta đổi những góc độ quan sát khác nhau, thì thành phố này vẫn phong cách và tươi đẹp y như vậy, kèm theo cả niềm hạnh phúc rạng rỡ như hoa phô bày khắp thành phố này.
Sông Hoàng Phố lúc này, vẫn lăn tăn gợn sóng như xưa. Những con sóng dập dềnh xô về phía trước, từ không đến có, từ chậm đến mau. Còn chúng ta, không cần lặn xuống tận đáy sông để vớt những khói bụi của quá khứ. Chúng ta chỉ cần ung dung cất giấu những ký ức về sông Hoàng Phố, những truyền kỳ về Thượng Hải vào trong tay nải hành lý.
Nhớ mãi thành phố này, nó tên là Bến Thượng Hải.
Mùa xuân Thượng Hải
Vẫn luôn cho rằng, những gì tình cảm nhất, có thể an ủi linh hồn nhất trên thế gian này đều thuộc về âm nhạc. Thứ âm điệu du dương uyển chuyển, sâu xa trong vắt ấy bồng bềnh trên bến bờ của thời gian, đẹp không sao tả xiết. Nó có thể khiến tâm tình hỗn loạn trở nên trầm lắng trong chớp mắt, cũng có thể khiến những mặt hồ phẳng lặng trong trái tim nổi sóng lao xao. Con người và âm nhạc là nhã khách tương phùng. Rất nhiều ca khúc quen thuộc luôn xuyên qua phong cảnh phồn hoa hỗn tạp, lướt đến bên chúng ta chỉ trong một sát na vô tình.
Vô tình gặp gỡ một tòa thành, là duyên phận; tương ngộ với văn hóa âm nhạc của một thành phố, cũng là duyên phận. Lễ hội âm nhạc quốc tế mùa xuân Thượng Hải lần thứ 28, đã mở màn một cách thi ý, tao nhã dưới ánh xuân muôn nghìn hồng tía. Đây là lễ hội âm nhạc kéo dài nhất trong lịch sử Trung Quốc, nó diễn ra vào tháng Năm, mùa hoa ngọc lan nở, để xướng lên muôn hình vạn trạng những giai điệu của nửa thế kỷ. Từng âm điệu linh động, réo rắt bừng nở một cách yên tĩnh lại nhẹ nhàng, xúc động lại miên man giữa Thượng Hải - đại đô thị quốc tế này.
Trong Lễ hội âm nhạc kéo dài ba tuần, 35 buổi hòa nhạc kinh điển đến từ hơn mười quốc gia như Trung Quốc, Nga, Italia… đã lần lượt ra mắt một cách đặc sắc. Đó là nhân duyên định mệnh, khiến những người khách qua đường như tôi và bạn đều ở lại đô thị Thượng Hải phồn hoa này, khiên chúng tôi tụ hội với nhau giữa mùa xuân, trao cho nhau những chén nồng ngày tết, lắng nghe những âm điệu thiên nhiên tuyệt vời. Đây là một vũ đài hoa lê, nó có đủ khí thê và hoài bão để trình diễn một cách hoàn hảo. Lễ hội âm nhạc quốc tế “Mùa xuân Thượng Hải”.
Cái gọi là “kiến trúc là âm nhạc hóa đá [3]”, phòng hòa nhạc Thượng Hải được mệnh danh là “Nhà hát Opera Paris của Thượng Hải”. Kiến trúc của nó mang phong cách châu Âu cổ điển, những đồ trang trí hoa lệ tuyệt mỹ, đã trang hoàng cho Lễ hội âm nhạc trở nên thi ý mà tao nhã gấp bội. Chính nhờ công trình nhà hát rực rỡ chói mắt này, đã khiến rất nhiều sự vật vốn xa lạ không hẹn mà cùng tới, giao hòa với nhau, rúng động linh hồn. Đây hẳn là một bữa tiệc thịnh soạn bậc nhất, diễn ra khi sắc xuân nồng đượm đang vào độ chín, sẽ khép lại trong tiếng vỗ tay và hoa tươi khoe sắc. Vẻ đẹp cảm động đó, không phải dáng vẻ yểu điệu lả lướt, mà nó sẽ hóa thành những ngọn sóng dạt dào không dứt, chảy mãi không tan trên sông Hoàng Phố.
[3] Một câu nói của thi hào Goethe
Hết thảy đến đi đều có nguyên do. Mùa xuân Thượng Hải phải nở bừng diễm lệ như thế, là vì nền văn hóa sâu sắc vững bền của Thượng Hải và thổ nhưỡng đặc biệt của đô thị này, cùng với những truyền kỳ đâu đâu cũng thấy ở nơi đây. Cho nên, cho dù chìm sâu trong lòng sông Hoàng Phố, hay là chảy trôi trên dòng Tô Châu, hoặc là xuyên qua ngõ hẻm cổ kính Thạch Khố Môn, thì vẫn luôn có thể tìm thấy phong thái đa dạng và mùi thơm lừng của đô thị này. Đây là thành phố nơi trăm sông đổ về một biển, từng câu thơ từ đều hàm chứa cả một câu chuyện hoa mỹ, mỗi một âm điệu lại có thể nảy sinh một mối tình tráng lệ. Mà cảnh trí của thành phố và vạn vật có linh tính, đều có thể yên vui trong âm nhạc.
Bước lại gần thành phố này, có lẽ chỉ cần một khoảnh khắc; phân tích một đoạn nhạc, cần thời gian bao lâu? Trong tim mỗi người đều có một bến Thượng Hải thuộc về riêng mình, trong thành phố khí thế hào hùng, phong tình lãng mạn này, chúng ta đều đang kiếm tìm một tình tiết liên quan đến văn hóa âm nhạc. Bởi vì, trong giang hồ sâu không thể dò này, chúng ta đều là những con thuyền xa bến, cần một khúc ca vượt sông, cần một chốn về cho tâm linh. Âm nhạc hay, có thể khiến cả dòng nước mùa xuân đổi màu. Âm nhạc hay, là hòn đá bắc qua sông, là bếp than chia hơi ấm, và cũng là ngọn đèn sáng soi trong đêm tối.
Giai điệu dặt dìu, đẩy một cánh cửa gọi là Tuế Nguyệt ra, ký ức của mấy đời nhạc sĩ đều không kìm được mà mở bung ra trong Lễ hội âm nhạc này. Sự vinh quang của quá khứ, và sự sáng đẹp của ngày nay đã được phô diễn hết mực trong những tháng ngày nhàn nhạt. Thượng Hải đã dành một sân khấu tân tiến nhất, tao nhã nhất cho những sản phẩm âm nhạc kinh điển. Mà sân khấu này lại khiến cho một loạt nhạc sĩ, nhà diễn tấu trở thành những diễn viên chính trong lịch sử. Có lẽ, thứ âm nhạc thực sự làm rung động lòng người, không phải là thứ âm nhạc sáng chói phù phiếm như bảy sắc cầu vồng, cũng không phải là thứ âm nhạc sáng lạn chói mắt như viên ngọc sáng phương Đông, mà là một tình yêu thuần khiết, nó chất phác đến độ khiến người ta chỉ biết cảm động mà than rằng nó tuyệt diệu khôn cùng, không gì sánh nổi.
Sinh mệnh vốn là một bài hát có nhạc đệm, mỗi một con người đã trải qua những năm tháng dài đằng đẵng của cuộc đời, mà vẫn có thể không hề đổi thay, đó chính là sự khẳng định thuần túy nhất đối với người hát. Khúc ca đó, là chỉ giữ nguyên một màu trong khung cảnh mùa xuân muôn ngàn màu sắc, là chỉ tìm một người duy nhất trong dòng người đi lướt qua nhau, là chỉ múc một gầu nước duy nhất trong ba ngàn Nhược Thủy. Khi cô độc, sẽ gắn với nhau như hình với bóng; khi mê lầm, sẽ không chia lìa xa cách. Cho dù trong đô thị quốc tế Thượng Hải này, người đến người đi vội vã biết bao, dòng người lưu chuyển nhanh gấp đến đâu, thì văn hóa âm nhạc vĩnh viễn sẽ không bị thời gian quên lãng. Nước xuân trên sông, gió xuân khắp thành, thành phố thánh địa văn hóa âm nhạc Thượng Hải này, mang đến sự ngơi nghỉ an tĩnh cho những lữ khách đang dạo nước giữa chốn thế tục khói lửa. Đóa hoa ngọc lan tháng Năm đó, đã bung cánh nở rộ trong những ngày cuối cùng của mùa xuân. Thế gian mênh mông ngút tầm mắt, vẫn còn biết bao sự vật có thể vĩnh hằng, biết bao năm tháng có thể tiêu phí. Duy chỉ có âm nhạc, nó như một cái cây nở đầy hoa của thời gian, yên tĩnh chiếm một góc nhỏ trong kiếp này, ngắm nhìn xuân qua thu tới, phàm trần lai vãng, mà vĩnh viễn không héo tàn.
Vốn cho rằng Bến Thượng Hải sóng cả cuộn trào, một ngọn sóng là đủ nhấn mình vào thứ tình cảm mềm dịu. Nhưng chẳng ngờ, quẩn quanh trong những âm điệu tao nhã, những hạnh phúc và điều tốt đẹp của ngày hôm qua đến hôm nay vẫn còn có thể chạm vào được. Cầu cho mùa xuân Thượng Hải sẽ đi qua năm tháng trên vũ đài nhân gian. Cầu cho một khúc thanh âm của thời thái bình thịnh thế, ca ngợi vẻ đẹp của non sông, thể hiện quãng thời gian lãng mạn.
Dư âm trên biển
Đời người luôn là một chuỗi hồi ức liền mạch, cho dù bản thân có sống ở nơi phồn hoa đến mấy, có biết vinh hoa phú quý đến nhường nào, thì vẫn có lúc, một bài hát cũ cũng có thể dẫn dắt chúng ta quay về quá khứ, ôn lại một đoạn tuổi xuân như nước chảy trôi. Thượng Hải xưa như một giấc mộng cũ ngủ say, vốn tưởng rằng xa cách trăm năm, cảm giác ấy đã sớm tan biến, thế nhưng rất nhiều cảm giác quen thuộc lâu ngày không gặp đều hiện hữu trong một bài hát cũ. Chúng ta chỉ cần nhẹ nhàng đi xuyên qua con đường năm tháng, đến ngã rẽ của một mùa nào đó, là có thể cùng Thượng Hải thấu hiểu lẫn nhau.
Người ta nói, Thượng Hải đẹp đến mức không có cách nào phục chế được, đến khi phồn hoa rơi rụng thành bụi trần, thứ lay động tâm can vẫn là câu chuyện xưa như sương khói. Cho nên, đi trong thành phố Thượng Hải rộng lớn ngựa xe như nước, trong lòng trước sau vẫn có một khoảng trống rỗng yên lặng. Luôn tưởng rằng, dòng người lướt qua nhau sẽ không bao giờ gặp gỡ một cách tao nhã. Kỳ thực, trong sự nên thơ ý vị có thể bắt gặp ở bất cứ đâu ở Thượng Hải, chúng ta đều ôm ấp cùng một giấc mộng, và cần dựa vào những ký ức cũ kỹ đó để thả lỏng tâm tình.
Đi vào đường Phương Tân, nơi này khác với sự sáng lạn, hoa lệ của Thượng Hải mới, nhưng lại gặp gỡ sự ý vị cổ kính của Thượng Hải xưa. Nơi đây được gọi là “phố cổ Thượng Hải”, nó mang phong cách điển nhã cổ phong thời Minh, Thanh, trưng bày rất nhiều tấm ảnh cũ, ảnh lịch, họa báo cũ. Những đồ vật cũ đã bị thời gian quên lãng nhiều năm ấy, vốn đã mất tăm tích trên những con phố thương mại nổi tiếng như đường Nam Kinh, đường Hoài Hài, nhưng lại có thể bắt gặp ở bất cứ nơi đâu trên con phố cổ này. Đèn lồng đỏ treo cao dưới mái hiên cửa hàng, và lá tửu kỳ phất phơ trong gió, bằng phương thức cổ điển, tao nhã nhất, thuật lại ngày hôm qua muôn vàn sắc thái của Thượng Hải xưa cho những lữ khách lai vãng nơi này.
Những người bạn từ các quốc gia trên thế giới, từ ngũ hồ bốn biển đến đây, họ mang theo gió bụi của trời nam đất bắc, và gặp gỡ nhau trên con phố cổ kính dài hun hút này. Họ muốn tìm kiếm giấc mộng đã bị thất lạc từ lâu trong phong cảnh thời xưa, hay chỉ vì muốn tô điểm thêm một khung cảnh khác thường vào hành trành sinh mệnh của bản thân? âm nhạc của Thượng Hải xưa chầm chậm chảy trôi trong đáy sâu của thời gian, rồi bao trùm và lan tỏa khắp thành phố. Chúng ta không kìm nổi chìm đắm trong tiếng ca, hy vọng giữa biển người mênh mông gặp được cái người duyên phận kiếp này đã định ấy. Chúng ta là con thuyền trôi nổi, còn phố cổ là bến đậu. Cuộc gặp gỡ giữa muôn vạn người, không thể quá sớm, cũng không thể quá muộn, cho đến khoảnh khắc đôi bên nắm tay nhau mới đột nhiên vỡ òa, hóa ra tất cả chờ đợi đều là xứng đáng.
Nếu như nói nhân sinh là một chuyến tu hành, vậy thì những gì chúng ta phải làm chính là tìm một phương trời thanh tịnh, nắm tay bên nhau, cười ngắm gió mây, như Thế Âmới không phụ những tháng ngày tươi đẹp của cả một đời. Trong tiết trời cuối xuân này, rất nhiều người đang chìm sâu trong âm điệu của chiếc máy hát cũ, và trong những ca khúc vừa chân thực vừa hư ảo, vừa hàm súc lại vừa hướng nội, để có được tình cảm ấm áp và sự vui vẻ.
Tòa nhà Tiểu hồng lâu Trung Xướng nằm trong công viên Từ Gia Hội, cuối thế kỷ 19, công ty đĩa hát EMI nước Pháp xâm nhập vào Thượng Hải, mang theo chiếc máy hát thời thượng. Loại máy móc này đã khiến cho người Thượng Hải đương thời cảm thấy hưng phấn lạ thường, rất mau chóng nó đã trở thành trào lưu thời thượng nhất toàn bộ bến Thượng Hải.
Tiểu hồng lâu Trung Xướng là một tòa nhà có phong cách khác biệt, đã kinh qua bảy, tám mươi năm mưa gió tang thương mà vẫn bảo lưu được phong thái phi phàm năm xưa. Lò sưởi xây liền tường, đèn treo, máy hát cũ đĩa than, những đồ vật cũ này mang một vẻ đẹp như ảo như mộng khiến người đến tham quan cam tâm tình nguyện say đắm nó, gửi gắm cảm xúc ở nơi đây, và chắc chắn rằng đây chính là chốn quay về yên tĩnh nhất giữa trần thế huyên náo.
Tiểu hồng lâu Trung Xướng đã cất giữ biết bao sự phồn thịnh và huy hoàng mà ngày nay không thể nào sánh kịp. Dường như tất cả những nhân vật đình đám trong lịch sử nghệ thuật Trung Quốc hiện đại đều từng để lại dấu chân, hoặc sâu hoặc nông ở nơi này. Ở nơi này, Nhiếp Nhĩ từng sáng tác “Khúc tiến quân ca của nghĩa dũng quân”, Lê Cẩm Quang đã sáng tác “Dạ Lai Hương”, bản “Hoa hồng, hoa hồng anh yêu em” của Trần Ca Tân cũng được thu âm lần đầu ở đây. Nắng trời bóng mây của quá khứ đã tan biến, khi gió mây lắng lại, sẽ lại có một truyền kỳ khác nối tiếp ngày hôm qua tuyệt đẹp.
Trong phim của hãng Paramount có một câu rằng: “Khi nhạc Jazz trong Bách Lạc Môn vang lên, bạn không thể cự tuyệt được mà xoay người một cách hoa lệ.” Nửa thế kỷ trước, Bách Lạc Môn đã từng nổi tiếng khắp trong và ngoài nước với danh hiệu “Đệ nhất nhạc phủ Viễn Đông”. Có rất nhiều nhạc sĩ xuất sắc của dòng nhạc Jazz xuất hiện ở nơi đây, họ đã khảm một tầng sắc thái tình cảm đậm đặc lên nhạc Jazz. Nghe nhạc Jazz, giống như điều chế một ly rượu dung hòa cả Đông lẫn Tây, vừa có sự cổ diển Phương Đông đầy lãng mạn, khiến những người đã từng thưởng thức sẽ vương vấn mãi không quên, và chìm đắm trong cảnh trí huyền ảo rực rỡ ấy. Gặp gỡ Bách Lạc Môn, bất cứ một lần quay người nào đều khiến người ta phải ngoái nhìn hồi tưởng nhiều lần. Bách Lạc Môn càng trở nên lung linh muôn hình vạn trạng trong cảnh đêm rực rỡ sắc màu, bao nhiêu ảm đạm đen tối đều bị tan chảy bởi vẻ đẹp diễm lệ của những “Ca nữ Thiên Nhai [4]”. Đôi lúc, một chiếc sườn xám hoa mỹ cũng đủ làm khuynh đảo tất cả khán giả Thượng Hải về đêm, là thành phố không có ban đêm, như thể bất cứ lúc nào bạn cũng có thể chứng kiến cảnh tượng ca múa thanh bình. Nhưng thứ chúng ta cầu ước chỉ là trong khi tuổi xuân vẫn còn rực rỡ, giữa tiếng nhạc dặt dìu, say một giấc túy lúy mà tươi đẹp. Đợi đến khi tia nắng đầu tiên rớt trên ban công mới tỉnh mộng.
[4] Một ca khúc nổi tiếng do Chu Tuyền thể hiện.
Đi xuyên qua ngõ hẻm Bách Khố Môn dài thăm thẳm mà chật hẹp, hết thảy hồi ức bị phong bế đã tuôn trào chỉ trong chớp mắt. Lầu gác bằng gỗ, những dây leo xanh thẫm bò lan, ý vị nên thơ nồng đậm bao trùm khắp thành Thượng Hải xưa. Một khúc ca cũ quen thuộc không biết vẳng đến từ khung cửa nhà ai, trong không khí hoài niệm chuyện cũ người xưa lan tỏa mùi hương thanh nhã của hoa dành dành. Nếu như không phải ngõ hẻm có điểm tận cùng, thì tất cả lữ khách đến đây đều ngộ nhận rằng, thời gian đã trôi ngược trở lại đến mấy chục năm. Còn chúng ta chính là những người Thượng Hải cũ chính gốc, trong con hẻm đầy khói lửa, yên bình sống những tháng năm đạm bạc.
Thượng Hải như một tòa thành của số mệnh, những người đến đây, hễ bước lạc vào trong không gian âm nhạc hoài niệm, thì sẽ không thể quên nổi mối tình này. Những người này thích ngồi dưới ánh nắng chiều, uống một ly trà, trong giai điệu của chiếc đĩa hát cũ, lật giở từng tấm ảnh cũ, bắt đầu hồi tưởng lại ký ức xưa. Những người này thích đi xuyên qua ngõ nhỏ phố lớn, ngắm những cảnh vật nhân tình của thành phố này, để bản thân chìm đắm trong chuyện cũ thăng trầm của Thượng Hải xưa. Bao nhiêu năm trôi qua, vật cũ đã đổi chủ từ lâu, tiếng sóng bên bờ sông Hoàng Phố vẫn như xưa - buông lời hẹn ước không gặp không về với mỗi người khách qua đường.
Chúng ta đều tin vào gặp gỡ nhân duyên, nếu thực sự có duyên phận, cho dù phải trải qua ly biệt lâu đến đâu, rốt cuộc cũng sẽ có một ngày trùng phùng. Cho dù vật đổi sao dời, nhân thế đổi thay, những người đã đi xa ấy, vẫn sẽ quay về cạnh ta. Ngỡ rằng đã để lỡ những tháng năm như hoa như mộng của Thượng Hải xưa, nhưng không ngờ vẫn có thể tìm thấy tất cả những thứ quen thuộc trước đây dễ như trở bàn tay trong một ca khúc hoài cổ.
Thời gian không đứng lại bao giờ, chúng ta không còn trẻ nữa. Rất nhiều câu chuyện phức tạp cũng già đi trong êm đềm, mà phong vân xưa của thành phố này vẫn còn đó. Nguyện cho cuộc tương phùng của tất cả mọi người với Thượng Hải đều là “Hoa chi mãn xuân, thiên tâm viên nguyệt.” (Xuân đến hoa nở trĩu cành, ngẩng đầu trăng ắt tròn vành trên không [5])
[5] Hai câu trong bài kệ Hoằng Nhất đại sư (1880 - 1942) viết năm 60 tuổi, đại ý nói rằng: Không cần theo đuổi mù quáng, tất cả đều nên thuận theo tự nhiên.
Tương phùng là bài ca
Đều nói tương phùng là một bài ca, cho dù tương phùng với con người, hay tương phùng với non nước cây cỏ, hoặc tương phùng với một thành phố, đều là một bài ca dao xúc động tâm can, ý vị sâu xa. Không phải tất cả mọi người đều có thể sát cánh đồng hành với mình suốt cả cuộc đời, nhưng lại có rất nhiều ca khúc bầu bạn với bạn, với tôi như trước kia, đi qua thời gian mấy chục năm, mà vẫn hạnh phúc và ấm áp.
Tương phùng với một thành phố, cũng là tương phùng với một bài ca, Thượng Hải chính là một bài ca khiến người nghe một lần là không thể nào quên. Đây là một đô thi quốc tế hiện đại, trong mỗi ngóc ngách đều tràn ngập mộng ước thần kỳ, đều sáng tạo nên những truyền kỳ mà trước đây chưa từng có. Đây cũng là một thành phố cổ trải qua hết mọi mưa gió tang thương, mỗi ngõ hẻm của nó đều ẩn chứa những câu chuyện lâu năm, chất chứa nung nấu những mối tình êm dịu phong hoa tuyết nguyệt. Mà hết thảy những thứ này, đều được ngòi bút của lịch sử biết thành một ca khúc tuyệt mỹ sinh động. Thời gian sẽ lần lượt cáo biệt chúng ta, và thành phố phồn hoa cao quý này đã viết nên hết mây gió trăm năm, quá khứ khói bụi. Đi xuyên qua những tòa cao ốc chọc trời thời thượng, dạo bước trong những ngõ hẻm cổ kính đơn sơ dài hun hút, cảm nhận về thành phố Đông Tây kết hợp, phong cách lạ lùng này. Những người lữ hành không biết đến từ nơi nào, và đi đến đâu, nhưng tất cả mọi cuộc tương phùng đều là một đoạn duyên phận hệt như tâm ý. Dầu cho nhân sinh như bèo nước, trong những tháng năm như bóng câu qua cửa, mau chóng lướt qua này, chúng ta đều phải trân trọng duyên phận.
Thạch Khố Môn là một sản vật dung hòa nghệ thuật kiến trúc Trung Quốc và kiến trúc phương Tây, cũng là một khung cảnh không thể thiếu của đại Thượng Hải. Nơi đây đã dấy lên vô số sóng gió giang hồ, đã từng có biết bao thiếu nữ cô độc sinh sống ở đây. Tháng đổi năm dời, rất nhiều cảnh vật đều đã đổi sang dung nhan mới, nhưng thời gian lại không thể nào xóa nhòa một nét ký ức của quá khứ. Thế nhưng ký ức cũng thật dè sẻn, chỉ những người từng trải mới có thể sở hữu nó. Có lẽ chúng ta đều được số phận an bài không thể trở thành diễn viên chính của thành phố này nhưng lại có thể đứng dưới sân khấu đợi chờ phút mở màn và hạ màn của một vở kịch.
Lưng đeo tay nải đơn giản, nghe một bài hát cũ, chọn một phong cảnh, đi vào ngõ hẻm, đứng ở giữa nơi hồng trần khói lửa nhất, nhưng tận sâu thẳm trái tim vẫn sạch sẽ như đã từng được quét dọn. Chúng ta có thể phân biệt rất rõ ràng mùi vị của gió, và tình điệu độc nhất vô nhị của thành phố này. Không biết trên giàn phơi quần áo trên ban công, đang hong khô chiếc váy hoa nhà ai; không biết trên lầu gác yên tĩnh của tòa thành đó, đã xảy ra biết bao câu chuyện nắng mưa tròn khuyết? Cho dù là lần đầu gặp gỡ, hay là phút tương phùng, thứ nơi đây đem đến cho bạn vẫn là sự quen thuộc và ấm áp. Cái gọi là “Nhân gian hữu vị thị thanh hoan [6]” (Điều thú vị nhất trên nhân gian này chính là niềm vui thanh đạm), khi chúng ta nhận ra và nếm trải tư vị của niềm vui thanh đạm nơi thành phố phồn hoa này, thì chúng ta đã thực sự đạt được tới cảnh giới tột cùng đó.
[6] Một câu trong bài “Hoán khê sa” của nhà thơ Tô Thức đời Tống.
Hai bờ sông Phố, tiếng sóng như xưa, chẳng biết từ khi nào, chúng đã quen với việc say đắm trong một bài hát, yêu ý vị của ca từ, yêu giai điệu của ca khúc. Cho dù là buổi sớm mờ sương, hay là đêm tối rực rỡ, những tòa nhà cao tầng hai bên bờ vẫn toát lên một phong thái mê hồn. Thượng Hải chính là một ly rượu nồng được cất kín ở nơi sâu thẳm của thời gian, khiến những người đến đây, giữa năm tháng như một khúc ca, đổi lấy một chén, mới nhấp đã mềm môi.
Phố Tây là khu tô giới của Thượng Hải cũ, đại sứ quán của các nước hồi trước đều được xây dựng ở đây. Những đại sứ quán này như trang lịch âm treo trên bức tường năm tháng, chúng ta không cần cố ý hồi tưởng, mà đã có thể lần giở xem lại những tháng ngày đã qua. Trung tâm tiền tệ Lục Gia Chủy ở Phố Đông, quần thể kiến trúc mới cực kỳ đặc sắc, đã thay đổi diện mạo của thành phố này chỉ trong chớp mắt. Tháp truyền hình Đông Phương Minh Châu nổi tiếng ngạo nghễ cúi nhìn chúng sinh, bất cứ lúc nào, nó đều là một huyền thoại không thể vượt qua nổi của Thượng Hải. Đứng ở hai bên bờ sông Phố, ngắm nhìn kiến trúc Đông, Tây giao hòa, cổ kim kết hợp, trong lòng du khách trỗi dậy một cảm giác thời gian và không gian dường như giao thoa. Dù cho là ban ngày hay ban đêm, bến Thượng Hải cũ hay mới đều khiến người ta phải tấm tắc ngợi khen.
Điền Tử Phường, một cái tên đơn giản mà đẹp đẽ, một Thượng Hải nồng đậm. Đây vốn chỉ là một con phố nhỏ không tên tuổi, tồn tại lặng lẽ trong một góc nhỏ tầm thường nào đó của đại Thượng Hải. Không biết ai đã mở cánh cửa nghệ thuật, khiến văn hóa Hải phái đều ngưng tụ ở đây. Mà rất nhiều người chất chứa mộng tưởng trong lòng, từ các quốc gia, các thành phố khác nhau đến Điền Tử Phường, nguyện cùng văn hóa Đông Tây của nơi này giao hòa linh hồn, cùng chung một mối tâm tình đầy ý thơ.
Ở Điền Tử Phường có diễn xướng ca kịch do một số studio tổ chức thường xuyên, khách tới đây luôn chìm đắm trong các ca khúc, quên mất hành trình phía trước còn bao xa. Chính âm nhạc đã mở bung những linh hồn còn bị khóa kín, khiến cho mỗi câu chuyện bị lãng quên lần lượt quay trở lại theo giai đoạn xoay vòng. Trong trái tim của mỗi con người đều có một Điền Tử Phường, nó đem lại sự lãng mạn cho những người say mê nghệ thuật phương Tây, đem lại sự điển nhã cho những người lưu luyến Thượng Hải. Ở Điền Tử Phường, không có sự phân chia khu vực vùng miền, tuổi tác cao thấp, giàu nghèo sang hèn, nghệ thuật và phong tình của nơi đây nguyện nắm tay sánh bước cùng mỗi người.
Thượng Hải - thành phố với phong cách kết hợp hài hòa giữa hiện đại và truyền thống đã thu hút ánh mắt của mọi du khách trên thế giới. Nó là một cô gái thời thượng, đi giữa những tòa nhà cao tầng, tư thế thướt tha tuyệt mỹ, và cũng là một thiếu nữ cổ điển tao nhã, mặc một bộ sườn xám, lưu luyến ngoái nhìn ngõ hẻm dài thăm thẳm. Chúng ta say đắm sự phồn hoa sáng lạn của Thập Lý Dương Trường, và cũng mê luyến sự ý vị nên thơ của những cảnh vật cũ của Thượng Hải xưa. Mà những tình cảm cổ kim giao hòa này xưa nay chưa từng mâu thuẫn, tựa như bất cứ lúc nào cũng đều có thể say đắm như nhau.
Tương phùng trong một khúc ca, từ đây đã yêu thành phố này, thương mến từng mái hiên, viên ngói, từng hạt bụi, mảnh đất nơi đây. Khi chúng ta ngỡ rằng thời gian đã lùi xa, những phồn hoa đã trở thành chiếc bóng của dĩ vãng, thì câu chuyện của Thượng Hải vẫn đang tiếp diễn. Năm tháng trôi đi âm thầm không tiếng động, nhưng nó để lại rất nhiều bài ca không lời, để lại những hồi ức sâu đậm cho chúng ta. Và khiến cho chúng ta mỉm cười giữa tiếng ca, cùng có niềm hạnh phúc như hoa nở giữa trần thế ấm áp này.
Vẫn luôn cho rằng, những gì tình cảm nhất, có thể an ủi linh hồn nhất trên thế gian này đều thuộc về âm nhạc. Thứ âm điệu du dương uyển chuyển, sâu xa trong vắt ấy bồng bềnh trên bến bờ của thời gian, đẹp không sao tả xiết. Nó có thể khiến tâm tình hỗn loạn trở nên trầm lắng trong chớp mắt, cũng có thể khiến những mặt hồ phẳng lặng trong trái tim nổi sóng lao xao. Con người và âm nhạc là nhã khách tương phùng. Rất nhiều ca khúc quen thuộc luôn xuyên qua phong cảnh phồn hoa hỗn tạp, lướt đến bên chúng ta chỉ trong một sát na vô tình.
Vô tình gặp gỡ một tòa thành, là duyên phận; tương ngộ với văn hóa âm nhạc của một thành phố, cũng là duyên phận. Lễ hội âm nhạc quốc tế mùa xuân Thượng Hải lần thứ 28, đã mở màn một cách thi ý, tao nhã dưới ánh xuân muôn nghìn hồng tía. Đây là lễ hội âm nhạc kéo dài nhất trong lịch sử Trung Quốc, nó diễn ra vào tháng Năm, mùa hoa ngọc lan nở, để xướng lên muôn hình vạn trạng những giai điệu của nửa thế kỷ. Từng âm điệu linh động, réo rắt bừng nở một cách yên tĩnh lại nhẹ nhàng, xúc động lại miên man giữa Thượng Hải - đại đô thị quốc tế này.
Trong Lễ hội âm nhạc kéo dài ba tuần, 35 buổi hòa nhạc kinh điển đến từ hơn mười quốc gia như Trung Quốc, Nga, Italia… đã lần lượt ra mắt một cách đặc sắc. Đó là nhân duyên định mệnh, khiến những người khách qua đường như tôi và bạn đều ở lại đô thị Thượng Hải phồn hoa này, khiên chúng tôi tụ hội với nhau giữa mùa xuân, trao cho nhau những chén nồng ngày tết, lắng nghe những âm điệu thiên nhiên tuyệt vời. Đây là một vũ đài hoa lê, nó có đủ khí thê và hoài bão để trình diễn một cách hoàn hảo. Lễ hội âm nhạc quốc tế “Mùa xuân Thượng Hải”.
Cái gọi là “kiến trúc là âm nhạc hóa đá [3]”, phòng hòa nhạc Thượng Hải được mệnh danh là “Nhà hát Opera Paris của Thượng Hải”. Kiến trúc của nó mang phong cách châu Âu cổ điển, những đồ trang trí hoa lệ tuyệt mỹ, đã trang hoàng cho Lễ hội âm nhạc trở nên thi ý mà tao nhã gấp bội. Chính nhờ công trình nhà hát rực rỡ chói mắt này, đã khiến rất nhiều sự vật vốn xa lạ không hẹn mà cùng tới, giao hòa với nhau, rúng động linh hồn. Đây hẳn là một bữa tiệc thịnh soạn bậc nhất, diễn ra khi sắc xuân nồng đượm đang vào độ chín, sẽ khép lại trong tiếng vỗ tay và hoa tươi khoe sắc. Vẻ đẹp cảm động đó, không phải dáng vẻ yểu điệu lả lướt, mà nó sẽ hóa thành những ngọn sóng dạt dào không dứt, chảy mãi không tan trên sông Hoàng Phố.
[3] Một câu nói của thi hào Goethe
Hết thảy đến đi đều có nguyên do. Mùa xuân Thượng Hải phải nở bừng diễm lệ như thế, là vì nền văn hóa sâu sắc vững bền của Thượng Hải và thổ nhưỡng đặc biệt của đô thị này, cùng với những truyền kỳ đâu đâu cũng thấy ở nơi đây. Cho nên, cho dù chìm sâu trong lòng sông Hoàng Phố, hay là chảy trôi trên dòng Tô Châu, hoặc là xuyên qua ngõ hẻm cổ kính Thạch Khố Môn, thì vẫn luôn có thể tìm thấy phong thái đa dạng và mùi thơm lừng của đô thị này. Đây là thành phố nơi trăm sông đổ về một biển, từng câu thơ từ đều hàm chứa cả một câu chuyện hoa mỹ, mỗi một âm điệu lại có thể nảy sinh một mối tình tráng lệ. Mà cảnh trí của thành phố và vạn vật có linh tính, đều có thể yên vui trong âm nhạc.
Bước lại gần thành phố này, có lẽ chỉ cần một khoảnh khắc; phân tích một đoạn nhạc, cần thời gian bao lâu? Trong tim mỗi người đều có một bến Thượng Hải thuộc về riêng mình, trong thành phố khí thế hào hùng, phong tình lãng mạn này, chúng ta đều đang kiếm tìm một tình tiết liên quan đến văn hóa âm nhạc. Bởi vì, trong giang hồ sâu không thể dò này, chúng ta đều là những con thuyền xa bến, cần một khúc ca vượt sông, cần một chốn về cho tâm linh. Âm nhạc hay, có thể khiến cả dòng nước mùa xuân đổi màu. Âm nhạc hay, là hòn đá bắc qua sông, là bếp than chia hơi ấm, và cũng là ngọn đèn sáng soi trong đêm tối.
Giai điệu dặt dìu, đẩy một cánh cửa gọi là Tuế Nguyệt ra, ký ức của mấy đời nhạc sĩ đều không kìm được mà mở bung ra trong Lễ hội âm nhạc này. Sự vinh quang của quá khứ, và sự sáng đẹp của ngày nay đã được phô diễn hết mực trong những tháng ngày nhàn nhạt. Thượng Hải đã dành một sân khấu tân tiến nhất, tao nhã nhất cho những sản phẩm âm nhạc kinh điển. Mà sân khấu này lại khiến cho một loạt nhạc sĩ, nhà diễn tấu trở thành những diễn viên chính trong lịch sử. Có lẽ, thứ âm nhạc thực sự làm rung động lòng người, không phải là thứ âm nhạc sáng chói phù phiếm như bảy sắc cầu vồng, cũng không phải là thứ âm nhạc sáng lạn chói mắt như viên ngọc sáng phương Đông, mà là một tình yêu thuần khiết, nó chất phác đến độ khiến người ta chỉ biết cảm động mà than rằng nó tuyệt diệu khôn cùng, không gì sánh nổi.
Sinh mệnh vốn là một bài hát có nhạc đệm, mỗi một con người đã trải qua những năm tháng dài đằng đẵng của cuộc đời, mà vẫn có thể không hề đổi thay, đó chính là sự khẳng định thuần túy nhất đối với người hát. Khúc ca đó, là chỉ giữ nguyên một màu trong khung cảnh mùa xuân muôn ngàn màu sắc, là chỉ tìm một người duy nhất trong dòng người đi lướt qua nhau, là chỉ múc một gầu nước duy nhất trong ba ngàn Nhược Thủy. Khi cô độc, sẽ gắn với nhau như hình với bóng; khi mê lầm, sẽ không chia lìa xa cách. Cho dù trong đô thị quốc tế Thượng Hải này, người đến người đi vội vã biết bao, dòng người lưu chuyển nhanh gấp đến đâu, thì văn hóa âm nhạc vĩnh viễn sẽ không bị thời gian quên lãng. Nước xuân trên sông, gió xuân khắp thành, thành phố thánh địa văn hóa âm nhạc Thượng Hải này, mang đến sự ngơi nghỉ an tĩnh cho những lữ khách đang dạo nước giữa chốn thế tục khói lửa. Đóa hoa ngọc lan tháng Năm đó, đã bung cánh nở rộ trong những ngày cuối cùng của mùa xuân. Thế gian mênh mông ngút tầm mắt, vẫn còn biết bao sự vật có thể vĩnh hằng, biết bao năm tháng có thể tiêu phí. Duy chỉ có âm nhạc, nó như một cái cây nở đầy hoa của thời gian, yên tĩnh chiếm một góc nhỏ trong kiếp này, ngắm nhìn xuân qua thu tới, phàm trần lai vãng, mà vĩnh viễn không héo tàn.
Vốn cho rằng Bến Thượng Hải sóng cả cuộn trào, một ngọn sóng là đủ nhấn mình vào thứ tình cảm mềm dịu. Nhưng chẳng ngờ, quẩn quanh trong những âm điệu tao nhã, những hạnh phúc và điều tốt đẹp của ngày hôm qua đến hôm nay vẫn còn có thể chạm vào được. Cầu cho mùa xuân Thượng Hải sẽ đi qua năm tháng trên vũ đài nhân gian. Cầu cho một khúc thanh âm của thời thái bình thịnh thế, ca ngợi vẻ đẹp của non sông, thể hiện quãng thời gian lãng mạn.
Dư âm trên biển
Đời người luôn là một chuỗi hồi ức liền mạch, cho dù bản thân có sống ở nơi phồn hoa đến mấy, có biết vinh hoa phú quý đến nhường nào, thì vẫn có lúc, một bài hát cũ cũng có thể dẫn dắt chúng ta quay về quá khứ, ôn lại một đoạn tuổi xuân như nước chảy trôi. Thượng Hải xưa như một giấc mộng cũ ngủ say, vốn tưởng rằng xa cách trăm năm, cảm giác ấy đã sớm tan biến, thế nhưng rất nhiều cảm giác quen thuộc lâu ngày không gặp đều hiện hữu trong một bài hát cũ. Chúng ta chỉ cần nhẹ nhàng đi xuyên qua con đường năm tháng, đến ngã rẽ của một mùa nào đó, là có thể cùng Thượng Hải thấu hiểu lẫn nhau.
Người ta nói, Thượng Hải đẹp đến mức không có cách nào phục chế được, đến khi phồn hoa rơi rụng thành bụi trần, thứ lay động tâm can vẫn là câu chuyện xưa như sương khói. Cho nên, đi trong thành phố Thượng Hải rộng lớn ngựa xe như nước, trong lòng trước sau vẫn có một khoảng trống rỗng yên lặng. Luôn tưởng rằng, dòng người lướt qua nhau sẽ không bao giờ gặp gỡ một cách tao nhã. Kỳ thực, trong sự nên thơ ý vị có thể bắt gặp ở bất cứ đâu ở Thượng Hải, chúng ta đều ôm ấp cùng một giấc mộng, và cần dựa vào những ký ức cũ kỹ đó để thả lỏng tâm tình.
Đi vào đường Phương Tân, nơi này khác với sự sáng lạn, hoa lệ của Thượng Hải mới, nhưng lại gặp gỡ sự ý vị cổ kính của Thượng Hải xưa. Nơi đây được gọi là “phố cổ Thượng Hải”, nó mang phong cách điển nhã cổ phong thời Minh, Thanh, trưng bày rất nhiều tấm ảnh cũ, ảnh lịch, họa báo cũ. Những đồ vật cũ đã bị thời gian quên lãng nhiều năm ấy, vốn đã mất tăm tích trên những con phố thương mại nổi tiếng như đường Nam Kinh, đường Hoài Hài, nhưng lại có thể bắt gặp ở bất cứ nơi đâu trên con phố cổ này. Đèn lồng đỏ treo cao dưới mái hiên cửa hàng, và lá tửu kỳ phất phơ trong gió, bằng phương thức cổ điển, tao nhã nhất, thuật lại ngày hôm qua muôn vàn sắc thái của Thượng Hải xưa cho những lữ khách lai vãng nơi này.
Những người bạn từ các quốc gia trên thế giới, từ ngũ hồ bốn biển đến đây, họ mang theo gió bụi của trời nam đất bắc, và gặp gỡ nhau trên con phố cổ kính dài hun hút này. Họ muốn tìm kiếm giấc mộng đã bị thất lạc từ lâu trong phong cảnh thời xưa, hay chỉ vì muốn tô điểm thêm một khung cảnh khác thường vào hành trành sinh mệnh của bản thân? âm nhạc của Thượng Hải xưa chầm chậm chảy trôi trong đáy sâu của thời gian, rồi bao trùm và lan tỏa khắp thành phố. Chúng ta không kìm nổi chìm đắm trong tiếng ca, hy vọng giữa biển người mênh mông gặp được cái người duyên phận kiếp này đã định ấy. Chúng ta là con thuyền trôi nổi, còn phố cổ là bến đậu. Cuộc gặp gỡ giữa muôn vạn người, không thể quá sớm, cũng không thể quá muộn, cho đến khoảnh khắc đôi bên nắm tay nhau mới đột nhiên vỡ òa, hóa ra tất cả chờ đợi đều là xứng đáng.
Nếu như nói nhân sinh là một chuyến tu hành, vậy thì những gì chúng ta phải làm chính là tìm một phương trời thanh tịnh, nắm tay bên nhau, cười ngắm gió mây, như Thế Âmới không phụ những tháng ngày tươi đẹp của cả một đời. Trong tiết trời cuối xuân này, rất nhiều người đang chìm sâu trong âm điệu của chiếc máy hát cũ, và trong những ca khúc vừa chân thực vừa hư ảo, vừa hàm súc lại vừa hướng nội, để có được tình cảm ấm áp và sự vui vẻ.
Tòa nhà Tiểu hồng lâu Trung Xướng nằm trong công viên Từ Gia Hội, cuối thế kỷ 19, công ty đĩa hát EMI nước Pháp xâm nhập vào Thượng Hải, mang theo chiếc máy hát thời thượng. Loại máy móc này đã khiến cho người Thượng Hải đương thời cảm thấy hưng phấn lạ thường, rất mau chóng nó đã trở thành trào lưu thời thượng nhất toàn bộ bến Thượng Hải.
Tiểu hồng lâu Trung Xướng là một tòa nhà có phong cách khác biệt, đã kinh qua bảy, tám mươi năm mưa gió tang thương mà vẫn bảo lưu được phong thái phi phàm năm xưa. Lò sưởi xây liền tường, đèn treo, máy hát cũ đĩa than, những đồ vật cũ này mang một vẻ đẹp như ảo như mộng khiến người đến tham quan cam tâm tình nguyện say đắm nó, gửi gắm cảm xúc ở nơi đây, và chắc chắn rằng đây chính là chốn quay về yên tĩnh nhất giữa trần thế huyên náo.
Tiểu hồng lâu Trung Xướng đã cất giữ biết bao sự phồn thịnh và huy hoàng mà ngày nay không thể nào sánh kịp. Dường như tất cả những nhân vật đình đám trong lịch sử nghệ thuật Trung Quốc hiện đại đều từng để lại dấu chân, hoặc sâu hoặc nông ở nơi này. Ở nơi này, Nhiếp Nhĩ từng sáng tác “Khúc tiến quân ca của nghĩa dũng quân”, Lê Cẩm Quang đã sáng tác “Dạ Lai Hương”, bản “Hoa hồng, hoa hồng anh yêu em” của Trần Ca Tân cũng được thu âm lần đầu ở đây. Nắng trời bóng mây của quá khứ đã tan biến, khi gió mây lắng lại, sẽ lại có một truyền kỳ khác nối tiếp ngày hôm qua tuyệt đẹp.
Trong phim của hãng Paramount có một câu rằng: “Khi nhạc Jazz trong Bách Lạc Môn vang lên, bạn không thể cự tuyệt được mà xoay người một cách hoa lệ.” Nửa thế kỷ trước, Bách Lạc Môn đã từng nổi tiếng khắp trong và ngoài nước với danh hiệu “Đệ nhất nhạc phủ Viễn Đông”. Có rất nhiều nhạc sĩ xuất sắc của dòng nhạc Jazz xuất hiện ở nơi đây, họ đã khảm một tầng sắc thái tình cảm đậm đặc lên nhạc Jazz. Nghe nhạc Jazz, giống như điều chế một ly rượu dung hòa cả Đông lẫn Tây, vừa có sự cổ diển Phương Đông đầy lãng mạn, khiến những người đã từng thưởng thức sẽ vương vấn mãi không quên, và chìm đắm trong cảnh trí huyền ảo rực rỡ ấy. Gặp gỡ Bách Lạc Môn, bất cứ một lần quay người nào đều khiến người ta phải ngoái nhìn hồi tưởng nhiều lần. Bách Lạc Môn càng trở nên lung linh muôn hình vạn trạng trong cảnh đêm rực rỡ sắc màu, bao nhiêu ảm đạm đen tối đều bị tan chảy bởi vẻ đẹp diễm lệ của những “Ca nữ Thiên Nhai [4]”. Đôi lúc, một chiếc sườn xám hoa mỹ cũng đủ làm khuynh đảo tất cả khán giả Thượng Hải về đêm, là thành phố không có ban đêm, như thể bất cứ lúc nào bạn cũng có thể chứng kiến cảnh tượng ca múa thanh bình. Nhưng thứ chúng ta cầu ước chỉ là trong khi tuổi xuân vẫn còn rực rỡ, giữa tiếng nhạc dặt dìu, say một giấc túy lúy mà tươi đẹp. Đợi đến khi tia nắng đầu tiên rớt trên ban công mới tỉnh mộng.
[4] Một ca khúc nổi tiếng do Chu Tuyền thể hiện.
Đi xuyên qua ngõ hẻm Bách Khố Môn dài thăm thẳm mà chật hẹp, hết thảy hồi ức bị phong bế đã tuôn trào chỉ trong chớp mắt. Lầu gác bằng gỗ, những dây leo xanh thẫm bò lan, ý vị nên thơ nồng đậm bao trùm khắp thành Thượng Hải xưa. Một khúc ca cũ quen thuộc không biết vẳng đến từ khung cửa nhà ai, trong không khí hoài niệm chuyện cũ người xưa lan tỏa mùi hương thanh nhã của hoa dành dành. Nếu như không phải ngõ hẻm có điểm tận cùng, thì tất cả lữ khách đến đây đều ngộ nhận rằng, thời gian đã trôi ngược trở lại đến mấy chục năm. Còn chúng ta chính là những người Thượng Hải cũ chính gốc, trong con hẻm đầy khói lửa, yên bình sống những tháng năm đạm bạc.
Thượng Hải như một tòa thành của số mệnh, những người đến đây, hễ bước lạc vào trong không gian âm nhạc hoài niệm, thì sẽ không thể quên nổi mối tình này. Những người này thích ngồi dưới ánh nắng chiều, uống một ly trà, trong giai điệu của chiếc đĩa hát cũ, lật giở từng tấm ảnh cũ, bắt đầu hồi tưởng lại ký ức xưa. Những người này thích đi xuyên qua ngõ nhỏ phố lớn, ngắm những cảnh vật nhân tình của thành phố này, để bản thân chìm đắm trong chuyện cũ thăng trầm của Thượng Hải xưa. Bao nhiêu năm trôi qua, vật cũ đã đổi chủ từ lâu, tiếng sóng bên bờ sông Hoàng Phố vẫn như xưa - buông lời hẹn ước không gặp không về với mỗi người khách qua đường.
Chúng ta đều tin vào gặp gỡ nhân duyên, nếu thực sự có duyên phận, cho dù phải trải qua ly biệt lâu đến đâu, rốt cuộc cũng sẽ có một ngày trùng phùng. Cho dù vật đổi sao dời, nhân thế đổi thay, những người đã đi xa ấy, vẫn sẽ quay về cạnh ta. Ngỡ rằng đã để lỡ những tháng năm như hoa như mộng của Thượng Hải xưa, nhưng không ngờ vẫn có thể tìm thấy tất cả những thứ quen thuộc trước đây dễ như trở bàn tay trong một ca khúc hoài cổ.
Thời gian không đứng lại bao giờ, chúng ta không còn trẻ nữa. Rất nhiều câu chuyện phức tạp cũng già đi trong êm đềm, mà phong vân xưa của thành phố này vẫn còn đó. Nguyện cho cuộc tương phùng của tất cả mọi người với Thượng Hải đều là “Hoa chi mãn xuân, thiên tâm viên nguyệt.” (Xuân đến hoa nở trĩu cành, ngẩng đầu trăng ắt tròn vành trên không [5])
[5] Hai câu trong bài kệ Hoằng Nhất đại sư (1880 - 1942) viết năm 60 tuổi, đại ý nói rằng: Không cần theo đuổi mù quáng, tất cả đều nên thuận theo tự nhiên.
Tương phùng là bài ca
Đều nói tương phùng là một bài ca, cho dù tương phùng với con người, hay tương phùng với non nước cây cỏ, hoặc tương phùng với một thành phố, đều là một bài ca dao xúc động tâm can, ý vị sâu xa. Không phải tất cả mọi người đều có thể sát cánh đồng hành với mình suốt cả cuộc đời, nhưng lại có rất nhiều ca khúc bầu bạn với bạn, với tôi như trước kia, đi qua thời gian mấy chục năm, mà vẫn hạnh phúc và ấm áp.
Tương phùng với một thành phố, cũng là tương phùng với một bài ca, Thượng Hải chính là một bài ca khiến người nghe một lần là không thể nào quên. Đây là một đô thi quốc tế hiện đại, trong mỗi ngóc ngách đều tràn ngập mộng ước thần kỳ, đều sáng tạo nên những truyền kỳ mà trước đây chưa từng có. Đây cũng là một thành phố cổ trải qua hết mọi mưa gió tang thương, mỗi ngõ hẻm của nó đều ẩn chứa những câu chuyện lâu năm, chất chứa nung nấu những mối tình êm dịu phong hoa tuyết nguyệt. Mà hết thảy những thứ này, đều được ngòi bút của lịch sử biết thành một ca khúc tuyệt mỹ sinh động. Thời gian sẽ lần lượt cáo biệt chúng ta, và thành phố phồn hoa cao quý này đã viết nên hết mây gió trăm năm, quá khứ khói bụi. Đi xuyên qua những tòa cao ốc chọc trời thời thượng, dạo bước trong những ngõ hẻm cổ kính đơn sơ dài hun hút, cảm nhận về thành phố Đông Tây kết hợp, phong cách lạ lùng này. Những người lữ hành không biết đến từ nơi nào, và đi đến đâu, nhưng tất cả mọi cuộc tương phùng đều là một đoạn duyên phận hệt như tâm ý. Dầu cho nhân sinh như bèo nước, trong những tháng năm như bóng câu qua cửa, mau chóng lướt qua này, chúng ta đều phải trân trọng duyên phận.
Thạch Khố Môn là một sản vật dung hòa nghệ thuật kiến trúc Trung Quốc và kiến trúc phương Tây, cũng là một khung cảnh không thể thiếu của đại Thượng Hải. Nơi đây đã dấy lên vô số sóng gió giang hồ, đã từng có biết bao thiếu nữ cô độc sinh sống ở đây. Tháng đổi năm dời, rất nhiều cảnh vật đều đã đổi sang dung nhan mới, nhưng thời gian lại không thể nào xóa nhòa một nét ký ức của quá khứ. Thế nhưng ký ức cũng thật dè sẻn, chỉ những người từng trải mới có thể sở hữu nó. Có lẽ chúng ta đều được số phận an bài không thể trở thành diễn viên chính của thành phố này nhưng lại có thể đứng dưới sân khấu đợi chờ phút mở màn và hạ màn của một vở kịch.
Lưng đeo tay nải đơn giản, nghe một bài hát cũ, chọn một phong cảnh, đi vào ngõ hẻm, đứng ở giữa nơi hồng trần khói lửa nhất, nhưng tận sâu thẳm trái tim vẫn sạch sẽ như đã từng được quét dọn. Chúng ta có thể phân biệt rất rõ ràng mùi vị của gió, và tình điệu độc nhất vô nhị của thành phố này. Không biết trên giàn phơi quần áo trên ban công, đang hong khô chiếc váy hoa nhà ai; không biết trên lầu gác yên tĩnh của tòa thành đó, đã xảy ra biết bao câu chuyện nắng mưa tròn khuyết? Cho dù là lần đầu gặp gỡ, hay là phút tương phùng, thứ nơi đây đem đến cho bạn vẫn là sự quen thuộc và ấm áp. Cái gọi là “Nhân gian hữu vị thị thanh hoan [6]” (Điều thú vị nhất trên nhân gian này chính là niềm vui thanh đạm), khi chúng ta nhận ra và nếm trải tư vị của niềm vui thanh đạm nơi thành phố phồn hoa này, thì chúng ta đã thực sự đạt được tới cảnh giới tột cùng đó.
[6] Một câu trong bài “Hoán khê sa” của nhà thơ Tô Thức đời Tống.
Hai bờ sông Phố, tiếng sóng như xưa, chẳng biết từ khi nào, chúng đã quen với việc say đắm trong một bài hát, yêu ý vị của ca từ, yêu giai điệu của ca khúc. Cho dù là buổi sớm mờ sương, hay là đêm tối rực rỡ, những tòa nhà cao tầng hai bên bờ vẫn toát lên một phong thái mê hồn. Thượng Hải chính là một ly rượu nồng được cất kín ở nơi sâu thẳm của thời gian, khiến những người đến đây, giữa năm tháng như một khúc ca, đổi lấy một chén, mới nhấp đã mềm môi.
Phố Tây là khu tô giới của Thượng Hải cũ, đại sứ quán của các nước hồi trước đều được xây dựng ở đây. Những đại sứ quán này như trang lịch âm treo trên bức tường năm tháng, chúng ta không cần cố ý hồi tưởng, mà đã có thể lần giở xem lại những tháng ngày đã qua. Trung tâm tiền tệ Lục Gia Chủy ở Phố Đông, quần thể kiến trúc mới cực kỳ đặc sắc, đã thay đổi diện mạo của thành phố này chỉ trong chớp mắt. Tháp truyền hình Đông Phương Minh Châu nổi tiếng ngạo nghễ cúi nhìn chúng sinh, bất cứ lúc nào, nó đều là một huyền thoại không thể vượt qua nổi của Thượng Hải. Đứng ở hai bên bờ sông Phố, ngắm nhìn kiến trúc Đông, Tây giao hòa, cổ kim kết hợp, trong lòng du khách trỗi dậy một cảm giác thời gian và không gian dường như giao thoa. Dù cho là ban ngày hay ban đêm, bến Thượng Hải cũ hay mới đều khiến người ta phải tấm tắc ngợi khen.
Điền Tử Phường, một cái tên đơn giản mà đẹp đẽ, một Thượng Hải nồng đậm. Đây vốn chỉ là một con phố nhỏ không tên tuổi, tồn tại lặng lẽ trong một góc nhỏ tầm thường nào đó của đại Thượng Hải. Không biết ai đã mở cánh cửa nghệ thuật, khiến văn hóa Hải phái đều ngưng tụ ở đây. Mà rất nhiều người chất chứa mộng tưởng trong lòng, từ các quốc gia, các thành phố khác nhau đến Điền Tử Phường, nguyện cùng văn hóa Đông Tây của nơi này giao hòa linh hồn, cùng chung một mối tâm tình đầy ý thơ.
Ở Điền Tử Phường có diễn xướng ca kịch do một số studio tổ chức thường xuyên, khách tới đây luôn chìm đắm trong các ca khúc, quên mất hành trình phía trước còn bao xa. Chính âm nhạc đã mở bung những linh hồn còn bị khóa kín, khiến cho mỗi câu chuyện bị lãng quên lần lượt quay trở lại theo giai đoạn xoay vòng. Trong trái tim của mỗi con người đều có một Điền Tử Phường, nó đem lại sự lãng mạn cho những người say mê nghệ thuật phương Tây, đem lại sự điển nhã cho những người lưu luyến Thượng Hải. Ở Điền Tử Phường, không có sự phân chia khu vực vùng miền, tuổi tác cao thấp, giàu nghèo sang hèn, nghệ thuật và phong tình của nơi đây nguyện nắm tay sánh bước cùng mỗi người.
Thượng Hải - thành phố với phong cách kết hợp hài hòa giữa hiện đại và truyền thống đã thu hút ánh mắt của mọi du khách trên thế giới. Nó là một cô gái thời thượng, đi giữa những tòa nhà cao tầng, tư thế thướt tha tuyệt mỹ, và cũng là một thiếu nữ cổ điển tao nhã, mặc một bộ sườn xám, lưu luyến ngoái nhìn ngõ hẻm dài thăm thẳm. Chúng ta say đắm sự phồn hoa sáng lạn của Thập Lý Dương Trường, và cũng mê luyến sự ý vị nên thơ của những cảnh vật cũ của Thượng Hải xưa. Mà những tình cảm cổ kim giao hòa này xưa nay chưa từng mâu thuẫn, tựa như bất cứ lúc nào cũng đều có thể say đắm như nhau.
Tương phùng trong một khúc ca, từ đây đã yêu thành phố này, thương mến từng mái hiên, viên ngói, từng hạt bụi, mảnh đất nơi đây. Khi chúng ta ngỡ rằng thời gian đã lùi xa, những phồn hoa đã trở thành chiếc bóng của dĩ vãng, thì câu chuyện của Thượng Hải vẫn đang tiếp diễn. Năm tháng trôi đi âm thầm không tiếng động, nhưng nó để lại rất nhiều bài ca không lời, để lại những hồi ức sâu đậm cho chúng ta. Và khiến cho chúng ta mỉm cười giữa tiếng ca, cùng có niềm hạnh phúc như hoa nở giữa trần thế ấm áp này.
Bạch Lạc Mai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét